Monday, March 24, 2014

Chính "Việt Kiều" tỵ nạn cộng sản đã giúp đỡ việt cộng

CHÍNH 'VIỆT KIỀU’ TỴ NẠN CỘNG SẢN ĐÃ GIÚP ĐỠ CỘNG SẢN
Trinh Việt Bắc

Từ trước năm 1975 ở miền Bắc có ai nghe thấy nạn tham nhũng lộng hành không? Có lẽ không ai biết hoặc là không có vì dân chúng nghèo quá làm sao mà có tiền hối lộ, tạo thành tệ nạn tham nhũng được. Nạn tham nhũng hối lộ ở Việt-Nam từ đâu mà ra ?

Sau khi VC xâm chiếm miền Nam, chúng - những tên rừng rú đỉnh cao trí tuệ - thấy chóa mắt về cảnh hào nhoáng (hoành tráng), giầu có tại Sàigon, rồi đâm ra hủ hoá vì người dân miền Nam đút lót chạy chọt cho được việc:

• để mua bãi vượt biên;

• đút lót tiền cho cán bộ CS để được thăm nuôi người nhà bị tù trong trại cải tạo;

• để có hộ khẩu,

• để khỏi đi miền kinh tế mới;

• để mua bán nhà cửa;

• để xin giấy phép mở tiệm làm ăn,

• v.v. và v.v....

Đủ mọi thứ chạy chọt, tạo thành một hệ thống THAM NHŨNG - HỐI LỘ khổng lồ, giống hệt như ngày trước dân chúng miền Nam “bắt tay” cảnh sát công lộ để khỏi bị phạt. Tại xa cảng Biên Hoà, VC dùng những xe chở hàng, chở trái cây, phía dưới giấu người và vũ khí, cũng “bắt tay” với cảnh sát mình để chuyển quân và súng ống vào Sàigòn hồi Tết Mậu Thân1968.

* Có lẽ chúng ta đấm ngực nhận lỗi đi là vừa.

* Khi chính phủ Clinton bắt đầu bang giao kết thân và giao thương với VC năm 1995, thì “Việt Kiều” về Việt-Nam ào ào.

Những “Việt Kiều” này đa số là những người đã sống với CS trước khi vượt biên. Họ đã quen cái lối đấm mõm cán bộ vc rồi. Những “Việt Kiều” này đã bầy ra cái thủ tục “đầu tiên” còn lai rai kéo dài cho đến ngày nay. Họ dấm dúi hối lộ ngay tại “hải quan” để được xem xét Visa, thông hành và lấy hành lý cho nhanh. Về đến phường xã, phải ra ghi tên nên lại một lần nữa nhờ thân nhân đem tiền ra “bắt tay” bỏ túi ít đôla hay tặng vài thùng bia cho đám công an khu vực để khỏi bị làm khó dễ.

Người miền Nam chúng ta sống lè phè quen rồi, nghĩ rằng chi vài đồng cho cán bộ vc để được thoải mái cũng vô tội và lại được tiếng là rộng rãi. Thân nhân “Việt kiều” đang bị giữ thành con tin... Thành phần “Việt kiều” và thân nhân của họ vô hình chung trở thành có giá được nâng cấp lên thành công dân hạng 2 sau cán bộ gộc và gia đình của bọn này, vì có tiền bạc rủng rỉnh, đi đâu cũng lọt.

Cho đến bây giờ đa số thân nhân được người nhà ở hải ngoại tiếp tế nên nhóm này tháng tháng nằm im bất động chờ quà, chờ tiền gửi về, không còn lo phải làm việc vì có tiếp tế đều đều từ hải ngoại, không còn muốn tranh đấu gì nữa. Khi họ có tiền thì họ được cảm tình với cán bộ, công an khu vực, vì họ bao cho cán bộ đi nhậu nhẹt chơi bời. Họ có tiền thì họ bắt đầu hành xử như một thứ * “bồ tèo” *hay* “người được công an bảo trợ”* và rồi coi thường loại công dân hạng ba là loại dân chúng nghèo khổ nhất nước.

Theo thống kê thì số tiền “gửi về nước” hàng năm cũng khoảng hơn 3, 4 tỷ Mỹ Kim. Năm qua 2011 lên đến trên 9 tỷ mỹ kim!!!

Số tiền mang tiếng là gửi về nước nhưng được giữ lại và gửi vào ngân hàng Mỹ tại Hoa Kỳ. Các tay tài phiệt Mỹ thấy có lợi trông thấy nên đã ép chính phủ Mỹ thả lỏng cho “Việt Kiều” gửi tiền vô hạn định, để họ kiếm lời. Số tiền đôla (*đồng tiền nào cũng có số mà!*) đem về xài tại VN một hồi cũng được thu góp đưa cho con cháu cán bộ sang du học, du lịch và đem bỏ băng Mỹ hay tiêu sài mua nhà, mua cơ sở thương mại tại Mỹ không mất đi một đồng xu nào.

Với giá hối đoái hiện nay, mỗi “VK đem về $10,000 USD (tính ra tiền hồ là 200 triệu/giá cả năm 2012) là đã trở thành siêu triệu phú.

Thành phần “Việt kiều” trở thành cái *mỏ vàng* hay nôm na một chút là các con *“bò sữa”* được nhà nước ta nâng niu để dễ dàng bòn vắt sữa. Chiêu bài gọi họ là “khúc ruột ngàn dặm,” hay “Việt kiều yêu nước”; mở thêm cả chục ngàn quán ăn, quán nhậu, làng nướng, quán cà phê, karaoke, bia ôm, đã được CSVN nghiên cứu kỹ càng.

Mới đây nhất CSVN đổi luật song tịch để cho “Việt Kiều” mua nhà dễ dàng và cho phép “Việt Kiều” về nước mà không cần visa. Tất cả chỉ nhằm mục đích dụ khị VK đem tiền về nước càng nhiều càng tốt.

Hội từ thiện bác ái... vắt bò sữa.

Một việc nữa là họ nhờ những nhà *“từ thiện bác ái hải ngoại”* đi *“vắt sữa”* giùm cho họ - quảng cáo xin tiền của những người hảo tâm ở hải ngoại cứu trợ dân nghèo Việt-Nam - rồi đem về Việt-Nam phân phát. Chắc chắn phải chia với cán bộ cộng sản một phần lớn chứ không thế nào đoàn cứu trợ tự do đi lại phát quà thoải mái được. Quý vị không tin cứ hỏi các chủ công ty như Thầy 6 VTA, linh mục Francis Hoàng, Mục sư Bảo, Nhóm Sưởi ấm của TG, v.v... thì sẽ biết quy tắc lề lối chia chác với cán bộ công an VC là bao nhiêu.

Kể từ khi các chuyên viên xuất ngoại ra hải ngoại “vắt sữa” bị dân tỵ nạn tẩy chay, thì lại mọc thêm nhiều nhóm từ thiện... hoặc nhóm quốc doanh trong nước đang bắt tay với hàng giáo phẩm cao cấp xuất thân từ Cali đang tiến hành chiến dịch bênh vực xoá tội “vi phạm tự do tôn giáo” cho VC. Chúng ta hãy chờ xem, nhóm này cựa quậy ra sao để đối chất với các nhóm nhân quyền Hoa Kỳ và thế giới tự do đang kết án CSVN.

Những gánh nặng của CSVN đáng lẽ chúng phải lo chăm sóc thì nay đã được những thành phần *“đĩ điếm phản động”* gánh vác giùm rồi mà chúng lại có phần ăn chia nữa chứ. Cộng sản chỉ cần thổi phồng lên lòng bác ái của người Việt hải ngoại, gọi họ là khúc ruột ngàn dặm, Việt Kiều yêu nước là có thể bòn rút tiền dễ dàng.

Chúng ta đã là những người phổi bò đễ tin, bị khai thác triệt để vì cái tật hám danh. Có nhóm từ thiện nào đến gõ cửa các quan lớn VC, cá độ, chơi cờ tướng ăn thua bạc tỷ, để vắt sữa đâu mà chỉ nhè những ông bà già, đang ăn welfare, ăn tiền hưu, tiền già để móc tiền sau khi tung hô kêu gọi lòng bác ái thương người của họ lên đến tận mây xanh.

Nghị Quyết 36 nhằm vào “Việt Kiều” CSVN biết rõ như vậy, cho nên chúng đã ra Nghị Quyết 36 chiêu dụ “Việt Kiều” bằng đủ mọi mánh khóe. Nuôi dưỡng đám “Việt Kiều” để hàng năm đem về cho chúng một số ngoại tệ 8,9 tỷ đôla. “Việt Kiều” mỗi cái Tết rủ nhau về cỡ 400.000 hay nửa triệu người. Cứ thử làm một bài toán nhân nhỏ là mỗi người “Việt Kiều” về như vậy trung bình đem vào VN khoảng 5 ngàn đô - hơn bù kém - thì số tiền là bao nhiêu. Nguyên 1 dịp Tết CSVN cũng thu được khoảng 2,3 tỷ Mỹ Kim.

Riêng kỹ nghệ * “thủ tục đầu tiên” * tại Tân Sơn Nhất cũng kiếm khá bộn được hơn 4,5 triệu đôla.

Mới đây cư dân trên mạng được xem thấy một đoàn xe super “xịn” của đám đại gia và cán bộ nhà nước VC đi dự đám cưới tại miền Bắc mà hoảng hồn.

CSVN hiểu rõ là kỹ nghệ du lịch VN chiêu dụ người ngoại quốc không ăn khách nên bám riết vào “Việt kiều” thương nhớ quê hương.

Du khách ngoại quốc chỉ du lịch một lần vì tiêu chuẩn khách sạn, vệ sinh và cách chiêu đãi phục vụ khách hàng tại Việt-Nam còn quá kém so với Thái Lan, Nam Hàn, Đài Loan và Singapore. Mời quý vị tìm xem các tạp chí về du lịch thế giới xem họ đánh giá du lịch Việt-Nam như thế nào thì biết rõ.

Việt kiều nhớ nhà hay nhớ cái gì ở VN ???

Chỉ những người Việt-Nam vì ham chơi, đem *áo gấm về làng*, ham được dân chúng trọng vọng vì có tiền, vì đồ đạc rẻ rề so với ngoại quốc nên tha hồ mua sắm.

Đúng ra vào thời điểm này, với kỹ nghệ tin học vượt bực, internet, chat, chụp hình, video gửi cho nhau để xem mặt nhau cho đỡ nhớ thì quá dễ. Nhưng đa số Việt Kiều” muốn lấy cái cớ là * “nhớ nhà và nhớ người thân” * đế mỗi năm phải về Việt-Nam một lần và trong thâm tâm thật ra là họ nhớ các làng nướng, các quán cà phê mờ ảo, quán bia ôm, các chợ bán quần áo rẻ mạt. Đem 100 đôla về may được ít nhất 5 cái áo dài làm sao mà các chị, các bà, các cô không thích cho được. Ở Mỹ thì 100 đô chỉ đủ tiền mua “vải” cho 1 cái áo dài.

