Saturday, April 12, 2008

2VNR phỏng vấn ông Nguyễn Văn Tây

2VNR phng vn ông Nguyn Văn Tây, ch tch hi Cu Quân Nhân Quân Lc Vit Nam Cng Hoà, Nam Úc.

Hoài Đăng (HĐ):
Kính thưa ông Nguyễn Văn Tây, trước tiên Hoài Đăng xin chúc mừng Đại Hội Cựu Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (CQN QLVNCH) Úc châu kỳ thứ 16 đã diễn ra thật thành công với sự tham dự của hầu hết các vị đại diện các hội đoàn đoàn thể tại Adelaide .

Sau hai ngày đại hội, một bản quyết nghị ký ngày 23/3/2008 của hội CQN/QLVNCH Úc đã đưa ra 4 điểm. Điểm thứ 1 khẳng định: "Tập thể Cựu Quân Nhân QLVNCH Úc Châu tiếp tục đề cao cảnh giác trước những âm mưu của Cộng sản Việt Nam nhằm phân hoá cộng đồng và tập thể Cựu Quân Nhân tại hải ngoại".

Thưa ông, CSVN không dại gì lộ mặt để cho chúng ta đánh mà họ dùng những kẻ hay những đảng phái chính trị thời cơ thực hiện nghị quyết 36 dùm cho họ. Thí dụ cụ thể mới đây lãnh sự CSVN muốn xóa sổ cái tên Little Saigon là biểu tượng tỵ nạn chính trị của đồng bào tại Cali, nên mới có biến cố Madison Nguyễn, trong đó Madison và ha i nhân vật quan trọng của đảng Việt Tân Cải cách (VTCC) là ông Hoàng Cơ Định (HCĐ), ủy viên Trung Ương đảng 6 và ông Hoàng Thế Dân (HTD) là chủ tịch Cộng đồng (CĐ) tại Bắc Cali đã dùng đủ mọi thủ đoạn nhơ bẩn, ngay cả dám gán tội đồng bào đi biểu tình tranh đấu đòi giữ cái tên Little Saigon là những thành phần gây náo loạn và chia rẽ trong Cộng đồng. Xin ông cho biết quan điểm của hội CQN SA về vấn đề này.

Nguyễn Văn Tây (NVT): Trước hết, chúng tôi xin cảm ơn chị Hoài Đăng cho chúng tôi cơ hội lên tiếng. Thưa chị, nói về vụ ông Hoàng Cơ Định, ủy viên Trung Ương Đảng Việt Tân, và ông Hoàng Thế Dân, đảng viên Việt Tân (VT) dùng thủ đoạn đánh phá cái tên Little Saigon mà đồng hương tị nạn CS của chúng ta ở San Jose yêu quý, quyết chí đấu tranh để đạt được, thì chúng tôi vừa phẫn uất, vừa vui mừng.

Chị cũng biết, kể từ cuối tháng 11 năm ngoái, cứ mỗi thứ Ba "đen" là đồng bào San Jose không quản ngại mưa nắng, biểu tình đòi tên Little Saigon. Hôm 2/3/08 vừa qua thì cả 10 ngàn đồng bào San Jose đã biểu dương lực lượng trước Tòa thị chính của Hội Đồng Thành Phố San Jose. Chúng ta đấu tranh cho cái tên Little Saigon là vì nó biểu tượng cho một phần đất phi Cộng Sản, Little Saigon là của người quốc gia. Nhưng cái nguyện vọng chân chính ấy đã bị Hoàng Cơ Định và Hoàng Thế Dân liên tục bày mưu lập kế để phá hoại. Phẫn uất nhất là ha i người này, qua cái nhóm gọi là Our Voice, đã trân tráo bôi nhọ người Việt tị nạn của chúng ta với người Mỹ, gọi đồng hương ở San Jose là to mồm, là chụp mũ người ta một cách cực đoan, là không đại diện cho đa số. Bà nghị viên Madison Nguyễn, phản lại cộng đồng, đã gọi những người đi biểu tình là dân thất nghiệp, lớn họng. Madison đi dự tiệc thì Hoàng Cơ Định trơ trẽn đi theo làm hộ vệ.

Nhưng trước thái độ đó của Hoàng Cơ Định, chúng tôi lại rất mừng, vì con cáo già đã ló đuôi chồn. Sau vụ Little Saigon, Hoàng Cơ Định đã lòi nguyên bộ mặt thật phản lại người Việt tị nạn. Còn Hoàng Thế Dân thì lập ra một tổ chức giống như Cộng Đồng, mặc dù ở Bắc Cali đã có sẵn Cộng Đồng người Việt. Mục đích của y đã rõ ngay từ đầu là để chia rẽ cộng đồng chúng ta ở San Jose . Ngay giữa đại hội Hội Đồng Thành Phố, y giơ điện thoại cầm tay lên bảo bị người ta hăm dọa giết, với ý đồ bôi bẩn cộng đồng tị nạn của chúng ta. Con cáo hiện nguyên hình. Hoàng Cơ Định, Hoàng Thế Dân bảo rằng đồng hương đã hàm hồ kết án những người đi ngược lại nguyện vọng của đồng hương là VC ha y thân Cộng. Chúng tôi thấy rằng không cần ai kết án cả, mà chính hành động phá hoại tên Little Saigon, chính việc bôi nhọ cộng đồng chúng ta trước dư luận người Mỹ đã tự kết án Hoàng Cơ Định và Hoàng Thế Dân.

: Thưa ông ở thời điểm trước năm 1975, QLVNCH giữ vai trò bảo vệ miển nam VN không rơi vào tay CSVN. Ngày hôm nay ở hải ngoại, tất nhiên những chiến binh VNCH cũng sẽ vẫn tiếp tục giữ vai trò bảo vệ Cộng đồng người Việt hải ngoại là quê hương thu nhỏ của chúng ta khỏi bị CSVN xâm nhập làm tan nát. Như HĐ vừa trình bày ở trên là CSVN không hề lộ mặt, mà họ dùng những tên tay sai chính trị hoặc tổ chức chính trị thời cơ "khoác áo quốc gia" thực hiện nghị quyết 36 t ha y cho họ. Vậy thì quan điểm của hội CQN / QLVNCH ra sao đối với những thành phần ha y tổ chức chính trị thời cơ đó?

NVT: Thưa chị Hoài Đăng , đúng như chị nói, bọn CS xảo quyệt không cần ra mặt, bởi vì chúng đã có một đám tay sai sẵn sàng bán dan h dự làm đầy tớ cho chúng. Tôi lấy một ví dụ điển hình gần đây nhất, đó là việc ông Đỗ Hoàng Điềm, Chủ Tịch đảng Việt Tân làm tên chạy hiệu công k ha i cho Việt Cộng trong buổi điều trần trước quốc hội Mỹ. Chắc chị đã theo dõi và đã biết, trong buổi điều trần này Đỗ Hoàng Điềm đã bảo rằng từ cuối thập niên 80, CSVN đã không còn đối xử kỳ thị, ha y bất công đối với thân nhân của quân cán chính chế độ VNCH. Y còn bảo rằng ngay lúc này thì ở VN không có một vụ bất công, kỳ thị nào cả. Nực cười là ngay sau đó thì chính Đỗ Hoàng Điềm cũng đã xác nhận là ông ta đã nói sai. Nhưng chị Hoài Đăng cũng thấy, điều ông ta nói trong buổi điều trần đã được ghi vào kỷ lục của quốc hội Mỹ, tác hại khôn lường. Đây không những là một sự phản bội chính nghĩa quốc gia và đồng bào, chiến sĩ một cách trân tráo, mà còn vô cùng nguy hại cho cuộc đấu tranh chống CS độc tài. Tên đại sứ VC cũng không quảng cáo cho CSVN ha y bằng Đỗ Hoàng Điềm. Đỗ Hoàng Điềm lại đội lớp người Việt tị nạn, bênh vực cho VC, thử hỏi chị có còn sự thâm hiểm nào hơn? Gọi Đỗ Hoàng Điềm và đảng của ông ta là chính trị thời cơ thì vì còn giữ phép lịch sự, người yêu nước chân chính nhìn hắn và đảng của hắn là tay sai của VC, ha y là nội gián của VC.

: Trong những năm gần đây và ngay cho tới bây giờ, đảng VTCC đã làm những việc như cho phát t ha nh liên tục những 5 bài viết sử của Hà Dương Dực bôi nhọ chính nghiã QLVNCH và vinh dan h "chính nghiã" CSVN trên đài cuả họ là Tiếng Nước Tôi và Chân Trời Mới, kêu gọi xóa ngăn cách qua đại hội TNSVTG do MLLD tổ chức, muốn xóa sổ ngày 30/4/75 qua hành động đẻ ra ngày tỵ nạn VN, tổ chức đại hội SV tại Mã Lai với chủ đề trở về xây dựng xã hội DS ở VN khi còn CS, hoặc là BS Nguyễn Trọng Việt trong cuộc nói chuyện với GS NNBích rất là tâm đắc với GS Bích là đấu tranh dưới lá cờ nào thì cũng vậy thôi và gần đây nhất tích cực hỗ trợ Madison đánh lại CĐNV tại Cali, v.v.... Nói tóm lại là VTCC ra sức làm những việc có lợi cho Nghị quyết 36 (NQ 36). Xin ông cho biết quan điểm và lập trường của hội CQN đối với tổ chức Việt Tân Cải cách này (VTCC) này?

