Thursday, October 2, 2008

Gởi ông Phan Nhật Nam và ban đại diện đài SBTN


Lê Trần

Ngày 26 tháng 9,2006

Chúng tôi có theo dõi chương trình do Nhà Văn Phan Nhật Nam của quí đài SBTN, và có được biết nhà thơ Nguyễn Chí Thiện là “khách mời” thường trực của quý đài.

Hiện nay nhiều tin tức trên internet, trên báo chí sôi động về vấn đề Nguyễn Chí Thiện và nghi vấn về việc “đạo văn” của tập thơ Vô Đề (tức Hoa Địa Ngục I). Qua các cuộc trao đổi trên internet có nhiều về vấn đề liên quan đến “nhà bình luận văn học” (không biết nhà văn Phan Nhật Nam hiểu biết về văn học Việt Nam như thế nào mà nay ông lại là người bình luận văn học cho quý đài ?!) Phan Nhật Nam là đại diện cho SBTN và ông Nguyễn Chí Thiện.

Đối với người dân chúng như chúng tôi, phản ảnh quan điểm và bình luận của đài SBTN là quan trọng tương đương với tiếng nói của ông O’really của đài Fox, hay Larry King, Jack Cafferty của CNN. Dù ông O’really phát biểu trên chương trình của đài Fox, trên radio, hay các buổi hội luận, hay viết bài đều phản ảnh quan điểm và là đại diện cho đài Fox. Do đó chúng tôi xem tiếng nói của Nhà văn Phan Nhật Nam có giá trị tương đương.

Vì chúng tôi đặt niềm tin nơi tiếng nói trung thực của quý đài, chúng tôi yêu cầu đài SBTN lắng nghe nguyện vọng chung của người Việt Tị Nạn cộng sản tại hải ngoại là: muốn tìm ra sự thật vụ “Đạo Văn” của “thi sĩ” Nguyễn Chí Thiện.

Trong thời gian gần đây, sự phát biểu của “bình luận gia” Phan Nhật Nam trên các diễn đàn cho biết là ông có sự liên hệ sâu xa, mật thiết với Nguyễn Chí Thiện, và ông có những dữ kiện, bằng chứng quan trọng để “giải đáp” ? về nghi vấn “đạo văn” của Nguyễn Chí Thiện. Và chúng tôi cũng được biết ông Nguyễn Chí Thiện là “diễn giả” thường xuyên của đài SBTN.

Do đó, với vai trò của nhà văn Phan Nhật Nam đại diện cho SBTN, bình luận gia của quí đài, Nguyễn Chí Thiện là “diễn giả” thường xuyên của đài.

Xin quí ông xác định cho tập thể đa số người dân Việt thầm lặng chúng tôi về lập trường của đài SBTN có cùng quan điểm với nhà văn Phan Nhật Nam không? Đồng ý ở điểm nào? Không đồng ý ở điểm nào?

Ngày 24 -9-2008 nhà văn Phan Nhật Nam với email phannhatnam9943@gmail.com đã đưa ra những lời bình luận liên quan đến Nghi vấn Nguyễn Chí Thiện thật /giả, nếu là “giả” thì như sau: (xin mạn phép bỏ dấu để người đọc dễ hiểu), xin trích nguyên văn

1- INS của Mỹ đã cho nhập cư một tên Cộng sản (Hiến pháp Mỹ vẫn còn hiệu lực với cư dân nhập cư là đảng viên Cộng Sản), khi tuyên thệ làm công dân mỹ cũng không được mang đảng tịch của đảng khốn nạn này (ông Thiện đã vào quốc tịch Mỹ từ 2007.)

2- CIA của Mỹ phải giải tán vì không tìm ra tông tích một tên Cộng sản (nguyễn Chí Thiện) nằm vùng.

3- Phòng nhì của Pháp phải giải tán vì không sưu tra ra danh tính cua Nguyễn Chí Thiện để ông ta vào gặp Tổng Thống Chirac.

4- Thủ Tướng và Quốc hội Hà Lan cũng bị tội danh “Gian Nhân Hiệp Đảng” vì đã trao giải thưởng cho Nguyễn Chí Thiện.

5- Tổng Thống Mỹ hiện nay cũng phải chịu liên lụy vì đã “đón” Nguyễn Chí Thiện hôm tháng 11/2007 nhân làm lễ khánh thành tượng đài “Nạn Nhân Cộng Sản” tại Newyork.

6- Cuối cùng : nếu Nguyễn Chí Thiện là giả thì đây là một hoạt động tuyệt đối bí mật chỉ có Ban Bảo Vệ Bộ Chính Trị /Trung Ương Đảng mới được biết …. Đứa nào biết được thì đứa đó quả là Việt Cộng chính gốc. Đúng không.

Nói với Bác cho vui vì nghe nói là Dân “co gang” tôi ở KBC 4919 tức Tiểu đoàn 7ND ổ Biên Hòa.

(ngưng trích)

Xin nhắc lại, nhà văn Phan Nhật Nam là nhà bình luận của SBTN và là người public, cho nên những lời bình luận phát biểu dù trên báo chí, trên internet, trên làn sóng đều được xem như là phản ảnh của đài SBTN đúng như nguyên tắc quy định chung của giới truyền thông của các nước tự do.

Chúng tôi không đồng ý với lời phát biểu hay quan điểm này của ông Phan Nhật Nam (mà đài SBTN phải chịu trách nhiệm liên đới), vì “nghi vấn” Nguyễn Chí Thiện chưa được bạch hóa, nghiên cứu, hội luận toàn diện. Nhà Văn Phan Nhật Nam không trực thuộc cơ quan điều tra, an ninh nào của Hoa kỳ để kết luận những điều đó, nên điều kết luận trên của ông Phan Nhật Nam không có giá trị gì cả. Nếu lời nói đó với cá nhân ông Phan Nhật Nam thì không ai cần thắc mắc vì họ không rảnh. Nhưng như đã nói ở trên, người dân tin rằng: ông Phan Nhật Nam là tiếng nói của đài SBTN, nên đài SBTN phải có nhiệm vụ và làm sáng tỏ vụ “đạo văn của Nguyễn Chí Thiện.

Trong quá khứ, Hoa Kỳ có những trường hợp là cơ quan an ninh Hoa Kỳ phải tốn vài ba thập niên sau mới điều tra được lý lịch của những tội phạm chiến tranh từ thời Nazi, hay các các gián điệp liên quốc gia đến Hoa Kỳ làm “khủng bố “, “tổ gián điệp” chúng ta thấy thỉnh thoảng được đưa ra báo chí như trường hợp Khoa học gia Tàu bùng nổ việc gián điêp ở Trung Tâm Nghiên Cứu Nguyên Tử Alamo, và Josef Mengele tội đồ Nazi ẩn trốn nhiều năm.

Chúng tôi nhận thấy lời tuyên bố của Nhà văn Phan Nhật Nam như một lời thách thức “giải tán” các cơ quan Hoa Kỳ như sở Ngoại Kiều INS, Cơ Quan CIA, và các cơ quan an ninh của các quốc gia khác, cũng như các lãnh đạo của các quốc gia đó. Đây là một lời nói khinh thường trí thức của cộng đồng người Việt, và của cơ quan an ninh Hoa Kỳ.

Chúng tôi tin rằng ban Giám đốc của Đài SBTN không có những quan điểm như vậy, và chúng tôi yêu cầu đài SBTN minh định lập trường, nói rõ quan điểm điểm chính thức của đài để chúng tôi không lầm lẫn với lập trường “cá nhân” của nhà văn Phan Nhật Nam là thành viên của đài SBTN.

Ngoài ra, ông Nguyễn Chí Thiện là một diễn giả thường trực của đài, và nghi án tập thơ Vô Đề (Hoa Địa Ngục I) không phải của Nguyễn Chí Thiện, mà là của một tác giả Vô Danh với nhiều chứng minh càng ngày càng cho chúng ta biết điều đó một cách chính xác, nhiều người trí thức trong cộng đồng người Việt Tị nạn hải ngoại mong muốn quý đài SBTN tham gia hưởng ứng với báo chí truyền thông khác để làm sáng tỏ vấn đề này. Nếu Quí đài SBTN vẫn tiếp tục mời ông Nguyễn Chí Thiện xuất hiện trong chương trình thảo luận của quý đài, nhưng lại hoàn toàn làm ngơ trước những điều quan trọng liên quan đến ông Nguyễn Chí Thiện, thì chúng tôi e rằng khán thính giả hiểu lầm là quý đài SBTN đứng về phía bệnh vực ông Nguyễn Chí Thiện và làm ngơ trước nguyện vọng chung của cộng đồng người Việt hải ngoại.

Chúng tôi mong mỏi sự trung thực của quý đài SBTN đại diện cho quan điểm chung của đa số người Việt Tị Nạn cộng sản và làm sáng tỏ một nghi án lớn của Văn Học Việt Nam sau năm 1975.

Trân trọng.

Lê Trần

Kèm sau đây là những dữ kiện liên quan đến lá thư này.

    http://groups.yahoo.com/group/DienDanCongLuan/message/189253
    From:
    Nam Phan Nhat

    Subject: Re: PNN - Chứng nhân sống ve^` NCT tha^.t
    To: lang.vuon@yahoo. com
    Date:
    Wednesday, September 24, 2008, 3:52 PM

    Ngoài ra còn có ai đã nghe , đã đọc một chữ nào của người goi là "NGUYEN CHI THIỆN "GIẢ" KIA PHƯƠNG HẠI ÐẾN CUOC TRANH ÐẤU CHUNG KHÔNG. VA NẾU LA "GIA" THÌ CÓ NHỮNG VẤN ÐÈ SAU:
    #1/ INS CUA MỸ DA CHO NHẬP CƯ MOT TÊN CỘNG SAN ( HIẾN PHA"P Mỹ VAN CON HIỆU LUC DOI VOI CƯ DÂN NHẬP CU LA DẢNG VIEN CỘNG SẢN- KHI TUYEN THE LAM CONG DÂN MỸ CUNG KHONG DUOC MANG DẢNG TICH CUA DẢNG KHỐN NẠN NẦỴ ONG THIEN DA VAO QUOC TICH MY TU 2007.

    #2/CIA CUA MỸ PHẢI GIAI TÁN VI KHONG TÌM RA TONG TICH MOT TÊN CONG SẢN
    NAM VUNG

    #3. PHÒNG NHÌ CUA PHAP PHẢI GIAI TAN VI KHONG SUU TRA RA DANH TINH CUA NCT DE ONG TA VAO GAP TONG THONG CHIRAC.

    #4/THU TUONG VA QUOC HOI HÒA LAN CUNG BI TOI DANH "GIAN NHÂN HIỆP DẢNG" VI TRAO GIAI THUONG CHO NCT

    #5/TONG THONG MY HIEN THOI CUNG PHẢI CHIU LIEN LUY VI DÃ DÓN NCT HOM THANG 11/2007 NHAN LÀM LỄ KHÁNH THÀNH TUONG DÀI "NAN NHÂN CỘNG SẢN" TAI NEWYORK

    #6/ CUOI CUNG: NEU NCT LA " GIẢ" THI DAY LA MOT HOAT DÔNG TUYET DOI BI MẬT CHỈ CO BAN BẢO VE BO CHINH TRI /TƯD MOI DUOC BIET - DUA NAO BIET THI DUA DO QUA LA ..VIET CỘNG CHINH GỐC. DUNG KHÔNG.
    NOI VOI BAC CHO VUI VI NGHE NOI LA DÂN "CO GANG" TOI O KBC 4919 TUC TIEU DOÀN 7ND O BIEN HOA




Du học sinh: Con sóng ngầm của VC tại hải ngoại


Đặng thiên Sơn

Vấn đề du học sinh Việt Nam tại hải ngoại hiện nay là một vấn đề nhạy cảm. Đề cập đến chuyện này thiếu khách quan thì sẽ dẫn đến những điều không vui, vì sự liên hệ của các du học sinh đối với người Việt đang sống tại hải ngoại không nhỏ. Tuy nhiên, vì lợi ích chung của đất nước mà người Việt trong và ngoài nước đang theo đuổi là lật đổ bạo quyền Việt cộng, người Việt quốc gia tại hải ngoại không thể thiếu cảnh giác, để cho Việt Cộng và tay sai nhởn nhơ thi hành nghị quyết 36 của chúng.

Đây là nghị quyết mà Việt cộng muốn "nắm đầu, xỏ mũi" người Việt tại hải ngoại, với mục đích làm giảm tiềm năng yểm trợ các lực lượng đấu tranh dân chủ trong nước đang nổi lên.

Qua những sự kiện như cản trở nghị quyết cờ vàng, từ chối cầm cờ vàng khi được ông David Mac trao tặng, rồi đến trở mặt bất ngờ để từ chối cái tên "Little Sàigòn" của bà Madison trong đêm 20/11/07 đã cho thấy những dấu hiệu bất thường trong sinh hoạt chính trị của người Việt hải ngoại.

Người ta còn nhớ trong đêm 20/11/07 tại phiên họp của HĐTP San Jose, một du học sinh trong phần phát biểu đã nói một câu khó nghe của một "con két" được huấn luyện thuần thục rằng: "Quí vị đã bầu cho cô Madison thì phải để cho cô ấy chỉ huy quí vị". Để rồi tiếp theo đó vào đầu năm 2008, một số du học sinh Việt Nam đã đứng ra tổ chức buổi triển lãm lấy tên "Taste Vietnam" tại đại học Standford, Bắc Cali. để quảng bá cho CSVN. Sau đó không lâu một sự kiện khác là cờ Việt cộng được treo lên tại thư viện trường Trung học San Jose hồi tháng 6/08. Nhưng những hoạt động của du học sinh VN chưa hết, vì vào ngày 03 tháng 10/08 tới đây một "Taste Vietnam" tương tự sẽ được tổ chức tại Queensland, Úc Châu.

