Saturday, August 2, 2008

Chiến tranh Mỹ - Trung Cộng?


Sau các biến cố dồn dập liệu chiến tranh giữa Mỹ và Trung Cộng có xảy ra hay không ?

Tài Liệu Tham Khảo
Mường Giang

Người Mỹ từ xưa tới nay luôn luôn bị mang tiếng là kẻ chủ động trên chính trường và gần như họ đều đạt được chiến thắng bằng nhân đạo và kỹ thuật.Trong quá khứ,từ năm 1948 là thời gian khởi đầu của chiến tranh lạnh,để đạt thế thượng phong, Mỹ đã sử dụng chiến tranh tình báo trên không bằng các loại phản lực cơ RB-47 và U-2. Mưu toan bị bại lộ,ngày 1.7. 1958, Liên xô bắn hạ một chiếc RB-47 tại Mourmanks và cầm tù hai Ðại Úy Phi Công Mỹ là Bruce Olmstead và Johl McKon. Tiếp đến ngày 1.5.1960, một chiếc U-2 lại bị bắn hạ tại Sverlovsk, viên Phi Công Mỹ là Gary Power cũng bị bắt. Thế nhưng việc đâu lại hoàn đó sau khi hai nước đấu võ mồm kịch liệt, làm cho thế giới tưởng rằng đại chiến thứ ba sắp xảy ra. Nhưng gây cấn và hồi hộp hơn hết là ngày 22.10.1961 xe tăng của Liên xô và Hoa Kỳ đã dàn trận suốt 18 giờ liền tại Checkpoint (Bá Linh) chờ lệnh khai hỏa. Rồi khi Mỹ là Tổng Thống Kennedy phát giác là Liên xô đã đem hỏa tiễn có gắn đầu đạn nguyên tử vào thiết trí tại Sierra del Rosario (Cuba),thì nhân loại coi như đứng bên bờ vực thẳm của sự hủy diệt.

Thế nhưng mọi sự vẫn huề cả làng.Bởi vậy lần này, khi có cuộc đụng chạm trên không một máy bay phản lực F-8 của Trung cộng cố tình đâm vào chiếc thám thính cơ EP-3 của Hải Quân Hoa Kỳ, nhưng nó phải rơi xuống biển, làm chết viên phi công. Trung cộng hùng hổ bắt giữ phi cơ và Phi Hành Ðoàn gồm 24 người, khi máy bay EP-3 của người Mỹ xin khẩn cấp hạ cánh trên Ðảo Hải Nam từ 1.4 cho tới ngày 11.4.2001 mới thả, sau khi Tổng Thống W.Bush viết thư tỏ ý hối tiếc vụ đụng chạm trên. Riêng Trung cộng thì răn đe bằng dao to, búa lớn, nói là sẽ không để yên vụ này. Qua các diễn tiến trên, các Nhà Bình Luận trên thế giới đều bảo rằng vụ trên chưa kết thúc mà mới là bắt đầu. Vậy thì liệu chiến tranh có thể xảy ra hay không, khi tình trạng giao hảo giữa Mỹ-Hoa, vốn đã bị rạn nứt từ lâu qua các biến cố chính trị dồn dập,mà kẻ chủ động không phải là Hoa Kỳ.

1. Nguyên nhân khiến Trung cộng làm lớn chuyện trong vụ đụng máy bay:

Thật ra sự rạn nứt giữa Mỹ và Trung cộng đã xảy ra từ mấy năm nay nhưng cả hai phía đều có bưng bít vì còn đang cần lợi dụng lẫn nhau (thời Clinton). Trong quá khứ, Trung cộng đã cố ngậm miệng ăn tiền qua các sự kiện Mỹ và khối NATO oanh kích vào Tòa đại sứ tại Thủ Ðô Bergrade của Nam Tư trong cuộc chiến Kosovo vào tháng 3.1999. Cũng thời gian này, Mỹ lại tố cáo Trung cộng đã gài điệp viên Wen lee Ho vào làm việc tại Phòng Thí Nghiệm Quốc Gia tại Los Alamos (Mỹ) để đánh cắp tài liệu chế tạo vũ khí nguyên tử của Hoa Kỳ. Chưa hết hai nước lại đụng chạm thường xuyên về vấn đề Ðài Loan, mà theo Trung cộng thì Mỹ luôn luôn bảo vệ nước này chống lại họ. Ðó là lẽ dĩ nhiên vì Ðài Loan là nước bạn Ðồng Minh theo thể chế Dân Chủ Tự Do. Mới đây Quốc Hội Mỹ lại họp, nhiều Nghị sĩ đề nghị Chính Phủ Bush can thiệp không cho Trung cộng đăng quan xin tổ chức Thế Vận Hội Mùa Hè năm 2008 tại Bắc Kinh, tại vì Trung cộng hiện nay là một trong những nước không tôn trọng Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, chà đạp nhân quyền, cấm đoán tín ngưỡng và tự do của dân chúng trong nước. Cũng do những sự kiện nhức nhối trên, nên Trung cộng không ngần ngại hy sinh người, chịu tốn của để mong gài bẫy Mỹ phải đáp ứng theo nhu cầu của mình, mới thả con tin. Nhưng Tàu cộng đã tính sai nước cờ vì đối thủ trong cuộc cũng là Khổng Minh và trên hết, nước Mỹ hiện giờ đang được điều khiển bởi Tổng Thống W. Bush và đảng Cộng Hòa không còn là anh phản chiến Bill Clinton nữa. Bởi vậy,ngay khi nhận được tin Phi Hành Ðoàn Mỹ đang bị giam cầm tại Ðảo Hải Nam, người Mỹ dùng chiến lược "tương kế tựu kế" giúp Trung cộng tìm kiếm viên phi công mất tích, để điều động một Lực Lượng Hải,Lục, Không Quân hùng hậu từ các Hạm Ðội 6 và 7 gồm có 42 chiến hạm, 74 phản lực cơ chiến đấu và 10.000 Binh Sĩ Thủy Quân Lục Chiến đến Hải Nam. Ngoài ra,người Mỹ còn biết thâm ý của Trung cộng, nếu lần này chịu lép vế xin lỗi, cũng kể như Mỹ đã đồng tình chấp nhận lãnh hải mới mà Trung cộng tự nhận là của mình trong biển đông.

2. Đảo Hải Nam và lãnh hải Trung cộng:

Chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên xô chấm dứt,nhân loại thở phào nhẹ nhõm vì hy vọng được sống hòa bình và những luật trời, luật biển sẽ được mọi người dung hòa. Nhưng Liên xô vừa gục thì Trung cộng nổi lên,càng hung hăng và ngang tàng gấp ngàn lần mấy ông thầy cũ, coi mọi người là số không khi đã chế tạo được vũ khí nguyên tử, ngang nhiên tự vẽ cho mình một biên giới trên trời, dưới biển. Người La Mã xưa từng nói: ''ubi societas,ibi jus'' nghĩa là ở đâu có xã hội, thì ở đó có luật pháp. Tiếc thay người cộng sản không bao giờ coi trọng luật đời mà chỉ quen dùng luật rừng mà thôi. Nhưng luật vẫn là luật, Trung cộng dù có lớn mồm và khoe khoang, phách lối vẫn phải tuân theo luật quốc tế về lãnh hải do Liên Hiệp Quốc đã ấn định như sau:

Luật Biển: Thời Trung Cổ, các Quốc Gia hùng mạnh tự cho mình có quyền tuyệt đối trên biển. Năm 1609, một Luật Gia người Hòa Lan tên Grotius đặt ra căn bản cho Luật Hàng Hải. Nhưng biển, ngoài việc là thủy đạo, còn được coi như kho báu vô tận của con người, nên nhân loại đã phải đặt ra Luật Biển để tránh sự va chạm về quyền lợi của các Quốc Gia. Nhiều cuộc họp quốc tế về Luật Biển đã được tổ chức liên tục tại Lahaye (Hòa Lan) năm 1930, Genève (Thụy Sĩ) năm 1958 và 1960. New York năm 1973 và Caracas (Venèzuela) năm 1973, ấn định lãnh hải, vùng tiếp giáp, thềm lục địa, bờ biển quốc tế và đại dương. Cũng kể từ đó lãnh hải của một nước được ấn định từ 6 tới 12 hải lý, riêng các nước Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh thì đòi tới 200 hải lý. Tuy nhiên, dù có sử dụng theo ý riêng của mình, trước đây vẫn không có sự đụng chạm quá đáng giữa các nước.

Chiếu theo Luật Biển quốc tế, Mỹ có xâm phạm lãnh thổ Trung cộng hay không? Máy bay Mỹ và Trung cộng thật sự đụng nhau trên không là hải phận quốc tế, nều căn cứ theo Luật của Liên Hiệp Quốc ấn định, nhưng vì phi cơ Mỹ bị hư nặng nên phải đáp khẩn xuống Ðảo Hải Nam. Với Mỹ lãnh thổ của một nước chỉ có 6 hải lý, nên Mỹ không xâm phạm lãnh thổ Trung cộng, ngược lại người Tàu ngày nay đã coi Ðông Hải là cái ao của nhà mình, nên nói Mỹ phạm luật. Riêng Ðảo Hải Nam, nơi Phi Hành Ðoàn Mỹ bị giam 11 ngày, trước thuộc Tỉnh Quảng Ðông. Từ tháng 9.1988 Trung cộng tách làm một Tỉnh lỵ riêng, gọi là đặc khu kinh tế. Ðây cũng là quê hương của ba chị em nhà họ Tống nổi tiếng trong lịch sử cận đại Trung Hoa: Tống Ái Linh, Tống Khánh Linh (vợ Tôn Văn) và Tống Mỹ Linh (vợ Tưởng Giới Thạch). Ðảo Hải Nam có diện tích 34.000 km2 và dân số hơn 7 triệu người, Hải Cảng Dương Phố chỉ cách Hải Phòng có 151 hải lý, riêng Thủ Phủ của Ðảo đóng tại Hải Khấu, là nơi giam dữ Phi Hành Ðoàn Mỹ. Hiện Trung cộng tuyên bố lãnh hải của mình ở Hải Nam là 2,1 triệu km2, nghĩa là giáp giới tận bờ biển Nam Dương, Châu Úc. Trung cộng bắt Mỹ xin lỗi nếu muốn đem con tin về: Trên ngôn ngữ ngoại giao, Tàu muốn Mỹ xin lỗi, nhưng bên trong thì khác hoàn toàn. Tóm lại ý của người Tàu trong khi nắm giữ được con tin Mỹ, muốn Hoa Kỳ phải thỏa thuận các vấn đề tối quan trọng với họ như vụ Ðài Loan, kế hoạch hỏa tiễn chống hỏa tiễn và sau hết là xen vào nội bộ của nước Tàu, phá bỉnh không cho họ được tổ chức Thế Vận Hội 2008. Nhưng âm mưu trên đã bị Mỹ đoán biết trước, bởi vậy Tổng Thống W.Bush đã tuyên bố thẳng thừng, là việc nào là giải quyết theo việc đó. Cuối cùng Tàu thả con tin khi Mỹ nói hối tiếc vì viên phi công bị mất tích.

3. Những rắc rối chính hiện nay giữa Mỹ và Trung cộng:

Ngay khi Tổng Thống W.Bush lên nhậm chức, lập trường chính trị của Hoa Kỳ đã thay đổi từ nhu nhược sang cương quyết và cứng rắn của chính quyền Ðảng Cộng Hòa, nhất là việc bán vũ khí phòng thủ tối tân cho Ðài Loan, đã chận đứng mưu mô xâm chiếm Ðông Nam Á của Trung cộng. Thực tế tình trạng của Ðài Loan hoàn toàn khác biệt với hai nhượng địa Hồng Kông và Ma Cao. Ðài Loan từ đầu Thế Kỷ 20 đã tuyên bố độc lập và đa số thổ dân trên Ðảo khác Chủng Tộc với người Hoa. Năm 1949, sau khi mất Hoa Lục vào tay cộng sản, Tưởng Giới Thạch và quân Quốc Dân Ðảng chạy ra chiếm Ðảo này, làm căn cứ chống lại Tàu cộng. Bởi vậy, người Ðài Loan bảo rằng họ là một Quốc Gia độc lập thì cũng là chuyện bình thường. Thật ra Ðài Loan chỉ có một lãnh thổ chật hẹp, người đông và hầu như chẳng có một tài nguyên thiên nhiên nào đáng kể. Thêm vào đó, nơi này hay thường bị thiên tai tàn phá như bão lụt, động đất, hạn hán, nạn sâu rầy tàn phá mùa màn. Nếu con người ở đây không quyết tâm, thì chưa chắc họ đủ cơm ăn, đừng nói chi tới chuyện làm giàu.

Ðài Loan hiện nay gồm có 79 Ðảo nhỏ lớn,hai Ðảo Kim Môn và Mã Tổ nằm sát đất liền, chỉ cách Phúc Kiến có 193 km. Riêng Ðảo Ðài Loan lớn nhất có chiều ngang 102 km và chiều dài 402 km.Hiện Trung Hoa Dân Quốc có diện tích tới 26.195 km2 hay là 3971 sqml dân số tính tới cuối năm 2000 là 20.204.880 người, là nơi có mật độ dân số cao nhất trên thế giới (558 người/1km2), 82% dân số Ðài Loan đều sống ở Thị Trấn hay Thành Phố. Tất cả các Tỉnh Thị quan trọng đều nằm trên Ðảo lớn Ðài Loan,như Ðài Bắc (Thủ Ðô) hơn 3 triệu người, Ðài Trung, Cao Hùng, Cơ Long, Ðài Nam. Từ năm 1990 Ðài Loan đã là một trong những con rồng kinh tế của Á Châu và là nước có trữ lượng tiền thặng dư nhiều nhất thế giới (hơn 100 tỷ Ðô la). Quân Ðội Ðài Loan hiện nay có gần một triệu người, tuy ít hơn Trung cộng nhưng lại vượt hẳn về phẩm chất và trang bị. Mới đây, để chống lại sự đe dọa của Trung cộng, Ðài Loan đã mua thêm rất nhiều quân cụ tối tân của Anh, Pháp, Ðức và Mỹ. Nhưng điều lo ngại nhất của Trung cộng là hiện nay Ðài Loan cũng vẫn còn là một căn cứ nguyên tử của Hoa Kỳ. Thật vậy, qua sự tiết lộ của Tòa Bạch Ốc khi giải mã một số hồ sơ quá hạn vào năm 1995 thì từ năm 1951 đến 1977, Mỹ đã thiết lập căn cứ nguyên tử trên 18 Quốc Gia, khắp các Châu Âu, Phi, Mỹ và Á Châu.

Tuy số hồ sơ mật được giải mã nhưng tên các địa điểm đều bị bôi xóa.Tuy nhiên các Chuyên viên về nguyên tử như Robert S Norris, William Arkin và William Burr vẫn tìm được tên 17 địa điểm trong đó có Nhật, Ðại Hàn và Ðài Loan. Vào tháng 7.1995, cuộc khủng hoảng về vũ khí nguyên tử bùng nổ, nhiều Quốc Gia Ðồng Minh quan trọng yêu cầu giao cho họ toàn quyền sử dụng vũ khí trên hoặc tháo gỡ. Ngược lại cũng có nhiều nước làm ngơ, coi như không hề biết tới, trong số này có Ðài Loan. Vì vậy, ta cũng đừng lấy làm ngạc nhiên khi thấy Trung Hoa Dân Quốc lúc nào cũng coi thường sự hù họa của Trung cộng. Trung cộng bắt Mỹ phải ngưng kế hoạch phi đạn chống tên lửa thế nào được. Thử hỏi ai mạnh hơn ai? Tính đến cuối năm 2000, Hoa Kỳ đã bốn lần thử nghiệm kế hoạch phi đạn chống phi đạn trong hệ thống phòng thủ toàn diện Quốc Gia. Theo báo chí loan tải thì lần thứ nhất vào ngày 2.10.1999 thành công, lần thứ hai vào ngày 18.1.2000 và lần thứ ba 8.7.2000 đều thất bại. Tuy nhiên, Tổng Thống Bill Clinton vẫn tuyên bố vào tháng 9.2000 là Hoa Kỳ đã quyết tâm thực hiện kế hoạch phòng thủ trên, bất chấp sự phản đối của các nước hiện có vũ khí nguyên tử như Nga, Pháp và nhất là Trung cộng. Vậy kế hoạch trên như thế nào, đã khiến cho những con ngáo ộp, trong đó có Bắc Hàn phải xốn mắt, quyết phá cho được.

* ABM (LÁ CHẮN MẶT ÐẤT): Ngày 26.5.1972, cố Tổng Thống Hoa Kỳ là Richard Nixon và cố Tổng bí thư Liên xô là Leonid Brejnev đã ký một Hiệp ước chống hỏa tiễn đạn đạo (ABM) tại Mạc Tư Khoa. Theo tinh thần hiệp ước này thì cả hai phía đều đồng ý hạn chế việc phát triển vũ khí chống hỏa tiễn, chứ không đề cập tới việc phát triển vũ khí phá hủy hỏa tiễn từ trên không. Ngoài ra cả hai cũng không muốn đề cập tới sự hạn chế vũ khí từ chiến trường, vì nó là chức năng bảo vệ lãnh thổ. Năm 1997, Mỹ và Nga lại họp để bàn lại vấn đề thế nào là vũ khí nguyên tử phòng thủ và vũ khí nguyên tử sử dụng ngoài chiến trường. Vì hiện nay, thế giới chỉ còn có Nga là quốc gia duy nhất còn sử dụng các loại hỏa tiễn galoch, gazelle và gargon để phòng thủ diện địa. Các hỏa tiễn trên đều có gắn đầu đạn nguyên tử. Riêng Mỹ từ năm 1976 đã phá bỏ tất cả hệ thống phòng thủ như Nga, được gọi là safeguard, dùng để bảo vệ kho hỏa tiễn hạt nhân liên lục địa ở Grandfirst (Bắc Dakota).

* Hiệp ước Start 2 và ABM: Trước khi rời Tòa Bạch Ốc,cựu Tổng Thống G.Bush và cựu Tổng Thống Nga là Boris Eltsine đã ký Hiệp ước Start 2, theo đó Nga giảm số đầu đạn nguyên tử còn 3000 và Mỹ là 3600. Hiệp ước trên không ảnh hưởng tới các nước có đầu đạn nguyên tử như Trung cộng (410), Pháp (350), Anh (192), Ấn Ðộ (70) và Hồi Quốc(25). Hiện Nga và Mỹ bắt đầu thi hành Hiệp ước trên sau khi Quốc Hội hai nước phê chuẩn. Thế nhưng năm 1997, Thượng Viện Mỹ lại thay đổi ý kiến, đòi sửa lại thời gian thi hành trong Hiệp ước là năm 2003-2007 và xét lại chương trình ABM. Tóm lại người Mỹ cần hệ thống phòng thủ Quốc Gia.