NVT: Thưa chị Hoài Đăng , ngay cả Chủ Tịch Đảng mà còn có thể công k ha i chạy hiệu cho VC, thì tất cả những điều mà đảng VT làm như chị vừa nêu không làm cho ai ngạc nhiên hết. Ai có thể ra mặt thực hiện nghị quyết 36? Chẳng lẽ đại sứ VC lên đài hải ngoại kêu gọi đồng hương tị nạn CS sao? Thì VC phải dùng tay sai làm việc này chứ. Qua việc đảng VT cải cách cố tình bỏ lá cờ vàng, người ta đã thấy quá rõ họ là ai. Ai muốn xóa bỏ lá cờ vàng? Hỏi tức là đã trả lời, chỉ có VC mới muốn xóa cờ vàng. Ai cảm thấy tâm đắc việc lá cờ vàng bị xóa bỏ? Thưa chị, nêu không phải là VC thì là những tên đầy tớ của VC mà thôi.

Việc đảng VT Cải cách làm tay sai cho VC thì đã được chứng minh quá rõ từ nãy đến giờ. Chúng ta chỉ tội nghiệp cho một số các bạn trẻ, một số người có lòng mà ngây thơ, đã bị VC lùa vào đảng cải cách này để chạy hiệu cho chúng.

HĐ: Trong những năm gần đây ở bên Mỹ, CSVN đã mua chuộc được một vài tờ báo quốc gia đăng những bài viết bôi nhọ lá cờ vàng và vinh dan h Hồ chí Minh, chẳng hạn như tờ báo người Việt ở Cali đã cho in cái chậu rửa chân có vẽ lá cờ vàng 3 sọc. Các hội đoàn bên Mỹ đã ra 1 bản thông báo kêu gọi các hội đoàn và thân hào nhân sĩ ký vào bản thông báo phản đối báo "Người Việt" bôi nhọ lá cờ vàng. Được biết là hội CQN Nam Úc và tổng hội CQN cũng có ký vào đó. Xin ông cho biết lý do tại sao?

NVT: Cám ơn chị Hoài Đăng đã đưa ra câu hỏi này, bởi vì đây cũng chính là một vấn đề mà chúng tôi muốn mọi người nhìn thấy để cảnh giác.

VC không thể nào xách súng bắn người ở Mỹ, ở Úc, mà vũ khí ở các nước tự do này là truyền thông, báo chí, TV, văn nghệ, nói chung là các bộ phận tuyên truyền. Đưa VTV 4 qua thì quá lộ liễu, VC đã bị đồng bào ở Úc đánh gục. Dĩ nhiên là chúng sẽ mở những cơ quan truyền thông trá hình, đội lốt quốc gia, hoặc mua chuộc những cơ quan truyền thông sẵn có của người Việt ở hải ngoại. Việc lấy hình tượng cờ vàng của chúng ta làm chậu rửa chân, đăng lên mặt báo, là một hành động nhục mạ dan h dự tổ quốc không thể nào chấp nhận được. Chị cũng thấy việc này xảy ra đồng thời với vụ bỏ lá cờ vàng trong cuộc biểu tình của Việt Tân bên Anh, rồi thì Hoàng Cơ Định chống Little Saigon, Đỗ Hoàng Điềm quảng cáo cho VC. Tất cả như đã nằm trong một kế hoạch chung.

Thưa chị, như trên chị có nói chúng tôi là những người chiến đấu bảo vệ VNCH. Một ngày làm lính, trọn đời làm chiến sĩ thưa chị. Người chiến sĩ thì không thể nào nhìn thấy nội gián, tay sai của VC mà không có thái độ quyết liệt. Trở lại vụ lá cờ vàng bị VC mang làm chậu rửa chân thì thấy lá cờ của mình bị hạ nhục mà không lên tiếng, thì chúng ta không xứng làm người đứng giữa trời đất, nói gì đến làm chiến sĩ.

: Những năm gần đây CSVN đã bỏ tiền lẫn hứa cho danh để mua chuộc những thành phần thời cơ. Với trách nhiệm của một người bảo vệ tiền đồn hải ngoại không để cho CSVN xâm nhập lũng đoạn, vậy thì hội CQN/QLVNCH sẽ có những biện pháp cảnh giác thực tế nào để vạch mặt những kẻ thời cơ hầu giúp cho đồng bào nhìn thấy mà tránh né những thành phần đó?

NVT: Thưa chị Hoài Đăng , cám ơn chị đã cho một câu hỏi hết sức thực tế. Nhìn kỹ vào tình hình hiện nay thì chúng ta thấy những tay chính trị thời cơ, đón gió trở cờ, ha y đảng Việt Tân, không được sự ủng hộ của đồng bào. VT không còn được sự ủng hộ từ quần chúng đồng hương tị nạn như thời phó đề đốc Hoàng Cơ Minh vừa thành lập Mặt Trận. Điều này rất hiển nhiên. Thử nghĩ xem bây giờ đảng VT có quyên được thêm một đồng xu nào của đồng hương không?

Đồng hương chúng ta, một số không quan tâm nhiều đến chính trị thì chẳng cần biết VT là ai, còn những người có quan tâm thì đã thấy rõ bộ mặt thật làm tay sai cho VC của họ rồi. Cái lực của VT hiện giờ là dựa vào những giao hảo với chính trị gia ngoại quốc. Họ đội lốt đại diện về chính trị cho đồng bào tị nạn để ăn nói với chính khách Mỹ, Úc, Âu Châu, để làm những cuộc điều trần quảng cáo cho VC như Đỗ Hoàng Điềm vừa thực hiện. Cho nên thưa chị Hoài Đăng , một mặt, chúng ta phải luôn luôn phơi bộ mặt thật của đám đầy tớ VC cho đồng hương xem, nhưng quan trọng hơn nữa, là chúng ta phải lột mặt nạ của đám tay sai Bắc bộ phủ này cho chính giới ngoại quốc thấy rõ. Có như vậy thì chúng ta mới bẻ gãy được cánh tay nối dài của CSVN ở hải ngoại.

Chúng tôi là CQN, là chiến sĩ, không khéo ăn nói, giao thiệp ha y làm chính trị. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng nếu có một phong trào nào đó lên tiếng với chính khách ngoại quốc, vạch mặt bọn phản dân, tay sai của CSVN, thì chúng tôi sẵn sàng ủng hộ sự lên tiếng này. Cánh tay dài của CSVN đã không có căn bản hậu thuẫn của đồng hương tị nạn, nay đang vươn móng sắt ra bám víu vào chính giới nước ngoài. Đó cũng là điều CS mong ước. Vậy thực tế trước mắt là chúng ta cần chặt luôn những cái móc sắt này. Chúng ta phải tận dụng quyền dân chủ, cho dân biểu, nghị sĩ Úc, Mỹ, Âu châu biết bọn đón gió trở cờ không đại diện cho chúng ta, mà chỉ là đầy tớ của đám mafia đỏ Hà Nội.

: Trong giai đoạn đấu tranh quyết liệt bảo vệ lá cờ vàng chính nghiã ở hải ngoại, ông có nghĩ là đã đến lúc cần phải phân định rõ ràng lằn ranh quốc cộng ha y không? Có nghiã là những người quốc gia quyết tâm đứng chung 1 chiến tuyến và những kẻ thời cơ khoác áo quốc gia đi theo CS thì phải sang hẳn chiến tuyến bên kia.

NVT: Thưa chị Hoài Đăng , bất cứ lúc nào lằn ranh Quốc-Cộng cũng phải được phân rõ. Nhưng ngay cả khi Cộng Sản thoát xác, thì lằn ranh giữa chính và tà, giữa những tên ăn trên xương máu đồng bào và những chiến sĩ vì hạnh phúc dân tộc cũng phải được phân minh. Đối với những kẻ tuyên truyền cho VC, như Đỗ Hoàng Điềm, trong cuộc điều trần trước quốc hội Mỹ, đối với những người đi ngược lại ý dân, như Hoàng Cơ Định chống phá Little Saigon, thì không thể nào chúng ta đứng chung một chiến tuyến được.

Điều mà CSVN muốn là sự nhập nhằng, để bọn tay sai VC có thể thực hiện được nghị quyết 36. Người CQN QLVNCH nay không còn súng đạn, nhưng lý tưởng vẫn một màu chính nghĩa, ý chí vẫn kiên định vững vàng, và suy nghĩ vẫn rõ ràng minh bạch, thưa chị.

HĐ: HĐ xin chân thành cảm ơn ông NVT đã dành cho 2VNR cuộc phỏng vấn này.

NVT: Xin thành thật cám ơn chị Hoài Đăng đã cho chúng tôi cơ hội để trình bày.

Thursday, April 10, 2008

Bới Kít Ra Ngửi


Trịnh Công Sơn đứng trên bục đọc bản án "xử bắn"
tại pháp trường trước chính diện Chùa Vĩnh Nghiêm tháng 09.1975

Bới Kít Ra Ngửi
Trần Ngân Tiêu

Thời buổi này làm cái gì cũng phải có “hai tách” (high tech) hết nên đôi khi ngồi một mình gãi háng và không quấy nhiễu làm phiền phức ai chưa chắc đã được yên thân vì ở cái thời đại có “hai tách” (high tech) về phương tiện truyền thông này có những điều không muốn biết tới thì nó cứ đập vào tai vào mắt mình cho nên có muốn làm ngơ cũng không được. Có những trường hợp mình trở thành nạn nhân của những cái mình không muốn biết tớị Chẳng hạn như cái tin tên nhạc sĩ trốn quân dịch Trịnh Công Sơn chết thì có khác gì tin xe cán chó mà thiên hạ cứ um lên như cha chết. Tưởng rằng chó chết thì hết chuyện, nhưng khốn nỗi lâu lâu lại có kẻ bới kít ra để ngửi rồi bắt mình là nạn nhân của cái mùi đó bằng cách cúng giỗ hay tưởng niệm Trịnh Công Sơn ở ngoài công cộng.