Những việc làm liên tục của du học sinh như vậy, đã cho thấy đây không phải đơn thuần là việc "đi học" để mở mang kiến thức, để có một trình độ kỹ thuật cao, mà rỏ ràng còn là những hành động chính trị được thi hành theo chỉ thị được giao phó và học đường là một môi trường PHI CHÍNH TRỊ được chọn để tuyên truyền cho CSVN.

Đã là người Việt tỵ nạn, không ai muốn cộng đồng chia tam, xẻ tứ, sống với những người chung quanh mà không tin tưởng nhau và nghi ngờ lẫn nhau. Sống như vậy có gì là vui? Chẳng những không vui mà những ý niệm này còn làm giảm sức mạnh cộng đồng, còn khiến chính quyền địa phương hay các sắc dân khác ngỡ ngàng "không hiểu nổi" mặc dù thành tích đóng góp của cộng đồng VN nổi bật hơn những cộng đồng khác. Đây là điều mâu thuẩn đáng buồn, nhưng không có gì phải ngạc nhiên, vì người ngoài cuộc làm sao hiểu thấu được nỗi niềm của những người tỵ nạn cộng sản. Do đó, họ có hiểu hay không cũng không quan trọng bằng chính người quốc gia chúng ta phải tìm đủ mọi cách để ngăn chận và đập tan âm mưu của Việt Cộng nhằm phân hóa cộng đồng người Việt tỵ nạn CS.

Khi chưa có du học sinh rần rộ được "xuất cảng" ra nước ngoài, hai thành phần được Việt cộng xử dụng đánh phá cộng đồng Việt Nam hải ngoại là:

1. Cán bộ VC, đã được cài nằm vùng từ trước năm 1975: Đây là các du học sinh ngày nay đã ở vào lứa tuổi 55 trở lên. Bọn nằm vùng này, ngày nay đã đạt được những bằng cấp, có nghề nghiệp vững chắc trong mọi lãnh vực từ công chức, tư chức, thương mại nơi địa phương chúng cư trú.

2. Cán bộ VC được cài ra hải ngoại sau năm 1975 theo các ngõ vượt biên, đoàn tụ, ngoại giao, H.O.



Bây giờ là giai đoạn hai thành phần nằm vùng nói trên đang từ từ lui vào bóng tối giữ vai trò cố vấn, chỉ đạo cho một đoàn quân hùng hậu mới:
Đoàn quân "DU HỌC SINH". Với số lượng hàng chục ngàn du học sinh Việt Nam tại hải ngoại hiện nay, chúng ta có thể khẳng định đây là lực lượng nhân sự nồng cốt của Việt Cộng đang ảnh hưởng lớn lao đến tiền đồ chống cộng của Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại.

Để có luận cứ vững với tiền đề được đưa ra, cộng đồng người Việt quốc gia phải có một nhận xét khách quan để tìm hiểu du học sinh từ đâu mà có, do đâu mà ra. Họ là thành phần nào trong xã hội Việt Nam cộng sản hiện nay. Họ là con cái nhà ai? Hoàn cảnh? Gia thế ra làm sao, mà được nhà nước Việt Cộng tin tưởng cho ra nước ngoài du học.

Không nói ra, nhưng ai cũng biết du học sinh của nước Việt Nam Cộng Sản là những thanh niên, thiếu nữ sanh sau năm 1975 tức là lứa tuổi từ 16, 17 đến 25, 30. Thế hệ thanh niên, thiếu nữ này từ khi mở mắt chào đời, thì chung quanh họ là lá cờ máu, cờ đỏ sao vàng, kèm ảnh "bác Hồ vĩ đại" trên tường, những hình ảnh này đã ăn sâu vào tiềm thức của họ ngay từ thuở lọt lòng.

Từ lớp mẫu giáo họ đã được quàng khăn đỏ, được nhồi sọ "bác hồ" là "vị cha già dân tộc" "bác Hồ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta" "Đảng cộng sản VN muôn năm" "Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa VN bách chiến bách thắng muôn năm" vân vân và vân vân.

Nói một cách dễ hiểu du học sinh VN là những người đã được Cộng Sản Việt Nam đào tạo theo căn bản "định hướng xã hội chủ nghĩa" có đủ tiêu chuẩn "hồng và chuyên" từ lúc là thiếu nhi quàng khăn đỏ, cháu ngoan "bác Hồ", cho đến lúc tốt nghiệp trung học phổ thông, tốt nghiệp đại học.

Và điều quan trọng khác mà mọi người cần phải biết rõ, du học sinh VN tại hải ngoại là thành phần được Cộng Sản Việt Nam ưu đãi (dù do TIỀN TÀI hay THẾ LỰC). Cho nên quyền lợi của họ luôn luôn gắn chặt với quyền lợi của "bác và đảng". Do đó, có thể nói họ rất trung thànhh với chế độ. Vì nhận được đặc ân của "bác và đảng" thành phần du học sinh này sẵn sàng biến thành những nhân viên tình báo, những kẻ phá hoại, gây rối, gây xáo trộn cộng đồng hải ngoại khi được lệnh và khi được giựt dây.

Đa số du học sinh là thành phần đối tượng đảng. Đây là thành phần trong chính sách trồng người của VC. Du học sinh là thành phần đã được đào luyện trong lò "Thép đã tôi thế đấy" của Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam . Là một lực lượng có tổ chức, hoạt động có bài bản đặt dưới sự điều động, chỉ huy và sai khiến của các tòa lãnh sự hay đại sứ VC tại hải ngoại vì danh sách, nơi ăn chốn ở, việc làm của du học sinh trong tay các cơ quan này.

Chính vì thế không có lý do gì các du học sinh lại đi nghe theo lời của các đoàn thể, tổ chức quốc gia tại hải ngoại để chống lại Việt cộng. Trong suốt 30 trường các du học sinh đã được nhồi sọ về đảng CSVN thần thánh. Ngược lại họ không có một chút ấn tượng nào về VNCH, về một thể chế tự do miền Nam, ngoài hình ảnh một số người còn sót lại của chế độ "Mỹ - Ngụy" đã bị sụp đổ. Nên chuyện họ THỰC TÂM tham dự vào các cuộc biểu tình, xuống đường để đi chống lại "bác và đảng", những là thần tượng của họ, là ân nhân của họ là chuyện không tưởng, không thể xảy ra, không bao giờ có. Những hình ảnh du học sinh VN tại Pháp, Anh quốc và Đức cầm cờ đỏ sao vàng lên án Trung cộng chiếm Hoàng Sa, Trường Sa đã nói lên quan điểm biểu tượng quốc gia của họ.

Với lực lượng đang có hàng chục ngàn du học sinh tại hải ngoại, Cộng Sản Việt Nam đang thực hiện việc hàng ngũ hóa và sẽ biến thành phần này thành một lực lượng chính trị trên mặt trận ngoại giao.

Thành phần Việt gian cộng sản này, sẽ dần dần kiếm cách để cờ đỏ sao vàng xuất hiện nhiều nơi. Để rồi dựa vào đó các cơ quan truyền thông thân cộng xuyên tạc chính nghĩa quốc gia của cộng đồng Người Việt tại hải ngoại. Bọn VC nằm vùng sẽ lợi dụng tình trạng nhiều đảng phái, tổ chức muốn thỏa hiệp, hòa giải với CSVN, để thực hiện mưu đồ nhuộm đỏ cộng đồng VNHN. Việt cộng nhuộm đỏ CĐVNHN qua chính sách khuyến khích, giúp đỡ, tạo điều kiện dễ dàng cho du học sinh sau khi học hết chương trình tìm cách ở lại vĩnh viễn tại Hoa kỳ. Số du học sinh sau khi mãn chương trình học vấn họ tìm cách định cư luôn nơi hải ngoại bằng hình thức lập gia đình với một công dân Hoa Kỳ hay ở lại vì lý nghề nghiệp.

Để hổ trợ cho âm mưu nhuộm đỏ cộng đồng VNHN, truyền thông là công cụ hàng đầu của Việt cộng. Tại hải ngoại, những cái loa tuyên truyền cho Việt cộng được khôn khéo ngụy trang dưới lớp áo quốc gia, được núp dưới cái dù cờ vàng ba sọc đỏ.

Với phương tiện tài chánh dồi dào, Cộng Sản Việt Nam vừa trực tiếp điều hành các cơ sở truyền thông vừa hợp tác với các cơ quan truyền thông người Việt đã có sẵn. Lợi dụng "đệ tứ quyền" trên đất Mỹ, bọn Việt gian sẽ viết những bài báo, những bài tường thuật sinh hoạt cộng đồng "hai mặt", chuyên chở ý nghĩa chung chung để gây hoang mang dư luận. Trong lớp vỏ "hồn Việt Cộng, áo Quốc gia" này, VC dựng ra những luận điệu bất thường, để tạo nên sự tranh cãi, gây rối loạn cộng đồng.

Những cơ quan tuyên truyền thông được VC yểm trợ, là những cơ quan thường có những hình thức "chống cộng vô thưởng, vô phạt". Đây là thủ đoạn chống cộng có "lisence" của Việt cộng và tay sai nằm vùng. Ngoài truyền hình, truyền thanh, báo chí, CSVN tăng cường và cho nở rộ sự đánh phá, đầu độc cộng đồng Việt hải ngoại qua hệ thống mạng lưới truyền thông toàn cầu. Và số du học sinh VN cộng sản nhúng tay vào công tác này của VC không phải là con số ít.

Du học sinh Việt Nam đang sống tại nước ngoài, nơi cư trú của họ được ước tính như sau:

- 10% sống nội trú tại các trường: Đây là thành phần con ông cháu cha, cán bộ cao cấp gộc của CSVN có tiền bạc ăn cướp của dân.

- 90% sống trong các gia đình có thân nhân định cư tại hải ngoại từ lâu theo các diện: Việt cộng có trước năm 1975, diện vượt biên, diện đoàn tụ, diện H.O. Đây là thành phần con, cháu cán bộ trung cấp, hay có thân nhân liên hệ chặc chẽ với VC.

Với nơi cư trú như trên đã cho thấy du học sinh VN sống trà trộn trong cộng đồng. Đã cho thấy cộng đồng người Việt chống cộng tại hải ngoại đang bị đặt vào tình trạng "nuôi khỉ dòm nhà".

Để tránh tình trạng lịch sử đau lòng tái diễn như trước năm 1975. Tức là hình ảnh ban đêm đồng bào quốc gia và con cháu là VC ra đào đường đấp mô, để rồi sáng hôm sau cũng chính họ và con cháu là thành phần quốc gia đi phá mô, dẹp đường. Đây là hình ảnh mâu thuẫn, nực cười.

Vì vậy, để tránh việc đau lòng xảy ra, thiết nghĩ mọi người vì lợi ích chung của đất nước hãy theo dõi để phát hiện kịp thời những tên Việt cộng, những du học sinh VC đang trong tư thế sẵn sàng tạo ra những tình huống bất lợi cho cộng đồng, cho an ninh địa phương. Đây là nhiệm vụ của mọi người trong cộng đồng.

Chúng ta không phân biệt họ, nhưng không tha thứ cho những tên tay sai Việt gian cộng sản hoặc vì lý do nào đó đã, đang làm lợi cho CSVN

Đặng thiên Sơn
1 tháng 10/2008


Rớt mồng tơi

Trần Văn Giang

Nói về “Nghèo,” tiếng Việt có nhiều chữ cực đoan để diễn tả: Nghèo rớt mồng tơi, nghèo tận mạng, bần chí tử, nghèo sặc gạch, nghèo sát d’…, nghèo khạc ra tro, nghèo ho ra máu … Riêng thành ngữ tượng hình “nghèo rớt mồng tơi” được dùng khá rộng rãi. Tự điển Thành ngữ và Tục ngữ Việt Nam (của nhà xuất bản Văn Hóa) giải nghĩa “nghèo rớt mồng tơi” là “nghèo đến cùng cực.” Thành ngữ này được dùng nhiều nhất ở miền Bắc Việt Nam vì ở nông thôn miền Bắc, các cửa ngõ, hàng rào thường hay trồng rất nhiều giây mồng tơi. Đây là một lọai rau dễ mọc, dùng cho nhà nghèo. Dân nghèo đi làm ruộng về, không có tiền mua thịt cá, chỉ cần bắt vài con cua, con cáy ở đồng; khi về nhà, ra ngõ vơ một nắm mồng tơi là có được một nồi canh cho bữa cơm thường ngày của nhà nông. Rau mồng tơi có nhiều nhớt (người Bắc còn gọi là “rớt”) vì vậy “rớt mồng tơi” được dùng để chỉ sự nghèo khổ của ngưới Việt (nhất là ở miền Bắc). Thi sĩ Nguyển Bính đã có lần thi vị hóa cái sự “mồng tơi xanh rờn” trong bài “Cô Hàng Xóm” để tả sự đơn giản, môc mạc của tình cảm dân nông thôn Bắc việt.

Đến đây kể cũng bàn lọan tạm đủ về chuyện mồng tơi. Để khỏi lạc đề, mục đích của bài này là bàn về “sự nghèo” chứ không phải thực phẩm rau canh mồng tơi!

