Sunday, June 28, 2009

Một Lũ Khôn Nhà Dại Chợ! - Lê Minh

Lê Minh

Trong những năm gần đây, số lượng công nhân Trung Quốc đến Việt Nam làm việc ngày càng đông. Hệ quả là đã dẫn đến nhiều vụ ẩu đả, đánh người Việt Nam và xem thường công an, chính quyền tại địa phương. Theo bản tin ngày hôm qua trên VietNamNet thì hàng trăm công nhân Trung Quốc đã “quậy tưng” ở khu vực chung quanh công trường dự án dây chuyền 2 Nhà máy xi măng Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Vụ việc mà các phóng viên của VietNamNet tường trình thật ra đã xảy ra từ 6 tháng về trước. Đó là ngày 28/12/2008, hôm đó có trận bóng đá chung kết giải AFF giữa Việt Nam và Thái Lan. Theo vợ chồng anh Nguyễn Văn Len và chị Lê Thị Nghị, là người trực tiếp can dự vào vụ này kể lại thì sau khi tan trận bóng đá hôm đó có 6 công nhân Trung Quốc vào quán mua thuốc lá, bóc ra nhưng không trả tiền, rồi xô xát với chị Nghi là vợ của anh Đen.

Bước vô nhà thấy có một nhóm khách 6 công nhân Trung Quốc bóc gói thuốc ra mà không trả tiền lại còn xô xát với vợ mình nên anh Đen phải đuổi bọn người này ra khỏi quán. Ngay lập tức bọn người này nhảy vào đánh luôn anh Đen. Do đó hai vợ chồng anh buộc phải dùng gậy đuổi bọn người này ra ngoài.

Nhóm người này sau đó đã quay trở lại với một lực lượng lên đến 40 người. Thấy thế anh Đen liền cầu cứu hàng xóm, nhưng bọn người này hung hãn, đánh vợ chồng anh và cả hàng xóm. Chưa dừng ở đó, nhóm công nhân đã tăng cường thêm lực lượng lên đến 200 người, ngăn chận các ngõ ra vào của xóm, đánh đập những người thân trong gia đình anh Đen, cũng như tất cả những ai là người Việt Nam mà chúng bắt gặp. Cửa kính của các nhà dân trong khu vực này đều bị chúng đập vỡ, nhà cửa bị phá phách.

Chi Dương Thị Đào, một hàng xóm của anh Đen thuật lại: “Hễ nhà ai cửa mở hoặc đèn sáng là bọn chúng vào đập phá hết”. Chị Đào Thị Minh cũng cho biết khi ấy vì nhóm công nhân TQ này quá đông, cho nên “ai ra đường thấy chúng đều phải chạy, chứ không dám chống lại,...”.

Đoạn video của VietnamNet cho thấy cảnh hàng trăm công nhân Trung Quốc ùa ra đường, tay cầm gậy gộc cuốc xẻng đập phá mọi thứ. Những cảnh chiếu hiện trường sau khi công nhân Trung Quốc rút đi cũng cho thấy một quang cảnh tang hoang, nhà cửa đồ đạc tan nát.

Đêm 28/12/2008: hàng trăm công nhân Trung Quốc tại công trình nhà máy xi măng Nghi Sơn ùa ra đường trang bị gậy gộc đập phá, đánh đập người đi đường ... hò hét, xông vào nhà dân đập phá. Đó chỉ là một trong nhiều vụ việc lộn xộn do công nhân Trung Quốc gây ra tại đây, vì theo lời của Thượng tá Nguyễn Như Thân, Phó phòng an ninh kinh tế Công an tỉnh Thanh Hoá cho biết còn có nhiều vụ việc nghiêm trọng xảy ra trước đó nữa. Ông Thân tiết lộ vào ngày 24/09 năm ngoái, bên trong công trường do nhà thầu Trung Quốc quản lý đã bắt được 2 kẻ trộm là người địa phương. Khi được thông báo sự việc, công an từ đồn Nghi Sơn đã đến để giải giao 2 kẻ trộm về đồn lấy khẩu cung. Tuy nhiên nhà thầu Trung Quốc đã không giao người mà còn đưa ra hơn 50 công nhân để trấn áp lực lượng công an đồn Nghi Sơn, đòi hỏi phía công an phải làm theo yêu cầu của phía công nhân Trung Quốc (không nghe ông Thân cho biết là phía công nhân Trung Quốc đã yêu cầu gì).

