Friday, February 12, 2010

CỘNG SẢN VIỆT NAM SẼ TUNG CHƯƠNG TRÌNNH TRUYỀN HÌNH VÀO MỸ NHUỘM ĐỎ CỘNG ĐỒNGHẢI NGOẠI

Tin Hà Nội - Báo chí trong nước ngày hôm nay loan tin tà quyền Cộng sản Việt Nam sẽ mở rộng kế hoạch chiêu dụ Việt kiều và thi hành nghị quyết 36, bằng cách tung các chương trình truyền hình nhắm vào các đài địa phương tại Mỹ và các đài qua hệ thống dây cáp. Trong những ngày qua thị trường truyền thông của Mỹ đang có những biến chuyển rất lớn, khi hệ thống truyền hình được chuyển qua dạng Digital đã mở ra rất nhiều đài mới, và vì thế chỉ trong vòng một tháng tại miền Nam California, đã có thêm 4 đài Việt ngữ 24 trên 24 giờ phục vụ cho cộng đồng người Việt tại đây, trong đó có đài SET là đài chị em của SB-TN. Tuy nhiên việc này cũng tạo ra cơ hội cho nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam, và theo bài báo phổ biến cho biết theo tin của Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài, Hà Nội đã ra lệnh phải thi hành và mở rộng những hoạt động dành cho kiều bào ta ở nước ngoài về cả bề nổi và chiều sâu, động viên bà con ngày càng hướng về quê hương, đóng góp tài lực và vật lực cho quá trình phát triển đất nước. Với chiều hướng này, bộ Ngoại giao Cộng sản Việt Nam đã ra lệnh thi hành đề án đưa đài truyền hình VTV4 vào hệ thống truyền hình cáp tại các địa bàn có đông người Việt Nam sinh sống. Một chi tiết trong bản tin cho thấy rằng, đài truyền hình nhà nước VTV-4 trước giờ muốn bắt sóng ở Mỹ cần phải có hệ thống satelite riêng, nhưng nay Hà Nội sẽ lợi dụng cơ hội mở cửa hệ thống truyền hình Digital để nhảy vào và cũng sẽ trình chiếu đài này trên hệ thống giây cáp tức Cable, viễn ảnh thấy rõ là sẽ tăng tốc nhuộm đỏ hải ngoại, và cũng tăng sức cạnh tranh với các đài truyền hình của người Việt quốc gia.

Cũng trong dịp này, bộ Ngoại giao Cộng sản Việt Nam cho biết trong 5 năm trở lại đây, ngoài Việt kiều ở Mỹ, Australia, châu Âu, những người đi xuất khẩu lao động, các chuyên gia Việt Nam, lưu học sinh đang làm việc và học tập tại nước ngoài đã đóng góp rất lớn trong số kiều hối chuyển về Việt Nam. Hiện có khoảng 500,000 người Việt đang làm việc ở hơn 30 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, phần lớn trong số đó dành từ 70 đến 80% thu nhập gửi về nước. Hà Nội loan báo kiều hối trong năm nay gửi về nước là 8 tỷ mỹ kim, tức là tăng hơn năm trước khoảng 1 tỷ mỹ kim. Tuy nhiên một bản tin khác lại bày tỏ sự thất bại của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam trong việc đưa ra chương trình xin miễn thị thực cho Việt kiều về nước. Ngày hôm qua Thứ trưởng ngoại giao Cộng sản Việt Nam đã bày tỏ thất vọng là vì số kiều bào xin miễn thị thực quá ít. Bản tin cũng bày tỏ sự mâu thuẫn, khi có báo đăng là có khoảng 400,000 kiều bào được miễn thị thực, nhưng có báo đăng là chỉ có 40,000 người. Hà Nội thú nhận con số này còn khiêm tốn so với lượng kiều bào có nhu cầu. Thứ trưởng Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài Nguyễn Thanh Sơn cho hay trong suốt hai năm qua Hà Nội đã vận động kiều bào để tham gia chiến dịch này, nhưng con số nói trên là một con số rất nhỏ, và đa số là những người xuất khẩu lao động tại Ðông Âu, còn những kiều bào từ Mỹ và từ Tây Âu đã không tham gia vào chiến dịch tuyên truyền mà tà quyền Cộng sản Việt Nam đề ra.

Source: http://www.hvhnvtd.com



Đôi Điều Tâm Sự Về Quỹ $1 Cho Công Lý - Nguyễn Quang Duy

Nguyễn Quang Duy

Xuân là dịp để vui mừng, đòan tụ, chia sẻ và tha thứ. Buồn thay xuân năm nay Cộng Đồng Người Việt Tự Do (CĐNVTD) tại Victoria đang xảy ra những điều ngược lại.

Người viết nhớ lại tại Đại Hội Thường Niên CĐNVTD/Úc châu, tổ chức ở Nam Úc, năm 2006, mọi người hết sức vui mừng khi phái đoàn từ Victoria long trọng thông báo Đền Thờ Quốc Tổ sẽ được khánh thành vào cuối năm. Như vậy là trên đất khách quê người, đồng hương tại Melbourne sắp có nơi để phụng thờ Quốc Tổ.

Từ Canbera về lại Melbourne, lần đầu đến dự lễ tri ân một chiến sỹ Úc hy sinh tại Việt Nam vừa được cải táng. Bên tay phải của bàn thờ Quốc Tổ là bàn thờ các chiến sỹ Úc đã hy sinh tại Việt Nam. Thật đúng với văn hóa Việt vốn trọng ân trọng nghĩa.

Nhưng rồi những bất đồng nội bộ đã xảy ra và mỗi ngày một thêm căng thẳng. Rồi báo chí địa phương đưa tin và dư luận hoang mang. Khách quan nhận xét thì việc tài chánh phải có sổ sách và báo cáo đến Chính Phủ, đến các Đại Hội Thường Niên Cộng Đồng. Nếu không minh bạch thì phải chịu điều tra và kiểm toán.

Thế nhưng việc Đền thờ Quốc Tổ lại lan sang việc đấu tranh chống văn hóa vận cộng sản, trong khi đồng hương biểu tình phản đối cuộc triển lãm “Impressive Vietnam” tại Crown Casino vào tháng 2/2009, thì: “một cá nhân đã cung cấp tin tức sai lạc cho Crown Casino về mục đích của cuộc biểu tình chống CSVN của CÐNVTD-VIC”.

Gần đến các ngày biểu tình thì hằng ngàn tờ A3 với hình ông Nguyễn Thế Phong và những lời cáo buộc được âm thầm dán khắp các khu vực đông người Việt sinh sống tại Melbourne . Lần biểu tình gần đây nhất chống “Mừng Ngày Quốc Nhục 2/9/2009”, riêng người viết đã tự tay cạo xé trên 20 tấm tại khu Footscray. Nhiều người khác bất bình cũng đã tiếp tay cạo xé. Nhưng có cạo mấy hiện tại các khu đông đồng hương sinh sống vẫn còn những dấu tích nham nhở do bọn “ném đá dấu tay” gây ra.

Rõ nhất là trên báo điện tử Công An Nhân Dân, giữa tháng 3/2009, có bài viết xuyên tạc CĐNVTD tại Úc châu. Cá nhân ông Nguyễn Thế Phong bị mang ra bôi nhọ, chẳng khác gì nội dung tờ cáo buộc tại khu Footscray. Bài viết cũng nhắc đến tên 3 thành viên đã bất đồng trong việc xây dựng Đền Thờ Quốc Tổ. Không hiểu vì sao bài viết được gỡ xuống chỉ sau ít ngày trên mạng báo Công An Nhân Dân.

Sau đó ông Nguyễn Thế Phong bị thưa ra tòa vì: “đã tuyên bố cá nhân này là cộng sản và đánh phá cộng đồng”“những cáo buộc rằng Ban Chấp Hành CÐNVTD-VIC do ông Nguyễn Thế Phong làm chủ tịch đã tham lũng công quỹ của cộng đồng”

Ông Nguyễn văn Bon, tân chủ tịch CĐ đã thông báo đến đồng hương: “Chúng tôi một lần nữa khẳng định rằng: Ông Nguyễn Thế Phong và Ban Chấp Hành do ông lãnh đạo đã hành xử đúng với những gì Nội Quy CÐNVTD-VIC đòi hỏi và cho phép trong cương vị Chủ tịch của mình”. Cũng cần nói ông Nguyễn văn Bon và đa số tân ban chấp hành gồm những người trẻ trên dưới 30 mươi tuổi và vừa được đồng hương tại Victoria tín nhiệm trực tiếp bầu ra.

Khi được bà Nam Dao phỏng vấn, ông Nguyễn văn Bon tha thiết kêu gọi: ”Cộng Ðồng là cộng đồng chung của mọi người, chúng ta có bổn phận khuyến khích và hỗ trợ những người thiện nguyện ra gánh vác công việc chung của cộng đồng, đặc biệt là khi họ chỉ hành xử theo đúng bổn phận, trách nhiệm mà cộng đồng và bản nội quy đòi hỏi. Ban Chấp Hành chúng tôi có bổn phận bảo vệ danh dự và quyền lợi chung của CÐNVTD tại Victoria, nhưng chúng tôi không thể làm được bổn phận thiêng liêng này nếu không có được sự giúp đỡ đồng bào và các hội đoàn đoàn thể trong những hoàn cảnh như thế này.”

Thật hết sức bất công, khi các bạn trẻ trong Cộng Đồng vừa đang phải lo tổ chức Hội chợ Cộng Đồng vừa phải lo vận động $1 cho công lý tại Victoria.

Thật hết sức bất công khi những người đứng ra nhận trách nhiệm Cộng Đồng không quyền lực, không quyền lợi, lại phải đối đầu với thế lực cộng sản, với nghị quyết 36, với công an Việt cộng nằm vùng, với hằng trăm triệu Mỹ kim đảng Cộng sản sử dụng liên tục đánh phá cộng đồng của chúng ta.

Cả lý lẫn tình $1 cho công lý tại Victoria là chính đáng. Và thật hết sức bất công nếu chúng ta không góp công, thờ ơ, bàng quang trước sự kiện.

Bất công nhất là khi thế giới đang lên án hành vi của đảng Cộng sản vi phạm nhân quyền, trấn áp công lý, giam cầm nhục hình hằng ngàn anh chị em đấu tranh cho dân chủ và tòan vẹn lãnh thổ, thì lẽ ra $1 phải dành cho đấu tranh công lý tại Việt Nam.

Xuân sắp tới xin cùng nhau ước mong phía bên kia thay đổi ý định vào phút cuối. Khi đóng góp tôi tin rằng Cộng Đồng sẽ thắng kiện, và án phí sẽ do phía bên kia chi trả, nếu thế hy vọng CĐNVTD tại Victoria sẽ dành một phần cho việc đấu tranh công lý tại Việt Nam. Như thế, $1 cho Công lý tại Victoria cũng đồng nghĩa với $1 cho Công lý tại Việt Nam.
    Cung Chúc Tân Xuân
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
12/2/2010


Thông Báo CĐNVTD-VIC Úc châu: Tòa Sơ Thẩm


THÔNG BÁO CỦA CỘNG ÐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO VICTORIA.
PO Box 2115 Footscray VIC 3011
ĐT: 03 9687 9198
Email: nguyenvanbon@cdnvtd.com
CT: Ông Nguyễn Văn Bon


V/v: Tại Phiên Tòa Sơ Thẩm


Kính thưa:
    - Quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo,
    - Quý vị đại diện các hội đoàn đoàn thể,
    - Quý vị đại diện các cơ quan truyền thông báo chí,
    - Toàn thể đồng hương CÐNVTD-Victoria.
Chúng tôi xin thông báo đến toàn thể quý vị: vào ngày 12 tháng 2 năm 2010, CĐNVTD-VIC đã ra hầu toà tại tòa Sơ Thẩm Victoria. Nguyên đơn đã cáo buộc CĐNVTD-VIC “tham lũng” tiền công qũy của cộng đồng.

Kết quả:

Quan tòa tại tòa Sơ Thẩm đã quyết định không xét xử vụ này tại phiên tòa này. Quan tòa cũng đã đồng thời ra một lệnh tòa (court order) đưa vụ việc xuống cho Trung Tâm Giải Quyết Các Tranh Chấp (Dispute Center) tại Broadmeadows để hòa giải. Quan Tòa cho biết rằng dịch vụ của trung tâm này hoàn toàn miễn phí.


Trân trọng thông báo.
TM. BCH-CÐNVTD-VIC

Nguyễn Văn Bon
Chủ tịch
12 – 02- 2010


Thursday, February 11, 2010

Mừng xuân Canh Dần không quên Mậu Thân 1968 tội ác csVN

    Tết Mậu Thân 1968 trong chiến lược toàn cầu của Trung Quốc


Nguyễn Quang Duy

Tết Mậu Thân 1968, quân đội cộng sản vi phạm ngưng bắn mở cuộc tổng tấn công thủ đô Sài Gòn và hầu hết các thành phố tỉnh lỵ tại miền Nam.

Trên bốn mươi năm qua, do thiếu tài liệu và phân tích, chúng ta không quan tâm lắm đến vai trò và chiến lược của nhà cầm quyền Bắc kinh trong biến cố lịch sử này. Chúng ta thường chỉ xem vai trò của họ là viện trợ quân trang, quân cụ, quân nhu cho cộng sản Việt Nam .

Bài viết này dựa trên những tài liệu nội bộ hai đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc được giải mật để chỉ ra vai trò chỉ đạo và chiến lược tòan cầu của những người cầm quyền Bắc Kinh trong trận tổng tấn công này. Tòan bộ các tài liệu từ phía trung quốc là biên bản các buổi họp bằng tiếng Trung Hoa, được dịch sang Anh ngữ và phổ biến trên mạng "Cold War International History Project" Woodrow Wilson International Center for Scholar. Tài liệu từ phía Việt Nam chủ yếu từ tập tài liệu Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua. Tập tài liệu này được nhà xuất bản Sự Thật cho phổ biến khi chiến tranh Việt -Trung bắt đầu năm 1979.