Cuộc sống có rất nhiều chuyện để quan tâm. Nhưng trên phương diện thực tiễn, đa số mọi người đều thấp thỏm về hai vấn đề giầu và nghèo. Thật lòng, ai cũng muốn giầu chứ có ai muốn nghèo? Giầu thường đi đôi với sang trọng (giầu sang!) sung túc. Giầu được kính nể, được mọi người chú ý săn đón … trong khi nghèo thì đi với khổ (nghèo khổ!) thiếu thốn, bị mất đi hay thiếu những vật chất cần thiết tối thiểu để cho cuộc sống có ý nghĩa như cơm áo, nước uống, chỗ ở ... chưa kể các cơ hội được đi học, tình trạng tâm trí căng thẳng rụt rè lo âu. Nghèo đến rớt mồng tơi đâm ra hèn mọn, bị khi dể, chí đoản, bị đời bỏ rơi khinh miệt … Giầu ở hang hốc cũng có người tìm đến; nghèo đứng giữa chợ đông người cũng chẳng có ai để ý ngó ngàng …

Như đã thấy, nghèo không chỉ có đơn gỉan một định nghĩa mà là sự tập hợp của cả trăm cách khác nhau. Thí dụ:

Nghèo vì không có thực phẩm để ăn
Nghèo vì không có nước để uống
Nghèo vì không có nhà ở
Nghèo vì không có phương tiện y tế
Nghèo vì không có tiền
Nghèo vì bị bỏ rơi, quên lãng,
Nghèo vì thiếu học, thiêu giáo dục
Nghèo vì đông con
Nghèo vì không có công việc làm hay không có đất để cày cấy trồng trọt

Thôi! Tạm thời “Nghèo” được định nghĩa là: “sự thiếu thốn các vật chất cần thiết của đời sống.” Còn “người Nghèo” là: “người không có hay không đủ khả năng để tự tìm ra các phương tiện vật chất cho đời sống. Nếu họ vẫn sống hoặc vẫn tồn tại thì họ cần phải trông cậy vào sự giúp đỡ hay nhờ vào tài nguyên, lòng từ thiện của người khác.”

Nghèo đã thiếu ăn thiếu mặc là một chuyện mà lại bất lực, không có tiếng nói (có muốn nói cũng chẳng ai nghe), bị lệ thuộc, bị đối xử nhục nhã.

Biết sự nghèo là khổ như vậy, nhưng không phải cứ muốn giầu là được! Không có ai muốn nghèo. Cái nghèo không được mời, nhưng nó cứ đến với mọi người một cách “vô tư…” ngoài ý muốn, chạy nhanh cách mấy cũng không thoát!

Các tờ báo kinh tế tài chánh, thí dụ như Forbes …, thỉnh thỏang vẫn hay liệt kê danh sách những người giầu nhất kèm với trị giá tài sản mà họ đang có. Không thấy ai, báo chí nào lập ra danh sách tương tự như vậy cho người nghèo; bởi vì, cũng dễ hiểu, lập danh sách người nghèo cho đến khi nào mới xong? Người nghèo có cái gì cụ thể để mà đo và đếm?

Phân tách vấn đề giầu nghèo của đời người cũng không phải là chuyện dễ dàng. Nhiều lúc giầu và nghèo luân chuyển với nhau như bánh xe luân hồi: Giầu có thì hoang phí. Hoang phí hết tiền của sinh ra nghèo. Nghèo sống cần kiệm chăm chỉ. Cần kiệm chăm chỉ trở thành giầu có …

Trong khuôn khổ bài nhận định này, một cách chủ quan, tôi sẽ tìm cách phân tách nguyên do và hoàn cảnh của sự nghèo khó của người mình và để cố gắng nêu ra (cũng lại chủ quan) một vài giải pháp khả dĩ. Nếu có gì sơ xuất thì xin quí vị quan tâm bổ túc thêm.

Nguyên nhân nghèo

Tại sao nghèo? Có nên trách người dân nghèo vì chính họ làm cho họ nghèo? Hay là trách cái chính phủ ngu dốt đã theo đuồi các chính sách hại dân hại nước; chính sách đắp mô trên sự nghiệp thăng tiến của dân tộc? hay vì lý do nào khác nữa?

(Oái ăm là nếu các cơ sở nhân đạo trên tòan thế giới lấy tất cả số tiền mà họ tài trợ cho các công cuộc nghiên cứu về nguyên do “nghèo đói” đem giúp đỡ thẳng cho người nghèo; thì nửa số người nghèo đã bớt nghèo rồi !!!)

Về nguyên do, sự nghèo có thể được tạm phân lọai thành 2 nhóm như sau:

- Nghèo vì tự chính bản thân mình: Người lười biếng, thích chơi và ngủ hơn làm việc; nghèo vì ham cờ bạc, nghiện ngập, thích tiêu xài hoang phí …

- Nghèo vì hoàn cảnh bên ngòai: Chính quyền ngu muội, dã man, tham nhũng sách nhiễu, lạm dụng bóc lột, làm sưu cao thuế nặng, kinh tế lạm phát, thất nghiệp, thời tiết, thiên tai, bệnh tật ...

Ngân hàng thế giới lại phân người nghèo ra thành 2 thể lọai căn cứ vào đồng đô la:

- Nghèo rớt mồng tơi (extreme poverty) là loại người sống với dưới 1 đô la mỗi ngày (US$ per person)

- Nghèo vừa vừa (moderate poverty) là loại người sống với dưới 2 đô la mỗi ngày.

Nhìn vào nước Việt Nam qua lợi tức bình quân trên đầu người (“income per capita”), sau 63 năm đảng Cộng sản nắm chính quyền (1945) 33 năm sau khi “thống nhất đất nước” (1975), là $725.00 thì Việt Nam vẫn là nước rất nghèo. Điểm đáng chú ý là 51% dân Việt vẫn còn nghèo trong tình trạng rớt mồng tơi (tức là dưới US$ 1.00 một ngày).

Qua lịch sử, câu nói sau đây của Lenin đã hoàn tòan lỗi thời và sai bét:

“Nguyên do chính gây ra nạn nghèo trên thế giới là là chính sách thực dân của tây phương.”

Các quốc gia nghèo nhất trên thế giới chưa hề có bước chân của thực dân như: A Phú Hãn, Ethiopia, Tây Tạng và Liberia. Đồng thời có một số quốc gia giầu bậc nhất trên thế giới cũng chưa hề có sự kiểm soát nào của thực dân như: Thụy sỉ, Na Uy, Đan Mạch, Phần lan. Trong khi cũng có các quốc gia giầu có lại là thuộc địa cũ như Hồng kông, Hoa Kỳ, Gia nã đại, Tân tây Lan …

Trở ngại chính của sự phát triển quốc gia là chính trị, kinh tế chứ không phải văn hóa hay tôn giáo (mặc dầu văn hóa hay tôn giáo cũng có ít hay nhiều đóng một vai trò phụ trong sự giầu nghèo của dân tộc!)

Hòan cảnh Việt Nam

Trong “Mười điều răn” của Thiên chúa giáo. Đã có đến 2 hai điều (20%) nhắn nhủ về vấn đề tôn trọng tài sản (tư hữu) của con người.

Điều 8 nói: “Không được trộm cắp.”
Điều 10 nói: “Không được tham của người.”

Hèn gì CS không thích Thiên Chúa gíao (và ngược lại!)

Có ý tham tài sản của người (điều 10) đã là một tội rồi; lấy trộm (điều 8) tức là “lấy” mà không có sự đồng ý của sở hữu chủ còn mang tội nặng hơn.

Chính CS (và XNCH) đã hợp thức hóa vấn đề “lấy” của cải của người dân. Họ không chỉ “lấy” mà ngang nhiên “cướp (!)” đi tất cả những gì người dân tạo dựng ra từ mồ hôi nước mắt; và rồi rao giảng là làm như vậy để tạo một “xã hội công bằng tốt đẹp hơn.” Sau 60 -70 năm (từ sau “cách mạng tháng 10” ở Nga và “cách mạng tháng 8” ở Việt Nam), sự công bằng vẫn chỉ là bánh vẽ. Chỉ thấy “hướng dẫn sản xuất” dẫn đến kinh tế trì trệ, “giới hạn lợi bổng và chế độ bao cấp” dẫn đến năng xuất kém và tiêu diệt sáng kiến. Chính phủ càng tăng gia sự kiểm sóat thì tự do của công dân càng bị thu hẹp … CS một mặt không xây dựng được gì đã đành; lại còn phá hủy cái động cơ căn bản thúc đẩy sự sản xuất: “tư hữu.” Người dân dưới chế độ CS càng ngày càng nghèo thêm; ngọai trừ một thiểu số cán bộ, nhân viên chính quyền giầu có nhờ tham nhũng, lường gạt dân chứ không phải vì họ lao động giỏi …

Ngay cả lý tưởng “công bằng xã hội” theo kiểu cộng sản (“cách mạng vô sản”) nghe cũng không ổn! Gỉa dụ việc lấy hết của nhà giầu để chia cho nhà nghèo được thi hành một cách “nghiêm chỉnh” thì chính sách “nghiêm chỉnh” này tự nó đã “thiếu tinh thần sản xuất” rồi. Theo John Tucci:

“Lấy của cải của người giầu - bất kể giầu vì lý do gì (giầu vì làm việc siêng năng, may mắn hay thụ hưởng gia tài của cha ông, lường gạt, tham nhũng …) đem chia cho người nghèo sẽ không giúp ích gì cho người nghèo cả. Bời vì giầu nghèo không phải là vấn đề có nhiều tiền của (hay ít tiền ít của) hơn người khác; chẳng khác gì người bị béo phì không phải vì Mc Donald bán hamberger và khoai chiên có nhiều dầu mỡ. Ăn hamburger và khoai chiên có nhiều dầu mỡ là sự lựa chọn của mỗi người.”

Đúng như vậy? Ngoài ra, sự bố thí chẳng giúp ích gì cho người nghèo nếu nhìn theo chính sách về lâu về dài. Nếu cho (free of charge!) người nghèo đói một con cá. Họ ăn hết con cá đó thì ngày mai họ lại đói lại như thường. Chính sách tốt là chính sách biết cách dậy (“giáo dục”) người nghèo làm sao biết cách “câu cá” thì mới mong họ tự túc kiếm ăn không bị đói.

Nhìn chung các nước nghèo (trong đó hiển nhiên có cả nước Việt Nam anh hùng) đều có vài điểm giống nhau. Ngoài chuyện thiếu ăn, thiếu mặc còn thấy ngay là nước đó có chế độc tài hoặc Cộng sản - hoặc có cả hai của quí “độc tài và CS” một lúc (Tôi đề nghị CS nên đổi lại khẩu hiệu mà họ thường trên in trên những hàng đầu các văn bản của nhà nước là: “Không có gì qquý bằng độc tài và Cộng sản”) - Không phải vì đất nước thiếu tài nguyên mà vì lãnh đạo độc tài CS phần lớn thất học, tham lam mông muội. Họ chỉ lo vơ vét cho nhiều cho nhanh để vinh thân phì gia (hoặc bỏ vào nhà băng ở ngọai quốc); họ không hề để ý gì đến vấn đề giáo dục, y tế và an sinh của dân; không xây dựng các cơ sở hạ tầng cần thiết tối thiểu như trường học, bệnh viện, đường xá … để giúp dân có cơ hội thóat ra cảnh nghèo đói triền miên của họ.

Chính quyền CS cứ ra rả hô hào “xóa đói, gỉam nghèo” mà chẳng thấy làm được cái gì cụ thể cả. Họ không biết là dân chúng Việt Nam đang muốn thi hành điều cần thiết số 1 (“number ONE”) là “diệt bỏ chủ nghĩa cộng sản.” Nếu trong một đêm, cứ mỗi một gia đình Việt Nam chia nhau xiết cổ 1 tên đảng viên CS là hôm sau nước Việt mới có thể có cơ hội “xóa đói giảm nghèo” được ngay! Việt Nam có thể cùng sánh bước tiến hóa với dân tộc của tòan cầu được.

Chế độ CS và HCM sau khi ám sát, cắt đầu, mổ bụng, phá cầu, đắp mô, pháo kích vào khu đông dân cư, nướng bao nhiêu sinh mạng thanh niên Việt qua hết kháng chiến này đến chiến tranh nọ … thành quả duy nhất mà họ đem đến cho nước Việt là làm cho đất nước tụt hậu từ 50 dến 90 năm. Vinh quang ở chỗ nào? Xin cho biết với! Đời sống người dân dưới chế độ CS cứ dần dần chìm sâu hơn trong tuyệt vọng, không thấy lối thoát. Con đường “hy vọng” ngắn nhất đi từ sự nghèo khó đến hy vọng sinh tồn có lẽ là phải làm những chuyện bất hợp pháp như trộm cắp, lường gạt, buôn bán ma túy và … mãi dâm để sống qua ngày qua tháng. Ngay cả những người lương thiện, ngay thẳng, trọng nhân phẩm cũng phải nghĩ đến việc phải phạm pháp, việc phải đáng xấu hổ chỉ vì họ có cha mẹ, có anh em, có con cái đang đang sống vất vưởng và trông cậy vào họ. Thật là thương tâm khi phải nghĩ đến sự lựa chọn, sự hy sinh to tát của họ.