Tiếp đến vào tháng 11/2008, có một số người Việt Nam ở địa phương trèo rào vào bên trong công trình để đánh cắp sắt thép, đã bị phát hiện và bị công nhân Trung Quốc vây bắt, đánh đập. Mặc dầu phía công an địa phương có yêu cầu giao người để giải quyết nhưng nhà thầu Trung Quốc đã tự xử bằng cách trói chặt và treo những người này lên cổng, để qua đêm rồi mới thả ra.

Một vụ việc khác được ông Thân kể lại là vào tháng 4 năm nay, trong lúc những công nhân của Tổng Cty Xây dựng Hà Nội đang thao tác lắp đặt ở bên trên dàn giáo, và bên dưới là các công nhân của Cty vật liệu xây dựng CNBM (Trung Quốc) đang thi công lắp đặt thiết bị cơ, điện ở bên dưới thì một công nhân VN lỡ đánh rơi một sợi dây thừng, khiến cho một công nhân Trung Quốc giật mình, ngã người ra phía sau, khiến người công nhân này bị xây sát nhẹ. Ngay sau đó, người công nhân Trung Quốc bị thương nhẹ đã được Tổng Cty Xây dựng Hà Nội đưa đến bệnh viện điều trị, kể cả mọi chi phí khác. Tưởng chỉ dừng ở đó, phía nhà thầu Trung Quốc đã yêu cầu phải bồi thường thêm cho công nhân này $1,200 Tệ nữa nhưng phía Tổng Cty Xây dựng Hà Nội đã từ chối. Ngay lập tức nhà thầu Trung Quốc đã huy động toàn thể công nhân, với ống tuýp sắt trong tay bao vây ban quản lý dự án của Tổng Cty Xây dựng Hà Nội,...

Tình trạng công nhân Trung Quốc ngông nghênh, quậy phá đã diễn ra tại hầu hết các địa phương có nhà thầu Trung Quốc làm việc.

Tại công trường xây dựng nhà máy xi măng Công Thanh huyện Nhơn Trạch cũng liên tiếp xảy ra nhiều vụ lộn xộn. Sau giờ làm việc, các công nhân Trung Quốc ghé vào các quán cafe, quán nhậu ở đây. Từ đó đã xảy ra nhiều vụ ẩu đả huyên náo giữa công nhân Trung Quốc và người Việt Nam. Chủ một cửa hàng tạp hoá và dịch vụ cho thuê xe gắn máy ngay trước nhà máy xi măng Công Thanh kể: “Có bữa mẹ tôi cho một công nhân Trung Quốc thuê xe với giá 50.000 đồng/ngày. Anh ta đi liền 3 ngày mới về nhưng không chịu trả tiền mà còn tính đập phá xe của tôi. Thấy vậy, tôi giảm giá xuống còn 100.000 đồng cho cả 3 ngày nhưng anh ta vẫn không chịu, quay lại đánh cả tôi, đuổi tôi chạy lòng vòng khắp nhà…”. Công nhân Trung Quốc thuê xe máy chở 3 không đội mũ bảo hiểm, đụng vào dân địa phương rồi bỏ chạy. Khi bị chặn lại thì bọn họ lại hùng hổ đuổi đánh dân, gây náo loạn cả khu vực.

Mới đây một nhóm công nhân Trung Quốc đã đem thuốc lắc đến một quán Karaoke ở phường Ninh Xá, TP Bắc Ninh mở nhạc lớn, nhảy nhót giữa đêm khuya, gây náo động cả một khu vực. Tuy Công an TP Bắc Ninh có đến làm việc, đưa nhóm người này về đồn, nhưng sau đó đã thả ra mà không xử lý gì cả.

Hôm 21/6, một nữ lao công VN tại khu đô thị Mỹ Đình 1, khi vừa vào thang máy để làm việc thì bị một tên công nhân Trung Quốc nhảy tới ôm chặt và toan tính dở trò đồi bại. May nhờ lanh trí, bấm nút mở cửa thang máy nên chị đã thoát nạn. Tên dâm tặc này bị bắt sau đó, nhưng không nghe nói công an đã xử phạt tên này như thế nào.