Từ những năm đầu 1950, khi hai đảng Cộng sản Việt – Trung chính thức lập quan hệ ngọai giao, Trung Quốc đã trực tiếp chỉ đạo và tham gia chiến tranh Việt Nam. Chỉnh quân, chỉnh huấn, cải cách ruộng đất, các chiến dịch quân sự đều được đặt dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của các cố vấn Trung Quốc và được huấn luyện bởi các chuyên gia Trung Quốc. Hiệp định Genève chia đôi đất nước đã được Chu Ân Lai trực tiếp đề ra và tiến hành.

Sau 1954, miền Bắc đã xẩy ra một cuộc tranh chấp giữa hai phe lãnh đạo. Phe theo Trung Quốc nắm đa số và luôn luôn thắng thế. Phe thân Liên Sô là thiểu số lại bị mang tiếng là thiếu tích cực thống nhất đất nước, không cổ vũ việc “giải phóng” miền Nam .

Hội nghị lần thứ 15 cuả Trung Ương tháng 1-1959, bí mật ra quyết định điều động bộ đội miền Bắc chuyển vũ khí vào Nam, để tiến hành võ trang thống nhất đất nước. Ngày 7-1-1959, Hồ chí Minh chính thức xác nhận: “Như vậy là ở Đông Nam Châu Á, chúng tôi đã đứng ở tiền đồn của mặt trận dân chủ và hoà bình toàn thế giới chống lại chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh.” (1)

Tháng 5-1963, Lưu Thiếu Kỳ đi thăm và đưa Bắc Việt đứng hẳn về phía Trung Quốc. Hồ chí Minh và Lưu Thiếu Kỳ đã ký một Tuyên Bố chung gọi “chủ nghĩa xét lại” và “cơ hội hữu khuynh” là đe dọa chính cho phong trào cộng sản quốc tế. Tháng 7-1963, Hồ chí Minh họp riêng với Chu Ân Lai và đã tuyên bố như sau: “Đừng nói là phải đánh 5 năm, 10 năm, dù có 20 năm, 30 năm, thậm chí 50 năm cũng phải đánh, đánh cho đến khi thắng lợi hoàn toàn!”. (2) Câu tuyên bố trên chỉ nhái lại khẩu hiệu: “Đánh đế quốc, đánh, đánh, đánh, đánh cho đến thắng lợi” do Mao Trạch Đông đề ra.

Lệnh tấn công

Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 9, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đã phê phán chủ trương chung sống hòa bình và hội nghị kết thúc với nghị quyết đẩy mạnh công cuộc đấu tranh bằng vũ lực ở miền Nam. Sau Hội nghị Trung Ương lần thứ 9, nhóm do Lê Duẩn cầm đầu tăng cường phê phán “chủ nghĩa xét lại hiện đại” (ám chỉ chủ trương thi đua hòa bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau, mà Liên Sô, Khrushchev, cổ vũ). Tại hội trường Ba Đình, tháng 1-1964, trước các cán bộ cao và trung cấp học tập nghị quyết 9, Trường Chinh tuyên bố: “Đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng ta và Nhà nước ta là thống nhất về cơ bản với đường lối đối ngoại và đối nội của Đảng Cộng Sản và nhà nước Trung Quốc.” (3)

Để tăng cường xâm nhập miền Nam , ngày 08-04-1965, Lê Duẩn sang Trung Quốc xin quân viện. Lê Duẩn lên tiếng:"Chúng tôi muốn một số phi công và thiện chí quân, ... và những người thiện nguyện khác, bao gồm những đơn vị xây dựng cầu cống, đường sá." (4) Lưu Thiếu Kỳ đáp lại "Đó chính là chính sách của chúng tôi, chúng tôi sẽ làm tốt nhất để đóng góp với các đồng chí." (5)

Tài liệu về phía Việt Nam cho biết: “…về nguyên tắc, đến tháng 6 năm 1965 phía Trung Quốc phải gửi phi công sang giúp Việt Nam . Nhưng ngày 16 tháng 7 năm 1965 Bộ Tổng tham mưu Quân giải phóng Trung Quốc đã báo cho Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam là phía Trung Quốc không thể gửi phi công sang Việt Nam được vì ‘thời cơ chưa thích hợp’ và ‘làm như vậy không ngăn cản được địch đẩy mạnh oanh tạc’. Trong một cuộc hội đàm với phía Việt Nam tháng 8 năm 1966 họ cũng nói: ‘Trung Quốc không đủ khả năng về không quân giúp bảo vệ Hà Nội’ ”. (6) Thay vào đó, Liên Sô đã gởi phi công sang chiến trường Việt Nam .

Tại Hà Nội, ngày 13-4-1965, Tao Zhu, bí thư Trung ương đảng cộng sản Trung Quốc Nam phân bộ, báo cho Hồ chí Minh Trung ương đảng cộng sản Trung Quốc và Mao đã giao trách nhiệm viện binh cho 4 tỉnh phía Nam . Để chắc chắn, ngày 16-05-1965, Hồ chí Minh đã sang Trung Quốc hội kiến Mao trạch Đông. Ông trình bày với Mao kế họach xây dựng hệ thống giao thông phía Bắc để tiếp nhận quân viện từ các quốc gia trong khối cộng sản qua biên giới Trung Quốc. Cùng với kế họach xây dựng đường mòn Hồ chí Minh để xâm nhập miền Nam . Ông nói với Mao: "Nếu chủ tịch Mao đồng ý Trung Quốc sẽ giúp, chúng tôi sẽ gởi người của chúng tôi vào Nam ." Mao trạch Đông trả lời:"Chúng tôi chấp nhận. Chúng tôi sẽ làm. Không có vấn đề gì cả." (7)

Ngày 23-3-1966, Lê Duẩn sang Trung Quốc bị Chu Ân Lai chất vấn về việc Việt Nam chính thức kêu gọi viện binh từ các quốc gia cộng sản khác, nhất là từ Sô Viết. Chuyến cầu viện này có lẽ đã thất bại, ba tuần sau Lê Duẩn lại phải sang Trung Quốc một lần nữa. Biên bản buổi họp ngày 13-4-1966, giữa Chu Ân Lai, Đặng tiểu Bình, Kang Shen, Lê Duẩn và Nguyễn Duy Trinh, được tường trình với nhiều dữ kiện lịch sử quan trọng.

Đặng tiểu Bình cho biết chỉ chưa đến một năm Trung Quốc đã gởi sang Việt Nam 130.000 quân để xây dựng cơ sở hạ tầng chiến lược, hằng chục ngàn quân chiến đấu hiện đang túc trực ở biên giới, đã có những thảo luận về việc Trung Quốc sẽ tham chiến nếu chiến tranh xảy ra. Lê Duẩn góp ý:" Bây giờ đã có hằng trăm ngàn quân Trung Quốc tại Việt Nam , nhưng chúng tôi nghĩ rằng nếu có chuyện nghiêm trọng xẩy ra, ở đó cần thiết 500.000 quân." (8) Phía Trung Quốc cũng miễn cưỡng chấp nhận để Việt Nam nhận viện binh từ các quốc gia cộng sản khác.

Trong cùng buổi họp, Chu Ân Lai tuyên bố dự định sẽ gởi chừng 4 đến 5 tóan nghiên cứu quân sự gồm chừng 100 người vào Nam Việt Nam để trực tiếp quan sát tình hình quân sự. Chu Ân Lai nhấn mạnh các toán này có thể sẽ đến tận ngọai ô Sài Gòn.

Tháng 6-1967, đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định mở cuộc tổng tấn công Tết Mậu thân. Ngày 4-7-1967, Võ Nguyên Giáp và Phạm văn Đồng đã sang Trung Quốc tường trình Bắc Kinh tình hình và chiến lược quân sự. Phạm văn Đồng đã báo cáo Chu ân Lai như sau: "Một số chiến lược đang được áp dụng trên chiến trường miền Nam theo lời đề nghị khi trước của các đồng chí. Việc này chứng tỏ chiến lược quân sự của chúng tôi, và của các đồng chí, là chính đáng, với tiến triển khả quan". (9)

"Lấy nông thôn bao vây thành thị" và "vũ trang tổng tấn công" là chiến lược do Mao Trạch Đông đề xướng. Chiến lược này được sử dụng như kim chỉ nam cho cuộc tổng tấn công Mậu Thân. Nhà cầm quyền Hà Nội còn tin rằng dân chúng miền Nam sẽ nổi dậy, quân đội Việt Nam Cộng Hòa sẽ chạy theo quân đội cộng sản, vì thế họ còn gọi là “cuộc tổng tiến công và nổi dậy”. Điều này đã không xảy ra, ngược lại quân và dân miền Nam đã anh dũng bẻ gẫy, đánh tan tòan bộ cuộc tấn công.

Trong buổi họp, ngày 4-7-1967, Chu ân Lai than thở, ông và các đồng chí của ông đều đã trên dưới bẩy mươi, và nhấn mạnh:"Mặc dù tôi đã già, tham vọng vẫn còn đó. Nếu chiến tranh ở miền Nam không chấm dứt vào năm tới, tôi sẽ thăm các đồng chí và tham quan." (10) Năm tới mà Chu ân Lai muốn nhấn mạnh là Mậu Thân 1968. Điều này cho thấy cả nhà cầm quyền Bắc Kinh lẫn Hà Nội đều rất kỳ vọng vào chiến thắng quân sự trong cuộc tổng tấn công này.

Phạm văn Đồng cũng đã báo cho Chu ân Lai biết Liên Sô đề nghị Trung Quốc cho gia tăng số lượng quân viện Liên Sô chuyển sang Việt Nam qua ngõ Trung Quốc từ 10.000 lên 30.000 tấn mỗi tháng. Có thể, Liên Sô sẽ gởi một số đầu máy xe lửa sang Trung Quốc. Để sửa sọan cuộc tổng tấn công, riêng nửa năm 1967, Phạm văn Đồng cho biết Trung Quốc đã quyết định viện trợ Việt Nam 500.000 tấn lương thực.

Tài liệu từ phía Trung Quốc cho thấy Liên Sô đã không được báo cáo tường tận cuộc tổng tấn công này. Sau Tết Mậu Thân, Liên Sô đã chỉ trích nhà cầm quyền Hà nội và cho rằng quyết định tổng tấn công Mậu thân là một quyết định sai lầm.

Có thuyết cho rằng có bất đồng trong Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam về quyết định tổng tấn công. Tuy nhiên các tài liệu đã giải mật từ cả hai phía Trung Quốc lẫn Việt Nam đều không hổ trợ cho thuyết này.

Qua các tài liệu được giải mật từ phía Trung Quốc, chúng ta có thể thấy được vài lý do khiến Trung Quốc trực tiếp chỉ đạo và tham gia tổng tấn công:

(1) bành trướng ảnh hưởng khối cộng sản nói chung, Trung Quốc nói riêng;

(2) tranh giành ảnh hưởng với Liên Sô;

(3) thất bại xây dựng kinh tế, Trung Quốc cần lý do "giải phóng miền Nam Việt Nam" và " đế quốc Mỹ đe dọa tấn công Trung Quốc" để giải tỏa áp lực từ quần chúng và nội bộ đảng cộng sản Trung Quốc;

(4) thất bại chiếm đóng Đài Loan, Trung Quốc sử dụng miền Nam như một thí điểm quân sự cho chiến lược vũ trang tổng tấn công và nổi dậy;

(5) bất ổn quân sự Nam Việt Nam bắt buộc quân đội Hoa Kỳ phải dồn nỗ lực giải quyết, do đó sẽ giải tỏa áp lực quân sự trực tiếp lên Trung Quốc;

(6) chiến thắng quân sự của cộng sản Việt Nam (nếu có) sẽ tạo uy tín cho các lãnh tụ Trung Quốc, nhất là trong giai đọan cách mạng văn hóa đang được rầm rộ phát động.

Tập tài Liệu “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” tuy không đề cập nhiều đến trận Mậu Thân, lại tố cáo: “Trong chiến lược toàn cầu của những người lãnh đạo Trung Quốc, nếu họ coi Liên Xô và Mỹ là những đối tượng chủ yếu cần phải chiến thắng, thì họ coi Việt Nam là một đối tượng quan trọng cần khuất phục và thôn tính để dễ bề đạt được lợi ích chiến lược của họ.” (11)

Theo tài liệu này Mao Trạch Đông còn khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương đảng cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965:

“Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và Singapo. Một vùng như Đông nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy. Sau khi giành được Đông nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây …”. (12)

Tài liệu cũng tố cáo trong cuộc gặp giữa đại biểu bốn đảng cộng sản Việt nam, Trung Quốc, Nam Dương và Lào tại Quảng Đông tháng 9-1963, Chu Ân Lai nói: “Nước chúng tôi thì lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong Đảng Lao động Việt Nam mở cho một con đường mới xuống Đông nam châu Á”. (13) Để mở con đường xuống Đông nam châu Á, tập tài liệu cho biết: “Như nhiều nhà chính trị và báo chí Tây Âu nhận định, Trung Quốc quyết tâm ‘đánh Liên Xô đến người Tây Âu cuối cùng’ cũng như Trung Quốc trước đây đã quyết tâm ‘đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng’”. (14)

Tập tài liệu còn cho biết (Trung Quốc): “Ngăn cản nhân dân Việt Nam thương lượng với Mỹ, khuyến khích Mỹ tăng cường ném bom miền bắc Việt Nam, đây chính là cái mà tướng Mỹ M. Taylơ gọi là quyết tâm của những người lãnh đạo Trung Quốc “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”, nhằm làm suy yếu Việt Nam, có lợi cho chính sách bành trướng của họ.” (15)

Nạn nhân của Mậu thân 1968 là hàng ngàn thường dân vô tội đã bị cộng sản chôn sống, giết chết hay gây thương tích bản thân. Là những chiến sỹ của quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh hay mang thương tích do quân đội cộng sản vi phạm ngưng bắn. Là tâm lý của hằng chục triệu người dân miền Nam khi phải chứng kiến tội ác của cộng sản Việt Nam.

