Monday, October 6, 2008

Thông báo của CĐNVTD Úc châu kêu gọi biểu tình chống việt gian cộng sản Nguyễn Tấn Dũng

CỘNG ĐỒNG NGƯÒI VIỆT TỰ DO TIỂU BANG NEW SOUTH WALES
PO Box 34 Bankstown NSW 1885
ĐT: 02 9796 3794 Email: vca@bigpond.net.au
CT: LS Võ Trí Dũng

Thông Báo


V/V BIỂU TÌNH LÊN ÁN VI PHẠM NHÂN QUYỀN CỦA CỘNG SẢN VIỆTNAM (CSVN) TRONG CHUYẾN ĐẾN ÚC CỦA THỦ TƯỚNG CSVN NGUYỄN TẤN DŨNG.

Bản đồ Canberra

http://maps.google.com.au/maps?q=parliament+house+canberra+australia&output=html

Nhân dịp Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng đến Úc, BCH/CĐNVTDUC/NSW trân trọng thông báo và kính mời Quý vị Lãnh đạo Tinh thần các Tôn giáo, Quý vị Đại diện các Hội đoàn Đoàn thể, Quý vị Đại diện các cơ quan truyền thông và toàn thể quý đồng hương tham dự cuộc biểu tình do CĐNVTD/UC/NSW phối hợp cùng CĐNVTD/Úc Châu tổ chức với những chi tiết như sau:

- Ngày: Thứ Hai 13/10/2008
- Địa điểm: Trước Quốc Hội Parliament House Canberra
- Thời gian: 10:00 giờ sáng

Xe buýt khởi hành tại ba địa điểm như sau:

1. Marrickville: Trước Marrickville RSL Club, trên đường Illawarra Rd ; vào lúc 5g00 sáng
2. Bankstown: Đối diện văn phòng Cộng Đồng, đường Olympic Pde; vào lúc 5g30 sáng
3. Cabramatta: Tại Cabra Vale Park trên đường Railway Pde, vào lúc 6g00 sáng.

Nhà nước do Nguyễn Tấn Dũng và tập đoàn cộng sản Việt Nam lãnh đạo là một chế độ độc đảng, độc tài, phản quốc và phi nhân bản. Sự có mặt của Nguyễn Tấn Dũng tại Úc là một thách thức lớn lao đối với cộng đồng tỵ nạn chúng ta tại Úc Châu.

Chúng ta sẽ tiếp tục lên án chế độ Cộng Sản Việt Nam đã phản quốc dâng đất, dâng biển cho Trung Cộng. Đã khiếp nhược im lặng trước mưu đồ xâm lăng bá chủ của Trung Cộng, để mặc cho chúng chiếm đóng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam .

Chúng ta sẽ cực lực lên án chế độ CSVN vẫn tiếp tục chính sách đàn áp các tôn giáo. Cướp đất đai tài sản của các Giáo Hội, mà gần đây nhất là vụ đàn áp dã man gây thương tích cho nhiều giáo dân vô tội tại giáo xứ Thái Hà và Toà Khâm Sứ Hà Nội. Chúng ta đòi nhà cầm quyền CSVN phải lập tức chấm dứt những hành vi tàn ác này.

Người Việt hải ngoại nói chung và Úc Châu nói riêng có trách nhiệm tố cáo những vi phạm nhân quyền trầm trọng của CSVN trước công luận quốc tế; đồng thời yêu cầu Thủ Tướng Kevin Rudd và chính phủ Úc phải lưu tâm đến vấn đề nhân quyền và các giá trị nhân bản trong mối bang giao giữa Úc và Việt Nam.

Sydney ngày 06 tháng 10 năm 2008.

TM/BCH/CĐNVTD/UC/NSW
Chủ tịch
LS Võ Trí Dũng



CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO TIỂU BANG VICTORIA
PO Box 2115 Footscray VIC 3011
ĐT: 03 9687 9198 Email: nguyenvanbon@cdnvtd.com
CT: Ông Nguyễn Văn Bon




THÔNG BÁO VÀ LỜI KÊU GỌI KHẨN CẤP CỦA
CỘNG ÐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO VICTORIA

V/V: BIỂU TÌNH CHỐNG THỦ TƯỚNG CSVN
NGUYỄN TẤN DŨNG TẠI MELBOURNE NGÀY 14-10-2008

Ban Chấp Hành Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Victoria xin trân trọng kính mời:

- quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo
- quý vị lãnh đạo các hội đoàn đoàn thể và tổ chức
- quý vị đại diện truyền thông
- cùng toàn thể đồng bào

Tụ họp tại trước tiền đình toà nhà Quốc Hội Tiểu Bang Victoria, Spring Street, Melbourne.

Bản đồ Melbourne:
http://maps.google.com.au/maps?q=spring+street+melbourne+australia&output=html

Vào ngày: Thứ Ba, 14-10-2008.
Lúc: đúng 10 giờ sáng.

Để tham dự cuộc biểu tình chống Thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng đến Melbourne và lên án nhà cầm quyền CSVN đàn áp tôn giáo, nhân quyền và bán nước cho Trung Cộng.

Cộng Ðồng sẽ có 4 xe bus đón rước đồng bào tại 2 địa điểm: hai xe bus tại Văn phòng cộng đồng 214 Nicholson St, Footscray và hai xe bus tại Văn phòng Hiệp Hội Tương Trợ Người Ðông Dương Springvale 9 Hillcrest Grove, Springvale, xe sẽ khởi hành từ Springvale và Footscray vào đúng 9 giờ sáng.

Phương tiện di chuyển dễ dàng và thuận tiện nhất là xe lửa xuống trạm Parliament Station và xe tram số 88,87,96 và 111 xuống trạm Parliament House.

Vì tầm quan trọng của cuộc biểu tình, Ban Chấp Hành rất mong nhận được sự tham dự đông đủ của toàn thể đồng bào và các hội đoàn đoàn thể. Mọi thắc mắc, xin quý vị vui lòng liên lạc với ông Nguyễn Thế Phong đt số 0411 756 552 hay cô Thanh Trúc đt số 0432 456 077

Trân trọng kính mời,

TM. BCH-CÐNVTD-VIC
Nguyễn Thế Phong
Chủ tịch


Vạch mặt bọn Cộng Sản gian manh đang núp bóng Người Quốc Gia Tỵ Nạn


Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
(Bài 1)


Cho đến hôm nay, với tuổi đời đã già hơn nữa thế kỷ. Nhưng những điều tâm nguyện của ngày xưa, khi còn trẻ tôi vẫn luôn ghi nhớ. Thưở ấy, từ lúc biết đặt ngòi bút để viết một bài đầu tiên và đã gửi đến Tòa Báo Văn Nghệ Tiền Phong; vào « Trang Của Lính » do Nữ Sĩ Lý Thụy Ý phụ trách, là để viết cho lính đọc. Rồi từ đó, tôi cũng đã tâm nguyện rằng: Suốt đời tôi, nếu tôi được cầm bút, thì tôi sẽ viết cho mọi người đọc. Viết với tất cả tâm thành và trung thực.

Thế rồi, theo vận nước, thân phận mình cũng đã phải trôi theo những phong ba, thăng trầm, hòa theo những dòng máu lệ thống hận của người dân Việt, khi đất nước Việt Nam Cộng Hòa đã rơi vào tay của Bạo quyền Cộng sản.

Từ ngày chúng tôi liều chết bồng bế các con lên tầu vượt biển. Sau khi đã đến bến bờ tự do, tôi may mắn là đã được tái cầm bút cũng trên Bán Nguyệt San Văn Nghệ Tiền Phong, do ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng làm chủ nhiệm; để viết về những cảnh bị đọa đày, khốn khổ của những người tù cải tạo; cũng như những cảnh sống thê lương của đồng bào ruột thịt ở tại quê nhà.

Bởi những đau thương ngày cũ, nó đã khắc cốt, ghi tâm cho đến phút cuối của cuộc đời mình. Vì vậy, tôi không bao giờ chấp nhận những kẻ đã từng làm cộng sản, đang làm cộng sản, hoặc có những việc làm có lợi cho cộng sản Việt Nam; dù kẻ đó, có là người thân thiết của chúng tôi.

Đã từ lâu, chúng tôi nhận thấy những việc làm của Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ tại Pháp Quốc thật là hữu ích. Tôi đã cất giữ những tờ «Định Hướng» riêng ở một ngăn tủ, vì sợ hư hỏng, thất lạc. Chúng tôi luôn quý trọng Giáo Sư Nguyễn Đăng Trúc. Nhưng, giờ đây tôi lại vô cùng thất vọng, khi đọc bài viết của Nhà Báo Trương Minh Hòa và Nhà báo Trần Thanh, vì biết đến cái: « Dự Án Đại Học Nhân Văn Hải Ngoại » của Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ.

Tôi vốn là một con người luôn luôn nghiêm khắc với chính mình. Bởi thế, khi viết về bất kể điều gì, tôi cũng đều phải cân nhắc trước sau. Tôi đã tự vấn: Tại sao Giáo Sư Nguyễn Đăng Trúc lại có thể xem thường điều khinh-trọng ???

Tôi nhớ trước đây, trong Khóa Đại Học Hè vào tháng 8-1998, tổ chức tại Nancy (Pháp). Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ đã mời Giáo sư Lê Hữu Mục làm « Thuyết trình viên » về cuốn sách do ba tác giả: Đặng Quốc Cơ- Phạm Thị Nhung và Lê Hữu Mục cùng biên soạn đó là « Truyện Kiều Và Tuổi Trẻ ».

Cũng chính trong cuốn sách « Truyện Kiều và Tuổi Trẻ » này mà tôi đã biết thêm về ông Giáo sư Lê Hữu Mục, do chính ông viết ở chương đầu trang X; khi nói về Đức Cha Ngô Đình Thục đã phản đối về việc giảng dạy Truyện Kiều như sau:

( Đức Cha) … không ngớt được phát ra một cách hung hãn trái ngược hẳn với nét mặt hiền lành và tác phong của Đức Cha vẫn có. Ở hàng ghế giáo-sư, các anh Lê Tuyên, Nguyễn Hữu Trí, Tôn Thất Hanh v.v… yêu cầu tôi lên tiếng … »

« Các anh Lê Tuyên- Tôn Thất Hanh ». Ôi ! Hai từ « các anh » sao nghe mà nó thân thiết- êm đềm đến thế. Trong khi đa số người Việt chúng ta ai cũng biết hai tên Lê Tuyên và Tôn Thất Hanh là những tên đồng bọn với Hoàng Phủ Ngọc Tường-Hoàng Phủ Ngọc Phan-Nguyễn Đắc Xuân, Lê Văn Hảo … v.v… là những tên đao phủ thủ đã từng chặt đầu, cắt cổ những người dân vô tội, không phân biệt nam, phụ, lão, ấu trong Cuộc thảm sát Tết Mậu Thân (1968) tại Huế.

Song tôi hoàn toàn hiểu được là giáo sư Lê Hữu Mục không thể gọi bằng một từ ngữ nào khác hơn vì « các anh Lê Tuyên - Tôn Thất Hanh - Lê Hữu Mục …» đều là « đồng môn » cả đó mà. Rồi tôi lần dỡ đến trang sách số 689-690, của « Truyện Kiều Và Tuổi Trẻ », thì tôi lại được đọc thêm những dòng của giáo sư Lê Hữu Mục đã viết, tôi xin trích lại nguyên văn như sau:

« Sau cùng, để chứng- thực tầm ảnh hưởng của chính-sách liên tôn, tôi xin đan cử một trường hợp cụ-thể liên-quan đến uy-tín càng ngày càng to lớn của Thiền-Sư Thích Nhất Hạnh về phương-diện truyền-bá đạo-pháp …. Bản thân tôi, tôi đã tham gia vào phong-trào liên tôn từ thời tôi dạy học ở Huế … anh em kết-nghĩa với chúng tôi: Thượng tọa Thích Trí Quang và giáo dân Lê Hữu Mục, chúng tôi kết-nghĩa tại chùa Từ Đàm … »

Đọc những dòng trên đây của chính « ông giáo sư » Lê Hữu Mục viết. Tôi chỉ còn biết kêu Trời. Bởi ông ta Lê Hữu Mục từng « kết-nghĩa » với « ông sư »Thích Trí Quang là một tên Cán bộ cao cấp của đảng cộng sản Việt Nam- Đại Gian-Đại Ác. Còn « chùa » Từ Đàm là nơi đã đặt Tổng hành dinh của một điệp viên Việt cộng mang tên là Hoàng Tố Loan chỉ đạo tất cả. (Để biết rõ điều này, xin hãy đọc cuốn sách « Biến Loạn Miền Trung » của tác giả Liên Thành, là một nhân chứng sống ; bởi tác giả Liên Thành là cựu Trưởng Ty Cảnh Sát Thừa Thiên-Huế. Lại còn thêm Thích Nhất Hạnh của Làng Đỏ. Thảo nào, chả trách ông Lê Hữu Mục ngày xưa cứ chống phá Tổng Thống Ngô Đình Diệm đến cùng.

Nhưng chưa hết đâu. Tôi xin mời các bậc phụ huynh cùng đọc tiếp một đoạn nữa về cái « Lực Lượng Thiên Chúa Giáo Tiến Bộ » ở trang số 231; trong một tập tài liệu gần 1000 (một ngàn trang) trang mà chúng tôi đang thủ đắc như sau :

« Ngày 15-11-1970, Giáo sư Nguyễn Văn Trung, một giáo dân, được bầu làm Chủ tịch Đoàn. Ông Trần Thúc Linh được bầu làm phó chủ tịch … Ngoài ra, có Linh mục Trương Bá Cần, Linh mục Phan Khắc Từ. Giáo dân gồm có: Lê Hữu Mục, Ngô Công Đức, Lý Chánh Trung, Lê Tuấn Nhậm, Đỗ Ngọc Long, Ngô Văn Ân, Nguyễn Tử Lộc, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Đức Quý.v.v… ».

Chúng tôi cũng xin nói rõ, không phải cho đến ngày 15-11-1970; mà từ cái gọi là « Lực Lượng Thiên Chúa Giáo Tiến Bộ » này nó đã bắt đầu thai nghén vào thời kỳ đầu tiên của Nền Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam. Đó là những năm 1957-1959 như báo « Thông Cảm » hoặc hai cuốn sách: « Hòa Bình Cho Con Người » do « Linh Mục » Trương Bá Cần và Trương Đình Hòe biên soạn và « Tìm Về Dân Tộc » của Giáo sư đảng viên cộng sản Lý Chánh Trung. Nhưng vào thời Đệ Nhất Cộng Hòa các tổ chức này khó công khai hoạt động. Vì thế, cho đến ngày 15-11-1970, nó mới đẻ ra được những con quỷ đỏ quái ác này. Chúng tôi cũng muốn công bố tập tài liệu trên; song vì chưa đến lúc. Bởi vậy, chúng tôi đành phải xin lỗi quý độc giả mà chỉ trích đôi đoạn mà thôi. Và chắc quý vị đã thấy những tên đã nói ở trên đây, tất cả đều là cộng sản. Chính bọn chúng, là một trong những tên đã đồng lõa với bọn đâm thuê giết mướn đã giết chết Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng Bào Đệ là Ông Ngô Đình Nhu, làm sụp đổ Nền Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam; để rồi sau đó, chúng ta đành phải chịu cảnh nước mất nhà tan. Hàng triệu người phải vào các nhà tù cải tạo; và không biết đã có bao nhiêu người dân Việt; trong đó, có những bé thơ đã chết phơi thây trên ngàn làm mồi cho loài điểu thú, hoặc đã vào bụng cá dưới lòng biển trên con đường trốn chạy cộng sản ??? !!!