Trên đây chỉ là một số hệ lụy “nhỏ” từ sự hiện diện của hàng ngàn công nhân Trung Quốc tại một số công trình trên đất Việt Nam hiện nay. Thử hỏi, khi dự án Bauxite ở Nhân Cơ, Đắc Nông bắt đầu với khoảng 5-6 ngàn công nhân Trung Quốc hiện diện tại địa phương này thì các tác động xã hội vào môi trường chung quanh sẽ như thế nào. Đó là chưa kể đến mối nguy về an ninh quốc phòng mà các nhân sĩ trong và ngoài nước đang lên tiếng báo động.

Có một điều lạ là chuyện công nhân Trung Quốc đập phá ở Nghi Sơn, Thanh Hóa đã xảy ra từ 6 tháng trước mà cho đến nay mới được đem lên báo la sao? Còn một điều lạ nữa là khi những công nhân Trung Quốc làm những công việc phổ thông này “quậy tưng” tại địa phương nơi họ làm việc thì không mấy khi thấy công an xuất hiện nhanh chóng để “bắt khẩn cấp” cho người dân nhờ. Trong khi đó, đối với người dân trong nước thì công an lại thẳng tay đàn áp dã man, không từ nan bất cứ thủ đoạn gì, cho dù đó là những người trí thức yêu nước nồng nàn.

Thấy những cảnh này mới ngán ngẩm cái nhà nước CSVN và công an đúng là một lũ khôn nhà dại chợ!

Lê Minh

TƯƠNG QUAN GIỮA VĂN HÓA VÀ CHÍNH TRỊ - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh
Nguồn: http://hoivanhoanguoiviettudo.com/

Bài nói chuyện trực tiếp của Đinh Lâm Thanh trên diễn đàn Paltalk ‘ Người Dân Việt Nam Với Hiện Tình Đất Nước’ vào ngày thứ Ba, 23 tháng 6 năm 2009, lúc 18,00 giờ (Paris), 9,00 AM (Californa), 11,00 AM (Houston), 12,00 AM (Washington DC) và 12,00 giờ đêm tại Việt Nam.

Kính thưa Quý Vị,

Trước tiên xin kính chào ban điều hành cũng như thính giả của Diễn Đàn ‘Người Dân Việt Nam Với Hiện Tình Đất Nước’ đang theo dõi chương trình ngày hôm nay. Ban điều hành diễn đàn đã giới thiệu sơ qua về cá nhân tôi, để khỏi mất thời gian, tôi xin phép không lặp lại và hôm nay, lần đầu tiên tôi rất hân hạnh xuất hiện trên diễn đàn nầy.

Kính thưa Quý Vị, đáp lời mời của ban tổ chức, tôi nhận lời cộng tác, bằng cách góp một vài ý kiến thô sơ và hạn hẹp trong khả năng của tôi vào mỗi THỨ BA hàng tuần, giờ giấc giống như ngày hôm nay. Mỗi kỳ tôi xin phép trình bày những đề tài khác nhau, như đề cập đến Chính Trị, Văn Hóa và những chuyện Thời Sự có liên quan đến Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại cũng như ở quê nhà. Đây là những ý kiến của tôi, nếu có gì sai sót thì tôi sẽ chịu trách nhiệm về những gì mà tôi phát biểu. Cũng như tôi đã trình bày ở trên, đây chỉ là những ý kiến thô sơ và nông cạn, tôi kính mời tất cả Quý Vị vào hướng dẫn và giúp đở để cá nhân tôi được thông suốt thêm đồng thời phục vụ thính giả càng ngày càng đắc lực.

Đến với quý vị lần nầy để mở đầu chương trình hàng tuần, tôi hân hạnh trình bày đề tài ngày hôm nay: Tương Quan Giữa Văn Hóa Và Chính Trị.

Sau khi dứt bài, tôi sẽ rất hân hạnh đón tiếp ý kiến của Quý vị.