Giả dụ như Việt-Nam có đời sống đắt đỏ như bên Âu Châu thì người Việt-Nam có rủ nhau về ùn ùn ăn Tết không? Có còn thương quê hương là chùm khế ngọt nữa không? Có thiếu gì “Việt Kiều” có bà con cha mẹ ở bên Pháp mà có năm nào cũng phải về Paris ăn Tết đâu ??? Vì vậy “Việt Kiều” vì ham chơi, ham trình làng áo gấm nên rủ nhau đem tiền về cúng cho con cái bác Hồ để chúng có đủ phương tiện trù dập đàn áp người dân lành của mình. Đó là một cái tính xấu của người Việt-Nam chúng ta là quá ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.

Các “Việt kiều” chưa hiểu thấu rõ các ý nghĩ của người dân nghèo trong nước coi “VK áo gấm” về làng ra sao: Việt Kiều” kiêu căng lai căng!!!!!

Tiếp xúc với một số dân tại Sàigòn, họ coi “VK” như là những người “ngoại quốc” khoe mẽ, nói chuyện thêm tiếng Mỹ tiếng Tây cho nó oai, nên tìm cách lừa đảo moi móc tiền bạc không thương tiếc. Tiền “VK” đem về sài làm mọi thứ tăng giá khiếp đảm làm đời sống của dân nghèo đã cơ cực lại càng thảm thương hơn, nhất là “giá cả Việt Kiều” dịp Tết Nguyên Đán này. Chưa bao giờ người Việt-Nam lại chịu khổ nhục như thời nay!!!!

Tại sao ngày xưa người dân dám đứng dậy chống ngoại xâm, mà nay đối với CS sắt máu độc tài thì lại nhũn như con chi chi?

Quân Sư Phụ của Nho giáo ảnh hưởng đến người Việt? Vì đạo Nho dậy vậy chăng? “Quân-Sư-Phụ” mà lỵ. “Quân” ngày trước là “vua” nói gì là nhân dân nghe răm rắp, dù là những vua ăn chơi đàng điếm, ngày nay “Vua” đã đổi tên thành * Chủ tịch Nhà Nước, Tổng Bí Thư Đảng * và * Thủ Tướng* nên người dân VN vẫn coi họ là vua chăng mà chịu khổ sở vì chữ Quân kia. Chưa bao giờ thấy một quốc gia với dân số 87 triệu người mà không dám làm gì với 1 chính quyền giỏi lắm có gần 300 tên và một lũ cán bộ, công an đảng viên ăn bám, theo đóm ăn tàn.

Còn đâu những Ngô Quyền, Lê Lợi, Trưng Trắc, Trưng Nhị, Trần Hưng Đạo, Quang Trung Nguyễn Huệ,...anh dũng chống ngoại xâm ?????

Trí thức Việt-Nam đã mai một trở thành trí ngủ rồi!!!!

Qua vụ APEC 2006 người ta càng thấy rõ thêm là đại tài phiệt quốc tế chỉ biết có đồng đô la thu vào được thôi, nên đưa chiêu bài dụ khị: “Muốn đánh đổ chế độ độc tài, cộng sản, thì nên cho họ sung sướng phủ phê, viện trợ cho kinh tế lớn mạnh, rồi tự nó sẽ tự động dần dần trở thành dân chủ mà thôi, chả cần tranh đấu gì cả.”

Thực tế đã chứng minh là khẩu hiệu đó gian manh và sai lầm ở chỗ đám đại tài phiệt bán được nhiều sản phẩm cho các nước độc tài cộng sản, thu tiền vào túi áo của họ.

Những chính phủ độc tài kia được nhiều ngoại tệ thì thay vì dễ dãi với dân chúng, mở mang tự do dân chủ từ từ, thì chúng lại sử dụng những số tiền đó để mua những máy móc, dụng cụ chặn đứng làn sóng dân chủ như bên Trung Cộng chúng đã liên kết với Microsoft, Yahoo, Google để chặn những tin tức từ trong nước đưa ra và làm nhiều bức tường lửa cấm dân chúng trong nước truy cập nhưng tin tức tự do dân chủ trên thế giới.

Tại Việt-Nam đám công an mạng, cũng đã tìm đủ mọi cách làm tường lửa ngăn chặn những tin tức từ ngoài về. Chúng đã tăng cường số công an kiểm soát internet lên hơn 2.000 đứa từ Nam tới Bắc. Chúng đã áp dụng luật đăng ký SIM CARD của điện thoại di động để bóp chẹt tự do của người dân. Mới đây nhất chúng tuyên bố lập thêm 4,5 cơ quan khác để kiểm soát các BLOGs của dân chúng. Chúng còn thăng cấp, tăng lương cho đám công an, quân đội, để bọn này sả thân giúp cho đảng của chúng vững mạnh để tiếp tục ngồi lên đầu lên cổ người dân.

Một đề nghị khác của chính phủ Hoa Kỳ qua ông cựu đại sứ Michalak cũng được nhiều nước tự do sử dụng là tạo điều kiện dễ dàng cho thanh niên sinh viên các nước cộng sản độc tài đi du học với mục đích là nhồi vào đầu óc những sinh viên ý niệm dân chủ, rồi sau đó vài chục năm sau, những sinh viên này về nước lên cầm quyền thì sẽ có dân chủ.

Chiêu bài này cũng sai bét là vì ngay tại Việt-Nam thì những sinh viên được đi du học 99.9% là con cái của các cán bộ Cộng Sản gộc.

Chúng là những người sẽ kế nghiệp ngôi vua tại Việt-Nam. Khi trở về được làm vua, được ngồi trên đống tiền, được tham nhũng thả dàn, được hưởng mọi quyền lợi, ăn trên ngồi trước, thì chúng có dại dột đem áp dụng dân chủ tây phương trong nước không, hay là sẽ tiếp tục kiểu cai trị độc tài độc đảng để được hưởng lợi.

Hoa Kỳ đã thất bại hoàn toàn đối với các sinh viên Hồi giáo được gửi sang Mỹ học dân chủ, khi về nước thì chưa một quốc gia hồi giáo nào “dân chủ” cả mà chỉ là tăng gia “mầm mống chống đế quốc Hoa Kỳ” mà thôi. Có lợi trong những chiến dịch này thứ nhất là những trường đại học Mỹ tha hồ thu học phí “out of state” mà chả cần tìm hiểu là sinh viên đó mất mấy năm mới ra trường, miễn là học càng lâu càng tốt... và thứ hai là các nhà băng Mỹ tha hồ thu tiền của con cái cán bộ gộc đem sang rửa tiền, mua nhà, mua xe, mở cơ sở thương mại. Của Ceasar sẽ trả về Ceasar là vậy.

Một số các nhà “dân chủ” vận động xin phép chế tài CSVN thì được một câu như tát nước vào mặt: - Quý vị hãy về giáo huấn đồng hương của quý vị đi. Họ đã đổ tiền cả 8-9 tỷ MK về Việt-Nam mỗi năm!!!!

Tựu chung đa số “Việt Kiều” ra khỏi nước năm 1979-1985, nhiều gia đình đã bỏ mạng trên biển Đông vì sóng gió hãi hùng, vịnh Thái Lan vì nạn hải tặc đánh cướp rồi và làm đắm thuyền bè. Bao nhiêu trong số này khi thoát đến các trại tỵ nạn đã năn nỉ xin tỵ nạn chính trị tại các nước tự do vì * “không sống được dưới gông cùm cộng sản”* mà nay ngang nhiên về làm giầu cho chúng, làm tay sai cho chúng. ?

Phải nói một cách đau lòng là trong số này có những thành phần HO bị tù tội đầy đoạ nhiều năm trời, mà bây giờ cũng về nước rồi trở lại tung hô chúng nữa.

Nếu còn có chút liêm sỉ thì nên bỏ ngay quốc tịch hay thẻ xanh xin về trở lại sinh sống tại Việt-Nam, chứ đừng ở Mỹ vừa hưởng tiền già, tiền bệnh do các người Mỹ đóng thuế đem tiền về phục vụ cho chế độ Cộng Sản.

CSVN vô ơn với các gia đình liệt sĩ và bạn bè khi xưa :

Người dân miền Nam ngày xưa tin lời của VC đã cưu mang chúng trong những hầm hố để chúng cướp chính quyền năm 1975.

Chính những người miền Nam đã ngụy tạo ra cái gọi là *“Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”* làm công cụ cho cộng sản miền Bắc chiếm hoàn toàn miền Nam tháng 4 năm 1975.

Chúng ta biết chắc là những người tham gia MTGPMN khi xưa bây giờ “hối lỗi” không còn kịp nữa, nhưng vì muốn giữ thể diện nên không dám nói ra mà thôi, hoặc là bị ép, bị cấy sinh tử phù nên không có thể nào dám phản lại.

Những dân biểu đối lập ngày xưa làm công cụ cho Cộng Sản bây giờ cũng ngậm tăm, vì bị chúng cho ra rìa. Bằng chứng là *Dương Qu ỳnh Hoa, Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Kiều Mộng Thu, Lý Quý Chung *....bây giờ ra sao, có được cái ghế nào không hay là đang than thân trách phận vì đã quá ngu dại theo chúng ???

Một *Nguyễn Ngọc Lan* chống đối chính quyền VNCH đệ II, những tưởng được CS tưởng thưởng, những đã vỡ mộng đến khi bị gây tai nạn chết (2007) vẫn chưa được toại nguyện. Một * Trịnh Công Sơn * chuyên làm nhạc phản chiến, cũng có đầy hy vọng khi CSVN chiếm miền Nam, những cũng âm thầm mang xuống mồ những ưóc mơ thiên đàng Cộng Sản. Không biết kỳ nữ Đại Uý *Kim Cương* bây giờ làm ăn ra sao hay là cũng bị VC “vắt chanh bỏ vỏ” như những người khác. Những “mẹ nuôi chiến sĩ” ngày xưa bây giờ bị bạc đãi cũng sáng mắt muốn chửi thề vì đã bị lừa dối. Có người mang đầy huy chương trên ngực áo đi biểu tình đòi đất cũng bị Công An hốt lên xe không thương tiếc đưa về bót.

Tạm Kết

Ngoại trừ những trường hợp bất khả kháng thăm viếng bà con gia đình đau ốm, quan hôn tang tế phải về lại Việt-Nam thì được. Còn “Việt kiều” hàng năm phải về để ăn chơi du hí, tìm bò non thì đáng chê trách. Những “Việt Kiều” ngày nay đang tuôn tiền về nước cho chúng hãy mở mắt ra đi. Chúng có biết ơn không, hay là chúng đang dụ dỗ bòn rút tiền bạc của quý vị, để cầm chân thân nhân của quý vị như những con tin.