* NMD (HỆ THỐNG PHÒNG THỦ TỪ TRÊN XUỐNG DƯỚI: Là kết quả cuối cùng sau những lần thử nghiệm thất bại của Mỹ qua những dự án hỗ trợ đánh chặn,chống hỏa tiễn đạn đạo (Bambi) từ năm 1957, dự án Sentinel hay còn gọi là Safeguard ra đời năm 1964. Năm 1984, Tổng Thống Ronald Reagan lại đưa ra kế hoạch chiến tranh trên các vì sao (IDS), rồi thì dự án bảo vệ toàn diện chống tấn công (GPALS) của Tổng Thống G.Bush, nhưng tất cả đều bị dẹp bỏ khi Clinton đắc cử Tổng Thống. Theo Philip Coyle,người phụ trách chương trình phát triển vũ khí nguyên tử của Mỹ, thì vào tháng 2.2000, qua áp lực mạnh mẽ của đa số Nghị Sĩ của hai Ðảng tại Quốc Hội nên Clinton mới phê chuẩn tiếp tục các cuộc thử nghiệm chương trình trên. Theo tuyên bố của Tổng Thống W.Bush ngay khi vừa nhậm chức, thì các cam kết giữa Nga và Mỹ qua các hiệp ước vừa ký kết, nay đã lỗi thời, vì vậy cần phải thực hiện kế hoạch phòng thủ mới, cho hợp với giai đoạn hiện tại. Theo Nga, Pháp, các nước mới có vũ khí nguyên tử nhất là Trung cộng, thì nếu Mỹ thành công trong kế hoạch phi đạn chống phi đạn thì công trình phát triển vũ khí hạt nhân thế giới trong 50 năm qua coi như bị đảo lộn hoàn toàn. Nhưng người Mỹ vẫn giữ vững lập trường và tuyên bố phải có hệ thống phòng thủ NMD để đề phòng các nước thù nghịch hiện đã có vũ khí nguyên tử như Iran, Iraq, Libye, Bắc Hàn, Hồi Quốc, dĩ nhiên trong đó có Trung cộng.

Sở dĩ người Mỹ phải quyết tâm thực hiện cho được kế hoạch trên vì các nước nhỏ đã chế được loại hỏa tiễn liên lục địa (ICBM). Tháng 8.1998,Bắc Hàn chế tạo thành công loại hỏa tiễn ba tầng (TAEPO-DONG 1), có thể mang một quả bom nguyên tử nặng 1000 kg và phóng xa tới 2.500 km, hoặc một loại bom loại sinh hóa học phóng xạ tới 3.100 km. Hiện Bắc Hàn sắp hoàn thành DONG 2, có khả năng phóng xa tới 6.000 km. Riêng Nga và Trung cộng cũng đang ráo riết tìm các loại vũ khí mới để đối đầu với Mỹ. Theo nguyên tắc, kế hoạch hỏa tiễn của Mỹ có khả năng tiêu diệt tất cả các vũ khí của nước ngoài phóng từ không gia vào,sau khi rút tỉa kinh nghiệm từ thất bại của hỏa tiễn Patriot không ngăn được hỏa tiễn Scud của Iraq trong cuộc chiến vùng vịnh vào năm 1991. Ngoài ra, người Mỹ cũng đã tìm ra được ba khuyết điểm của hệ thống phòng thủ như:

- Những viên đạn nhỏ.
- Chim mồi.
- Những quả bong bóng không màu.Tìm được tất cả trở ngại trên,hiện Hoa Kỳ ráo riết nghiên cứu phương cách khắc phục. Ngoài ra đề phòng sự trục trặc, Hoa Kỳ còn phát triển thêm hệ thống phòng thủ ngoại biên do Lực Lượng Hải và Không Quân đảm trách.Tóm lại với một bộ máy chiến tranh đồ sộ như thế, bảo sao Trung cộng không nhượng bộ.

4. Trung cộng cấm Mỹ xen vào nội bộ nước Tàu

Năm 2001, Ủy Ban Tổ Chức Thế Vận Hội lại nhận được đơn của các nước xin tổ chức Thế Vận Hội Mùa Hè năm 2008. Thế nhưng Quốc Hội Mỹ đã họp và quyết định xin Ủy Ban không cho Trung cộng được tổ chức vì nước này đã không chịu thi hành nghiêm chỉnh Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, luôn luôn vi phạm nhân quyền, đàn áp Tôn Giáo, ngăn cấm tự do của người trong nước. Sự kiện trên làm cho Tàu cộng đến điên cuồng lên vì coi đó là sự xâm phạm vào nội bộ của họ. Thật ra người Mỹ do Clinton cầm quyền cũng đâu có tốt gì, nếu ta nhớ lại những năm về trước, khi vụ Thiên An Môn xảy ra năm 1989, đã khiến cho hầu hết thế giới ngẩn ngơ, và đồng loạt lên án hành động dã thú, bất nhân của bọn cộng sản,thì ngay tại nước Mỹ, trong thời gian đó, cái gọi là chương trình Nightline của Ðài truyền hình ABC lại bày tỏ thái độ hoài nghi về sự kiện Thiên An Môn, trong lúc đài có hàng trăm phóng viên tại chỗ. Chưa hết, Tổng Thống Clinton, thay vì có biện pháp mạnh để ngăn chặn kẻ gian ác, ngược lại vẫn hồ hởi ký cho phép Trung cộng được gia hạn thời gian tối huệ quốc. Ðể biện giải hành động phi đạo đức trên,Bill Clinton và đảng Dân Chủ nói người Mỹ phải đặt quyền lợi của họ trên hết.

Hỡi ôi! Ðời như thế còn gì để mà nói? Dân chủ và Dân quyền dưới chế độ dân chủ của Clinton là một sỉ nhục quốc thể. Nhiều chính trị gia trên thế giới hiện nay, trước sự kiện lộng hành và côn đồ của Trung cộng đã không ngần ngại quy trách nhiệm cho Ðảng Dân Chủ của Hoa Kỳ là kẻ nuôi ong tay áo, nuôi dưỡng Tàu cộng từ một quốc gia nghèo đói, lạc hậu thành một siêu cường quân sự, chẳng những gây hại cho nhân loại mà Mỹ cũng phải coi chừng hậu quả. Dĩ nhiên không phải ai cũng hèn như Clinton cho nên đã có rất nhiều người bất chấp hiểm nguy, như Tổ Chức Human Right Watch. Ðã len lỏi vào tận nước Tàu, thu thập tin tức và đúc kết thành bản cáo trạng 7 điểm, tố cáo hành vi ngược đãi đồng bào mình và trên hết là giã tâm tiêu diệt các Dân Tộc bị trị như Mãn Châu, Mông Cổ, Hồi và Tây Tạng. Chính cựu Ngoại Trưởng Hoa Kỳ là Waren Christopher cũng phải công nhận là Trung cộng rất cứng đầu chẳng bao giờ chịu thi hành Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Do tình trạng trên, Trung cộng chỉ mang bộ mặt phồn vinh giả tạo ở Ðô Thị, còn khắp nơi trong nước thì gần như hỗn loạn với trăm ngàn tệ đoan xã hội do chính chế độ độc tài gây ra, mà nhức nhối nhất, gây mất ăn mất ngủ cho cấp lãnh đạo trung ương vẫn là môn phái Pháp Luân Công.

PHÁP LUÂN CÔNG:

Như ta biết, suốt dòng lịch sử Trung Hoa, mỗi lần các giáo phái xuất hiện là có đại họa cho nhà cầm quyền, chẳng hạn như vào Thế Kỷ 18, Vương Phát Sinh (Vương Luân), lãnh đạo Bạch Liên Giáo, chống lại Nhà Thanh gần 100 năm. Tiếp theo là cuộc nổi dậy của Hồng Tú Toàn (Thái Bình Thiên Quốc), đã gây nên một cuộc nội chiến tàn khốc, làm cho Ðài Loan có cơ hội tuyên bố độc lập như ngày nay. Pháp Luân Công cũng là một giáo phái vừa mới thành hình tại Trung cộng vào những năm cuối cùng của Thế Kỷ 20, mà Giáo Chủ là một người Hoa phương Bắc tên là Lý Hồng Chí. Giáo đồ của Pháp Luân Công cho biết họ không làm chính trị, mà chỉ theo sư phụ triển khai một chủ thuyết thực tiễn, dung hòa từ các Tôn Giáo Ðông Phương như Phật, Hồi và Thiên Chúa, để giải thoát con người đang trong thời mạt pháp, hỗn loạn với các tội ác đầy rẫy như buôn người, mãi dâm, ma túy. Từ năm 1992 đến nay, Pháp Luân Công bành trướng không ngừng, hiện có trên 60 triệu tín đồ mà hầu hết đều là những người nghèo khổ, thất nghiệp, bị đảng cộng sản vắt chanh bỏ vỏ. Giáo phái có 39 trung tâm huấn luyện,1800 chi nhánh khắp nước mà Ban Chỉ Huy đầu não chính là Hội Nghiên Cứu Pháp Luân Công tại Bắc Kinh, dù Lý Giáo Chủ đang phải tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ và bị chính quyền cộng sản truy nã như một tội phạm quốc tế. Theo các Nhà phân tích thời cuộc thì Pháp Luân Công hiện nay là một tổ chức đối đầu nguy hiểm tại Trung cộng, vì giáo phái này có khả năng huy động cùng một lúc nhiều cuộc biểu tình bao vây các trụ sở đảng, theo lệnh Giáo Chủ bằng điện thoại di động và mạng lưới Internet. Ngoài ra, khắp nơi ở Trung cộng nay đầy rẫy những Ban Hội từ nông thôn cho tới Thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải, Nam Kinh, Tế Nam, Thành Ðô, Tây An, Quảng Châu ... đến nỗi Nhậm kiệm Tân, viện trưởng tòa án tối cao Trung cộng phải lên tiếng báo động đỏ, còn bộ công an thì ra lệnh thẳng tay tiêu diệt. Trong lúc tuyệt đại dân chúng Tàu lầm than, đói rách thì bọn cán bộ đảng lớn nhỏ thi nhau ăn chơi trác táng. Theo thống kê của nhà nước thì từ năm 1992 tới nay, tỷ lệ viên chức nhà nước phạm pháp lên tới 12% với các tội danh tham nhũng, hối lộ ,ăn cắp của công, hợp tác với các băng đảng thuộc xã hội đen buôn người, ma túy.

Nhiều tên cán bộ cao cấp của đảng tại trung ương cũng như địa phương đã bị tử hình cũng như kết án nặng nề. Khắp nơi những băng hoại xảy ra hàng ngày như nước lũ, có nguy cơ cuốn phăng đảng theo. Việc xấu chưa giải quyết xong thì nửa đêm ngày 18.6.2000, Nhân Viên Cảng Dove (Anh), trong lúc khám xét xe hàng đông lạnh từ Hòa Lan sang, đã vô tình phát hiện được 34 xác đàn ông và 4 xác đàn bà, nằm chết cóng trên xe, giữa các thùng cà chua,chỉ còn 2 người đàn ông thoi thóp chờ chết. Tất cả nạn nhân đều là người Hoa, nhập cư lậu vào Âu Châu. Sự kiện trên làm cho thế giới kinh hoàng, nhất là các nước Âu, Mỹ phải họp khẩn cấp để tìm cách ngăn chận, nhưng còn lâu vì người Tàu cộng sản có trăm ngàn phương kế để lường gạt thiên hạ. Sự kiện lời qua tiếng lại giữa Mỹ và Trung cộng trong lúc đụng máy bay trên bầu trời ngoài khơi Ðảo Hải Nam, khiến cho người ta nhớ lại tình trạng ba nước Liên xô, Trung cộng và Hoa Kỳ, trong thời chiến tranh lạnh. Cũng nhờ có Henry Kissinger, Ngoại Trưởng thời Tổng Thống Nixon, tiết lộ các bí mật giữa ba nước trên trong tác phẩm The Kissinger Transcrips. Bằng chứng trên cho thấy cuộc đối đầu tay ba chẳng bao giờ chấm dứt. Ngày trước, Mỹ muốn hạ bệ Liên xô, đã không ngần ngại bán đứng đồng minh của mình. Nay bánh xe lịch sử lại quay tròn, ba kẻ thù cũ lại gặp nhau và lần này, không biết ai bán đứng ai? Nhưng rõ ràng trước mắt, hiện nay nước nào cũng căm ghét Trung cộng ra mặt, nhất là vùng Ðông Nam Á, kể luôn việt cộng. Trung cộng biết rõ mọi điều, kể cả tiềm năng quân sự của mình so với đối phương cộng với tình trạng rối ren trong nước. Ðó là kết luận của các hãng thông tấn ngoại quốc khi viết rằng: Tất cả cũng chỉ là trận đấu võ mồm thế thôi. Nhưng những ai có hiểu biết sẽ nhận ra tương lai sẽ có nhiều biến chuyển, mà kẻ bại trận sẽ là Trung cộng vì chế độ độc tài gian ác sẽ bị trời đất trừng phạt.


Đài Loan: Vết dao trí mạng sẽ làm vụn vỡ Trung Cộng trong tương lai gần.

Lục địa Trung Hoa đất rộng người đông, nhưng lãnh thổ phần lớn đều cưỡng chiếm của thiên hạ nên sự tranh chấp cứ triền miên tiếp diễn bao đời và hiện nay vẫn đang sôi sục giữa Trung cộng và các Quốc Gia bị vong quốc như Mãn Châu, Mông Cổ, Tân Cương, Miêu Tộc trong các Tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Quảng Tây, Tứ Xuyên. Hải Nam và gây cấn nhất vẫn là Tây Tạng vì nước này đã có Chính phủ lưu vong do Ðức Ðạt Lai Lạt Ma Ðời thứ 14 lãnh đạo, được thế giới công nhận. Qua lịch sử, ngày nay ta mới biết được, chính các Dân Tộc ngoại lai như Liêu-Tạng, Hồi-Miêu, Mông và gần nhất là người Mãn Thanh đã làm dùm cái việc thống nhất Trung quốc cho người Tàu, khi Họ vào làm chủ Trung Nguyên, chứ không phải người Hán, qua các thời kỳ Nam-Bắc Triều, Nguyên-Mông và Ðại Thanh. Tóm lại, người Hán ăn sò còn các Dân Tộc kia thì đổ vỏ hay nói một cách văn hóa thì Hán Tộc bị ngoại nhân khuất phục bằng quân sự ngược lại các Dân Tộc chiến thắng lại bị kẻ bại trận đồng hóa, khiến phải mất chì lẫn chài mà ôm mối hận lớn nhất vẫn là người Mãn Châu.

Ðó là thực trạng của Liên bang tạp chủng Trung Hoa ngày nay,giống như Liên bang Xô viết trước năm 1991, xa xa với nhìn thì thấy vững mạnh như Núi Thái Sơn nhưng khi được rờ mó, mới biết mặt thật chẳng qua cũng chỉ là những lâu đài được xây bằng các tảng băng tuyết chờ rã riệu. Xét cho cùng cái danh dự Thiên Triều trong quá khứ hay đại cường Trung cộng ngày nay, qua cái chính sách xâm lược cố hữu luôn vẫn là sự khoe khoang rung cây nhát khỉ các xứ yếu kém quanh vùng, hoặc giả đã cùng nhau đồng thuận để cùng chia nhau lợi lộc như mối tình Hoa-Việt (cộng sản) ngày nay.

Tuy nhiên không phải ai cũng để cho Trung cộng bá đạo, muốn làm gì thì làm, đó là vấn đề Ðài Loan từ năm 1949 tới nay, luôn công khai đối đầu với kẻ thù có dân số trên một tỷ người, đã hoài công trong việc với tay và được tháp tay bởi bọn tài phiện da trắng, chỉ biết có lợi nhuận, bất chấp đạo đức và lương tâm, qua trăm phương ngàn kế để chiếm lại cho được Ðảo Quốc nhỏ bé nhưng giàu mạnh này, như họ đã lấy lại các nhượng địa Hồng Kông và Ma Cao từ tay Anh và Bồ mà không phải tốn một viên đạn. Nói như Andrew Tully trong tác phẩm Central Intellingence Agency, thì từ năm 1949 tới nay, cho dù ai làm lãnh tụ tại Ðài Loan, cái mục tiêu và ý chí của Họ vẫn không thay đổi: ''quyết tâm tiêu diệt chế độ cộng sản,thống nhất Hoa Lục từ Ðài Loan và trên hết tìm đủ mọi phương kế đẩy Hoa Kỳ vào vòng chiến với Trung cộng...''

Do trên qua nhiều đời Tổng Thống Mỹ như Truman, Eisenhower, Kennedy và sau này là Nixon. Luôn xếp Thống Chế Tưởng Giới Thạch giống như Tướng Franco của Tây Ban Nha là biểu tượng của sự nguy hại. Năm 1972, Hoa Kỳ bắt tay với Mao-Chu, hợp tác chiến lược liên minh bao vây Liên xô. Tất cả những mưu mô trong canh bài bịp do Kissinger thao túng đạo diễn, kể luôn sự bán đứng Việt Nam Cộng Hòa và Ðài Loan cho khối cộng sản quốc tế, ngay từ thời điểm đó, mới đây đã được các Chuyên Gia thuộc Trung Tân Nghiên Cứu tại Ðại Học G. Washington, vận động Quốc Hội Mỹ giải cấm những tài liệu quá hạn giữa Hoa-Trung, rồi soạn thành một tài liệu lịch sử, gọi là Bí lục Kissinger, nói toạc móng heo tất cả mọi thủ thuật mà Hoa Kỳ đã làm để bảo vệ quyền lợi riêng tư của mình. Ngày 30.4.1975, Việt Nam Cộng Hòa bị tan rã vì nghèo và trên hết là do bọn phản tặc đội trăm lớp tại miền Nam bán đứng và đâm sau lưng, nhưng Ðài Loan thì không hề hấn gì, tuy rằng bị Mỹ-Anh-Pháp toa rập đuổi ra khỏi Liên Hiệp Quốc, để rước Trung cộng vào thay thế chỗ đứng mà Trung Hoa Dân Quốc đã chính thức hiện diện từ lâu đời. Cũng kể từ đó, Ðài Loan đã sáng mắt trước những người bạn đồng minh sinh tử và Họ đã quyết tâm tự lực, tự cường nên sớm trở thành một cường quốc đúng nghĩa tại Thái Bình Dương, khiến cho cả Mỹ-Nhật cũng phải nể nang huống gì là Trung cộng. Tất cả cũng chỉ vì Ðài Loan quá giàu và dĩ nhiên có tiền mua tiên cũng được. Ðó cũng là cái lý do mà từ Tổng Thống Lý Ðăng Huy cho tới Trần Thủy Biển luôn quyết liệt tuyên bố rằng MỖI BÊN EO BIỂN là một nước độc lập, mặc cho Trung cộng gào dọa. Trước tình trạng trên, nhiều nhà chính trị quốc tế đã dí dõm tuyên bố:

Ðây mới chính là con dao trí mạng, không biết bao giờ nó sẽ cắt miếng da beo Trung Hoa thành những mảng như thực trạng trước khi Khang Hy, Càng Long của Ðại Thanh cưỡng chiếm lãnh thổ của các Quốc Gia Ðộc Lập quanh vùng.