Xứ sở nghèo (như Việt Nam) đều thiếu các cơ sở hạ tầng như đường xá, giao thông, nguồn nước sạch để uống, Ai cũng biết, sự giáo dục, học hành và sức khỏe sẽ mang lại một hy vọng cho người nghèo thoát ra khỏi hoàn cảnh bị đất của mình, những vùng nghèo lại thiếu trường học, thiếu cơ sở y tế tối thiểu. Không thấy chính quyền CS thi hành các nỗ lực (xây dựng) nào để giúp người nghèo. Nếu có tạo được một vài cơ sở hạ tầng như trường học, trạm y tế, thì người dân nghèo (“bần cố nông nòng cốt của cách mạng!” “chủ của đất nước!”) lại bị hạ nhuc, bị đối xử tàn nhẫn khi họ có nhu cầu cần tiếp xúc với các nhân viên, cán bộ nhà nước (“đấy tớ của nhân dân!”) ở chính ngay các cơ sở hạ tầng nầy (hối lộ, các chế tài khắt khe, ngăn cấm …)

Nhiều chủ gia đình nghèo Việt Nam thấy sự thất bại của mình trong việc xây dựng tương lai cho gia đình và con cái, thường quay ra nghiện rượu, đánh vợ đánh con, làm cho cơ cấu gia đình bị đổ vỡ, rồi xã hội đổ vỡ. Chuyện tội phạm, vô luật lệ là chuyện bình thường của xứ nghèo. Đã xoá đói giảm nghèo không được, mà lại không có đủ phương tiện để chống phạm tội … Cái vòng lẩn quẩn dường như khó mà xoay ngược lại được mà lại cứ thế lún xuống xâu hơn mỗi ngày.

Tiến trình của lịch sử thế giới cho thấy chủ nghĩa cộng sản chẳng sớm thì muộn rồi cũng sẽ bị tận diệt. Thật oan trái! Cái nguyên nhân chính sẽ tiêu diệt CS lại là cái mà CS vẫn hô hào cổ võ: “vô sản” (sau khi đã thi hành “Trí, phú, địa, hào / Đào tận gốc, trốc tận rề!"). Vô sản làm lụt đi cái động năng tự nhiên thúc đẩy con người làm việc chăm chỉ hơn (để thêm lợi nhuận tư sản). CS có khả năng làm đại đa số dân chúng nghèo bằng nhau những khó mà đem lại sự xung túc cho dân. CS biến văn minh dân tộc trở thành văn minh của các bộ lạc bán khai nơi đó tất các tài sản chung của bộ lạc (quốc gia) và tài sản của riêng của người dân mọi (dân chúng) đặt dưới sự “quản lý” của bộ lạc (nhà nước!)

Thể chế dân chủ hay độc tài chưa thể quyết định được sự thịnh vượng hay nghèo khổ của quốc gia. Phải nhìn vào hệ thống kinh tế của quốc gia đó mới thấy rõ được sự thành công hay thất bại. Ngày hôm nay nền kinh tế tư bản mặc dù không hoàn hảo (khủng hoảng kinh tế, sự cách biệt lớn lao giữa giầu và nghèo…) nhưng nó đưa ra nhiều kết quả tốt hơn là từ nền kinh tế xã hội chủ nghĩa (nhà nước / giới cai trị kiểm soát mọi động tác trên sân chơi kinh tế). Bởi vì “công bằng xã hội” và “động lực phát triển kinh tế” không nằm chung giường với nhau được.

CS có khả năng lật đổ, “cướp” chính quyền nhưng hoàn toàn không có khả năng đưa ra một phương cách cải tiến đời sống và tiện nghi của dân tộc. Đại đa số quần chúng đã nghèo từ trước vẫn nghèo như muôn thuở; Chẳng những thế, số người nghèo lại còn gia tăng thêm gấp bội hơn lúc trước. Sự thể này đã thấy rõ rệt ở các quốc gia trước đây theo chế độ CS như Liên xô, CS Đông âu … Hầu hết các các quốc gia có nền kinh tế tư bản đều là nước dân chủ – có nghĩa là chính quyền được dân bầu lên một cách dân chủ chứ không phải được chỉ định bởi 1 thiểu số hay 1 đảng phái. Dân nghèo, bị ép vế dưới chế độ tư bản sẽ áp lực các đại biểu của họ thi hành các biện pháp (hay thông qua các dự luật) để thay đổi hoàn cảnh của họ. Nhưng ngược lại, người nghèo, yếu thế dưới chế đó CS hoàn toàn bất lực, đó là chưa kể chính quyền CS lấy đâu ra tiền (capital) và mậu dịch (trade) – 2 món mà họ luôn luôn đã phá - để cải tiến mức sống của dân nghèo? Các nước tư bản tiến bộ vì dị biệt về quan điểm ý thức hệ với CS, không tha thiết gì về việc giúp đỡ các lân bang CS. Thành ra, cách tốt nhất, các chính quyền CS phải lấy / cướp của nhà giàu, trên nguyên tắc là, chia bớt cho người nghèo (?) (đánh tư sản mại bản cho đến tận gốc rễ, cái cách ruộng đất một cách phi lý, đẫm máu).

Ở cuối con đường, các tài sản bị cướp từ các giới tư sản và địa chủ không vào tay dân nghèo mà lại vào tay của các cán bộ, đảng viên của giai cấp lãnh đạo (còn gọi “giai cấp mới”). Xã hội mất hẳn ý chí sản xuất (vì sản xuất ra lại sợ bị tịch thu …) như vậy lấy đâu ra vốn và kỹ thuật để làm gia tăng sản xuất, gia tăng mức sống … Nghèo sẽ là chuyện đương nhiên – hãy nhìn lại thêm một lần nữa Liên xô, Đông âu, Cuba, Bắc Hàn, Kampuchia, Việt Nam …

Cơ hội giàu có sung túc của một dân tộc rõ ràng không chỉ căn cứ trên địa lý, văn hoá mà cả chính sách kinh tế và thể chế chính trị của dân tộc … 75 năm lịch sử cận đại đã chứng minh rõ rệt điều này.

Tự nhiên, trong hai cái xấu, tốt nhất là mình nên chọn cái nào xấu ít hơn. Bài học sai lầm (lựa chọn cái xấu!) của dân tộc đã dài 60 - 70 năm rồi. Mình đâu có sống lâu để đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Hãy khôn ngoan học cái sai lầm của các dân tộc khác.

“Việt Nam tiến lên!” là một khẩu hiệu quen thuộc của CSVN; nhưng Việt Nam tiến sao được khi còn đang bò từng bước lên “xã hội chủ nghĩa!” Việt Nam phải đứng lên và bước ra khỏi cái vòng lẩn quẩn nghèo - cộng sản – nghèo cái đã ….

Trần Văn Giang



Chùa là cái "Tiệm", cần phân biệt:: Tiệm Phật và Chùa Phật


Trương Minh Hòa -

Nhà văn Phạm Xuân Đài tỏ ra rất là tâm đắc khi nhìn thấy bề ngoài, chánh điện, sư, ni, dù là quốc doanh cũng luôn có tác phong, lời nói thật là hiền, nên cho rằng: "chùa là cái thiện". Nhưng khi "chùa là cái thiện" chỉ có ý nghĩa đối với những nơi có "thầy" là bậc tu hành đàng hoàng, thanh tâm trường an lạc, nhất tâm tu tập, làm lành lánh dữ, coi cõi đời là cõi tạm, không màng danh lợi, của cải vật chất, những vị nầy thường có tìm nơi:

"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ.
Người khôn tìm đến chốn lao xao"
( Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Tuy nhiên ngày nay, tăng ni không phải ai cũng "thiện và tu hành" cả, nhất là thời kỳ mà đảng Cộng Sản vô thần đang thi hành triệt để cái thứ: "giáo chỉ vô thần Marl Marx được ban hành từ thế kỷ 19", coi tất cả các tôn giáo "đều là thuộc phiện", nên đảng Cộng Sản hạ quyết tâm tiêu diệt tôn giáo bằng mọi cách, trong đó có Phật Giáo là mục tiêu được nhắm tới từ lúc có mặt đảng Cộng Sản và tên quỷ vương Hồ Chí Minh. Đời người thường thất cảnh vàng thau lẫn lộn, thật giã khó phân minh, nên riêng Phật Giáo bị và đang "tấn kích ác liệt" từ trước 1975 ở miền Nam Việt Nam qua khối Phật Giáo Ấn Quang do thượng tọa Thích Trí Quang lãnh đạo; điển hình với vụ biến động Phật Giáo miền Trung 1966, thời chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương Nguyễn Cao Kỳ cầm quyền, là một Phật tử thuần thành, tự xưng là "Buddha child" thì làm gì có đàn áp Phật Giáo?. Thế mà các "tăng ni" nầy lại vùng lên, phá rối sự an bình của dân chúng, làm lợi cho giặc Cộng.

Chùa là nơi tu tập, thờ Phật, phát huy đạo pháp, chớ không phải là nơi "xảy ra biết bao nghiệp báo" do một số TĂNG CHÚNG lúc TÚNG CHĂNG, có cái tâm "mượn đạo tạo tiền", tức là THAY MƯỢN thiền môn làm THƯƠNG MẠI, đưa đến cái quả cho các "tăng ni" trở thành "tu nhất kiếp giàu nhất thời', chỉ trong thời gian ngắn mà nhiều vị "thanh tâm trường kiếm bạc" trở thành "triệu phú Phật Giáo" mà không cần phải "lao động là vinh quang"; ra nước ngoài chỉ ngồi trước "tượng Phật" tụng kinh, gõ mỏ mà giàu xụ, trong khi đó những Phật tử thuần thành phải cày nhiềy job để:

"Một mình lo bảy, lo ba.
Lo nhà, lo cửa, Phật Đà cúng dâng.
Còn tiền, thầy tiếp ân cần.
Không tiền lạy Phật, thứ bần tránh xa".

Phật Giáo với các tăng ni luôn đặt vấn đề "hoằng pháp" để giữ gìn đạo, là truyền thống tốt đẹp ty ngàn năm, nên đạo vẫn vững. Tuy nhiên, trong cái "tình huống" đạo đời lộn xộn, nên ngày nay đã và đang có một số tăng ni biến thành "hoằng bạc" đi trước "hoằng pháp", làm cho uy tín Đức Phật bị giảm và đạo pháp, Đạo Phật càng "xuống cấp" với qua nhiều "sự cố" do một số kẻ mặc áo cà sa "nói năng y như Phật, nhưng không phải là Phật", tệ hơn là lũ công an, cán bộ Tôn Giáo vận của Cộng Sản, là thứ ma quái giả dạng tu hành, hóa trang thành Phật trong Tây Du Ký, khiến cho Tam Tạng, vì quá "trọng Phật, kính tăng" mà quỳ lạy, tưởng đâu phật, không nghe lời khuyên chí lý của đệ tử là Tôn Ngộ Không, xuýt là hỏng cả đại sự thỉnh kinh và Tam Tạng cũng nhiều lần vì nghe lời, tin theo ma quái, niệm chú làm vòng kim cố xiết lại, hại người chân chính. Ngày nay lũ ma quái vô thần "mượn đạo tạo đảng" nhởn nhơ tại nhiều tự viện ở Việt Nam và thò bàn tay lông lá ra tận hải ngoại thu tiền, làm công tác văn hóa vận, đánh phá, ru ngủ ..... Một điều thật đau lòng là: ở mọi thời đại, mọi nơi, bọn ma quái vẫn tác quái là nhờ tại hải ngoại còn có nhiều "Tam Tạng thời đại" nhắm mắt đi theo, đóng góp, cúng dường, CÔNG QUẢ dài dài và sau nầy nhiều người đã TÁ HỎA tam tinh khi biết những "vị sư khả kính" nói năng như Phật chính là "đỉnh cao trí tệ nòi người", là những cán bộ, công an ngụy trang "cũng cạo đầu, mặc áo cà sa" và một số vị tăng ni gốc tỵ nạn ló mặt là ma quái nằm vùng, đáng lưu ý là "sư về nguồn" đang là chủ nhân của những ngôi chùa đồ sộ, hiên ngang, công khai bảo lãnh "sư gốc Vẹm" từ Việt Nam sang, dần dần "sang tên" các ngôi chùa tích lũy từ mồ hôi nước mắt của Phật tử thuần thành đóng góp ..... khi có chùa trong tay, đủ tư cách pháp nhân như thương nghiệp, những tên công an giả tu sĩ Phật giáo có khả năng và phương tiện phát triển mạng lưới gián điệp nằm vùng, núp dưới bóng từ bi, rửa tiền bằng cách mua đất, cất chùa, rồi tiếp tục bảo lãnh "đồng bọn" từ Việt nam sang với danh nghĩa tu sĩ; cứ thế mà leo thang, khiến dân số "đảng viên" gia tăng, và sau cùng có đủ "dân số" để khuynh đảo các tổ chức cộng đồng qua hình thức bầu cử dân chủ. Thế là sau nầy, nguy cơ bị Cộng Sản "tiến vào cộng đồng, trận cuối là trận nầy" đang trở thành cái họa thực sự cho người tỵ nạn. Khi cờ đỏ thay cờ vàng treo ở các ngôi chùa, được sứ quán hổ trợ, thì người Việt tỵ nạn, Phật tử chân chính có còn nơi nào để dung thân? Đây là mối nguy, xuất phát từ chùa, như ở miền Nam trước 1975 với đám Phật Giáo Ấn Quang.