Quý vị đã và đang trở thành công cụ của Cộng Sản độc tài đang tàn sát dân lành.

Nếu quý vị không mở mắt ngay thì muôn đời dân tộc Việt-Nam sẽ không thể nào thoát ra khỏi chế độ Cộng Sản. Tương lai đất nước là ở trong tay quý vị. Quý vị thử “nhịn” về Việt-Nam, nhịn gửi tiền về cho thân nhân trong 1,2 năm thôi, thì CSVN sẽ mất đi một số ngoại tệ rất lớn, xem tình hình biến chuyển ra sao thì sẽ biết liền./.

Trịnh Viết Bắc

Bạo lực của cường quyền

Bạo lực của cường quyền: Xưa và nay

Huy Văn (HVC)

Chúng nó: Đảng Cộng sản Việt Nam; lũ ném đá không giấu tay, quân bán nước không cần che mặt, đồng thời cũng là một đám vô liêm sĩ đang cùng nhau củng cố địa vị trong chính quyền để cai trị quốc gia và đày đọa dân tình. Vì chúng nó mà non sông gấm vóc sau 4000 năm lại lâm vào nguy cơ bắc thuộc khi cả một đám hèn không dám hé môi, dù chỉ để than phiền quan thầy đại hán lấn đất, hại dân, chận tàu, cướp biển!. Khi bọn tàu phù thoải mái thò chiếc “lưỡi bò“ liếm trọn vùng biển Nam Hải thì chúng nó rụt đầu, cúp cổ, không dám hé nửa lời với công luận thế giới, để rồi mặc nhiên công nhận chủ quyền của kẻ thù truyền kiếp trong vùng đảo Trường Sa-Hoàng Sa bằng sự im lặng rất... nô tài! Chúng đã bị trói tay, cam tâm tự bịt mắt khi chứng kiến biên thùy bị xâm thực, nhưng đối với người dân thì chà đạp thẳng tay, không cho ai hài tội quan thầy!

Chúng ngăn cấm dân chúng hô hào đổi thay và công khai chọn con đường độc tài đảng trị. Chúng bắt bớ, giam cầm những ai thực tâm bày tỏ lòng yêu nước và dành quyền độc tôn trong việc “nói chuyện phải quấy với“ quân bành trướng từ phương bắc. Nhưng khi gặp quan thầy thì mấy mẫu “chuyện phải quấy“ đó lại trở thành những màn “đấm mõm“ thật ngoạn mục bằng nhiều hình thức khác nhau của đàn anh phương bắc, để rồi sau đó bọn tàu cộng đường hoàng đưa dân (thực chất là đưa lính trá hình làm dân lao động) vào đất nước ta để khai thác ... đủ loại tài nguyên. Và thay vì mang lại việc làm cho chính người dân bản xứ, thì đám nô tài thời đại, một lũ đầu bùn, óc đất đó đã thò tay ôm tiền hối lộ (sau đó chúng cùng nhau chia chác trong nội bộ) để rước giặc về thao túng mọi mặt, nhứt là trong lãnh vực kinh tế nội địa. Đáng lên án hơn hết là cộng sản Hà Nội đã cam tâm chấp nhận cho tàu cộng lập khu tự trị cho công nhân của chúng ngay trên phần đất cha ông của mình trên cao nguyên trung phần và mới đây nhứt là ngay tại vùng sông lạch Cà Mau.

Đám chóp bu Hà Nội không màng liêm sĩ cá nhân, chẳng thiết thể diện dân tộc và sự trường tồn của tổ quốc. Cả một guồng máy cai trị rập khuôn theo các quan thầy cộng sản nga- tàu đã công khai đề cao bạo lực cách mạng vốn là thứ hình thức khủng bố quy mô và man rợ về mọi mặt. Loại bạo lực này xuất hiện cùng thời với chủ nghĩa vô sản và vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Khi nghe nói đến hai chữ bạo lực, người ta thường nghĩ ngay tới những vụ đấu tố, tàn sát, bắt bớ, giam cầm ..v/v.. vốn là những hình ảnh cụ thể nhứt để minh họa cho hành động tàn ác của loài quỷ dữ. Nhưng không chỉ đơn giản như vậy! Bạo lực của thời phôi thai với dao búa và tầm vông vạt nhọn, bạo lực của những tên “răng đen mã tấu“ đêm gõ cửa thủ tiêu, ngày đặt mìn giựt cầu, phá chợ, đã rất lỗi thời nếu không muốn nói là từ lâu đã biến thể và hiện nay được ngụy trang rất khéo léo bằng nhiều hình thức (và phương tiện) mà người dân bình thường không tài nào nhận ra.

Những tên hèn đó tuy chỉ có đầu bùn và óc đất để xây dựng đất nước nhưng lại vô cùng xảo quyệt và khôn lanh trong những mánh khóe kềm kẹp và cai trị người dân qua những đòn phép thật hiệu quả trong từng lãnh vực của đời sống. Từ Văn Hóa đến Giáo Dục, từ Kinh Tế đến Xã Hội, đâu đâu cũng thấy bàn tay bạo lực của cộng sản. Những màn học tập chủ trương của đảng và nhà nước cộng sản, chế độ tem phiếu thời bao cấp, việc xin giấy di chuyển hay xin phép tạm trú, tạm vắng qua mọi thời kỳ, những tuyên truyền láo khoét nhằm bóp méo sự thật lịch sử cận đại, và cái quái thai “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa“ là những thí dụ điển hình nhất về những ngón đòn bạo lực tiềm ẩn trong các sinh hoạt cai trị của cộng sản suốt 70 năm qua. Tinh ý một chút, ai cũng sẽ thấy guồng máy cai trị hiện tại của Hà Nội đang dùng tiềm năng gần như vô hạn của mình về Kinh Tế và Tài Chánh để lãnh đạo quốc gia và cùng một lúc, vơ vét cho riêng từng người, từng nhóm. Và đây chính là bạo lực gần như vô hình, rất thâm độc nhưng êm ái, rất đơn giản nhưng vô cùng hiệu quả của bộ máy cầm quyền tại Việt Nam.

Để dễ dàng thao túng và ru ngủ toàn dân trong cái gọi là thiên đường xã hội chủ nghĩa, chúng lần hồi nới lỏng sự kềm kẹp, và từng bước trở về con đường mại bản theo đúng mô hình của chế độ cộng hòa mà chúng đã bức tử và quyết san bằng đến tận cùng bằng số ngay khi vừa làm chủ cả nước. Nền tinh tế thị trường đã thay đổi bộ mặt xã hội, con người, và đất nước tới mức có kẻ đã cho là:

“Ngày nay đâu còn cộng sản, vì Việt Nam đang theo mô hình tư bản chủ nghĩa từ thập niên 90 rồi!”

Lầm to! Chủ trương của cộng sản Việt Nam là cho dân dễ thở để quên chuyện “ân oán” với chế độ và cùng lúc đó nhào nặn một guồng máy cai trị gồm toàn là đại gia có thẻ đảng. Con số này ngày càng đông và đang có khuynh hướng bành trướng rất sâu rộng và công khai trong nội bộ của 3 triệu đảng viên trong nước.

Cường quyền Hà Nội cũng đã mở ra một kỷ nguyên tham nhũng đồ sộ chưa từng thấy: tham nhũng từ trung ương đến địa phương. Lớn ăn theo lớn, nhỏ nuốt theo nhỏ, trong mọi nghành nghề của xã hội, trong từng sinh hoạt của chánh quyền. Chiếc ghế lớn, ghế nhỏ nào cũng có cái giá của nó, từ phường xã cho đến thành thị và trung ương. Gom tài sản để mua chiếc ghế xong thì cán ngố trong mọi ngành, mọi cấp phải tìm cách vơ vét cho nhanh, cho nhiều, để gỡ vốn rồi lấy lời và cũng để “cúng“ cho cấp trên nếu muốn ngồi yên mà trục lợi lâu dài. Ăn quen, nhịn không quen. Muốn có tiền để củng cố địa vị trong chế độ và làm giàu cho bản thân (cũng như gia đình), chúng đặt ra những công trình tái thiết, những đề án xây dựng rất quy mô để, thay vì tạo công ăn việc làm cho người dân, thì lại kêu gọi đấu thầu của ngoại quốc để có cơ hội nhận tiền hối lộ, đút lót.

Người không hiểu chuyện thì chỉ thấy xa lộ mịt mù, cao ốc hào nhoáng và những công trình vô bổ khác mọc lên như nấm, đồng thời cũng dựa vào đó mà suýt xoa khen ngợi tài trí kinh bang của chóp bu cộng sản khi mà, từ một nước chỉ lèo tèo một nhúm xe hơi (và còn lại toàn là xe đạp của thập niên 80), mà giờ đây cả nước đã có xe du lịch cáu cạnh, loại đắt tiền nhứt của thế giới cùng với đủ loại xe gắn máy (hầu hết mang nhãn hiệu củaTrung Cộng) chạy tràn lan trên các nẻo đường đô thị. Những kẻ nhẹ dạ cho đó là một bước tiến nhảy vọt của Việt Nam để theo kịp đà văn minh hiện đại. Và họ đã không tiếc lời ca ngợi chế độ hiện hữu tại Hà Nội. Họ không thấy hoặc cố tình không muốn thấy sự kịch cỡm của những xa lộ, khách sạn, chung cư, những khu du lịch và giải trí đắt tiền đó, khi các công trình này chỉ là những hình thức phô trương không hơn, không kém, vì bên cạnh đó là những tồi tàn, loang lỡ không cách gì che lấp được của cả nông thôn lẫn thành thị.

“Có tiền mua tiên cũng được“. Câu nói của cha ông đã khẳng định sức mạnh vô biên của vật chất và bạo lực của cường quyền cũng chính là đây! Chúng đã dùng mãnh lực của đồng tiền để chiêu mộ tay sai, điều khiển bộ hạ và đồng thời mua chuộc những thành phần nhẹ dạ trong các cộng đồng tỵ nạn để lần hồi khuynh loát họ và gây chia rẽ trong nội bộ những người chống cộng. Chưa kể từ lâu chúng đã đầu tư lần hồi vào công việc kinh doanh về mọi mặt của người dân hải ngoại. Từ việc mở những công ty chuyên lo dịch vụ chuyển tiền trước khi được Hoa Kỳ chấm dứt phong tỏa kinh tế, cho tới việc lần hồi len lỏi vào nội tình của những hội Ái Hữu, những tổ chức từ thiện, và cả những hội đoàn chống cộng, đều được chúng tính toán, phân công, gậm nhấm bằng những hình thức, dù cỗ lỗ sĩ nhưng bao giờ cũng thành công: đó là tâng bốc kẻ háo danh, đấm mõm phường ham lợi, tung hỏa mù để bôi lọ những gương mặt sáng giá của miền Nam trước đây và hiện nay, đồng thời chúng kêu gọi và tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư chất xám về phục vụ và xây dựng đất nước bằng cách khêu gợi tình hoài hương lúc nào cũng âm ỉ trong lòng của những người đang sống lưu vong trên khắp thế giới.