Kính thưa Quý Vị,

Gần đây nhiều nhà trí thức cũng như một vài tổ chức văn học nghệ thuật đã lên tiếng kêu gọi rằng hoạt động văn hóa phải hoàn toàn tách khỏi môi trường chính trị. Vừa nghe qua thì đúng, là văn hóa phải vượt ra ngoài tất cả xung đột ý thức hệ. Nhưng nếu để ý suy nghĩ, chủ trương nầy xuất phát từ nhà nước Việt Nam, thì đây chính là một âm mưu chính trị được đưa ra để ru ngủ cộng đồng người Việt hải ngoại không ngoài mục đích để phục vụ chế độ mà nhiều diễn đàn, hội văn hóa thường lên tiếng cổ võ. Cộng sản Việt Nam ra lệnh cho các cơ sở thuộc các tổ chức văn hóa của Hà nội ở nước ngoài nhằm thi hành nghị quyết 36. Tuy nhiên trong đó có nhiều nhà trí thức, các hội đoàn văn hóa đã cố ý hoặc vô tình lên tiếng ủng hộ cổ võ và cho âm mưu ru ngủ người Việt tự do ở hải ngoại.

Tôi đồng ý rằng, nền văn hóa của một dân tộc phải vượt lên tất cả những vướng mắc nhất thời, nếu loay hoay vào những biến chuyển chính trị để tìm một hướng đi cho văn hóa, thì có thể chúng ta đã bước ra ngoài mục tiêu tốt đẹp nhằm phục vụ con người. Nhưng đó chỉ là lý thuyết, dù trong thời bình và dưới ảnh hưởng tự do dân chủ của một quốc gia đã có sẵn nền tảng văn minh vững chắc, tôi nghĩ rằng đôi lúc cũng không thể tách chính trị và vănhóa ra làm hai lãnh vực riêng biệt. Huống gì so với hiện tình đặc biệt của chúng ta, một đất nước cai trị bởi Cộng sản và dân tộc bị phân hóa làm hai với hai nền văn hóa chống đối nhau thì vấn đề tách rời chính trị ra khỏi văn hóa không thể xảy ra.

Thật vậy, lãnh vực văn hóa và chính trị của một dân tộc bị phân hóa làm hai bởi một cuộc chiến tranh ý thức hệ không ranh giới - như trường hợp Việt Nam của chúng ta - thì hai lãnh vực nầy cần phải được kết hợp, dung hòa đồng thời bổ túc lẫn nhau để bảo vệ và phát triển nền văn hóa nhân bản hầu đưa đời sống con người đến Chân Thiện Mỹ.

Một câu hỏi: Vậy dựa vào chế độ chính trị để làm nền tảng phát triển văn hóa, hay, cần phải dùng văn hóa để cãi tạo chế độ và xây dựng xã hội ?

Câu hỏi có hai phần:

- Thứ nhất: Cộng sản Việt Nam đã dựa vào chính trị để phát triển nền văn hóa đỏ, nghĩa là cộng sản Việt Nam đã dùng bao tử, kẽm gai, súng đạn và nhà tù để áp đặt lên đầu lên cổ người dân Việt Nam một nền văn hóa phi dân tộc, phi gia đình, phi đạo lý nhằm nhồi sọ và biến con người thành những thiêu thân dốt nát và sa đọa … để còn con đường ngoan ngoãn phục vụ chế độ để được no cái bao tử.

- Thứ hai: Cả dân tộc đã trên 60 năm bị cai trị bởi một chế độ tàn bạo, xã hội đảo lộn, đạo lý không còn, tình người thui chột và dân trí càng ngày càng mất thì cần phải tận dụng văn hóa để cãi tạo chế độ và xây dựng xã hội hay không ?

Và tôi xin trả lời ngay:

Đối với tình trạng đất nước chúng ta hiện nay, ngụy quyền Hà Nội đã dùng thủ đoạn chính trị để phát triển văn hóa đỏ hầu cai trị dân tộc Việt Nam là một âm mưu thâm độc của cộng sản mà tất cả chúng ta đều thấy. Vấn đề thứ hai là chúng ta cần phải xử dụng văn hóa nhân bản để đánh đổ chế độ cộng sản và xây dựng lại xã hội là một điều bắt buộc.

Như vậy, dù nói cách nào thì văn hóa và chính trị là hai hành động lúc nào cũng phải liên quan mật thiết với nhau. Đất lành sinh trái ngọt hoặc nói ngược lại, cây tốt khó mọc từ bùn dơ. Một chế độ chính trị tốt tự nhiên sẽ nẩy sinh một nền văn hóa tự do nhân bản và ngược lại một nền văn hóa nô bộc chắc chắn sẽ đưa chế độ càng ngày càng thêm độc tài thối nát. Do đó không thể kết luận rằng văn hóa phải tách khỏi ảnh hưởng chính trị.