Theo Nhà báo Trương Minh Hòa, thì cái « Đại Học Nhân Văn Hải Ngoại » này nó được thai nghén từ tháng 8-2000. Nhưng, theo tôi thì cái « Đại Học » này nó đã được thai nghén trong kỳ « Đại Học Hè » vào tháng 8-1998. Đó là thời điểm Giáo sư Nguyễn Đăng Trúc đã mời ông Lê Hữu Mục sang Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ để « Thuyết Trình ». Tôi cũng nghĩ rằng , nếu cái « Đại Học Nhân Văn Hải Ngoại » này được hoàn tất ; thì « Giáo Dân » Lê Hữu Mục cũng sẽ CÓ-CHỨC to lắm ở trong cái Đại Hộc Máu này. Cũng như đã từng dính liền: Lê Hữu Mục- Ngô Công Đức-Lý Chánh Trung- Trần Thúc Linh …… năm nào vậy. Ngoài ra, sẽ có những ông « Gi…áo sư, B…ác sĩ, Ti…ến sĩ… ở các nước và tại Pháp. Những ông Tí-Cứt (ý quên Trí Thức) này đang nằm chờ trong cái Hội Chiên Da Xào Thịt, cứ lâu lâu thì ngồi lại với nhau để cùng húp Phở Bò.

Vào « Đại Học Nhân Văn Hải Ngoại » để làm gì ?

Chúng tôi là những người đang sống tại nước Pháp. Chúng tôi cũng biết, ở đất nước này đã có nhiều Trường Đại Học , mà người đứng tên lập ra là người bản xứ. Họ cũng được cấp giấy phép hẳn hoi. Người Việt mình cũng có một số con cháu vào đó học, phải trả học phí, nhưng sau khi ra trường, thì cầm cái bằng đó đi xin việc chẳng có nơi nào nhận cả. Lý do, là chính phủ không có công nhận những cái bằng đó. Đã có nhiều người Việt nói với tôi những điều mà con cháu họ đã nói với họ, nào là con tôi học ở Đại Học này, Đại Học nọ … Song tôi biết đa số họ không biết gì, vì con cháu họ đã giấu cha mẹ là chúng học không đủ điểm, không có trường nào nhận, nên phải vào mấy cái trường này. Để sau khi ra trường chỉ đi lấy le là « Giáo sư - Kỹ sư » chứ thực ra nó chẳng có giá trị gì cả. Có người còn « thi » trên bàn phím này, và đã in cái « Bằng Tiếng Anh Quốc Tế » từ trong cái máy này. Rồi đem treo trên tường của phòng khách nữa chứ.

Trở lại với cái trường « Đại Học Nhân Văn Hải Ngoại ». Tôi không biết trường này nói: « Để giúp đỡ thế hệ trẻ Việt Nam và những người mới đến » là làm sao ???

Tôi dám cả quyết rằng thế hệ trẻ sống hợp pháp tại Pháp. Ngay từ còn trong bụng mẹ cũng đã được hưởng tiền trợ cấp, đến khi sinh ra; và từ lúc mới vào Mẫu giáo cho đến khi vào Đại Học, đều được chính phủ trợ cấp tiền bạc để ăn học và trả tiền nhà cho đến khi ra trường. Về Việt ngữ có Trường Đại Học Đông Phương tại Paris. Và ở các tường khác từ bậc Trung Học đã có dạy sinh ngữ Việt. Chúng tôi có năm đứa con; và các con tôi đã vào các trường Đại Học danh tiếng, nên tôi biết rất rõ.

Một điều mà suốt bao nhiêu năm qua, trước khi các con tôi bước vào Đại Học, tôi luôn luôn nhắc nhở các con tôi:

Khi vào Đại Học các con chỉ biết cố gắng học hành; và tuyệt đối không bao giờ tiếp xúc hoặc sinh hoạt với bất cứ một tổ chức nào của người Việt, dù là tổ chức sinh viên tại trường; vì như vậy các con sẽ sa vào cạm bẫy của « Cao Trào Nhân Bản-Việt Tân-Việt Cộng », để rồi sau đó phải đi vào con đường tội ác-bất nhân.

Đó là « thế hệ trẻ » tại Pháp. Còn « những người mới đến » là ai ??? Thì chắc chắn là những người đã đến Pháp bằng nhiều con đường khác nhau, nhưng chưa được hưởng được một quy chế nào của chính phủ; nên mới cần đến cái « Đại Học » này. để được sống hợp pháp. Rồi sau đó, sẽ lấy cái « Bằng » nấu Phở Bò của Hội Chiên Da Xáo Thịt cấp, rồi đem treo ở phòng khách, để lấy le với những người không hiểu biết mà thôi. Mà cái « Đại Học Nhân Văn Hải Ngoại » này do ai tài trợ ??? Vì có tài trợ thì mới hoàn thành được. Ai cũng đều biết, một khi có trường « Đại Học Nhân Văn Hải Ngoại » thì trường phải có Cư xá cho sinh viên và tất nhiên phải thu tiền. Ngoài ra, còn những chi phí khác như: Điện, gas, máy sưởi, nước nóng, nước lạnh … nhiều thứ lắm. Vậy tổ chức nào, ông tỷ phú nào chịu tài trợ cho cái « Đại Học » nầy ??? Và bù lại thì những kẻ tài trợ kia sẽ được những cái gì ???

Chúng ta nên biết hiện nay đã và đang có những tổ chức kinh tài của Việt Tân-Việt Cộng, dưới nhiều hình thức khác nhau; chúng đều mang danh nghĩa là « Làm Văn Hóa- Xã Hội-Từ Thiện ». Song mục đích chính là thu tiền của những người ngây thơ và để rửa tiền cho Việt Cộng.

Đôi lời tâm huyết:

Người Việt ta thường nói: «Có còn hơn không ». Nhưng theo tôi: Không Còn Hơn Có.

Bởi, nếu có bất cứ một thứ gì mà không dùng được, đôi khi còn độc hại nữa. Thì thà là không có. Tôi hiểu những khó khăn của Giáo sư Nguyễn Đăng Trúc. Nhưng tôi muốn nói với Giáo sư Nguyễn Đăng Trúc rằng: Đừng vì một lẽ gì mà nối giáo cho giặc. Đừng đầu độc lớp trẻ bằng những viên thuốc vô cùng độc hại, mà nó đã được dán lên bằng những nhãn hiệu khác nhau, với nhiều màu sắc vô cùng đẹp đẽ và đã được bọc những lớp đường phèn ngọt lịm.

Một lần nữa tôi xin Giáo Sư Nguyễn Đăng Trúc đừng « Vì Lợi Ích Mấy Năm Mà Trồng Người » vậy.

Trên đây là những điều tôi muốn nói về cái « Đại Học Nhân Văn Hải Ngoại ». Và bây giờ tôi xin dừng lại nơi đây. Hẹn tái ngộ quý độc giả ở những bài kế tiếp. Tôi sẽ tiếp tục vạch trần những bộ mặt thật của Nguyễn Đan Quế cùng với « Tài Liệu Tối Mật » của cái gọi là «Cao Trào Nhân Bản »; và Đoàn Viết Hoạt - Nguyễn Chí Thiện - Bùi Tín - Vũ Thư Hiên.

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
*
* *
Bài 2

Như đã hứa với quý độc giả, để tiếp tục vạch mặt bọn cộng sản gian manh đang núp bóng người Quốc Gia-Tỵ Nạn. Thì quả đúng như thế. Lũ gian manh này, cái mõm thì luôn xưng là Quốc Gia-Tỵ Nạn-Chống Cộng; nhưng hai tay của chúng thì lúc nào cũng đều thủ sẵn song đao, song kiếm, có tẩm đầy những chất độc, chúng luôn tìm mọi cách để hãm hại hoặc giết chết những người vì thiết tha với đại nghĩa, dân tộc mà đã lên tiếng để vạch trần những bộ mặt thật gian manh, tàn ác của bọn chúng cho đồng bào trong và ngoài nước đều được biết.

Mới đây, bọn chúng lại giở những trò khủng bố tinh thần, qua bài viết « Khủng Bố Đen » của tác giả Trương Minh Hòa, là cây bút thép trong Ban Biên Tập của Trang Điện Báo Hồn Việt; tôi được biết, lũ gian manh kia lại giở trò khủng bố một cách vô cùng ấu trĩ: Chúng đã « sản xuất » ra những cái giấy « Tưởng Thưởng » được cho là của Việt Cộng. Rồi gửi cho nhiều tổ chức của người Việt tại hải ngoại, kể cả Ông Trương Minh Hòa. Tôi xin ông Trương Minh Hòa không nên nóng nảy và chẳng cần để ý đến những cái trò con nít ấy. Bởi, một khi Việt Cộng mà muốn « Tưởng Thưởng » cho bất cứ người nào « có công với cách mạng » ; thì người ấy phải trực tiếp nhận cái « Giấy Tưởng Thưởng » từ chính tay của viên chức của Tòa Đại Sứ Cộng Sản Việt Nam, hoặc từ các Chi bộ đảng Cộng Sản ở các địa phương; vì ở đâu mà chẳng có Việt Cộng. Và cái « Giấy Tưởng Thưởng » đó thì chỉ có phía người trao và người nhận được biết mà thôi. Đàng này những cái « Giấy Tưởng Thưởng » kia nó giống như những cái thư rơi, vung vãi khắp nơi, thì những người « có công » ấy; kể cả những kẻ đang nằm vùng làm sao mà dám tiếp tục nằm vùng cho được.

Nhân đây, tôi khẳng định rằng chính bọn « Khủng Bố Đen » này, chúng đã « sản xuất » ra những cái « Giấy Tưởng Thưởng » có con dấu đỏ của Việt Cộng, rồi đem phổ biến khắp nơi. Tôi cũng khẳng định thêm rằng: Không phải chỉ có những giấy tờ giả mạo này, mà chính bọn chúng đã và đang « sản xuất » ra những « Giấy Tưởng Thưởng- Tưởng Lệ » và cả những con người cũng giả nữa. Nhưng còn kinh khiếp hơn là chúng còn dám cả gan làm những cái giả có tầm cỡ quốc tế. Bọn chúng là một tổ chức tội phạm quốc tế. Vì vậy, bọn chúng sẽ bị các cơ quan An Ninh Quốc Tế theo dõi, điều tra và rồi sẽ sa lưới … Tôi chỉ có thể nói đến đó mà thôi, bởi bắt buộc không tiết lộ thêm một điều gì nữa cả.

Và cũng nhân bài viết này, tôi muốn nói thẳng với bọn chúng. Tôi, một phụ nữ bình thường, song tôi không hề sợ bất kể một điều gì do chúng đưa đến. Tôi biết, bọn chúng muốn hãm hại chúng tôi, chúng muốn giết chúng tôi như Ông Bà Ký Giả Lê Triết. Nhưng chúng cũng biết tôi là một con người không sợ chết. Năm xưa ông bà Lê Triết chết đi; song tất cả những tài liệu mà ông bà Lê Triết đã cất giữ, bọn chúng cũng không sao tìm thấy được. Hôm nay, tôi cầu xin oan hồn của ông bà Lê Triết hãy phù hộ cho chúng tôi, để chúng tôi hoàn thành mọi sự, để rửa oan cho linh hồn của ông bà, trước khi chúng tôi gặp ông bà ở một cõi nào mà chúng tôi chưa biết.

Ngoài những điều ấy, tôi cũng muốn nói với lũ gian manh trong tổ chức tội phạm quốc tế kia rằng: Tôi cũng đang chờ và sẵn sàng để nhận bất cứ một thứ gì chúng muốn gửi đến cho chúng tôi. Nếu chúng tôi « được » nhận những cái « Giấy tưởng Thưởng » tương tự như của ông Trương Minh Hòa, thì chúng tôi sẽ đưa lên mạng lưới toàn cầu cho mọi người được biết. Tôi cũng biết bọn chúng sẽ không từ bất cứ một việc làm nào, dù hèn hạ , bẩn thỉu nhất, hầu để triệt hạ chúng tôi. Nhưng chúng tôi không bao giờ sợ. Bọn chúng nên biết, nếu chúng tôi sợ thì hơn mười năm trước đây, làm sao tôi dám lên tiếng trên Văn Nghệ Tiền Phong

Chính bọn « Khủng bố đen » này, chúng chẳng những đã « sản xuất » ra nhiều thứ giả, mà còn có cả con người giả nữa để làm « anh hùng chống cộng » . Nhưng ai cũng đều biết, những con người giả nhưng mang tên của những người thật này, nó cũng giống như những người máy. Vì là người máy, nên chúng không có kiến thức. Bởi thế, cả lũ người máy này khi nói năng cũng không ra đường ra nẽo, chứ đừng nói đến chuyện viết sách hoặc làm thơ, nên thơ với sách toàn là do người khác viết.

Để chứng minh cho những hành vi Gian Manh- Lừa bịp- Lường gạt của bọn chúng. Tôi xin trích nguyên văn một vài đoạn ở từ trang số 11-12-13, trong tập « Tài Liệu Tối Mật » gồm 23 trang, có đủ cả một bản viết tay và một bản đánh máy của bọn chúng như sau:

« … Chọn một ni cô, một dì Phước, hoặc một phụ nữ nỗi danh hoặc vô danh … (phải chưa chồng) để làm Thánh nữ. Bà đóng vai Mẹ Việt Nam tức Mẹ Âu Cơ… Mẹ Việt nam thiêng liêng nhập xác phàm.

Ta thần thánh hóa Mẹ. Mẹ là hóa thân của Mẹ Âu Cơ, đồng thời của Mẹ Maria, đồng thời của Mẹ Quan Âm. Mẹ sẽ nổi tiếng khắp thế giới … Ta sáng tác sấm ký Trạng Trình để thần thánh Mẹ Việt Nam là Mẹ Maria xuống thế gian, là Phật Quan Âm giáng trần, là Mẹ Âu Cơ tái sanh … Sau đó Mẹ sẽ ném tiền qua cửa sổ … Mẹ sẽ phát tiền ra như mưa như bão, hàng triệu người sẽ tôn sùng mẹ, sẽ tử vì đạo để bảo vệ mẹ … »


Ngoài « thánh nữ » tức Mẹ-Chúng-Nó ; băng đảng tội phạm quốc tế này bọn chúng cũng đã cố tạo ta một ông « thánh » nữa, tức Cha-Chúng-Nó. Chúng tôi cũng xin nói rõ: Trong danh sách của lũ con đông đảo này của Mẹ-Chúng-Nó, cũng đã có ghi tên của thằng con Nguyễn Đan Quế, thằng con Đoàn Viết Hoạt và thằng con Lê Hữu Mục.

Chính vì thế, nên bọn chúng đã toan tính đến chuyện đưa « thánh nữ » và cũng là « Mẹ » của bọn chúng sang Âu Châu để « Mẹ » giáng… trần nhà tiêu của « Đại Học Nhân Văn Hải Ngoại ». Tiếp đến bọn chúng phải đưa « Mẹ » đến Thánh địa Lourdes (Pháp ), để « Mẹ » uống nước suối tại Thánh địa này, để « chữa bệnh » trong dịp Đức Thánh Cha đến cử hành Thánh Lễ nhân dịp tưởng niệm 150 năm Đức Mẹ Maria đã hiện ra tại đây. Rồi sau đó, « Mẹ » của bọn chúng sẽ đi khắp thế giới rao truyền phép lạ … bịp!!!. Để mọi người sẽ tin những lời của « Mẹ » chúng nó nói. Ôi ! thật vô cùng may mắn cho những ai đã từng ngủ với « Mẹ » của chúng. Mà ngủ với « Mẹ » tức được ngủ với « thánh nữ ». Mà được ngủ với « thánh nữ » với « Mẹ » thì chắc chắn là được cùng « thánh nữ » bay bỗng lên tận … Vu Sơn. Vậy, các « đấng » tu mi nếu « đấng » nào muốn Du Sơn-Du Thủy thì cứ tự nhiên lên đàng đầu quân « đăng ký » để xin được ngủ với Mẹ-Chúng-Nó.