Thế nhưng trong khi kế họach tổng tấn công Mậu Thân được sửa sọan ở Bắc Kinh và Hà Nội. Để "bảo đảm bí mật", các thành viên Mặt trận Giải Phóng Miền Nam, các lực lượng vũ trang Bắc Việt xâm nhập chỉ biết được khi tham gia cuộc tổng tấn công. Đa số cán binh cộng sản bị lường gạt đưa vào cuộc chiến mệnh danh "giải phóng miền Nam" và "nhân dân miền Nam" sẽ nổi dậy phối hợp với họ để giải phóng Miền Nam. Hậu quả của cuộc tổng tấn công là hằng trăm ngàn cán binh cộng sản tử trận, hằng trăm ngàn người còn mang thương tích từ thể xác lẫn tinh thần. Họ và gia đình cũng cần được kể là những nạn nhân của những người cầm quyền Bắc Kinh — Hà Nội trong chiến lược tòan cầu “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” của Trung Quốc.

Một nhân vật được nhiều lần nhắc đến trong bài này, Phạm văn Đồng, ở cuối đời đã sám hối và nhắc nhở các đồng chí của ông như sau: “tất cả chúng ta vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm, vừa là công tố, vừa là quan tòa và cũng vừa là bị cáo.”

Mậu thân đã xảy ra 42 năm trước, nhưng trong nội tâm từng người Việt từ cả hai phía Quốc Gia hay Cộng Sản vẫn còn nhiều chia rẽ. Sự chia rẽ làm suy yếu nội lực dân tộc lại chính là thành quả lớn nhất mà những người cầm quyền Bắc Kinh gặt hái trong quá trình 60 năm chỉ đạo đảng Cộng sản Việt Nam. Mậu Thân nói riêng cuộc chiến Quốc Gia – Cộng Sản nói chung được đặt trong chiến lược tòan cầu của những người cầm quyền Bắc Kinh.

Ngày nay nhiều phần đất ông cha để đã sáp nhập lãnh thổ Trung Quốc. Hằng chục ngàn cây số vuông vịnh Bắc Bộ đã mất vào tay Trung Quốc. Hòang Sa, Trường Sa và Biển Đông đang bị quân đội Trung Quốc chiếm đóng. Trung Quốc ảnh hưởng từ Trung ương đảng đến hạ tầng cơ sở, từ kinh tế đến chính trị văn hóa, từ tư tưởng đến hành động … Việt Nam được ví như một chư hầu, một bán thuộc địa, một tỉnh nhỏ nghèo của Trung Quốc. Sáu mươi năm chiến tranh hận thù chia rẽ đều nằm trong chiến lược tòan cầu của của những người cầm quyền Bắc Kinh.

Hy vọng xuân Canh Dần năm nay, chúng ta dành chút ít thời gian suy ngẫm sự thực quan hệ Việt – Trung để đồng hướng đến một Việt Nam tự do, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
10/2/2010

(1) Hồ Chí Minh Toàn Tập, 1989, Tập 8, trang 258, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội.

(2) Hồ Chí Minh Toàn Tập, 1989, Tập 8, trang 457, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội.

(3) Nguyễn minh Cần, 2001, Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Quốc Tế Cộng Sản, trang 129, Tuổi Xanh xuất bản.

(4), (5), (7), (8), (9) (10) Cold War International History Project, Woodrow Wilson International Center for Scholar

(6), (11), (12), (13), 14 và (15) Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, 1979, nhà xuất bản Sự Thật.


Dân Việt dưới sự lãnh đạo của tà quyền csVN của đỉnh cao loài khỉ

    Thân cò 76 tuổi mò cua băắắt ốốc trong bùn dơ biển lạnh ở Nha Trang

Đêm mùa đông rét như cắt da cắt thịt, cụ Phạm Đoàn, 76 tuổi, thôn Quảng Hội, xã Vạn Thắng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, cơ thể chỉ như da bọc xương, thức dậy từ 1 giờ khuya, lọ mọ xuống ngâm mình dưới biển mò cua bắt ốc kiếm gạo ăn qua ngày.

“Con nước vừa rồi không kiếm đủ gạo, phải mượn hàng xóm 20.000 đồng đắp đổi thêm. Bây giờ phải ráng mò cua ốc kiếm tiền trả nợ, mua gạo, nếu dư dành mua hộp bánh cúng ông bà mấy ngày tết” – cụ Đoàn nói

“Nước biển cạn lúc nào là dậy đi lúc đó. Mùa đông nước thường cạn về khuya: 12 giờ đêm, 1 giờ, 2 giờ … Mắt mũi tui lòa nhòa hết rồi, đi ban đêm không thấy gì hết, phải nhờ mấy đứa trẻ đi trước dẫn đường. Qua mấy cái dây neo ghe, mấy đứa phải hô: “Coi chừng dây neo”, rồi đạp chân xuống cho tui bước qua. Trời tối như mực, đêm nào cũng vấp đá, vấp dây ngã nhào cổ” – cụ Đoàn kể về con đường đi hành nghề vô vùng gian khổ của mình.

Dù kiếm ăn đêm dọc bờ biển nhưng điều rất nguy hiểm là cụ không biết bơi. Cụ cho biết nhiều lần sém chết trong đêm tối.

Cụ Đoàn kể: “Có lúc đang mò cua ốc tui bị những con sóng to xô ngã, nước “đè” lên cả đầu. Tui phải dùng hai tay bấu xuống đất, sợ nước kéo ra ngoài sâu. Còn lội đi bị sụp hầm, sụp hố nước sâu uống nước no cả bụng thì xảy ra như cơm bữa. Sợ nhất là mấy ghe giã cào vào bờ lúc 2-3 giờ sáng, cứ đẩy thúng chai đi ào ào va vô người mình lúc nào không hay”.


Cụ vừa từ dưới biển lên, người run lẩy bẩy


Chân bị miểng chai cắt máu chảy nhiều, cụ phải nhai thuốc lá đắp cầm máu


Cụ đang xem cân số ốc, sò vừa mò được

Từ 1 giờ sáng đến gần 11 giờ trưa trong bụng không có hột cơm, ngâm mình trong giá rét … nhưng chỉ bán được 17.000 đồng. Giá trị cả ngày lam lũ chỉ thu được 10.000-20.000 đồng, gặp lúc sóng to gió lớn chỉ được 5.000-7.000 đồng


Hải Luận (Tuổi Trẻ)

Tini Trần, nữ phóng viên chiến trường Iraq, Afghanistan - Huy Phương

Huy Phương

Tini Trần là một cô bé Việt Nam đến Hoa Kỳ vào đầu tháng 5, năm 1975, lúc cô chỉ mới ba tuổi rưỡi, ngày nay đã trở thành một người nổi tiếng trong ngành truyền thông Hoa Kỳ vì hiện nay cô là thông tín viên của hãng Thông Tấn AP (Associated Press) tại Bắc Kinh. Cái tên Trần Thiên Hương do cha mẹ cô đặt ngày nay đã không còn ai gọi đến, nhưng trong làng ký giả quốc tế, không ai không biết tới cô gái Việt Nam nhỏ con, gan lì đang nhận một nhiệm vụ khá quan trọng tại Ðông Nam Á. Không những cô phụ trách cho hãng thông tấn Hoa Kỳ lớn nhất tại Trung Cộng mà còn hiện diện khắp nơi, từ Ấn Ðộ, Singapore, Thái Lan, Pakistan, Mã Lai đến Afganistan, Kuwait và tại Iraq trong những ngày Hoa Kỳ mở trận chiên tấn công vào cứ điểm Falluja, Baghdad, để đem về những nguồn tin xác thật, ghi nhận tại chỗ rất giá trị. Bài của Tini Trần thường trực hiện diện trên những tờ báo lớn của nước Mỹ như Washington Post, Wall Street Journal, San Jose Mercury News, Los Angeles Times, Baltimore Sun, Chicago Tribune, Houston Chronicle, Sacramento Bees ... và hằng trăm tờ báo khác trên khắp lục địa Hoa Kỳ.

Liệt kê các giải thưởng về báo chí (Journalist Awards) của ký giả Tini Trần:

* 2005: Associated Press Managing Editors Award - Deadline Reporting AP staff coverage of Asian tsunami

* 2000: - National Headliners Award
- 1st Place Coverage of a Major News Event AP coverage of 25th Anniversary of Fall of Saigon, “Vietnam Legacy”

- Associated Press Managing Editors Award - Enterprise Reporting AP coverage of 25th Anniversary of Fall of Saigon, “Vietnam Legacy”

* 1999: Los Angeles Times - Top of the Times Award Beat Coverage & Investigative Reporting

* 1995: - Associated Press Managing Editors Award, 1st Place Non-Deadline Writing “Return to Vietnam” Series, The Tennessean

- Asian American Journalists Association Award

- 2nd Place Asian American Issues “Return to Vietnam” Series, The Tennessean

- Green Eyeshade Investigative Awards, Finalist


Thân phụ của Tini Trần là Bác Sĩ Trần Văn Thuần, bác sĩ y khoa hành nghề tại Houston và mẹ là Công Huyền Tôn Nữ Mỹ Chương, bà du học ở từ năm 1963, và về nước năm 1968. Tini Trần sinh tại Saigon vào tháng 6, năm 1971, và cuối tháng 4, năm 1975, theo gia đình được di tản ra Ðệ Thất Hạm Ðội, đến Subic Bay rời đi Guam và được đưa về định cư tại Alabama. Tini Trần đã học qua nhiều trường trung, tiểu học tại các tiểu bang, Mississsipi và Texas. Lúc thân phụ của Tini đưa gia đình về định cư và mở phòng mạch tại , sau do Tini bắt đầu theo học đại học, ngành báo chí tại University of Texas tai Austin. Tuy vậy khi thấy Tini thích ngành báo chí thì gia đình nghĩ rằng đây chỉ là một sở thích nhất thời của cô nên khuyến khích Tini hoc thêm ngành luật hành chánh cũng tại đại học này.

Tini Trần tốt nghiệp cử nhân báo chí ưu hạng vào mùa Thu năm 1994, sau đó cô được tuyển dụng ngay cho tờ báo Tennessian tại tiểu bang Tennessee, xuất bản tại thủ phủ Nashville. Nhân tháng 5, năm 1995 là tháng kỷ niệm miền Nam rơi vào tay Cộng Sản Bắc Việt, ban biên tập tờ báo nay cử cô đi Việt Nam cùng với phóng viên ảnh Nancy Rhoda để làm một thiên phóng sự tại Việt Nam sau hai mươi năm Saigon sụp đổ.

Bài báo “Return to Việt Nam” dài 43 trang của cô đã làm chấn động báo giới tại Hoa Kỳ và được nhiều tờ báo mua đăng lại. Có thể nói là chưa có một phóng viên Mỹ nào đi sát thực tế, và có khả năng viết về những vấn đề sâu kín mà ngay chính quyền Cộng Sản Việt Nam lúc bấy giờ cũng không muốn các phóng viên ngoại quốc tò mò để mắt tới. Trong khi chính phủ Việt Nam muốn nói đến thành tích dân sinh thì cặp mắt của Tini Trần và ống kính của phóng viên ảnh đã đi vào những xóm lao động, những bệnh viện, những sinh hoạt của đám trẻ nghèo khó bên những đống rác lớn của Saigon. Lúc bấy giờ Việt Nam chưa cởi mở đến độ cho một phóng viên báo Mỹ đến “thăm dân cho biết sự tình” mà chỉ muốn báo chí nói lên những thành tích và chủ trương của chính phủ, do đó Tini Trần và phóng viên ảnh đã đóng vai một Việt Kiều và du khách để đi đây đó và quan sát tận nơi để hoàn thành một bài viết giá trị, một mẫu mực khó tìm của lối viết phóng sự.

Trong giới truyền thông Hoa Kỳ cũng có lối chào mời “mua đào bán kép” như trong giới cải lương ở quê nhà, do đó mà sau bài phóng sự “Return to Việt Nam” này, Tini Trần đã được nhiều tờ báo mời hợp tác với mức thù lao hứa hẹn rất cao, nhất là hai tờ báo xuất bản trong hai địa phương có nhiều người Việt định cư nhất là tờ Los Angeles Times và tờ San Jose Mercury News. Trong thời gian này, Tini Trần thú nhận là tiếng Việt của mình còn yếu nên có thể gặp phải những trở ngại trong khi di làm phóng sự về sinh hoạt cộng đồng Việt Nam tại địa phương, nên cuối cùng Tini đã chọn tờ San Jose Mercury News vì tại Bắc Cali này, Tini Trần có gia đình bà ngoại và các dì, cậu ... có thể cố vấn cho Tini những vấn đề Việt Nam mà cô chưa hiểu một cách sâu sắc. Mặc đầu đã biết Tini Trần về cộng tác với Mercury, Los Angeles Times đã “chiêu dụ” bằng cách mời cô tham quan các cơ sở của tờ báo trong một tuần và lo tất cả chi phí cho cô tại Los Angeles, đồng thời cũng hứa hẹn một mức lương cao hơn tờ Mercury. Tini Trần đã chấp nhận lời mời xuống Nam Cali thăm viếng cơ sở của tờ Los nhưng cuối cùng vẫn giữ ý định ở lại San Jose.

Cộng tác với San Jose Mercury hai năm, Tini Trần đòi hỏi tờ báo này phải để cho cô sang Việt Nam, nhưng vì tờ báo chưa đáp ứng nhu cầu của cô, nên Tini Trần về cộng tác với Los Angeles Times vì chủ biên của tờ này hứa cho cô đi làm phóng sự tại Việt Nam ba tháng. Trong thời gian làm tại Los Angeles, vào cuối năm 1999, Tini Trần cũng đã lăn lộn với nhóm phóng viên của tờ L.A. Times tại khu phố Bolsa để theo dõi và tường thuật vụ Trần Trường và bài tường thuật này đã được một giải thưởng báo chí

Phải nói là năm 1995 sau khi về Việt Nam và hoàn tất phóng sự “Return to Viet Nam,” Tini Trần đã thấy rõ đời sống của dân chúng, phong cảnh cũng như văn hóa Việt Nam Việt Nam, cô yêu thật sự quê hương mình, nơi mà cô đã theo cha mẹ bỏ ra đi từ lúc mới lên ba. Tini Trần đã đạt được hai mơ ước của mình, một là trở thành một người phóng viên báo chí và hai là được làm việc ngay trên quê hương Việt Nam. Làm việc ở đâu cô cũng muốn nhận những công việc tại Việt Nam, do đó khi hãng thông tấn AP mời cô về cộng tác và đưa cô về Việt Nam làm việc, cô không ngần ngại nhận lời và đã ở đó trong một thời gian dài 5 năm. Ngoài khả năng về nghề nghiệp, Tini Trần là một phóng viên năng nổ, không ngại khó khăn, luôn luôn hoàn thành nhu cầu của hãng đặt ra và cô có những nhận xét được công nhận là sâu sắc. Ban Giám Ðốc AP tại New York rất biết tới khả năng của cô và muốn đề bạt cô lên những chức vụ cao hơn và muốn đưa cô đi làm Trưởng Văn Phòng ở các nước khác.