Nói gì tới thiên hạ, cứ nhìn con vợ mình thôi cũng thấy tức cười lắm. Đọc báo thì cứ đọc một mình được rồi lại còn bắt mình đọc theo. Mấy năm trước và bây giờ cũng cái mửng đó. Năm đó đang ngồi đọc báo khi không con vợ la lên: “anh ơi Trịnh Công Sơn chết rồi đây này”. Hắn chết thì hắn chết chứ làm cái gì mà cứ như nhà cháy ây. Ông Minh ông Thiệu chết thì không thấy ai la ơi ới mà tên Trịnh Công Sơn chết thì hết chỗ kia đến chỗ nọ họ tụm năm tụm ba lập bàn thờ Trịnh Công Sơn rồi xúm xít vái. Vái chán rồi tuôn lời châu ngọc bốc. Có người bốc hay đến độ có lẽ ngay chính Trịnh Công Sơn cũng đếch biết mình có thật là như vậy không. Hay kết án cũng thế, có ngài phê phán thổi phồng gắt gao đến những điều có thể ngay cả Trịnh Công Sơn cũng không có kiến thức nghĩ tới. Và cái tên Trịnh Công Sơn đâu quan trọng đến nỗi khiến ta phải tốn giấy mực đến thế. Cứ viết và gán cho hắn những cái tội tầy đình chỉ khiến người ta tưởng hắn là một vĩ nhân mà thôi. Thật tình thì Trịnh Công Sơn chỉ là một tên vô lại sợ cả cái trách nhiệm làm người. Giản dị chỉ có thế. Cứ nhìn tấm hình Trịnh Công Sơn chủ toạ toàn án nhân dân và pháp trường ngay trước chánh điện chùa Vĩnh Nghiêm thì đã nói đủ rồi. Một kẻ đáng kính trọng (đến nỗi có người nói rằng được sống cùng thời với hắn là một vinh hạnh) thì không ngu xuẩn đến độ lập pháp trường trước cửa chùa (Trịnh Công Sơn đứng trên bục cao đọc diễn văn trước khi bọn CS bắn tội phạm (?) trước cửa chùa Vĩnh Nghiêm, trích báo Washington Post tháng 9, 1975). Cái chế độ VNCH mà Trịnh Công Sơn sống chui sống bám vào đó làm gì có cái cảnh bán khai này.

Qua hơn 30 năm rèn luyện trau chuốt về nghệ thuật bới kít nhau ra để ngửi tưởng đã đủ rồi; thế nhưng có những kẻ chưa thỏa mãn nên vẫn cứ muốn bới kít ra để ngửi sợ thời gian mai một thì cái mùi đó không còn nữa. Thế cho nên dù muốn hay không phe ta ngửi mùi của những tên như Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Xuân Ẩn nọ kia chưa hết thì lại phải chịu đựng cái mùi xú uế Trịnh Công Sơn “again”. Thật ra cái đống xú uế này nó sờ sờ ra đó, mọi người cố làm ngơ giả vờ không thấy để mặc kệ tía nó với nắng mưa làm cho nó hoá đất cho đỡ thối thì lại có một vài người nhất định bới ra để ngửi.

Xứ này là xứ tự do ăn nói và bầy tỏ tư tưởng và kể cả tự do ngửi “kít”. Chỉ mong là khi muốn ngửi cái cục Trịnh Công Sơn thì nên bới ra ở chỗ riêng tư chứ đừng làm khổ mũi người khác nơi công cộng.

Trần Ngân Tiêu
----------------------------------
NÓI RÕ VỀ BỨC HÌNH TRỊNH CÔNG SƠN
ĐỌC DIỄN VĂN TẠI PHÁP TRƯỜNG Ở CHÙA VĨNH NGHIÊM
- TRẦN NGÂN TIÊU -

Tựa bài “Bới Kít Ra Để Ngửi”, đáng lẽ tác không muốn nhắc tới cái “cục” TCS này nữa sau khi phổ biến bức ảnh mà nóí theo kiểu người Mỹ là “the picture said it all” về TCS. Nhưng vì có một số người đọc đặt “vấn đề” về bức hình này và có một ngợm lại tỏ vẻ “hằn học” tác giả, nên sự kiện cần phải được nói cho rõ.

Có một vài người muốn bênh vực cho cái “cục” này thì không bào chữa thẳng ra nhưng lại úp mở đưa ra những ý nghĩ để tạo cho người đọc khác nẩy sinh nghi vấn chẳng hạn như trong trang ‘Web” Bến Xưa đại khaí rằng:

- Hình có thật không hay…?

- Có kẻ còn khẳng định là hình “cut” và “paste” vì thời buổi này dùng kỹ thuật như “Photoshop” đâu có khó…

- Tại sao mãi ba mươi năm sau mới đưa ra v.v... ?

- Có anh còn khẳng định rằng đó là vụ xử bắn Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn …?

Trước hết cần trả lời vắn tắt rằng: “Mỗ mà thèm làm cái chuyện cắt, dán ruồi bu đó à? Cái cục này đâu có đáng để phải động chạm đến nhân cách của mỗ? Mỗ chỉ đưa ra một tài liệu, còn ai muốn tiếp tục ngửi kít thì cứ ngửi, mỗ chỉ xin đừng mang ra cộng cộng khiến người không muốn ngửi phải ngửi”.

Còn cáí ý kiến cho rằng đó là vụ xử bắn Đại tá Hồ Ngọc Cần thì thật là ngây ngô. Có mù loà cũng phải thấy vấn đề khác xa là Đại tá Cẩn có bị xử tại pháp trường chùa Vĩnh Nghiêm hay không ? Trong khi người bị xử bắn là một chàng trai còn trẻ, ốm yếu trông thểu não đâu có cái già dặn của người sĩ quan cấp tá?

Bức hình đó thật hay không thì tự nó nói lên đều đó, và đó là một “copy” lại của một trang báo, mà trang báo đó do người viết ký tên Mỹ Duyên, ghi chú là trích lại từ tờ WashingtonPost số tháng 9 năm 1975, đó là lý do bức hình có ghi chú chữ Việt. Bài này đăng ở trang 6, tuần san Trắng Đen, của Việt Đình Phương, ấn hành tại California tháng tư năm 1976 thì phải. (coi hình chụp trang báo đính kèm).


Vậy thì bức hình có xuất xứ nguồn gốc đàng hoàng. Việc kiểm chứng đâu có gì khó. Ba mươi năm trước máy “copy” và kỹ thuật làm báo không tối tân và tiện nghi như ngày nay.

Có kẻ còn tung hỏa mù hàm hồ rằng tại sao hơn ba mươi năm nay không đưa ra mà lại chờ đến bây giờ hay là… bị giật giây cạnh tranh nghề nghiệp v.v... Điều này thì mỗ ta nói thật rằng kẻ nào muốn mang cục kít TCS để lên bàn thờ cúng vái thay ông bà tổ tiên mình thì cứ tiếp tục, còn mỗ chỉ đưa ra một tài liệu để cho những kẻ “mồ cha không khóc mà khóc bố thằng hàng xóm” suy nghĩ. Cứ nhìn cái cảnh chiến sĩ ta lớn nhỏ có nằm xuống thì nằm xuống lặng lẽ. Còn ngay cả những tên Cộng gộc bị thất sủng (quay ra chống đảng chứ có vì mình đâu) thì kệ mẹ chúng nó, thế mà cũng có những kẻ không có chuyện gì làm bầy ra trò cầu siêu cầu an xì xụp vái khua um điếc cả đít. Đúng là cái trò khỉ.

Chuyện “Bới kít ra để ngửi” khổ mũi mỗ nên mỗ mới đưa tài liệu ra, đúng sai mỗ chịu, chứ mỗ đây mà phải nghe đứa nào xúi bậy sai khiến à? Hơn ba mươi năm qua, ít người còn nhớ tới báo Trắng Đen, tìm tài liệu trong những đống báo cũ không phải dễ, may mắn mỗ tìm được một trang “copy” từ hồi năm 1977.

Bên trái trang “copy” này có mấy chữ viết tay: “Nói có sách, mách có chứng” vì rằng vào dịp tháng tư năm 1980 hay 81 gì đó, có mấy tên ngu xuẩn tại thành phố mỗ cư ngụ tổ chức kỷ niệm ngày ba mươi tháng tư bằng một “đêm hát cho quê hương” với chủ đề nhạc TCS. Mỗ mới bảo rằng: “Chúng mày chửi bố vào mặt dân TNCS chúng ông đấy à?”, thì mấy tên ngu xuẩn đó cứ ngụy biện TCS thế này, TCS thế nọ nên mỗ mới “copy” dí bức ảnh vào mặt chúng thì chúng mới tịt và dẹp bỏ cái chủ đề xuẩn động đó. Bố khỉ! Ba mươi tháng tư thì cầu nguyện cho đất nước đồng bào, người tù cải tạo (thời đó) mau tai qua nạn khỏi thì bầy trò ra hát hỏng cho chó nó nghe à? Từ đó, thành phố mỗ ngụ, bất cứ đình đám nào mà có người hát nhạc của tên vô lại đều bị khán giả tự động lên tắt máy.