Song ở đời « Mưu sự tại Nhân, thành sự tại Thiên » ; nên tất cả khó có được một kết quả như mưu đồ của bọn chúng. Và rồi đây, mọi sự phải được phơi bày ra trước ánh sáng. Cả băng đảng tội phạm quốc tế này, chắc chắn phải sa vào lưới Trời cũng như lưới của luật pháp.

Một lần nữa, tôi xin khẳng định trước độc giả cũng như trước luật pháp của bất cứ của một quốc gia nào rằng: Chính cả bè lũ trong băng đảng tội phạm quốc tế này đã dùng Đồng Tiền Đen để Khủng Bố Đen.

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền.

*
* *
(Bài 3)

Để quý độc giả hiểu được một cách tường tận về tất cả những kẻ đang ở dưới trướng của tổ chức Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, bây giờ là đảng Việt Tân ; trong đó có Nguyễn Chí Thiện, Phan Nhật Nam…

Trước hết, chúng tôi xin mời quý độc giả đọc lại một bản tin của: « Đài phát thanh Việt Nam Kháng Chiến » đã được đăng tải trên tờ « Kháng Chiến số 71, trang 19 tháng 1 năm 1988 » như sau đây :

« - Đài Phát Thanh Việt Nam Kháng Chiến.
- Kháng Chiến Quảng-Đà
- Phục kích một toán Việt cộng tại huyện Tiên Phước.
- Một thương binh Việt cộng xin tham gia kháng chiến.
(VNKC, 23-10-1987)

Ủy ban Kháng Quản Tỉnh Quảng-Đà cho biết là, trong ngày 10 tháng 9 vừa qua, Đoàn Võ Trang Kháng Chiến Tỉnh đã phục kích một toán Việt cộng tại huyện Tiên Phước. Tin này được được đài Việt Nam Kháng Chiến loan đi vào ngày 23 tháng 10 vừa qua. Trong cuộc phục kích này, sau 10 phút giao tranh, địch đã bỏ chạy, để lại hai xác chết và hai thương binh. Phía Đoàn Võ Trang có một chiến hữu hy sinh. Ta tịch thu của địch bốn AK. 47, năm lựu đạn, một dao găm và nhiều đạn dược, thuốc cá nhân. Hai thương binh Việt cộng bị bỏ lại đã được y tá Đoàn chăm sóc thuốc men, băng bó tử tế. Nhưng, một người vì vết thương quá nặng, đã chết sau đó; người còn lại thấy sự chăm sóc tận tình của Đoàn và sau khi được hướng dẫn về chính sách khoan hồng của Mặt Trận đối với tù hàng binh Việt cộng, đã tình nguyện xin theo về với kháng chiến và được Đoàn chấp thuận.

Tưởng cũng nên nhắc lại, vào hạ tuần tháng 6 vừa qua, Đoàn võ Trang Kháng Chiến Quảng-Đà đã phục kích một toán Việt cộng tại huyện Hòa Vang. Toán Việt cộng này đã bỏ chạy để lại ba xác chết và một số súng CKC, AK.47, cùng nhiều đạn dược, thuốc men khác mà trong lúc hoảng hốt bỏ chạy, chúng đã không kịp mang theo. Trước khi rút khỏi nơi giao tranh, Đoàn Võ Trang đã rãi lại một số truyền đơn kêu gọi anh em bộ đội bỏ ngũ gia nhập lực lượng kháng chiến dân tộc chống lại bạo quyền.

Thêm vào đó, vào hai tháng 5 và 6 vừa qua. Đoàn cũng đã tháo gỡ bốn đoạn đường sắt dài tổng cộng 84 cây số trên tuyến đường xe lữa Sài Gòn-Đà Nẵng và phá hủy 16 trụ dẫn điện ».

Trên đây, là một trong những « Bản tin Kháng Chiến » mà tôi đã lưu giữ gần 20 năm qua. Dĩ nhiên, là chúng tôi còn nhiều « bản tin » khác của « Kháng Chiến ». Song tôi thấy chưa cần phải đưa lên mặt báo, bởi bài viết có hạn nên tôi chỉ nêu lên một bản tin này, còn những bản tin khác chúng tôi sẽ lần lượt đưa lên mặt báo để quý độc giả cùng suy gẫm.

Đọc cái « Bản tin của Kháng Chiến Quảng-Đà » như đã trích ở trên, chắc chắn các vị Quân-Dân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa đang ở trong và ngoài nước, đều thấy nó giống như những trận giao tranh vào thời chiến tranh khốc liệt giữa Quân đội Việt Nam Cộng Hòa và bộ đội chính quy Bắc Việt, ở những nơi địa đầu giới tuyến, hoặc ít ra cũng là những vùng mất an ninh trước 1975. Còn đây là những « trận phục kích » của «Đoàn Võ Trang Kháng Chiến Quảng-Đà » đã đánh vào quận Tiên Phước là quê hương của tôi, và quận Hòa Vang ở sát nách phi trường Đà Nẵng, là quê hương của chồng tôi. Nên biết, quận Hòa Vang chỉ cách Đà Nẵng có mỗi mặt đường mà thôi. Tôi xin nói thêm để các vị chưa hề biết đến Đà Nẵng và Hòa Vang hiểu rõ :Trước 1975, quận Hòa Vang thuộc tỉnh Quảng Nam, nhưng chỉ cách Đà Nẵng một cái mặt đường ; bên này đường là thành phố Đà Nẵng, bên kia đường là quận Hòa Vang .Vì vậy, hiện nay quận Hòa Vang không còn trực thuộc tỉnh Quảng Nam nữa, mà đã sáp nhập vào thành phố Đà Nẵng.

Sự thật về cái bản tin của « Đoàn Võ Trang Kháng Chiến Quảng-Đà » :

Tôi vốn là một con người không bao giờ dám đưa lên mặt báo những điều mà chính mình không mắt thấy, tai nghe. Vì thế, trước đây mười mấy năm, chúng tôi đã từng lên tiếng trên Văn Nghệ Tiền Phong. Chỉ tiếc rằng, tôi lại không đưa ra cái bản tin này; đó là một sai lầm vì đã «Hữu thuyết vô bằng».Vì vậy, hôm nay chúng tôi xin nói rõ về cái «bản tin» này như sau:

Tôi nghĩ rằng, cái gọi là « Đài Phát Thanh Kháng Chiến- Kháng Chiến Quốc Nội-Ủy Ban Kháng Quản Tỉnh Quảng-Đà », trước khi đăng những « bản tin » nói trên, chúng đã xem cái bản đồ Việt Nam, rồi cứ tưởng cái huyện Tiên Phước chắc xa xôi lắm, nên chẳng có ai biết, nên mởi đẻ ra cái « Bản Tin Kháng Chiến Quảng-Đà » vô cùng láo khoét này.

Nhân đây, tôi phải nói rõ cho mọi người được biết như sau :

Vào thời điểm ấy, là thời gian tôi sống tại nhà chồng tại thành phố Đà Nẵng. Nhưng tôi thường đi về giữa hai nơi Tiên Phước-Đà Nẵng ; vì phải đi mua bán để nuôi chồng con, nên chính bản thân tôi đã từng đạp xe đi đến nhiều phiên chợ ở nhiều Thị xã khác trên khắp thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam.

Khi viết lại những điều này, thì những hình ảnh đầy máu lệ của năm xưa bỗng đội mồ sống dây. Tôi không bao giờ quên được một ngày tang thương đã chụp phủ xuống gia đình chúng tôi. Đó là vào ngày 12 tháng 9 năm 1964. Khi cộng quân đánh chiếm quê tôi. Một đám du kích đã xông vào nhà tôi, chúng đã bắt Bác ruột của tôi vào « Trại cải tạo » Đá Trắng. Đồng thời tên Huỳnh Thuyên, Trung đội trưởng du kích đã bắn chết Cha tôi bằng hai phát đạn, một phát làm gãy cánh tay trái và một phát vào ngực trái, làm cha tôi gục chết trước sự kinh hoàng của gia đình chúng tôi. Sau đó, chúng ra lệnh cho cả nhà tôi phải đi theo chúng vào vùng chúng đã kiểm soát, mà không cho gia đình chúng tôi được chôn cất Cha tôi.

Sau đó, chúng tôi được biết quân đội Quốc Gia đã hành quân vào để lấy xác của Cha tôi đem ra vùng an ninh để chôn cất. Gia đình chúng tôi cũng đã nhận được một «Giấy báo tử». Nội dung viết: «Ông Trần Thắng (Bác ruột tôi) đã chết vì bệnh vào ngày 9 tháng 9 năm 1965, tại trại cải tạo Đá Trắng ». Chúng tôi không biết thực sự là Bác tôi đã chết vào ngày nào. Nhưng cứ theo cái «Giấy báo tử» ấy thì hàng năm gia đình chúng tôi vẫn làm lễ giỗ và cầu nguyện cho Bác tôi vào ngày 9 tháng 9.

Vậy, một lần nữa, tôi muốn đập vào mặt của Bùi Tín, bởi Y đã nói rằng: « Nếu Cụ Hồ còn sống thì không có các trại cải tạo ở miền Nam ». Vì Bác ruột tôi và các vị đã bị Việt cộng bắt cùng ngày với Bác tôi, đều đã lần lượt bỏ mình trong « Trại cải tạo Đá Trắng » từ năm 1960 đến năm 1964. Năm này « cụ Hồ » của Bùi Tín vẫn còn lúc lắc chứ chưa có chết.

Trở lại với thời gian mà cái «Đài Phát Thanh Kháng Chiến »đã loan tin. Hàng năm tôi vẫn nhớ đến ngày 9 tháng 9 là ngày Bác ruột tôi đã chết trong «Trại cải tạo »Đá Trắng. Lần ấy, năm 1987. Trước khi về quê để dự lễ giỗ của Bác tôi ; nên ngày 4-9-1987,tôi đã từ nhà chồng tại thành phố Đà Nẵng đi đến chợ Cẩm Lệ thuộc quận Hòa Vang, để mua một loại thuốc lá, là đặc sản của vùng đất này ;vì thế nó đã được mang tên là thuốc lá Cẩm Lệ, đem về quê Tiên Phước để bán cho bà con. Ngoài ra, tôi cũng mua bán thuốc Tây nữa. Ngày 5-9-1987, tôi ở nhà tại Đà Nẵng. Ngày 6-9-1987, tôi lên xe đò tại bến xe Liên tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng, để về quê Tiên Phước. Ngày 7-9-1987, tôi có mặt cùng gia đình tại làng Tiên Giang Thượng, huyện Tiên Phước. Khi về đến nhà thì Trời bỗng đỗ mưa. Ngày 8-9-1987, thì Trời không còn mưa nữa mà đã trở thành một trận lụt lớn, nước sông và suối gặp nhau, những giòng nước đục pha lẫn bùn đất chảy cuồn cuộn, những đồng ruộng mênh mông nước. Nhìn thấy cảnh mưa lụt này, tôi nóng ruột vì lo cho chồng con đang ở Đà Nẵng. Biết tôi lo lắng, nên vào ngày 9-9-1987, sau lễ giỗ của Bác tôi, Mẹ tôi đã bảo tôi :«Con hãy để tất cả thuốc men lại nhà cho Mẹ bán giúp, còn con phải về coi con cái, chứ chồng con nó không biết săn sóc con nít, nhất là trong lúc Trời mưa lụt như thế này ».

Nghe lời Mẹ , tôi đã để tất cả tại nhà cho Mẹ. Sáng ngày 10-9-1987, tôi chuẩn bị để trở về Đà Nẵng. Trước khi về Đà Nẵng tôi đã đến thăm Giáo Sư Đồng Triết, Bí thư Việt Nam Quốc Dân Đảng Quận Bộ Tiên Phước, vì biết Giáo sư cũng vừa ra khỏi trại tù. Sau đó, tôi đã lên chuyến xe đò tại « Trạm xe đò ngã Ba Cụ Huỳnh » để quay về thành phố Đà Nẵng. Trên tuyến đường trở về thành phố Đà Nẵng, khi xuống đến chiếc cầu cũ bắc qua sông Tiên, mằm sát chợ Tiên Phước, thuộc xã Phước Kỳ (nay là Tiên Kỳ). Đây là Thị xã quận Tiên Phước, đối diện với quận đường quận Tiên Phước, cả hai đã hình thành từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Riêng chiếc cầu này do quân đội Hoa Kỳ khởi công và hoàn thành vào tháng 7-năm 1964. Khi đến bến sông Tiên, tôi cũng như mọi người dân và tất cả hành khách trên các chuyến xe đò đều phải xuống xe, bởi trước mặt mọi người là giòng sông Tiên đang dâng lên ngập gần đến chợ Tiên Phước. Chiếc cầu đã nằm sâu dưới giòng nước đục ngầu. Các ông tài xế xe đò đã bảo mọi hành khách phải xuống xe, rồi đi bằng đò sang bến xe chợ Tiên Phước để sang xe khác, vì phải hai ba ngày sau nước mới rút xuống dưới chân cầu.

Nghe các ông tài xế nói vậy, tôi và mọi người đều xuống xe và lần lượt lên những chuyến đò để sang sông Tiên. Sau khi bước xuống đò, tôi đi qua chợ Tiên Phước để đến bến xe. Bến xe này nằm bên phải nhà thờ của giáo xứ Tiên Phước, cạnh trường Trung học Tiên Phước.

Sau khi vượt sông Tiên, băng qua chợ Tiên Phước tôi và tất cả hành khách lần lượt lên xe đò để trở về các thị xã như : Hương An, Vĩnh Điện, Hội An … và thành phố Đà Nẵng.

Với những điều đã kể ở trên. Tôi tuyên thề rằng: Từ ngày 4-đến ngày 10-9-1987 ; đặc biệt là ngày 10-9-1987, tôi có mặt tại chợ huyện Tiên Phước ; tôi cũng như tất cả mọi hành khách và những người dân tại Quảng Nam-Đà Nẵng, chỉ chứng kiến những giòng nước đục ngầu chảy lan lên khắp mặt đường nhựa ; tuyệt đối chúng tôi không hề biết, không hề nghe, không hề thấy bất cứ một tí gì về cái gọi là « Những trận phục kích của Đoàn Võ Trang Kháng Chiến Quảng-Đà ». Tôi cũng xin đoan chắc rằng không riêng trong ngày 10-9-1987, mà suốt thời thời gian chúng tôi còn ở trong nước, cho đến ngày chúng tôi bồng bế các con liều chết lên tầu vượt biển, chúng tôi cũng như đồng bào Quảng Nam-Đà Nẵng, cũng đều không hề biết gì về những điều láo khoét trong những « Bản tin của Đoàn Võ Trang Kháng Chiến Quảng-Đà ». Trừ những kẻ đã và đang ở trong Mặt trận Hoàng Cơ Minh, thì dĩ nhiên là phải làm chứng láo cho vô số những điều láo. Bởi, không nói láo thì không phải là thành viên-đảng viên của Mặt trận-Việt Tân. Ngược lại Mặt trận-Việt Tân cũng không bao giờ kết nạp những người không biết nói láo. Vậy không có gì lạ, khi nghe thấy những cái vô cùng láo của Nguyễn Chí Thiện-Phan Nhật Nam và những tên khác ở trong cái Mặt trận-Việt Tân.