Và quả nhiên những chất xám, già cũng như trẻ đó, đã bị hớp hồn bởi những lời ngon ngọt, những ưu ái về cả vật chất lẫn tinh thần, những đường mật về tình tự dân tộc (vốn chỉ có trên đầu môi chót lưỡi) nên từ gần hai thập niên trở lại đây, đã hùng hồn cổ xúy và góp thêm những lời “ công đạo “ cho chế độ cộng sản mà không hề nghĩ tới việc mình đã góp phần tô bóng cho những gương mặt và việc làm của những kẻ phản bội quê hương, chà đạp dân tộc. Ngoài những trí thức từ lâu đã là tay sai của bạo quyền thì không ít những người hí hửng trở cờ đã từng là nạn nhân của chế độ sau khi miền Nam rơi vào tay cộng sản. Vì sao trí thức hải ngoại đã chạy đi rồi lại cam tâm chạy trở về và công khai trở mặt với đồng cảnh (tỵ nạn cộng sản) của mình như vậy? Câu trả lời thật đơn giản: chỉ vì danh, lợi và bên cạnh đó là nỗi nhớ nhà, một nhược điểm mà cộng sản Việt Nam cũng tận tình khai thác bấy lâu nay.

Những năm gần đây, chúng đã thành công trong việc ru ngủ rồi đổi màu trong tim óc của những ai còn nặng tình với quê hương nhưng lại nhẹ dạ khi đứng trước lợi danh. Đó chính là trọng điểm của cái gọi là nghị quyết 36, là thuốc độc mát lòng mà rất nhiều người tại hải ngoại đang thò tay bưng, húp. Đây chính là bạo lực “êm ái” của cường quyền, là một “bàn tay nhung bọc thép” đã và đang với dần tới từng cộng đồng của người Việt quốc gia tại hải ngoại. Cộng sản ra chiêu rất ngoạn mục: chỉ một đòn nghị quyết 36 đó thôi cũng đã làm chao đảo khí thế đấu tranh của người Việt quốc gia ở khắp mọi nơi qua hình thức mua chuộc bồi bút để tung hỏa mù, khích bác, bôi bẩn những ai nổi bật trong cộng đồng tỵ nạn.

Biết được thủ đoạn của địch là một chuyện. Ngăn chận để triệt tiêu những mánh khóe đó lại là một chuyện khác. Cộng sản có vẻ như đang chiếm thượng phong vì có đầy đủ phương tiện vật chất, có cả một guồng máy khổng lồ về cả nhân lực lẫn tài lực. Cộng thêm yếu tố thời gian đang là vũ khí lợi hại không kém mà địch đang nắm trong tay.Trí thức hải ngoại không nhẹ dạ nhưng lại mềm lòng. Và thời gian còn lại của tuổi về chiều cũng là một động lực chính để thúc đẩy người dân tỵ nạn quay về với tình tự dân tộc. Hải ngoại không còn nhiều thì giờ, còn cộng sản thì cứ nhởn nhơ đè đầu, đè cổ dân chúng trong nước. Hải ngoại chắt chiu từng đồng, từng cắc để gởi về cho thân nhân nơi quê nhà, chưa kể những màn đóng góp cho các quỹ từ thiện, khuyến học, cứu đói...v/v . Còn cộng sản thì cứ in tiền thoải mái để cả nước cầm hơi trong khi ngoại tệ thì chui vào túi riêng của các cán gộc (để rồi chạy ngược vào các ngân hàng ngoại quốc) hoặc trở thành phương tiện chính yếu để đánh phá những người yêu nước chống Cộng sản thực sự, trong cộng đồng Người Việt tỵ nạ cộng sản tại hải ngoại.

Thuở xưa, trong những cuộc chiến đấu giành đất, giành dân, các bậc vua chúa hay công, hầu, khanh tướng, các lãnh tụ cách mạng qua mọi thời kỳ phải cần hội đủ ba yếu tố căn bản: Thiên Thời, Địa Lợi và Nhân Hòa. Ngày nay, tiền tài và thế lực giải quyết mọi chuyện. Hay nói cách khác, thì Kinh Tế ảnh hưởng đến Chính Trị. Trong công cuộc đối đầu với cộng sản thì người Việt tự do tại hải ngoại gặp rất nhiều khó khăn vì nhân lực, tài lực đều có giới hạn. Ngoại trừ tấm lòng kiên định và lập trường vững chắc thì chúng ta không có Thế, mà Lực cũng không đủ để trực tiếp lật đổ bạo quyền cộng sản. Chưa kể chúng ta đang bị lũng đoạn bởi những nô tài thời đại, những kẻ cuối đời đang muốn đổi gió để trở cờ. Kẻ thù không phải chỉ có cộng sản nội địa và tay sai ở ngoại quốc, mà thời gian cũng là một vấn nạn nhức đầu không kém.

Chỉ chừng hai thập niên nữa thôi là những chứng nhân của ngày sử Việt sang trang năm 1975 sẽ trở thành thường trú nhân của các viện dưỡng lão nếu còn sống tạm trên cõi đời này. Vì vậy, ngay từ bây giờ chúng ta cần phải có biện pháp cần thiết để con đường hồi hương sẽ trở thành hiện thực càng sớm càng tốt. Nhận diện được bạo lực tiềm ẩn của địch vẫn chưa đủ, cần phải vượt lên trên sức quyến rũ của vật chất để khỏi bị cộng sản chiêu dụ, đồng thời cần phải loại trừ đám lâu la trở cờ khỏi các cộng đồng người Việt quốc gia, để công cuộc đấu tranh cho một nước Việt Nam dân chủ và cường thịnh không gặp trở ngại. Mai này, cho dù nhân lực có cạn dần theo thời gian, thì tiếng nói của chánh nghĩa vẫn trường tồn qua sự hiện diện của lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Ngày nào biểu tượng của hồn thiêng sông núi vẫn còn phất phới thì ngày đó niềm tin vào một ngày mai quang phục vẫn hằn nét trong lòng người Việt Quốc Gia ở khắp mọi nơi.

Hy vọng ngày mai đó sẽ không còn xa.

Mong lắm thay!

Huy Văn



VỊT KIỀU

    VIỆT KIỀU
Việt kiều về nước xôn xao
Quên đi nỗi nhục năm nào vượt biên
Trốn chui trong những khoang thuyền
Nhưng nay vinh hiển xem thường nhục xưa
Rủng rỉnh vài đồng đô thừa
Ào ào về lại nơi vừa ra đi
Mặt mày vênh váo phương phi
Ăn chơi trác táng mỗi khi đêm về

 Thói đời nhìn thấy ủ ê
Nhiều tên ở Mỹ làm nghề lượm lon
Khi về đến tận Sàigòn
Nổ như cái pháo chẳng còn ngại chi

Rằng là giám đốc Realty
Kỹ sư điện toán Huê Kỳ chính tông
Giáo sư dạy học trường công
Tiến sĩ hóa học làm trong Giác Đài

Mục đích "nổ" để thị oai
Việt kiều thứ thiệt chẳng sai chút nào
"Nổ" để mong kiếm ít "đào"
Gái tơ, mơn mởn ra vào hotel

Ở đời chẳng biết phân minh
Giữa cái ô nhục - hiển vinh con người
Xưa bị Việt Cộng trêu ngươi
Bỏ tù hành hạ ba đời tổ tông

  Nỗi nhục chưa giải quyết xong
Nay lại đèo bồng trở lại mua vui
Nhiều tên chơi trò hên xui
Đem tiền về "cúng" tìm mùi "đầu tư"

Nghe lời kêu gọi giả hư
Rằng yêu tổ quốc, bấy chừ Việt Nam
Ngày xưa chinh chiến cho cam
Anh em huynh đệ tương tàn với nhau

Ngày nay "thống nhất" một màu
Cùng nhau xây dựng làm giàu nước non
Nghe lời dụ dỗ ngọt ngon
Nhiều tên mất hết chẳng còn đồng ten

Bỏ của chạy thoát thân hèn
Khi về đến Mỹ lại khen nước nhà
Nào là phát triển xa hoa
Ngày nay sang trọng hơn là ngày xưa

Ăn chơi "bốn vách" dư thừa
Việt Cộng nay lại thích ưa Việt kiều
Về đi nhà nước đón chiều
Queo côm (Welcome) chất xám đủ điều lời ru

Nhiều tên trí thức còn ngu
Bon chen tìm gặp chóp bu Cộng thù
Chúng qua nước Mỹ công du
Để mà xin được ấp - ru (approve) việc làm

Cho đời sống được vinh sang
Mà quên nỗi khổ gian nan năm nào
Múi mặt xa rời đồng bào
Tị nạn hải ngọai kêu gào đấu tranh

Nhiều tên Hát Ô rỡm ranh
Chạy trốn cộng sản lại quanh trở về
Ăn chơi trác táng phủ phê
Nhiều tay già lại còn rê gái làng

Góp phần phá vở tan hoang
Thuần phong mỹ tục hàng ngàn năm qua
Người Việt truyền thống ông cha
Nghìn năm văn hiến, xót xa vô cùng

Vậy mà có kẻ ung dung
Biết mình sai trái vẫn chung đầu vào
Còn nói "ăn chơi cấp cao"
Việt kiều phải biết "mận" "đào" khác nhau

Thôi thôi thành thật xin chào
Mấy tên tị nạn đổi màu kỳ nhông.
................................................
Việt gian , Việt Cộng , Vịt Kìu .
3 Việt họp lại , tiêu điều Việt Nam .

Saturday, March 22, 2014

Italian nun Sister Christina Scuccia becomes pop star sensation

Nun Sings Alicia Keys ‘No One’ on ‘The Voice’ Italy

"I came here because I have a gift, and I want to share that gift, I am here to evangelize" Sister Cristina Scuccia
An Italian nun who appeared on her country's version of The Voice TV talent show has become an overnight sensation.
Source: AAP

A Catholic nun has become an overnight pop sensation after stunning the jury of Italy's The Voice television talent show with her version of the Alicia Keys song No One.

Sister Christina Scuccia, a 25-year-old Sicilian, bopped about on the stage in her black habit and a large cross necklace on Wednesday night's show, sparking wild cheers from the audience and stunned reactions from the four judges.

"I came here because I have a gift, and I want to share that gift," said the nun, who has an easy smile and is a member of the Ursuline Sisters of the Holy Family.

One of the judges, Italian rapper J-Ax, said he was "moved to tears."

She said she had been inspired to go on the show by Pope Francis, who "told us to come out" of our convents and spread the word of God.

Asked by judge Raffaella Carra what the Vatican thinks about her going on a talent show, she quipped: "I'm waiting for a call from the pope!"

Scuccia decided to become a nun after playing the part of a saint in a comic musical in 2007, according to Italian media reports.