Tiện đây cũng trả lời cho anh ngợm tên Võ Tây Sơn, trên trang lưới “Tíalia”. Ngợm ta viết rằng:” TCS là một nhạc sĩ yêu nước, giết một thằng Ngụy Việt Gian thì có gì ghê gớm mà … hằn học quá vậy”.

Đáng lẽ ta không trả lời nhưng thương ngợm này u tối không hiểu ý ta nên ta đành làm phước mở mang “đỉnh cao” của ngợm đó một phát.

Ý ta là ta khinh cái tên TCS, ta khinh vì giá trị của nó chỉ là một “cục”… Ngươi nói TCS yêu nước, nhưng ngươi định nghĩa thế nào là yêu nước. Thanh niên trong thời chiến phải thi hành nhiệm vụ (ở miền Bắc cũng thế) khi đã thi hành nhiệm vụ thì mới xứng đáng nói hai chữ “yêu nước”. Người yêu nước không sống trốn chui trốn rúc như con chuột (ở miền Nam gọi là trốn quân dịch) rồi há mồm nói yêu nước. Ở miền Nam có những kẻ thích CS họ đã vào bưng theo VC để yêu nước theo niềm tin của họ, ta ghét sự ngu muội đó, nhưng ta không tởm họ như ta tởm TCS vì tên này nếu thích CS tại sao không vào thẳng trong bưng theo VC để mà “chống Mỹ cứu …kít” mà lại sống chui rúc như một ký sinh trùng trong xã hội.

Ta tởm tên này vì hắn đã hèn không đi “bưng” mà chờ tới giờ chót, khi nhìn thấy quân Cộng thắng thế đã vào thành phố đến nơi rồi, hắn vội vàng lên bài phát thanh chường mặt ra hồ hởi: “có em đây” hầu mong được ban ân trước nhất kẻo không thì “trâu chậm uống nước đục”. Cái cảnh này chó má đếch chịu được! Ngươi có hiểu ý ta không ngợm? Cũng như TCS có mấy tên trí thức vào giờ thứ 30 quấn khăn đỏ vào tay ra ngã tư Bẩy Hiền vẫy cờ đón quân ”giải phóng” tưởng sẽ được ban ân bố đức nhưng đã bị đảng ta coi như con chó nhốt trong tù, bây giờ còn bầy trò lớn họng đấu tranh “trâu đánh”.

Ta tởm nên ta coi hắn như là cái “cục”, vì một người người “yêu nước”, yêu văn hoá dân tộc thì phải hiểu rằng ngay kẻ cướp cũng buông đao trước cửa chùa, nhưng đây hắn đã ngu xuẩn thiết lập pháp trường tại cửa chùa mới là xuẩn động. Kẻ được xưng tụng như “nhà làm văn hoá” mà tởm như “kít” đến thế à?

Ngợm ngươi nói “đâu có gì là ghê gớm…”, qủa thật đối với việc giết người của CS nó dã man, mọi rợ, đến thế nào thì ta không cần nói thêm, nhưng chúng đã xỏ lá cho một “thần tượng” của một số dân của miền Nam làm cái chuyện mà người miền Nam chúng ông không có thể tưởng tượng tới. Ngươi có hiểu ý ta không ngợm? Nếu ngươi không hiểu thì tạm dẹp tự ái, về hỏi lại người đáng cha chú ngươi rằng ta nói có…lý không rồi hãy “văng” tự ái tục tĩu như những kẻ vô giáo dục.

Nếu ngươi muốn hiểu CS giết người man rợ như thế nào thì ngươi cứ nghĩ giả dụ nếu bố ngươi bị đấu tố đến chết bỏ xác vắt ngang bờ ruộng, rồi chúng cho cả trăm dân làng đi qua vừa dẵm lên vừa nhổ nước bọt (miền Nam gọi là nước miếng) vào xác bố ngươi xong rồi mới cho ngươi mang bố ngươi đi chôn…thì ngươi có cho đó là “đâu có gì là ghê gớm…” không?

Còn một ngợm nữa phịa rằng, không có bắn tại đó mà mang đi chỗ khác bắn sau khi đọc diễn văn v.v...v..v. Bố khỉ! Ngươi làm cái “đíu” gì ở đó lúc đó mà đã biết rằng mang đi chỗ khác bắn. Bắn hay không bắn nhưng chỉ nội nhìn cảnh pháp trường trước cửa chùa thôi chưa đủ cho ngươi tởm ư. Muốn ôm cái “cục” này để ngửi thì cứ cần gì phải phiạ đại như vậy.

Mỗ sẽ không nói về cái ‘cục’ TCS này nữa và mong rằng ngay cả những người không ưa TCS cũng đừng phí nhiều giấy mực về cái cục này, nó đâu có đáng để cho chúng ta phí sức như vậy. Một bãi kít chó sẽ tan vào cát bụi.

TRẦN NGÂN TIÊU

Wednesday, April 9, 2008

Buổi Tiếp Đón "Ngọn Đuốc Nhân Quyền"

The Receiving Ceremony of Global Human Rights Torch Relay
Buổi Tiếp Đón "Ngọn Đuốc Nhân Quyền"
The Olympics and crimes against humanity cannot coexist in China.
April 6 (Sunday), 2-4pm, at Freedom Plaza of Washington DC

Web Album created by Hiep N. Bui - Vietnamese American Television (VATV), Washington, DC.






















http://www.cookiesinc.org/HumanRightsTorchRelayinWashingtonDC/


Bản đồ của Trung Cộng

Bản đồ tuyên bố lãnh hải của Trung Quốc



Bản đồ quảng cáo du lịch của Trung Quốc

Tuesday, April 8, 2008

Tuyên bố

Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà (1974)

Nhiệm vụ cao cả và cần thiết của một chính phủ là bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà cương quyết thi hành nhiệm vụ này, bất kể những khó khăn có thể sẽ gặp phải và bất kể những cáo buộc vô căn cứ có thể sẽ đến bất cứ từ đâu.

Trước sự chiếm đóng bất hợp pháp của Trung Cộng bằng quân sự trên Quần đảo Hoàng Sa, nguyên là một phần đất thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà, Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà xét thấy cần thiết phải long trọng tuyên bố trước công luận thế giới, bạn cũng như thù, rằng:

Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa là một phần không thể cắt rời của lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Chính phủ và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa sẽ không khuất phục trước bạo lực và bác bỏ tất cả hoặc một phần chủ quyền của họ trên những quần đảo này.

Chừng nào mà bất cứ một hòn đảo nào của phần lãnh thổ đó của Việt Nam Cộng Hòa vẫn bị một nước khác chiếm đóng bằng bạo lực, thì Chính phủ và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa sẽ tiếp tục tranh đấu để lấy lại quyền lợi hợp pháp của mình.

Kẻ chiếm đóng bất hợp pháp sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về bất cứ tình trạng căng thẳng nào bắt nguồn từ đó.

Nhân cơ hội này, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cũng long trọng tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên các hải đảo ngoài khơi miền Trung và Nam phần Việt Nam, đã luôn luôn được chấp nhận như một phần lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa trên căn bản không thể chối cãi được về địa lý, lịch sử, chứng cứ hợp pháp và bởi vì những điều thực tế.

Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cương quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia trên những quần đảo này bằng tất cả mọi phương tiện. Ðể gìn giữ truyền thống tôn trọng hoà bình, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẵn sàng giải quyết, bằng sự thương lượng, về các tranh chấp quốc tế có thể bắt nguồn từ các quần đảo đó, nhưng điều đó không có nghĩa là Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẽ từ bỏ chủ quyền của mình trên bất cứ phần lãnh thổ nào của quốc gia.

Tuyên bố bởi Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 14 tháng 2 năm 1974

Trích và lược dịch từ nguồn:
Paracels Forum - The Discussion Proceeds For Peace
____________________________________________


Tuyên bố của Bộ Ngoại giao nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam về Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa (1979)

Vào ngày 30/7/1979, Trung Quốc đã công khai công bố tại Bắc Kinh một số tài liệu với ý định để minh chứng cho việc tuyên bố chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Về vấn đề này, Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam tuyên bố:

1. Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa là một phần của lãnh thổ Việt Nam. Các Sứ quân Việt Nam đã là những người đầu tiên trong lịch sử đến chiếm đóng, tổ chức, kiểm soát và khai phá các quần đảo này trong chức năng của họ như là các lãnh chúa. Quyền sở hữu này có hiệu quả và phù hợp với luật pháp quốc tế. Chúng tôi có đầy đủ các tài liệu lịch sử và luật pháp để chứng minh chủ quyền tuyệt đối trên hai quần đảo này.

2. Sự diễn giải của Trung quốc về văn bản ngày 14 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà như một sự công nhận chủ quyền của phiá Trung quốc trên các quần đảo là một sự xuyên tạc trắng trợn khi tinh thần và ý nghĩa của bản văn chỉ có ý định công nhận giới hạn 12 hải lý của lãnh hải Trung quốc.