Tiên Phước quê hương tôi :

Như đã nói ở trên, tôi được sinh ra tại làng Tiên Giang Thượng, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Nhà tôi gần nhà của cụ Huỳnh Thúc Kháng. Quê tôi có những vườn chè,những vườn quế, những đồi tiêu trãi dài xanh ngát. Có những cánh đồng lúa mênh mông sóng lúa. Khi tôi vừa đủ trí nhớ thì những năm tháng thanh bình như trong thi-ca của thời tiền chiến không còn nữa. Nhưng tôi cũng đã được sống qua những ngày tháng thanh bình tại Tiên Giang Thượng vào thời kỳ đầu của nền Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam. Tiếc rằng, thời thanh bình ấy đã không được bao lâu kể từ khi cái Cục Cứt Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam nó đã được cộng sản Hà Nội ỉa ra. Sỡ dĩ tôi không gọi Hà Nội đẻ ra cái « Mặt trận » này như nhiều người vẫn thường gọi, vì con đẻ thì khó có ai nỡ lòng bỏ rơi, cho dù con của mình có vấp phải lỗi lầm. Còn như cái Cục Cứt Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam này thì nó chỉ có tác dụng là bón cho cái cây cộng sản cho nó khỏe mạnh, tốt tươi, cho đến khi nó đơm bông, kết trái rồi thì cái Cục Cứt Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam này cộng sản Hà Nội không có cần đến nó nữa. Tuy nhiên, những cán bộ cộng sản cao cấp, từng lãnh đạo ở trong cái « Mặt trận » này thì là những đứa con ruột nên vẫn là con cưng của hà Nội.

Trở lại với quê hương tôi. Dân quê tôi chỉ được sống trong thanh bình một thời gian ngắn ngủi cho đến ngày Nền Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ, ấp chiến lược đã bị những kẻ ngu xuẩn kia ra lệnh phá bỏ, thì là một cơ hội bằng vàng cho Việt cộng tấn công và đánh chiếm các thôn làng như vũ bão. Tại quận Tiên Phước quê tôi, gồm có 15 xã. Nhưng tính đến ngày 12-9-1964, Việt cộng đã đánh chiếm hết 11 xã, chỉ còn có 4 xã nằm quanh Quận lỵ, mà chẳng có xã nào nguyên vẹn cả, xã nào cũng mất ba, bốn thôn. Riêng quê tôi Tiên Giang Thượng đã mất hết sáu thôn, chỉ còn một thôn Đại Trung nằm bên bờ Tiên Giang Hạ.

Và từ đó, người dân quê tôi đã sống với những tiếng bom gầm, đạn thét cùng những cảnh máu lữa ngất Trời; nên một số người dân tại đây đã bỏ quê chạy về các nơi khác như thị xã Tam Kỳ, thành phố Đà Nẵng … cũng có nhiều người đã vào tận Sài Gòn để sinh sống. Vì thế, tôi đã có mặt tại thành phố Đà Nẵng, những tưởng rằng sẽ được sống bình yên, nào có ngờ đâu, để rồi sau đó tôi phải chứng kiến với không biết bao nhiêu lần những cảnh người giết người vô cùng man rợ, còn kinh hoàng hơn là chết vì bom đạn !!!

Đến đây, tôi xin phép quý vị độc giả để trả lời cho cái gọi là « Đoàn Võ Trang Kháng Chiến Quảng-Đà đã đánh vào quận Tiên Phước » như sau :

Mặc dù tôi đã ra đi, song không phải tôi mãi mãi rời xa Tiên Phước. Vì tôi vẫn thường xuyên đi-về giữa Đà Nẵng-Tiên Phước, tôi vẫn nhớ ngày trở về năm ấy vào đầu năm 1965. Tôi đã chứng kiến quê tôi thật sự đã đổi thay. Tại quận lỵ đã hình thành một sân bay do quân đội Hoa Kỳ thành lập. Sân bay này tương đối lớn, các loại máy bay tiếp tế của quân đội Hoa Kỳ như : C.123, C.130… L.19, L.20… và các loại trực thãng đều đáp xuống được. Nhưng người dân ở đây muốn đi lại giữa Tiên Phước-Tam Kỳ-Đà Nẵng hoặc các nơi khác, và ngược lại đều phải đi nhờ bằng các máy bay tiếp tế quân sự này ; vì tuyến đường Tiên Phước-Tam Kỳ đã bị Việt cộng kiểm soát hoàn toàn kể từ tháng 5 năm 1964 cho đến 30-4-1975.

Cũng vào thời điểm này, quân đội Hoa Kỳ đã thành lập một căn cứ của Lực Lượng Đặc Biệt gần sân bay, đó là Trại An phước. Căn cứ này do quân đội hoa Kỳ « cố vấn », còn các chiến sĩ Lực Lượng Đặc Biệt trực tiếp chiến đấu với cộng quân là người Việt Nam.

Tôi cũng xin nói thêm, vào thời gian trước 1954, tại quê tôi đã là căn cứ địa của Việt Minh. Việt Minh đã cho lập « Ty công an- Công binh xưởng », chúng bắt mọi người dân phải bỏ đói con ruột của mình, để nuôi cái đám « Công binh xưởng » này. Chúng cũng đã lập ra nhà lao Tiên Hội. Chính nhà lao này đã giam cầm rất nhiều chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng trong vụ án ngụy tạo Cầu Chiêm Sơn.

Nên biết, sau ngày 30-4-1975, tất cả những căn cứ của quân đội Việt Nam Cộng Hòa bỏ lại ; thì Việt cộng đều biến thành « Doanh Trại Quân Đội Nhân Dân ». Chẳng có chỗ nào không có bộ đội Việt cộng, vì chiếm được rồi thì phải giữ, cuộc chiến tranh nào cũng vậy. Tại quận Tiên Phước sau ngày mất nước ; Trại An Phước đã trở thành « Doanh Trại Quân Đội Nhân Dân ». Ngoài ra, Chi Khu cũ và các nơi khác cũng đều được thay vào đó là nơi đồn trú của bộ đội việt cộng. Như vậy, thì làm sao có cái chuyện « Đoàn Võ Trang Kháng Chiến Quảng-Đà giao tranh với Việt cộng » cho được ???

Và bây giờ, tôi xin phép quý độc giả để dừng vài phút ở đây để hỏi những cái tội của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh rằng :

Mặt trận Hoàng Cơ Minh, bây giờ là đảng Việt Tân: Với một huyện Tiên Phước như chúng tôi đã kể ở trên. Tuyến đường Tiên Phước-Tam Kỳ đã bị cắt đứt, việt cộng đã kiểm soát hoàn toàn suốt thời gian kể tứ tháng 5 năm 1964 đến 30-4-1975 ; dân chúng đi lại từ Tiên Phước-Tam Kỳ-Đà Nẵng cũng như các nơi khác, và ngược lại, bắt buộc phải đi nhờ các chuyến bay tiếp tế của quân đội Hoa Kỳ. Vậy với cái ngày 10 tháng 9 năm 1987, một ngày mưa lụt lớn, nước sông Tiên đã dâng cao, chiếc cầu bắc ngang sông đã chìm sâu dưới làn nước đục ngầu chảy xiết, ngập gần đến chợ huyện Tiên Phước. Và trong lúc cả miền Nam đã rơi vào bàn tay sắt máu của cộng sản Hà Nội ;và Trại An Phước là Căn cứ của Lực Lượng Đặc Biệt cũ và sau này là Tiểu Đoàn 77, biệt Động Quân Biên Phòng. Sau 30-4-1975 đã trở thành « Doanh Trại Quân Đội Nhân Dân. Như thế, Mặt trận Hoàng Cơ Minh-Việt Tân hãy trả lời: Làm như thế nào, đi đường nào mà « Đoàn Võ Trang Kháng Chiến Quảng-Đà giao tranh-phục kích - đánh giết nhiều tên việt cộng, thu nhiều súng đạn ». Rồi Việt cộng bị thương « được băng bó chăm sóc tử tế rồi Việt cộng đã xin theo quân kháng chiến » ở chỗ nào. Cái tên « thương binh đã xin theo kháng chiến » hắn tên gì ? Bây giờ ở đâu ? «Và « Sau 10 phút giao tranh địch đã bỏ chạy ». Sao bè lũ « Kháng Chiến » này lại có thể viết một « bản tin »láo và ngu xuẩn đến mức độ không ai có thể tưởng tương nỗổ ???. Giao tranh với Việt cộng mà chỉ có 10 phút ??? Sao ngu quá vậy, chỉ có giao tranh với vợ trong phòng ngủ thì 10 phút thôi cũng đủ để « thu quân, hồi tướng, xếp can qua ».

Mà Trời hỡi ! Từ 30-4-1975 cho đến hôm nay, cả nước Việt Nam đều nằm trong bàn tay sắt máu của bạo quyền cộng sản Hà Nội , mà «địch đã bỏ chạy, bỏ lại hai xác chết và hai thương binh và nhiều súng đạn». Rồi «Trước khi rút khỏi nơi giao tranh, Đoàn Võ Trang Kháng Chiến đã rãi một số truyền đơn…». « Rút khỏi nơi giao tranh », là rút đi đâu. Huyện Tiên Phước không phải là một cái vườn hoang đâu nhé. Với những trò lừa bịp đồng bào của Mặt trận Hoàng Cơ Minh, bây giờ là Việt Tân, trong đó có những tổ chức ngoại vi do Mặt trận-Việt Tân đẻ ra, dù mang nhiều danh xưng khác nhau ; nhưng tất cả đều dưới sự chỉ đạo của Việt Tân. Chính bè lũ này, đã làm băng hoại niềm tin của đồng bào. Vì thế, tất cả bọn chúng đều là những tên tội đồ của đân tộc.

Phải nói thực rằng, nếu ngày xưa lúc mới ra hải ngoại, tôi không đọc được những tờ «Kháng Chiến» này thì biết đâu, giờ này chúng tôi cũng đã bắt rễ trong cái mặt mẹt Phở Bò này rồi. Bởi từ ngày ra hải ngoại đã có nhiều « ông to » của băng đảng này từng đến nhà gặp gỡ chúng tôi. Song với tôi thì bất kể điều gì do băng đảng Phở Bò nói ra thì tôi đều bịt kín hai cái lỗ tai lại. Trong số này, có cả người thân của tôi ; nhưng mỗi lần đến thăm tôi là mỗi lần tranh cãi với nhau, có khi đến kịch liệt. Vì vậy, sau nhiều lần tranh cãi , chúng tôi quyết định không tiếp nữa để giữ tình anh em.

Và bây giờ, tôi xin nêu thêm về « Bản tin của Đoàn Võ Trang Kháng Chiến đã phục kích một toán Việt cộng tại quận Hòa Vang » như sau đây :

Quận Hòa Vang :

Chắc những ai chưa từng sống ở thành phố Đà Nẵng, thì khó biết được : Hòa Vang ở bên đàng Đà Nẵng. Tôi biết có một vị hiện đang có mặt tại Hoa Kỳ đã biết rất rõ về Hòa Vang, đó là Thiếu Tá Mai Xuân Hậu, Ông từng làm quận trưởng quận Hòa Vang. Sau đó, là Đại tá Tỉnh trưởng tỉnh Phú Yên. Ông cũng là người đã từng nếm bốn mươi ngày tù ở trong « Tổng Hành Dinh Quân Đoàn Vạn Hạnh » được đặt tại « chùa » Phổ Đà ở số 340, đường Phan Châu Trinh, Đà Nẵng, trong cuộc bạo loạn miền Trung, bàn Phật xuống đường vào mùa hè 1966.

Như đã nói, Hòa Vang ở bên đàng Đà Nẵng, nghĩa là chỉ cách nhau chỉ có mỗi cái mặt đường nhựa mà thôi. Là người Việt Nam ai mà không biết, Hải cảng Đà Nẵng là nơi đã từng « đón » những đoàn quân viễn chinh của Pháp rồi đến Mỹ. Nhất là vào thời quân đội Hoa Kỳ có mặt tại Việt Nam. Đà Nẵng đã trở thành một thành phố lớn về mọi mặt, có Phi trường và Hải cảng lớn, là nơi được đặt Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn 1, Quân Khu 1 tại Trại Nguyễn Tri Phương. Có Trung Tâm Huấn Luyện Hòa Cầm, và nhiều đơn vị khác… … Bên kia đường là quận Hòa Vang, nếu từ ngã ba Hòa Cầm (sau 30-4-1975, là ngã tư) đi xuống ngã tư Cẩm Lệ khoảng 2 km, thì ta nhìn thấy đồn cảnh sát thôn Bình Thái, xã Hòa Thọ, đi thêm khoảng 20 mét nữa là ngã tư Cẩm Lệ ; nếu quẹo trái là có quận đường Hòa Vang và đồn cảnh sát quận, cuối đường là hãng dệt Sicovina, đều nằm dựa lưng vào phi trường Đà Nẵng, nhưng thuộc thôn Bình Thái, xã Hòa Thọ. Quẹo phải là chợ Cẩm Lệ và chùa Thọ Quang, là ngôi chùa riêng của Hòa thượng Thích Quang Thể, Chánh đại diện giáo hội Phật giáo Quảng Nam-Đà Nẵng. Nếu chạy thẳng chưa đến 1 km là Bệnh viện Hòa Vang.

Với địa hình như thế, thì làm sao cái « Đoàn Võ Trang Kháng Chiến Quảng-Đà đã phục kích một toán Việt cộng tại huyện Hòa Vang » ??? và « Bản tin » này còn viết tiếp : « Đoàn cũng đã tháo gỡ bốn đoạn đường sắt dài tổng cộng 84 cây số, trên tuyến đường xe lữa Sài Gòn- Đà nẵng và phá hủy 16 cột trụ dẫn điện ».

Trời đất ạ, cái « Đoàn Võ Trang Kháng Chiến »này, đã vừa « giao tranh » với Việt cộng, vừa « tháo gỡ bốn đoạn đường sắt, trên tuyến đường Sài Gòn-Đà Nẵng » lại vừa đếm tỉ mỉ được rõ ràng tới « bốn đoạn- 84 cây số và 16 cột dẫn điện bị phá hủy ».

Mà thôi, chúng tôi thấy chẳng cần phải nói thêm một điều gì nữa. Bởi cái Mặt Trận Hoàng Cơ Minh này đã nói láo đến mức độ ngu xuẩn, không ai có thể tưởng tượng nỗi.

Hỡi bè lũ gian manh-tàn ác- sát nhân kia. Đừng tưởng rằng bao nhiêu năm qua, là mọi chuyện đã đi vào quên lãng. Không, một triệu lần không. Tất cả những tội ác này, chẳng phải bây giờ mà đời đời hậu thế vẫn còn ghi tạc.

Trên đây, là những bằng chứng vô cùng chính xác về cái gọi là « Đoàn Võ Trang Kháng Chiến Quốc Nội », của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, bây giờ là đảng Việt Tân. Chúng tôi tin rằng cho đến « kiếp sau » Mặt Trận-Việt Tân cũng không bao giờ chạy chối cho được những trò gian manh-láo khoét và lường gạt niềm tin của đồng bào trong suốt mấy chục năm qua.