ÐẢO QUỐC ÐÀI LOAN:

Qua các văn kiện tìm thấy trong cổ sử Trung Hoa từ các đời Hạ, Thương, Châu, Tần, Hán, Tam Quốc, Tùy, Tống cho tới nhà Thanh, mỗi triều đại đều gọi Ðài Loan bằng những tên khác nhau. Chỉ riêng thời nhà Minh, Ðài Loan đã được gọi bằng nhiều tên như Tiểu Lưu Cầu, Tiểu Ðông, Ðạm Thủy, Ðông Phan, Bắc Cảng, Ðài Viên, Ðông Ðô. Còn cái tên Ðài Loan chỉ mới xuất hiện từ đời nhà Thanh. Cuối đời Minh, người Hòa Lan chiếm Ðảo này và gọi là Formosa, có nghĩa là miền đất trân quý, thơ mộng. Về cư dân nguyên thủy trên Ðảo đã được các Nhà nhân chủng học xếp vào nhóm BÁCH VIỆT, vì từ chủng tộc, cách ăn mặc, cho tới phong tục tập quán ... không khác bao nhiêu so với nhóm Việt Tộc trong đất liền, trên Ðảo Hải Nam và tại Việt Nam ngày nay. Tóm lại người Ðài Loan hiện nay là một tập thể gồm chín Sắc Tộc Thượng và nhóm Hán Tộc di cư từ đất liền ra đảo, mà tài liệu cho biết là đã tới cư ngụ ở đây vào thời nhà Tống, đa số thuộc các Tỉnh ven biển nhưng nhiều nhất là Phúc Kiến và Quảng Ðông. Năm 1660, Tướng nhà Minh là Trịnh Thành Công đã dành lại Ðài Loan trong tay người Hòa Lan, sau 38 năm bị đô hộ. Năm 1683, đời Vua Khang Hy thứ 22, nhà Thanh chính thức chiếm Ðài Loan.Năm 1874 đời Vua Ðồng Trị, Ðài Loan coi như một tiền đồn chống Nhật. Vào thời Quang Tự thứ 11 Ðài Loan trở thành một Tỉnh của Thanh Triều, được Tỉnh Trưởng Lưu Minh Truyền thực tâm kiến thiết và xây dựng các cơ sở hạ tầng, mở màn cho sự văn minh tiến bộ của Ðảo Quốc sau này. Từ năm 1895-1945, Ðài Loan bị Nhật Bản đô hộ theo tinh thần hiệp ước Mã Quan. Năm 1945, Nhật bại trận nên trao trả Ðài Loan lại cho Trung Hoa Dân Quốc và từ năm 1949 tới nay, Ðài Loan coi như là một Quốc Gia độc lập, đã trải qua bốn đời Tổng Thống đều anh minh, đó là Tưởng Giới Thạch, Tưởng Kính Quốc, Lý Ðăng Huy, Trần Thủy Biển. Thời kỳ 1949-1988 được coi là thời kỳ chiến tranh do Trung Hoa Quốc Dân Ðảng lãnh đạo. Từ năm 1988, Tổng Thống Lý Ðăng Huy hủy bỏ lệnh giới nghiêm, chính thức tuyên bố chấp nhận đảng cộng sản như là một thể chế chính trị, cho phép dân chúng Ðài Loan có quyền lựa chọn. Từ năm 1996 người dân trực tiếp đi bầu. Ðây là một đòn sát thủ mà chính quyền Ðài Loan dùng để đối phó với cường lực của Trung cộng cũng như áp lực quốc tế chèn ép Ðảo Quốc phải quay về một nước Trung Hoa cộng sản. Còn một lý do khác mà Ðài Loan thường nêu ra biện minh cho nền độc lập của mình, đó là việc có bao giờ Trung quốc coi Ðài Loan như là núm ruột của mình? Chỉ tới khi Trịnh Thành Công cùng đường mới chịu tới Ðảo hoang, giống như Tưởng Giới Thạch năm 1949, vậy Ðài Loan và Trung quốc liên hệ gì? Còn vấn đề có một số người Hoa sinh sống tại đây, như vậy tất cả những nơi nào có người Hoa sinh sống đều là lãnh thổ của Trung cộng? Thật ra Ðài Loan chỉ là một vùng đất hẹp. Dân số lại đông đảo, còn tài nguyên thì hầu như không có gì đáng kể, gồm có một Ðảo lớn và 79 hòn Ðảo nhỏ, nằm giữa Ðông Hải và cách bờ biển Phúc Kiến chừng 193 km. Riêng Ðảo lớn Ðài Loan có hình dạng giống như một củ khoai lang, có chiều dài chừng 400 km, chiều ngang 200 km, diện tích toàn vùng là 13.971 sq.ml hay là 36.185 km2 với dân số theo World Atlas năm 2000, chừng 23 triệu người. Khắp Ðảo, núi non chiếm hơn 3/4 diện tích cả nước, có tới 62 ngọn núi cao trên 3000 mét nhưng ngọn cao nhất là Tân Cao Sơn (3997m). Ðài Loan có mực độ dân cư cao nhất thế giới (558 người/1km2),82% dân số tập trung sống tại các Thành Phố lớn như Ðài Bắc (Thủ Ðô trên 3 triệu dân), Cao Hùng, Ðài Trung, Ðài Nam, Cơ Long. Ngoài ra ở Ðài Loan thường bị thiên tai như động đất, bão tố, lụt lội và hạn hán. Hiện nay Ðài Loan được coi như một cường quốc kinh tế của Á Châu, có ngoại tệ thặng dư trên 80 tỷ mỹ kim,lợi tức trung bình là 13.000 mỹ kim/1 năm.

ĐÀI LOAN NGÀY NAY:

Tôn Dật Tiên là người đã khai sinh ra Trung Hoa Dân Quốc, sau khi đã lật đổ được nhà Mãn Thanh trong cuộc Cách Mạng Tân Hợi 1911. Ông cũng là người đã khai sinh ra tam dân chủ nghĩa (Dân Tộc, Dân Quyền và Dân Sinh), mà Quốc Gia Ðài Loan đã dựa vào đó để thiết lập hệ thống Chính Phủ, Hiến Pháp, cũng là một triết lý sống chẳng những cho người Ðài Loan mà cả Hoa Kiều trên khắp thế giới, không chấp nhận chủ nghĩa vô thần đang bá đạo tại Hoa Lục và một vài phần đất còn sót lại trên thế giới như việt cộng, Bắc Cao và Cuba. Chính vì sự khác biệt rõ rệt giữa hai thể chế chính trị và mức sống của dân chúng hai nước quá chên lệch, cộng thêm cái gương mới sống chung hòa bình giữa Trung cộng-Hồng Kông-Ma Cao, khiến cho Ðài Loan nẩy sinh ý tưởng MUỐN Ðộc lập thật sự, dù rằng dân chúng trong nước vẫn có các lập trường chính trị khác biệt như chỉ muốn thống nhất khi có điều kiện hợp lý. Duy trì tình trạng cũ và đám đông muốn độc lập.
Ngoài ra trên vấn đề ngôn ngữ cũng là một phức tạp, tuy rằng cả hai nước, đều lấy tiếng Quan Thoại làm Quốc Ngữ nhưng cách kết cấu, mỗi nơi mỗi khác, trong lúc người Hồng Kông-Ðài Loan dùng Quan Thoại-Phồn Thể, thì Trung cộng sử dụng Quan Thoại-Giản Thể, đó là chưa kể tới các dị biệt phong thổ từ Ðịa phương. Trong thập niên cuối cùng của Thế Kỷ 20, Ðài Loan đứng đầu trong 4 con rồng kinh tế Á Châu dù rằng Ðảo Quốc đã bị Trung cộng cô lập trên trường ngoại giao, nhưng sự thành công quá mức của Ðài Loan, làm cho Âu Mỹ và Nhật lúc đó đã phản trắc bỏ rơi Họ, cũng đã phải muối mặt quay lại cầu cạnh trong sự giao dịch mua bán và tự nguyện bảo vệ ngấm ngầm Ðài Loan trước sự xâm lăng võ lực, bởi vì có quá nhiều quyền lợi ở đây. Ðể phá giải thế gọng kìm chiến lược của Tàu đỏ, Ðài Loan trong vòng 15 năm qua, đã tung tiền rất nhiều để đấu tư vào các nước quanh vùng như Việt Nam, Phi Luật Tân, Thái Lan và Mã Lai.

Thời gian từ 1997-2000, nhờ chính sách kinh tế năng động, góp vốn nên Ðài Loan đã thoát được cuộc khủng hoảng kinh tế kinh khiếp, đã làm cho Nam Dương, Thái Lan, Nam Hàn, Mễ Tây Cơ và Ba Tây gần sập tiệm nếu như không có Quỹ Tiền Tệ Thế Giới tiếp hơi, giúp vốn. Trong lãnh vực thị trường chứng khoáng,nhờ chủ trương tự do hóa, nên mấy năm gần đây đã thu hút được nhiều công ty ngoại quốc tham gia, trở thành liên mạng, chịu sự ảnh hưởng và biến động của các thị trường quốc tế tại Nữ Ước, Ðông Kinh, Luân Ðôn. Ngày 18.3.2000, cuộc bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống với 5 liên danh đã đem lại sinh khí mới cho Ðài Loan. Liên danh thứ 5 của Trần Thủy Biển, Cựu Thị Trưởng Ðài Bắc và Lữ Tú Liên, Nữ Huyện Trưởng Ðào Viên, đại diện cho Ðảng Dân Chủ Tiến Bộ đã trứng cử với 4,4 triệu phiếu, đạt tỷ lệ 39% tổng số cử tri đi bầu. Như vậy, Quốc Dân đảng sau 50 năm cầm quyền đã bị thảm bại trước Ðảng Dân Chủ Tiến Bộ. Ðiều này cho thấy dân chúng Ðài Loan đã quyết tâm ủng hộ cương lĩnh của đảng bằng lá phiếu, để cùng xây dựng một nước Cộng Hòa Ðài Loan chủ quyền, độc lập và tự chủ. Một luồng gió mới đã thổi vào sinh hoạt chính trị, càng khiến cho dân chúng vững tâm hơn trước đe dọa của kẻ thù, lúc nào cũng muốn ăn tươi nuốt sống Họ. Theo nhận xét của Giáo Sư Võ Chấn Tư tại Ðại Học Quốc Gia Ðài Bắc, thì đây là lần đầu tiên, có sự chuyển giao quyền lực một cách êm thắm giữa hai Ðảng chính trị và Ông cũng hy vọng một ngày nào đó, sự tái diễn của lịch sử lại xảy ra tại Hoa Lục, cũng giống như đã xảy ra tại Ðài Loan. Ðể chấm dứt bài diễn văn đầu tiên ngày nhậm chức, Tổng Thống Trần Thủy Biển đã hô to khẩu hiệu ''Tự Do Dân Chủ muôn năm''.

Trong vấn đề này, Liên Hiệp Quốc đã làm một chuyện vô duyên không thể tưởng tượng nổi, đó là dùng áp lực ngoại giao cấm quốc tế liên hệ với Ðài Loan, nên chỉ có 4 trong số 30 Quốc Gia công nhận Ðài Loan, tới tham dự buổi lễ, đó là các nước Thụy Sĩ, Nicaragua, Palau và Nauru. Riêng Mỹ thì Tổng Thống Bill Clinton, cử Laura Andrea Tyson, một Cựu Cố Vấn Tòa Bạch Ốc, tham dự vì hai nước đang liên hệ mua bán vũ khí, quân dụng lên tới hàng tỷ Mỹ kim. Phản ứng đầu tiên của Trung cộng qua bài diễn văn nhậm chức của Tổng Thống Trần Thủy Biển, ngoài sự dự liệu của mọi người, là Bắc Kinh chỉ nhắc tới việc Ðài Loan thiếu thành thực hay cố tình tránh né, để cùng với Trung cộng tiếp nhận, nguyên tắc một nước Trung Hoa. Ngày 12.8.2002 tại Ðài Bắc, Tổng Thống đã lên tiếng tại một cuộc họp của Liên Ðoàn Ðoàn Kết Ðài Loan rằng Ðảo Quốc chẳng bao giờ sợ hãi trước hăm dọa của Trung cộng nhưng để duy trì hòa khí giữa hai nước, ông không nhắc lại với Quốc Hội việc tổ chức trưng cầu dân ý về tương lai của Ðài Loan, cũng như xin lỗi vì phải hủy bỏ chương trình tập trận chống tàu ngầm. Tuy nhiên thái độ của Cựu Tổng Thống Lý Ðăng Huy thì khác, Ông tuyên bố ủng hộ lập trường của Tổng Thống Trần Thủy Biển rằng MỖI BÊN EO BIỂN ÐÀI LOAN là một nước, đó là sự thật trong mối quan hệ đặc biệt giữa Quốc Gia và Quốc Gia. Như lửa chế thêm dầu, ngày 18.8.2002,nhiều Ðồng Minh của Ðài Loan hô hào Liên Hiệp Quốc phải cứu xét để cường quốc kinh tế Ðài Loan được gia nhập Tổ Chức Quốc Tế này vì đó là quyền lợi chính đáng của 23 triệu người. Chắc chắn là đề nghị lại bị bác bỏ nhưng điều trên, ít ra cũng làm Trung cộng nao núng vì uy thế của kẻ có tiền.

Theo tin từ Reuters, sở dĩ Ðài Loan dự định mở cuộc trưng cầu dân ý vì đã thấy rõ dã tâm của họ Giang, qua việc đem mồi bắt bóng bọn thương buôn, trong hứa hẹn là sẽ bổ nhiệm một vài tên kinh doanh đang làm ăn tại Hoa Lục, vào làm cố vấn cho đảng và nhà nước về vấn đề Ðài Loan. Trò này, Giang đã thực hiện một lần thành công trong kế hoạch chia rẽ chính quyền và dân chúng Hồng Kông trước đây, nhưng lần này Giang coi như thất bại, khi Tổng Thống Ðài Loan tuyên bố: '

"Ðài Loan không phải là một phần lãnh thổ của một nước khác, không phải là chính quyền địa phương.Nói thẳng ra,Ðài Loan và Trung cộng,mỗi bên là một nước.Ngoài ra giới làm ăn buôn bán với Trung cộng,không phải là tiếng nói,cũng chẳng là đại diện cho ai cả,mà quyết định là do toàn dân Ðài Loan''
.

Đài Loan, vết dao trí mạng trong tim phổi Trung cộng

1. Chiến cuộc năm 1954-1955 tại eo biển Đài LoanNăm 1949 Tưởng Giới Thạch thua chạy ra Ðài Loan nhưng nhờ đã chuẩn bị trước, cũng như đã di chuyển toàn bộ của cải vàng ngọc, bảo vật của Trung Hoa tới Ðảo, đồng thời được Hoa Kỳ viện trợ quân phí thêm 3 tỷ mỹ kim, vì vậy Tưởng Giới Thạch đã nhanh chóng lập lại Quân Ðội hơn 500.000 người, đủ sức phòng thủ Ðảo Quốc, ngoài ra còn nuôi mộng đổ bộ tái chiếm Hoa Lục, lúc đó cũng đang vướng chân vào nhiều vũng lầy tại Bắc Cao, Ðông Dương, Tây Tạng và vùng tam biên Miến-Lào-Vân Nam. Tháng 12.1954, sau khi đã chuẩn bị xong, Tưởng Giới Thạch tuyên bố tái chiếm Hoa Lục, nhiều cuộc đụng độ giữa hai bên bằng hải và không quân rất ác liệt. Thật ra chiến tranh đã chính thức xảy ra vào lúc 1 giờ 45 sáng ngày 3.9.1954 do đại pháo của hồng quân, dưới quyền chỉ huy của Tướng Chu Ðức, Tổng tư lệnh, bắn từ bờ Hạ Môn, Phúc Châu trong Tỉnh Phúc Kiến vào các Ðảo thuộc Trung Hoa Quốc Gia như Bành Hồ, Ðại Trần, Kim Môn và Mã Tổ.

Tại Hoa Kỳ, tình trạng bất đồng ý kiến đã xảy ra giữa Tổng Thống Eisenhower và Tư Lệnh Thái Bình Dương là Ðề Ðốc Radford quanh vụ Mỹ sẽ oanh tạc Hoa Lục để giải cứu Ðài Loan. Cuối cùng cả hai chịu theo phương cách của Ngoại Trưởng Dulles, nhờ Liên Hiệp Quốc kêu gọi hai bên ngưng bắn. Tuy nhiên lúc đó Liên xô và Trung cộng còn cùng phe nên đề nghị của Mỹ bị bác bỏ. Do trên cuộc chiến vẫn tiếp diễn, ngày 18.1.1955, cảm tử quân Trung cộng đổ bộ lên Ðảo Ykian trong nhóm Tachen cách Ðài Loan 350 km về hướng Bắc, nhưng Mỹ đã thuyết phục được Tưởng Giới Thạch bỏ nhóm Ðảo này, sau khi di chuyển hết 35.000 quân dân về Ðài Loan. Cũng kể từ giờ phút này, Mỹ cảnh cáo là nếu hồng quân tiếp tục tấn công các lãnh thổ khác của Trung Hoa Quốc Gia, một cuộc chiến tranh sẽ phải xảy ra và Mỹ phải oanh tạc Hoa Lục để bảo vệ Ðài Loan theo thỏa ước mà hai nước đã ký. Nói là làm,Ðệ Thất Hạm Ðội đã được điều động tới án ngữ kín vùng biển Phúc Kiến, được lệnh phản công khi Trung cộng vượt qua vùng ranh đỏ giới hạn, đồng thời Hoa Kỳ còn nói xa nói gần là sẽ sử dụng nguyên tử nếu Trung cộng dùng biển người như tại Bắc Cao. Và rồi mọi việc đâu cũng vào đó, Trung cộng qua lời cảnh cáo của Liên xô và trên hết là đang hồi tô son trét phấn để tham dự Ðại Hội các nước Á Phi đầu tiên tại Bandoung, Nam Dương, nên ngừng tấn công. Ðài Loan qua áp lực của Hoa Kỳ, cũng rút về các Ðảo Bành Hồ, Kim Môn, Mã Tổ và Ðảo Ðài Loan cho tới hôm nay.

2. Đài Loan ám sát Chu ân Lai. Trong lúc Mao và Tưởng giao chiến ác liệt tại eo bể Ðài Loan, thì tại hải ngoại, chiến tranh gián điệp của cả hai phía cũng nhảy vọt. Hồng Kông được chọn làm nơi so tài và cuộc thử lửa đầu tiên đã xảy ra vào tháng 4.1955, khi Chu ân Lai Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Ngoại Giao Trung cộng, hướng dẫn một phái đoàn gồm 18 người, tham dự Hội Nghị Á Phi tại Bandoung. Trung cộng thuê một máy bay của Hãng Kashmir-Prinsess của Ấn Ðộ. Máy bay đã nổ trên không nhưng Chu ân Lai vẫn sống và có mặt tại Hội Nghị ngày 11.4.1955. Bí mật vụ nổ được giữ kín mãi 40 năm sau (1995), cả Trung cộng và Ðài Loan mới chịu vén bức màn bí mật. Chính Steve Tsang (Tăng Vũ Sinh), một chuyên viên tại Ðại Học Oxford, về Trung cộng, đã viết trên báo The China Quarterly, một tài liệu giải mật vụ án trên và kết luận thủ phạm là Cơ Quan Ðặc Vụ của Tưởng Giới Thạch nhưng do CIA lãnh đạo.