Ngày xưa, tại miền Nam, các vị tăng sĩ có chức vụ, được gọi là "TRƯỞNG", như thượng tọa Thích Tâm Châu, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo. Khi ra hải ngoại, vì đây là nước tự do từ cá nhân, doanh nghiệp, chính trị .... nên cái "tình huống" tác động vào chùa. Người dân ở các nước dân chủ đa số là thiếu nợ ngân hàng, từ nhà, credit card, xe .... nên giấc mơ làm chủ luôn có trong đầu. Ai thoát khỏi những món nợ "cơ bản" nêu trên, thì thanh tâm cũng trường an lạc, sống thoải mái đấy. Do đó, các tăng ni khi ra hải ngoại, sau thời gian mướn nhà để tu, nhờ Phật tử đóng góp "tiền từ cúng dường lâu năm, sư xây dựng gấp mười chùa xưa". Thế nên, các chức vụ có mang chữ CHỦ được áp dụng cho phù hạp với "trào lưu thời thượng", như ở Tây Úc, có thượng tọa Thích Phước Nhơn, xưng là "Viện Chủ Thiền Viện Phổ Quang", nay ông tu sĩ nầy đã "đạt quả triệu phú" là làm chủ 3 ngôi chùa, giao cho 3 ni cô "quản lý", nên kiếm thầy rất khó, vì không biết "giờ nầy sư ở đâu?".

Ngay cả chức sắc, lúc mới qua, thượng tọa Thích Tắc Phước, sau là huề thượng Thích Phước Huệ, cũng muốn có sỡ hữu, dù biết cõi đời là cõi tạm, nên gọi là "Giáo hội chủ". Cái thứ Viện chủ, giáo hội chủ, pháp chủ .... được nghe, đọc trên các hệ thống truyền thông, đây là giai đoạn "thầy làm chủ chùa" mà chùa do bá tánh đóng góp, phát triển từ lâu, nay thì thầy nào cũng là "tư bản Phật Giáo", có vị có vài ngôi chùa, có cả cư xá cho mướn, đúng là "tu nhất kiếp, giàu nhất thời". Thầy là chủ, viện chủ, pháp chủ, chủ chùa là cái chắc; từ đó Phật tử có quyền xưng là "Viện Tớ" cũng hỗng ai théc méc; nhưng chủ là các tăng ni thì YẾU, vì hổng có làm gì mà giàu có, đó là "chủ yếu", trong khi thì các thiện nam tín nữ, truất tiền trong ngân sách gia đình để đóng góp, làm việc cực khổ, đương nhiên là "tớ mạnh".

Sức bành trướng các tự viện "quá tải" nên tình trạng chùa trở nên "lạm phát" ở hải ngoại và tăng, ni càng gia tăng, khi làn sóng "đi sang thế giới Tây Phương cực lạc" để tu càng nhiều, nhất là những người nào nằm trong giáo hội do nhà nước đào tạo, chấp nhận thì được dễ dàng xuất cảnh "du tu" và ở luôn, gọi là "di-tu" (tức là di dân để tu). Công an, cán bộ Cộng Sản, mặc áo cà sa, xuất ngoại làm công tác tôn giáo vận, đọc những bài "tham luận Phật Giáo" ru ngủ, méo mó kinh Phật, nhưng có nhiều người u ám, coi là "lời vàng ngọc" bèn thu lại trong các dĩa DVD để phổ biến, cứ thế mà sư, ni từ trong nước sớm trở thành thần tượng. Tình trạng nầy là vấn nạn đe dọa đạo pháp, nên Phó Tăng Thống, huề thượng Thích Hộ Giác ra thông bạch ngày 26-9-2008 về việc các giáo hội ở Hoa Kỳ, Canada, Úc, Âu châu đã" tiếm danh" giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Hòa thượng Thích Quảng Độ, thay mặt hai viện Tăng Thống và Hóa Đạo từ trong nước, ký ngày 24 tháng 8 năm 2008 về việc tiếm danh của các giáo hội sau đây:

- Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Canada do Thích Bổn Đạt điều hành.
- Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan do: Giáo hội chủ huề thượng Thích Như Huệ, thượng tọa Thích Bảo Lạc, Thích Quảng Ba ...
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu do huề thượng Thích Minh Tâm làm chủ.

Bản văn nầy được huề thượng Thích Hộ Giác phổ biến ngày 26-9-2008. Để phản ứng, một thông cáo, với bản thu thập 124 chữ ký của các giáo hội "tiếm danh" ký ngày 24-8-2008, theo hòa thượng Hộ Giác, thì trong danh sách ấy, có một số ít là nằm trong giáo hội, nhưng đa số tăng, cư sĩ, là không nằm trong tổ chức. Như vậy, đây là một màn "kịch nói" vô duyên theo kiểu "chiến tranh nhân dân", được dàn dựng để binh vực cho những kẻ "tiếm danh"; nhưng chỉ có 124 người là "còn dỡ", tuy nhiên điều nầy cũng chứng minh được cái nhóm nầy là "thiểu số", vì họ không có khả năng để xin chữ ký ít nhất cũng vài ngàn, chục, trăm ngàn Phật Tử, thì mới có giá trị là tiếng nói chung.

Như vậy, thì từ hàng chục năm qua, các giáo hội Phật Giáo ở hải ngoại nêu trên đã lợi dụng Phật và tiếm danh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam để "thay mượn thiền môn làm thương mại", lừa đảo Phật tử để thu tiền, xây chùa, tích tụ ngân quỹ, tệ hơn là nhiều chùa bảo lãnh sư, ni từ Việt Nam sang. Đối với những tăng ni nào đi di dân dễ dàng, Phật tử có trí óc trung bình cũng biết họ là ai, ngoại trừ người của họ và những kẻ mù quáng, miễn bàn; nói chuyện với những người nầy, tốt hơn là nói với đầu gối. Một điều dễ nhận vào thời điểm tỵ nạn, là lúc mới sang, ni sư nào cũng nói "đạo pháp và dân tộc" thật tình lý, thu phục được quần chúng qua lập trường, nhưng khi xây xong chùa, sư có tiền là "lòng người thay trắng đổi đen". Điển hình là ở San Jose, lúc chùa Đức Viên mới khởi công, thì sư bà Đàm Lựu thường treo cờ vàng ba sọc đỏ lớn ở trước cổng; nhưng khi chùa xây xong là không thèm treo cờ, đã vậy còn rước tên sư Việt Cộng Thích Thanh Từ sang phá rối, nên dù sư bà Đàm Lựu (đạn) qua đời, nhưng việc làm nầy vẫn còn để lại cái "quả" lâu dài trong lòng Phật Tử. Chùa là cái thiện, nhưng một số thì "chùa là cái tiệm" khi lợi nhuận làm chóa mắt những ai muốn "giải thoát túi tiền trước khi tìm về bến giác". Tiệm Phật là thương nghiệp không vốn mà lời rất nhiều, lời dài dài, nên tiệm Phật trưng bày tượng Phật, bề ngoài càng "hiện đại" càng thu được nhiều khách thập phương chiếu cố; như các siêu thị, trưng bày hàng, quảng cáo, người tiếp thị ... càng lịch sự thì khách tới đông. Thương nghiệp lập ra là vì lợi nhuận, nên khách hàng nào có tiền là được chủ nhân tiếp đón niềm nở; đó là hiện tượng các "tăng ni chủ chùa" sau khi đã "làm chủ ngang hông" thì không tiếp đón niềm nữ các "chúng sanh nghèo" bỏ tiền ít vào thùng Phước Sương. Trái lại các khách cúng dường xộp, viên chức chính phủ cao cấp, thường được các tăng ni xăn xái tiếp, bợ. Ngoài ra, tăng ni một số nơi từ chối tụng kinh cho gia đình người quá cố nào không có nhiều tiền chi trả. Do đó, tụng kinh trở thành "dịch vụ của tiệm Phật ngày nay". Các tiệm Phật còn qui định giá cả để đọc kinh, cầu siêu, đúng như sinh hoạt của các thương buôn vậy.

Cửa hiệu Khánh Anh của sư "về nguồn" thích Minh Tâm ở Âu Châu, nghe đâu cửa hiệu Phật nầy tốn đến 40 triệu Euro, là cái tiệm Phật vĩ đại ở Âu Châu; do đó muốn có nhiều người "tham quan" thì thường mời các nhân vật tâm tiếng như Đức Đa La Đa Ma, có treo cờ vàng ... giống như một tiệm phở ở Saigon, ít ai biết, nhưng tình cờ, năm 2000, tổng thống Bill Clinton tới ăn, chủ làm ăn khắm khá nhờ nhiều người biết có tổng thống" thằng Mỹ" đến thưởng thức.

Tại Úc Châu, có hai giáo hội Phật Giáo:

- Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan, do huề thượng Thích Phước Huệ làm Pháp Chủ, không ăn nhập gì đến giáo hội phật giáo trong nước do huề thượng Quảng Độ, Huyền Quang lãnh đạo. Giáo hội chỉ hoạt động từ thiện, dạy dùng computer, mổ mắt cườm, cơm chay, xây tượng, vô quốc tịch ... và trước đây có lần, trong chùa toan tổ chức buổi tưởng niệm nhạc Trịnh Công Sơn, có đăng quảng bá trên các website của Việt Cộng, bị cộng đồng phản đối nên dẹp.

- Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất "Hải Ngoại" Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan, do huề thượng Thích Như Huệ làm Giáo Hội Chủ, qui tụ thượng tọa Bảo Lạc, Quảng Ba, Phước Nhơn .... từ lâu, bá tánh, Phật Tử, các đoàn thể quốc gia, cộng đồng cứ lầm tưởng đây là giáo hội Phật Giáo trực thuộc giáo hội trong nước do huề thượng Quảng Độ, Huyền Quang lãnh đạo, đang trong "pháp nạn" nên ủng hộ và kính trọng. Giờ đây, sau cái thông bạch của nhị vị huề thượng thẩm quyền nhất: trong nước là hòa thượng Quảng Độ, hải ngoại là huề thượng Thích Hộ Giác, thì mới bật ngữa là "tiếm danh"; như vậy từ lâu, các giáo hội nầy đã mạo danh giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất để thu tiền, làm ăn, chẳng khác nào người ta mượn cái hiệu như: Mc Donald, K.F.C .... để bán đồ ăn. Nay nhờ giáo chỉ số 9 mà nhiều Phật tử biết "cúng dường nhằm Tiệm Phật, chớ hổng phải Chùa Phật".

Vị Giáo Hội Chủ Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan là huề thượng THÍCH NHƯ HUỆ, Ngài là bậc "cao tu", từng tung hoành ở miền Trung, lúc làm hiệu trưởng trường Bô Đề ở Hội An; theo cuốn sách "DÙA-THẦY CHẶT" của Đặng Văn Nhâm thì vị nầy từng tham gia chiến dịch đem bàn thờ Phật "xuống đường" năm 1966, có những hoạt động "tích cực" trong trận tổng công kích tết Mậu Thân và nhất là Ngài đã từng chiêu dụ ít nhất là 4 tín nữ cùng "tu tiếp hiện", có hàng chục "cái quả". Ngài đúng là bậc "GIĂNG-TÂM" (tức là cái tâm giăng ra xa, xin đừng nói lái mà mất hết ý nghĩa). Sau năm 1975, Ngài Thích Như Huệ được các Phật Tử bảo lãnh từ Nhật sang, nhờ tiền cúng dường, đóng góp, công quả, nên ngài có được "cơ ngơi" khang trang là ngôi chùa Pháp Hoa, tọa lạc ở đường Addison, tiểu bang Nam Úc (Adelaide). Sau nầy, do tranh chấp giữa hai cánh Phật Giáo cùng mang tên "Thống Nhất" mà Ngài huề thượng Thích Như Huệ đứng ra làm "Giáo Hội Chủ" để đương đầu với cánh "Phước Huệ công đức tùm lum" và nay thì mới biết cánh nầy cũng "tiếm danh".

Chùa Pháp Hoa do ngài Thích Như Huệ trụ trì, lối hành đạo của Ngài oai phong như một "Phật Giáo Hoàng" cũng đội mão, hành lễ tại Chùa và Ngài làm giáo hội chủ, pháp chủ lâu nay, sau thời gian thu được nhiều "quả" là Đô La, nên nhớ là kinh Đại tạng khó hiểu, cần dịch thuật mà chưa chắc đạt ý nghĩa, nhưng không thể sánh bằng "kinh Đô La", loại kinh xuất phát từ Hoa Kỳ lan rộng, thu hút người cả "phàm", tu hành, cũng như "ma quái vô thần Cộng Sản". Lâu nay Chùa Pháp Hoa biến thành Tiệm Phật mà nhiều người hổng hay, hổng biết, hổng thấy .... nhưng hiện tượng chùa lãnh người ở Việt Nam sang tu càng đông, khiến số Phật tử chân chính bỏ đi chùa khác và số khác trở thành: "cư sĩ trừ bị tại gia" vì biết làm tiệm Phật, chứ hổng phải là "chùa Phật" giống như tâm trạng của những người lỡ mua nhằm hàng dỏm, giả, đề câu "Made in China" vậy. Rồi hòa thượng Thích Như Huệ trở thành "Thái Thượng Hoàng", nhưng đáng lưu ý là Ngài phong chức, nhường ngôi chùa (nay có thể hiểu là Tiệm Phật) cho một người ở Việt Nam qua. Trong phần diễn đàn, đăng trên tờ Nam Úc Tuần Báo, số 662, một Phật tử ở Adelade là Mỹ Phúc, pháp danh Chân Mỹ Phúc viết: Bây giờ "lòng người đổi trắng thay đen" (theo lời của Hạnh Trung), nên hòa thượng Như Huệ cũng đã đổi thay. Việc phong chức trụ trì cho một người từ Việt Nam mới sang mấy năm sau nầy, cũng không cần tham khảo ý kiến PT gì cả. Họ không phải là người tị nạn Cộng Sản như HT Như Huệ, nên chúng tôi không đồng ý. Dư luận nói rằng: người trụ trì đang tại chức là cháu ruột của HT Như Huệ. Nếu sự thật đúng vậy, thì càng phi lý và bất chính, vì ngôi chùa là tiền bạc của đàn na tín thí đóng góp tạo thành, không phải của riêng một ai, hoặc một nhóm nào, lại càng không phải của cá nhân HT Như Huệ, cho nên HT Như Huệ không thể áp dụng phương cách cha truyền con nối được (ngưng trích).