Nhưng, bản chất của Mặt trận Hoàng Cơ Minh-Việt Tân, vẫn không hề thay đổi. Một mặt chúng luôn tự xưng là « Quốc Gia- Chống Cộng ». Nhưng nhiều người đã thấy rõ bọn chúng là ai. Nên nhớ, Đỗ Ngọc Yến đã nằm vùng suốt mấy chục năm qua, cho đến một ngày Yến ta không cần nằm nữa, mà Y đã đứng chụp hình chung với hàng cán bộ cao cấp của Việt cộng. Còn hiện nay đảng Việt Tân cương quyết bảo vệ Nguyễn Chí Thiện ; bởi Việt Tân biết Thiện là việt cộng thứ thiệt nên cần phải lập công ; nên Thiện ta là của quý của Việt Tân. Vì vậy, băng đảng này cương quyết bảo vệ Nguyễn Chí Thiện. Chúng lồng lộn, điên tiết, chụp những cái mũ cộng sản nằm vùng, cho tất cả những ai nghi ngờ Nguyễn Chí Thiện không phải là tác giả của Thi tập Vô Đề. Chúng bảo là Nguyễn Chí Thiện đã được nhận vào nước Mỹ, có Quốc tịch Mỹ là không phải là Cộng Sản. Vậy thử hỏi, ngày xưa chính Mỹ đã biết rõ Thích Trí Quang là cán bộ cao cấp của cộng sản đại gian-đại ác; nhưng Mỹ đã bảo vệ Thích Trí Quang, còn ông Ngô Đình Cẩn, Mỹ cũng biết rõ ông Ngô Đình Cẩn không phải là cộng sản, nhưng Mỹ đã không bảo vệ ông. Chẳng những không bảo vệ mà còn nộp mạng ông Ngô Đình Cẩn cho bọn đâm thuê giết mướn. Để rồi Nguyễn Khánh, một tên bất nhân, bất lương và bất nghĩa, vì đã tin vào những lời hứa của Thích Trí Quang mà đã đem ông Ngô Đình Cẩn ra xử bắn. Nhưng Nguyễn Khánh đã sáng mắt ra khi Thích Trí Quang đã nuốt lời hứa…Và chính người Mỹ cũng thừa biết Vũ Ngọc Nhạ và nhiều tên nữa là những tên điệp viên cộng sản, nhưng vẫn để cho chúng hoạt động một thời gian khá dài, cho đến lúc thấy cần thì mới ra tay…Chẳng cần nói đâu xa, ngay hiện tại con ruột của Võ Nguyên Giáp và con ruột của Thủ tướng Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng cũng đang ở tại nước Mỹ và còn nhiều nữa …thì chắc con của Võ Nguyên Giáp và con của Nguyễn Tấn Dũng đều không phải là cộng sản ??? Chỉ những người đã từng bước vào chính trường, từng nếm trãi đủ mùi tân khổ, từ những cuộc trường kỳ chiến đấu với giặc ngoại xâm, hoặc từng dày công nghiên cứu về chính trị, thì chắc chắn các vị đều biết thế nào là chính trị, còn bọn gian manh này, chúng không thể hiểu nỗi hai từ chính trị, chúng chỉ biết lừa bịp đồng bào mà thôi.

Nên biết, ngày xưa ông Ls Hoàng Cơ Thụy trong lần « đảo chánh » vào 11-11-1960, chính ông Hoàng Cơ Thụy đã phải chui vào trong một cái thùng phuy, để ngoại nhân đưa ra khỏi nước… Tại sao lại phải như vậy và tại sao lại có cái cuộc « đảo chánh » này ? Những người biết được chuyện thâm cung bí sử chắc không nhiều lắm.

Như vậy, đừng có ngu xuẩn mà bô bô cái mồm nói là những ai đã được đến Mỹ, sống tại Mỹ, vào quốc tịch Mỹ đều không phải là cộng sản. Ngoài ra, chớ nghĩ rằng những ai đã từng ở trong các nhà tù của Việt cộng là không bao giờ làm cộng sản ; và cũng đừng đem những năm tháng tù « cải tạo » ra để làm cái bằng bảo kê cho những hành vi cộng sản. Nên nhớ cho thật kỹ, đã có nhiều trường hợp, chính vì ở trong các nhà tù của cộng sản, nên đã vì những nhu cầu khác nhau như : Vì những cơn vả thuốc phiện, vì một nữ công an … mà đã có một số người tù « cải tạo » đã cam tâm hãm hại bạn tù, hoặc phải làm cộng sản cho đến chết.

Nguyễn Chí Thiện và Thi Tập Vô Đề :

Trong lúc tôi đang viết đến đây, thì tôi đã nhận được rất nhiều cái e-mail, nội dung nói rằng sẽ đưa những tấm hình của Nguyễn Chí Thiện chụp chung với nhiều vị Linh mục ; và những lời làm chứng của các vị Linh mục rằng : đã ở tù chung với Nguyễn Chí Thiện kể cả Lý Tống lên các diễn đàn để chứng minh Nguyễn Chí Thiện là tác giả của Thi tập Vô Đề. Và còn nói là « Sứ quán Anh đã trả lại tập thơ viết tay cho ông Nguyễn Chí Thiện ».

Bây giờ, lại thêm một trò con nít nữa. Ở đây, chúng tôi không cần phải đề cập đến Lý Tống. Bởi Lý Tống chỉ là một thứ cò mồi rẻ tiền của Mặt Trận Kháng Chiến Láo tức đảng Việt Tân. Còn về Phan Nhật Nam, sau khi vượt biển chúng tôi đến Hồng Kông, thì Hội Ân Xá Quốc Tế đã muốn gặp chúng tôi để tìm hiểu về các trại tù của Việt Công. Sau đó, qua trung gian của Văn Phòng Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, chúng tôi đã được gặp trực tiếp Hội Ân Xá Quốc Tế. Khi tôi nêu tên những người bạn đồng tù đang còn ở trong « Trại cải tạo » T.154, tại Tiên Phước ; thì các vị trong Hội Ân Xá Quốc Tế đã nói với chúng tôi rằng :

«Ông Phan Nhật Nam trong một lần gặp phái đoàn của chúng tôi, ông ấy đã nói là hiện nay đã không còn một người tù chính trị nào ở trong các trại cải tạo tại Việt Nam».

Nghe những lời của các vị trong Hội Ân Xá Quốc tế này đã nói, chúng tôi sững sờ, uất ức đến rơi nước mắt. Chúng tôi không ngờ Phan Nhật Nam lại có thể đối đãi với các vị tù chính trị như vậy, và đã làm chứng dối như thế. Song chúng tôi nhất định phản đối những lời chứng dối của Phan Nhật Nam. Sau khi nghe những lời trình bày của chúng tôi, Hội Ân Xá Quốc Tế đã bảo chúng tôi về phòng và lập một danh sách có đủ tên họ của những người tù chính trị vẫn còn trong trại. Và chúng tôi đã lập một danh sách nêu lên đầy đủ tên họ, cấp bậc, chức quyền trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa của các vị đồng tù vẫn còn ở trong «Trại cải tạo T.154 ». Đồng thời chúng tôi đã mô tả về cách giam cầm, và đời sống của các tù cải tạo. Sau đó, chúng tôi đã đem nộp cho Hội Ân Xá Quốc Tế. Về chuyện Phan Nhật Nam đã làm chứng trước Hội Ân Xá Quốc Tế như đã kể. Chúng tôi nhớ vào thời gian đó ở hải ngoại đã có nhiều vị đã lên tiếng phản đối và nguyền rủa Phan Nhật Nam dữ dội lắm. Bởi thế, chớ bao giờ nghe những gì Phan Nhật Nam đã nói và sẽ nói.

Và cũng nên nhớ rằng : Không có một tấm hình nào của Nguyễn Chí Thiện, đã chụp với bất cứ ai, dù là chụp chung với các vị Tổng Thống, Linh mục, Giám mục, Hồng Y… Kể cả những người nói là đã ở chung với Thiện trong nhà tù Việt cộng. Bởi trước khi đưa Nguyễn Chí Thiện ra nước ngoài làm công tác ngoại vận, thì cộng sản Hà Nội đã chỉ thị cho Thiện phải tập dợt trước nhiều ngày tháng; trong đó có việc đưa Thiện đến biểu diễn nhiều màn ở nhiều nhà tù khác nhau, để rồi những người từng gặp Thiện trong nhà tù, vì ngây thơ nên đã làm chứng. Song nên nhớ cho kỹ rằng: Các vị ấy, nếu có ở tù và nếu có gặp, thì cũng chỉ gặp Nguyễn Chí Thiện mà thôi; chứ các vị không hề gặp Tác giả Khuyết Danh của Thi tập Vô Đề. Bởi vậy, tất cả và tất cả cũng không bao giờ có giá trị để làm bằng chứng cho Nguyễn Chí Thiện là tác giả của Thi tập Vô Đề.

Một điều nữa, nếu quả thật Sứ quán Anh đã « trả » tập thơ bằng chữ viết tay của Nguyễn Chí Thiện, thì nó lại càng cho mọi người thấy được một cách rõ ràng hơn là Nguyễn Chí Thiện chính cống là một cán bộ cộng sản cao cấp, đã được Hà Nội đưa ra làm công tác ngoại vận. Bởi như thế, thì không còn nghi ngờ gì nữa để cho chúng ta biết rằng : Tác giả của Thi tập Vô Đề thực sự đã chết từ rất lâu rồi. Nhưng, Hà Nội đã chỉ thị cho Nguyễn Chí Thiện này chép tay trở lại, rồi cầm tập thơ chạy vào Sứ quán Anh để đóng tròn một vai diễn. Tiếp đến Nguyễn Chí Thiện phải sang Mỹ, phải làm tất cả những gì cộng sản Hà Nội đã chỉ thị. Nhưng, Hà Nội đã chọn một điệp viên không đủ khả năng để hoàn thành « sứ mạng ». Vì Nguyễn Chí Thiện này đã để lộ quá nhiều sơ hở. Mỗi lần báo chí hoặc có người hỏi về thơ, năm sinh, học ở trường nào mà có cái bằng Tú tài Pháp … Nguyễn Chí Thiện vì nói láo nên không nhớ được những gì mình đã nói ra trước đó, nên những câu trả lời của Thiện luôn luôn tiền hậu bất nhất. Nên nhớ cho kỹ: Sáng tác là khác, còn chép lại thơ của người khác là chuyện khác.

Còn một điều mà không ai nói đến: Nếu Nguyễn Chí Thiện là giáo sư dạy Pháp văn, lại là một thi tài, thì tại sao Nguyễn Chí Thiện lại phải đem ba tấc lưỡi ra để nhờ đến một người bạn của chúng tôi tại Pháp là Bác sĩ Nguyễn Ngọc Quỳ, để dịch Thi tập Vô Đề ra tiếng Pháp, để in và đã phát hành vào năm 1999, tại Pháp ???

Một lần nữa, chúng tôi xin lập lại : Nếu quả thật có chuyện Sứ quán Anh đã « trả » tập thơ cho Nguyễn Chí Thiện do chính Thiện này viết tay. Và sau này, khi đã được giảo nghiệm chữ viết, nếu đúng tất cả đều do chính Nguyễn Chí Thiện đã viết. Thì chúng ta những người biết tôn trọng lẽ phải và sự thật, từng quý mến tác giả của Thi tập Vô Đề, thì không còn cách nào khác hơn là hãy thắp lên những nén hương, để tưởng niệm một thi tài bất khuất trước bạo quyền cộng sản . Vì thế, Tác giả Khuyết Danh đã chết tức tưởi trong đớn đau, «chân trong cùm nhay lỡ loét, gầy mòn xương da một dúm, lưng gù, mắt mờ run, lóa hẳn rồi, ho lao, thổ huyết… » !!! Và hãy nguyện cầu cho linh hồn tác giả Thi tập Vô Đề sớm được về cõi vĩnh hằng. Đồng thời « Thác là thể phách, còn là tinh anh ». Xin tác giả của Thi tập Vô Đề phù hộ cho chúng ta trên con đường đấu tranh Diệt cộng-Trừ gian. Vì đó, chắc chắn cũng là ước nguyện của tác giả Thi tập Vô Đề.

Đọc đến những dòng này, tôi biết chắc sẽ có nhiều độc giả sẽ chửi bới rằng :Tôi đã trù ẻo cho tác giả Thi tập Vô Đề. Nhưng tôi xin quý vị hãy bình tâm, để đọc tiếp những trích đoạn của những bài thơ do chính tác giả Khuyết Danh đã cho chúng ta biết được như sau đây :

Đón xuân chân trong cùm
Trà thuốc không một hơi, một ngụm
Xung quanh ta một mùi thum thủm
Con người ta xương da một dúm
Dốc chút hơi tàn dành dụm
Thơ xuân vẫn nở một chùm.

Chúng cho ta ăn thua một con mèo
Và khoái trá nhìn ta xương da lủng củng
Đi đứng lờ đờ, xanh bủng, mắt mờ run.
Bóng cuộc đời tôi lặng vắng như tờ
Thất thểu, bơ vơ, khóc cười lỡ dỡ
Lảo đảo đi về, tuyệt vọng, âm u
Bóng hình tôi ho ra máu, lưng gù
Mở mắt ra: sừng sững bóng trại tù.
( 1969)
Từng cơn nóng dội, từng cơn rét
Thịt bắp tiêu dần, xương với da
Chân vỡ sưng, cùm nhay lỡ loét
Rệp muỗi quây quần hút máu ta
Vụ hè oi bức trong hầm đá
Không khí như là hơi nước sôi
Ta khắp thân mồ hôi ướt vã
Cơm muối nhai cùng phân chuột hôi
Thời gian ẩm mốc, ngày như tối
Cặp mắt mờ run, lóa hẳn rồi
Hốc mũi hơi thùng xông nhức nhối
Một mùa trong mộ đói qua trôi…
(1972)

Quý độc giả vừa đọc qua những dòng thơ của chính Tác giả Khuyết Danh đã viết trong Thi tập Vô Đề, từ đầu thập niên 1960-1972, tác giả đã cho chúng ta biết, ông đã sống như thế nào và con người thật của ông ra sao, theo những dòng thơ cũng là những dòng tâm huyết của ông, chúng ta hãy tưởng tượng ra nhà thơ qua những hình ảnh rất thực :

Con người ta xương da một dúm
Đi đứng lờ đờ, xanh bủng, mắt mờ run
Bóng hình tôi ho ra máu, lưng gù
Thịt bắp tiêu dần, xương với da
Chân vỡ sưng, cùm nhay lỡ loét
Cặp mắt mờ run, lóa hẳn rồi.

Chỉ chừng ấy thôi, trong chúng ta ai là người dám nghĩ rằng tác giả của Thi tập Vô Đề là một con người khỏe mạnh như mọi người đã thấy, ông ta đã từng đi khắp nơi Âu-Mỹ.... Qua những hình ảnh, ai cũng thấy ông ta như một người bình thường ; không ai có thể tìm thấy một dấu tích gì, như những dòng thơ của Tác giả Khuyết Danh đã để lại cho chúng ta. Nguyễn Chí Thiện đi đứng lưng chẳng hề « gù »,mắt chẳng hề «mờ run, lóa hẳn rồi »,tay chân không hề có dấu vết gì của « cùm nhay lỡ loét », phổi không hề « ho ra máu »và thân thể cũng chảng phải « xương với da một dúm. Vậy, Nguyễn Chí Thiện đừng có nằm mơ màng-mộng du mà cứ tưởng rằng mình là « Vua Trần »,là «Cha Lạc Long Quân ».Vậy «Lê Lợi Nguyễn Đan Quế và các Nguyễn Trãi 1-2-3…»sao còn chần chờ gì nữa, mà chưa « sáng tác sấm ký Trạng Trình để thần thánh hóa » Nguyễn Chí Thiện ???

Trên đây, là những lời thơ của chính tác giả Khuyết Danh. Vì thế, chúng tôi nghĩ rằng : Tác giả của Thi tập Vô Đề hoặc là đã bị cộng sản Hà Nội giết chết, hoặc đã chết vì quá nhiều bệnh tật hiểm nghèo ở trong tù, chứ không thể sống được cho đến ngày hôm nay.Vì vậy,Tuyệt đối Nguyễn Chí Thiện không bao giờ là Tác giả của Thi tập Vô Đề.