Chỉ vài tháng sau, Tini Trần trở thành Trưởng Văn Phòng AP tại Việt Nam.

Tini Trần quan niệm đây là quê hương mình, đồng bào mình, được sống, hiểu và phục vụ quê hương là điều tốt nhất. Chính trong thời gian làm việc và sinh sống tại Việt Nam, Tini Trần được học hỏi và thông cảm thêm về con người và đời sống Việt Nam, bổ khuyết cho những gì thiếu sót khi cô rời Việt Nam ra đi lúc còn quá nhỏ. Dù thế nào, thì phương tiện sinh sống ở Việt Nam, nhất là tại Hà nội không tốt bằng tại Mỹ, nhưng cô không hề muốn rời nhiệm sở, xa những công việc hằng ngày của một phóng viên mà cô đã yêu thích.

Vào cuối tháng 2, năm 2003, Tini được New York biệt phái sang Kuwait trong khi chờ đợi Mỹ sẽ tấn công vào Iraq. Bốn tuần trong lửa đạn, giao tranh và khủng bố đã làm cho bố mẹ và gia đình cô rất lo lắng. Ðến tháng 3, Tini loan báo cho gia đình biết là cô phải ở lại trận địa lâu hơn vì Hoa Kỳ sắp tấn công vào cứ điểm Falluja. Trong thời điểm này vô số bài viết của Tini Trần đã được chuyển đi và trở thành những tin chiến sự hàng đầu trên các báo chí Hoa Kỳ. Sau bốn tháng ở Baghdad, cô đã sang Jordan và báo tin về nhà cho biết cô đã hoàn tất nhiệm vụ, nghỉ ngơi ở Siri Lanka và sắp trở về Hà Nội. Chỉ trong thời gian 4 năm, người phóng viên AP tên Tini Trần đã làm nhiệm vụ tại 22 quốc gia.

Trong cuộc đời làm phóng viên tại Việt Nam, Tini Trần đã tiếp xúc nhiều với cảnh nghèo khó của quê nhà, trẻ em thiếu ăn, đi học không có giày mang, trời lạnh không có đủ áo ấm. Tini thương Việt Nam là thương nỗi nghèo khó, bất hạnh đó và luôn luôn khuyến khích các em cô, hai gái một trai đã tốt nghiệp đại học tại Mỹ, ráng dành thời gian tham gia các công tác thiện nguyện để giúp đồng bào nghèo khổ ở Việt Nam. Do đó các em Tini Trần đã tham gia các tổ chức N.G.O. (Non-goverment-organization) và về nước giúp đồng bào nghèo. Quan điểm của Tini Trần là Việt Nam cần phát triển giáo dục và cải tiến xã hội để nâng cao kiến thức và đời sống của dân chúng.

Cuộc đời của một phóng viên thường trú tại một quốc gia và đôi khi lại trở thành một phóng viên chiến trường bất đắc dĩ như trong nhiều lần cô đã dến Baghdad đầy lửa đạn. Từ năm 2003 đến năm 2005 Tini đã đi Iraq 5 lần, cô luôn luôn xông xáo, năng nổ đi lại và người ta ít gặp cô ở văn phòng, mặc dù chức vụ của cô là Văn Phòng Trưởng AP tại Việt Nam.

Mùa Thu 2006, Tini đã trở về Mỹ, theo một học bổng Fellowship ở Harvard. Ðể có thể hoạt động cho AP, Tini đã phải theo học tiếng Mandarine 6 tháng tại Mỹ và 3 tháng tại Ðài Loan trước khi đi nhận nhiệm sở mới.

Ngày 19 tháng 9, năm 2009 vừa qua, cô Tini Trần đã lập gia đình với Edward Wong, hiện là thông tín viên của tờ New York Times tại Bắc Kinh. Wong cũng tốt nghiệp báo chí tại Ðại Học California, Berkerley, và có mặt tại Iraq từ những năm 2003 với vai trò phóng viên báo chí. Tin mới nhất cho biết, Tini Trần đang được AP biệt phái qua Kabul để làm phóng sự tại chiến trường Afganistan, trong dịp Tổng Thống Obama cho tăng quân đến chiến trường này.

Huy Phương


Đồng Chiêm, Đồng Chí, Đồng Đạo, Đồng Bào ! - Đinh Xuân Minh

Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh (Đức Quốc)

1. Đồng chiêm

Đồng chiêm? Danh từ xem ra lạ, và không biết nguồn gốc hai chữ Đồng Chiêm lấy từ đâu? Và tại sao lại đặt tên một vùng hẻo lánh với cái tên là Đồng chiêm? Và ý nghĩa Đồng Chiêm là gì?.

Đồng là đồng thanh, đồng nhất, đồng ý, đồng lòng, đồng là chung v.v. Nói chung, chữ Đồng nói lên ý nghĩa sự hàng loạt và lên một của một tập thể đông. Thế còn chữ Chiêm? Chiêm ngắm, chiêm ngưỡng, chiêm niệm. Chiêm là nhìn, là suy tư.

Hay ý nghĩa danh từ Đồng chiêm là cánh Đồng Chiêm, loại lúa Chiêm, thóc Chiêm, loại hoa qủa sinh không đúng mùa?

Qua sự kiện đang xẩy ra ở giáo xứ Đồng chiêm, khi mọi người giáo dân trong xứ, đặc biệt là giới phụ nữ và giới trẻ, (Đúng là giặc đỏ đến nhà, đà bà cũng phải đánh!) thì chúng tôi thiết nghĩ rằng, hai chữ Đồng chiêm, phải là ý nghĩa của sự chiêm nghiệm, chiêm niệm, chiêm ngắm, chiêm ngưỡng (Thánh giá, suy tôn Thánh giá). Thánh giá là biểu tượng cứu rỗi. Trong Cựu ước đã nói về biểu tượng nàỵ „Ai bị rắn cắn, ngước nhìn rắn do Moisen làm bằng đồng, sẽ được cứu rỗi“. (Sách Dân số 21, 6-9).

Trong Tân Ước, chính Đức Giêsu cũng đã tiên ứng về chính mình với Nikodemus: „Như Moisen đã giương cao con rắn trong sa mạc, thì Con người cũng phải bị giương cao như vậy, ngõ hầu kẻ nào tin trông cậy vào Ngài, sẽ được sự sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã yêu mến thế gian như thế đó, đến nỗi đã thí ban Người Con Một, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được có sự sống đời đờị“ (Gioan 3, 14-15).

Ai là con rắn được giương caỏ Đó là cái chết của Đức Giêsu trên thập giá. Cái cắn con rắn làm chết người. Nhưng, cái chết của Thiên Chúa thì ban lại sự sống. Ngước nhìn Thánh giá, tuyên tương Thánh giá, chiêm niệm Thánh giá, ban lại cho chúng ta ơn cứu rỗi trần gian. Đơn thuần, đây không là cây Thập tự, song đây là Thánh giá. Vì, chính quân dữ đã đóng đinh thân thể của Ngài vào cây Thập tự. Vì thế, sẽ không còn cây thập tự lẻ loi, song là Thánh giá, vì Thập tự và thân thể Chúa đã đóng chặt thành một.

Sự gian ác, giả dối gian manh và tính lươn lẹo của tập đoàn tay sai Hán Cộng, thật cực kỳ độc hại chết người, không khác gì cái cắn của con rắn. Ai không biết khôn ngoan né tránh và xua đuổi nó, có ngày chết người với loại Mãng xà này.

Khi chúng ta hướng về Thánh giá, chiêm ngưỡng Thánh giá, suy tôn thánh giá, là chúng ta được cứu rỗi, sẽ thoát khỏi con “mãng xà Việt Cộng” cắn.

Thiên Chúa chịu bị đóng đinh bên tay trái và tay phải đễ mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá, chúng ta ban phép lành cho mọi người anh em có lòng thiện ngay. Thánh giá treo khắp nơi, (trong nhà thờ, trong nhà, treo trên cổ, trên Núi chẻ ...), đấy là dấu chỉ để Thiên Chúa ban sức mạnh cho chúng ta vác thánh giá với Ngài, mà không sợ phải trốn tránh. Thánh giá Chúa đem nghị lực cho chúng ta, khi chúng ta tuyên dương và suy tôn Thánh giá.

Thánh giá Chúa giải thoát chúng ta khỏi mọi tội lỗi và giải thoát chúng ta khỏi mọi sự gian dữ. Vì vậy, chúng ta đừng bao giờ xa lìa Thánh giá!

2. Đồng chí

Thú thật, lúc còn nhỏ, khi Việt Cộng chưa xâm chiếm trọn vẹn được miền Nam, mỗi khi có những phim chiếu về Việt Cộng đội nói cối, mà nghe hai chữ Đồng chí, thì thật tình, lòng tôi cảm thấy bực bội rất khó chịu. Cứ nghe đến hai danh từ này, là tôi thấy ghê tởm rợn tóc gáy. Và cứ hễ nhìn đến nón cối là tôi cảm thấy kinh dị, và nghĩ đến bản tính rừng rú của người đội nó.

Có lẽ, từ ngày Việt Cộng xâm nhập vào miền Nam và áp đặt chủ nghĩa bất nhân trên toàn quốc, thì xem ra, danh từ Đồng chí có lẽ nghe cũng bớt đau cái lỗ nhĩ. Có lẽ thế chăng?! Và có lẽ, cũng từ đó, cái nón cối cũng đã bớt đi cái biểu tượng gian ác và bản tính quê mùa cục mịch của nó?

Mặc dù, những người quốc gia sinh hoạt trong đảng phái, tuy nhiên, họ cũng ít gọi nhau bằng đồng chí. Ngược lại, Việt Cộng, những kẻ phản bội đồng bào, phản đồng loại, phản tình đồng quê hương, thì gọi với nhau bằng đồng chí, theo nghĩa tiêu cực, như cơm bữa. Rất vô tư!

Đồng là đồng nhất, đồng tâm. Chí là chí hướng, bền bỉ theo đuổi một mục đích. Nuôi chí lớn. Có chí thì nên. Thế những Đồng chí việt Cộng đeo đuổi mục đích gì?

Mục đích “Giải phóng”? Thưa không! Đồng chí Việt Cộng chỉ làm tay sai cho Tầu Cộng và phục vụ đường lối bành trướng Chủ Thuyết Thế Giới Đại Đồng của Liên Xô?

Từ khi có sự hiện diện Cộng sản trên quê hương Việt Nam, cách nay 80 năm, đến nay, Cộng sản đã gieo bao nhiêu sự đau thương chết chót, gieo bao nhiêu cảnh đau buồn ly hương. Đồng bào dân tộc bị chia rẽ. Từ ngày có sự hiện diện Cộng sản, toàn thể đồng bào bị ách nặng: Nạn Đồng Chí Việt Cộng, quàng vào cổ.

Qua những sự kiện xẩy ra tại Thái Hà, Tam tòa, giáo xứ Thủ Thiêm, Đồng Chiêm, Loan Lý, tu viện Bát Nhã, và mới đây tại Cồn Dầu (Đã Nẵng), thì chúng ta phải gọi nhóm Đồng chí này là Đồng bọn, đồng bọn với bọn côn đồ du đãng, đồng bọn cùng với thành phần xã hội đen. Giặc đỏ Cộng sản Việt Nam, cùng với côn đồ và xã hội đen là đồng bọn cá mè một lứa!

“Đồng bọn” này, đã không một lần từ bỏ manh thú dã man để đàn áp người chân chính. Qủa thật, họ là một mối nguy cực kỳ nguy hại cho nền an ninh hòa bình, và phát triển đạo đức tôn giáo bền vững, để thành hình nền tảng cơ sở nhân bản cho dân tộc. Chế độ này, chúng tôi hay còn gọi là loại chế độ thổ tả.

Chính vì cái tình và cái tính “đồng chí” này của tà quyền Việt Cộng, đã và đang gây ra không biết bao nhiêu “bệnh dịch hạch” cho đồng bào: hận thù, chém giết, xảo trá gian manh, độc ác.. Chỉ có thuốc “dân chủ tự do đa nguyên”, mới thật sự trị hết loại dịch này!

3. Đồng bào

“Đồng” là cùng, “bào” là bào thai. Truyền thống khai sinh dân tộc Việt Nam được dựa qua sự tích mẹ Âu Cơ, đẻ ra trăm trứng. Dân tộc Việt Nam thuộc dòng dõi Tiên rồng, cùng một “bào thai”. Từ khi, Cộng sản đặt chủ nghĩa phản bội dân tộc trên quê hương Việt Nam, thì cảnh nồi da xáo thịt trải qua bao năm tháng không nguôi, do chủ mưu tay sai Cộng Sản Việt Nam. Họ làm chư hầu cho Cộng sản quốc tế, và tiếp tay cho “chủ nghĩa đại đồng” của Trung Cộng và Liên Xô.

Thủ Tướng Việt cộng Phạm Văn ĐỒNG, ngày 14/09/1958, ký công văn bán hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cho Tầu cộng. Bán đất nhượng biển, để mua vũ khí giết người anh em cùng “đồng bào”. Chiến tranh huynh đệ, từ năm 1960-1975, cũng do Việt Cộng gây ra, mặc dù đã có những Hiệp ước ký năm 1954, 1973 v.v.. Và những sự đàn áp hiện nay của Cộng Sản Việt Nam đối với các nhà đấu tranh dân chủ, tạo sự bất ổn xã hội, cũng do tập đoàn tay sai Hán Cộng gây ra, chỉ vì “đồng bọn” này đã làm tay sai thật sự cho Tầu cộng, phản bội đồng bào.