Trước khi đề cập đến hai nền văn hóa riêng biệt cũng như hai khuynh hướng chính trị đối lập của cộng sản Việt Nam tại quốc nội cũng như người Việt Quốc Gia hải ngoại, xin quý vị đừng đơn giản hóa và đóng khung hai danh từ ‘văn hóa’ cũng như ‘chính trị’ trong một nghĩa hạn hẹp, mà đề nghị có một quan niệm bao quát rộng lớn hơn.

Như vậy không thể hạn chế hoạt động văn hóa của một dân tộc hoàn toàn nằm trong phạm vi văn chương, ngôn ngữ và nghệ thuật mà cần phải đề cập đến những vấn đề khác từ tình yêu quê hương, lịch sử lập nước và giữ nước, truyền thống anh hùng, phong tục tập quán đến tôn giáo, y phục, ẩm thực. Cũng vậy, đối với hành động chính trị, không nên gò bó bằng những hình thức bên ngoài như hội họp, xuống đường, biểu tình, hội thảo hay đóng góp tiền bạc giúp quê nhà mà phải nghĩ đến mục đích tối hậu của những hành động trên là phải tạo một tinh thần yêu nước, thương đồng bào, hướng về tổ quốc và lo cho đất nước trong tương lai. Vậy để được khách quan cần nghiên cứu những chi tiết và nhiều lãnh vực khác nhau trong đường hướng phục vụ đời sống tinh thần lẫn vật chất của con người để những người làm chính trị có một lối nhìn bao quát hơn. Đối với hành động văn hóa, nhất là hoàn cảnh chúng ta hiện giờ, cũng cần phải nới rộng phạm vi hoạt động ra, song song với các chương trình tranh đấu, xây dựng, bảo vệ lý tưởng, sự toàn vẹn quê hương và hạnh phúc của nhân dân Việt Nam để những suy nghĩ của người làm văn hóa khỏi bị lệch lạc.

Đề cập đến vấn đề văn hóa và chính trị của Việt Nam trong và ở hải ngoại, trước cũng như sau 1975 thì thật không đơn giản. Từ việc thay đổi chế độ và nền văn hóa đỏ được cộng sản áp đặt trong nước đến môi trường tự do Âu-Mỹ đã ảnh hưởng đến việc bảo vệ văn hóa cổ truyền tại hải ngoại là những ưu tư của những người hằng quan tâm đến vận nước và gia tài văn hóa dân tộc.

Chúng ta không thể khách quan xem việc bảo tồn văn hóa Việt Nam một cách đơn giải như trong thời bình và dưới một chế độ tự do dân chủ, vì nền văn hóa của tổ tiên để lại đã bị đổi chiều trong quốc nội và đang bị phá sản tại hải ngoại. Do đó việc bảo tồn văn hóa của chúng ta không thuận buồm xuôi gió mà phải đương đầu trực diện với trước một cuộc chiến khốc liệt, không ranh giới, không quy ước. Đó là cuộc chiến ý thức hệ giữa Tự Do và Cộng Sản mà văn hóa của hai chế độ chính là vũ khí để đối đầu với nhau.

Nếu xét về lượng, trận chiến hiện nay giữa ta và địch không cân xứng cả chính trị lẫn văn hóa. Cộng sản đã dốc toàn lực của một kẻ liều mạng để ăn thua đủ trong giai đoạn quyết liệt một mất một còn với chúng ta. Hà Nội đã tung hết khả năng, từ vật lực đến nhân lực, đánh một lượt hai mặt chính trị lẫn văn hóa vào cộng đồng người Việt Quốc Gia. Cộng sản đã xử dụng môi trường văn hóa làm bàn đạp cho thế chính trị, hai mặt trận phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ với nhau. Nhưng nói về phẩm thì chúng ta vượt hẳn cộng sản, vì văn hóa chúng ta dựa trên nền tảng chính nghĩa, bắt nguồn từ tính nhân bản của con ngưòi và dùng văn hóa để phục vụ con người từ tinh thần đến vật chất. Nhưng đáng tiếc là cộng đồng chúng ta trong thế bị động và chỉ có chống đở, chắp vá và chỉ ra quân mỗi khi bị đánh thì dù phẩm tốt nhưng không tận dụng sẽ bị mai một. Lượng đã yếu mà còn bị một số ít nhà trí thức, nhiều tổ chức hải ngoại kêu gọi loại bỏ yếu tố chính trị ra ngoài việc phát triển và bảo tồn văn hóa, như vậy là chúng ta đang bị những thành phần đón gió cò mồi lừa vào con đường hỏa mù mà cộng sản đã dương ra. Nếu chúng ta thiếu lý tưởng, không có tinh thần để chống đở để bảo tồn và phát triển văn hóa cổ truyền dân tộc Việt Nam trước mà đợi chuyện xảy ra rồi mới tìm cách chống đở thì xem như chưa đánh đã thua!. Trước một đối thủ dư thừa nhân-vật-lực cộng thêm những thủ đoạn tráo trở gian manh, nếu chúng ta không ít phương tiện, thiếu sáng suốt lại không đề phòng thì chắc chắn chúng ta sẽ đi vào con đường hỏa mù và là kẻ chiến bại trên mặt trận văn hóa.