Để tạm kết bài số 3 này. Chúng tôi chỉ có một ước mong là tất cả chúng ta, những người biết tôn trọng sự thật. Vì muốn làm sáng tỏ mọi sự, để trả Thi tập Vô Đề trở lại cho chính tác giả của nó. Dù biết rằng sẽ gặp nhiều khó khăn. Song không sớm thì chầy không ai có thể cướp đi những công lao bằng tim óc của người khác, dù người ấy đã chết..

Vì thế, chúng tôi chỉ dám xin các vị đã và đang cùng chung chí hướng ; xin hãy bỏ qua hết tất cả những gì có thể vì đã hiểu lầm nhau, bởi kế ly gián của đối phương, mà đã có những điều khiến làm buồn lòng nhau, nếu có. Để tất cả cùng kết hợp lại với nhau. Để có những việc làm cụ thể, thiết thực hơn với công nghĩa Diệt Cộng-Trừ Gian và đòi công đạo cho Tác giả của Thi tập Vô Đề.

Cuối cùng, chúng tôi xin lập lại là chúng tôi chỉ dám ước mong mà thôi. Vì vậy, nếu quý vị không đồng ý, thì cũng xin quý vị vui lòng bỏ qua. Bởi kẻ viết bài này chỉ có tâm thành là muốn tận Diệt Cộng-Trừ Gian và đòi lẽ công đạo cho Tác giả của Thi tập Vô Đề, chứ không bao giờ dám lộng ngôn.

Xin quý vị niệm tình mà suy xét.

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

Bấm vào đây đọc bài 4


Cái lầm to thế kỷ

Trần Thanh

Một trong những bài thơ của tác giả Vô Danh mà tôi tâm đắc nhất là bài:
    Cuộc chiến đấu này
    Cuộc chiến đấu này chưa phân thắng phụ
    Ta vẫn còn đây và sắt thép còn kia
    Chết chóc thầm câm, cốt nhục chia lìa
    Ta vẫn sống và không hề lẫn lú
    Ta muốn nói với bầy dã thú
    Khúc hát khải hoàn ta sẽ hát thiên thu!
    (1975)
Bình luận về bài thơ:

Cuộc chiến đấu giữa chúng ta và bọn việt gian cộng sản vẫn còn đang tiếp diễn, chưa phân thắng bại,dù rằng bọn chúng đã tuyên bố "chiến thắng" cách đây 33 năm!

Các chiến sĩ chúng ta vẫn đang giữ vững vị trí chiến đấu với súng ống (sắt thép) vẫn đang ghìm trên tay. Người công nhân, nông dân có "vũ khí" đình công, giáo dân có "vũ khí" cầu nguyện, dân oan có "vũ khí" biểu tình đòi đất, các nhà văn, nhà thơ, nhà báo có "vũ khí" là ngòi viết, bàn phím computer ..v..v... Tóm lại, theo ý tác giả Vô Danh: "sắt thép còn kia" chính là sắt thép của ý chí chúng ta, quyết tâm chống lại kẻ thù đến cùng để đem lại tự do, thanh bình cho đất nước. Những con người đấu tranh chân chính, chưa có ai "giã từ vũ khí" để đầu hàng quân giặc!

Chết chóc thầm câm: Những chiến sĩ vô danh đã và đang chiến đấu cho lý tưởng tự do từ năm 1975 đến nay và nhiều người đã âm thầm hy sinh, ngay cả một nấm mồ hoang cũng không có!

Cốt nhục chia lìa: Biết bao gia đình đã bị tan nát vì bọn giặc cộng, cha mẹ xa con, vợ xa chồng, anh em ly tán ..v..v..

Tuy nhiên, dù đang sống trong một hoàn cảnh hết sức bi đát, tác giả vẫn giữ được lý trí sáng suốt để đánh giặc và luôn tin tưởng vào sự tất thắng trong tương lai, tựa như mọi người ai cũng biết chắc, sau đêm dài tăm tối, mặt trời sẽ ló dạng.

Ðó là tình hình chung của đất nước. Còn sự tranh đấu tại hải ngoại giữa chân lý và gian tà cũng vẫn đang tiếp diễn. Nói cho rõ hơn, đó là sự việc những nghi vấn về ông Nguyễn Chí Thiện. Tôi xin mượn những câu thơ của tác giả Vô Danh, sửa lại một vài chữ để diễn tả tình trạng đấu tranh này:

Cuộc chiến đấu này chưa phân thắng phụ
Ta vẫn còn đây và THẰNG ĂN CẮP VẪN CÒN KIA!
Nó tưởng ta miệng câm, chịu nhục chịu hèn
Nhưng ta vẫn tố cáo và không hề lẫn lú
Ta muốn nói với bầy dã thú
Khúc hát khải hoàn ta sẽ hát thiên thu!!!

Mới đây bà Bút Vàng Ðỗ Thị Thuấn đã phỏng vấn ông Nguyễn Chí Thiện và cho phổ biến cuộc phỏng vấn này trên tờ báo điện tử Ánh Dương của bà. Tôi đã nghe cuộc phỏng vấn nhưng không đồng ý về những giải thích của ông Thiện. Ví dụ như:

- Ông giải thích vụ ông dạy học môn Sử ký, giảng cho học sinh rằng Nhật Bản phải đầu hàng hồi đệ nhị thế chiến vì bị hai quả bom nguyên tử của Mỹ chớ không phải do bị quân đội Xô Viết đánh bại. Vì sự giảng dạy "phản động" này mà ông bị công an bắt, bị đưa đi tù ba năm rưỡi.

Tuy nhiên, ông Thiện lại giải thích rằng cái "lớp học" này là lớp học .... ở ngoài trời, ở ngay trước nhà ông Thiện chớ không phải là lớp học trong trường học của nhà nước, cho nên không có tổ bộ môn, không có phòng giáo vụ, không có hiệu trưởng, không có bí thư chi bộ đảng kiểm soát! Các học sinh khoảng 20 người, học theo .... hứng và "thầy" Thiện cũng dạy theo ....hứng! Học theo hứng tức là thích thì tụ họp lại để học,còn không thích thì không đi học! Bàn ghế của "lớp học" kê ở ngoài vỉa hè!

Quý vị nào đã từng sống ở Hải Phòng trước năm 1954 thử nhớ lại xem có thể có tình trạng như vậy xảy ra hay không, sau gần 10 năm Việt Minh cướp chính quyền mà vẫn để cho người dân được tự do như vậy? Kinh nghiệm sống trong Nam, sau năm 1975, tôi thấy rằng không thể nào có một cái lớp học bụi đời có tới vài chục học viên, HỌC CÔNG KHAI Ở NGOÀI ÐƯỜNG,không hề do việt cộng kiểm soát mà được tự do sinh hoạt như vậy! Nếu có hình thức dạy kèm thì bất quá là vài ba em học sinh, học lén lút ở trong nhà và học các môn như toán, lý hóa, sinh ngữ chớ không có ông thầy nào mà dám giảng dạy môn sử "phản động" như vậy!

Ông Thiện có thói quen khi nói chuyện, thường đệm câu "phải không nào?" và bà Thuấn thì thường nói:"Ờ, đúng rồi, đúng quá, phải rồi, anh nói rất đúng!" Nghĩa là kẻ tung người hứng! Anh tung em hứng thì nó phải đúng chớ không lẽ sai! Vì vậy tôi cho rằng cuộc phỏng vấn đó là vô giá trị, không thuyết phục được công luận.

Do đó, tôi đề nghị rằng ông Thiện nên tổ chức một buổi diễn đàn hoặc đối luận công khai, hình thức như ông Trần Mạnh Quỳnh tổ chức vừa rồi với sự chứng kiến của các cơ quan ngôn luận như báo chí, truyền thông, truyền hình .... Ông hãy để cho những người có những nghi vấn được quyền công khai nêu câu hỏi và ông trực tiếp trả lời họ. Sau đó,chuyện đúng hay sai, ai "thắng hay thua" hãy để cho công luận phán xét.

Ông Thiện là người của công chúng (public figure) Theo luật pháp của nước Mỹ và các nước dân chủ khác cũng vậy, khi người dân có thắc mắc về một nhân vật "công chúng" thì họ có quyền được nêu những thắc mắc và nhân vật ấy có bổn phận phải trả lời, nếu họ đang nắm giữ một chức vụ trong chính quyền. Còn những thắc mắc, nghi vấn về những đời tư của các ngôi sao điện ảnh, ca sĩ thì rất nhiều. Do đó, những người đang bênh vực cho ông Thiện không nên nổi giận, chửi bới và chụp mũ những người nêu nghi vấn về ông là "cộng sản", là "ngu dốt", là "côn đồ, du đãng, ếch nhái" ..v..v..

Không có lửa làm sao có khói? Những điều mâu thuẫn về tiểu sử của ông Thiện cũng như cách hành sử của ông có hàng trăm điều làm cho công chúng ngờ vực. Ðó là lý do vì sao công luận có nghi vấn chớ không phải vì ganh ghét đâu. Những người tài giỏi về nhiều lãnh vực khác, nổi tiếng như ông Thiện không phải là không có, tại sao thiên hạ không théc méc mà ngọn đèn pha sân khấu chỉ rọi vào một mình ông Thiện? Có nhiều văn thi sĩ, nhà báo đã từng bị ở tù cộng sản trên 10 năm và hiện nay họ vẫn đang tiếp tục sáng tác và đang nổi tiếng ở hải ngoại mà không hề bị ai nêu nghi vấn hay thắc mắc. Vậy tại sao chỉ có một mình ông Thiện bị nghi vấn?

Do đó, muốn giải tỏa những nghi vấn thì đích thân ông Thiện nên trả lời công luận chớ không nên để cho một số người trả lời giùm cho ông. Thậm chí những người này còn nói rằng vì ông KHINH BỈ những người nêu nghi vấn cho nên ông không thèm trả lời! Cách trả lời như vậy chính là đổ thêm dầu vào lửa và làm hại cho ông Thiện chớ không ích lợi gì! Không lẽ chỉ có một mình ông Thiện và những người đang bênh vực cho ông là tài giỏi, còn thiên hạ là đui mù, là ngu hết cả?

MỘT GIẢI THÍCH KHÁC CỦA ÔNG THIỆN KHÔNG LÀM THỎA MÃN CÔNG LUẬN:

Cũng trong cuộc phỏng vấn do bà Thuấn thực hiện, bà đã nêu câu hỏi là tại sao có sự khác biệt giữa hai tập thơ "Hoa Ðịa Ngục" và tập "Hạt Máu Thơ" mới xuất bản sau này. Dư luận chê rằng tập Hạt Máu Thơ dở quá, từ đó họ nghi ngờ rằng tập "Hoa Ðịa Ngục" không phải do ông Thiện sáng tác!

Tôi nhớ ông Thiện đã trả lời ngắn gọn như vầy:

- Những người ấy chẳng hiểu biết gì về nghệ thuật!!!

Sau đây tôi xin trích một vài đoạn thơ trong tập Hạt Máu Thơ mới được ông Thiện cho xuất bản:

- Thịt nướng bếp Công an thơm đến khổ !
- Anh hít từng hơi dài nói: Nếu mùi phân độc hại
- Thì mùi thịt tất nhiên phải bổ !
- Các đầu gấu cười khen : Nói rất khoa học, lọt vào tai !
Nguyễn Chí Thiện- Hạt Máu Thơ- trang 149.

(Xin quý độc giả chú ý: bốn câu "thơ" này hoàn toàn không có vần điệu, ý tứ rời rạc như cơm nguội và rất vô duyên như .... Thị Nở! Thơ của thi sĩ vô danh luôn luôn có vần điệu và ý tứ rất sâu sắc chớ không phải hề và trơ trẽn như vầy!)
**
- Nó cho chó nó đẻ
- Bánh cuốn thu của dân (câu số 2 chẳng ăn nhập gì đến câu số 1!)
- Quay lại dọa tù nhân
- :Thằng nào ăn bỏ mẹ !
Nguyễn Chí Thiện- Hạt Máu Thơ- trang 154

- Ăn toàn sắn
- Hơn trường bắn
- Rau lại thiếu
- Quà lò thiêu !
(bốn câu thơ này rất thối, chả hiểu ý người viết muốn nói cái gì! Bốn câu thơ là bốn cái ốc đảo, không có liên hệ gì với nhau hết!)
Nguyễn Chí Thiện - Hạt Máu Thơ – trang 148

- Ở, Hỏa lò, giấy vệ sinh khó có
- Nhiều người không dùng, như trâu, như chó
- Phải có quà, có ngoại giao, mới có thể mong xoay
- Xoay nó còn gay hơn xoay vé máy bay!
Nguyễn Chí Thiện- Hạt Máu Thơ- trang 144.

Những người đã từng đọc tập thơ Vô Ðề phải công nhận rằng có nhiều bài thơ và câu thơ xuất thần, nhiều ý tưởng mới lạ và nhiều câu châm biếm chế độ rất cay độc. Quan trọng nhất là tác giả bày tỏ sự căm ghét đến tột cùng cái chế độ cộng sản, quyết tâm chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để xóa bỏ cái chế độ hung tàn, bạo ngược đó. Tác giả luôn luôn giữ vững niềm tin chính nghĩa sẽ chiến thắng, cho dù khi Mỹ đã bỏ chạy, thì thơ chiến đấu của tác giả VẪN DƯ THỪA SỨC ÐẠN BẮN!

Từ những nghệ thuật và tư tưởng cao như vậy, cũng ví như chúng ta đã quen ăn những món ăn ngon do một đầu bếp nổi tiếng nấu, bỗng nhiên ông Thiện dọn ra "món ăn" Hạt Máu Thơ như những trích dẫn ở trên thì có ai tin ông là tác giả của Vô Ðề hay không?

Nghệ thuật của ông Thiện là gì? Phải chăng đó là nghệ thuật "xoay giấy vệ sinh đi ỉa"? Hay nói gọn lại là "nghệ thuật đi ỉa"??? !!! Nó có những tư tưởng gì cao siêu ở trong đó? Vậy mà ông chê dư luận rằng "không hiểu biết gì về nghệ thuật"!!! Ông đã quá khinh thường dư luận thì những hậu quả sẽ đến với ông sau này. Kẻ nào gieo gió thì sẽ gặp bão!

TÔI VẪN TIN RẰNG ÔNG THIỆN KHÔNG PHẢI LÀ TÁC GIẢ CỦA TẬP THƠ "VÔ ÐỀ"

Vì những lý do sau:

1. Ông Thiện đã tuyên bố không làm thơ nữa mà chuyển sang viết văn, khi ông sang Mỹ hồi năm 1995.

Chúng ta thử tưởng tượng có một ca sĩ tân nhạc đang rất nổi tiếng, được nhiều khán giả hâm mộ và tiền thâu vào như nước. Ðang ở trên đỉnh cao nghệ thuật như vậy thì bỗng nhiên ca sĩ đó tuyên bố không hát nữa mà chuyển sang ca .... vọng cổ, vốn là bộ môn nghệ thuật không phải là sở trường của ông ta!!! Ðiều này có hợp lý không và có ai dám điên khùng hay liều mạng như vậy không? Tự mình giết chết tên tuổi và cuộc đời nghệ thuật của mình!