3. Năm 1965, Hoa Kỳ gia tăng cuộc chiến tranh xâm lược tại miền Nam Việt Nam và phát động một cuộc chiến huỷ diệt bằng không quân và hải quân chống lại miền Bắc Việt Nam. Họ đã tuyên bố rằng khu vực chiến trường của quân đội Hoa Kỳ bao gồm Việt Nam và vùng lân cận của khu vực khoảng 100 hải lý tính từ bờ biển Việt Nam. Vào lúc đó, trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước, nhân dân Việt Nam đã phải chiến đấu trong mọi tình huống để bảo vệ chủ quyền đất nước. Thêm nữa, Việt Nam và Trung Quốc lúc đó vẫn duy trì quan hệ hữu nghị. Bản tuyên bố ngày 9/5/1965 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đưa ra lý do để tồn tại chỉ với quá trình lịch sử này.

4. Từ năm 1972, theo sau Bản Thông cáo chung Thượng Hải, những kẻ cai trị Trung Quốc đã âm mưu với bọn hiếu chiến Mỹ để phản bội nhân dân Việt Nam, gây ra biết bao nhiêu trở ngại cho cuộc chiến tranh tự vệ của Việt Nam. Ðầu Tháng Giêng 1974, chỉ trước khi nhân dân Việt Nam toàn thắng vào mùa Xuân 1975, Trung Quốc đã chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp quân sự, lúc đó vẫn dưới sự quản lý của chính quyền Sài Gòn.

Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã tuyên bố rõ ràng cương vị của họ như sau đây:

- Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là những câu hỏi thiêng liêng cho tất cả mọi quốc gia.
- Những khó khăn về biên giới lãnh thổ, thường tồn tại trong các cuộc tranh chấp giữa các nước láng giềng do lịch sử để lại, có thể vô cùng rắc rối và nên được nghiên cứu kỹ càng.
- Các quốc gia quan tâm nên cứu xét vấn đề này trong tinh thần công bằng, tôn trọng lẫn nhau, hòa nhã, láng giềng tốt và giải quyết vấn đề bằng sự thương lượng.

5. Tại các cuộc thảo luận tổ chức vào ngày 24/9/1975 với phái đoàn Ðảng và Nhà nước Việt Nam trong chuyến thăm viếng Trung Quốc, Phó Thủ tướng Ðặng Tiểu Bình đã thú nhận rằng có sự tranh chấp giữa hai bên về vấn đề quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và hai bên sau đó nên bàn thảo với nhau để giải quyết vấn đề

6. Chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa một cách bất hợp pháp bằng quân sự, Trung Quốc đã xâm phạm vào sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và dẫm chân lên làm cản trở tinh thần của Hiến chương Liên Hiệp Quốc kêu gọi giải quyết tất cả các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình. Sau khi phát động một cuộc chiến xâm lược Việt Nam với tầm vóc to lớn, phía Trung Quốc lại nêu ra vấn đề quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong khi tạo ra một tình trạng càng ngày càng căng thẳng dọc theo biên giới Việt Nam và từ chối việc thảo luận những giải pháp cấp thiết để bảo đảm hoà bình và ổn định trong khu vực biên giới giữa hai nước. Ðiều rõ ràng là những kẻ cai trị Trung Quốc vẫn không từ bỏ ý định tấn công Việt Nam một lần nữa. Hành động của họ là một sự đe doạ nghiêm trọng cho hoà bình và ổn định trong vùng Ðông Nam Á và làm lộ rõ hơn tham vọng bành trướng, với bản chất bá quyền hiếu chiến của một nước lớn, bộ mặt xảo trá lật lọng và phản bội của họ.

Hà Nội, ngày 7 tháng 8 năm 1979

Trích và lược dịch từ nguồn:
Paracels Forum - The Discussion Proceeds For Peace



Nghiên cứu của Todd Kelly

Nghiên cứu của Todd Kelly đề cập đến Công Hàm Bán Nước

On 15 June 1956, two weeks after the RVN reiterated the Vietnamese claims to the Truong Sa Islands, the DRV Second Foreign Minister told the PRC Charge d'Affaires that "according to Vietnamese data, the Xisha and Nansha Islands are historically part of Chinese territory."[65] Two years later, the PRC made a declaration defining its territorial waters. This declaration delineated the extent of Chinese territory and included the Truong Sa. In response, the DRV Prime Minister, Pham Van Dong, sent a formal note to PRC Premier Zhou Enlai stating that "The Government of the Democratic Republic of Viet Nam respects this decision."[66]



Ngày 15 tháng 6 năm 1956, hai tuần lễ sau khi Việt Nam Cộng Hoà (RVN) tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa, Thứ trưởng Ngoại giao của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (DRV) đã nói với Ban Thường Vụ của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (PRC) rằng “theo những dữ kiện của Việt Nam thì quần đảo Hoàng Sa (Xisha) và quần đảo Trường Sa (Nansha) là một bộ phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc” . Hai năm sau đó, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa đã ra bản tuyên bố xác định lãnh hải của họ. Bản tuyên bố này đã vạch ra rõ ràng cái khoảng khu vực của lãnh thổ Trung quốc có bao gồm cả Trường Sa . Để đáp lễ, Thủ tướng Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (DRV), Phạm Văn Đồng đã gởi một bản công hàm đến Thủ tướng Trung quốc Chu Ân Lai, nhấn mạnh rằng “Chính Phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định này”.


Trích và lược dịch từ Vietnamese Claims to the Truong Sa Archipelago by Todd Kelly
A Journal of the Southeast Asian Studies Student Association


DRV = Democratic Republic of Vietnam - Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt Nam)
PRC = People's Republic of China - Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (Trung-quốc)
RVN = Republic of Vietnam - Việt Nam Cộng Hòa (Nam Việt Nam)


Bài viết của ký giả Frank Ching

Bài viết của ký giả Frank Ching trên Tạp chí Kinh tế Viễn Ðông đề cập đến Công Hàm Bán Nước

Vấn đề Tranh chấp Chủ quyền trên Quần đảo Hoàng Sa
Saigon - Hanoi - Paracels
Islands Dispute – 1974

Frank Ching (Far Eastern Economic Review, Feb. 10, 1994)

1) Tái thẩm định miền Nam Việt Nam

Chỉ có một số ít các chính phủ sẵn sàng thú nhận rằng họ đã phạm phải sai lầm, ngay cả khi những chính sách của họ cho thấy điều đó một cách rất rõ ràng. Lấy thí dụ như Việt Nam chẳng hạn

Khi nước CHXHCN Việt Nam đã từ bỏ chủ nghĩa xã hội trên tất cả mọi mặt, ngoại trừ cái tên, thì họ vẫn ngần ngại không muốn thú nhận điều này. Chính sách kinh tế thị trường mà họ đang theo đuổi, dù sao, đã nói lên điều ngược lại.

Trong những năm chiến tranh, những trận đánh chống lại quân đội Mỹ và quân đội miền Nam Việt Nam, đã được chiến đấu dưới danh nghĩa của chủ nghĩa xã hội và nhận được sự ủng hộ của toàn thể thế giới cộng sản, đặc biệt là từ Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa.

Những trận đánh này đã đòi hỏi một sự hy sinh nặng nề về xương máu và tài nguyên của đất nước, là một cái giá mà người Việt Nam vẫn tiếp tục phải trả cho đến ngày hôm nay khi nhà nước CSVN đang cố gắng, một cách rất muộn màng, đặt việc phát triển kinh tế lên trên ý thức hệ chính trị. Cái ý thức hệ đó trong quá khứ đã buộc Hà Nội phải lựa chọn những chính sách mà khi nhìn lại thì không có vẻ gì là khôn ngoan cả. Và việc bóp méo ý thức hệ này đã gây cho họ nhiều thứ rắc rối khác hơn là chỉ đưa họ vào tình trạng khó xử với các đồng chí cộng sản đàn anh của họ ở Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh. Ðôi khi nó cũng làm mờ mắt họ về những lập trường đứng đắn được khẳng định bởi kẻ thù của họ là chính phủ Sài Gòn .

Trong những ngày đó, chế độ Hà Nội rất hăng hái trong việc lên án chính quyền miền Nam, cho họ là những con rối của Mỹ, là những kẻ đã bán đứng quyền lợi của nhân dân Việt Nam. Ngay cả lúc đó, một điều rõ ràng là những lời cáo buộc này đã không có căn cứ. Bây giờ, 20 năm sau, cũng lại một điều rõ ràng là đã có những lúc mà chính quyền Sài Gòn đã thật sự đứng lên cho quyền lợi của dân tộc Việt Nam, một cách vô cùng mạnh mẽ, hơn xa cả cái chính quyền tại Hà Nội.

Một trường hợp để chứng minh cụ thể là vụ tranh chấp về quần đảo Hoàng Sa trên biển Nam Trung Hoa. Quần đảo Hoàng Sa, giống như quần đảo Trường Sa ở xa hơn về phía Nam, được tuyên bố chủ quyền bởi cả hai Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng khi chế độ Hà Nội vẫn đang nhận viện trợ từ Bắc Kinh, thì họ im hơi lặng tiếng trong việc tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Quần đảo này đã bị chiếm đoạt bởi Trung Quốc sau một vụ đụng độ quân sự vào tháng Giêng năm 1974, lúc quân Trung Quốc đánh bại những người tự bảo vệ từ miền Nam Việt Nam. Từ đó, quần đảo này đã nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc.

Sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, có một sự bất đồng nhanh chóng giữa Bắc Kinh và Hà Nội, và chính quyền Hà Nội - vừa mới thống nhất với miền Nam - lại tái tuyên bố chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa. Mặc dù đã có những cuộc đàm phán cao cấp giữa hai nước, nhưng vụ tranh chấp này vẫn chưa được giải quyết. Các chuyên gia của hai nước có hy vọng là sẽ gặp gỡ sớm sủa hơn để bàn thảo về những vấn đề chuyên môn, nhưng không chắc chắn là sẽ có một quyết định toàn bộ . Thật ra, một viên chức cao cấp của Việt Nam đã thú nhận rằng vấn đề sẽ được giải quyết bởi các thế hệ tương lai.

Dù không muốn phán đoán về những giá trị của lời tuyên bố chủ quyền của bất cứ bên nào, một điều rõ ràng là cương vị của phía Việt Nam đã bị yếu thế hơn vì sự im hơi lặng tiếng của Hà Nội khi quân đội Trung Quốc chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa. Sự thiếu sót của Hà Nội để phản đối trước hành động quân sự của nước ngoài bây giờ được dùng để quật ngược lại Việt Nam mỗi khi đề tài trên được nêu ra.

Giới thẩm quyền Việt Nam ngày hôm nay giải thích sự im lặng của họ vào thời điểm đó bằng cách nói rằng họ đã phải dựa vào viện trợ của Trung Quốc trong cuộc chiến chống Mỹ, vốn là kẻ thù chính yếu của họ lúc đó. Vậy thì một điều chắc chắn là, khi chiến tranh càng được chấm dứt sớm hơn thì quan hệ hữu nghị giữa Hà Nội và Bắc Kinh cũng như vậy .

Cộng thêm vào đó là những điều bị bóp méo mới toanh mà Hà Nội phải dùng đến để tăng thêm giá trị cho lời tuyên bố về chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa. Bởi vì sự im lặng đồng ý ngầm trong quá khứ mà Hà Nội bó buộc phải tránh không dám dùng những lời tuyên bố chính thức của họ từ thập niên 1950 đến thập niên 1970, mà phải dùng những bản tuyên bố của chế độ Sài Gòn - tức là công nhận tính hợp pháp của của chính phủ miền Nam. Một cách rất sớm sủa, như vào năm 1956, chính phủ Sài Gòn đã công bố một thông cáo chính thức xác nhận chủ quyền của mình trên Hoàng Sa và Trường Sa.

Chế độ Sài Gòn cũng công bố một nghị định để bổ nhiệm nhân sự hành chánh cho quần đảo Hoàng Sa. Cho đến khi họ bị thất bại bởi lực lượng quân sự Trung Quốc vào năm 1974 (chỉ vài tháng trước khi miền Nam Việt Nam bị sụp đổ trước sự tấn công của cộng sản từ miền Bắc), thì chính phủ Sài Gòn vẫn tiếp tục tuyên bố chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa.

Trong vài năm vừa qua, nước Nam Dương (Indonesia) đã bảo trợ cho các buổi hội thảo với tính cách phi chính phủ về vùng biển Nam Trung Hoa. Tại các buổi hội thảo lúc có lúc không này, phía Việt Nam một lần nữa lại thấy bối rối khi được yêu cầu giải thích về sự im lặng của họ hồi đó, khi Trung Quốc nắm giữ cái mà Việt Nam bây giờ tuyên bố là một phần của lãnh thổ họ. “Trong thời gian này”, họ nói, “có những tình trạng rắc rối về chính trị và xã hội tại Việt Nam, cũng như trên thế giới, mà phía Trung Quốc đã lợi dụng, theo từng bước một, để dùng biện pháp quân sự chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa. Và Trung Quốc đã thu gọn toàn bộ Hoàng Sa vào năm 1974.”

Với lợi thế của hai thập niên về lịch sử, bây giờ có thể thẩm định được những hành động của chính quyền miền Nam với một nhãn quan công minh hơn. Trong cái phúc lợi của việc hàn gắn vết thương chiến tranh, nếu không phải vì những chuyện khác, có lẽ điều khôn ngoan cho Hà Nội là nên xem xét lại quá khứ và trả lại cho Cesar những gì thuộc về Cesar. Và sự chống đỡ mãnh liệt của chính quyền Sài Gòn để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, đúng vào cái lúc mà chế độ Hà Nội đang bận rộn ve vuốt để nhận đặc ân từ Trung Quốc, là một hành động xuất sắc nên được công nhận.

Hồ Chí Minh đã có một lần được hỏi rằng ông ta ủng hộ Liên Sô hay ủng hộ Trung Quốc Ông ta đã trả lời rằng ông ta ủng hộ Việt Nam. Bây giờ là lúc để chế độ Hà Nội nhìn nhận rằng đã có lúc khi mà chính quyền Sài Gòn đã ủng hộ cho Việt Nam nhiều hơn là chính quyền của miền Bắc.

2) Ðằng sau những tuyên bố về chủ quyền trên hai quần đảo

Những gì đã xảy ra sau khi Hồ Chí Minh được quân đội của Mao Trạch Ðông và các đồng chí giúp nắm giữ quyền lực tại miền Bắc Việt Nam.

Việt Nam tuyên bố chủ quyền trên “quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” dựa trên các tài liệu xưa cũ và đặc biệt là tập bút ký “Phủ Biên Tập Lục” của Lê Quý Ðôn. Việt Nam gọi hai quần đảo này là Hoàng Sa (Paracels) và Trường Sa (Spratlys); Trung Quốc gọi là Tây Sa (Xisha) và Nam Sa (Nansha). Người Việt Nam đã đụng độ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa vào ngày 19/1/1974 với kết qủa là một tàu lớn của Hải quân miền Nam cũ bị đắm và 40 thuỷ thủ bị bắt. Vào tháng 3/1988 nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa lại đến và đánh chìm 3 tàu của Việt Nam, 72 thuỷ thủ bị thiệt mạng và 9 bị bắt. Vào ngày 25/2/1992, nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của họ.

Lý do chính để Trung Quốc làm như thế đã được biết đến trước đây như một phần của kế hoạch gọi là “Không gian sinh tồn”, bởi vì tài nguyên thiên nhiên của hai vùng Mãn Châu và Tân Cương sẽ bị cạn kiệt sớm. Ðể làm điều này, Trung Quốc bắt đầu bằng phần dễ nhất – là cái mà cộng sản Việt Nam đã hứa trước đây. Có nghĩa là Trung Quốc căn cứ vào một sự thương lượng bí mật trong qúa khứ. Trong một bản tin của hãng thông tấn Reuters ngày 30/12/1993, thì cộng sản Việt Nam đã bác bỏ sự thương lượng bí mật này nhưng không đưa ra bất cứ lời giải thích nào. Lê Ðức Anh đi thăm Trung Quốc và làm chậm trễ vụ tranh chấp này đến 50 năm. Có phải là Trung Quốc có thái độ vì sự vô ơn và những hứa hẹn trong quá khứ của Lê Ðức Anh?

3) Cộng Sản Việt Nam bán Quần Đảo Hoàng sa và Trường sa, nhưng bây giờ muốn nói không.

Theo tài liệu "Chủ quyền tuyệt đối của Trung Quốc trên quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa" của Bộ Ngoại giao Trung Quốc (Beijing Review, 18/2/1980), thì Hà Nội đã "dàn xếp" vấn đề này trong quá khứ. Đại khái họ đã bảo rằng:

- Hồi tháng 6 năm 1956, hai năm sau ngày chính phủ của ông Hồ Chí Minh đã được tái lập tại Hà Nội, Thứ trưởng Ngoại giao Bắc Việt Ung Văn Khiêm nói với Li Zhimin, Xử lý Thường vụ Toà Đại Sứ Trung quốc tại Bắc Việt, rằng "theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là môt bô phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc".

- Ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố bề rộng của lãnh hải Trung Quốc là mười hai hải lý, được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, "bao gồm ... Quần Đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa ...". Mười ngày sau đó, Phạm Văn Đồng đã ghi rõ trong bản công hàm gởi cho Chu An Lai, rằng "Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa về vấn đề lãnh hải".

Ðây là của văn bản của nhà nước Việt Nam do Phạm Văn Ðồng ký gởi cho Chu Ân Lai vào ngày 14/9/1958 để ủng hộ cho lời tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc như theo sau:

Thưa Đồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:

Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố , ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.

Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.

Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.

Hà-nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958

PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính Phủ
Nước Việt-nam Dân chủ Cộng Hòa

Thêm một điều cần ghi nhận là Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (PRC) đã chỉ đe dọa những lãnh thổ mà Việt Nam đã tuyên bố là của mình, và để yên cho các nước khác. Rõ ràng là ông Hồ Chí Minh qua Phạm Văn Đồng, đã tặng cho Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa "một cái bánh bao lớn" bởi vì lúc đó ông Hồ Chí Minh đang chuẩn bị cho công cuộc xâm lăng miền Nam Việt Nam. Ông Hồ cần sự viện trợ khổng lồ và đã nhắm mắt để nhận tất cả những điều kiện của Bắc Kinh. Đối với ông ta, việc bán "trên giấy tờ" hai quần đảo lúc đó vẫn thuộc về miền Nam Việt Nam là một điều dễ dàng.