Chống đối lại cảnh đàn áp của Việt Cộng là tạo sức mạnh đoàn kết của đồng đạo, tạo thế và lực, ngang hàng với đồng bọn Việt Cộng. Nếu, chúng ta không can đảm phản cự, thì chúng ta sẽ mãi là người qụy lụy và gián tiếp, tiếp tay cho sự dữ tung hoành.

Trong Cựu ước cũng nói đến cảnh tượng anh em giết nhau, đó là câu truyện hai anh em Cain và Abel. (Sách Sáng Thế 4, 1-9)

Nội dung câu truyện như sau:

Cain và Abel, hai anh em cùng dâng của lễ cho Chúa. Nhưng Chúa chỉ nhận của lễ người em là Abel, vì người anh ăn ở không tốt lành. Cain ganh tị với em, và đã ra tay giết người em, khi Cain rủ em ra đồng.

“Thiên Chúa hỏi Cain: “Abel, em ngươi đâủ” Nó thưa: “Tôi không biết! Tôi có phải là người canh giữ em tôi ư?”. Người phán: “Ngươi đã làm gì? Tiếng máu của em người từ đất kêu oán lên Ta. Bây giờ người hãy là đồ chúc dữ và bật khỏi mặt đất mầu mỡ đã há miệng hớp lấy từ tay ngươi máu, em ngươi. Ngươi có canh tác đất đai, đất đai sẽ chẳng còn cho người sức lực của nó. Ngươi sẽ vất vơ vất vưởng chạy rong trên đất”.

Vì tính kêu ngạo, vì tính ganh tị, vì chống lại Thiên Chúa, đã gây lên cảnh anh em giết lẫn nhau. Trong tình huống hiện nay tại Việt Nam. Ai là người anh giết người em? Cain là ai? Và Abel là ai? Trải dài qua lịch sử cận đại Việt Nam, Cộng sản Việt Nam chính là Cain. Trước sự kiện Đồng Chiêm, Tam tòa, Thái Hà, Tòa Khâm Sứ, Chùa Bát Nhã, Việt Cộng thể hiện tâm gian của người anh hiểm độc.

Việt Cộng có kình địch với Thiên Chúa không? Khi con người đả kích và nhục mạ Thiên chúa, người ta đi đến kình địch với nhau. Tội gian ác càng ngày càng thêm khốc liệt. Có nghĩa, người “anh” càng ngày càng tạo ra cái “nghiệp” phải trả sau này.

Những sự kiện Việt cộng đã và đang hành xử đối với đồng bào, đối với những dân quân cán chính của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, đối với công viên chức của Chính Phủ Miền Nam, đã chứng minh hùng hồn: Việt Cộng là kẻ giết người, là hiện thân hình ảnh của người anh, giết người em, vì ganh tị, vì tự hào, vì chối bỏ Thượng đế, vì bản tính hiềm tị, xảo quyệt gian manh. Huynh đệ cùng “đồng bào” giết nhau. Cảnh nồi da xáo thịt!

Vì quyền lực đang nằm trong tay người “anh”, nên đồng bọn Cộng Sản tha hồ rảnh tay giết và đánh đập người “em”, mà không có quyền lực nào kiểm soát và ngăn cản. Huyết thù đang xẩy ra hiện nay tại Việt nam không có Tư pháp hay tòa kiện. Vì thế, “đồng bào” là tập thể to lớn nhất, là Tòa Án Công Lý vĩ đại nhất, hãy đứng ra dẹp cảnh nồi da sáo thịt này, và “xử lý” người “anh”!
Cũng chính vì vậy, mỗi anh Công An, mỗi anh Bộ Đội: Một, họ là kẻ tòng phạm giết người; Hai, họ là thủ phạm tay sai giết đồng bào, vì guồng máy Cộng sản đang tạo mọi sự thuận lợi cho họ cơ hội giết anh em, mà những anh công an bộ đội không sợ nhúng máu.

Mỗi anh bộ đội, mỗi anh công an là một “Natural born killers”? Bản tính thiên nhiên của họ sinh ra để giết người, hãm hại chính đồng bào mình? Họ mang mần mống tị hiềm ganh ghét chém giết?
Con cái của Cain bị phạt sống một cuộc sống lang thang, kẻ bị chúc dữ. Kẻ giết người bị nguyền rủa.
Chúng tôi mượn câu Kinh thánh, đặt vấn đề với tà quyền Cộng Sản Việt Nam: “Hỡi Cain, Abel, em người đâủ” Vâng, đúng vậy! Hỡi những kẻ giết người! Abel: những anh em đồng bào chân chính, em ngươi đâủ”. Ai đã ra lệnh ám hại đồng bào? Ai ra lệnh bắt tù, và đánh đập các chiến sĩ anh dũng đấu tranh cho Công lý và Hòa bình? Ai? Ai là tay sai cho Tàu Cộng?

Dân tộc Việt Nam như đang bị chia đôi: người “anh” ở miền Bắc, người “em” người Nam. “Anh” giết “em”. Người anh ác tâm giết người em thiện tâm. Người anh thủ đoạn gian manh giết người em tốt bụng thật thà. Người anh tham vọng, tham lam giết người em hiền lành đơn sơ chất phát. Cũng vì vậy, sự dữ đang tràn lan trên khắp nẻo đường quê hương Việt Nam. Nếu đồng đạo không cùng chung tay dẹp loạn giặc đỏ, thì tương lai dân tộc Việt nam chỉ tồn tại những người “anh” hung hăng khát máu.

“Hỡi cain, Abel, em ngươi đâủ”. Mượn câu hỏi trách cứ này trong Kinh Thánh, chúng ta quy trách mọi tội cho tập đoàn tay sai Hán ngụy cộng sản Việt Nam. Vì sao chúng ta quy tội này cho Việt Cộng?

Vì, khi Việt Cộng làm tay sai cho Tầu Cộng ám hại đồng bào, thì họ được hưởng lộc và quyền lợi. Vừa hạ được đối thủ, vừa có uy quyền lại giầu có, như xưa Việt Minh bắt tay với Pháp để tiêu diệt các đảng phái Quốc gia, củng cố nội bộ.

Khi kẻ vừa đói, vừa khát máu, thì khó kiềm chế ác ý và dã tâm của chúng được.
Một khi bọn chủ mưu đã nhúng ta vào máu, thì bọn giết người cũng không ngần ngại đổ máu thêm, để đạt tới hành động của quân giết người khát máu.

Chừng nào chưa có được những tòa án công minh chính đại, dưới thể chế tự do dân chủ đa nguyên thật sự, thì tập đoàn tay sai Hán Cộng vẫn còn áp dụng phương thức bắt bớ, đầu độc hay giết người để khủng bố đồng bào.

Trong Kinh Thánh đã nói lên sự nguyền rủa cho những kẻ khát máu. Các ngươi đã làm những gì vậỷ!!! Từ dưới đất, tiếng máu của hàng bao trăm ngàn đồng bào, và ngay tại cố đô Huế, đang kêu lên Ta. Giờ đây, các ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút máu đồng bào, do tay các ngươi đổ ra. Từ nay, các ngươi có làm điều gì cũng bị thất bại. Các ngươi sẽ phải lang thanh phiêu bạc trên mặt đất. Các ngươi lúc nào cũng sẽ phải sa sấm nét mặt. Vì các người đã hành động không tốt, thì tội lỗi đang nằm phục của, nó thèm các ngươi.

4. Kết luận

Đất nước chúng ta đã rơi vào tay Tầu Cộng, vì tập đoàn tay sai Cộng sản Hà Nội đã nhượng bán. Muốn dẹp tan giặc cờ đỏ này, mọi tôn giáo phải biết đồng tâm, đồng lực, đồng giáo, hiệp thông với Đồng chiêm, kháng cự lại Đồng chí, phản lại văn kiện của Phạm Văn Đồng, thủ tướng Việt Cộng, để mọi người chúng ta là đồng bào thân thương với nhau.

Chúng tôi rất tâm đắc với cư sĩ Hứa Phi, Ngài thay mặt ban đại diện Khối Nhơn Sanh Đạo Cao Đài Tây Ninh, hôm thứ sáu, ngày 29-01-2010, viết lên ý nguyện Hiệp Thông với Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội: “Ban Hồng Ân cho tất cả anh em chúng ta đồng một Đức tin, đồng một mục đích, đồng nhìn nhau trong tình cốt nhục Thiêng liêng của Ngài, đề đem đến cho thế gian niềm an vui và hạnh phúc”.

Vâng, nếu tất cả mọi người thiện tâm thiện trí đều quyết đồng tâm, đồng giáo, đồng lòng, cùng chung lòng với giáo dân Đồng Chiêm, chắc chắn chúng ta sẽ dẹp tan được giặc cờ đỏ: đồng chí Việt Cộng.

Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh
(Frankfurt, thứ ba, ngày 9 tháng 02 năm 2010)


Wednesday, February 10, 2010

Kẻ Sĩ và Bồi Bút ! - Lê TamAnh

Lê Tam Anh

Khi chúng ta nói đến hai chữ Sĩ khí, có nghĩa là nhắc nhở nhau hãy quay nhìn lại mình trước khi hành động về một vấn đề gì đó hay dấn thân vào một phong trào, một đảng phái ... mà theo chủ quan, đó là lý tưởng hoặc ít ra đó là con đường đúng đắn của kẻ sĩ! Theo chủ quan, theo cái nhìn với góc cạnh từ hai mắt mình, từ sự suy nghĩ của mình đôi khi chưa phải là chín chắn khi chính mình chưa kinh qua những kinh nghiệm.

Mỗi khi mùa xuân về, mỗi khi hoa đào nở, gió xuân làm lòng người dịu lại những trăn trở theo cuộc sống; thì chúng ta, ai cũng nhớ đến bài thơ “Ông Đồ” của Vũ Đình Liên. Bài thơ giản dị và trong sáng, không có những từ ngữ đổm dáng hay văn vẻ, nhưng nó làm cho mọi người cảm thấy bùi ngùi tiếc thương một thời đã qua. Hình dáng một ông đồ mặc áo dài khăn đóng, trải chiếc chiếu hoa củ kỷ bên đường phố đông người. Ông Đồ ngồi chờ khách thuê viết đôi câu liễn treo trong nhà nhân dịp tết. Ông đồ viết chữ đẹp như phượng múa rồng bay ... Nhưng người thuê viết chẳng đọc được, chẳng hiểu được nữa những nét chấm phá tuyệt vời ấy. Đôi khi theo thói quen, họ thuê ông viết đôi câu đối mà không biết nghĩa những chữ đó ra thế nào, có thể đem về treo trên tường, nghĩ rằng nó là vật kỷ niệm mà thôi. Rồi mỗi năm khách dần thưa, người ta qua đường thờ ơ với một ông Đồ già, hình bóng một quá khứ đã qua, không thể nào có thể níu kéo lại ...!

Tôi nhớ lúc trọ học ở Bồng Sơn, thuộc quận Hoài Nhơn, trong gia đình Bác Tám Thơm. Hồi đó là năm 1958, Bác Tám khoảng chừng 60 tuổi, để râu dài, trông như một cụ đồ nho, nhưng bác Tám không biết một chữ nho nào, kể cả chữ quốc ngữ. Nhưng bác luôn luôn tôn thờ chữ “thánh hiền”. Tôi còn nhớ, lịch treo tường có in hai loại chữ Việt và Hán văn ghi ngày tháng dương và âm lịch. có lần tôi xé tờ lịch, vò tròn vứt vào thùng rác. Bác Tám nghiêm sắc mặt, vừa cuối xuống lượm tờ lịch vừa nói với tôi: “Chữ Thánh Hiền không được vò xé, chỉ nên đốt hay để chỗ tôn kính!”. Thế đấy, những người trong thời trước chúng ta một vài thập niên, dầu họ không được học, hay đọc chữ “thánh hiền”, họ đều có chung một tư tưởng tôn thờ chữ nghĩa. Mà theo họ, chữ nghĩa ấy là linh hồn của Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tùng Tứ Đức. Dầu sao thì thời đại củ đã lùi xa, nhưng cũng ít ai quay lưng lại với chính quá khứ của mình bằng nhà thơ Vũ Đình Liên cùng một vài văn thi sĩ thời tiền chiến sau đó theo “cách mạng”.

Trở lại mùa xuân với bóng dáng ông Đồ già trong thơ Vũ Đình Liên, không ai trong chúng ta phủ nhận một hình ảnh của thời gian giao thoa giữa hai nền văn học. Cái mới của văn minh Âu Châu đã đánh bại một nền móng văn hóa bao đời ngự trị trên quê hương Việt. Bài thơ “ông Đồ” đã phản ảnh bao sự giằng co, bao hoài niệm và tiếc thương, giống như ta thường tiếc thương mối tình đầu đã qua trong đời!
    Mỗi năm hoa đào nở,
    Lại thấy ông đồ già
    Bày mực tàu giấy đỏ,
    Bên phố đông người qua.

    Bao nhiêu người thuê viết
    Tấm tắc ngợi khen tài
    Hoa tay thảo những nét,
    Như phượng múa rồng bay.

    Nhưng mỗi năm một vắng,
    Người thuê viết nơi đâu?
    Giấy đỏ buồn không thắm
    Mực đọng trong nghiên sầu.

    Ông đồ vẫn ngồi đấy
    Qua đường không ai hay
    Lá vàng rơi trên giấy
    Ngoài trời mưa bụi bay.