Theo nguồn tin chưa phối kiểm, nhưng là tin đồn, thì hình như vị trụ trì từ Việt Nam sang, được Ngài phong chức, kế thừa "chủ nhân" ngôi chùa Pháp Hoa chính là "cái quả" mà Ngài đã gieo từ lâu, nay trở thành sư, được bảo lãnh từ Việt Nam? Tác giả Mỹ Phúc cảnh báo: "Hiện nay Việt Cộng đang thực hiện nghị quyết 36, mở chiến dịch tung sư, ni quốc doanh ra hải ngoại, trú ngụ rải rác trong các chùa để thi hành kế sách tôn giáo vận".

Trước những dư luận xôn xao về cái chùa Pháp Hoa lòi ra là "Tiệm Phật Pháp Hoa", một người trong giáo hội "tiếm danh" là Nguyên Hảo-Trần Thị Cúc, tự nhận là: "TM. Ban Hộ Trì Chùa Pháp Hoa" nên bà lối trình bày của bà nầy "ĐÓ CHỈ" là thứ: " Đ.....C.." thôi, chớ có lạ gì hạng người nầy; trong lá thư với tiêu đề: "Đến bà Mỹ Phúc, bà Lưu Bích Hằng", cũng đăng trên Nam Úc Tuần Báo, số 663, có đoạn ghi: "Quý thầy, cô là Tăng bào mặc dầu mới đến Úc, nhưng không phạm giới của Đạo và luật pháp của chính phủ ..... quyết tâm tu hành ..". Như vậy là bà nầy cố tình "tăng binh tăng, sải binh sải" nhằm bảo vệ cái tiệm Phật Pháp Hoa, hay là một "Tam Tạng thời đại", hoặc là người "từ Việt Nam sang" mới được Ngài Như Huệ cho phép đại diện, phát ngôn viên của Tiệm Phật Pháp Hoa?. Bà nầy viết tiếp: "Đàng sau vụ bà Diệu Đức, có những bàn tay của các thế lực đen nhúng vào, với những âm mưu phá ngầm Phật Giáo .." luận điệu của bà nầy sao mà giống "đảng và nhà nước" mỗi khi bị vạch mặt là la hoảng: "âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù nghịch". Như vậy, chắc là bà nầy đã từng "học tập chính trị rất bài bản" quả xứng đáng là phát ngôn viên của Ngài Như Huệ, pháp chủ, giáo hội chủ kiêm chủ chùa do tiền Phật tử đóng góp ... ngoài ra, còn cho đây là chuyện nội bộ của chùa, không ai có quyền can thiệp vào; đây cũng là luận điệu của các cán bộ Vẹm, phát ngôn viên từ mụ Phan Thúi Thanh đến Lê Dỏm, la hoảng: đây là chuyện nội bộ, không ai có quyền can thiệp vào .... Phật giáo Úc Châu như "hũ tương thúi" được đậy nắp dấu kỹ lâu năm, nay được mở ra, mùi xú uế bay lên nồng nặc; hết cái thúi của ngài Hề Thượng Thích Phước Xệ về vụ "cúng dường, cúng chiếu" với tín nữ Diệu Đức, là người "điều nghiên thiền Tiếp Hiện" rất kỹ, thuộc Làng-Môn của "giăng-tâm" Thiền sư Thích Nhất Vẹm (có kẻ u mê ám chướng, hay là thứ có quan hệ với đảng cướp Việt Cộng, coi thằng nầy là Phật Sống, như Đa Lai Đa Ma). Nay đến vụ HỀ THƯỢNG Thích Như Xệ, đang là vấn đề gây xôn xao dư luận giới Phật Tử ở Adelaide (Nam Úc), những Phật tử thuần thành, từng đóng góp tiền, công quả để "từ cái cơ ngơi tu hành, chùa to lớn gắp mười lần qua" và hề thượng nầy trở thành "Phật Giáo Hoàng" với chữ CHỦ dính liền, như cái "nền kinh tế thị trường gắng liền với xã hội chủ nghĩa". Ngài Hề Thượng Thích Như Xệ, hay là Thích Như Ghệ, cũng như hề thượng Thích Phước Ghệ (xin đừng hiểu chữ Ghệ là GÁI nhé, làm mất ý nghĩa).

Giáo Hội Phước Xệ Công Đức Tùm Lum thì không nằm trong giáo hội của huề thượng Quảng Độ, Huyền Quang; còn giáo hội của Ngài hề thượng Thích Như Xệ cũng tiếm danh. Do đó ở Úc có hai hệ thống "Buddha Super Market" chớ hổng phải là hai giáo hội, nên Phật Tử, biết tin ai mà tìm đường giải thoát? Và các tổ chức cộng đồng tin vào "vị lãnh đạo tinh thần" nào? Nếu là Tiệm Phật, thì sự hiện diện cái các Ngài được giọi là "lãnh đạo tinh thần", có khác gì chủ nhà, chủ đề li, chủ farm, chủ shop .... Vào những tiệm Phật, cũng giống như Tam Tạng lọt vào "động ma vương" chẳng những "thanh tâm không trường an lạc" mà còn tạo ra nghiệp báo, khi mà tại các cửa hiệu nầy, có quá nhiều ma quái "công an, cán bộ" từ Việt Nam sang và được sang tên chùa. Từ từ, phật Tử sẽ được "đoàn ngũ hóa" thành các "thành đoàn Phật tử Hồ Chí Minh" là hàng năm phải về hành hương ở chùa Đại Nam Quốc Tự ở Bình Dương của vị "đại sư trụ trì" Dũng Lò Vôi, cùng dắt tay nhau tiến lên" thiên đàng Cộng Sản: "thay vì" Niết Bàn" là coi như mạt pháp đấy..

Tình hình Phật Giáo ngày nay tại hải ngoại cũng như trước 1975 ở miền Nam tự do: Việt Cộng xâm nhập vào chùa, rồi "trèo cao, lặn sâu" thành chức sắc "lãnh đạo tinh thần", có trong tay cái tài sản lớn, nhân sự và Phật Tử, thật là đáng quan ngại. Tại Úc Châu, hiện tượng tăng ni từ Việt Nam sang, phát triển, như sư Minh Hiếu, là người có khả năng mua nhiều chùa, thuộc cánh Phước Huệ (nghe đâu chỉ trong thời gian ngắn, mua một lúc từ đến 3 chùa ở 3 tiểu bang: Tây Úc, Adelaide, Queensland ..). Một số Phật tử phàn nàn và có người cho biết là sư Minh Hiếu có lối đối xử với Phật tử như "quan quyền đối với dân giả" hay là ngày nay ở trong nước như" công an, cán bộ đối xử với dân" vậy. Hình như sư nầy học quen thói ở Việt Nam mà sang đây áp dụng, khiến nhiều Phật tử khó chịu, sư có thói quen là không chào ai, đợi người ta chào mình và đôi khi làm lơ. Theo một số tin nghe được, thì sư Minh Hiếu là người rất mê môn thể dục dành cho người dư giả là" đánh TENNIS", nên thay vì ngồi công phu, sư đánh Tennis cho "thanh tâm trường an lạc", sư nầy có cái job là "thuyết pháp", nhưng trình độ thì chưa biết như thế nào, vậy mà có người nghe và thu băng.

Trước tình hình Phật Giáo ngày nay, vấn đề làm sao ngăn ngừa bọn công an, cán bộ, gián điệp nằm vùng xâm nhập qua cửa chùa. Trước nhất là cái tâm, khi phát giác ra "chùa là cái tiệm" thì chính những Phật tử phải tránh xa, tẩy chay; khi mà cái thương nghiệp không có khách đến "cúng dường" thì dần dần cũng phải dẹp và nếu chùa là "sơ sở rửa tiền" thì sau thời gian lập ra, không có ai tới, chúng cũng phải dẹp, do thiếu quần chúng để làm nơi nương tựa; như du kích mà không có dân thân Cộng nuôi cơm, tiếp tế là trước sau gì cũng đói. Một điều quan trọng khác là "báo cáo với sở thuế" để cho chính quyền sở tại nắm vững nguồn tài chánh từ đâu là các" tiệm Phật" nhiều như thế? Đây là cách để tạo an bình cho xã hội, vì ở các nước dân chủ, tất cả mọi cơ sở, kinh doanh, kể cả các cơ quan từ thiện (Non-Profit) đều phải khai thuế lợi tức hàng năm. Chùa là cái tiệm cũng phải đóng thuế như ai, hảy làm càng sớm càng tốt để ngăn ngừa Việt Cộng xâm nhập, đánh phá và nhuộm đỏ cộng đồng tỵ nạn hải ngoại. Một điều cần lưu ý là: việc báo cáo sở thuế là giúp cho chính phủ có thêm tiền lo công ích, giúp nhân viên thanh tra có việc làm và giúp cho chính gia đình mình được sống yên ổn. Người báo cáo được bảo mật danh tánh hoàn toàn, chỉ cần 50 xu cũng cứu nguy cho Phật Giáo đang bị Việt Cộng vô thần đánh phá, lủng đoạn.

Trương Minh Hòa


Kê Gọi “Xóa Bỏ Hận Thù Với Bọn Việt Gian Cộng Sản” Là Những Kẻ Nào Đây??

Long Quân

Nhờ lừa bịp, nhờ gian xảo, nhờ tận dụng tất cả các thủ đoạn MácXít lưu manh đê tiện nhất thế gian để cướp đoạt chính quyền, tập đoàn Việt Gian Cộng Sản Việt Nam đã thao túng nước nhà hơn 50 năm qua. Dưới bàn tay chúng, quê hương cẩm tú ngàn xưa của người Việt Nam đang bước vào thế kỷ 21 với các “thành tích Xả Hội Chủ Nghĩa” đáng kể như sau:

- Dã man mọi rợ nhất thế giới !
- Lạc hậu ngu si nhất thế giới !
- Nghèo nàn khốn khổ nhất thế giới !

Và, đáng nguyền rủa hơn hết là cái dã tâm của tập đòan thổ phỉ kia khi chúng cố tình “xâydựng” Việt Nam thành một nhà tù vĩ đại nhất thế giới !

Nay chúng ta thử bình tâm kiểm điểm lại xem. Từ Bắc chí Nam, từ dãy Trường Sơn tới bờ biển Nam Hải, có nơi nào, có làng nào, có gia đình nào, không một lần vang vọng tiếng khóc đau thương nức nở giữa đêm đen khuya vắng vì chồng, vì cha, vì con, vì cháu, bị lũ đầu trâu mặt ngựa tới bắt đem ra giữa đồng hạ thủ, rồi ghim lên ngực “cái án phản động, chống cách mạng vô sản”?

Đặc biệt từ ngày lũ đầu trâu mặt ngựa đó tràn vào Miền Nam như một bầy chó điên hổ đói dưới danh nghĩa “giải phóng”, hỏi có mái tranh nào tận nơi đồng quê hẻo lánh không thiệt mất đi ít nhất một thân nhân bị chúng bắt đi giam giữ vô hạn định trong các trại tập trung mệnh danh “Cải Tạo” để, hoặc bỏ mình trong chốn tù ngục tối tăm, hoặc trở thành phế nhân sau khi được phóng thích ? Có nhà nào hoàn toàn thiếu vắng một chiếc khăn tang vì đã không che dấu nổi mối căm thù chế độ độc tài tàn bạo và sự quyết tâm diệt trừ đại họa Việt gian bán nước ? Có xó xỉnh nào không dậy lên tiếng nguyền rủa nhiếc móc những thằng “mã tấu răng đen”, những tên cán bộ “Bắc kỳ nón cối” cực kỳ hung bạo, đội lốt chính quyền, công khai tràn vào nhà dân cướp đoạt tài sản ngay giữa thanh thiên bạch nhựt, trong cái chiến dịch gọi là “Đánh tư sản mại bản”?

Kinh hoàng thay cái cảnh ma vương quỷ sứ ồ ạt đục vách phá tường, thọc tay xuống hầm cầu, lật đổ bàn thờ ông bà tổ tiên bá tánh, kiếm tìm vơ vét từ vàng bạc châu báu cho chí tấm tã lót, cái chổi cùn cũng không tha, rồi mang đi chia chác với nhau, với tất cả nỗi say sưa cuồng loạn của một lũ cướp VC vô tổ vô tông, vô thần vô thánh, vô luật vô lệ !. Rủi cho những ai không có tiền của đem nộp cho lũ cướp Việt Gian Cộng Sản thì liền bị chúng thẳng tay đánh đập khủng bố cho tới chết, hoặc đày đi “kinh tế mới” để gọi là “trả nợ máu nhân dân”!