Hoạt động văn hóa không thể thuần túy và đơn giản như kêu gọi giới trẻ theo lớp học tiếng Việt, nghe một buổi thuyết trình hay đọc vài cuốn sách là xong việc bảo tồn và phát triển văn hóa như chương trình của một vài tổ chức đề ra. Nếu chỉ có thế thì không khác gì chúng ta mời giới trẻ đến xem một cuộc triển lãm, nghe một chương trình ca nhạc xong rồi ai về nhà nấy và như vậy thì làm văn hóa trong tình hình chính trị hiện nay không đi đến đâu. Điều quan trọng là phải biết tạo cho mọi người, nhất là thành phần trẻ có một tinh thần yêu nước, biết đâu là nguồn gốc dân tộc, đâu là lịch sử oai hùng, đâu là di sản của tổ tiên. Phải làm thế nào cho thế hệ trẻ hiểu được nỗi khổ tâm kẻ ra đi cũng như cảm thông thân phận của người ở lại, phải biết đâu là gian tà, đâu là chính nghĩa và đâu là con đường phải chọn để giữ được bản chất của một người Việt Nam lưu vong hầu mai kia còn quay về phục vụ dân tộc.

Vậy, trước các chương trình đầu độc ru ngủ qua văn hóa của Cộng sản, chúng ta cũng phải mượn con đường chính trị để phát huy tính chất nhân bản chống lại văn hóa vô sản, dùng tôn giáo đối đầu văn hóa vô thần và lấy tình người cãi tạo văn hóa loài thú !

Trong lúc địch ru ngủ chúng ta bằng văn hóa đỏ mà những người trong cộng đồng làm văn hóa bằng hình thức thụ động, chống đở hoặc chạy theo chiêu bài ‘loại chính trị ra khỏi văn hóa’, thì chúng ta đã thấy trước mắt, cộng sản đã nắm thế thượng phong và chúng ta chỉ là những người chạy theo phản đối chắp vá những hậu quả đã xảy ra. Một điều thiết yếu là trong hoàn cảnh hiện tại chúng ta không thể tách rời ‘chiến tranh văn hóa’ ra khỏi ‘chiến tranh chính trị’, hai mặt trận phải song song hổ trợ lẫn nhau để đối đầu với âm mưu của Cộng sản. Xin nhớ rằng, chúng ta đang ở trong cuộc chiến của hai nền văn hóa nhân bản và văn hóa vô sản mà kẻ thù với khả năng dư thừa có sẳn đang lấn áp chúng ta trên mọi lãnh vực. Nếu những nhà làm văn hóa không tiếp tay với Cộng đồng Người Việt Quốc Gia thì đừng lên tiếng đòi hỏi loại bỏ yếu tố chính trị ra ngoài vòng chiến, vì thái độ và hành động nầy không khác gì việc nối giáo cho giặc, phá hoại công cuộc tranh đấu chung của toàn thể dân tộc Việt Nam hiện nay.

Xin chân thành cám ơn Quý Vị.