    Hôm nay đào lại nở,
    Không thấy ông đồ xưa,
    Những người muôn năm củ,
    Hồn ở đâu bây giờ?
Bài thơ không những đã được mọi người khen tặng, nó còn được hân hạnh làm bài giảng văn và học thuộc lòng trong các lớp trung học thời Việt Nam Cộng Hòa. Bài thơ và tên tuổi tác giả được liên tục nhắc đi nhắc lại mỗi khi mùa xuân trở về với mọi người, nhắc nhở một quá khứ đầy hoài niệm và mang biết bao lịch sử trong văn hóa dân tộc Việt. Nhưng chưa có ai trong chúng ta, trước đây biết nhiều về cuộc đời và sự nghiệp tác giả bài thơ “ông Đồ”, hay có thể cố tình không nói đến. Vì thế người đời sau ít biết rỏ về Vũ Đình Liên, một người Cộng Sản, một bồi bút rất có uy tín trong Đảng và trong nền văn học vô sản tại Việt Nam.

Vũ Đình Liên, sinh năm 1913 tại phố Hàng Bạc Hà Nội. Sau khi đậu tú tài ở trường Pháp Collège de protectorat ( Trường Bảo hộ tại Thụy Khuê, chính là Trường Bưởi, sau đổi thành Chu Văn An). Ông ta ghi danh học Luật một vài năm rồi bỏ ngang để dạy học tư và làm báo. Năm 1946, Vũ Đình Liên theo kháng chiến trong Hội Văn Nghệ Cứu Quốc Liên Khu 3, gia nhập vào Đảng Cộng Sản năm 1951, dạy học và biên soạn sách giáo khoa cho chế độ!

Bài thơ “Ông Đồ” được Vũ Đình Liên sáng tác vào năm 1937, đăng trên báo Tinh Hoa. Ngoài ra ông còn những bài thơ khác nữa nhưng không nổi tiếng. Vì bài Ông Đồ làm cho tiếng tăm Vũ Đình Liên được vào danh sách những văn thi nhân có hạng, nên khi trở thành Đảng viên Cộng Sản, ông tiếp tục lấy hơi hám bài thơ nầy làm sườn cho ý tưởng ca tụng “Đảng và Bác” một cách rất ư là ngây ngô và nịnh hót! Ta hãy xem bài thơ sau đây, họ Vũ dựa vào bài “ông Đồ” để diễn tả “tấm lòng” theo đảng trung thành của mình như thế nào:

Bài thơ “Thủy Chung” sáng tác năm 1977, Tết Đinh Tỵ:
    Năm nay đào nỡ rộ,
    Mừng hội Đảng, Hội Dân,
    Bút ông đồ lại họa
    Những nét chữ đẹp, thân.

    Cờ biển ngập phố phường,
    Cành đào bay thắm đỏ,
    Như cả ngàn hoa xuân,
    Nét hoa trên mỗi chữ.

    Thấy trong lòng say sưa,
    Dừng chân không muốn bước,
    Nghe đọc những vần thơ
    Ngợi khen những nét bút.

    Xuân Cộng Hòa Xã Hội
    Mai đào tươi thắm hoa
    Một nguồn hạnh phúc mới
    Trào ngọn bút dòng thơ ...!
Đây là bài thơ tiêu biểu của một bồi bút, nó phản ảnh không biện bác được rằng, Vũ Đình Liên, trước sau cũng chẳng giữ được tiết tháo “kẻ sĩ”như Trần Dần. Nhà thơ họ Trần đã để lại cho đời mấy câu thơ ngắn cho một giai đoạn bị tù đày, trả giá mấy vần thơ:
    “Tôi bước đi, không thấy phố, không thấy nhà,
    Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ...!”

    Trần Dần
Chưa hết, Vũ Đình Liên dựa vào thể thơ năm chữ đã thành công trong bài Ông Đồ, sáng tác nhại theo như thế rất nhiều bài có phong cách tương tự nhưng ý và mục đích ca tụng Đảng cùng với “bác” một cách không ngượng ngập gì cả. Sau đây là bài ca tụng đầy tính “nâng bi” một cách trân tráo của nhà thơ, mà, những người chống Cộng, chống sự kèm kẹp thô bạo của tập đoàn Cộng Sản trong nước, vẫn hàng năm nhắc đến tác giả, nhắc đến bài thơ Ông Đồ mà không nhắc đến những bài khác mang tính “cách mạng cao” là một thiếu sót. Bài “Mùa Xuân Cộng Sản” dưới đây là một trong những bài mà Vũ Đình Liên làm theo thể thơ năm chữ nhại theo bài Ông Đồ:
    Một cây đào muôn thuở,
    Năm bốn mùa nở hoa
    Một ông đồ bất tử
    Tay với bút không già.

    Hoa tươi màu sông núi,
    Chữ thắm tình quê hương
    Cành đào và câu đối
    Ngàn đời Tết Việt Nam

    Nghiên bút xưa vẫn đợi
    Tự ngàn năm bài thơ
    Tự ngàn năm câu đối,
    Đảng sáng tác bây giờ

    Nghệ sĩ với ông đồ
    Tình nước non vô tận
    Như Đảng với bác Hồ
    Hương đất trời Cộng Sản

    Năm nay đào lại nỡ
    Vui người mới hồn xưa
    Một mùa xuân bất tử
    Tươi nét lụa lời ca!
Trong bài thơ nầy, chúng ta thấy Vũ Đình Liên không còn là một thi sĩ, tác giả bài thơ ông Đồ ngày nào, không còn là một văn nhân đầy sĩ khí như Trần Dần, Phan Khôi. Mà hóa thân thành bồi bút ca tụng một chế độ khát máu nhất, tàn bạo nhất trên Thế giới. Những chữ “ muôn thuở, “ngàn đời” “vô tận”... làm cho ta cảm thấy xót xa và thương cho chữ nghĩa Việt Nam. Người thi sĩ cảm nhận cái ý nghĩa, cái hay của đất trời, cảm hoài một vài ý thơ và sáng tác. Mỗi bài thơ là mang một nét gì khác với bài trước, là xuất thần với ý thơ. Nhưng Vũ Đình Liên không những đã nghèo nàn ý thơ, nghèo nàn sáng tác mà còn “ôm” lấy cả thể điệu, cả hình dáng Ông Đồ để làm nhân chứng tiêu biểu cho chính mình! Dĩ nhiên khi bài thơ Ông Đồ nổi tiếng thì hoàn cảnh và không gian thời gian khác với “ông Đồ” trở về làm “cách mạng”.Theo họ Vũ, ông Đồ của bài thơ làm cho tên tuổi của mình nổi tiếng khác với ông Đồ “phục vụ Đảng”, đó là ông Đồ mới(?).

Nhưng không phải một mình họ Vũ, tác giả bài thơ Ông Đồ được Đảng “lột xác” mà rất nhiều nhà văn nhà thơ tiền chiến cũng bị rơi vào hoàn cảnh như thế. Nào là Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Công Hoan, Hoàng Xuân Nhị, Huy Cận, Chế Lan Viên...

Bồi bút thứ thiệt, trùm lên tất cả các bồi bút xưa nay, không ai qua mặt được Tố Hữu với những bài thơ ca tụng Cộng Sản quốc tế và tự nhận làm đệ tử trung thành. Ta hảy xem những đoạn thơ sau đây chứng minh tên đồ đệ họ Hồ phóng bút làm dơ bẩn văn thơ Việt như thế nào:

Ca tụng Lenin, cho học sinh cấp tiểu học:

... Ông Lenin ở nước Nga,
Mà em đã biết rất là Việt Nam...!


Khi nghe Stalin chết:

... Ông Stalin ơi! ông Stalin
Trời ơi ông chết đất trời có hay,

... Thương cha thương mẹ thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười...!


Ta hãy nghe Xuân Diệu ca tụng:

Mổi lần tranh đấu gay go,
Chúng con lại được Bác Hồ tới thăm.
Nghe lời Bác dạy khuyên răn

Chúng con ước muốn theo chân của người.


Trong chiến dịch hô hào đấu tố, Xuân Diệu cao giọng:

Thắp đuốc cho sáng khắp đường
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay
Lôi cổ bọn nó ra đây,
Bắt quỳ gục xuống, đọa dày chết thôi.


Khi từ trại tập trung về, kẻ viết bài nầy bị tống ra khỏi thành phố, đến ở vùng Đồng Nai làm rẫy. Hàng xóm là một anh cựu Trung Sĩ đang làm khuân vác. Chiều xuống là anh từ nơi làm việc về nhà say lý túy. Vừa đi anh ta vừa hát nghêu ngao những bài hát xen với thơ “tiền chiến”. Tuy say nhưng anh ta vẫn cố tình kéo dài “nhại” những câu thơ Xuân Diệu, cố cho bàng dân thiên hạ nghe chơi:
    “... Con nai vàng không còn ngơ ngác nữa em ơi!
    Nó đã thành trâu chạy húc người...”
Có hôm anh chàng gõ cửa nhà người viết bài nầy, tay cầm chai rượu, hai mắt đỏ bừng, hét vào tai tôi: “Con nai hay con trâu? Tôi cười đáp: “ con nai!” anh chàng ôm lấy tôi, đưa chai rượu bắt tôi tu một hốp, rồi nói: “Trâu cũng có sừng, nai cũng có sừng ... Mỗi con ngu một cách ... xin đừng bỏ nhau!”... Anh Trung Sĩ của chúng ta đó, kẽ sĩ thời nay có bằng một góc hay không?

Xem thế chúng ta mới hiểu rằng, muốn làm “kẻ sĩ” cho đúng nghĩa chắc chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Mà nghĩ cho cùng, Trong khung cảnh bị “cải tạo tư tưởng” bị chỉ đạo sáng tác và chế độ “tem phiếu”, thì làm sao kẻ sĩ có thể ngồi xem vợ con chết đói, khư khư giử tiếng tăm cho một ảo tưởng của Khổng Giáo để lại, có mấy ai trọn tình trọn nghĩa? Nhưng để làm gì nhĩ!

Ngày nay, khi người ta đã thoát khỏi cái cảnh kèm kẹp, ra hải ngoại làm thơ, viết văn; trong khung cảnh tự do như thế, lại có những nhà văn nhà thơ “thiết tha” tình nguyện làm “bồi bút” mới là chuyện lạ. Xem thế, chúng ta sẽ chẳng có thể nào phân biệt được là, trong hoàn cảnh nào thì người nghệ sĩ biến thành “bồi bút” và trong trường hợp nào thì họ có thể thực hiện đúng“ sĩ khí” để được tiếng thơm muôn đời!

Lê Tam Anh

ĐỐI THỌAI VỚI HY. PHẠM MINH MẪN VỀ CHỦ TRƯƠNG ĐỐI THỌAI VỚI CSVN - Nguyễn Phúc Liên

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Trong THƯ CHÚC XUÂN NĂM THÁNH VÀ XUÂN CANH DẦN, Đức HY Phạm Minh Mẫn mở đầu Lá Thư như sau:

”Vào thời điểm chuẩn bị bước vào Năm Thánh 2010, Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI nhắn nhủ cộng đồng dân Chúa Việt Nam hãy dành thời gian Năm Thánh xây dựng ba mối tương quan căn bản của đạo làm người: - thể hiện lòng thảo kính đối với Chúa là Cha trên trời cùng ông bà tổ tiên và các tiền nhân; - phát huy tình huynh đệ hiệp nhất đối với nhau trong cộng đồng dân Chúa là anh em đồng đạo; - mở rộng tình huynh đệ liên đới đối với mọi người trong cộng đồng xã hội, là anh em đồng bào và đồng loại ».

Để cắt nghĩa thêm về “mở rộng tình huynh đệ liên đới đối với mọi người trong cộng đồng xã hội, là anh em đồng bào và đồng loại”, HY Mẫn viết:

“Con đường đồng hành cùng dân tộc. Vào dịp các giám mục Việt Nam đi Ad Limina cuối tháng 6 năm 2009, Đức Bênêđitô XVI có lời nhắc nhở cộng đồng dân Chúa Việt Nam: đồng hành cùng dân tộc trên con đường lịch sử của đất nước, mọi người cần quan tâm mở rộng tình huynh đệ cùng phát huy tinh thần trách nhiệm liên đới trong cộng đồng xã hội, qua con đường đối thoại và hợp tác với mọi thành phần xã hội, trên nền tảng sự thật và công ích, nhằm phục vụ cho sự sống con người cùng sự phát triển đất nước.”

Khi trả lời Phóng viên Jerome BORUSZEWSKI (Báo La Croix), ngày 24.01.2010, HY Mẫn nói:

“... tôi cố gắng đi theo con đường mới Công đồng Vatican II đã mở ra, là đối thoại và hợp tác với mọi tổ chức văn hoá và tôn giáo, kinh tế và chính trị trong cộng đồng xã hội, trên cơ sở sự thật và công ích. Cả hai vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Bênêđitô XVI đều nhắc lại con đường này cho các Giám mục Việt Nam trong những lần đi Ad Limina trong thập niên đầu của thiên niên kỷ thứ ba.”

Chúng tôi xin nêu ra những điểm sau đây và sẵng sàng đối thọai với HY Phạm Minh Mẫn:

1. Thời điểm cổ võ việc đối thọai

HY Mẫn đề cập và nhấn mạnh chủ trương ĐỐI THOẠI ở một thời điểm rất tế nhị để Giáo dân có thể hiểu rằng đây là việc công kích thái độ của Tổng Giáo Phận Hà Nội cương quyết trước việc đàn áp của CSVN đối với những vụ Tòa Khâm sứ, Xú Thái Hà, Tam Tòa và nay là Đồng Chiêm. Giáo dân và những Linh mục trong những vụ này chỉ là những nạn nhân của đàn áp bằng vũ lực. Nếu họ cứng rắn phản ứng lại, thì dó cũng là quyền tự vệ một phần nào. Khi Tổng Giáo phận Hà Nội đang phải chịu đựng đàn áp như vậy, mà Hy Mẫn chỉ lớn tiếng kêu gọi đối thọai, mà không nói cho kẻ đàn áp hãy ngưng tàn bạo, thì những lời kêu gọi này trở thành thiên vị: một đàng như công kích Tổng Giáo phận Hà Nội, một đàng như biện minh cho sự đàn áp của CSVN.