Theo tài liệu của Trung cộng thì đây là kế hoạch của Cục Bảo Mật Quốc Dân Ðảng giao cho Tổ Tình Báo Hồng Kông thi hành, mà người đứng đầu là Chu Vũ Thành và kẻ thi hành đặt chất nổ trên máy bay là Chu Câu, tức Chu Tân Minh, một công nhân lau máy bay làm việc trong Phi Trường Hồng Kông. Theo tin tức thu nhận, Chu ân Lai và các yếu nhân Trung cộng, trên đường từ Bắc Kinh tới Jakarta, máy bay sẽ ghé Phi Trường Khải Ðức để tiếp nhiên liệu và Chu Câu đã đặt được chất nổ trong thời gian đó. Lúc 12 giờ 15 ngày 11.4.1955, máy bay lại cất cánh và đã nổ gần bờ biển Nam Dương khoảng 100 dặm, vào lúc 6 giờ 30 cùng ngày .Ngoại trừ 3 trong 5 Phi Hành Ðoàn còn sống sót, tất cả hành khách đều chết, trong số này có Hoàng Dương, trưởng ban tân hoa xã tại Hồng Kông. Chu cùng nhiều cán bộ cao cấp thoát chết? Riêng Chu Câu thoát được sang Ðài Loan. Sau này qua những tài liệu từ mọi phía, mới biết được là Trung cộng đã nắm được kế hoạch phá máy bay giết Chu ân Lai, thế nhưng Trung cộng vẫn không thay đổi lộ trình, chịu hy sinh một vài con ngóe để có cớ chống Mỹ-Anh và Ðài Loan, riêng Chu cùng nhân viên cao cấp, lấy cớ bận họp nên phải đi Ngưỡng Quảng rồi mới ghé Nam Dương. Tất cả sự việc vào năm 1994, được Cốc Chính Văn lúc đó đã 85 tuổi, người đã giữ chức Tổ Trưởng Tổ Bảo Mật Cục Tình Báo Quốc Dân Ðảng, xác nhận do Tưởng Giới Thạch ra lệnh và ông cho biết, tin Chu đổi lộ trình, Ðài Loan cũng nắm biết nhưng vì thời giờ cấp bách nên không thể đổi kế hoạch. Riêng chất nổ TNT thuộc loại cao cấp, được đặc chế thành kem đánh răng, do CIA Hồng Kông cung cấp. Chiếc máy bay sau đó được Nam Dương trục vớt và ráp lại, theo nhân chứng còn sống, thì cánh phải phi cơ phát nổ trước và do bộ phận điều khiển bị tháo gỡ, nên phi cơ đã rơi rất nhanh từ cao độ 18.000 mét Anh xuống biển.

3. Trung cộng và Đài Loan chạy đua vũ lực.

Từ sau khi bị thằng đầy tớ phản chủ đá giò lái thua đau trên khắp Ðông Dương, Trung cộng quyết tâm trả thù và thề sẽ dạy cho cộng sản Việt Nam cũng như các nước trong đó có Ðài Loan những bài học. Ngoài vấn đề canh tân hóa quân đội, chế bom nguyên tử, hỏa tiễn, mua sắm tàu chiến, phi cơ để trang bị lên tới tận răng. Tuy nhiên, vấn đề thiết yếu và khiến thế giới lo sợ phập phồng, đó là đạo quân gián điệp đông đảo lên tới 540.200 người, mà Trung cộng đang bủa vây khắp thế giới. Tại Ðài Loan, theo báo cáo của Bộ Trưởng Nội Vụ Bành Hoài Chân, thì Trung cộng hiện có 50.000 gián điệp đang hoạt động trên Ðảo Quốc dưới lốt thương buôn, du lịch ... với mục đích phá hoại và làm lũng đoạt mọi cơ cấu chính quyền bằng đường lối rỉ tai, tuyên truyền. Ngoài ra gián điệp Trung cộng cũng tung hoành khắp nơi, cộng thêm giặc miệng, khiến cho tình trạng an ninh tại Á Châu vốn đã sôi động tại các lò sát sinh Trung Ðông, Vùng Vịnh, Trung Á, nay đang ngùn ngụt bốc khói tại Nam Dương, Phi Luật Tân, Triều Tiên và sôi nổi nhất tại biển Ðông, giữa Trung cộng, Ðài Loan và Việt Nam.

Ngoại trừ việt cộng không thấy nhắc tới, hầu hết như tất cả các Quốc Gia Ðông Nam Á đều chạy đua sắm vũ khí, mà nhiều nhất là các loại tàu chiến, tàu ngầm, phi cơ chiến đấu. Ðây là dấu hiệu cho thấy Thái Bình Dương bắt đầu dậy sóng, đoàn kình ngư năm nào của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ quen hát độc hành trên biển cả, rồi đây sẽ gặp rất là nhiều bạn đồng hành người thù kẻ bạn nhưng điều cần thiết nhất là Trung cộng chắc hẳn cũng đã thấy cái thế mạnh của Hải Quân các nước Ðông Nam Á sau này, đó là chưa kể con đại kình Nhật Bản, Nam Hàn, Ðài Loan. Lúc nào cũng chờ thời cơ xé xác thiên quốc như Hạm Ðội Nhật đã làm trong trận chiến Hoàng Hải năm 1895 và mới đây giữa Hải quân Bắc-Nam Hàn vào tháng 6.2002.

Riêng Trung cộng và Ðài Loan thì khỏi phải nói, nước nào hiện nay cũng đang giàu xụ, cho nên tha hồ vung tiền mua sắm. Mới đây, theo báo cáo của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, thì Trung cộng đã mua thêm của Nga 8 tàu ngầm loại tối tân Kilo Class, trị giá hơn hai tỷ mỹ kim. Số tàu này cộng với 60 chiếc cũ, dùng để phong tỏa Ðài Loan. Nhưng theo các chuyên viên, ngoài số tàu chiến mua của Nga, tàu đóng của Trung cộng tại Lữ Thuận và Sơn Ðông yếu kém về mọi mặt, nên khó lòng đạt được chiến thắng khi thật sự đụng trận vì Trung cộng chưa phải là một cường quốc trên đại dương.

Ðể đối phó, Ðài Loan đã mua của Mỹ 8 tàu ngầm tối tân, trang bị bằng thủy lôi và hỏa tiễn cực mạnh, có tầm hoạt động xa, cho nên đối với các loại chiến cụ này, Trung cộng làm sao bao vây kẻ thù cho nổi. Tuy nhiên Trung cộng cho biết đang có hạm đội tàu ngầm hùng mạnh, khiến cho Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ sẽ né sợ khi có chiến tranh. Hiện nay Ðài Loan đang nhờ Mỹ trang bị dùm cho một Hạm Ðội tàu ngầm tối tân, cộng thêm những Phi Ðội hiện có, toàn các loại máy bay hiện đại nhất của Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Do Thái. Một công ty đầu tư Liên doanh Ðài Loan-Hoa Kỳ tên là One Equity Partmenrs đã mua lại cộng ty chế tàu Ðức HDW 75% cổ phần,qua sự trợ giúp kỹ thuật của Ðức-Do Thái, từ đây Ðài Loan, qua cố vấn Mỹ công khai và tha hồ đóng tàu ngầm, trước sự hù hét không tiếc lời của Trung cộng.

VIỆT NAM - TRUNG CỘNG

Theo nhận xét của các nhà phân tích thời sự, thì dù Trung cộng không đánh với Ðài Loan, Trung cộng vẫn gây chiến với các nước quanh vùng trong đó có Việt Nam vì các mỏ dầu khí to lớn được phát hiện tại Hoàng Sa và Trường Sa. Lần trước trong cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1945-1975), Trung cộng tốn người, tốn của, rốt cuộc khi chiến tranh kết thúc chỉ có Mỹ, việt cộng và Nga thu lợi, còn Trung cộng thì mất hết kể cả những con bò sữa Hoa Kiều hải ngoại tại Việt Nam, Kampuchia, Lào, Thái. Lần này, Trung cộng lại làm một câu chuyện vô duyên thêm là lớn miệng hăm dọa các nước quanh vùng, khiến họ sợ hãi, phải bỏ tiền mua sắm vũ khí, làm giàu cho bọn da trắng, Do Thái, tạo thêm bất lợi và trên hết là tạo cơ hội và lý do để thế chiến lược bao vây con cọp đói của Hoa Kỳ, Nam Hàn, Nhật Bản, Úc và Tân Tây Lan thành hình. Tóm lại Trung cộng ngày nay đang bốn bề vây hãm ,ngày xưa Kissinger dụ Mao-Chu liên minh chống Liên xô, ngày nay Mỹ cũng đang dụ Putin liên minh để hạ độc thủ Trung cộng như ngày trước, lịch sử thì ra vẫn là sự xoay vần. Có người bảo Ðài Loan hiện đang bỏ ra cả 70 tỷ đô la đầu tư vào Hoa Lục, hai bên đang làm ăn ngon lành,t hì làm sao có chiến tranh được. Chuyện này thật ra đâu có mới mẻ gì vì tuy không ra đời chính thức, khối kinh tế Trung Hoa (C.E.A Chinese Economic Area) cũng đã được thành lập giữa ba nước Trung cộng, Ðài Loan và Hồng Kông vào năm 1978, tức là sau khi Trung cộng mở cửa, đổi mới kinh tế và kêu gọi đầu tư quốc tế. Khối gọi tên là Ðại Trung Hoa hay Ðại Hán vì nó chỉ gồm có ba nước nói tiếng Trung Hoa. Riêng Tân Gia Ba không được vào vì chỉ có 70% gốc Trung Hoa và số dân này không nói tiếng Hán. Ðặc biệt của khối kinh tế này là chỉ nói tới chuyện làm giàu mà thôi, còn về chính trị, lập trường, đường ai ấy đi cho nên Trung cộng và Ðài Loan vẫn giữ nguyên thái độ cứng rắn về Quốc phòng, Lãnh thổ và thể chế chính trị. Tuy nhiên để làm ăn chung cùng kiếm tiền.

Trung cộng đồng ý từ bỏ phần giáo điều của chủ thuyết Mac-Le-Mao trong sinh hoạt kinh tế, để chấp nhận kinh tế thị trường theo tư bản. Ðài Loan qua Quốc Dân đảng cũng chấp nhận từ bỏ độc quyền, cho phép chính phủ và quốc dân có quyền mang vốn để đầu tư vào Hoa Lục kiếm lời.Riêng chính phủ Anh cũng cho phép thương gia Trung cộng và Hồng Kông hợp tác thương mại. Cũng chính nhờ sự hòa giải hợp tác này, mà họ Giang của Trung cộng đã dùng mồi danh lợi khuyến dụ được một số lớn gian thương Hồng Kông phản bội, kết quả người Anh phải bỏ Hồng Kông trong đắng cay. Bây giờ Giang lại bổn cũ soạn lại nhưng đã bị Ðài Loan chặn họng tức khắc, khiến cho Bắc Kinh lại nổi nóng và hăm đánh như đã từng hăm đánh Ðài Loan nhiều lần. Có điều người Ðài Loan du lịch hay thăm bà con, đi thì về chứ không ai xin ở lại Trung cộng tỵ nạn chính trị, điều đó cho thấy đâu mới là thiên đàng xã nghĩa. Một mai khi chiến tranh kết thúc, thiên triều chắc chắn sẽ bại trận, các nước Ðài Loan, Mãn Châu, Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng, Qúy Châu, Hải Nam chắc chắn sẽ tách thành các nước độc lập. Không biết lúc đó việt cộng nếu còn, có dám đòi lại biên cương, Hải Ðảo và phần biển đã bán nhượng cho kẻ thù bao năm qua?

Tài liệu tham khảo: Người Hoa tại Việt Nam của Nguyễn Văn Huy. Chân nhung nước Nhật ở Á Châu của Nigel Holloway và Phillip Bowring Bí lục Kissinger của Bill Burr Ðài Loan của Nguyễn Hữu Vinh Ðài Loan tiến trình hóa rồng của Hoàng Gia Thụ C.I.A của Andrew Tully Lịch sử chiến tranh lạnh của André Fontaine Tội ác trên thế giới của Kiêm Thêm Việt Nam và trật tự Trung Hoa của Nguyễn Xuân Nghĩa. Các báo Việt Báo, Người Việt, Diễn Ðàn Phụ Nữ, Tiền Phong, Hồn Việt ...

Trung Cộng cơn ác mộng của nhân loại trong thế kỷ XXI

Tháng 2.1972, Mao trạch Ðông và toàn bộ đảng cộng sản Tàu, trải thảm nhung, mở rèm sắt, chào đón vợ chồng Nixon và Kissinger tới thăm hữu nghị Trung cộng. Sau đó, Mỹ chủ động viện trợ các vũ khí chiến lược kể cả vệ tinh cung cấp tình báo cho kẻ thù, để ly gián tình đồng chí của Liên xô và Trung cộng. Tháng 7.1973, James Lilley, xuất thân là CIA sau trở thành Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Trung cộng, đã được cử làm Trưởng Trạm Tình Báo Hoa Kỳ, dọc theo ranh giới Nga Hoa. Tháng 4.1975, Tổng Thống Carter lại viện trợ cho Trung cộng nhiều thiết bị điện tử hiện đại và các quân trang quân dụng để Tàu cải tổ lại hệ thống quân đội vốn ô hợp và yếu kém. Cũng kể từ đó, mối quan hệ giữa hai nước càng lúc càng tốt đẹp. Tuy ngoài miệng Mỹ lúc nào cũng phản đối Trung cộng về vụ Thiên An Môn và chà đạp nhân quyền, nhưng đột nhiên không khí chiến tranh lạnh giữa hai khối tây phương và cộng sản đã chấm dứt từ năm 1991 khi Liên bang Xô viết và khối Ðông Âu tan rã, lại được hâm nóng hừng hực sự vụ Mỹ thẳng thừng tố cáo Trung cộng đã cho gián điệp là Wen Lee Ho, ăn cắp hồ sơ chế tạo vũ khí hạch nhân tại Trung Tâm Nguyên Tử Los Alamos (Hoa Kỳ). Cũng kể từ ngày 8.3.1999 nước Mỹ xôn xao và báo động về tin tức cực kỳ nghiêm trọng trên và dù Thủ Tướng Trung cộng là Zhu Rongji (Chu dung Cơ) đã đến Mỹ để giải độc ngày 8.4.1999 cũng như Tổng Thống Bill Clinton hết sức trấn an dân chúng nhưng làn sóng chống đối Trung cộng vẫn dữ dội. Nhân loại chưa bước chân vào ngưỡng cửa của Thế Kỷ 21, thì trong năm cuối cùng (1999) đã xảy ra nhiều biến cố đẫm máu tại Iraq, Ấn Ðộ, Nam Dương, Kosovo. Tuy nhiên đây cũng chỉ là những vẫn đề cục bộ, những đám cháy nhỏ có thể lần hồi dập tắt, nếu đem so sánh với dã tâm thôn tính toàn cầu của Trung cộng. Chuyện gì sẽ xảy đến cho các nạn nhân chiến tranh? Như quá khứ Mông Cổ đã làm cỏ từ Á sang Âu vào Thế Kỷ 13, Trung cộng tấn công các lãnh thổ các Quốc Gia độc lập Mãn Châu, Mông Cổ, Tân Cương, Tây Tạng, Việt Nam. Cơn ác mộng của nhân loại đã bắt đầu ló dạng và theo sự ước đoán của Giáo Sư Samuel Huntington, Ðại Học Harvard trong tác phẩm The Clash of Civilisations and The Remarking of World Order, thì khi xảy ra cuộc chiến, Việt Nam sẽ là vùng đất đầu tiên để Trung cộng giương oai, ló vuốt với nhân loại.

Trung cộng đánh cắp công thức chế tạo bom trung hòa tử Ngày 24.4.1970, tại bệ phóng Tửu Tuyền, bên dòng Sông Nhược Thủy, Tỉnh Cam Túc gần Sa Mạc Gobi, thuộc miền Tây Bắc nước Tàu. Lần đầu tiên Trung cộng chế tạo thành công hỏa tiễn CZ1 (trường trinh 1), để phóng vào quỹ đạo vệ tinh Ðông Phương Hồng 1. Tính đến nay, Trung cộng đã có 49 vệ tinh được phóng đi từ các căn cứ Tây Xương (Tứ Xuyên), Thái Nguyên (Sơn Tây), Tửu Tuyền (Cam Túc) và Ðảo Hải Nam. Trong các căn cứ trên, Tây Xương được coi như hiện đại nhất, được xây dựng từ năm 1975 và hoàn thành vào ngày 7.4.1990, nằm trên một cao nguyên 1500 m, cách Thành Ðô 500 km về hướng Ðông Nam. Năm 1992, Trung cộng phóng vệ tinh cho Úc Ðại Lợi, có mời Trương Kế Cao, Chủ Bút Dân Sinh (Ðài Loan) và nhiều ký giả Tây Phương đến tận nơi để chiêm ngưỡng. Nhưng lần đó (1992) cũng như sự kiện ngày 15.2.1996 tại Tây Xương hỏa tiễn và vệ tinh vừa phóng ra đã bị tiêu hủy, làm nhiều nước hủy bỏ hợp đồng hợp tác không gian với Trung cộng. Chính những thất bại liên tiếp trên, đã cho Trung cộng phải dùng gián điệp cũng như tiền bạc để đánh cắp các hồ sơ bí mật của Tây Phương và Mỹ, bổ túc lại các nghiên cứu kỹ thuật của họ trong mất chục năm qua. Ngày 18.7.1998, trong khi Trung cộng và Pháp hân hoan chúc mừng vụ phóng vệ tinh thành công tại căn cứ Tây Xương, thì Mỹ phản pháo đầu tiên, tố cáo các thiết bị ở căn cứ không gian Tây Xương, không đạt tiêu chuẩn quốc tế và thiếu sự an toàn, đồng thời ngày 21.5.1998 trước đó, Quốc Hội Mỹ đã ban hành một đạo luật gồm 4 khoản, cấm Hoa Kỳ không được hợp tác ngành không gian với Trung cộng. Ngày 8.3.1999, chánh phủ Mỹ lại lên tiếng cáo buộc Trung cộng đã gài điệp viên Wen Lee Ho vào làm việc tại căn cứ Nguyên Tử Los Alamos.Chính Lee đã lợi dụng chức vụ, cung cấp nhiều tài liệu tuyệt mật cho Trung cộng. Hành động trên đã bị CIA phát hiện và theo dõi từ ba năm qua, cuối cùng Lee bị sa thải để điều tra sự việc đánh cắp bí mật W88, liên quan tới đầu đạn hạt nhân tối tân nhất của Hoa Kỳ hiện nay. Tất cả hồ sơ về Lee cũng như các nghi vấn bị lộ tin ra ngoài, tại các căn cứ Nguyên tử khác ở Sandia (New Mexico), Lawrence Livermore (California) đã được đệ trình Quốc Hội. Nội vụ hiện trong vòng điều tra nhưng chắc tìm được chứng cớ để buộc tội đương sự. Riêng Trung cộng thì bác bỏ cáo buộc này. Thật ra những tài liệu mật tại Căn Cứ Los Alamos, luôn luôn bị tiết lộ ra ngay từ thập niên 1980, thời Tổng Thống Reagan và Bush. Riêng nội vụ sau khi đổ bể, Tổng Thống Bill Clinton đã bị cáo buộc và chỉ trích nặng nề là tắc trách, làm Mỹ bị đánh cắp một số đầu đạn hạch nhân vào năm 1995. Ðầu mối phát hiện được Lee làm gián điệp cho Trung cộng, bắt nguồn từ vụ vợ chồng điệp viên Kurt Stand và Theresa Squillacote, nhân viên cao cấp phục vụ tại Tòa Bạch Ốc, bị bắt và kết tội ngày 22.1.1999.Do sự khai thác trên, FBI và CIA đã phát hiện được sự hoạt động bí mật của Lee. Căn Cứ Thí Nghiệm Nguyên Tử Los Alamos được thành lập vào năm 1943 trong bí mật tuyệt đối với danh xưng là Ngọn Ðồi. Chính quả bom nguyên tử của Mỹ cũng được chế tạo tại Căn Cứ này. Vì tính cách quan trọng, nên căn cứ Los Alamos coi như được phòng thủ cẩn mật nhất nước Mỹ, vì ngoài các hồ sơ còn có Khu Tech 55 tích trữ chất phóng xạ Platonium. Tuy vậy, nhiều vụ phản bội đã xảy ra tại đây liên tục như vụ sáu Khoa Học Gia Mỹ bán tài liệu mật cho Liên xô năm 1940, vụ Khoa Học Gia gốc Ðức Klans Fuchs, hợp tác với nhiều Khoa Học Gia Mỹ như Etkel, Julius Rosenberg, Theodore Hall cung cấp tài liệu chế tạo bom nguyên tử cho Liên xô, nhờ vậy nước này đã chạy đua với Mỹ trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh.