Vì sự việc này mà Cộng sản Việt Nam đã chờ một buổi họp của các quốc gia khối ASEAN tại Manila, để dùng cơ hội này như một cái phao an toàn và ký ngay một văn kiện đòi hỏi những quốc gia này giúp Việt Nam giải quyết vấn đề "một cách công bình"

Về phía Trung Quốc, sau khi đã lấy được những đảo của Cộng sản Việt Nam, họ đã tỏ thái độ ôn hòa đối với Mã Lai Á và Phi Luật Tân, và bảo rằng Trung Quốc sẵn sàng thương lượng các khu vực tài nguyên với các quốc gia này, và gạt Việt Nam qua một bên. Trung Quốc đã nói họ sẽ không tán thành bất cứ quốc gia nào can thiệp vào vấn đề giữa họ và Cộng sản Việt Nam.

Sau đó, Phạm Văn Đồng đã chối bỏ việc làm sai lầm của ông ta trong quá khứ, trong một ấn bản của Tạp chí Kinh tế Viễn Đông ngày 16/3/1979. Đại khái, ông ấy nói lý do mà ông ấy đã làm bởi vì lúc đó là "thời kỳ chiến tranh". Đây là một đoạn văn trích từ bài báo này ở trang số 11:

Theo ông Li (Phó Thủ tướng Trung quốc Li Xiannian), Trung quốc đã sẵn sàng chia chác vùng vịnh "mỗi bên một nửa" với Việt Nam, nhưng trên bàn thương lượng, Hà Nội đã vẽ đường kiểm soát của Việt Nam đến gần Đảo Hải Nam. Ông Li cũng đã nói rằng vào năm 1956 (hay 1958 ?), Thủ tướng Việt Nam Phạm văn Đồng đã ủng hộ một bản tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền của họ trên Quần Đảo Trường Sa Và Hoàng Sa, nhưng từ cuối năm 1975, Việt Nam đã kiểm soát một phần của nhóm đảo Trường Sa - nhóm đảo Hoàng Sa thì đã nằm dưới sự kiểm soát bởi Trung Quốc. Năm 1977, theo lời tường thuật thì ông Đồng đã biện hộ cho lập trường của ông ấy hồi năm 1956: "Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy".

Vì hăng hái muốn tạo ra một cuộc chiến thê thảm cho cả hai miền Nam Bắc, và góp phần vào phong trào quốc tế cộng sản, ông Hồ Chí Minh đã hứa, mà không có sự tự trọng, một phần đất "tương lai" để cho Trung Quốc nắm lấy, mà không biết chắc chắn là có thể nào sẽ nuốt được miền Nam Việt Nam hay không.

Như ông Đồng đã nói, "Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy". Vậy thì ai đã tạo ra cuộc chiến Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi sự có thể làm được để chiếm miền Nam, ngay cả việc bán đất ? Bán đất trong thời chiến và khi cuộc chiến đã chấm dứt, Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến tranh.

4) Trong cuốn “Vấn đề tranh chấp lãnh thổ Hoa -Việt” của Pao-min-Chang thuộc tủ sách The Washington Papers, do Douglas Pike viết lời nói đầu, được Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và Quốc tế thuộc Ðại học Georgetown , Washington D.C. xuất bản

Ngoài cái khoảng cách về địa lý, cả hai nhóm quần đảo này nằm ngoài phía bờ biển của miền Nam Việt Nam và vẫn dưới sự quản lý hành chánh của chế độ Sài Gòn vốn không thân thiện gì. Hà Nội đơn giản là không ở trong cái tư thế để đặt vấn đề với cả Trung Quốc lẫn sức mạnh của hải quân Mỹ cùng một lúc. Do đó, vào ngày 15/6/1956, Thủ tướng Phạm Văn Ðồng đã nóì với phía Trung Quốc: “Từ quan điểm của lịch sử, thì những quần đảo này thuộc về lãnh thổ Trung Quốc” (Beijing Review 30/3/1979, trang 20 – Cũng trong báo Far East Economic Review 16/3/1979, trang 11).

Hồi tháng 9 năm 1958, khi Trung Quốc, trong bản tuyên bố của họ về việc gia tăng bề rộng của lãnh hải của họ đến 12 hải lý, đã xác định rằng quyết định đó áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của Trung Quốc, bao gồm cả Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, một lần nữa Hà Nội đã lên tiếng nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc trên 2 quần đảo đó. Ông Phạm Văn Đồng đã ghi nhận trong bản công hàm gởi cho lãnh tụ Trung Quốc Chu An Lai ngày 14/9/1958: "Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc" (xem Beijing Review 19/6/1958, trang 21 -- Beijing Review 25/8/1979, trang 25 -- Sự tồn tại của bản công hàm đó và tất cả nội dung đã được xác nhận tại Việt Nam trong BBC/FE, số 6189, ngày 9/8/1979, trang số 1.)

5) Tại sao ?

Theo ông Carlyle A Thayer, tác giả bài "Sự tái điều chỉnh chiến lược của Việt Nam" trong bộ tài liệu "Trung Quốc như một Sức mạnh Vĩ đại trong vùng Á châu Thái Bình Dương" của Stuart Harris và Gary Klintworth [Melbourne: Longman Cheshire Pty Ltd., forthcoming 1994] :

Phía Việt Nam, trong khi theo đuổi quyền lợi quốc gia, đã thực hiện nhiều hành động mà theo quan điểm của Trung Quốc thì có vẻ khiêu khích cao độ. Thí dụ như, trong công cuộc đấu tranh trường kỳ dành độc lập, Việt Nam đã không biểu lộ sự chống đối công khai nào khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền của họ trên biển Nam Trung Hoa và đúng ra lại tán thành họ. Nhưng sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đã đổi ngược lập trường. Năm 1975, Việt Nam đã chiếm đóng một số hải đảo trong quần đảo Trường Sa và sau đó đã tiến hành việc tuyên bố chủ quyền lãnh thổ trên toàn bộ biển Nam Trung Hoa.

Như Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã thú nhận:

"Các nhà lãnh đạo của chúng tôi đã có tuyên bố lúc trước về Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên tinh thần sau: Lúc đó, theo Hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, các lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền miền Nam. Hơn nữa, Việt Nam đã phải tập trung tất cả các lực lượng quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hãn của Mỹ, nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Việt Nam đã phải kêu gọi sự ủng hộ của bè bạn trên toàn thế giới. Đồng thời, tình hữu nghị Hoa-Việt rất thân cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Trung Quốc đã cho Việt Nam một sự ủng hộ rất vĩ đại và giúp đỡ vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đòi hỏi khẩn cấp nêu trên, tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng tôi [ủng hộ Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa] là cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc.”

Đặc biệt thêm nữa là cái tuyên bố đó để nhắm vào việc đạt yêu cầu cho những nhu cầu cấp thiết vào lúc bấy giờ để ngăn ngừa bọn tư bản Mỹ dùng những hải đảo này để tấn công chúng tôi. Nó không có dính dáng gì đến nền tảng lịch sử và pháp lý trong chủ quyền của Việt Nam về hai quần đảo Hoàng Sa Và Trường Sa" (Tuyên bố trong một buổi họp báo tại Hà Nội ngày 2/12/1992, được loan tải bởi Thông Tấn Xã Việt Nam ngày 3/12/1992)

Những ghi nhận này cho thấy rằng tất cả những điều mà Trung Quốc đã tố cáo phía trên là sự thật. Những gì xảy ra ngày hôm nay mà có liên hệ đến hai quần đảo này chỉ là những hậu quả của sự dàn xếp mờ ám của hai người cộng sản anh em trong qúa khứ.

Không một ai trong cộng đồng thế giới muốn bước vào để dàn xếp sự bất đồng giữa Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc. Lý do rất rõ ràng: cái công hàm ngoại giao và sự nhìn nhận của Cộng sản Việt Nam không thể nào xoá bỏ được bởi một nước nhỏ như Việt Nam, kẻ đã muốn chơi đểu để lừa dối Trung Quốc. Hơn nữa, Cộng sản Việt Nam không thể nào tránh được Trung Quốc trong khi họ phải bắt chước theo chính sách "đổi mới" của Trung Quốc để tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Lược dịch từ: Paracels Islands Dispute by Frank Ching (Far Eastern Economic Review, Feb. 10, 1994)

Bách khoa Toàn thư Wikipedia


Bách khoa Toàn thư Wikipedia đề cập đến Công Hàm Bán Nước

Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo, nhóm đảo mà Việt Nam Cộng hòa bảo vệ và thực hiện được chủ quyền là nhóm Nguyệt Thiềm hay Trăng Khuyết (Crescent group) và nhóm Bắc đảo hay An Vĩnh/Tuyên Đức (Amphitrite group). Dưới thời Việt Nam Cộng hòa đã có đài khí tượng do Pháp xây, trực thuộc ty khí tượng Đà Nẵng và được bảo vệ bởi một tiểu đoàn thủy quân lục chiến.

Năm 1956, Hải quân Trung Quốc chiếm đóng đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc nhóm Bắc đảo.

Năm 1958, Trung Quốc cho công bố bản Tuyên ngôn Lãnh hải 4 điểm, trong đó có tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc bao gồm các đảo Đài Loan, Tây Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam) và Nam Sa (tức Trường Sa của Việt Nam), đảo Macclesfield (Trung Sa), quần đảo Bành Hồ (Pescadores)[1].

Vào giai đoạn này, Trung Quốc vẫn là đồng minh hậu thuẫn cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành cuộc Chiến tranh Việt Nam chống lại Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ.

Ngày 22 tháng 9 năm 1958, báo Nhân Dân đăng công hàm của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Quốc vụ Viện Trung Quốc, ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ Trung Quốc quyết định về hải phận[2].