The video of her performance has gone viral in Italy, with even the Vatican's minister of culture Gianfranco Ravasi tweeting his admiration.

"If I had heard you sing in mass when I was young, I'd be pope by now," J-Ax said, to the audience's delight.





Monday, March 17, 2014

Đấu tranh không phải là van xin - Trần Văn Minh

Đấu tranh không phải là van xin

Trần Văn Minh

Miền Nam Việt Nam: Việt Nam Cộng Hòa bị rơi vào ách cai trị của cộng sản đã 39 năm, và nếu tính thêm miền Bắc từ năm 1954 thì chủ nghĩa cộng sản đã ngự trị trên giải đất hình chữ S tổng cộng đã 60 năm. 60 năm dài dẵng nằm dưới sự cai trị của một chủ nghĩa không tưởng bởi một nhóm người giáo điều và tàn độc, đã vắt kiệt mọi tài nguyên đất nước cũng như tiềm năng dân tộc. Không người Việt Nam nào còn chút lương tri và lòng yêu nước không cảm thấy tức giận với đám người cộng sản này, và mong muốn cái bóng ma cộng sản mau cút hẳn khỏi giải đất Việt Nam thân yêu.

Nhưng phải làm gì để đánh đuổi chủ nghĩa độc tài cộng sản ra khỏi Việt Nam?

Van xin ư?

Hai chữ ‘van xin’ nghe có vẻ nhục nhã nhưng thật mỉa mai, đã có không ít người ưa thích. Trong công cuộc đấu tranh chống cộng sản, ‘van xin’ vẫn xuất hiện, ngay cả ở vào những thời khắc mà sự đàn áp người dân của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam trở nên thô bạo hơn bao giờ hết như hiện nay. Tuy nhiên tinh thần ‘van xin’ trong đấu tranh được che dấu dưới các vỏ bọc "cao thượng" như "ôn hòa, bất bạo động, yêu chuộng hòa bình, tránh đổ máu…" Thử điểm qua một vài hình thái ‘van xin’ tiêu biểu.

Van xin núp dưới lời kêu gọi "cải cách

Các diễn biến thay đổi từ độc tài sang dân" chủ trên thế giới như sự cải cách chính trị thần tình của Thủ tướng Miến Điện Thein Sein, đã làm không ít trí thức Việt Nam ước mơ một trường hợp tương tự như thế, được cho là phiên bản đẹp đẽ nhất cho Việt Nam. Có thể nói, chỉ cần giới lãnh đạo CSVN có một chút tinh thần dân tộc thì họ có dư khả năng để xoay chuyển đất nước như ông Thein Sein. Ước mơ tuyệt đẹp này được thể hiện qua các lời kêu gọi hay kiến nghị về các chủ đề như: "đảng CSVN hãy đặt quyền lợi đất nước lên trên hết và đề phòng Trung cộng trong mọi lãnh vực; đảng CSVN nên bài trừ tham nhũng để lấy lại danh tiếng và uy tín cho đảng; nhà cầm quyền CSVN nên giảm bớt lãnh vực quốc doanh, đồng thời cho phép gia tăng tư doanh để tạo nên một nền kinh tế có tính cạnh tranh vững mạnh; hiến pháp VN nên cho phép tự do cạnh tranh chính trị bằng cách bỏ điều 4 để trong sạch hóa hệ thống cai trị và đem lại tính chính đáng cho đảng CSVN; nhà cầm quyền nên tôn trọng tư hữu đất đai để ngăn ngừa bạo loạn xã hội xảy ra, dẫn đến sự sụp đổ chính quyền", và vân vân.

Trong các điều trên đây, chỉ xét riêng vấn đề chống tham nhũng cũng thấy không thể thực hiện được khi hệ thống toàn trị cộng sản còn tại vị. Nếu có ít kiến thức về chính trị cũng hiểu rằng phương thuốc trị tham nhũng phải là hệ thống cai trị có kiểm soát và cân bằng, hay nói cách khác là hệ thống cai trị tam quyền phân lập với các tiêu chí tôn trọng nhân quyền. Nếu đưa ra lời kêu gọi yêu cầu nhà cầm quyền độc tài CSVN chống tham nhũng hay thực thi nhân quyền thì chẳng khác nào kêu gọi con cáo bảo vệ con gà. Tham nhũng chính là nguồn sữa nuôi dưỡng chế độ. Diệt trừ tham nhũng thì chẳng khác nào bỏ đói viên chức chế độ và hậu quả tất yếu là làm chế độ sụp đổ.

Van xin núp dưới lời đề nghị "hòa giải"

"Hòa hợp hòa giải" thường được hiểu theo hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất là giữa nhà cầm quyền CSVN với phong trào đấu tranh dân chủ trong và ngoài nước và trường hợp thứ hai là giữa nhà cầm quyền CSVN với toàn dân tộc. Trong cả hai trường hợp, sự hòa giải chỉ có thể được thực thi khi kẻ có tội theo luật pháp phải lãnh án và bị trừng phạt. Cộng sản Việt Nam đã gieo biết bao đau thương và phạm biết bao tội ác với người dân Việt Nam thì họ phải đền tội. Hòa giải không có nghĩa là xí xóa mọi thứ và bắt đầu lại một ngày mới. Tha thứ cho kẻ phạm tội không phải là yêu thương hay quảng đại mà là toa rập với kẻ ác. Hòa giải phải là tìm cách đem lại một xã hội mà công lý được tôn trọng, và từ đó một xã hội hòa bình mới có thể được tái lập. Vì thế, hòa hợp hòa giải không phải là sự bắt tay thỏa thuận những điều kiện giữa hai phe mà là một tiến trình thực thi công lý để tạo dựng một xã hội hòa bình, không còn hiềm khích, chiến tranh. Những kẻ kêu gọi hòa giải với đảng CSVN, nếu không bắt đầu bằng việc đưa các đảng viên cộng sản vi phạm luật pháp hay phạm các tội ác ra tòa xét xử mà với chiêu bài thỏa thuận hay đối thoại chỉ là những kẻ ăn mày chức vụ với nhà cầm quyền cộng sản.

Van xin núp dưới quan điểm chuyển đổi ôn hòa

Có thể nói ‘chuyển đổi ôn hòa’ là một kịch bản vô cùng tốt đẹp cho Việt Nam để đạt được dân chủ và cũng là một ước mơ mà mọi người Việt Nam đều mong muốn. Nhưng thực tế là một chuyện bất khả thi nhất. Làm sao giới lãnh đạo cộng sản có thể từ bỏ mọi đặc quyền đặc lợi đang sẵn có, khi vẫn còn vắng bóng những lực lượng đối kháng đe dọa tới địa vị của họ? Bằng thiện tâm ư? Bằng tấm lòng yêu nước ư? Giả như giới chức chính quyền cộng sản đồng loạt từ chức, với sự bảo đảm được an toàn tính mạng và được giữ nguyên vẹn tài sản, thì ai, giới nào sẽ là người thay thế? Giới thay thế có khả năng đưa đất nước đi tới dân chủ hay không? Điều gì bảo đảm những người thay thế sẽ khởi sự tiến trình dân chủ?

Với suy nghĩ này, quan niệm chuyển đổi ôn hòa đã được đặt trên nền móng cảm tính, hy vọng giới lãnh đạo cộng sản biết sáng suốt thực thi dân chủ từng bước. Quan điểm này đã bỏ quên yếu tố căn bản của hệ thống dân chủ, trong đó việc điều hành quốc gia được thực thi bằng luật pháp. Ngược lại, hệ thống độc tài được điều hành bằng con người, nhà độc tài quyết định số phận của người dân. Điều này có nghĩa là muốn thực hiện dân chủ thì phải bắt đầu bằng bộ luật mà khởi đầu là Hiến pháp và cơ cấu tam quyền phân lập. Như thế, việc cho rằng người cộng sản có thể và có khả năng dần dần từng bước thực thi dân chủ là điều không thể xảy ra. Nếu có cũng chỉ là dân chủ cuội.

Van xin với lời kêu gọi thoái đảng

Gần đây, tháng 12 năm 2013, có hai đảng viên cộng sản tuyên bố "từ bỏ đảng" và đồng thời kêu gọi "các đảng viên cộng sản có tinh thần yêu nước cũng hãy can đảm tiếp theo bước". Lời kêu gọi này chỉ có thể mang chút hiệu ứng về tuyên truyền với dụng ý đánh đổ tính chính đáng của đảng CSVN, nhưng xét về mục tiêu của lời kêu gọi thì sẽ không có hiệu quả vì đa số đảng viên đều có quyền lợi gắn liền với thẻ đảng. Sẽ khó có đảng viên chịu hy sinh mất hết tài sản, mất công ăn việc làm, và đồng thời những người trong gia đình cũng sẽ bị vạ lây, để được "tiếng thơm yêu nước". Trong thời điểm hiện nay, khi phong trào đối kháng còn đang ở trạng thái ‘van xin’ nhiều hơn các hành động đối đầu thì chẳng có ai dại gì phản lại ông chủ ban phát chén cơm cho mình. Tuy rằng áp dụng phương án đấu tranh làm suy yếu đối phương bằng cách gây chia rẽ nội bộ đối phương hay lôi kéo nhiều phần tử đối phương về phe mình là một phương án tích cực, nhưng phương cách này chỉ có thể có hiệu lực ở thời điểm khi lực lượng đối kháng có sức mạnh tương đương hay hơn nhà cầm quyền.

Các chủ trương mang hình thức ‘van xin’ như kể trên thực ra chưa từng được chứng minh có khả năng chuyển đổi một nhà nước độc tài sang dân chủ. Ngược lại, cuộc cách mạng dân chủ nào cũng mang sắc thái đối đầu quyết liệt mà trận chiến cuối cùng bao giờ cũng xảy ra với ít hay nhiều bạo động, cho dù phương thức đấu tranh là bất bạo động. Điều này hiển nhiên phản ảnh thực tế là mọi nhà độc tài đều biết rằng họ sẽ bị trừng phạt khi mất chức vị, và vì thế họ phải chống cự tới cùng. Trong lịch sử từ cổ chí kim, không nhà độc tài nào chuyển giao quyền hành một cách êm thắm và tự nguyện. Vì thế, muốn lật đổ một chế độ độc tài thì phải sẵn sàng cho một cuộc so sánh sức mạnh. Chế độ độc tài phải bị đánh bại.