Trung Cộng: Cơn ác mộng của các nước Á Châu Và Thế Giới.

Phân tích tiền lực của quân đội Trung cộng ngày nay, các chiến lược gia và quân sự của Mỹ nhận định rằng: ''Trung cộng hiện nay là một cơn ác mộng đối với các nước Ðông Nam Á, kể cả thế giới vì khả năng dàn quân nhanh chóng tới các vùng chiến sự bất cứ nơi nào". Lực lượng đặc biệt về quân sự này, rõ ràng nói lên quyết tâm làm cỏ nhân loại khi cần như nhảy vó ngựa năm xưa của Hốt Tất Liệt. Ðể đạt được mục tiêu quân sự, Trung cộng đã tăng cường quân số lên đến 2 triệu 300 ngàn người, chia thành 84 sư đoàn bộ binh và 10 sư đoàn thiết giáp, trang bị từ 5.000-8.000 xe thiết giáp đủ loại. Ngoài ra lập thêm các binh chủng thủy quân lục chiến và nhảy dù, sử dụng nhiều tàu chiến và phi cơ chiến đấu. Sự tăng trưởng quân đội khiến cho Trung cộng ngày nay là cái đích để các Quốc Gia trong vùng bất thân thiện và đề phòng. Các mục tiêu có thể bị tấn công không riêng gì Việt Nam, Ðài Loan hay các nước Ðông Nam Á, kể luôn Ấn Ðộ, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Việc lộng hành trên và cũng từ luận điệu muốn đuổi Mỹ ra khỏi Á Châu, để Trung cộng trám chỗ, đủ khiến Mỹ, Nhật có cớ thành lập hiệp định an ninh Mỹ-Nhật ngày 17.8.1997, nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho Nhật, Mỹ ,Ðại Hàn, Ðài Loan và Phi Luật Tân. Từ ngày 14.12 đến 16.12.1997,Thủ Tướng Nhật là Hashimoto đã đại diện Mỹ, đi khắp các nước Ðông Nam Á,vừa mở hầu bao hứa giúp đỡ họ qua cơn khủng hoảng kinh tế, vừa yêu cầu xác nhận lập trường là theo Mỹ-Nhật hay Trung cộng. Dĩ nhiên trước đồng Yên và Ðô La vạn năng, các nước trên đã Okey theo Mỹ-Nhật, dù lúc đó có sự hiện diện của hoàng đế đỏ Giang trạch Dân cũng đang đi kinh lý các nước Ðông Nam Á. Một mặt ve vãn trong khối Asean, mặt khác Trung cộng kết thân với Iraq, hứa mua dầu và đổi lại sẽ cung cấp các vũ khí hiện đại để chống lại Mỹ và Tây Phương. Người Mỹ đã phản ứng lại bằng cách yêu cầu tòa đại sứ Trung cộng rút ngay khỏi Baghdad lập tức, để Liên Quân Anh Mỹ oanh tạc Iraq ngày 17.12.1998 đồng thời còn công khai ra giá cái đầu của Sadam Hussein là 1 triệu đồng, khiến cho Trung cộng tức ói máu nhưng vẫn im lặng. Cuối cùng, để khỏa lấp phần nào những gay cấn vừa xảy ra, Trung cộng mời Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ sang thăm xã giao ngày 17.1.1999 và muốn mua các máy móc siêu điện tử, nhưng bị Cohen thẳng tay từ chối và đến nay, Quốc Hội Mỹ cũng đã ra lệnh ngưng bán các thiết bị trên cho Trung cộng.

Tóm lại dù không có đủ khả năng để chống chọi trực tiếp với Hoa Kỳ, nhưng Trung cộng vẫn thừa sức chơi lén nhân loại với kho vũ khí hiện đại gồm có bom nguyên tử, hạt nhân, hóa học, vi trùng và đạo quân gián điệp với hai nhiệm vụ tình báo và khủng bố tới 540.200 người do Lý Bằng, Giang trạch Dân, Kiều Thạch và Dương thạch Côn chỉ huy ,đang hoạt động khắp nơi trên Thế giới kể cả Hoa Kỳ. Trung cộng dùng chính sách đồng hóa để tiêu diệt các dân tộc bị trị Lãnh thổ nguyên thủy của người Hán được gọi là Trung Nguyên chỉ gồm có 18 Tỉnh là Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Ðông, Sơn Tây, Thiểm Tây ,Cam Túc, An Huy, Giang Tô, Giang Tây, Chiết Giang, Tứ Xuyên, Phúc Kiến, Hồ Bắc, Hồ Nam, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Ðông và Quảng Tây. Ðời các Vua Khang Hy và Càn Long, nhà Thanh đem Mãn Châu sát nhập vào Trung Hoa, đồng thời chiếm thêm vùng Nội Mông, Hồi Cương để lập thêm các Tỉnh mới như Thanh Hải, Tây Khang, Tây Hạ, Sát Cáp Nhĩ, Liệc Ninh, Thẩm Dương và Hắc Long Giang. Năm 1949, Trung cộng sau khi đuổi Tưởng Giới Thạch ra khỏi Hoa Lục, xua quân chiếm Quốc Gia Tây Tạng, Ðảo Hải Nam. Riêng Ðảo Ðài Loan đến nay vẫn coi như một Quốc Gia riêng biệt. Hồng Kông đã trả về Trung cộng năm 1997 và Ma Cao vào ngày 31.12.1999. Nhờ xâm lăng đất đai của các Dân Tộc Mãn Châu, Mông Cổ, Hồi Cương và Tây Tạng nên Trung cộng hiện nay có lãnh thổ đứng thứ ba trên thế giới (sau Nga và Gia Nã Ðại),với diện tích là 9.560.734 km2 và dân số là 1 tỷ 139 triệu người.

Chính sách đồng hóa để tiêu diệt của các Dân Tộc nhược tiểu là thái độ muôn đời của vua chúa Trung Hoa, mới đây được đem áp dụng tại Nội Mông và Tây Tạng do Chen Kui Yuan, nguyên thái thú tại Nội Mông, sau khi bình định xong vùng đất trên, thuyên chuyển tới Tây Tạng để tiêu diệt Dân Tộc này. Ðể tiến hành chính sách thâm độc trên, Trung cộng cho di dân ào ạt vào lãnh thổ Tây Tạng. Ngoài ra ngăn cấm sự sanh đẻ các dân bản xứ, bằng kế hoạch phá thai và số lớn người Tây Tạng đã chết khi nổi lên chống lại sự xâm lăng của người Tàu. Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, vị lãnh đạo tinh thần và thế tục của Dân Tộc Tây Tạng đã được các điệp viên CIA giải thoát cùng với đoàn tùy tùng hơn 100 người, vào một đêm tối 17.3.1959, đưa ngài đến vùng an toàn tại Népal. Hạn chế sinh sản vẫn không làm tiêu diệt hết dân Tây Tạng, Trung cộng lại thi hành thêm chánh sách đàn áp Phật Giáo Tây Tạng, để dân chúng địa phương mất gốc, dễ dàng bị đồng hóa theo người Tàu. Bao nhiêu chùa chiền tại Tây Tạng bị phá bỏ, hơn 1 triệu người phần lớn là tu sĩ bị sát hại. Số dân chúng và tu sĩ còn lại bị cán bộ công an Trung cộng nhồi sọ hàng ngày. Những ai chống lại đều bị trục xuất khỏi Thành Phố, cấm hành nghề. Chữ Tây Tạng được lần hồi thay thế bằng Hán Tự, tại các Viện Ðại Học ở Lhassa. Mặt khác, đối với các tu sĩ sống trong các hang động hẻo lánh, cũng bị Bắc Kinh đánh thuế, ai khước từ sẽ bị đuổi đi nơi khác. Trước sự bạo hành thô bỉ trên, lớp lớp người Tây Tạng nổi lên chống lại Trung cộng bằng đủ mọi hình thức, trong đó chống đối mạnh nhất vẫn là Bộ Tộc Khang Ba được sự yểm trợ quân sự của CIA. Nhiều Tăng lữ và dân chúng đã phải bỏ Quê Hương để lưu vong. Nhiều người đã chết vì đói lạnh, sau khi vượt qua con đường dài hiểm nguy giữa Tây Tạng và Népal để tới Katmandoa. Ngoài Tây Tạng, Hồi Cương, Nội Mông, Mãn Châu.

Trung cộng luôn hướng về Ðông Nam Á và nạn nhân đầu tiên vẫn là Việt Nam, tiền đồn ngăn cản bước chân của Trung cộng xuống miền Nam. Tháng 1.1974, Trung cộng xua quân cưỡng chiếm Ðảo Hoàng Sa của Việt Nam. Tháng 2.1979, một trận ác chiến đã xảy ra giữa việt cộng và Tàu cộng, tàn phá hoàn toàn 5 Tỉnh biên giới của Việt Nam là Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Lào Kay, Tuyên Quang thành bình địa. Năm 1988, Trung cộng vẽ lại bản đồ, nới rộng lãnh hải, tuyên bố chủ quyền 85% trên biển Ðông, rồi dùng vũ lực cưỡng chiếm 7 Ðảo của Việt Nam tại Quần Ðảo Trường Sa. Năm 1991, chiếm thêm 8 Ðảo nữa, gây tình trạng hỗn loạn trong vùng. Hành động bá quyền trên, khiến cho toàn thể các Quốc Gia vùng Ðông Nam Á căm giận .Tất cả các nước trên vội tăng ngân sách quốc phòng, mua sắm thêm nhiều tàu chiến và phi cơ quân sự tối tân của Nga, Mỹ, Anh, Pháp. Riêng Thái Lan đã có một hàng không mẫu hạm. Việt Nam được cho gia nhập khối Asean để làm vật bung xung cản bước tiến của quân đội Trung cộng khi có chiến tranh. Sự phản ứng của những nước trong vùng, sự ra đời của Liên minh Mỹ-Nhật và gần nhất là quyết tâm bảo vệ Ðài Loan của Mỹ, làm chùn bước Trung cộng phần nào nhưng vẫn không từ bỏ ý định xâm lăng các nước lân bang và làm bá chủ thủy đạo Ðông Hải. Quyền lực trên biển Thái Bình Dương của Hải Quân Hoa Kỳ và sự khủng hoảng trên Biển Đông do Trung cộng gây ra. Từ sau Ðệ Nhị Thế Chiến, Hoa Kỳ loại bỏ Hải Quân Nhật Bản và chiếm địa vị hàng đầu trong vùng Thái Bình Dương. Từ năm 1945, Hoa Kỳ đã tham dự 9 cuộc chiến quan trọng và Lực Lượng Hải Quân vẫn là nồng cốt để đạt chiến thắng, điển hình là Ðệ Lục Hạm Ðội Mỹ, luôn luôn hiện diện ngoài khơi Libye, để kềm chế nước này từ năm 1980 trở về sau, không dám xưng hùng, xưng bá tại Châu Phi và vùng Cận Ðông. Ðể duy trì quyền lực trên biển, Hải Quân Mỹ luôn luôn sẵn có 12 Hàng không mẫu hạm và phi đoàn chiến thuật. Ngoài ra Mỹ cũng thực hiện đóng các Hàng không mẫu hạm thế hệ Nimitz và CVX. Tàu Nimitz chạy bằng năng lượng nguyên tử và có trọng tải 90.000 tấn, dài 335 m. Trên mỗi Hàng không Nimitz đều có trang bị bốn dàn phóng bằng hơi nước, bốn dây cáp giữ máy bay lại khi hạ cánh, chứa một phi đoàn gồm 76 chiến đấu cơ, oanh tạc cơ, thám thính cơ và trực thăng. Từ năm 1995, công ty đóng tàu Newport New Shipbuilding đã chuyển giao cho Hải Quân Mỹ Hàng không mẫu hạm nguyên tử John Stennis, năm 1998 lại giao chiếc Haray Truman, còn lại năm 2003 sẽ hoàn thành chiếc Ronald Reagan (chiếc thứ 9 trong thế hệ tàu nguyên tử Nimitz). Hiện Mỹ đang thử nghiệm các loại tàu CVX để thay dần các loại tàu cũ, hầu hoạt động hữu hiệu trong suốt Thế Kỷ 21.

So sánh lực lượng Hải Quân Mỹ và Trung cộng, ta thấy sự tương quan chênh lệch như đất trời. Nhưng Trung cộng lúc nào cũng tự đắc coi như mình là bá chủ vùng Ðông Hải, giống như thái độ xưa kia của Ming Thành Tổ, vào năm 1405 đem một đoàn thuyền buồn, dưới quyền chỉ huy của Thang Su Ðô Ðốc là Thái Giám Trịnh Hòa, đi thị uy các nước man di và xả thân theo lệnh của Thiên Tử dùng vũ lực khuất phục các nơi chống lại. Mấy lúc gần đây, Trung cộng cũng bắt chước Nhà Minh, đem tàu đi cắm cờ, chiếm Ðảo của các nước Ðông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Cuộc đụng độ trên biển vào tháng 3.1988, kéo dài 28 phút với lời rêu rao của Trung cộng là đã bắn chìm 2 chiến hạm và giết chết 77 thủy thủ. Lời rêu rao cũng là thông điệp báo cho các nước trong vùng là Trung cộng sẵn sàng sử dụng vũ lực để chiếm chủ quyền trên Ðông Hải. Cái quan trọng không phải là khai thác các tiềm năng hứa hẹn sẽ có ở Hoàng Sa hay Trường Sa, mà là sự chế ngự thủy đạo chuyên chở dầu của các Quốc Gia Ðại Hàn, Nhật, Ðài Loan kể cả Mỹ. Sau đại chiến thứ hai, nhiều nước trong vùng như Ðài Loan, Trung cộng, Phi Luật Tân, Brunei và Mã Lai đều tuyên bố chủ quyền trên Quần Ðảo Trường Sa của Việt Nam. Trừ Brunei, tất cả các nước đều có quân đóng trên Ðảo, trong đó Việt Nam chiếm 24 Ðảo. Riêng Trung cộng đã cho xây dựng sân bay và bến tàu trên Ðảo Woody, chiếm được của Việt Nam Cộng Hòa vào tháng 1.1974. Ðạo luật vừa được Trung cộng ban hành năm 1998, chẳng những xác nhận tất cả các Hải Ðảo, cồn cát, nước, trời, trong vùng Ðông Hải đều thuộc Trung cộng. Ngoài ra hàm ý sâu xa, Trung cộng cấm Hạm Ðội Thứ 7 của Mỹ không được lai vãng tới lãnh địa của họ, nếu không được cho phép. Ðến nay hành động dao to búa lớn trên, chỉ làm thiên hạ ghét để cùng kết bè, chờ dịp hạ độc thủ. Riêng Hoa Kỳ, Nhật Bản kể cả Ðài Loan, Ðại Hàn chẳng thèm để ý tới, dù họ biết đây không phải là lời nói suông của một con thú sắp săn mồi, nhất là con thú đó có thể có khả năng làm liều bằng lực lượng tàu ngầm nguyên tử đứng thứ ba trên Thế giới. Nhưng dù đã rút ra khỏi Vịnh Subic, Hải Quân vẫn là chúa tể trên Thái Bình Dương ít ra thêm vài thập niên nữa. Theo tin tình báo quốc tế, lực lượng hải quân Trung cộng hiện có 93 tàu ngầm trong đó có 1 tàu nguyên tử phóng hỏa tiễn liên lục địa và ba tàu nguyên tử khác có khả năng phóng hỏa tiễn tuần hành quy ước, 56 chiến hạm, 19 khu trục hạm, 58 tàu đổ bộ và một lữ đoàn thủy quân lục chiến 6.000 người. Ngoài ra còn có ba tàu tiếp tế viễn liên, tám tàu yểm trợ cho tiền thủy đỉnh với 894 phi cơ chiến đấu và 55 trực thăng võ trang.Trước đà tăng trưởng của hải quân Trung cộng, các nước Nam Dương, Mã Lai, Tân Gia Ba, Phi Luật Tân đều mua thêm nhiều tàu chiến và các loại chiến đấu cơ tối tân của Anh, Mỹ, Ðức, Pháp. Trong khi đó cộng sản Việt Nam chỉ có 7 khu trục hạm hạng nhẹ, 62 chiến hạm và chiến đỉnh tuần duyên cùng 27.000 lính Hải quân. Hiện Trung cộng còn e dè chưa dám lộng hành quá đáng, một phần vì nể sợ sự can thiệp của Hoa kỳ, phần khác không dám đụng chạn tới Nhật Bản, vốn coi biển đông như mạch máu và con tim của mình. __

Mường Giang

Nhân ngày giỗ lần thứ Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy


Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy
NHẮC LẠI TIỂU SỬ GIÁO SƯ NGUYỄN NGỌC HUY


Cách mạng Quốc Gia Việt Nam trong thập niên 1930- 1940 đã sản xuất nhiều thiên tài như Đức Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, như ông Lý Đông A, Trương Tử Anh ... thì thế hệ kế tiếp, cách mạng Việt Nam từ giai đoạn cuối thập niên 1940 cho đến nay cũng khó tìm được một người như Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy.

Cuộc đời và sự nghiệp của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy là một bản trường ca của một người yêu nước nồng nàn, hết lòng tận tụy trong công cuộc đấu tranh cho độc lập, cho tự do và dân chủ Việt Nam. Ngoài là một nhà cách mạng, một nhà chính trị, ông còn là nhà thơ, nhà báo, một học giả, một nhà khoa bảng, một nhà nghiên cứu, một người Thầy đã đào tạo rất nhiều nhân tài cho đất nước.

Cuộc đời và sự nghiệp của Giáo sư là một thể hiện hiếm hoi của tấm gương tranh đấu. Tranh đấu với cuộc sống, tranh đấu với bản thân, và tranh đấu cho đất nước.

Giáo sư sinh ngày 2 tháng 11 năm 1924 tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Nhưng quê quán là quận lỵ Tân Uyên, Biên Hòa. Lúc nhỏ học tiểu học tại quận lỵ Tân Uyên, và Cao Đẳng ở trường Pétrus Ký. Vì hoàn cảnh gia đình, chưa học hết bậc trung học, Giáo Sư phải xin làm Thư Ký tại Tòa Hành Chánh Cần Thơ.