Năm 1961, chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban hành sắc lệnh khẳng định chủ quyền Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam của Việt Nam Cộng hòa.

Trong thời gian 1964-1970, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam Cộng hòa chạm súng liên tục trên hải phận Hoàng Sa, nhưng không đưa đến thương vong[3]. Trong thời điểm đó, Việt Nam Cộng hòa cũng thiết lập một sân bay nhỏ tại đảo Hoàng Sa.

Trích từ Báck Khoa Toàn Thư Wikipedia

Bắc Việt Nam ủng hộ Tuyên bố 1958 của Trung Quốc

Palawan Sun: Bắc Việt Nam ủng hộ Tuyên bố 1958 của Trung Quốc

When in 1957 China protested Vietnam’s move in Robert Island, Saigon was already in control also of two other islands of the Crescent Group: Pattle and Money Islands. The three South Vietnamese held islands are on the western side of the Crescent Group. Then in August 1958 Saigon took over Duncan Island in the eastern sector of the Crescent, thus facing the Amphitrite Group. Two weeks later the PRC government declared its sovereignty over the whole of the Paracels. They were supported by North Vietnam.


Vào năm 1957 khi Trung quốc phản đối sự chiếm đóng của Việt Nam tại đảo Robert, thì chính quyền Sài Gòn đã hoàn toàn kiểm soát hai đảo khác trong nhóm Crescent: đảo Pattle và đảo Money. Ba (3) đảo mà (chính quyền) Nam Việt Nam chiếm giữ nằm bên phía tây của nhóm Crescent. Rồi đến tháng 8 năm 1958, (chính quyền) Saigon lại chiếm giữ thêm đảo Duncan nằm bên khu vực phía đông của nhóm đảo Crescent, đối diện với nhóm Amphitrite. Hai tuần sau đó, chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên bố chủ quyền của họ trên toàn bộ Quần đảo Hoàng Sa. Họ đã được ủng hộ bởi (chính phủ) Bắc Việt Nam.

Trích và lược dịch từ A History of Three Warnings By Dr. Jose Antonio Socrates
Palawan Sun Online


Bộ Ngoại giao Trung Quốc diễn giải về Công Hàm Bán Nước

Bộ Ngoại giao Trung Quốc diễn giải về Công Hàm Bán Nước

International Recognition Of China's Sovereignty over the Nansha Islands

5. Viet Nam

a) Vice Foreign Minister Dong Van Khiem of the Democratic Republic of Viet Nam received Mr. Li Zhimin, charge d'affaires ad interim of the Chinese Embassy in Viet Nam and told him that "according to Vietnamese data, the Xisha and Nansha Islands are historically part of Chinese territory." Mr. Le Doc, Acting Director of the Asian Department of the Vietnamese Foreign Ministry, who was present then, added that "judging from history, these islands were already part of China at the time of the Song Dynasty."

b) Nhan Dan of Viet Nam reported in great detail on September 6, 1958 the Chinese Government's Declaration of September 4, 1958 that the breadth of the territorial sea of the People's Republic of China should be 12 nautical miles and that this provision should apply to all territories of the People's Republic of China, including all islands on the South China Sea. On September 14 the same year, Premier Pham Van Dong of the Vietnamese Government solemnly stated in his note to Premier Zhou Enlai that Viet Nam "recognizes and supports the Declaration of the Government of the People's Republic of China on China's territorial sea."

c) It is stated in the lesson The People's Republic of China of a standard Vietnamese school textbook on geography published in 1974 that the islands from the Nansha and Xisha Islands to Hainan Island and Taiwan constitute a great wall for the defense of the mainland of China
____________________________________

Sự công nhận của thế giới về chủ quyền của Trung Quốc trên Quần đảo Trường Sa

5. Việt Nam

a) Thứ trưởng ngoại giao Ðồng văn Khiêm của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa khi tiếp ông Li Zhimin, xử lý thường vụ Toà Ðại Sứ Trung quốc tại Việt Nam đã nói rằng "theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa là môt bô phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc". Ông Le Doc, quyền Vụ trưởng Á châu Sự vụ thuộc Bộ Ngoại giao Việt nam, cũng có mặt lúc đó, đã nói thêm rằng "xét về mặt lịch sử thì các quần đảo này đã hoàn toàn thuộc về Trung quốc từ thời nhà Tống"

b) Báo Nhân Dân của Việt Nam đã tường thuật rất chi tiết trong số xuất bản ngày 6/9/1958 về Bản Tuyên Bố ngày 4/9/1958 của Nhà nước Trung quốc, rằng kích thước lãnh hải của nước Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý và điều này được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của phía Trung quốc, bao gồm tất cả các quần đảo trên biển Nam Trung Hoa. Ngày 14/9 cùng năm đó, Thủ tướng Phạm Văn Ðồng của phía nhà nước Việt Nam, trong bản công hàm gởi cho Thủ tướng Chu An Lai, đã thành khẩn tuyên bố rằng Việt Nam "nhìn nhận và ủng hộ Bản Tuyên Bố của Nhà nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa trong vấn đề lãnh hải"

c) Bài học về nước CHND Trung Hoa trong giáo trình cơ bản của môn địa lý của Việt Nam xuất bản năm 1974, đã ghi nhận rằng các quần đảo từ Trường Sa và Hoàng Sa đến đảo Hải Nam và Ðài Loan hình thành một bức tường phòng thủ vĩ đại cho lục địa Trung Hoa .

Trích và lược dịch từ trang nhà của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc

Tuyên bố năm 1958 của Trung Quốc về lãnh hải

Tuyên bố năm 1958 của Trung Quốc về lãnh hải:



Lấy từ:
http://news.xinhuanet.com/ziliao/2003-01/24/content_705061.htm
http://tw.people.com.cn/GB/14864/14919/860248.html
http://www.jincao.com/fa/law11.s01.htm

DECLARATION OF THE GOVERNMENT OF THE PEOPLE'S REPUBLIC OF CHINA ON THE TERRITORIAL SEA

(Approved by the 100th Session of the Standing Committee of the National People's Congress on 4th September, 1958)

The People's Republic of China hereby announces:

(1) This width of the territorial sea of the People's Republic of China is twelve national miles. This provision applies to all Territories of the People's Republic of China, including the mainland China and offshore islands, Taiwan (separated from the mainland and offshore islands by high seas) and its surrounding islands, the Penghu Archipelago, the Dongsha Islands, the Xisha islands, the Zhongsha Islands, the Nansha Islands and other islands belonging to China.

(2) The straight lines linking each basic point at the mainland's coasts and offshore outlying islands are regarded as base lines of the territorial sea of the mainland China and offshore islands. The waters extending twelve nautical miles away from the base lines are China's territorial sea. The waters inside the base lines, including Bohai Bay and Giongzhou Strait, are China's inland sea. The islands inside the base lines, including Dongyin Island, Gaodeng Island, Mazu Inland, Baiquan Island, Niaoqin Island, Big and Small Jinmen Islands, Dadam Island, Erdan Island and Dongding Island, are China's inland sea islands.

(3) Without the permit of the government of the People's Republic of China, all foreign aircrafts and military vessels shall not be allowed to enter China's territorial sea and the sky above the territorial sea.

Any foreign vessel sailing in China's territorial sea must comply with the relevant orders of the government of the People's Republic of China.

(4) The above provisions (2) and (3) also apply to Taiwan and its surrounding islands, the Penghu Islands, the Dongsha Islands, the Xisha Islands, the Zhongsha Islands, the Nansha Islands and other islands belonging to China.

Taiwan and Penghu are still occupied with force by the USA. This is an illegality violating the People's Republic of China's territorial integrity and sovereignty. Taiwan and Penghu are waiting for recapture. The People's Republic of China has rights to take all appropriate measures to recapture these places in due course. It is China's internal affairs which should not be interfered by any foreign country.

Trích từ nguồn: http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm


Tuyên Bố của Chính Phủ Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc về Lãnh Hải

(Ðược thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân ngày 4 tháng 9 năm 1958)

Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc nay tuyên bố:

(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.

(2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lãnh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường căn bản, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Ðại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.

(3) Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, tất cả máy bay ngoại quốc và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc

(4) Ðiều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.

Ðài Loan và Penghu hiện còn bị cưỡng chiếm bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Ðài Loan và Penghu đang chờ được chiếm lại. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai. Các nước ngoại quốc không nên xen vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc

(Bản dịch của Trung Tâm Dữ Kiện)

Chú thích: Quần đảo Tây Sa (tên tiếng Tàu Xisha) = Quần đảo Hoàng Sa = Paracel Islands
Quần đảo Nam Sa (tên tiếng Tàu Nansha) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands



Công Hàm Bán Bán Nước Của Đảng CSVN

Công Hàm Bán Nước



Nội dung bản Công Hàm Bán Nước

Thủ Tướng Phủ
Nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hoà

Thưa Đồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng
chí Tổng lý rõ:

Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố , ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của
Trung-quốc.

Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.

Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng./.

Hà-nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958

(Ấn ký)


Kính gửi:
Đồng chí CHU AN LAI PHẠM VĂN ĐỒNG
Tổng lý Quốc vụ viện Thủ tướng Chính Phủ
Nước Cộng hoà Nhân dân Trung-hoa Nước Việt-nam Dân chủ Cộng Hòa
tại
BẮC KINH