Hiện nay phong trào đấu tranh dân chủ, có thể nói, đang dần thành hình cho dù chưa thể có thống kê cụ thể các hoạt động, thế lực cũng như nhân sự. Nhưng nếu nhìn về phía nhà cầm quyền để tìm thước đo thì người ta có thể nhận ra rằng trong thời gian gần đây, nhà cầm quyền CSVN ngày càng lo sợ hiện tượng ‘diễn biến hòa bình’: họ liên tiếp cho ra nhiều điều luật để có thể bắt giam những nhà bất đồng chính kiến, họ cho lực lượng công an, cảnh sát diễn tập chống biểu tình, họ còn tìm cách thu nhận giới du đãng vào hàng ngũ bảo vệ đảng vì sợ số lượng cảnh sát công an không đủ dùng khi hữu sự. Giới lãnh đạo đảng CSVN cũng không ngớt nhắc nhở lực lượng công an về vai trò chính yếu của nó là "bảo vệ đảng". Những động thái mang vẻ đề phòng này nói lên tầm vóc của phong trào dân chủ, chứng tỏ phong trào đối kháng đang là mối lo hàng đầu của đảng CSVN.

Trong thời điểm hiện tại, khi đem so sánh lực lượng giữa phong trào dân chủ và nhà cầm quyền cộng sản thì tư tưởng đánh đổ đảng CSVN như thể khó có thể thực hiện; nhưng thực tế cho thấy không còn cách nào cứu đất nước khỏi sự suy vong ngoài việc phải đánh đuổi chủ nghĩa cộng sản ra khỏi Việt Nam. Tương lai của đất nước phải do bàn tay người dân Việt Nam trong và ngoài nước xây dựng nên, không phải do đảng viên cộng sản ban cho hay bất cứ thế lực ngoại quốc nào giúp đỡ. Tất cả phải bắt đầu từ bàn tay chính mình.

Van xin không phải là giải pháp cho vấn đề mà chỉ đưa tới thỏa hiệp với kẻ ác!

Trần Văn Minh


Tội ác Cộng Sản

Tội ác Cộng Sản
Học tập cải tạo và kinh tế mới
(Trại Tù Cải Tạo Địa ngục trần gian)
 
Đỗ Ngọc Uyển

  Sau khi chiếm được chính quyền tại Miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, Hồ Chí Minh đã bê nguyên cái mô hình “hoc tập cải tạo” của Mao Trạch Đông từ Trung Cộng vào Miền Bắc Việt Nam. Đây là một kế hoạch nằm trong chính sách giết người có chủ đích, có tính toán dưới cái chiêu bài giả hiệu là “cải tạo” những người chống đối chủ nghĩa xã hội để trở thành công dân của nước xã hội chủ nghĩa. Với kế hoạch “cải tạo giết người” này, Hồ Chí Minh đã giết và thủ tiêu 850,000 người dân Miền Bắc trong những cái gọi là “trại học tập cải tạo.”
 
Sau ngày 30-4-1975, lũ cộng sản cũng tiếp tục kế hoạch giết người này, và chúng đã giết và thủ tiêu 165,000 quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa và những người quốc gia trong 150 “trại cải tạo” của chúng trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
 
“Học Tập Cải Tạo” Bắt Đầu tại Miền Bắc Việt Nam
 
Để xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Miền Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tiêu diệt tất cả những thành phần chống đối bằng những kế hoạch khủng bố sắt máu như: "Rèn Cán Chỉnh Quân, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Cải Cách Ruộng Đất", và đàn áp những phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, Trăm Hoa Đua Nở… Số nạn nhân của những vụ khủng bố này không ai biết là bao nhiêu, nhưng có thể ước tính là trên một triệu người, bởi vì chỉ riêng vụ gọi là "Cải Cách Ruộng Đất" đã có 700,000 nạn nhân. Nói chung, cho tới đầu năm 1960 toàn thể xã hội Miền Bắc đã bị “cào bằng,” không còn giai cấp (social class). Các giai cấp trí, phú, địa, hào đã bị đào tận gốc, trốc tận rễ. Không ai có quyền tư hữu và mọi người đều nghèo khổ, đói rách như nhau. Mỗi năm, mỗi người được phát 2 thước vải thô Nam Định chỉ có thể may được một cái quần hay một cái áo, và hàng tháng được phát 15kg gạo, 200gr đường… Chưa hết, với chủ trương tuyệt diệt những thành phần chống đối, Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho cái quốc hội bù nhìn “ban hành” một nghị quyết về “học tập cải tạo.” Đây là một mẻ lưới “vĩ đại” cuối cùng nhằm vét hết những thành phần có thể gây cản trở cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của y. Các trại “cải tạo” của Hồ Chí Minh được rập theo đúng khuôn mẫu các trại “lao cải” (laogai hay laojiao) của Mao Trạch Đông. . . Theo lệnh của Hồ, quốc hội cộng sản đã “ban hành” một Nghị Quyết (Resolution) về “học tập cải tạo” mang số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961. Căn cứ vào nghị quyết này, hội đồng chính phủ đã “đẻ” ra cái Thông Tư (General Circular) số 121-CP ngày 8-9-1961 để áp dụng trong toàn nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Những nạn nhân bị chi phối bởi cái nghị quyết trên gồm những thành phần sau đây:
 
1. Tất cả những gián điệp nguy hiểm, những biệt động; tất cả những quân nhân và viên chức hành chánh của chính quyền quốc gia trước đây.

2. Tất cả những nhân vật nòng cốt của các tổ chức và đảng phái đối lập.

3. Tất cả những thành phần ngoan cố thuộc giai cấp bóc lột và những kẻ chống phá cách mạng.

4. Tất cả những kẻ chống phá cách mạng đã bị tù và hết hạn tù nhưng không chịu cải tạo.
 
Bốn thành phần trên đây đều có một đặc điểm chung mà cộng sản gọi là “những thành phần ngoan cố, chống phá cách mạng.” (obstinate counter-revolutionary elements). Thời gian “cải tạo” được ấn định là 3 năm, nhưng sau 3 năm mà chưa “tiến bộ” thì “cải tạo” thêm 3 năm nữa và cứ như thế tiếp tục tăng thêm 3 năm nữa… cho đến khi nào “học tập tốt, cải tạo tốt” thì về, thực tế là vô thời hạn. Ngoài Hồ Chí Minh và những tên đồng đảng ra, không ai biết được số nạn nhân bị đưa đi “cải tạo” là bao nhiêu; nhưng có thể ước tính là nhiều triệu người, căn cứ vào con số nạn nhân chết trong các “trại cải tạo” là 850,000 người do Tổ Chức Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (The Victims of Communism Memorial Foundation) đưa ra: (… When Ho Chi Minh sent 850,000 Vietnamese to their graves in reeducation camps …)
 
“Học Tập Cải Tạo” tại Miền Nam Việt Nam
 
Cộng sản ước tính rằng tại Miền Nam có 1,300,000 người đã tham gia vào chính quyền Quốc Gia và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, và mỗi gia đình có 5 người; như vậy là có 6,500,000 người có nợ máu với chúng. Những người nào phục vụ trong quân đội hay trong chính quyền thì phải đi “cải tạo” và những thành phần còn lại trong gia đình thì phải đi những “khu kinh tế mới;” cũng là một cách đưa đi đầy ải tại những vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh. Đây là một kế hoạch “tắm máu trắng” đã được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của của tập đoàn Việt gian cộng sản.
Một tháng sau khi xâm chiếm được Miền Nam, lũ bán nước cộng sản áp dụng Nghị Quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 và Thông Tư số 121-CP ngày 8-9-1961 của chúng để đưa một triệu quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia chống cộng đi “học tập cải tạo,” thưc chất là đưa đi tù để trả thù (revenge). Đây là cung cách hành xử man rợ của thời trung cổ. Và bằng lối hành xử dã man, rừng rú này, cộng sản đã phạm 5 trong số 11 Tội Ác chống Nhân Loại [1] (Crimes against Humanity) theo luật pháp quốc tế được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) như sau:
 
Tội ác thứ 1 – Tội cầm tù hay tước đoạt tự do thân thể một cách nghiêm trọng, vi phạm những điều luật căn bản của luật pháp quốc tế (Imprisonment or other severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental rules of international law)

Những người bị cộng sản cầm tù (imprisonment) sau ngày 30-4-1975 là những người bị cộng sản trả thù vì lý do chống cộng tức lý do chính trị. Cộng sản không thể mang những người này – công dân của một một quốc gia độc lập đã bị Việt gian cộng sản, tay sai của Quốc Tế 3, xâm chiếm bằng vũ lực (aggression) một cách phi pháp – ra toà án để kết tội. Cộng sản nguỵ biện một cách láo xược rằng những người này là những" tội phạm chiến tranh" (war criminals) theo điều 3 của đạo luật về tội chống phá cách mạng ban hành ngày 30-9-1967 của chúng (article 3 of the 30 October 1967 law on counter-revolutionary crimes) và rằng nếu mang ra tòa án xét xử thì những người này có thể bị kết án từ 20 năm tù đến chung thân hay tử hình; nhưng vì chính sách “khoan hồng” và sự “chiếu cố” của đảng nên những người này được đưa đi “học tập cải tạo” thay vì đưa ra toà án xét xử. Đây là một sự nguỵ biện trơ trẽn và lếu láo. Luật rừng rú của đảng cộng sản không có một chút gì gọi là công lý của thời đại văn minh mà chỉ là một công cụ man rợ của thời trung cổ để khủng bố người dân Miền Bắc dưới sự thống trị của chúng, và không thể mang ra áp dụng cho công dân của một quốc gia văn minh như VNCH được.
 
Tóm lại, giam cầm người không chính thức kết án, không xét xử (imprisonment without formal charge or trial) là vi phạm nhân quyền và là Tội Ác chống Loài Người.
 