Lúc còn trẻ, Giáo Sư rất yêu thơ và say mê sử. Khi làm thư ký tại Tòa Hành Chánh Cần Thơ, Giáo Sư bắt đầu sáng tác thơ hùng ca với bút hiệu Đằng Phương, nhưng vì dè đặt không gởi đăng báo nào cả, mãi đến năm 1945 chỉ còn nhớ lại một số bài như “Giòng Nước Sông Hồng, Chiến Sĩ Trần Triều, Bản Hành Quân Trương Phụ, Gởi Nguyễn Du..” sưu tập thành tác phẩm thơ hùng ca duy nhất của văn học Việt Nam hiện nay là tập thơ Hồn Việt. Tại sao chỉ làm thơ hùng ca, Giáo sư xác định:

    Tôi chỉ là một người dân nước Việt
    Cảm nỗi buồn của kẻ mất quê hương
    Nỗi nhục nhằn, nỗi khổ cực đau thương
    Của nòi giống nghẹt trong cùm lệ thuộc
    Lúc đường sống mịt mù chưa thấy được
    Tôi mượn thơ để tỏ nỗi căm hờn
    Nỗi u buồn chán nãn kẻ cô đơn
    Khôn phụng sự giang sơn như ý nguyện.”

Với tình hình Việt Nam trong các năm đầu thập niên 40, người thanh niên trẻ Nguyễn Ngọc Huy, với lòng yêu nước nồng nàn, say mê công nghiệp anh hùng, liệt sĩ, ước mong được phụng sự giang sơn, dĩ nhiên đã không thể không bước theo tiếng gọi của non sông lúc bấy giờ. Đầu năm 1945, ông gia nhập Đại Việt Quốc Dân Đảng do Đảng Trưởng Trương Tử Anh thành lập để cùng sát cánh với những thanh niên yêu nước từ Bắc đến Nam, cùng tranh đấu cho sự độc lập của đất nước và sự sinh tồn của dân tộc. Sự nghiệp chính trị của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy đã bắt đầu từ lúc này và đeo đuổi cho đến hơi thở cuối cùng.

Năm 1946, nhận thấy Mặt Trận Việt Minh là một tổ chức trá hình của đảng Cộng Sản và bị đảng Cộng Sản thao túng, Giáo Sư rời bỏ chiến khu về Sài Gòn và xin làm việc tại Thư Viện Quốc Gia, ăn ngủ ngay nơi làm việc. Trong thời gian này, Xứ Bộ Miền Nam của Đại Việt Quốc Dân Đảng giao cho Giáo Sư nhiệm vụ nghiên cứu, viết tài liệu tuyên huấn và bài vở cho các tờ báo ngoại vi của đoàn thể như tờ Thanh Niên, Đuốc Việt.. Ngoài những bài chính trị, Giáo Sư còn viết các bài châm biếm, trào phúng nên cũng dùng các bút hiệu như Cuồng Nhân, Ba Xạo. Vì anh em trong Ban Biên Tập của tờ Đuốc Việt phải lấy bút hiệu có chữ Việt đi kèm, nên Giáo Sư còn có bút hiệu là Việt Tâm. Năm 1948, Giáo Sư đã được tấn phong làm Ủy Viên Ban Chấp Hành Trung Ương của Đại Việt Quốc Dân Đảng.

Năm 1949, vì tình hình đất nước và nhu cầu của Đại Việt, Giáo Sư làm việc toàn thời gian cho Đảng. Ra Nha Trang làm huấn luyện viên chính trị cho trường Cán Bộ Thanh Niên Nha Trang. Năm 1951, Giáo Sư được đưa ra Bắc để phát triển Thanh Niên Bảo Quốc Đoàn ở Bắc, nhưng cũng trong năm này chính phủ Nguyễn Văn Tâm ra lệnh giải tán Bảo Quốc Đoàn, nên Giáo Sư lại về Sài Gòn và được mời dạy Quốc Văn tại trường Trung Học Lê Bá Cang. Trong thời gian này, Giáo Sư vừa dạy học vừa học thi lấy bằng Tú Tài.

Năm 1955, Giáo Sư được Đảng chỉ định sang Pháp để giúp Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn. Qua Pháp, Giáo sư vừa làm việc cho Đảng, vừa mưu sinh, vừa ghi danh học trường Chính Trị Khoa Học Paris, trường Luật Khoa và Khoa Học Kinh Tế Paris. Năm 1958, tốt nghiệp Viện Nghiên Cứu Chánh Trị khoa Bang Giao Quốc Tế. Năm 1959, tốt nghiệp Cử Nhân viện Đại Học Luật Khoa và Khoa Học Kinh Tế Paris. Năm 1960, tốt nghiệp Cao Học với luận án: “ Lễ Trong Tư Tưởng Chính Trị Trung Quốc Thời Cổ”. Năm 1963 lấy văn bằng tiến sĩ trường Luật Khoa và Khoa Học Kinh Tế với luận án: “Người Ưu Tú Trong Tư Tưởng Chính Trị Trung Quốc Thời Cổ”. Vừa lấy được văn bàng Tiến Sĩ, trong nước, Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ nên Giáo Sư phải tức tốc bay về Sài Gòn.

Sau cuộc chỉnh lý của Tướng Nguyễn Khánh ngày 10 tháng 1 năm 1964, BS Nguyễn Tôn Hoàn được mời giữ chức Phó Thủ Tướng đặc trách bình định, Giáo Sư được cử làm đổng lý văn phòng. Sự hợp tác giữa Đại Việt và tướng Nguyễn Khánh không kéo dài được lâu. Đại Việt đã chống lại Hiến Chương Vũng Tàu của tướng Khánh. Do sự chống đối này, Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn và Giáo Sư bị buộc phải rời Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ hai tháng sau, trước sự chống đối của sinh viên và các lực lượng quốc gia, tướng Khánh đã phải nhượng bộ trao quyền cho Cụ Phan Khắc Sửu và Trần Văn Hương. Lúc bấy giờ Giáo Sư lại trở về VN.

Trong Năm 1964, nội bộ Đại Việt Quốc Dân Đảng có những bất đồng rộng lớn, Xứ Bộ Miền Nam và những người chủ trương dân chủ hóa Đảng đã đứng ra thành lập Tân Đại Việt, Giáo Sư được ủy nhiệm chức vụ Tổng Thư Ký. Trong năm này G.Sư cũng ấn hành bộ sách Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn gồm 2 quyển. Đây là bộ sách đầy đủ nhất về chủ nghĩa chỉ đạo của Đại Việt được cập nhật, thâu nhận thêm các tư tưởng Tự Do và Dân Chủ.

Từ năm 1965, Giáo Sư một mặt hoạt động xây dựng đảng Tân Đại Việt, một mặt đi dạy học để góp phần đào tạo cán bộ cho quốc gia. Từ năm 1965- 1975, Giáo Sư dạy môn Chính Trị và Hiến Pháp Học tại các trường Đại Học:

    • Học Viện Quốc Gia Hành Chánh
    • Đại Học Luật Khoa Cần Thơ
    • Đại Học Sư Phạm Sài Gòn
    • Đại Học Luật Khoa Huế
    • Đại Học Vạn Hạnh và Minh Đức.

đồng thời cũng là giảng viên cho các trường:

    • Cao Đẳng Quốc Phòng
    • Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt.
    • Trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp.
Giáo sư đã được mời giữ chức Khoa Trưởng trường Luật Khoa và Khoa Học Xã Hội Cần Thơ năm 1967 – 1968.

Trong năm 1968, Giáo Sư được mời tham dự phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa tham dự Hòa Đàm Paris nên từ chức Khoa Trưởng trường Đại Học Luật Khoa và Khoa Học Xã Hội Cần Thơ. Đến Paris, Giáo Sư thấy âm mưu của Cộng Sản Bắc Việt chỉ dùng hòa đàm để mua thời gian và làm diễn đàn tuyên truyền nên sau khi giúp phái đoàn VNCH xây dựng hệ thống lý luận để đối phó với CS, Giáo Sư đi các nước Âu Châu để trình bày với kiều bào về tình thế chung và lập trường của Việt Nam Cộng Hòa, rồi trở về Sài Gòn. Năm 1973, Giáo Sư lại cũng được mời tham dự phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa tham dự hội nghị La Celle Saint Cloud, nhưng cũng chỉ ở Pháp trong vài tháng.

Năm 1969, trở về từ Hội Nghị Paris, nhận thấy điều kiện chính trị trong nước có thể hoạt động công khai và nhu cầu cần thiết phải có một chính đảng mạnh để áp lực chính quyền cải tổ chế độ và đấu tranh với Cộng Sản nên Giáo Sư vận động đồng chí Tân Đại Việt, một số nhân sĩ và một số đồng chí Việt Nam Quốc Dân Đảng thành lập Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến. Giáo sư Nguyễn Văn Bông được suy cử làm chủ tịch và Giáo Sư làm Tổng Thư Ký. Chủ trương của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến một mặt giúp chính quyền trong việc đối phó với Cộng Sản, một mặt đòi hỏi chính quyền phải thực thi dân chủ, chấm dứt nạn tham nhũng và đưa bè phái bất tài nắm giữ các chức vụ quan trọng.

Việt Nam Cộng Hòa, do hậu quả của bất tài và tham nhũng cai trị, đối lập quá khích do Cộng Sản giựt giây liên tiếp gây rối loạn hậu phương, làm dân chúng hoang, thế lực phản chiến ở Hoa Kỳ có cơ hội khai thác nên cuối cùng phải bị mất trong ngày 30 tháng Tư, 1975.

Năm 1975, sang Hoa Kỳ, Giáo Sư được mời làm việc cho trường Đại học Havard. Trong mấy năm đầu, công việc chính của Giáo Sư là chú thích Bộ Luật Hồng Đức sang tiếng Anh. Công trình này đã được Ohio University Press ấn hành dưới tên The Lê Code. Bên cạnh việc dịch thuật này, Giáo Sư đã nghiên cứu sâu rộng thêm và viết bộ Bộ Quốc Triều Hình Luật gồm 9 quyển, Quyển A mang tựa đề là Bộ Luật Quốc Triều Hình Luật Trong Pháp Chế Sử Việt Nam. Qua quyển này, Giáo Sư trình bày sơ lược vế pháp chế sử Việt Nam, nói lên những đặc điểm của Bộ Luật Hồng Đức. Quyển I và quyển VI phiên dịch và chú thích 6 quyển Quốc Triều Hình Luật. Hai quyển chót đăng bản dịch các tài liệu phụ thuộc cho bộ luật nhà Hậu Lê là Khám Tụng Điều Lệ và Quốc Triều Thư Khế, các bản đối chiếu, sách dẫn để giúp độc giả dễ dàng tra cứu. Bộ sách Quốc Triều Hình Luật có thể nói là công trình nghiên cứu văn hóa công phu và sáng giá nhất kể từ năm 1975 đến nay.

Là một nhà ái quốc cách mạng, công tác văn hóa không phải là công tác chính mà Giáo Sư theo đuổi. Con tim và bầu nhiệt huyết của Giáo Sư vẫn là hoài vọng cho một nước Việt Nam Tự Do. Năm 1981, Giáo Sư thành lập Liên Minh Dân Chủ Việt Nam và được bầu làm Chủ Tịch Ủy Ban Chấp Hành Trung Ương. Uy tín, tài năng và đức độ của Giáo Sư đối với anh em Liên Minh, không chỉ là một lãnh tụ, mà là một người Anh, một người Thầy bất khả thay thế. Chủ trương chiến lược của Liên Minh ngoài xây dựng lực lượng mạnh ở hải ngoại, ở trong nước, còn phải đẩy mạnh công tác vận động sự giúp đỡ của các quốc gia tự do và đặc biệt không để lệ thuộc vào một quốc gia duy nhất nào. Ngay cả Hoa Kỳ. Do quan niệm này, năm 1986, Ủy Ban Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tư Do đã được Giáo Sư vận động và thành lập ở Bỉ qui tụ hàng trăm dân biểu, nghị sĩ, và tướng lãnh của nhiều nước trên thế giới. Ông Paul Vankerkhoven, một dân biểu của Nghị Viện Âu Châu đã được bầu làm chủ tịch của Ủy Ban này. Song song với phát triển Ủy Ban Quốc Tế, Giáo Sư cũng đã cùng nhiều đoàn thể và nhân sĩ quốc gia ngồi chung nhau thành lập Phong Trào Tham Gia Ủy Ban Quốc Tế để mọi khuynh hướng chính trị có thể ngồi chung nhau cùng làm công tác ngoại vận, tạo cơ hội làm việc chung, tiến tới việc đoàn kết lực lượng quốc gia hải ngoại. Đối với các hệ phái Đại Việt, Giáo Sư cũng nỗ lực vận động để hai hệ phái Tân Đại Việt và Đại Việt Cách Mạng kết hợp lại với nhau, phiên họp đầu tiên của các lãnh tụ Đại Việt ấn định chương trình thống nhất được triệu tập năm 1988, tại San Francico. Theo đó, trong vòng 4 năm sẽ thống nhất Đảng. Chẳng may Giáo Sư mất sớm nên sự kết hợp đã không được thành công như mong muốn.

Khi Liên Minh Dân Chủ Việt Nam dưới sự hướng dẫn của Giáo Sư đang trên đà phát triển lực lượng ở hải ngoại, lực lượng trong nước và đẩy mạnh công tác ngoại vận, thì bệnh ung thư mà Giáo Sư đã chịu đựng trên mười năm đã không cho phép Giáo Sư tiếp tục hướng dẫn đoàn thể để đi đến mục tiêu cuối cùng, cũng không cho phép Giáo Sư được chủ tọa Đại Hội Liên Minh Dân Chủ đang sắp đến ngày tổ chức ở Hòa Lan. Giáo Sư đã vĩnh viễn ra đi lúc 9:30 giờ ngày 28 tháng 7 năm 1990. Hưởng thọ 67 tuổi. Tang lễ được cử hành ngày 5 tháng 8 năm 1990, và lễ hỏa táng được cử hành một ngày sau đó.

Giáo sư vĩnh viễn ra đi để lại hậu thế một tấm gương sáng trên con đường tranh đấu, tấm gương sáng của một chiến sĩ quả cảm kiên cường, hy sinh mọi vui thú của đời người, hy sinh gia đình, khắc phục bệnh hoạn để hiến thân cho lý tưởng, thì trên lãnh vực văn học, Giáo Sư cũng đã lưu lại cho hậu thế một tài sản rất lớn. Ngoài hàng trăm bài bình luận, nhận định, và thuyết trình, còn có trên 20 tác phẩm, với ba thứ tiếng Việt, Anh và Pháp.

Giáo sư ra đi chẳng những là một mất mát vô cùng lớn lao cho Liên Minh Dân Chủ Việt Nam, mà sự mất mát chung rất lớn lao cho công cuộc đấu tranh của người quốc gia Việt Nam. Một sự mất mát chung của nền văn học Việt Nam.

Đối với công cuộc tranh đấu chung, tinh thần Giáo Sư là tinh thần tranh đấu không ngưng nghỉ, tinh thần luôn luôn đặt đại cuộc lên trên mọi dị biệt cá nhân, tinh thần đoàn kết và hài hòa với anh em, với mọi người. Hy vọng rằng mỗi ngày lễ tưởng niệm Giáo Sư, tinh thần của Người sẽ thắp sáng trong lòng của mọi đoàn viên Liên Minh, của đồng chí Đại Việt, của mọi người Việt quốc gia hải ngoại để chúng ta cùng hướng về tương lai chung của dân tộc, và cùng nhau đưa cuộc tranh đấu cho tự do và dân chủ sớm đi đến thành công.

Ngày 28 tháng 7 năm nay, đúng 10 năm Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy nằm xuống, đoàn viên Liên Minh Dân Chủ Việt Nam hẳn không ai không khỏi ngậm ngùi tưởng nhớ người Anh Cả kính yêu., Trong lúc tưởng nhớ tới Anh, người đoàn viên do Anh xây dựng có lẽ cũng nên tự hỏi chính mình sau khi Giáo Sư ra đi anh em đã làm gì cho sự nghiệp đấu tranh chung còn đang dang dở? Liên Minh Dân Chủ đã phát triển tới đâu? Có thể hoàn thành tâm nguyện Giáo Sư hay không? Mấy năm sau khi Giáo Sư nằm xuống, Liên Minh ra mắt Phong Trào Thống Nhất Dân Tộc và Xây Dựng Dân Chủ đã làm cho đoàn thể chia rẽ, cộng đồng người Việt tỵ nạn phản đối.

Nhiều năm đã đi qua, thành phần lãnh đạo Liên Minh đã nghiêm chỉnh tự hỏi Phong Trào Quốc Gia Thống Nhất Dân Tộc và Xây Dựng Dân Chủ đã “thành công” như thế nào? Đã sai lầm chiến lược và chiến thuật như thế nào một cách nghiêm chỉnh hay chưa? Những sự sai lầm đáng trách nào đó do một số người lãnh đạo Liên Minh sau khi Giáo Sư mất làm ra, nhưng vẫn tiếp tục mượn danh Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy, lấy uy tín của người Anh Cả để bào chữa cho những việc làm sai trái của mình đó là điều vô cùng đang trách.

Mong rằng nhân ngày giỗ 18 năm của Giáo Sư Huy, những nghi ngờ chung quanh vụ đạo diễn Phong Trào Thống Nhất Dân Tộc & Xây Dựng cần phải được làm sáng tỏ, phải được trả lời một cách rõ ràng để trả lại sự trong sạch cho Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy.

(Lấy từ: http://take2tango.com/default.aspx?display=4736)


Friday, August 1, 2008

Hội đồng, Hội nghị được chi ???

XL-56 TDNL ngày 1-8-2008
Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 56 (01-08-2008)

1. Với tư cách thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, Việt Nam được làm chủ tịch luân phiên suốt tháng 7 này. Nhiều người trong nước, nhất là những ai tha thiết đến sự vẹn toàn lãnh thổ quốc gia, đã cưu mang nhiều hy vọng, ước ao nhà cầm quyền CSVN lợi dụng cơ hội ngàn năm một thuở này để làm một cái gì đó thật sự ích lợi cho đất nước. Thế rồi, trưởng Phái đoàn CSVN tại LHQ Lê Lương Minh hôm 31-7 mới tuyên bố với báo chí quốc nội là “Việt Nam đã hoàn thành công việc của tháng Chủ tịch Hội đồng Bảo an” !?! Ông ta cho biết trong tháng 7, HĐBA đã thông qua 6 nghị quyết trong đó có các nghị quyết gia hạn sứ mệnh của phái bộ LHQ tại Bờ Biển Ngà, Darfur, Nepal, chấm dứt sứ mệnh của phái bộ LHQ tại Eritrea và Ethiopia và của Ủy ban trừng phạt Rwanda... Rồi theo yêu cầu của một số nước thành viên, HĐBA đã phải xử lý một số vấn đề đột xuất như tình hình bất ổn chính trị, gia tăng bạo lực tại Zimbabwe, tranh chấp biên giới Cambodia-Thái Lan...

Nhìn vào thực tế, người ta thấy hôm 11-7 vừa qua, dưới quyền chủ tọa của Việt Nam, Hội đồng Bảo an đã bác bỏ dự thảo nghị quyết trừng phạt đối với hàng lãnh đạo nước Zimbabwe. Nguyên nhân là trong cuộc bầu cử tổng thống mới đây tại đó (hôm 29-3) đã xẩy ra những vụ gian lận, giết hại cử tri và thành viên đảng đối lập mà thủ phạm là chính quyền của đương kim tổng thống Robert Mugabe, nhà độc tài khét tiếng của Phi châu, kẻ đang đưa đất nước Zimbabwe đến bờ vực phá sản. Dư luận thế giới đã rất bất bình về cuộc bầu cử này. Chính vì thế mà Hoa Kỳ hồi tháng 6 đã đệ trình Hội đồng bản dự thảo lên án và trừng phạt Robert Mugabe cùng tập đoàn lãnh đạo. Dự thảo nghị quyết này được xem xét trong tháng 7 nhưng đã bị HĐBA bác bỏ vì có hai phiếu phủ quyết của Nga và Trung Quốc cũng như 3 phiếu chống của Nam Phi, Lybia và Việt Nam. Ngoại trừ Nam Phi là nước đang đứng làm trung gian để giải quyết khủng hoảng tại Zimbabwe, Nga, Trung Quốc, Lybia và Việt Nam cũng là những chế độ độc tài tàn bạo. Tất cả đều bênh vực nhau vì cùng có mục đích chung: phải bám chặt lấy ngôi vị độc tôn chính trị. Đó là “thành tích thứ nhất” của nước chủ tịch Hội đồng!