Cổ kim, có triều đại nào, có chế độ nào, đối đãi với người dân trong nước quá ư ác độc tàn tệ như thế chăng ? Người Việt khắp nơi, dù có mắc bệnh tâm thần loạn trí đi nữa, cũng không bao giờ quên được các hành động thú vật kia. Họ âm thầm “tính sổ” từng ngày, lòng tự hẹn lòng đời này không trả được mối thù huyết lệ này, thì trối trăn dặn dò con cháu đời sau phải nhớ lấy mà trả một cách đích đáng cho cha ông, cho chú bác, cho giòng họ, được thỏa dạ mát lòng nơi chín suối !

Thế mà từ khi Đế Quốc Liên Sô sụp đổ, báo hiệu cái giờ phút cáo chung vĩnh viễn của một chủ nghĩa vô luân tàn bạo mà bầy yêu bọn quỉ Hồ Chí minh đã tải nhập vào đất nước, gieo rắc mối họa tày trời cho tới nay, thì ở một vài nơi nào đó dưới bầu trời hải ngoại, người ta chợt thấy trồi lên một lũ “Ma cô Chính trị” khua môi múa mép, thống thiết kêu gọi đồng bào Việt Nam hãy quên đi chuyện cũ, hãy rộng lượng với kẻ thù, xóa bỏ giới tuyến Quốc Cộng, đề cùng nhau xây dưng lại đất nước trong tình “huynh đệ một nhà” (sic) ! Lũ “Ma cô Chính Trị” này dám coi hải ngoại như mù lòa câm điếc, dám lên mặt đạo đức, nhịp nhàng toa rập nhau diễn trò kẻ tung người hứng, liên tiếp ném ra những luận điệu sặc mùi tay sai cho Việt Gian Cộng sản.

“Hòa hợp Hòa giải, Xóa bỏ Hận thù, Đa nguyên đa Đảng, Giao lưu Văn Hóa ...” Đó là những khẩu hiệu rất mới mẽ, khá lạ tai, chưa từng nghe thấy trong thời gian bọn Việt Gian Cộng Sản còn đầy đủ bà con nội ngoại trong gia đình MácXít. Người ta chợt hiểu biết tại sao nó không mang tính hợm hĩnh đao búa như ngày nào. Và tại sao nó chỉ nêu ra những đề mục chỉ nhằm vào việc van xin sự khoan hồng tha thứ cho một “tội nhân” nào đó. Nó là ai vậy ?

Chẳng cấn tìm hiểu sâu xa, Cộng Đồng người Việt lưu vong hải ngoại cũng thừa biết “tội nhân” còn đang ẩn núp kia chính là tập đoàn Việt Gian Cộng Sản, chính là những tên Việt Gian MácXít cực kỳ hung bạo nay đã nhìn thấy cái họa sắp bị nhân dân trả thù, nên mới phải nhờ tới những hạng người mà Cộng Đồng hải ngọai đã đặt tên là “trí thức hàng binh”, cùng những tên “tay sai nằm vùng” có ăn có chịu với chúng xưa nay, đứng ra ướm thử một màn lừa bịp chạy tội xem sao. Bởi thế, trước sau chỉ có những tờ “báo lá cải” được Việt Gian Cộng Sản tài trợ mới có cái “liêm sỉ” đem phổ biến các luận điệu nghịch lý trơ trẽn, như mọi người đã biết.

Câu hỏi đặt ra ngay lúc này là lũ “ma cô chính trị” kia thuộc thành phần nào trong dân tộc ? Chúng từ đâu ra ? Suốt thời gian xảy ra cuộc chiến đẫm máu, chúng ẩn núp nơi nào, có công nghiệp nào chăng ?. Chúng có đóng góp giọt máu nào chăng cho cuộc đấu tranh gian khổ của toàn dân Việt ?. Bản thân chúng, gia đình chúng, họ hàng thân thuộc chúng, có bao giờ thực thụ nếm trải nổi khổ đau, niềm tủi nhục, dưới ách độc tài Mác Xít, để hôm nay dám ngông nghênh lên tiếng kêu gọi “xóa bỏ hận thù, hòa hợp hòa giải” với kẻ đắc tội ?

Hoặc giả chúng là những đứa vô tích sự đối với giống nòi, những gã hèn nhát trốn chạy ngay khi quân thù mới xuất đầu lộ diện trên quê hương 33 năm trước ? Hoặc giả chúng là hạng “tầm gửi” sống nhờ xương máu nhân dân Miền Nam trong những năm chinh chiến, hoàn toàn mù tịt về hiểm họa cộng sản, tự thủy chí chung chưa hề bị mất mát gì, nên chẳng biết thế nào là thù nhà nợ nước ? Hoặc cũng có thể chúng là loại dá áo túi cơm, thành phần trốn lính dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, nay có chút học thức, định tìm kiếm một chỗ ngồi trong guồng máy thống trị ? Hoặc giả chúng được miền Nam khi xưa ưu đãi, cho ra nuớc ngoài học tập, rồi ăn phải bùa của Việt Gian Cộng Sản, quay lưng phản bội quê hương ?.

Có thế mới nảy sinh ra tình trạng trống đánh xuôi kèn thổi ngược trong cộng đồng lưu vong ngày nay. Rõ ràng là kẻ chưa một lần “đau chân” ắt chẳng bao giờ biết “há miệng”. Kẻ trọn đời chưa hề chạm trán với quân thù, chưa nếm trải một ngày tù tội dưới bàn tay bọn chúng, thì làm sao cảm nhận được nỗi căm hờn, niềm tủi nhục, nó sâu đậm, nó nhức nhối tới đâu, khi bị cưỡng bức thọc tay khuấy cả vào một thùng phân người hôi tanh gớm tởm, trước tiếng cười nhạo báng của lũ cai ngục cộng sản Mác Xít ? Tất nhiên những kẻ ấy sẽ nhắm mắt nghe theo bất cứ đề nghị nào của tập đoàn Việt gian bán nước ! Kẻ không thiệt mất một mảy sợi lông nào vì Cộng Sản, không phải chứng kiến cái cảnh cha, anh trong nhà vô cớ bị lũ đầu trâu mặt ngựa lôi ra bắn giết, rồi quăng xác xuống hố sâu như ném một con chuột chết, thì làm sao hiểu được cái nghĩa vụ phải “thanh toán nợ nần máu xương” kia, cho linh hồn người chết được thanh thản siêu thoát ?. Tất nhiên kẻ ấy không ngần ngại tiếp tay cho bè lũ MácXít Cộng Sản Việt Nam tồn tại mãi mãi!

Đã hiểu như thế rồi, thì khó mà tha thứ lũ “Ma cô Chính trị” hầu hết đều lộ diện. Chúng đã thất bại thê thảm. Và vì chúng thất bại nên càng hỗn xược kích bác các hội đoàn, đoàn thể cách mạng, các tổ chức đấu tranh, là “quá khích”, là “mù quáng” ! Chúng còn đe dọa rằng cuộc đấu tranh giải trừ chế độ công sản của quốc dân Việt Nam khó lòng thành tựu, vì tập đoàn Việt Gian Cộng Sản đang có quyền lực trong tay !

Quyền lực ư ? Còn quyền lực nào vững chãi ghê gớm cho bằng quyền lực Đế quốc Liên Sô. Vậy mà cái gì đã xảy ra 15 năm trước đây tại cái tổ đình MácXít này ? Tất nhiên CViệt Gian Cộng Sản đã nhìn thấy. Tình hình Liên Sô, tự nó đã là một bài học cho tập đoàn tiếm ngụy Việt Gian Cộng Sản, ta khỏi cần tranh luận. Quá khích, mù quáng ư ? Hài hước thay, chính vì quá khích thi hành chủ nghĩa xả hội, vì mù quáng làm đầy tớ Nga, Tàu, tập đoàn Việt Gian Cộng Sản mới lôi kéo nước nhà xuống vực thảm ngay nay, lôi kéo luôn bọn chúng vào cái nghiệp phải van lạy Hoa Kỳ, van lạy Tư Bản, ăn mày Tư Bản để sống sót một cách hèn hạ điếm nhục !

Nếu “quá khích” được quan niệm theo cái nghĩa “Đấu tranh triệt để, kiên tr씓mù quáng” được hiểu theo cái nghĩa “Dứt khóat đi thẳng một đường cứu dân cứu nước”, thì Cộng đồng Người Việt hải ngoại sẵn sàng “quá khích và mù quáng” cho tới khi quét sạch dấu vết bọn Việt Gian Cộng Sản trên quê hương !

Mấy tên “chính khách” hoạt đầu, mấy gã “trí thức hàng binh” bắng nhắng bên trời hải ngoại kia hãy biết rằng: Người Việt chống bọn Việt Gian Cộng Sản đang tiến bước trên đường hành quân khử bạo, mà bị lũ ma manh cản trở, thì cũng chả khác nào sợ dẫm phải một đống phân gớm tởm bên đường đó vậy ! Làm cho người chiến sĩ mất công đi rửa giày dép là một cái tội. Huống chi là còn đi nối giáo cho giặc, thì càng khó tha ! Việt Gian Cộng Sản với bọn tay sai cho chúng đều là ... Bọn Việt Gian !

Long Quân


Lá thư của cán bô. “Ngục sĩ” CS Nguyễn Chí Thiện viết về cuộc xô xát ở Tòa Đại Sứ Anh.

Trần Trung Nghĩa

Lá thư của cán bộ “Ngục sĩ” CS Nguyễn Chí Thiện viết về cuộc xô xát ở Tòa Đại Sứ Anh.




thư của cán bộ “Ngục sĩ” CS Nguyễn Chí Thiện viết về cuộc xô xát ở Tòa Đại Sứ Anh.

Virginia ngày 7-11-1995 (chữ viết và mực ngòi viết khác)

Thân gửi đồng bào hải ngoại.

Tôi rời Việt Nam tới thủ đô của thế giới tự do đã được gần một tuần. Hôm nay xin viết mấy lời cảm tạ tất cả các bạn. Sở dĩ có sự chậm trễ đó là do sau một chuyến bay dài, tôi quá mệt, lại fải làm thủ tục giấy tờ (fải … Nguyễn Chí Thiện như bao cán bộ CS văn hóa khác làm theo chỉ thị Nhà nước xóa văn hóa xử dụng đúng từ CS "f" thay thế cho "ph"), mong các bạn thông cảm. Tôi hiểu rất rõ việc tôi ra tù năm 1991, và việc tôi sang Hoa Kỳ chủ yếu là nhờ sự tranh đấu vận động không ngừng nghỉ của các bạn, cũng như của các bạn ngoại quốc. Tình cảm nồng nhiệt của các bạn khiến tôi hết sức cảm kích. Tôi khao khát được rời khỏi Việt Nam, (tác giả tập thơ Vô Đề không bao giờ “khao khát” muốn rời khỏi Việt Nam như Nguyễn Chí Thiện - trong bài thơ. Khi Mỹ Chạy ông viết ...

Khi mỹ chạy, bỏ miền Nam cho Cộng sản
Sức mạnh toàn cầu nhục nhã kêu than
Giữa tù lao, bệnh hoạn, cơ hàn
Thơ vẫn bắn, và thừa dư sức đạn!

- nghĩa là “Mỹ” thua có quyền chạy ,,, nhưng chúng tôi vẫn chiến đấu và thừa sức để chiến đấu ,,, “thơ vẫn bắn và thừa dư sức đạn”)
...... cũng như các bạn, không phải vì sợ hãi tập đoàn Mafia Việt Cộng (Thi sĩ Vô Danh không sử dụng danh từ này mà dùng: loài dã thú, Quỷ Vương, con ác điểu, lũ mặt người dạ thú, bầy quỷ dữ ... không hề có chữ tập đoàn Mafia Việt Cộng) mà vì tình yêu tự do. Sóng gió trùng dương hung hãn, hải tặc không làm các bạn chùn bước. Biết bao người đã làm mồi cho cá biển, nhiều người chết cả gia đình. Đối với những người cầm bút có liêm sỉ (“sỉ” nguyên văn Nguyễn Chí Thiện), tự do ngôn luận là không khí, không thể thiếu. Tôi rời Việt Nam mục đích chủ yếu là chữa bệnh cho khỏe, (tương tự như câu trên, tác giả tập thơ Vô Đề không bao giờ muốn “rời Việt Nam mục đích chủ yếu là chữa bệnh cho khỏe” như ông Thiện viết ở trên “tác giả Vô Danh viết” ,,, Phải chiến đấu giữa muôn trùng nguy khốn, chứ ông đâu có nghĩ là mình phải rời việt nam, vì ông biết , ,, Cuộc chiến đấu này chưa phân thắng phụ " Cuộc chiến đấu này - Thơ Vô Đề) khỏe để đủ sức tiếp tục công việc chống tội ác mà tôi đã bắt đầu từ thủa thiếu thời như Voltaire có nói: "Kẻ nào tha thứ cho tội ác, kẻ đó là đồng phạm". Làm sao có thể hòa hợp với kẻ trời không dung, đất không tha, những kẻ đã bắn giết, tù đày hàng triệu đồng bào, những kẻ làm tay sai cho Nga, Tàu đẩy cả dân tộc xuống đầm lầy lạc hậu, phá hoại luân thường đạo lý, những kẻ coi:

Nhân quyền là chuyện hão
Nhân fẩm thời coi khinh
Nhân tâm không cần tính
Luôn mồm nói nhân đạo!