Tội ác thứ 2 – Tội tra tấn, hành hạ (Torture)

Đối với cộng sản, các quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hoà và những người quốc gia chống cộng là kẻ thù không đội trời chung của chúng. Do đó, một khi đã sa cơ rơi vào tay chúng là dịp để chúng trả thù bằng tra tấn và hành hạ. Mục đích trả thù của chúng là nhằm tiêu diệt hết khả năng chống cự của cả thể chất lẫn tinh thần của người tù. Sau đây là vài đòn thù tiêu biểu:
 
a. Hành hạ bằng cách bỏ đói – Đây là một đòn thù thâm độc nhằm tiêu diệt ý chí của người tù về lâu về dài. Người tù bị đói triền miên, không còn nghĩ đến chuyện gì khác ngoài miếng ăn. Quanh năm suốt tháng không một bữa được ăn no; càng ăn càng đói và đói cho tới khi chết. Ngay cả trong giấc ngủ cũng chỉ mơ đến miếng ăn. Bát cơm và miếng thịt là một ước mơ xa vời. Trên nguyên tắc, mỗi người tù được cấp mỗi tháng 12kg gạo. Nhưng thực tế, người tù chỉ được cấp ngô, khoai, sắn, bo bo… tương đương với 12kg gạo mà chúng gọi là “quy ra gạo.” Ngô, khoai, sắn và bo bo mà chúng cho tù ăn là những thứ được cất giữ lâu ngày trong những kho ẩm thấp, bị mục nát, hư hỏng và đầy sâu bọ. Với số lượng và phẩm chất lương thực như thế, tính ra chỉ cung cấp đươc khoảng từ 600 đến 800 calories một ngày, không đủ để sống cầm hơi, lại phải làm công việc khổ sai nặng nhọc cho nên đã có rất nhiều tù nhân chết vì đói, vì suy dinh dưỡng. Sau đây là một ví dụ: vào cuối năm 1978, tại trại 2 thuộc liên trại 1 Hoàng Liên Sơn có một anh bạn tù vì “lao động” nặng nhọc và suy dinh dưỡng đang nằm chờ chết. Anh em bạn tù thấy vậy bèn hỏi xem anh ta có muốn nhắn gì về cho vợ con hay người thân không? Anh bạn tù sắp chết nói rằng anh ta chỉ muốn được ăn no một bữa khoai mì luộc! Nghe vậy, có một anh tù, vì thương bạn, đã mạo hiểm chui qua hàng rào, đào trộm vài củ khoai mì do chính tù trồng, mang về luộc, rồi mang lên cho bạn thì anh bạn đã chết. Thỉnh thoảng tù cũng được cho ăn cơm nhưng lại độn hai phần sắn hay khoai với một phần gạo, và mỗi bữa ăn, mỗi người được phân phát một chén nhỏ với nước muối. Đến mùa “thu hoạch” ngô và khoai mì do tù trồng, anh em tù cũng được cấp phát ngô và khoai mì luộc. Mỗi bữa ăn được phân phát hai cái bắp ngô, chỉ đếm được chừng 1000 hạt, và khoai mì thì được cấp phát hai khúc, mỗi khúc ngắn độ một gang tay. Còn thịt thì chỉ được cấp phát vào những dịp đặc biệt như ngày tết Nguyên Đán, ngày lễ độc lập của chúng, ngày sinh nhật “Bác”của chúng; mỗi phần ăn được khoảng 100gr thịt heo hay thịt trâu.

Bỏ đói tù là một thủ đoạn tra tấn/hành hạ (torture) đê tiện, có tính toán của cộng sản. Ngoài việc huỷ diệt ý chí của người tù, sự bỏ đói còn nhằm huỷ hoại thể chất của người tù để không còn sức đề kháng chống lại bệnh tật. Do đó, đã có rất nhiều anh em mắc những chứng bệnh do suy dinh dưỡng như lao phổi, kiệt sức, phù thũng, kiết lỵ, ghẻ lở…, và có rất nhiều cái chết rất đau lòng chỉ vì đói, vì suy dinh dưỡng, vì thiếu thuốc men và không được chữa trị…
 
b. Hành hạ thể xác – Cộng sản vẽ ra khẩu hiệu “lao động là vinh quang.” Chúng bắt người tù phải làm công việc khổ sai nặng nhọc như cuồc đất, đào đất, làm đường, đào ao, chặt cây, đốn gỗ, cưa xẻ, làm gạch…Người tù đã thiếu ăn, kiệt sức; chúng lại đặt ra những chỉ tiêu cao để người tù không thể đạt được, và chúng kiếm cớ để hành hạ thể xác:

• Cắt tiêu chuẩn lương thực từ 12kg xuống còn 9kg và nhốt vào conex, khoá chặt. Người tù bị nhốt như vậy có khi hàng tháng. Với sức nóng mùa Hè và khí lạnh mùa Đông không thể chịu đựng nổi, người tù bị chết vì sức nóng và chết vì rét.
• Cắt tiêu chuẩn lương thực xuống còn 9kg; nhốt trong sà lim; hai chân bị cùm siết chặt đến chảy máu; da thịt bị nhiễm trùng, lở loét; người tù bị nhốt như vậy trong nhiều tháng trời và khi được thả ra chỉ còn da bọc xương, đi không nổi phải bò.
• Chúng cột người tù vào một cây cột và bắt người tù phải đứng thẳng hoặc nằm hay ngồi cả tuần lễ có khi lâu hơn.
• Chúng trói người tù theo kiểu cánh bướm “butterfly style or contorted position” bằng cách bắt một cánh tay bắt chéo qua vai và cánh tay kia bắt qua sau lưng và cột chặt hai ngón tay cái với nhau.
Chúng cột người tù trong tư thế bị trói như vậy vào một cái cột và bắt đứng trong nhiều tiếng đồng hồ. Người tù chịu không nổi, bị ngất xỉu.

Trên đây chỉ là vài cách hành hạ (torture) thể xác tiêu biểu. Cộng sản còn nhiêu kiểu hành hạ độc ác khác như nhốt người tù vào chuồng cọp hay bỏ xuống những giếng nước khô cạn, bỏ hoang lâu ngày, đầy những ổ rắn rết…
 
c. Tra tấn tinh thần – Mục đích của cộng sản là làm cho tinh thần người tù luôn luôn bị căng thẳng để gây tổn thương trầm trọng cho sức khoẻ thể chất và tinh thần (causing serious injury to physical and mental health) bằng hai phương pháp sau đây:

- Nhồi sọ chính trị (Political indoctrination) – Để mở đầu kế hoạch “cải tạo,” cộng sản bắt người tù phải học 9 bài chính trị. Mỗi bài phải học từ một tuần lễ đến 10 ngày gồm: lên lớp, thảo luận trong tổ, trong đội… Cuối mỗi bài học, người tù phải viết một bản gọi là “thâu hoạch” để nộp cho chúng. Nội dung những bài học gọi là chính trị này chỉ là những bài tuyên truyền rẻ tiền như: Mỹ là tên đầu sỏ đế quốc, là con bạch tuộc có hai vòi: một vòi hút máu nhân dân Mỹ và một vòi hút máu nhân dân nước ngoài. Ta đánh Mỹ cũng là giải phóng cho nhân dân Mỹ thoát khỏi sự bóc lột của đế quốc Mỹ. Đế quốc Mỹ là con hổ giấy. Mỹ giầu nhưng không mạnh. Ta nghèo nhưng ta mạnh.

Dưới sự lãnh đạo của đảng quang vinh, ta đã đánh thắng tên đế quốc sừng sỏ nhất thời đại. Nguỵ quân, nguỵ quyền là tay sai của đế quốc Mỹ, có nợ máu với nhân dân và là tội phạm chiến tranh…Bài học cuối cùng là bài “lao động là vinh quang” để chuẩn bị bắt người tù làm những việc khổ sai nặng nhọc.
 
Những bài tuyên truyền rẻ tiền và ấu trĩ trên đây chỉ có thể áp dụng cho người dân bị bưng bít và thiếu học ở Miền Bắc đã bị cộng sản u mê hoá chứ không có tác dụng gì đối với những người đã sống dưới chính thể tự do tại Miền Nam. Tuy nhiên, cái không khí khủng bố của trại tù đã làm cho một số anh em hoang mang và căng thẳng tinh thần. Do đó, đã có một số người tự sát và trốn trại. Những người trốn trại chẳng may bị bắt lại đã bị chúng mang ra toà án nhân dân của chúng kết tội và bắn chết ngay tại chỗ. Đây là đòn khủng bố tinh thần phủ đầu của cộng sản theo kiểu “sát nhất nhân, vạn nhân cụ.”

- Tự phê (Confession) – Tiếp theo phần “học tập chính trị” là phần “tự phê.” Người tù phải viết một bản tiểu sử kể từ khi còn nhỏ cho tới khi vào tù; phải kê khai thành phần giai cấp của dòng họ từ ba đời trước cho đến con cháu sau này; phải kê khai những việc làm trong quá khứ và phải kết tội những việc làm đó là gian ác cũng như phải tự kết tội mình có nợ máu với nhân dân. Người phát thư cũng bị kết tội là đã chuyển thư tín giúp cho bộ máy kìm kẹp của nguỵ quân, nguỵ quyền. Các vị tuyên uý trong quân đội bị kết tội là đã nâng cao tinh thần chiến đấu của nguỵ quân. Các bác sĩ quân y thì bị kết tội là đã chữa trị cho các thương, bệnh binh để mau chóng phục hồi sức chiến đấu của nguỵ quân…Tóm lại, tất cả nguỵ quân, nguỵ quyền đều là những thành phần ác ôn, có nợ máu với nhân dân và phải thành khẩn khai báo những tội ác cũng như phải thành khẩn lao động sản xuất để sớm được đảng cứu xét cho về đứng “trong lòng dân tộc.” Trong suốt thòi gian bị tù, người tù phải liên tiếp viết những bản tự phê; phải moi óc tìm và “phịa” ra những “tội ác” để tự gán và kết tội mình, và nếu bản viết lần sau thiếu vài “tội ác” so với bản viết lần trước, anh sẽ bị kết tội là vẫn còn ngoan cố và thời gian học tập sẽ còn lâu dài.

“Tự phê” một đòn tra tấn tinh thần rất ác ôn. Nó làm cho người tù bị căng thẳng tinh thần triền miên kể cả trong giấc ngủ và đã có một số anh em gần như phát điên, la hét, nói năng lảm nhảm và có người đã tự vẫn…
 
Tội ác thứ 3 – Tội giết người (Murder)

Những anh em trốn trại bị bắt lại đã bị cộng sản mang ra xử tại toà án nhân dân của chúng và bị bắn chết ngay tại chỗ. Đây là tội ác giết người (murder) bởi vì trên danh nghĩa cũng như theo pháp lý thì những người này chỉ là những người đi học tập. Và khi một người đi học tập mà trốn trại học tập là chuyện rất thường tình, không có tội lỗi gì đối với pháp luật. Nhưng đối với bọn vô nhân tính cộng sản thì không thể nói chuyện lý lẽ với chúng được. Vào một ngày cuối năm 1975, tại trại giam Suối Máu, Biên Hoà, chúng mang hai anh sĩ quan cấp uý trốn trại bị bắt lại ra xử tại "toà án nhân dân" rừng rú của chúng được thiết lập ngay trong trại giam. Trước khi mang ra xử, chúng đã tra tấn hai anh này đến mềm người, rũ rượi, xụi lơ, không còn biết gì nữa. Ngồi trên ghế xử, tên “chánh án” cùng ba tên đồng đảng giết người mặt sắt đen sì, răng đen mã tấu, dép râu, nón cối, ngập ngọng giọng Bắc Kỳ 75 đọc xong “bản án giết người” đã viết sẵn và ngay lập tức chúng mang hai anh ra bắn chết cạnh hai cái hố đã đào sẵn. Buổi trưa hôm đó bầu trời Biên Hoà có nắng đẹp, nhưng khi tiếng súng giết người nổ vang lên, mây đen bỗng kéo đến phủ tối cả bầu trời và đổ xuống những hạt mưa nặng hạt. Tất cả anh em trong trại giam lặng lẽ cúi đầu tiễn đưa hai đồng đội sa cơ, thất thế!!!
 