Riêng trường hợp ông Thiện tuyên bố không làm thơ nữa khi bước chân sang Mỹ, đã dấy lên một sự nghi ngờ trong công chúng rằng ÔNG KHÔNG BIẾT LÀM THƠ VÀ ÔNG ÐÃ NHẬN VƠ TẬP THƠ "VÔ ÐỀ" LÀ CỦA ÔNG! Nếu tiếp tục làm thơ thì sẽ bị lộ tẩy, lòi cái đuôi chuột ăn cắp ra!

Lý do ông Thiện giải thích vì "già" (56 tuổi vào năm 1995) nên làm thơ không được là rất vô lý! Căn cứ vào tướng đi và giọng nói, có khi ông nói được liên tục ba tiếng đồng hồ thì có người còn đùa rằng ông có thừa sức khỏe để cưới một lúc hai bà vợ! (sau 28 năm ở tù!)

Ngay trong thời điểm tháng 10 năm 2008, lúc ông đã được 69 tuổi mà khi được bà Thuấn phỏng vấn, ông vẫn trả lời bằng giọng nói rất sang sảng, chứng tỏ là sức khỏe của ông còn rất tốt. Như vậy thì cái lý do "tuổi già sức yếu" không làm thơ được nữa là hoàn toàn không đáng tin cậy!

Riêng về quyển tiểu thuyết "Hỏa Lò" của ông Thiện thì tác giả Triệu Lan đã nêu ra nghi vấn: ông Thiện đã bay sang Pháp, ở chung với Bùi Tín và Vũ Thư Hiên để nhờ hai tên ma đầu này viết giùm quyển tiểu thuyết. Nghi vấn này rất khả tín. Ðã làm thơ không được thì viết văn cũng chẳng được!

2. Sự khác biệt quá lớn giữa hai tác phẩm "Vô Ðề" và "Hạt Máu Thơ"
Có lẽ khi thấy sự nghi ngờ của công luận ngày càng lớn về sự kiện "thi sĩ không biết làm thơ" cho nên ông Thiện buộc lòng phải rặn đẻ ra một cái quái thai là "Hạt Máu Thơ" để chứng tỏ rằng mình biết làm thơ! Nhưng oái oăm thay, càng cố gỡ thì càng rối mà ngày nay cái quái thai "Hạt Máu Thơ", cái trường phái nghệ thuật thơ "đi ỉa" do ông Thiện sáng tạo ra đã trở thành con dao hai lưỡi cắt cổ ông. Nó chính là bằng chứng hùng hồn tố cáo ông Thiện không phải là tác giả của tập thơ Vô Ðề, khỏi cần phải giảo nghiệm chữ viết làm chi cho mất công!
Nếu có một nghệ sĩ sáng tác nào đó bị sa sút về nghệ thuật thì sự sa sút đó phải ở một mức độ có thể chấp nhận được. Ðằng này, một bên, tập Vô Ðề là tinh hoa của tư tưởng và của chữ nghĩa; còn một bên, tập Hạt Máu Thơ là một ÐỐNG RÁC, là CẶN BÃ CỦA CHỮ NGHĨA, thì ta không thể nào chấp nhận được hai tập thơ do cùng một người sáng tác!
Chỉ nội hai điểm này thôi là chúng ta có thể thấy rõ ông Thiện không phải là tác giả của tập thơ Vô Ðề, chưa nói đến hằng trăm điều vô lý khác!

3. Theo giả thuyết của tác giả Triệu Lan thì có HAI BẢN CHÉP TAY của tác phẩm Vô Ðề. Nghĩa là một bản chép tay do chính tác giả Vô Danh chép lại những sáng tác của mình trong tù và một bản khác do ông Thiện chép lại từ bản gốc. Sau đó, ông Vô Danh bị bắt và bản chép tay đó bị lọt vào tay của bọn công an việt cộng. Bọn tình báo việt cộng bèn nhớ đến các nhân vật tình báo như Phạm Xuân Ẩn và Vũ Ngọc Nhạ và phương pháp cài, cấy người mà bọn chúng đã làm thành công từ trước năm 1975. Vì thế nên bọn chúng tiếp tục âm mưu dựng nên một nhân vật tương tự để cài vào cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Bọn chúng bèn kêu ông Thiện chép lại toàn bộ tác phẩm Vô Ðề và bồi dưỡng cho ông ta trà, cà phê, thuốc lá, tiêu chuẩn cao gấp đôi tiêu chẩn của một cán bộ việt cộng trung cấp.

Giả thuyết:

Ông Vô Danh sau khi trao tập thơ cho tòa đại sứ Anh thì bị công an việt cộng bắt. Việt cộng bắt ông ta chép lại toàn bộ tập thơ Vô Ðề. Sau khi ông chép xong thì ông bị việt cộng THỦ TIÊU. Công an việt cộng có bản chép tay nguyên thủy của tác giả Vô Danh.

Bước tiếp theo, việt cộng kêu ông Thiện ngồi chép lại tập thơ Vô Ðề, học thuộc tập thơ Vô Ðề rồi đưa ông đi ở tù để chuẩn bị cho một cuộc cài cấy người, "mười năm trồng người", mãi đến năm 1995 tức 15 năm sau, ông Thiện mới được đưa đi định cư tại Mỹ!

Bản chép tay tập thơ Vô Ðề với nét chữ của ông Thiện được việt cộng chuyển cho các điệp viên của chúng ở Mỹ. Mới đây, bọn chúng phao tin tòa đại sứ Anh đã GỞI TRẢ BẢN GỐC cho nhân vật ABC nào đó mà không gởi trả thẳng cho ông Nguyễn Chí Thiện. (đây là điều rất vô lý và đáng ngờ)
Tiếp theo, cái "bản gốc" đó lại được chuyền tay lòng vòng qua hai ba nhân vật nữa, cuối cùng mới đến tay ông Thiện!

Như vậy, trong quá trình đi lòng vòng này, "bản gốc từ tòa đại sứ Anh" sẽ bị bọn điệp viên của việt cộng đánh tráo bằng bản chép tay của ông Thiện lúc ông ngồi chép lại tại sở công an hồi năm 1980!
Do đó, nếu thực hiện sự giảo nghiệm chữ viết thì ông Thiện sẽ .... "thắng"!

4. Mới đây báo Sài Gòn Nhỏ, báo điện tử Hồn Việt UK và trang nhà của ông Bùi Như Hùng, có đăng hai lá thơ với thủ bút của tác giả Vô Danh viết bằng tiếng Pháp gởi cho tòa đại sứ Anh hồi năm 1980 và một lá thơ viết tay của ông Thiện gởi cho ông Nguyễn Ngọc Bích hồi tháng 12 năm 1995.
Theo kết luận của các chuyên viên giảo nghiệm chữ viết thì tuồng chữ trong hai lá thơ là do hai người khác nhau viết! Không cần là chuyên viên kỹ thuật hình sự, với con mắt nhìn bình thường, chúng ta cũng có thể thấy được sự khác biệt rất rõ:

- Chữ "g" trong lá thơ tiếng Pháp của tác giả Vô Danh thì được viết khoanh tròn rất trọn vẹn, trong khi đó chữ "g" của ông Thiện thì viết bỏ lửng nửa chừng!

- Các chữ khác như "p,l,e,n" cũng tương tự, nghĩa là trong bản tiếng Pháp được viết rất rõ ràng, tròn nét, trọn vẹn; trong khi đó, trong lá thơ của ông Thiện thì những chữ cái này đều bị "hiếp dâm", viết láu và không trọn nét!

Do đó, nếu có sự giảo nghiệm chữ viết thì phải bảo đảm là chữ viết của ông Thiện phải được SO SÁNH VỚI BẢN GỐC của tập thơ "Vô Ðề". Nếu không, thì cộng đồng chúng ta sẽ bị hố to, bị một cái lầm to thế kỷ, bị việt cộng lừa bịp thêm một lần nữa rất là đau!!!

Sự việc, tòa đại sứ Anh trao trả "bản gốc" cho nhân vật ABC nào đó mà không trao cho ông Thiện là điều rất đáng nghi ngờ. Chính đây là đòn hỏa mù do việt cộng tung ra để thừa cơ nước đục thả câu đánh tráo tập thơ Vô Ðề bằng bản chép tay với nét chữ của ông Thiện.

Trong bài viết hồi tuần trước, tôi có nêu ra một sự thách đố là ông Thiện hãy chứng tỏ cái tài thi phú xuất chúng của ông bằng cách sáng tác ba bài thơ, tập trung vào ba biến cố lớn, đó là:

- Trung Cộng xâm chiếm đảo Hoàng Sa và Trường Sa
- Biến cố dân oan
- Biến cố giáo dân Công Giáo đang tranh đấu tại giáo xứ Thái Hà

Ông muốn thuyết phục công luận tin ông thì hãy sáng tác ba bài thơ thử xem? Tại sao một người với trái tim nồng cháy yêu nước, có tài làm thơ xuất thần mà lại lặng câm trước những biến cố lịch sử lớn của đất nước như vậy? Tác giả Vô Danh đã từng tâm sự: -lòng yêu nước của ông là chính, còn thơ phú chỉ là phương tiện để ông giúp những người dân đen nhìn thấu suốt tim đen bầy quỷ đỏ!

Tại sao khẩu súng của ông Thiện lại bị "hết đạn", bắn không được nữa? Hồi năm 1975, tác giả Vô Danh đã từng nói "thơ vẫn thừa sức đạn bắn" cơ mà!
Tác giả Vô Danh đã nêu quyết tâm:

..."sẽ có một ngày con người hôm nay
vất súng, vất cùm, vất cờ, vất đảng ...."

Còn ông Thiện từ khi sang Mỹ thì có quan hệ mật thiết với băng đảng Việt Tân và băng đảng Bùi Tín ở bên Pháp, chủ trương hòa hợp hòa giải với việt cộng!!!

Ðể kết thúc bài viết này, tôi xin mượn những câu thơ trong bài "Ðau đớn lắm" của tác giả Vô Danh, mô tả tình hình chính trị hiện tại của cộng đồng người Việt tại hải ngoại:

Ðau đớn lắm cái lầm to thế kỷ
Sử sách ngàn đời còn mãi khắc ghi
.................................
Ðời chúng ta có nhiều lầm lỡ
Lầm nơi, lầm lúc, lầm người
Nhưng cái lầm to uổng phí cả đời
LÀ ÐÃ NGỐC, NGHE VÀ TIN LỜI ÔNG NGUYỄN CHÍ THIỆN!!!

Trần Thanh
Ngày 5 tháng 10 năm 2008

==========================================
PHẦN PHỤ LỤC:

Tôi nhớ khi còn nhỏ đã đọc một truyện tiếu lâm như sau:

Thời xưa, có một anh học trò rất thông minh, có tài xuất khẩu thành thi. Danh tiếng đồn xa đến tai ông quan trong vùng. Một hôm quan cho vời anh học trò đến và truyền rằng:

- Quan nghe cháu có tài xuất khẩu thành thi vậy cháu có thể chứng tỏ tài năng cho quan thấy được không?

Anh học trò bèn lễ phép thưa:

- Trình quan lớn, xin quan lớn cho đề tài, con sẵn sàng làm thơ hầu quan lớn

Ông quan ngó ra sân, thấy con ngựa trắng, bèn nói:

- Cháu thử làm một bài thơ tả con bạch mã của quan xem nào?

Anh học trò vừa nhìn thấy con ngựa trắng thì ngay lập tức anh ứng khẩu làm liền mấy câu thơ:

Bạch mã mao như tuyết
Tứ túc cương như thiết
Tướng công kỵ bạch mã
Bạch mã tẩu như phi!

Nghe mấy câu thơ ứng khẩu của anh học trò, quan lớn rất hài lòng, bật cười ha hả. Sau đó, quan truyền quân lính đem hai cái thúng bỏ vô đó một số vải vóc, gạo thóc và thực phẩm để thưởng cho anh học trò. Tuy nhiên tên lính lệ bỏ quà không đều, một thúng đầy quà, một thúng chỉ có lưng phần. Thế là anh học trò bèn xổ nho:

- Nhất bên trọng nhất bên khinh!

Ông quan lại bật cười vì tài văn chương, chữ nghĩa của anh học trò. Ông truyền cho lính phải bỏ quà cho đầy hai thúng cho cân bằng. Thấy ông quan chiều theo ý mình, anh học trò lại tiếp tục ứng khẩu:

- Có như thế mới phải đạo!

Ông quan gật gù rất hài lòng vì anh học trò có thực tài, rất xứng đáng với danh tiếng lan truyền. Sau đó ông sai quân lính gánh hai thúng quà về tận nhà anh học trò, làm cho cha mẹ anh và hàng xóm vô cùng hân hoan vì có một thần đồng đang sống trong xóm mình!

Vài ngày sau đó, có một anh học trò khác ở làng kế bên, tên là anh KHỈ, thấy anh học trò này "trúng mánh", bèn lân la tới làm quen. Anh nói:

- Sư huynh làm cách nào mà được quan lớn thưởng, có thể chỉ vẽ cho đệ biết không?

Anh học trò thần đồng cũng tình thật kể lại toàn bộ câu chuyện. Anh Khỉ là loại học trò dốt đặc cán mai nhưng anh có biệt tài về trí nhớ và hay bắt chước. Thế là sau khi nghe lại câu chuyện, anh đã nhớ hết bài thơ ứng khẩu của người bạn. Ngày hôm sau anh hân hoan thơ thới lên đường đến dinh của quan, xin ra mắt quan để .... làm thơ! Ông quan cũng vui vẻ chấp nhận vì biết đâu lại có một thần đồng khác cũng chưa biết chừng? Anh Khỉ lễ phép thưa với quan:

- Xin quan lớn cho con một đề tài, con có thể xuất khẩu thành thi hầu quan lớn!
Ông quan lại ngó ra sân. Nhưng tổ trác anh Khỉ, lần này không có con bạch mã đứng đó mà chỉ có một bà cụ tóc bạc phơ đang quét sân! Ông quan bèn nói:

- Cháu hãy làm một bài thơ mô tả bà cụ đó cho ta!

Thế là ngay lập tức anh Khỉ "xuất khẩu thành thi", ăn cắp trọn vẹn ý và lời của người bạn, chỉ sửa đổi có hai chữ "bạch mã" thành "bà lão":

Bà lão mao như tuyết
Tứ túc cương như thiết
Tướng quân kỵ bà lão
Bà lão tẩu như phi!

Ông quan nghe cậu học trò này "xuất khẩu thành thi" như vậy thì đâm ra tá hỏa. Thế rồi sau đó ông đùng đùng nổi giận quát lên:

- À, thằng ranh con này mày dám hỗn láo với quan. Quân lính đâu, đét đít thằng này 20 roi cho ta!

Anh Khỉ bị lính lệ nọc ra đét cho 20 roi mây vào đít, tuy nhiên tên lính lệ đánh không đều, một bên mông 15 roi còn một bên chỉ có 5 roi. Anh Khỉ bèn tiếp tục "xổ nho":

- Nhất bên trọng nhất bên khinh!

Ông quan thấy thằng học trò này tiếp tục xấc láo nên truyền quân lính đánh thêm 10 roi nữa cho đủ sự công bằng! Lần này anh Khỉ bị đau quắn đít, mếu máo nói:

- Có như thế mới phải đạo!

Câu chuyện này tôi đã đọc từ hồi còn học tiểu học. Bây giờ xảy ra biến cố "Vô Ðề" thì tôi liên tưởng đến nhân vật Nguyễn Chí Thiện và anh học trò tên Khỉ ăn cắp thơ của bạn mình mà cuối cùng bị tai vạ!