Cải cách ruộng đất năm 1955, sắc lệnth tập trung năm1961, hàng triệu đồng bào miền nam bị lưu đày sau năm 1975. Kinh tế Việt Nam nghèo nàn lạc hậu nhất hoàn cầu v..v.. Những thực tế khủng khiếp đó mà có thể phủ nhận!. Đúng là “Trúc rừng không ghi hết tội, nước biển không rửa sạch mùi tanh!”

Hồi còn ở trong nước, tôi cùng nhiều bạn rất phiền muộn khi nghe qua đài những nhân vật hô hào hòa hợp, hòa giải với cộng sản để tái thiết tổ quốc! Chúng tôi nghĩ có thể những người đó thật lòng, có thiện chí, nhưng ở xa, không hiểu rõ bản chất cộng sản nếu họ về nán sống, họ sẽ thay đổi quan điểm. Lục Du đời Tống có câu: “ Thính tri bất như kiến tri, kiến tri bất như cư tri, nghĩa là nghe mà biết (đoạn viết trang 2 hàng 2, nét chữ viết khác lạ, đặc biệt là hàng giấy để trống điền vào sau với tuồng chữ khác, và điền không hết hàng chữ). Nếu vị nào cho rằng tôi vì thù hận nói quá “lên”, xin mời hãy về định cư ở Việt Nam. Du lịch vài tháng chưa biết mấy đâu!. Ở trong chăn mới biết chăn có rận, đó là chân lý ông cha ta đã đúc kết.

Thưa các bạn, tôi không thù hận ai cả, Trừ những kẻ đã gây tội ác tầy trời với dân tộc. Biết yêu điều thiện phải biết ghét điều ác. Biết tôn kính đạo đức, fải biết khinh bỉ gian manh. Những trạng thái tâm tình đó không thể tách rời, đời đời kết dính. Tuy nhiên, vì lợi ích tối cao của đất nước, chúng ta có thể dằn lòng bỏ qua, bỏ qua chứ không quên! Nếu những kẻ đương cưỡi đầu cưỡi cổ nhân dân, bịt mắt, khóa miệng nhân dân, chịu tụt xuống ngồi ngang hàng với nhân dân để bàn việc xây dựng đất nước. Nghĩa là fải chấp nhận đa nguyên, đa đảng, tự do, thực lòng hối cải. (Tác giả Tập thơ Vô Đề “(Hoa Địa Ngục)” không thay đổi lập trường đang giữa giòng lịch sứ đấu tranh để chấp nhận đa nguyên đa đảng, không bỏ qua: vì “Thế lực đỏ (Cộng sản) phải đồng tâm đập nát, để nó hoành hành họa lớn sẽ lan nhanh …, phải quyết định gọn nhanh và nẩy lửa). Những điều này chỉ có thể xẩy ra khi nội bộ Đảng tiếm quyền phân hóa tan rã, nhân dân sẽ chớp lấy thời cơ vùng lên. Hiện tại sự phân hóa này đã sâu rộng. Nhân dân đã chán ghét chế độ cực quyền tới cao độ

Đảng đã thành thơ, thành vè, khôi hài, phỉ báng
Thành truyện tiếu lâm cười riễu trong dân
Khi trò chuyện nếu anh ca ngợi Đảng
Đời sẽ nhìn anh như một gã bị tâm thần!

Nhiệm vụ của chúng ta là thúc đẩy thật nhanh sự phân hóa đó. Tôi không có tham vọng gì cả ngoài tham vọng được thấy đất nước xum hòa, tự do no ấm. Thơ của tôi cũng chỉ nhằm tiêu diệt cái ác, để cho cái thiện được kết nẩy nở.

Các bạn thân mến, một số bạn muốn biết rõ việc tôi gửi tập thơ Hoa Địa Ngục ra hải ngoại như thế nào.Tôi xin kể lại tóm tắt. Thơ tôi toàn giữ trong đầu, không viết ra được, vì hồi đó công an thường xuyên kiểm tra lục soát căn buồng ngủ ở Hải Phòng của tôi. Tháng 6-1979 tôi bí mật đánh lạc hướng bọn theo rõi, đi ô tô buýt lên Hà Nội tôi bí mật tới nhà một "người bạn trong sạch", nghĩa là chưa bị tù, thành fần lao động ngồi trên căn gác xép, viết trong ba ngày, viết xong dấu lại đó. Tôi lại trở về Hải Phòng. Ngày 12-7-1979 (con số 7 bị đồ lại thành 4, 7 không xác định số nào đúng) tôi bí mật lên Hà Nội định tâm đợi ngày 14-7 quốc khánh Pháp sẽ trà trộn vào các đoàn ... (chừa một hàng trống và chử viết xa lạ, chỗ trống điền vào không đồng đều. Lý do nào chừa một hàng trống và chen vào đó là ngòi viết khác, nguyên văn của đoạn thêm vào là ") …ngoại giao, lọt vào sứ quán Pháp, tới ngày 13-7 sứ quán Pháp và thất vọng. (thắc mắc: tại sao lại có ngòi viết khác và tuồng chữ khác và cách viết không mạch lạc do một nhà thơ với ngàn bài không sai chấm , phẩy ??? . tại sao lại có khoản trống giữa câu " ngày 13-7" và "sứ quán "???). Cửa sứ quán đóng kín, các đoàn ngoại giao dều đi ô tô vào trong sân. Cửa chỉ mở khi ô tô tới. Tôi có ý định vượt qua bức tường rất thấp của sứ quán ở phố Hàm Long. Nhưng quan sát thấy sân sứ quán quá rộng. Bên trong có nhiều nhân công Việt Nam. Không thể thoát được! Tôi đành fải đợi tới sáng thứ hai 16-7-1979 đột nhập tới sứ quán Anh. Sứ quán Anh rất thuận tiện chỉ bước dăm bước là vào khu ngoài. Tôi dấu tập thơ trong bụng, nghiền nát 30 viên gardenal 0,1. Khâu vào gấu quần phòng việc thất bại sẽ tự sát trong xà lim. Độ 9 giờ sáng tôi bất thình lình vượt qua viên lính đứng ngoài (viên lính này mặc thường phục) lọt vào. Tôi bất ngờ vì trong fòng có 7 nam 1 nữ ngồi làm việc ở một chiếc bàn lớn. Tôi nói là tôi là cán bộ ngoại giao tới cần liên hệ với sứ quán (“liên hệ” là chữ thường nói của cán bộ Cộng sản) với sứ quán. Họ hỏi giấy, tôi nói quên không mang giấy, vừa nói vừa lao vào căn fòng trong. Họ cản đường tôi, có một căn buồng nhỏ ở bên cạnh cửa mở một thiếu nữ ng; Anh trẻ đang trải tóc (văn tự của Nguyễn Chí Thiện khá lượm thuộm khác hẳn tuyệt tác Vô Đề (Hoa Địa Ngục) người được giới thiệu cho giải Nobel), tôi lao vào. Cô ta sợ quá rơi cả lược. Tôi vội nói: Tôi là ng: lương thiện, đừng sợ. Cô ta vẫn há mồm ra kinh hoàng. Một người fụ nữ Việt tới ôm lấy tôi, tôi đẩy bà ta ngã và chạy quanh cái bàn. Một ng: đàn ông đã chạy ra báo cảnh sát. Hai người khác đuổi tôi. Thế nguy, tôi xô chiếc bàn. mực, ghế đổ cả. Nghe tiếng ồn, ba ng: Anh đi ra. Mấy nhân viên Việt Nam dẹp sang 1 bên và nói với mấy ng: Anh: Nó là 1 thằng điên. Tôi vội nói: Tôi không điên. Tôi có một tài liệu quan trọng muốn trao cho các ông. Hãy cứu tôi. Miệng nói chân chạy vào buồng trong, khóa cửa (xóa chữ không đọc được) lại Ba ng: Anh theo tôi ngay. Tôi vội lấy tập thơ trong bụng ra, nhưng do vật lộn, nó đã bị tụt xuống tận đũng quần, Tôi fải cởi khuy quần mới lôi ra được và đưa cho người Anh đứng tuổi nhất. Tôi bảo ông ta cất đi rồi sẽ nói chuyện. Ba ng: Anh tiếp tôi gần 1 tiếng. Tôi nhờ họ mang tập thơ về Anh quốc và xuất bản, dặn họ không giao cho bất kỳ một người Việt nào ở trong nước. Tôi nói với họ về tình hình nhân quyền ở Việt Nam, về cuộc đời tù tội của tôi, về nguyện vọng muốn tố giác Cộng sản. Cuối cùng tôi hỏi họ có thể lưu tôi trong sứ quán được không. Họ nói việc vào đã lộ, công an đã vây ở ngoài ở lại sẽ khó khăn. Tôi không nài xin, vì mục tiêu tôi vào không phải xin tị nạn. Một ng; Anh hỏi tôi cần giúp đỡ tài chính không. Tôi cảm ơn, từ chối, bắt tay ba ng: và đi ra. Tôi đi đất, vì đôi dép nhựa của tôi đã bị văng mất khi xô xát vừa ra tới hè đụng 4 công an thường fục giơ thẻ ra, (thời đó Công An Việt Cộng không có mang hay đeo thẻ như Nguyễn Chí Thiện tưởng tượng, Công An Việt Cộng chỉ được đeo thẻ (Babge) chỉ sau năm 1994 mà thôi) mời tôi lên xe cảnh sát. Tôi bước lên. Hai công an đi mô tô, 2 công an đi xe đạp theo sau. Họ đưa tôi thẳng vào Hỏa Lò và hỏi cung ngay. Tới 4 giờ chiều tôi bị đưa vào buồng 14 xà lim 1, (xóa hai chử) gần buồng Kỷ viên Hoàng Văn Thọ và Trần Đăng Ninh hai lãnh tụ cộng sản bị giam ở đó trứớc 1945. (Nguyễn Chí Thiện ở ngoài đời thì làm sao mới vào tù thì biết ngay 2 buồng gần đó là buồng đã giam Hoàng Văn Thọ và Trần Văn Ninh). Tôi ở Hỏa Lò tới năm 1985 thì chuyển về xà lim bộ ở xã Thanh Liệt, Huyện Thanh Trì. Trong 6 năm ở Hỏa Lò, 3 năm nằm xà lim, 3 năm sống chung với lưu manh ở buồng chung (cán bộ thì xem là Lãnh tụ cộng sản là Thần là Thánh còn người tù thì ví như lưu manh, đây không phải là ngôn từ của nạn nhân cùng cảnh ngộ chung tù, tác giả các bài thơ trong tập thơ Vô Đề (Hoa Địa Ngục) lúc nào cũng yêu thương những nạn nhân tù tội khác). Các bạn thân mến, tôi muốn việc rời nước của tôi không làm một sai lầm là Đảng cởi mở, đừng bao giờ nói tới chuyện nhân đạo, lương tâm với cộng sản! Chúng chỉ hành động theo tính toán lạnh lung, tàn nhẫn. Năm 1991 chúng thả tôi vì bị choáng váng cực độ trước vụ tan rã của Liên Xô, vì sức ép của thế giới, vì cần đầu tư viện trợ. Năm 79, khi bị bắt chúng nói thẳng vào mặt tôi là giết ngay quá nhân đạo!. Phải cho chết dần mòn! Ra tù chúng theo tôi từng bước. Đe dọa những người tiếp xúc với tôi. Nay chúng để tôi đi vì cần được Hoa Kỳ ban cho Tối Huệ Quốc, cần đánh lừa những người thật thà là chúng đã rộng mở về chính trị, vì để tôi trong nước nguy hại hơn. Chúng biết chắc chắn là ra nước ngoài chúng sẽ bị tôi vạch mặt thêm. Nhưng ngày nay cái mặt của chúng đã quá lộ rồi , Ai ngờ một tiếng nói cách xa cả nửa vòng trái đất! Thưa các bạn, tôi tin rằng trong thế kỷ 20 này, Tổ quốc chúng ta sẽ tự do, dân chủ thật sự. Đó là điều tất yếu. Các bạn hãy kiên nhẫn. Trước khi ngừng lời tôi xin tặng các bạn 4 câu thơ tôi làm ra khi vừa vào xà lim năm 1979, và 4 câu tuyên ngôn thơ của tôi:

Thêm mấy chục năm sống nữa tích sự gì ?
Khi uổng phí cả đời thơ tận tụy
Nay chốn lao tù nếu ta ngã quỵ
Thơ đã trong trời, băng lưới thép bay đi!
Nhiên liệu : ngàn rên xiết
Đã phóng: ngàn ước mơ
Người lái con tầu thơ
Thần tự do bất diệt

Thân ái hẹn gặp các bạn trong những dịp khác.

Virginia ngày 7-11-95 Chí Thiện

(chữ viết và mực ngòi viết khác xa, và chữ ký khác hơn chữ ký trong tập thơ Hạt Máu Thơ 2 - được in năm 1996).

Chú Ý: Các chữ được in đậm trên đây và nằm trong dấu Ngoặc ( ) là chữ do bạn đọc Trần Trung Nghĩa chú thích để các bạn có thể so

sánh cái Sai hay cái Vô Lý trong ngôn từ của người mang tên là Nguyễn Chí Thiện đã nói trước quên sau, nói sau quên trước.

Lá thư của cán bộ “Ngục sĩ” CS Nguyễn Chí Thiện viết về cuộc xô xát ở Tòa Đại Sứ Anh.