Ngoài cách giết người rừng rú trên đây, cộng sản còn chủ tâm giết người bằng nhiều cách khác như cho ăn đói và bắt làm khổ sai nặng nhọc để chết dần chết mòn; để cho chết bệnh, không cung cấp thuốc men, không chữa trị; bắt làm những việc nguy hiểm chết người như gỡ mìn bằng tay không…
 
Tội ác thứ 4 – Tội bắt làm nô lệ (Enslavement)

Người tù phải sản xuất lương thực như trồng sắn, trồng ngô, trồng khoai, trồng rau…để tự nuôi mình; ngoài ra, còn phải sản xuất hàng hoá, sản phẩm để bán ra ngoài thị trường. Tại các trại tù trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn, người tù phải đốn gỗ, cưa xẻ, chặt giang, chặt nứa, chặt vầu… để trại tù mang đi bán. Tai trại tù Hà Sơn Bình có những đội cưa xẻ, đội mộc, đội gạch để sản xuất bàn, ghế, giường, tủ và gạch để bán. Tại trại tù Z30D, Hàm Tân, người tù phải trồng mía, sản xuất đường; mỗi tháng bán hàng tấn đường ra ngoài thị trường… Cộng sản bắt người tù phải làm công việc như người nô lệ thời trung cổ khi phe thắng trận bắt người bên phe thua trận phải làm nô lệ lao động (slave labour) thay vì mang đi giết. Đây là sự vi phạm nhân quyền một cách man rợ của thời trung cổ và là một Tội Ác chống Loài Người.
 
Tội ác thứ 5- Tội thủ tiêu mất tích người (Enforced disappearance of persons)

Theo các tài liệu nghiên cứu có giá trị hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu thì số nạn nhân chết trong các “trại cải tạo” là 165,000 người. Hiện nay, ngoài cộng sản ra, không ai biết nơi chôn cất các nạn nhân này. Suốt bao nhiêu năm nay, chúng không cung cấp thông tin đầy đủ về tất cả những nạn nhân đã chết torng tù "cải tạo" cho thân nhân cải táng để mang hài cốt về quê quán. Đây là đòn thù vô nhân đạo đối với những nạn nhân đã nằm xuống, và là hành vi độc ác (inhumane act) gây đau khổ tinh thần triền miên, suốt đời cho thân nhân các nạn nhân. Chỉ có một số rất ít, không đáng kể, thân nhân các nạn nhân đã chạy chọt, tìm được cách cải táng người thân của họ; còn tuyệt đại đa số 165,000 người tù chính trị được coi như đã bị thủ tiêu mất tích. Đây là chủ tâm trả thù dã man của cộng sản và là một Tội Ác chống Nhân Loại.
 
Trong cuộc họp với tổng thống George W. Bush tai Bạch Cung ngày 24-6-2008, Việt cộng Nguyễn Tấn Dũng hứa sẽ tiếp tục tìm kiếm và trao cho Hoa Kỳ hài cốt những quân nhân Mỹ mất tích (MIA) trong cuộc chiến VN. Trong khi đó quân cộng sản giết người đang chôn giấu để thủ tiêu mất tích hài cốt của 165,000 quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia đã bị chúng sát hại, sau ngày 30-4-1975, trong 150 “trại tù cải tạo” của chúng trên toàn cõi VN. Điều này chứng tỏ rằng lũ cộng sản tiếp tục nuôi dưỡng hận thù đối với người Việt quốc gia, ngay cả đối với những người đã nằm xuống, trong khi miệng chúng luôn luôn hô hào "hoà hợp hoà giải". “Đừng nghe những gì cộng sản nói; hãy nhìn kỹ những gì chúng làm.”
 
Ngoài 5 tội ác chống loài người kể trên, vào năm 1980, cộng sản đã có kế hoạch đưa gia đình những người tù từ Miền Nam để cùng với những thân nhân của họ đang bị tù tại Miền Bắc đi “định cư” tại những “khu kinh tế mới” ở Miền Bắc mà thí điểm đầu tiên là khu Thanh Phong/Thanh Cầm, một khu rừng thiêng nước độc tại Miền Bắc, nơi đang có những “trại cải tạo.” Ý đồ của âm mưu thâm hiểm này là đưa đi đầy chung thân, khổ sai, biệt xứ để giết dần, giết mòn tất cả những người tù cùng với gia đình họ. Đây là một kế hoạch diệt chủng (genocide) được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của tập đoàn Việt gian cộng sản. Nhưng trời bất dung gian, chúng không thực hiện được âm mưu diệt chủng này vì cục diện thế giới thay đổi dẫn đến sự phá sản của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới, và chúng đã phải thả những nạn nhân của chúng ra để họ đi định cư tại Hoa Kỳ với tư cách là những người tỵ nạn chính trị (political refugees).
 
Cái nghị quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 của tên Việt gian bán nước Hồ Chí Minh – cho tới ngày hôm nay vẫn còn hiệu lực – là một dụng cụ đàn áp thâm hiểm nhất để chống lại nhân quyền (the most repressive tool against human rights). Suốt nửa thế kỷ vừa qua, bằng cái nghị quyết phản động này, lũ bán nước cộng sản đã đưa hàng triệu, triệu người Việt Nam đi “học tập cải tạo” mà không qua một thủ tục pháp lý nào cả. Với 5 Tội Ác chống Nhân Loại (Crimes against Humanity) như đã trình bày trên đây, đảng cộng sản VN phải bị mang ra xét xử tại Toà Án Hình Sự Quốc Tế [2] (International Criminal Court).
 
Số Nạn Nhân Bị Giam Cầm, Số Nạn Nhân Chết và Số “Trại Tù Cải Tạo”

Theo sự ước tính của các tài liệu nghiên cứu có tính hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu đã được phổ biến “…According to the published academic studies in the United States and Europe…” thì số nạn nhân và số các “trại tù cải tạo” được ước tính như sau:

• 1 triệu nạn nhân đã bị giam giữ không bị chính thức kết tội hay xét xử (without formal charge or trial).

• 165,000 nạn nhân chết tại các “trại tù cải tạo.”

• Có ít nhất 150 “trại tù cải tạo” sau khi Việt Nam cộng Hòa bị sụp đổ.
Thời Gian “Cải tạo”

Có những nạn nhân đã bị giam giữ tới 17 năm, và theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì đại đa số nạn nhân bị giam giữ từ 3 tới 10 năm, và tính trung bình mỗi người phải trải qua 5 trại giam. “…according to the U.S. Department of State, most term ranging from three to 10 years…” Nếu lấy con số trung bình là 7 năm tù cho mỗi người thì số năm tù của một triệu nạn nhân là 7 triệu năm. Đây là một tội ác lịch sử không tiền khoáng hậu của bọn Việt gian cộng sản; vượt xa cả tội ác một ngàn năm của bọn giặc Tầu và một trăm năm bon giặc Tây cộng lại.
 
 
Món Nợ của Hoa Kỳ Đối Với Đồng Minh.

Chính phủ Hoa Kỳ công nhận những người bị giam cầm (imprisonment) này là những ngưòi tù chính trị, và đã điều đình với phỉ quyền cộng sản để cho những người này được thả ra để cùng với gia đình đi đinh cư tỵ nạn tại Mỹ ưu tiên theo Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program) đối với những người bị giam cầm từ 3 năm trở lên. “…The U.S. government considers reeducation detainees to be political prisoners. In 1989 the Reagan administration entered into an agreement with the Vietnamese government, pursuant to which Vietnam would free all former AVN soldiers and officials held in reeducation camps and allow them to immigrate to the United States… that gives priority to those who spent at least three years in reeducation…”
 
Hoa Kỳ coi việc đưa những người tù chính trị này sang định cư tỵ nạn tại Mỹ là để trả một món nợ quốc gia đối với đồng minh trong thời chiến. Những người này đã bị giam cầm vì đã cộng tác mật thiết với Hoa Kỳ trong cuộc chiến. “… Resettling this group will be a step toward closing out this nation’s debt to its Indochina wartime allies. “These people have been detained because of their closed association with us during the war,” said Robert Funseth, the senior deputy assistance secretary of state for refugee affairs who spent most of this decade negotiating their resettlement…”
 
Phải nói một cách chính sác rằng những người tù chính trị Việt Nam đi định cư tỵ nạn tại Mỹ theo một chương trình ra đi đặc biệt (a special program) nằm trong khuôn khổ của Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program) chứ không phải theo chương trình HO (Humanitarian Operation) tưởng tượng nào cả. Cái gọi là chương trình HO chỉ là sự suy diễn từ các con số thứ tự của các danh sách những người tù chính trị đã được cộng sản trao cho Hoa Kỳ để phỏng vấn đi tỵ nạn tại Mỹ theo thứ tự: H.01, H.02…. H.10, H.11, H.12…

Cộng sản và tay sai có thể lợi dụng cái danh xưng “HO” không Chính không Thực và Lập Lờ này cho những âm mưu đen tối của chúng. Chúng có thể tuyên truyền lếu láo rằng: “Không những đảng đã tha chết cho bọn tội phạm chiến tranh này, mà còn tổ chức cả một “Chiến Dịch Nhân Đạo/HO” để cho đi định cư tại ngoại quốc. Ra đến ngoại quốc đã không biết ơn lại còn đi đấu tranh, biểu tình chống lại đảng…” Sự kiện tù chính trị là một sự kiện có tính chính trị và lịch sử; phải xử dụng Danh cho Chính. Không thể Lộng Giả Thành Chân cái nguỵ danh “HO” để xuyên tạc sự thật lịch sử.
 
Học tập cải tạo” là một nguỵ danh để che đậy 5 Tội Ác chống Loài Người (Crimes against Humanity) được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) của bè lũ Việt gian cộng sản đối với quân, dân, cán, chính VNCH đã bị chúng giam cầm (imprisonment) một cách phi pháp sau ngày 30-4-1975. Đây cũng là một tội ác có tính lịch sử của đảng cộng sản VN. Cái nguỵ danh “tù cải tạo/HO” phải được Chính Danh là: Tù Nhân Chính Trị và Nạn Nhân của Tội Ác chống Loài Người của Hồ Chí Minh và bè lũ cộng sản. Cũng cần phải nói thêm rằng khi dùng cái danh từ “cải tạo” của cộng sản là mắc mưu chúng bởi vì chúng tuyên bố lếu láo rằng vì các anh có “nợ máu với nhân dân nên các anh phải đi cải tạo,” và khi tự gọi mình là “tù cải tạo” tức là tự nhận mình có tội. Cũng như khi tự gọi mình là một “HO”- một cái nguỵ danh đã bị lộng giả thành chân để chỉ một người “tù cải tạo” – là tự từ bỏ cái căn cước người tù chính trị của mình. Cho nên, Chính Danh là vấn đề rất quan trọng cả về chính trị và lịch sử. Dùng Nguỵ Danh để che đậy và bóp méo một sự kiện lịch sử là tội đại gian và có tội đối với lịch sử.
 
Đỗ Ngọc Uyển – Sanjose, California