Thơ Gởi Bà Khúc Minh Thơ của Đỗ văn Phúc


Thơ Gởi Bà Khúc Minh Thơ của Đỗ văn Phúc
Austin ngày 6 tháng 10, 2008

Kính gửi chị Khúc Minh Thơ

Thưa chị,

Thời gian vừa qua, nhiều chuyện không vui đã xảy ra liên quan đến chị và vai trò của chị trong chương trình Tái Định Cư Cựu Tù Nhân Chính Trị.

Những tài liệu được đưa ra đã làm sáng tỏ thêm về chương trình gọi là “HO”. (Thực tế HO chỉ là tên gọi phía Việt Cộng cho các danh sách tù ra đi, đánh dấu bằng H01, H02 cho đến H11, H22 vân vân. Phía Mỹ đó một phần của chương trình ODP (Orderly Departure Program) dành cho việc Tái Định Cư Cựu Tù Nhân Chính Trị (Resettlement of Former Political Prisoners.) Hoa Kỳ đã tuân thủ các Quy Ước liên quan đến tị nạn của Liên Hiệp Quốc (1951) và thủ tục (1967), sau đó Quốc Hội Mỹ ban hành Đạo Luật Tị Nạn (1980). (The United States is obliged to recognize valid claims for asylum under the 1951 Convention Relating to the Status of Refugees and its 1967 Protocol. … This commitment was codified and expanded with the passing of the Refugee Act of 1980 by the United States Congress). http://en.wikipedia.org/wiki/Asylum_in_the_United_States

Chúng tôi được biết sau khi Miền Nam mất vào tay giặc, ngay chính những nhân vật quốc tế trước đó từng ủng hộ Cộng Sản cũng đã lên tiếng về thảm cảnh tại Việt Nam, hậu quả là Phủ Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đã có những họp báo về vấn đề Đông Dương trong đó có đề cập trường hợp Tù nhân Chính trị Việt Nam. Trong những bản tin và thư từ qua lại giữa quý ông Roger Winters (Giám Đốc Cơ Quan Tị Nạn Hoa Kỳ) và Phụ tá Bộ Ngoại Giao Funsett cũng như Quốc Hội Hoa Kỳ có tiết lộ việc thương lượng giữa Mỹ và Việt Cộng đã xảy ra từ đầu thập niên 1980. Tôi còn lưu giữ khoảng 50 trang các tài liệu này.

Những tranh cãi quanh các tin tức mới tiết lộ này làm sút giảm phần nào uy tín của chị; nhưng tệ hơn, đã gây ra những bất đồng nghiêm trọng giữa anh em chúng tôi và trong công chúng - bên binh, bên chống – làm giảm tiềm năng chiến đấu chống Cộng, và chỉ làm lợi cho kẻ thù. Để tránh hiểu lầm, tôi chờ cho đến sau ngày Đại Hội Tù Nhân Chính Trị VN do chị tổ chức, để đặt vấn đề trực tiếp với chị. Mong chị có thì giờ suy nghĩ và cho biết tôn ý.

Tôi cũng công bố thư này lên báo chí và diễn đàn, để mọi việc sẽ được hiểu biết minh bạch và khắp cùng, tránh mọi hiểu lầm, xuyên tạc tai hại về sau.

Xin chị trả lời sớm để giải toả những thắc mắc:

1. - Chị có phải là người đã khởi xướng, hay vận động với chính phủ Hoa Kỳ để mở ra chương trình Định Cư Tù Chính Trị (thường được gọi là HO)? Nghĩa là, nếu không có sự vận động của chị, thì những người tù trong các trại cải tạo đã phải ở lại Việt Nam để chịu đựng những khổ nhục trong quảng đời còn lại của họ? Nghĩa là nếu không có chị, thì chúng tôi đã không bao giờ được đặt chân đến xứ sở tự do này?

2. - Nếu chị trả lời câu trên là không, thì hẳn là chị và Hội GĐTNCT đã đóng góp bằng cách thêm tiếng nói để chương trình Định cư Cựu Tù Nhân CT được nhanh chóng hơn? Hoặc thiết lập hồ sơ giúp được thêm nhiều người thiếu điều kiện này nọ?

3. - Khi trả lời ông Huy Phương trên đài SBTN, ông Nguyễn Ngọc Bích có nói rằng chị đã lập được hồ sơ hàng chục ngàn tù cải tạo để thuyết phục người Mỹ.

Trích: “…bà Khúc Minh Thơ và Gia Ðình Tù Nhân Chính Trị Việt Nam cũng có hồ sơ rất đầy đủ, mà chúng ta có thể kiểm chứng ở Trung Tâm Việt Nam tại Ðại Học Texas ở Lubbock, tại đó Hội Tù Nhân Chính Trị Việt Nam đã chuyển lại cho Trung Tâm Việt Nam tất cả là 12,000 hồ sơ của cựu tù nhân và tổng cộng là 200.000 trang giấy. Các hồ sơ trong cuộc vận động tại Quốc Hội đều có tên, có ngày, có tuổi, có ai nói gì trong đó và kết quả ra sao thì có ghi trên đó hết cả……

…..Vợ con những người tù đó phải làm tối đa đầy đủ mới thuyết phục được người Mỹ. Người Mỹ họ làm việc rất là cụ thể, Bộ Ngoại Giao không chấp nhận khơi khơi là chúng ta có bao nhiêu người tù mà phải có rõ ràng người tù nhân tên gì, bao nhiêu tuổi, cấp bậc gì, tại sao đi tù, ở đâu, qua trại nào.” Ngưng trích


Thưa chị,

Qua thăm hỏi, chúng tôi biết rằng đa số anh em chúng tôi, sau khi ra tù, đều gửi hồ sơ chính thức (hoặc lén lút) qua Toà Đại Sứ Hoa Kỳ tại Bangkok chứ không qua trung gian hội GĐTNCT của chị. Như thế, tôi không rõ những người như chúng tôi có nằm trong danh sách của chị hay không? Theo suy đoán của tôi, có lẽ hội GĐTNCT có những hồ sơ của quý chồng con của hội viên, cộng thêm số hồ sơ do những người từ Việt Nam gửi riêng đến chị vì họ không biết cách thức và nơi gửi hồ sơ cho chính phủ Hoa Kỳ. Có đúng không, thưa chị?

Thưa chị ,

Ông NNB trả lời như sau trong buổi phỏng vấn của ô Huy Phương: Sau khi Hội GĐTNCT và Nghị Hội can thiệp thì

Trích: “Họ (Thượng Nghị Sĩ Bob Dole và Edward Kennedy) giữ lời hứa, ngay ngày hôm sau 1/5/1987 họ bảo phụ tá của họ ngồi lại với nhau viết ra cái dự luật sau này gọi là dự luật H.O”. Ngưng trích

Theo ô NNB, ngày 1/5/1987 bắt đầu viết dự thảo luật HO. Trong khi đó, cá nhân tôi nhận Letter of Introduction (LOI) do Toà Đại sứ Hoa Kỳ tại Bangkok ký ngày 16/6/ 1987 và ra đi trong danh sách H-01 (1990).

Vậy xin hỏi chị, chỉ trong 46 ngày từ 1/5/1987 khởi sự viết dự thảo mà ngày 16/6/1987, LOI của tôi được ký, chị thấy có hợp lý không? Hay ông Bích đã lầm lẫn về ngày tháng?

Những sự kiện trên có thể cho thấy rằng chương trình Định Cư Tù Chính Trị đã nằm trong chính sách, dự tính của Hoa Kỳ và Hội GĐTNCT của chị góp thêm nỗ lực.

4. - Khi gặp tại Hội quán Hội Cao Niên Austin năm ngoái, bà Nancy Bùi (Triều Giang) đã nói với tôi nguyên văn: “Chị Thơ đã vì các anh mà tiêu tan tài sản. Chị phải cầm cố nhà cửa để lo cho các anh.”

Thưa chị, chúng tôi vô cùng xúc động khi nghe như thế. Ôi, tấm lòng của chị cao cả và vĩ đại mà trong đời, ngoài cha mẹ mình, chắc chắn khó có một ai dám hy sinh đến mức đó. Một phụ nữ đã ở tuổi về hưu, không còn lợi tức mà vì chúng tôi còn chịu thêm nhiều mất mát. Vì thế, tôi đã đọc được trên các tấm plaque, các lá thư do các hội đoàn, cá nhân trao tặng chị những lời ca ngợi, vinh danh như đối với người cứu thế. Chính bản thân tôi, cũng ít ra hai lần viết những câu ca ngợi, và đã hai lần tìm đến chị, dù phải đi hàng ngàn dặm, để trao tặng kỷ vật biết ơn. Gần đây, nghe tin chị mua căn nhà ở Vũng Tàu để chuẩn bị an dưỡng tuổi già, chúng tôi xin chúc mừng chị.

Có bạn hỏi tôi: “có ân hận khi đọc lại những lời xưng tụng bà Thơ không?” Thưa thiệt với chị, tôi không ân hận mảy may nào. Vì lúc đó tôi thu nhận thông tin từ mọi người và đinh ninh là xác thực 100%. Dù sao, tôi cũng đánh giá chị rất cao trong việc định cư anh em chúng tôi.

5. - Trong một lần gặp gỡ giữa chị và các anh em Cựu Quân Nhân lớn tuổi, chị đã nói: “Tôi đem các anh qua đây, mà các anh quậy quá, biểu tình tranh đấu tùm lum ….”. Tôi không rõ chị đã nói trong hoàn cảnh nào. Dù là nói đùa thì người bàng quan cũng xem lời nói đó cũng thể hiện thái độ kẻ cả, coi thấp những người cựu tù chính trị chúng tôi đang tranh đấu cho lý tưởng của mình. Xin chị lên tiếng về câu nói này.

6. - Thế nhưng, điểm then chốt trong lá tâm thư hôm nay là những thắc mắc của chúng tôi từ cả năm qua, từng được chị hứa giải quyết và trả lời. Nhưng không hề nhận được hồi âm từ chị.

Chúng tôi đã nhiều lần trình bày với chị sự quan ngại của chúng tôi khi thấy Hội Bảo Tồn Lịch Sử Văn Hoá Người Mỹ Gốc Việt (HBTLSVHNMGV) là hội mà chị đã thành lập và đang nắm giữ ba vai trò quan trọng (Sáng lập viên, Chủ tịch Ban Giám Đốc, thành viên Hội Đồng Tư Vấn), đang nằm trong tay những nhân vật có quan điểm và lập trường hoàn toàn ngược lại với anh em chúng tôi. Trong khi Chủ tịch thì quan hệ làm ăn buôn bán với Việt Nam hàng chục năm qua, Phó Chủ Tịch Trần Mộng Vinh thì đã bộc lộ quá rõ rệt thái độ chính trị và cách nhìn Chiến tranh Việt Nam theo quan điểm của Việt Cộng qua hai lá thư gửi chúng tôi. Chị đã đọc các thư đó và chính chị cũng thấy căm phẫn như đã viết cho tôi trong thư sau đây.

From: "Fvppa@aol.com"
To: md46usa@yahoo.com

Anh Phuc men,


Tôi rất muốn nói chuyện với anh, tôi cũng đã nói với Triều Giang rất nhiều và tôi rất buồn những sự việc xảy ra như vậy. Tôi biết anh luôn quý mến tôi nhưng không ngờ Vinh viết email cho chú như vậy. Như tôi nói chú trưa nay là tôi rất thông cảm những sự nhục mạ không những chú mà cả QLVNCH của chúng ta. Tôi có nói với Triều Giang và tôi cũng sẽ nói với Vinh là "Chồng tôi" đã bỏ mình vì chiến tranh VN nhưng giòng máu của những người tử sĩ của thế hệ trước đã hy sinh vì tổ quốc là vô ích sao, bỏ lại vợ dại con thơ mà sự hy sinh đó không xứng đáng, thua "friendly hand" của Vinh ... Tôi muốn nói chuyện với chú. Tôi cũng buồn lắm vì những thành viên của Hoi BTLSVHNMGV có những sự không tế nhị, chú cho chúng tôi thời gian để chúng tôi ngồi lại giải quyết chuyện nội bộ. Thật sự Vinh cũng còn trẻ, tôi biết tôi sẽ nói rõ với Vinh được.
Mến, Tho
Ngưng trích

Nhưng thời gian trôi qua đã hơn nửa năm, chúng tôi không nhận được trả lời của chị; mà trái lại, thấy chị càng gắn bó hơn với những người đó. Như thế, chúng tôi xin chị cho biết lập trường chính trị có phần nao xoay chuyển không? Dĩ nhiên, chúng tôi không kỳ vọng vào một phụ nữa luống tuổi như chị phải ở đầu tuyến chống Cộng. Nhưng vì vai trò của chị trong HBTLSVHNMGV và những hoạt động của chị trong tập thể anh em Cựu Tù Chính Trị đòi hỏi ở chị một sự khẳng định rõ ràng về thái độ và lập trường chính trị.

Về bà Nancy Bùi (Triều Giang), từng buôn bán với VC từ 1995, chị tin tuởng rằng bà Nancy Bùi sẽ phục vụ cho quyền lợi anh em cựu TNCT hay giới trẻ trong việc xiển dương chính nghĩa quốc gia chăng?

Về Luật Sư Trần Vinh, sau tố cáo của tôi, LS Vinh viết một bức thư trả lời bằng tiếng Việt mà tôi nghĩ rằng bất cứ ai cũng phải đặt dấu hỏi về lá thư đó. Nội dung có thật sự phản ảnh suy nghĩ của LS Vinh không? Chưa kể, LS Vinh không thể viết tiếng Viêt thông thạo vì nói còn chưa được. Bất kỳ ai cũng hiểu, đó là biện pháp chữa cháy cho LS Vinh!

Hội BTLSVHNMGV hiện có nhiều chương trình hướng dẫn Lịch sử và văn hoá cho sinh viên tại các Đại học. Liệu chị có thấy sự nguy hiểm này khi những người như Trần Mộng Vinh đứng ra giải thích về Lịch sử Việt Nam cận đại cho người nước ngòai hay giới trẻ người Mỹ gốc Việt? Mặt khác, LS Trần Mộng Vinh từng bày tỏ rằng “không muốn đề cập đến các vấn đề chính trị”, vậy LS Trần Mộng Vinh cũng có thể ngày nào giới thiệu văn thơ Tố Hữu, Hồ Chí Minh lắm chứ. Hiện nay, Hội này đang xâm nhập vào các Hội Sinh Viên VN tại các Đại Học toàn quốc, vì thế, mối nguy cơ càng phải được quan tâm hơn.

Chẳng lẽ LS Trần Mộng Vinh nhục mạ sự hy sinh của giới quân nhân nói chung và anh Phúc, and Bê (hai người chồng quá cố và đương kim của chị) nói riêng, mà vì lý do nào đó, chị cắn răng chịu đựng để tiếp tục hợp tác với Trần Mộng Vinh? Chẳng lẽ chị đồng thanh đồng khí với bà Nancy nên chị vẫn cùng bà ta chung một mâm, một chiếu?

Thưa chị,

Thư này nhằm để biết thật chính xác các diễn biến chứ không phải để đả phá, phủ nhận công lao của chị. Vì lúc viết thư này, thành thật mà nói, tôi vẫn giữ sự cảm mến đối với chị. Tình cảm cá nhân phải mất bao nhiêu lâu mới gây dựng, nên càng phải giữ, không để nó dễ dàng tan đi. Tôi không bao giờ phán xét việc chị đi về Việt Nam, mua nhà để dưỡng già. Về lý, tôi không có quyền và về tình, tôi càng không nỡ. Nhưng tôi sẽ rất buồn và thất vọng khi thấy chị vẫn để cho những con buôn chính trị đứng sau lưng mình, lợi dụng mình cho mưu đồ riêng tư của họ.

Kính chúc chị mọi điều an vui.

Đỗ Văn Phúc, Austin