Đến ngày 16-7 vừa qua, một số chính đảng ở hải ngoại đã khởi xướng chiến dịch gửi Thư Ngỏ đến Hội đồng Bảo an và ông Tổng Thư Ký LHQ, kêu gọi Hội đồng, với trọng trách bảo vệ an ninh và hòa bình thế giới, “hãy đưa ra những biện pháp thích ứng để ngăn chận ngay lập tức các hành động xâm lấn của Trung Quốc đối với Việt Nam, đồng thời giúp tìm ra giải pháp để giải quyết một cách công bằng tình trạng thiệt hại mà Việt Nam đang gánh chịu”. Thư Ngỏ cũng nêu trách nhiệm của nhà cầm quyền CSVN trong việc để Trung Cộng xâm chiếm lãnh thổ và lãnh hải quốc gia hầu buộc Hà Nội phải có thái độ đối với Trung Cộng. Tính đến cuối ngày tổng kết chiến dịch 30-7, tổng số đoàn thể ký tên vào Thư đã lên tới con số 91. Và đó cũng là áp ngày chấm dứt ghế chủ tịch của Việt Nam. Thế nhưng đại sứ Lê Lương Minh, trong bản “tổng kết thành tích” đã chẳng hề cập đến vụ việc Trung Cộng xâm lấn chiếm Hoàng sa Trường Sa của ta. Đây là “hành tích thứ hai”, thành tích dâng cho Thiên triều Đại Hán!

2. Cũng trong tháng 7 này, Ban Chấp hành Trung ương đảng CS khóa X đã họp Hội nghị lần thứ 7 từ ngày 8 đến ngày 17 với 4 vấn đề lớn: 3 vấn đề có tính chiến lược là chính sách đối với thanh niên, trí thức, nông dân và 1 vấn đề có tính thời sự là hậu quả của nạn lạm phát phi mã đang đè nặng lên toàn bộ nền kinh tế và xã hội. Nhiều lời nói đao to búa lớn đã được phát biểu, nhiều nghị quyết gọi là “thành quả trí tuệ toàn đảng” đã được hình thành!

Về thanh niên, tổng bí thư CS Nông Ðức Mạnh đã hùng hồn tuyên bố trong diễn văn khai mạc: “Một trong những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước do đảng ta khởi xướng và lãnh đạo là xây dựng một thế hệ thanh niên thời kỳ mới có đạo đức, có tri thức, sức khỏe và tư duy phát triển năng động; tiếp nối truyền thống hào hùng của dân tộc, của đảng...”.

Thế nhưng toàn dân đều biết rằng đảng Cộng Sản đã chẳng hề “khởi xướng” việc đổi mới. Họ đã bị buộc phải thay đổi, nếu không thì lâm vào số phận như các lãnh tụ Đông Âu. Trong thực tế, cho đến nay, đảng Cộng Sản đã hoàn toàn thất bại trong việc giáo dục. Chưa một quốc gia nào ở Á Châu bắt học sinh tiểu học phải đóng học phí như ở Việt Nam. Ðầu năm nay, phó thủ tướng kiêm bộ trưởng giáo dục Nguyễn Thiện Nhân vừa mới thú nhận rằng trong niên học 2003-04 có 580 ngàn học sinh bỏ học, niên học 2005-06 có 600 ngàn, niên học 2006-07 có 150 đến 200 ngàn. Với đà lạm phát và tăng giá sinh hoạt hiện thời, niên học tới chắc sẽ còn bỏ học nhiều hơn nữa. Còn về đạo đức, chưa bao giờ nạn gian lận thi cử, sử dụng bằng giả hoành hành như hiện nay. Chưa bao giờ nạn bạo hành học đường, ma túy trường học, cưỡng dâm học sinh lan tràn như hiện nay. Chưa bao giờ nạn thanh niên làm lao nô, thiếu nữ làm tình nô nhan nhản như hiện nay. Thanh niên sinh viên học sinh Việt Nam bị đánh giá là thua các bạn ở Đông Nam Á từ A đến Z!

Về trí thức, Nông Ðức Mạnh cũng ngoác miệng tự tuyên dương trong diễn văn bế mạc: “Với tầm nhìn chiến lược, Đảng ta vừa quan tâm xây dựng đội ngũ trí thức hiện có, vừa chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức cho giai đoạn tiếp theo, thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, tạo môi trường để đội ngũ trí thức phát triển và phát huy vai trò trên mọi lĩnh vực…. Quan điểm nhất quán của Đảng ta coi trí thức là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững”.

Thế nhưng, ông cựu đại sứ Hoa Kỳ Michael W. Marine, ngày 6-8-2007, đã đọc một bài diễn văn tại Phân khoa Kinh tế Shidler thuộc trường Đại học Hawaii ở Saigon như sau:

“Một trong những nhiệm vụ của đại học là làm phát sinh ra trí thức và đổi mới. Về lãnh vực này VN một lần nữa không theo kịp các quốc gia lân cận. Năm 2006, các giáo sư và sinh viên Đại học Quốc gia Seoul (Hán Thành) công bố 4.556 ấn phẩm khoa học. Trường Đại học Bắc Kinh có gần 3.000. Còn Đại học Quốc gia Hà Nội và Trường Kỹ thuật Quốc gia Hà Nội chỉ thực hiện được 34 ấn phẩm. Số đơn xin bằng sáng chế là thước đo hữu dụng để biết khả năng phát minh của một quốc gia. Báo cáo năm 2006 của Ngân hàng Thế giới cho biết TQ có 40.000 đơn xin bằng sáng chế, trong khi VN chỉ có 2!”

Một điều mỉa mai cho trí thức hơn nữa là nhà cầm quyền Việt Nam đã mau mắn bỏ ra 20 triệu đôla để tổ chức cuộc thi Hoa Hậu Hoàn Vũ 2008 mà lễ chung kết vừa diễn ra hôm 14-7 tại ngoại ô thành phố Nha Trang. Đang khi theo “Đề án về trường đại học chất lượng cao ở Việt Nam” được trình lên thủ tướng CSVN tháng 9 năm 2005, chỉ cần 10 triệu thì có thể xây dựng được cơ ngơi, học cụ, cùng các chi phí lương bổng, điều hành trong 1 năm cho một trường “Đại học chất lượng cao” (nghĩa là theo tiêu chuẩn quốc tế). Thế nhưng lời đề nghị thành lập “Đại học chất lượng cao” này đến nay vẫn chưa ... nhúc nhích!?!

Về nông dân, Nông Đức Mạnh cũng không ngượng miệng khen mình và đồng đảng mình: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, trong nhiều năm qua, đặc biệt là trong hơn 20 năm đổi mới, tình hình nông nghiệp, nông thôn và đời sống của nông dân đã có những bước tiến bộ khá toàn diện và to lớn… Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện; xoá đói, giảm nghèo đạt thành tựu to lớn”.

Thế nhưng, bà Phạm Thị Chi Lan, nguyên Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp VN mới nói với báo Đại Đoàn Kết hôm 4-7-2008 rằng: “Bây giờ, nếu đem so thu nhập của người nông dân với các ngành nghề khác rõ ràng có một khoảng cách khá xa. Như ở Thái Bình, hơn 40% nông dân bỏ ruộng để đi làm việc khác... Tôi thấy bây giờ, ở các vùng nông thôn, lực lượng lao động trẻ bỏ làng đi nhiều quá. Ở quê chỉ còn lại người già, phụ nữ và trẻ em. Họ không thể đủ sức làm tăng năng suất, do vậy sản lượng lại càng thấp. Mà sản lượng thấp thì phải nhập. Đó chính là cái vòng luẩn quẩn.”

Đang khi đó thì theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại hội thảo “Nông dân bị thu hồi đất, thực trạng và giải pháp” tổ chức tại Hà Nội tháng 8-2007, 627.495 hộ gia đình, khoảng 950.000 lao động và 2,5 triệu nông dân đã bị thu hồi đất. Tính đến nay, con số hộ gia đình bị tước nguồn sống như thế đã tăng thêm. Chính vì thế cũng đã tăng thêm các cuộc biểu tình nổi loạn của thành phần nuôi sống xã hội này. Và cùng với các cuộc biểu tình đòi quyền sống là các cuộc trấn áp “đánh chết bỏ” của đám quan chức tham lam dối trá và đám công cụ mù quáng tàn bạo.

Về hiện tình kinh tế, VN đang đổ dốc, tỷ lệ lạm phát trong tháng 06-2008 tăng vọt lên tới 26.8% và có thể vượt qua mức 30% vào tháng 7 này theo một chuyên viên Ngân hàng Phát triển châu Á Châu. Kinh tế gia này cũng tiên đoán: “Mức tăng trưởng GDP của VN trong năm 2008 sẽ giảm xuống còn 6.4%”. Còn Văn phòng thống kê Chính phủ thì thừa nhận: “Chỉ nội trong tháng 7 này, giá thực phẩm tăng 44.7%, trong đó giá lương thực chủ yếu và ngũ cốc tăng 72.7%. Giá nhà và vật liệu xây dựng tăng 24.9%. Giá quần áo, giầy dép tăng 10.9%...”

Nay giá xăng lại tăng lên 36% thì vật giá còn tăng theo gấp bội. Chính vì vậy mà đồng lương không đủ sống, khiến làn sóng đình công của công nhân tiếp tục lan rộng. Ngư dân thiếu dầu không thể ra khơi, đành nằm nhịn đói. Giới tiểu thương đô thị lúc này lãnh đủ những đòn trực tiếp và nặng nhất do vật giá gia tăng. Nông dân từ trước tới giờ là thành phần nghèo khổ nhất trong cái Xã hội Chủ nghĩa chết tiệt này, nay bị cướp nhà đất một cách trắng trợn, thì rơi vào đường cùng là chuyện tất nhiên.

Thế nhưng, đảng CS vẫn mù quáng muốn “tăng cường sự quản lý của đảng” trên các thành phần nói trên, nghĩa là ghìm toàn bộ xã hội trong gọng kềm của áp bức và dưới gánh nặng của đói nghèo, để đảng tiếp tục muôn niên trường trị.
Ban Biên Tập

XL-56 TDNL ngày 1-8-2008


Hồng Y Phạm Minh Mẫn Sẽ Không Tham Dự Đại Hội Thánh Mẫu 2008

  • Hồng Y Phạm Minh Mẫn Sẽ Không Tham Dự Đại Hội Thánh Mẫu 2008
    Dòng Đồng Công Carthage, USA
Thông báo này hơi trễ, nhưng hy vọng còn kịp ! Nhiều giáo dân cho biết sẽ không tham dự vì nghe tin có HY Mẫn xuất hiện tại Đại Hội Thánh Mẫu năm nay. LTCG.

http://dongcong.net/NTM/NTM2008/pages/ntm2008.htm

Tỉnh Dòng Đồng Công Hoa Kỳ
1900 Grand Ave - Carthage, MO 64836
Phone: ( 417) 358-7787 Fax: (417) 358-9508
cmc@dongcong.net (văn phòng Tỉnh Dòng) - web@dongcong.net (webmaster)


THÔNG BÁO

Xin thông báo cùng ông bà và anh chị em, Hồng Y Phạm Minh Mẫn, sẽ không tham dự Ngày Thánh Mẫu năm 2008 như đã thông báo trước đây.

BTC Ngày Thánh Mẫu 2008

Ngày Thánh Mẫu 2008 từ ngày 7-10 tháng 8 năm 2008 tại Carthage, Missouri, USA với chủ đề:

"Đứng gần Thập Giá Chúa Giêsu có Mẹ Người" (Gioan 19:25) cùng với Giáo Hội hoàn vũ, long trọng mừng:

Kỷ Niệm 150 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức.
Kỷ Niệm 20 năm dịp Các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam được tôn phong hiển thánh

Ban Tổ Chức Ngày Thánh Mẫu XXXI

Trưởng Ban:
Lm. Luy M. Vũ Minh Nhiên, CMC

Phó Nội Vụ:
Lm. Tôma M. Nguyễn Tuấn Bình, CMC

Phó Ngoại Vụ:
Lm. Gioan M. Hoàng Hiệp Nghĩa, CMC

Thư Ký:
Ts. Tôma M. Nguyễn Sĩ Diện, CMC

Thủ Quỹ:
Lm. Gioan M. Ngô Đức Vượng, CMC

Các dịch vụ về Ngày Thánh Mẫu xin liên lạc:

Lm. Gioan Hoàng Hiệp Nghĩa, CMC
(417) 793-3838
1900 Grand Ave, Carthage, MO 64836

Dòng Đồng Công Carthage, USA


Thượng nghị sĩ Roach trả lời thư của Nguyễn tâm Chiến

Thư trả lời đại Sứ csVN Nguyễn Tâm Chiến vê việc Vinh Danh lá cờ VNCH và dự án tượng đài chiến sĩ tự do tại tiểu bang Washington

Nhân vụ Thượng Nghị Sĩ Tiểu Bang là Pam Roach đưa ra hai nghị quyết tại Thượng Viện Tiểu Bang. Nghị quyết thứ nhất là công nhận lá cờ của Việt Nam Cộng Hòa cũ; nghị quyết thứ hai ủng hộ dự án xây tượng đài tại tiểu bang Washington kỷ niệm các chiến sĩ chiến đấu cho Tự Do.

Sau đó Nghị Sĩ Roach nhận một bức thư từ Đại sứ Cộng sản Việt Nam phản đối cả hai Nghị quyết trên. Ông Terrell A. Minarcin đã đánh máy lại thư Nguyễn Tâm Chiến và viết thư trả lời.

Đại sứ Cộng sản Việt Nam tại Washington D.C. đã phản ứng một cách điên cuồng, nên đã phạm phải những lỗi lầm nghiêm trọng về ngoại giao và bang giao quốc tế, trong đó có việc xâm phạm vào công việc nội bộ của công dân và đất nước Hoa Kỳ.

Sau đây là thư phản đối của Nguyễn Tâm Chiến, Đại Sứ Cộng sản Việt Nam gửi Thượng Nghị Sĩ Pam Roach, tiểu bang Washington.

Ngày 10-2-2004


Kính thưa Thượng Nghị Sĩ Roach:

Với sự quan tâm đặc biệt mà tôi viết thư này gửi ông liên quan đến một nỗ lực thứ hai nhằm thừa nhận lá cờ của Việt Nam Cộng Hòa cũ được trình bày trong văn kiện SJM8045. Đây là để tái khẳng định rằng nhân dân và chính phủ Việt Nam không thể chấp thuận với dự án xây dựng Tượng Đài. Tôi xin chia sẻ với ông về ý nghĩ của tôi.

Thứ nhất, dự án Tượng Đài đi ngược lại những quy ước quốc tế và thực tiễn. Bây giờ, cái gọi là Việt Nam Cộng Hòa đã không còn tồn tại, hơn ba mươi năm qua, lá cờ của nó đã không còn chỗ đứng hợp pháp tại Việt Nam. Giống như một số văn bản hoặc nghị quyết, ngôn ngữ của dự án Tượng Đài Kỷ Niệm rõ ràng đã phủ định sự hiện hữu của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ vối Hoa Kỳ từ năm 1995.

Thứ hai, kể từ khi khởi đầu của giai đoạn mới của sự bình thường hóa và hòa giải với quý quốc vào năm 1995, Việt Nam đã làm hết sức mình để đẩy lùi quá khứ và nhìn về phía tương lai, phấn đấu để xây dựng một quan hệ mà đôi bên đều có lợi. Trong tiểu bang của ông, hãng Boeing đã bán máy bay cho Việt Nam và Cảng Seattle vẫn là một cảng chị em với cảng Hải Phòng của miền Bắc Việt Nam trong chương trình trao đổi. Theo ý tôi, dự án Tượng Đài Kỷ Niệm, dấu hiệu làm sống lại quá khứ của hận thù và buồn đau, không phục vụ cho lợi ích của cả Việt Nam lẫn Hoa Kỳ hoặc tiểu bang Washington.

Thứ ba, với một chính sách kiên định, Việt Nam hoan nghênh sự tham gia năng động của Việt kiều trong việc mở rộng quan hệ có lợi cả hai bên giữa Việt Nam và Hoa Kỳ và sự hội nhập hữu hiệu của họ vào dòng sinh hoạt chính lưu của đời sống Mỹ.Việt Nam hy vọng mãnh liệt rằng cộng đồng của người Mỹ gốc Việt, khoảng gần năm mươi ngàn đã chọn tiểu bang của ông làm quê hương mới, sẽ cũng tiếp nhận tinh thần thân hữu và hợp tác.

Sau hết, ở cấp liên bang vị Ngoại Trưởng và các giới chức cao cấp Hoa Kỳ đã luôn luôn tuyên bố rằng Hoa Kỳ không công nhận lá cờ của Việt Nam Cộng Hòa cũ. Trong cuộc họp với tôi vào mùa hè vừa qua, Thống Đốc Gary Locke đã nói ông ta và tiểu bang Washington ủng hộ sự gia tăng quan hệ hai bên cùng có lợi giữa tiểu bang Washington và Việt Nam.

Như ông có thể nhớ lại, Nghị Quyết Thượng Viện loại này số 8659 đã bị rút lại sau cuộc duyệt xét vào mùa xuân vừa qua, khi những ý tưởng này được đưa ra bàn thảo.

Cuối cùng nhưng không kém quan trọng; tôi tin dự án Tượng Đài Kỷ Niệm, một khi được cơ quan lập pháp của ông thông qua, sẽ đâm bổ vào chính Hiến Pháp Hoa kỳ là nền tảng trao quyền hành cho việc thi hành chính sách đối ngoại duy nhất trong hệ thống liên bang. Vả lại, bằng sự kêu gọi công nhận lá cờ cũ ấy “như là lá cờ chính thức duy nhất của nhân dân Việt Nam”, nó sẽ làm cho quyền tự do phát biểu bị nghi ngờ.

Dưới ánh sáng của những nhận xét này, tôi thành kính yêu cầu ông đừng hành động hỗ trợ cho dự án Tượng Đài Kỷ Niệm.

Tôi cảm ơn ông về sự quan tâm và hợp tác.

Với lòng kính trọng cao nhất của tôi.

Ký tên : Nguyễn Tâm Chiến,

Đại Sứ.


  • THƯ PHÚC ĐÁP TỪ WASHINGTON STATE.
Ngày 23-2-2004

Thưa Ông Đại Sứ,

Tôi vừa nhận được một bản sao của thư ông gửi đến Nghị Sĩ Pam Roach đề ngày 10-2-2004. Tôi xin trả lời thư đó.

Nếu bất cứ một nước nào khác viết bức thư này, thì sẽ đơn thuần một chuyện buồn cười.