Một lời kêu gọi về những giá trị luân lý tổng quát có thể có lợi ở thời điểm này, nhưng lại hại ở thời điểm khác. Người kể chuyện có duyên là người biết đúng thời điểm để kể ra câu chuyện. Cùng một câu chuyện, nhưng kể ra ở một thời điểm khác, có thể trở thành vô duyên. Hy Mẫn thử đến bên những người đàn bà bị đánh bể đầu, vỡ mặt, máu lênh láng... để kể chuyện ĐỐI THỌAI với CSVN dùng vũ lực, xem người ta hay chính Hồng Y thấy vô duyên, thậm chí độc ác nữa.

Các Giám Mục của Tổng Giáo phận Hà Nội, khi cùng ký tên Hiệp Thông với Đồng Chiêm, không phải là những Vị không biết đối thọai để đến nỗi Hồng Y Mẫn phải la hò lên ở thời điểm này như công kích.

Vào thời điểm Cộng Hòa Miền Nam, Phong trào Ngô Bá Thành, Tôn Thất Dương Kỵ... đứng lên kêu gọi HÒA BÌNH. Chính Miền Nam đang phải chiến đấu để bảo vệ Hòa Bình cho Miền Nam, trong khi ấy Miền Bắc gửi quân vào để phá đời sống an bình của dân Miền Nam. Tại sao Phong trào Hòa Bình không kêu gọi kẻ từ Miền Bắc gây chiến, mà chỉ lớn tiếng kêu gọi Miền Nam phải ngưng đấu tranh. Hai tiếng HÒA BÌNH thật đẹp, nhưng Phong trào đã xử dụng ở thời điểm ấy như lưỡi gươm đâm vào phía Miền Nam. Họ là tay sai của Miền Bắc gây chiến.

HY Mẫn lớn tiếng kêu gọi ĐỐI THỌAI không đúng thời điểm, hay là ở hòan cảnh tế nhị lúc này, có thể bị coi là tay sai của CSVN nhằm diệt tinh thần can cường tự vệ của Giáo dân Tổng Giáo phận Hà Nội và do đó ủng hộ việc đàn áp đẫm máu của CSVN.

2. HY Mẫn hiểu sai tinh thần ĐỐI THỌAI của Công Đồng Vatican II

Chính trong THƯ CHÚC XUÂN NĂM THÁNH VÀ XUÂN CANH DẦN, Hy Mẫn đã nói rõ rệt:”... mở rộng tình huynh đệ liên đới đối với mọi người trong cộng đồng xã hội, là anh em đồng bào và đồng loại.” Khi trả lời Phỏng vấn của Jerome BORUSZEWSKI, Hy Mẫn còn nhắc lại việc ĐỐI THOẠI là đối với anh em trong “cộng đồng xã hội, trên cơ sở sự thật và công ích. “

Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với tinh thần ĐỐI THỌAI này mà Công Đồng Vatican II đã chỉ dậy. Mọi người trong cộng đồng xã hội là những ai ? Là những đồng bào nghèo khổ đang bị cướp nhà, đất; là những công nhân bị bóc lột sức lao động; là những trí thức lên tiếng xây dựng xã hội thì bị bỏ tù; là những ngư dân bị Tầu cướp bóc, giết hại mà CSVN không làm gì để bênh vực; là những tăng ni Bát Nhã bị đánh đập, đuổi khỏi cơ sở tu trì; là những Giáo dân bị đánh bể đầu khi bảo vệ Thánh Giá Chúa; là những cô gái bị bán ra nước ngòai để phục vụ tình dục; là những nữ sinh vị thành niên bị ép tình dục như vụ việc đang xẩy ra tại Hà Giang. Họ là những đồng bào gần nhất trong cộng đồng xã hội của chúng ta hiện nay.

Đối với những người này của Cộng đồng Xã hội, hãy mang cái nhìn đối thọai, thông cảm và hiệp thông đến với họ. Nền tảng của ĐỐI THỌAI là tình yêu thương. Việc đối thọai đối với đồng bào này là yêu thương họ, đến với họ để trợ lực khi họ phải chịu những bất công.

Đúng như lời Hy Mẫn đã nhắc lại tinh thần Đối Thọai của Vatican II là dành cho mọi người thuộc CỘNG ĐỒNG XÃ HỘI, nhưng Hy Mẫn đã thực hiện đến mức nào ?

Trong hai câu nói mà Hy Mẫn nhắc ra trên đây, không có từ nào nhắc đến Nhà Nước, đến đảng CSVN độc tài trị dân với những bất công, đàn áp dân với vũ lực và nhà tù. Công Đồng Vatican II không khuyên ta rõ rệt là Đối Thọai với một đảng Chính trị, một Nhà Nước độc tài chỉ tìm mọi cách cai trị cộng đồng xã hội như đồ dùng vô tri không còn nhân phẩm nữa. Lời giáo huấn của Vatican II là đối thọai với mọi người thuộc Cộng đồng Xã hội, nhưng Hy Mẫn chỉ hiểu rằng đó là lời khuyên đối thọai với một đảng phái Chính trị độc tài. Việc hiểu sai lời dậy của Công Đồng Vatican II là vô tình hay đó là hữu ý xử dụng lời khuyên cao đẹp của Công Đồng trong mục đích bênh đỡ cho một đảng phái, một Nhà Nước đang làm bất công, tham nhũng và cướp bóc.

Cho dù vô tình hay hữu ý trích dẫn Giáo Huấn Công Đồng Vatican II, thì Hồng y Mẫn cũng phải xét những điểm sau đây làm điều kiện cho ĐỐI THỌAI:

Người đối thọai với mình có THIỆN CHÍ đối thọai hay không? Chúa Giêsu không bao giờ đối thọai với quân Pharisiêu giả hình vì thâm tâm của chúng chỉ mưu mô lừa người khác. Chúa mang cứu rỗi cho những ai có thiện tâm mà thôi.

Mục đích đối thọai mang đến cái gì ? Cộng đồng Xã Hội mong muốn đi tới những điều tốt hơn cho xã hội, nhưng CSVN dùng chiêu bài đối thọai như làm yên đòi hỏi thăng tiến xã hội của dân, để họ tiếp tục giữ độc quyền gây thêm tội ác cho xã hội.

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 04.02.2010


Vietnam's New Money



Bài "Vietnam's new money" trên báo Foreign Policy ngày 21 tháng một năm 2010:

Một làn sóng của sự giàu sang phú quý và quyền lực đang làm thay đổi bộ mặt quốc gia xã hội chủ nghĩa này. Nhưng, trong khi những nhà hoạt động dân chủ đang bị tù đày và hệ thống quyền lực cứ tiếp tục xiết chặt, "bàn tay mạnh mẽ" của Đảng Cộng sản có thể biến những tiến bộ về kinh tế thành một thảm họa về mặt xã hội.



Ngày 16 Tháng 11 năm 2008,tại Caravelle, khách sạn sang trọng đầu tiên của thành phố Hồ Chí Minh, nơi từng là chổ cư ngụ của các nhà báo công tác thời "chiến tranh Mỹ", hai nhà doanh nghiệp mới của Việt Nam đã kết hôn Chú rể là Nguyễn Bảo Hoàng, 36 tuổi, tổng quản lý của một công ty đầu tư, IDG Ventures Việt Nam, và cô dâu của ông đã 27 tuổi, tên Nguyễn Thanh Phương, chủ tịch của một công ty đầu tư, VietCapital. Hai người đứng đầu hai công ty, họ chịu trách nhiệm kiểm soát nguồn vốn khoảng $ 150,000,000 đô la từ các khoản đầu tư tại Việt Nam.

Nhưng đám cưới này đâu phải chỉ là một câu chuyện về tiền bạc mới tại Việt Nam. Nguyễn Thanh Phương đâu phải chỉ là một chuyên viên ngân hàng đầu tư xòang xĩnh- mà cô là con gái của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Người đàn ông cô lấy làm chồng chính là một công dân Mỹ, con của một người đã chạy trốn Việt Nam năm 1975 để trốn thoát gông cùm cộng sản - bây giờ trở về cưới con gái của một trong số những tên cộng sản đó.

Cuộc hôn nhân của họ gói trọn nhiều yếu tố của một "kiểu mẫu" Việt Nam mới, bất kể một làn sóng mới của sự giàu có, Đảng Cộng sản vẫn còn chi phối cả các lãnh vực kể cả công cộng lẫn tư nhân. Nhiều doanh nghiệp "tư nhân" hoặc là của nhà nước trước đây (DNNN) hay hiện nay vẫn còn có một số quyền sở hữu nhà nước,còn phần lớn vẫn do đảng viên nắm giữ. hầu hết những người nắm giữ các chức vụ điều hành cao cấp trong các hãng tư nhân đều thuộc về các đảng viên, thân nhân hay bạn bè của họ. Các đảng viên (Cộng sản) ưu tú đang biến đổi chủ nghĩa tư bản Việt Nam thành một doanh nghiệp mang tính cách gia đình. Và nếu trong tuần này, sự kiện bốn nhà hoạt động dân chủ bị kết án về tội lật đổ chính quyền có đưa ra dấu hiệu gì chăng nữa, việc củng cố quyền lực đảng là một sự phát triển rất đáng sợ cho tương lai của Việt Nam.

Có rất nhiều thí dụ về mối quan hệ ruột thịt giữa (những người nắm) tiền bạc và quyền lực tại Việt Nam hiện nay: Một trong những người giàu có nhất của Việt Nam là Trương Gia Bình,chủ tịch của FPT, một công ty công nghệ thông tin lớn nhất ở quốc gia bản địa. Ông cũng là người duy nhất ở Việt Nam thường được gọi với thủ ngữ "cựu rể" vì ông đã từng kết hôn với con gái của Võ Nguyên Giáp - từng được coi là anh hùng trong chiến tranh, tướng lãnh quân đội đã về hưu, và cựu phó thủ tướng. Trong thập niên 1990, nếu một cơ sở làm ăn cần người liên hệ trong số các công ty có dính dáng đến quân đội, hoặc trong ngành xây dựng hoặc thông tin, thì Giáp là người họ cần phải đến gặp.

Một thí dụ khác nữa là Đinh Thị Hòa, người Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp MBA của Đại học Harvard. Vào đầu thập niên 1990, khi Ngân hàng Thế giới muốn kích thích sự phát triển trong địa hạt tư nhân tại Việt Nam, quốc gia này đã được trao tặng nhiều học bổng cho những người trẻ, trong số đó có Hòa. Khi về nước, Hòa đã sử dụng kiến thức vừa tìm thấy của mình để thành lập Galaxy, một công ty tư vấn cho hầu hết các nhà hàng muốn tổ chức theo phong cách thương mại Tây phương, một rạp chiếu phim lớn ở TP Hồ Chí Minh, và một công ty sản xuất phim.

Nhìn từ nhiều khía cạnh thì đây là là một mô hình của một doanh nghiệp thành công mà trong đó tư nhân làm chủ. Nhưng Galaxy đâu phải từ đâu lù lù xuất hiện, mà nó là một trong những công ty được thành lập bởi con cháu của những đảng viên gộc. Khi Ngân hàng Thế Giới chọn Hoa để trao tặng học bổng, cha cô đang làm tới chức thứ trưởng bộ ngoại giao VN.

Câu chuyện về tự do hóa nền kinh tế của Việt Nam có thể dùng câu nói của Hồ Chí Minh về tình đoàn kết dân tộc dể diễn tả, "thành công, thành công, đại thành công." Năm 1993, theo số liệu của chính phủ VN, gần 60 phần trăm dân số sống dưới mức nghèo khổ. Đến năm 2004 con số đó đã giảm xuống còn 20 phần trăm. Coi như quốc gia này đã đáp ứng hầu hết các mục tiêu phát triển do Liên hiệp quốc đề ra gọi là Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, họ đã thoát ra khỏi cấp bậc của các nước nghèo nhất để tham gia vào nhóm của "những quốc gia với thu nhập hạng trung." Đời sống nhân dân được thăng hoa, chân trời của họ được mở rộng, và tham vọng của họ cứ thế lớn dần.

Tuy nhiên, vấn đề kiểm soát của nhà nước trên sự phát triển của Việt Nam là điều trở ngại. Cuộc hôn nhân giữa đảng và quyền lợi tư nhân đang méo mó nền kinh tế để phục vụ ý muốn của một số người thay vì phục vụ cho nhiều người. Và hệ thống chủ nghĩa xã hội bè phái đang trở thành một mối đe dọa cho sự ổn định trong tương lai của Việt Nam. Việt Nam đang làm nguy hại tới số phận của nhiều con em tiêu biểu mà Ngân Hàng Thế Giới tài trợ trước đây-- khi sự thăng hoa khi trước được tiếp nối bằng một cuộc phá sản

Source: http://www.vietcatholic.net/News/Html/76728.htm
====
    Vietnam's New Money
An influx of wealth and privilege is shaking up this socialist country. But, as pro-democracy activists are jailed and the network of power tightens, the Communist Party's strong hand may be turning economic progress into a social disaster.

BY BILL HAYTON | JANUARY 21, 2010

On Nov. 16, 2008, two of Vietnam's new entrepreneurs were married in the Caravelle, Ho Chi Minh City's first luxury hotel, once home to journalists covering the "American War." The groom was 36-year-old Nguyen Bao Hoang, managing general partner of an investment firm, IDG Ventures Vietnam, and his bride was 27-year-old Nguyen Thanh Phuong, chairperson of another investment firm, VietCapital. Between them, their two companies controlled around $150 million of investments in Vietnam.

But the wedding wasn't just another story about new money in Vietnam. Nguyen Thanh Phuong isn't just an investment banker -- she's the daughter of the prime minister, Nguyen Tan Dung. The man she was marrying is an American citizen, the child of parents who fled Vietnam in 1975 to escape the communists -- now returned to wed the daughter of one of them.

Their union encapsulates many elements of the new Vietnam where, despite an influx of new wealth, the Communist Party still dominates both the public and private sectors. Many "private" businesses are either former state-owned enterprises (SOEs) or still have some state ownership, and most are still run by party members. Most of the controllers of the commanding heights of the private sector are party appointees, their family, or their friends. The Communist Party elite are turning Vietnamese capitalism into a family business. And if this week's conviction of four pro-democracy activists on subversion charges is any sign, the consolidation of party power is a very frightening development for Vietnam's future.