Nhưng đây lại là của nước ông, Ông Đại Sứ, nước Cộng sản Việt Nam. Nước ông chưa bao giờ tôn trọng hoặc thành thật tuân theo những thủ tục và quy định của bất cứ một thỏa hiệp quốc tế nào mà nước ông đã ký kết vào. Tuy nhiên, nước ông sẽ chỉ núp đằng sau các Thỏa hiệp ấy khi nào chúng thích hợp cho quyền lợi của nước ông. Khi có những cá nhân, chẳng hạn như bản thân tôi hoặc Ông M. Benge, hoặc các tổ chức như Ân Xá Quốc Tế, Ủy Ban Tự Do, Tổ chức Theo Dõi Nhân Quyền, cáo buộc quý quốc với vô số hành động vi phạm nhân quyền hoặc tổn hại, thì lập tức quý quốc đáp lại bằng cách nói rằng những vấn đề mà chúng tôi đang quan tâm tới là những vấn đề nội bộ và rằng chúng tôi đã can thiệp vào chính sách của quý quốc. Thế cũng được.

Ở đây, với quá trình được sắp đặt, chính ông đang can thiệp vào Tiểu bang Washington về những vấn đề không liên quan gì đến ông cả. Sao mà chúng tôi vinh danh sự đóng góp của các cá nhân hoặc các cộng đồng dân tộc ở đây tại Washington lại là ăn nhập đến ông. Xin hãy từ bỏ hành động can thiệp vào những vấn đề nội bộ của chúng tôi.

Ông muốn chúng tôi công nhận và vinh danh lá cờ của ông. Lá cờ đại diện cho một quốc gia đã thực hiện những cuộc tàn sát diệt chủng, huynh đệ tương tàn và buôn bán nô lệ quốc tế. Tôi, với tư cách một cư dân của tiểu bang Washington, không thể nào tha thứ hành động ấy. Sao ông dám đòi hỏi tôi làm? Làm như thế sẽ đưa tôi đến sự đồng lõa với những tội ác lớn lao chống nhân loại của nước ông.

Ông nói rằng dự án Đài Tưởng Niệm phủ định sự tồn tại của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Nó chẳng làm được việc nào như thế đâu. Đối lại với các bảo tàng viện và đài tưởng niệm của nước ông, Đài Tưởng Niệm này bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với những người đã trả cái giá cao nhất cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền trong nước Việt Nam Cộng Hòa cũ. Ngọn cờ của Việt Nam Cộng Hòa từ đó được công nhận như là ngọn cờ của tranh đấu cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền trên khắp thế giới. Các màu sắc của nó thật là tiêu biểu. Ba sọc đỏ tượng trưng cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền. Trong lúc màu vàng nói lên sự quý giá biết bao của những lý tưởng ấy, màu đỏ tượng trưng cho sự đổ máu để bảo vệ những lý tưởng đó. Cả trong quá khứ và cả đối với những người sẽ bảo vệ những lý tưởng ấy cho đến chết. Tôi, trước hết, hân hạnh công nhận lá cờ Tự Do và tỏ lòng vinh danh nó. Tôi cũng sẽ hân hạnh công nhận lá cờ của ông khi ông công nhận lá cờ của chúng tôi. Trước khi ấy, đối với tôi, lá cờ của ông tượng trưng cho giết hại, khủng bố, ngược đãi, tráo trở, buôn bán nô lệ và vi phạm nhân quyền.

Ông tuyên bố rằng ông đang “cực kỳ” nỗ lực để đẩy lùi quá khứ. Vâng, với nước của ông, hồ sơ quá khứ là sự xâm phạm tất cả các tiêu chuẩn của hành động văn minh, nên tôi hoàn toàn hiểu được mong muốn đẩy lùi quá khứ của ông. Sau hết, mục đích về sự thừa nhận của ông chỉ bị tổn thương bởi những hành động quá khứ của nước ông.

Tất cả các cư dân của tiểu bang Washington sẽ cảm thấy sung sướng hơn để mở bàn tay thân hữu và hợp tác khi nước ông có đầy đủ Tự Do, Dân Chủ và mở rộng Nhân Quyền cho tất cả người dân Việt Nam. Trước khi đó, xin hãy tránh khỏi công việc nội bộ của chúng tôi.

Dự án Đài Tưởng Niệm không phải là một lời tuyên bố của chính sách ngoại giao. Nơi mà ông lấy ra cái ý tưởng đó ngoài phạm vi của tôi. Một lần nữa, ông lại cố gắng làm mờ tối vấn đề. Những gì mà nhân dân Mỹ làm không mắc mớ gì tới ông. Đây là một vấn đề nội bộ của tiểu bang Washington do những công dân bình thường vinh danh những người đã hy sinh mạng sống của mình để bảo vệ Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền, là những lý tưởng đáng nguyền rủa đối với chính phủ chuyên chính bạo ngược của ông. Đó là những lý tưởng mà lá cờ nền vàng với ba sọc đỏ đã tượng trưng.

Bây giờ chúng ta hãy nhìn kỹ vào những gì mà nước ông đã làm và đang tiếp tục làm.

Cộng sản Việt Nam đã tham gia vào hành động diệt chủng. Nó đã chính thức bắt đầu suốt trong cuộc Chiến Tranh Đông Dương lần thứ hai. Chính nước ông đã tuyên chiến Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai. Theo định nghĩa lúc bấy giờ, đó là một cuộc chiến tranh. Như vậy, nước ông bị ràng buộc bởi những Quy Ước Genève về cách đối xử với Tù binh chiến tranh. Thế nhưng, như tôi đã nói trước đây, nước ông chưa đủ thành thật và tôn trọng đối với những nguyên tắc căn bản của bất cứ một hiệp định quốc tế nào mà nước ông đã ký vào.

Sự đối xử với tù binh chiến tranh của các ông đã chứng minh cho điều đó. Ngoài ra, các ông đã hành quyết ít nhất là 11 tù binh Hoa Kỳ đang bị các ông giam giữ. Đó là một tội phạm chiến tranh và diệt chủng. Cho đến ngày nay, các ông vẫn cố tình phạm tội diệt chủng. Hãy lấy trường hợp của Lý Tống, một người Mỹ gốc Việt. Các ông đã tìm cách can thiệp vào tòa án và luật pháp của Thái-Lan và yêu cầu Thái-Lan hãy hành quyết Lý Tống. Tội danh của ông ta là gì? Nói cho dân Việt Nam về Tự Do là một trường hợp mà các ông không thể nào tha thứ được.

Cộng sản Việt Nam đã tham gia và tiếp tục tham gia vào cuộc huynh đệ tương tàn. Việc này đã khởi đầu vào năm 1956 khi chế độ Cộng sản tại Hà Nội phát động chương trình Cải Cách Ruộng Đất. Trong lúc có thể dễ dàng trút trách nhiệm lên kẻ khích động của Cộng sản Quốc tế là Hồ Chí Minh, thì kiến trúc sư thực sự là Trường Chinh. Đã có bao nhiêu người Việt Nam chết dưới cuộc tàn sát này? 10,000? - 50,000? - 100,000? Nhiều hơn? Ngay cả chỉ có một nạn nhân của cuộc tàn sát này, cũng đã tạo nên cảnh tương tàn huynh đệ rồi. Cuộc tàn sát nhắm vào người thiểu số Việt Nam tại miền Tây Bắc Việt Nam cũng cùng một loại (với cải cách ruộng đất). Mục đích của cuộc tàn sát này là “xóa sạch chủng tộc” số người Việt Nam thiểu số đã giúp cho người Pháp. Tôi nhắc đến điều này là để chứng minh rằng các ông đã tiếp tục chính sách này sau khi kết thúc Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai với sự bắt đầu chính sách cưỡng bách tái định cư những người Việt Nam đã cộng tác với Việt Nam Cộng Hòa cũ tại những vùng mà các ông thản nhiên gọi là Vùng Kinh Tế Mới. Các ông tiếp tục chính sách diệt chủng hiện nay dưới dạng ngược đãi và khủng bố tôn giáo, nó cũng là một bằng chứng hiển nhiên về vi phạm nhân quyền. Bất cứ một người nào bị giết hại trong cuộc tàn sát này cũng là nạn nhân của chính sách diệt chủng và tương tàn của nước ông.

Hãy nhìn vào sự gắn bó của nước ông trong hành động buôn bán nô lệ. Nhiều lần trong cuộc Chiến Tranh Đông Dương lần thứ hai và cả sau đó, nước ông bán người Mỹ, bán đồng minh và tù binh Việt Nam qua nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Bang Xô-Viết. Một bằng chứng, năm 1983, nước ông bán 275 người Mỹ và 27,000 tù binh Việt Nam qua Liên-xô để trừ nợ đã vay trong chiến tranh. Đây là một vi phạm quá trọng đại đối với nhân quyền và là một tội ác chống nhân loại. Đã có nhiều lần nước ông bán người Mỹ, đồng minh và tù binh Việt Nam qua Liên-Xô, nhưng mỗi một lần số lượng không nhiều lắm.

Nước ông có thể giải quyết nhiều trường hợp Tù Binh/Người Mất Tích Trong khi làm nhiệm vụ một cách dễ dàng bằng cách mở các hồ sơ quân đội và Công an của nước ông. Nhưng nước ông đã không làm chỉ vì không có lợi lộc gì trong việc giải quyết nhân đạo vấn đề tình cảm này. Nước ông tống tiền nước Mỹ cho lợi nhuận riêng và hưởng thụ. Tại sao? Bởi vì nước ông nhận thấy rằng Tổng Thống Nixon đã hứa viện trợ tái thiết cho nước ông khoảng 4 tỷ 3 đô-la. Điều này có thể xảy ra, nước ông có thể nhận được số tiền này một cách dễ dàng, nếu chịu công bố hồ sơ và danh sách tù binh của nước ông cho các gia đình và cho thế giới. Ít ra việc này cũng có thể làm giảm nhẹ một phần nào trong số tội ác của nước ông.

Rồi thì ông dám trơ tráo đòi hỏi rằng người Mỹ đừng can thiệp vào công việc nội bộ của ông và đòi vinh danh lá cờ của nước ông. Với hồ sơ của nước ông, lẽ ra ông nên vui mừng là đã không bị đưa ra xét xử bởi một Tòa án Quốc Tế về những tội ác chống nhân loại mà nước ông đã phạm.

Vậy thì, xin đừng can thiệp vào các vấn đề nội bộ của chúng tôi trong việc vinh danh những người đã chết vì Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền. Xin đừng xen vào để xem làm sao chúng tôi vinh danh những công dân đã đóng góp vào sự an sinh và no ấm của Tiểu bang chúng tôi.

Terrell A. Minarcin
Concerned Citizen for Freedom, Democracy, and Human Rights for Vietnam.

Bản dịch của NGUYỄN-CHÂU (San Jose)


NGUYÊN VĂN ANH NGỮ

    From: Terrell Minarcin tektalk@verizon.net

    Subject: Another International Incident

    Date: Feb 23, 2004 9:30 PM

    This is a rather long e-mail and for that I apologize. However, I think it is well worth reading, even if I did write.

    Recently, State Senator Pam Roach introduced two resolutions in our State Senate. The first dealt with recognizing the flag of the former Republic of Vietnam. The second dealt with support for a proposed Freedom Fighters Memorial to be built here in Washington State.

    Senator Roach then received a letter from the ambassador for communist Vietnam that protested both resolutions. I have re-typed the ambassador's letter. If you wish a copy of the letter with the letterhead on it, please e-mail me back and I will see that a copy of it is FAXed to you. After the ambassador's letter is my response to him.

Please feel free to pass this e-mail to any one you wish.

Terry Minarcin


Dear Senator ROACH: February 10, 2004

It is with particular concern that I am writing to you regarding a second attempt to recognize the flag of the former Republic of Vietnam, as expressed in SJM8045. This is to reaffirm that the people and Government of Vietnam cannot agree with the proposed Memorial. Let me share with you my thoughts.

First, the proposed Memorial runs counter to international conventions and practices. Now that the so-called Republic of Vietnam ceased to exist over thirty years ago, its flag therefore no longer has legal standing in Vietnam. Like a number of similar bills or resolutions, the language of the proposed Memorial clearly negates the existence of the Socialist Republic of Vietnam that has established full diplomatic relations with the United States since 1995.

Secondly, since the start of the new phase of normalization and reconciliation in 1995 with your country, Vietnam has been doing her utmost to put the past aside and look forward to the future, striving to build a relationship that benefits both sides. In your State, Boeing has been selling airplanes to Vietnam and the Port of Seattle maintaining a sister port exchange program with Vietnam's northern port of Hai Phong. In my opinion, the proposed Memorial, languaged to revive the past of hatred and sadness, does not serve the interests of either Vietnam, or the United States, or Washington State.

Thirdly, as a consistent policy, Vietnam welcomes active participation by Vietnamese Americans in expanding the mutually beneficial relationship between Vietnam and US and their effective integration into the mainstream of the US life. It is Vietnam's strong hope that the community of Vietnamese Americans, about nearly fifty thousand of whom have chosen your State as their new home, will also adopt the spirit of friendship and cooperation.

Finally, at the federal level the Secretary of State and other senior US officials have repeatedly stated that the US does not recognize the former Republic of Vietnam flag. In his meeting with me last summer, Governor Gary Locke said he and the State of Washington are supportive of the acceleration of mutually beneficial ties between Washington State and Vietnam.

As you may recall, the similar Senate Resolution 8659 was withdrawn from consideration last spring when those thoughts were taken into account.

Last but not least; I believe the proposed Memorial, once passed by your legislature, could run afoul of the very US Constitution that vests the powers to conduct foreign policy solely in the federal system. Furthermore, by calling for the recognition of the former flag "as the only legitimate flag of the Vietnamese people," it also rendersthe freedom of expression questionable.

In light of these considerations, I respectfully urge you not to act in favor of the proposed Memorial.

I thank you for your consideration and cooperation.

With my best personal regards,

(signed)

NGUYEN TAM CHIEN


    Ambassador
    Mr. Ambassador; February 23, 2004

    I recently received a copy of your letter to State Senator Pam Roach dated February 10, 2004. I would like to respond to that letter.

    If any other country had written this letter, it would be, simply put, laughable. But it was your country, Mr. Ambassador, communist Vietnam.

    Your country has never honorably or honestly met the protocols of any international agreement that you are a signatory to. Yet, you hide behind these agreements only when they suit your fancy. When individuals, such as myself or Mr. M. Benge, or organizations, such as Amnesty International or Freedom House, or Human Rights Watch, charge your country with numerous counts of violations of human rights or worse, you immediately respond by saying that the matters we are concerned with are internal matters and that we are interfering with your country's policies. So be it. You are interfering with due process here in the State of Washington in matters that do not concern you. How we honor the contributions of individuals or ethnic communities here in Washington is of no concern to you. Quit interfering in our internal matters.

    You want us to recognize and honor your flag. The flag represents a country that has promulgated pogroms of genocide, fratricide and international slave trafficking. I, as a resident of the State of Washington, can not condone such behavior. How dare you insist that I do? To do so makes me an accomplice to your egregious crimes against humanity.

    You state that the proposed Memorial negates the existence of the Socialist Republic of Vietnam. It does nothing of the sort. In contrast to your museums and memorials, this Memorial pays tribute to those who paid the ultimate price for Freedom, Democracy and Human Rights in the former Republic of Vietnam. The flag of the former Republic has since come to be recognized as the flag for the struggle for Freedom, Democracy, and Human Rights throughout the World. The colors are quite symbolic. The three bands stand for Freedom, Democracy, and Human Rights. While the gold shows how precious these

    ideals are, the red stands for the blood shed for these ideals, both in the past and for those who will defend these ideals to the death. I, for one, am glad to recognize the Freedom Flag and to pay honor to it. I will be glad to recognize your flag when you recognize mine. Until then, your flag, for me, stands for murder, persecution, duplicity, slave trading, and human rights violations.

    You state that you are trying your utmost to put the past aside. With your country's past records of abuse of all standards of civilized behavior, I fully understand your desire to brush the past aside. After all, your cause for recognition is only hurt by your past actions.

    All of the residents of Washington will be more than happy to extend to you the hand of friendship and cooperation when you fully embrace Freedom, Democracy and to extend Human Rights to all Vietnamese. Until then, stay out of our internal affairs.

    The proposed Memorial is not a statement of foreign policy. Where you got that idea is beyond me. Once again, you try to cloud the issue. What the people of America do is not your concern. It is an internal affair of the State of Washington by private citizens to honor those who gave their lives defending Freedom, Democracy, and Human Rights, ideals which are anathematic to your despotic government. That is what that flag of gold with three horizontal red stripes stand for.

    Now let us look closely at what your country has done and continues to do.

    Communist Vietnam has engaged in genocide. This began in earnest during the Second Indochina War. You declared it the Second Indochina War. By definition then, it was a war. As such, you were bound by the Geneva Conventions governing the treatment of Prisoners of War (POWs). But, as I stated before, you have yet to honestly and honorably meet the tenets of any international agreement to which you are a signatory.

    Your treatment of POWs testifies to this. In addition, you executed at least 11 American POWs who were in your custody. This is a war crime and genocide. To this day, you try to commit genocide. Take the matter of Ly Tong, a Vietnamese-American. You tried to interfere in a Thai court of law and demanded that Thailand execute Ly Tong. His crime? Telling the Vietnamese about Freedom, a condition that you can not tolerate.

    Communist Vietnam has engaged in and continues to engage in fratricide.

    This began in 1956 when the communist regime in Hanoi started their land reform programs. While it would be easy to blame the agent provocateur of the Communist Internationale, Ho Chi Minh, the real architect was Truong Chinh. How many Vietnamese died under this pogrom? 10,000? 50,000? 100,000? More? Even one victim of this pogrom constitutes fratricide. The pogrom initiated against the Vietnamese minorities in northwest Vietnam fall into this same category. The aim of this pogrom was to "ethnically cleanse" Vietnam of those minorities who had helped the French. I mention this to show that you continued this policy after the conclusion of the Second Indochina War with the start of your forcible relocation of Vietnamese who were associated with the former Republic of Vietnam to those areas you so blithely called New Economic Areas. You continue your ethnic cleansing today under the guise of religious persecution, which is also a blatant human rights violation. Any one executed under this pogrom is a victim of your genocidal and fratricidal policies.

    Let us take a look at your country's involvement in the international slave trafficking movement. Several times during the Second Indochina War, and even afterwards, you sold American, allied, and Vietnamese POWs to the former Union of Soviet Socialist Republics. To whit, in 1983, you sold 275 American and 27,000 Vietnamese POWs to the USSR to reduce your war debt to them. This is a most egregious violation of human rights and a crime against humanity. There were other times you sold other American, allied and Vietnamese POWs to the USSR but not so many at one time.

    You could resolve many of the POW/MIA cases with ease by opening up your military and political police files. You do not because there is no profit in humanely resolving this emotional issue. You extort monies from America for your own profit and gain. Why? Because you feel that President Nixon promised you some $4.3 billion dollars in reconstruction aid. Be that as it may, you can recover that money easier if you release your files publicly to the families and to the world. At least this can mitigate some of your crimes.

    And then you have the gall to demand that Americans not interfere in your internal affairs and to honor your flag. With your record, you should be happy not to be on trial by an international court for your crimes against humanity.

    Until then, do not interfere in our internal affairs in how we honor those who have died for Freedom, Democracy, and Human Rights. Do not interfere with how we honor our citizens who contribute to the well being and welfare of our State.

    Terrell A. Minarcin
    Concerned Citizen for

    Freedom, Democracy, and Human Rights for Vietnam