There are many examples of the family relationship between money and power in today's Vietnam: One of Vietnam's richest men, Truong Gia Binh, is chairman of the country's biggest indigenous IT firm, FPT. He's also the only man in Vietnam routinely referred to with the prefix "former son-in-law" because he was once married to the daughter of Vo Nguyen Giap -- war hero, retired army commander, and former deputy prime minister. During the 1990s, if a business needed contacts in the army's extensive array of companies, or in construction or communications, Giap was the man to see.

Another example is Dinh Thi Hoa, Vietnam's first Harvard University MBA graduate. In the early 1990s, when the World Bank wanted to stimulate private-sector development in Vietnam, it awarded many scholarships to young people, including Hoa. On her return, Hoa used her newfound knowledge to found a company called Galaxy that now owns a PR agency, most of the good Western-style restaurant chains in the country, a big cinema in Ho Chi Minh City, and a film production company. In many ways it's a model of private-sector success. But Galaxy didn't just spring up out of nowhere. It's one of the many firms created by the children of the party elite. When the World Bank chose Hoa for the scholarship, her father was deputy foreign minister.

The story of Vietnam's economic liberalization has been, to quote Ho Chi Minh on national unity, "success, success, great success." In 1993, according to government figures, almost 60 percent of the population lived below the poverty line. By 2004 that figure was down to 20 percent. The country has met most of its Millennium Development Goals, development targets set by the United Nations, escaping the ranks of the poorest countries to join the group of "middle-income states." People's living standards are soaring, their horizons are widening, and their ambitions are growing.

But the state's control over Vietnam's expansion is troublesome. The marriage between party and private interest is distorting the economy toward the wants of the few rather than the needs of the many. And networks of crony socialism are becoming a threat to Vietnam's future stability. Vietnam risks the fate of many of the World Bank's previous poster children -- boom followed by bust.

The biggest state corporations are setting up unaccountable funding channels to finance projects with minimal economic logic. By June 2008, 28 SOEs had spent around $1.5 billion establishing or buying controlling stakes in fund management companies, stock brokerages, commercial banks, and insurance firms. Three-quarters of Vietnam's finance companies are now owned by the biggest SOEs (those known as general corporations). Many also have bought securities companies dealing in shares. Add all this together, and several of Vietnam's biggest general corporations have the potential to become self-financing black boxes with opaque funding arrangements.

Although the days of the soft loan from a state bank are largely past, there are plenty of other ways to channel money to SOEs. The state's Vietnam Development Bank (subsidized by aid from foreign governments) and its Social Insurance Fund (expected to become the biggest investor in the country by 2015) seem to act as unaccountable slush funds for the benefit of the state sector. Clearly SOEs have a significant, if not necessarily bright, future ahead.

The Vietnamese Communist leadership wants to run the country along the lines of Gaullism in France -- where the commanding heights of the public and private sectors are coordinated by an elite trained in such institutions as the École Nationale d'Administration. Under "Vietnamese Gaullism," a behind-the-scenes elite (the party) is supposed to set the overall direction of policy and then delegate its implementation to the state (which is controlled by the party). The government then draws up the laws and uses whatever resources are available to it -- the state bureaucracy, SOEs, the private sector, foreign investors, international donors, etc. -- to see the policy executed. Behind the scenes, the party monitors, corrals, and presses the various actors to make sure that its policy is followed. That, at least, is what the party would like to have happen. The reality is usually something quite different.

With easy money around, it's not hard to bribe patrons, officials, and regulators to turn a blind eye to breaches of the law. The party members in charge of the SOE tail end up wagging the party policy dog. But this isn't the whole story. What is remarkable about Vietnam is the way, at moments of crisis, the Communist Party can discipline its errant members and bring the economy back under central control. But how much longer can it do so?

Until recently, Vietnam had shared the benefits of growth more equitably than any of its neighbors. The party's socialist orientation still meant something. But in the future, redistribution will mean taking wealth away from the party's biggest supporters. Does the party leadership have the ability to stand up to its newly rich citizens and demand they hand over part of their wealth through taxation to benefit poorer people in faraway provinces? Do the convictions this week signal that the corrupt networks of party, power, and privilege have already gotten out of control? If so, Vietnam's new money could collapse under its own weight.

Source: http://www.foreignpolicy.com/articles/2010/01/21/vietnams_new_money


Tại sao thành phần trí thức Việt Nam vẫn tiếp tục bị tù tội ? - TT Thích Viên Định

TT Thích Viên Định

PARIS, ngày 3.2.2010 (PTTPGQT) - Vụ án xử các nhà hoạt động dân chủ vừa qua gây công phẫn trong dư luận quốc nội và quốc tế, vì tính chất giả trá của phiên tòa. Nhân dịp này, Thượng tọa Thích Viên Định, Phó Viện trưởng kiêm Tổng thư ký Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất viết bài bình luận về sự kiện tại sao thành phần trí thức trong nước không được phục vụ đất nước mà lại bị bắt giam, tù tội ? Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin đăng tải bài bình luận ấy sau đây:

Cuộc chiến ở Việt Nam chấm dứt đã 35 năm, vậy mà đất nước, mọi mặt, vẫn chậm tiến. Kinh tế vẫn sút kém, không theo kịp các nước trong khu vực; văn hoá, đạo đức, xã hội ngày một suy đồi; trộm cắp, cướp giật, tiếp tục gia tăng; tham nhũng, hối lộ đã trở thành quốc nạn. Bên cạnh đó, nạn ngoại xâm, thế lực thù địch Bắc phương, hàng ngàn năm nay, vẫn tiếp tục âm mưu gặm nhắm, xâm chiếm đất đai, biển đảo của tổ quốc. Trong nước, tình trạng, các thành phần tôn giáo, trí thức, văn nghệ sĩ, luật sư, bác sĩ, sinh viên, học sinh, những nguồn sinh lực của đất nước, là lực lượng nòng cốt lãnh đạo, hướng dẫn dân tộc, vẫn tiếp tục bị đánh phá, khống chế, cô lập, quản thúc, tù tội, bị gán ghép bằng nhiều tội danh.

Tại sao đất nước Việt Nam ta lại rơi vào hoàn cảnh tồi tệ như vậy ? Hay đây là tái hiện chính sách “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” của chủ thuyết hận thù giai cấp, Mác-Lê nin, được áp dụng tại Miền Bắc Việt nam vào thập niên 50, trong Thế kỷ trước ? Tầng lớp trí thức là tầng lớp dẫn đầu trong mọi thăng tiến của dân tộc. Nhưng, hết người này đến người khác, hết lớp này đến lớp khác, bị đưa vào tù. Tình trạng đó, kéo dài đã trên 50 năm. Đó là lý do tại sao chiến tranh chấm dứt đã 35 năm mà đất nước vẫn nghèo nàn, lạc hậu, kém xa các nưởc trong khu vức và trên thế giới. Nếu cứ tiếp tục tình trạng như vậy, tương lai tổ quốc Việt Nam sẽ đi về đâu ?

Vừa qua, rất nhiều người trí thức, lại tiếp tục bị các toà án cho vào tù, vì bị gán ghép tội danh : “hành động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” Có người bị kết án lên đến 16 năm tù, và 4 năm quản thúc sau khi mãn hạn tù.

Có thật những ngưởi trí thức, doanh nhân vừa rồi đã hành động nhằm lật đổ chính quyền không ? Họ đã lập quân đội, trang bị vũ khí, hay tổ chức bạo động ? Không thấy toà án nào đề cập đến các việc này ?

Bằng những lời nói, những bài viết, để góp ý, một cách ôn hoà, với Nhà cầm quyền cộng sản, nhằm ổn định xã hội, phát triển kinh tế, làm giàu đất nước, chống ngoại xâm đang ngày đêm rình mò tìm cách thôn tính tổ quốc Việt Nam, lại bị xem là “hành động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân ?” Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã làm điều gì khuất lấp, nên có tư tưởng, xem những ý kiến đề nghị của người dân là hành động nhằm lật đổ ? Chỉ nói và viết, lại có thể lật đổ được chính quyền hay sao ?

Không chấp nhận hành động lật đổ, bằng bạo động, nếu có, vậy Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam muốn thăng tiến, thay đổi xã hội, bằng cách nào ? Chiến tranh đã chấm dứt 35 năm rồi, đất nước vẫn nghèo đói, các tệ nạn xã hội ngày càng nhiều, Nhà cầm quyền bắt người dân phải chịu đựng bao lâu nữa ?

Đảng cộng sản muốn nhân dân Việt Nam phải chấp nhận sống dưới một chính quyền độc tài, độc đảng, toàn trị, theo kiểu chế độ phong kiến ngày xưa ? Hay muốn nhân dân phải tổ chức tranh cử công bằng, theo tiêu chuẩn tự do, dân chủ, công bằng, đúng như điều lệ Hiến chương Liên Hiệp Quốc, mà Việt Nam đã ký kết tham gia ? Điều này, chưa thấy Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam công bố rõ ràng. Cũng chưa trưng cầu ý kiến toàn dân.

Một nhà nước, vừa ký kết gia nhập Liên Hiệp Quốc, nghĩa là đồng ý điều hành đất nước theo tiêu chuẩn Tự do, Dân chủ, Nhân quyền của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, lại vừa thực hiện những luật lệ, chống trái, ngay cả với Hiến Chương hiện hành của Việt Nam, cũng như chống trái với những điều luật của Công ước Quốc Tế về các Quyền Chính Trị và Dân sự của Liên Hiệp Quốc, tổ chức mà mình ký kết tham gia. Ở điểm này, đã có sự lập lờ đánh lận con đen.

Người dân chỉ đưa ra ý kiến đóng góp, một cách ôn hoà, lại bị bắt. Vậy trước năm 1988, ở Việt Nam cũng có đa đảng, đảng Xã Hội và đảng Dân chủ. Những đảng phái đối lập với Nhà cầm quyền cộng sản khi ấy, không thấy đảng viên nào bị gán tội. Có tội hay không tội là do Nhà cầm quyền độc tài tuỳ hứng quyết định ? Như vậy, người dân Việt Nam biết đâu mà hành xử cho đúng ? Nay mới rõ là hai đảng Xã hội và Dân chủ kia chỉ là các đảng bù nhìn của chế độ, và dù bù nhìn cũng bị giải tán !

Trong cuộc họp Kiểm điểm Thường kỳ toàn diện về Nhân quyền, được tổ chức theo định kỳ, vừa qua, của Liên Hiệp Quốc, có rất nhiều quốc gia đã góp ý với Việt nam, nên sửa đổi những điều luật chưa phù hợp với Hiến Chương của Liên Hiệp Quốc và các Công Ước Quốc về các Quyền Dân sự và Chính Trị, chống trái cả với Hiến Chương Việt Nam hiện hành, nhưng Nhà cầm quyền Việt Nam vẫn khăng khăng không chịu sửa đổi.

Người dân góp ý, chỉ để làm thăng tiến cuộc sống, thăng tiến xã hội, lại bị ghép tội “hành động lật đổ chính quyền nhân dân”. Tại sao người dân, nhất là những thành phần trí thức lại không có quyền ăn nói, không có quyền phát biểu ? Nhà cầm quyền cộng sản, chỉ muốn dân tộc Việt Nam, ngậm miệng, làm thinh, giao số phận dân tộc và vận mệnh tổ quốc Việt Nam cho một đảng chính trị độc tài, mà đảng này lại theo tư tưởng ngoại lai, vô sản, vô thần, lạc hậu của Mác-Lê Nin, rắp tâm đưa tổ quốc và dân tộc Việt Nam đi đâu tuỳ thích ?

Các nước văn minh dân chủ tiên tiến ngày nay, không những, người dân có quyền góp ý, yêu cầu, điều này, điều nọ, mà còn có quyền lập ra những đảng phái đối lập để tranh cử công bằng. Trong kinh tế, chính trị hay bất cứ ngành nghề nào khác, cần phải có sự cạnh tranh công bằng, mới tiến bộ.

Việc đàn áp, khủng bố, tù tội, những người tranh đấu, bất đồng chính kiến, chỉ thấy được sử dụng trong các Nhà cầm quyền thực dân, những kẻ xâm lăng, đô hộ. Các chính quyền dân cử, hợp pháp “của dân, do dân, vì dân” không được phép dùng các biện pháp bạo lực, tù tội, đàn áp, để khủng bố những người dân bất đồng chính kiến, cũng như các đảng phái đối lập.

Tổ quốc Việt nam ta với bốn ngàn năm văn hiến, lại không có tư tưởng nào, khả dĩ, dẫn đạo hướng đi cho dân tộc hay sao, lại phải vay mượn một chủ thuyết, tư tưởng ngoại lai, xa lạ với văn hoá dân tộc ?

Nhờ mạng thông tin tối tân, nhanh chóng hiện nay, người dân Việt Nam đã hiểu biết, có nhu cầu một cuộc sống, vừa thích hợp với văn hoá dân tộc, vừa có đầy đủ các tiêu chuẩn tự do, dân chủ, nhân quyền như các dân tộc văn minh khác trên thế giới. Việc đó có gì là sai lầm, phải bị tù tội ? Không lẽ, dân tộc Việt Nam, lúc nào, cũng phải đứng bên lề của thế giới văn minh ? Dân Việt Nam không phải là con người hay sao ?

Đương nhiên, người dân Việt, với tinh thần bất khuất, không bao giờ chịu nhục nhã, cúi đầu im lặng, chấp nhận một cuộc sống mất tự do, không có nhân quyền, chỉ có miệng ăn, không có miệng nói. Nên càng ngày càng có nhiều người tiếp tục tranh đấu, và sẽ còn có nhiều người, nhất là giởi trí thức, tôn giáo, văn nghệ sĩ, bác sĩ, luật sư, sinh viên, học sinh, công nhân, nông dân, tiếp tục bị tù tội.

Đến bao giờ dân tộc Việt Nam mới thoát khỏi cuộc sống không có tự do, dân chủ, nhân quyền, đầy đau khổ, tối tăm này ?

Cuộc chiến giữa thiện và ác, giữa nô lệ và tự do, giữa độc tài và dân chủ vẫn tiếp tục cho đến ngày thành công.

Thích Viên Định