Đinh Lâm Thanh

Nguồn: http://hoivanhoanguoiviettudo.com/

Saturday, June 27, 2009

Ác quỷ của thế kỷ


Ăn Thai Nhi
3000 Nhân Dân Tệ (1 đô la = 8 NDT)

Các thương gia Đài loan ở Quảng đông gần đây loan truyền một trào lưu bồi bổ rợn tóc gáy - Canh thai nhi. Chỉ cần 3-4000 nhân dân tệ là có thể thưởng thức món canh cực bổ làm từ thai nhi 6-7 tháng tuổi, được các thương gia Đài loan ví như "tráng dương thượng phẩm".

Đài thương họ Vương - chủ một nhà máy ở Dong Wan - tự nhận là thường khách của canh thai nhi, cho biết: "Thai nhi độ mấy tháng tuổi, cộng thêm ... (một số vị thuốc Đông y không dịch được), hầm trong 8 tiếng rất có tác dụng bổ khí, dưỡng huyết". Ôm một gái bao 19 tuổi người Hồ Nam, ông Vương dương dương tự đắc nói: "Với độ tuổi 62 như tôi, mỗi tối đều có thể làm một lần (make love), chính là nhờ tác dụng của nó".

Thấy vẻ mặt ký giả đầy hoài nghi, ông ta bèn tự nguyện dẫn ký giả đi "mở mang kiến thức".
Trạm đầu tiên, ông ta dẫn ký giả đến thành phố Fo Shan (Phật Sơn) tỉnh Quảng đông, tìm đến nhà hàng ăn canh thai nhi, không may ông chủ Lý nói: "Xương sườn (ám ngữ chỉ thai nhi) không dễ kiếm, hiện tại không có hàng. Loại này không thể để đông lạnh, phải ăn tươi mới tốt".

Ông chủ Lý cho chúng tôi biết, nếu thực sự muốn ăn, "có một đôi vợ chồng ngoại tỉnh đến làm thuê, hiện đang có bầu 8 tháng, vì đã có 2 con gái nên nếu lần này lại là con gái thì có thể ăn được".

Ký giả vẫn bán tín bán nghi, điều tra phỏng vấn mất mấy tuần mà vẫn chỉ đựơc nghe mà chả được nhìn tận mắt, đã tưởng phải bỏ cuộc, nào ngờ mấy ngày sau ông Vương gọi điện thoại báo: "Tìm được hàng rồi, tiết trời đang chuyển lạnh, có mấy người bạn đang muốn đi bồi bổ".

Ông ta dẫn ký giả đến Đài Sơn, tìm đến nhà hàng, ông chủ họ Cao dẫn cả đoàn chúng tôi xuống bếp "khai nhãn giới".

Nhìn cái xác thai nhi chỉ nhỏ bằng con mèo con nằm trên cái thớt, ông Cao hơi ngượng ngùng nói: "5 tháng tuổi, hơi nhỏ một chút".

Ông Cao nói rằng cái xác thai nhi nữ này do một người bạn kiếm được dưới nông thôn, ông ta không muốn tiết lộ giá mua vào, chỉ nói rằng giá cả phụ thuộc vào tháng tuổi và sống hay chết.

Ông Vương cũng nói thêm, ăn một bữa hết 3500 tệ, các chi tiết khác ông không quan tâm.

Ký giả nghe mọi người nói, thai nhi chết do lưu sản hoặc phá thai được bán cho người môi giới khoảng vài trăm tệ, nếu là thai nhi sống đẻ thiếu tháng thì giá khoảng 2000 tệ, coi như mua làm con nuôi. Khi thai nhi được giao cho nhà hàng thì đều đã chết, còn chuyện trước đó là thai sống hay thai chết thì không quan trọng.

Bữa canh bổ này ký giả không có gan nếm thử, sau khi tham quan nhà bếp xong rất lâu không ăn đựơc gì, bèn giả vờ ốm cáo lui.

Các món ăn đều làm từ thai nhi nữ. Đây phải chăng là tác hại của chính sách một con, hay là do tập tục thích bồi bổ của người Trung Quốc?.

Thai nhi trước khi bị mổ, xẻ, chặt, cắt để làm thành món ăn
Thai nhi đang bị mổ, xẻ, chặt, cắt để đem nấu thành món ăn

Thai nhi đang bị mổ, xẻ, chặt, cắt để đem nấu thành món ăn

Thai nhi đang nằm trên thớt để chuẩn bị mổ, xẻ, chặt, cắt để đem nấu thành món ăn

Thai nhi đươc rửa bằng rượu cho khỏi tanh mùi máu
trước khi bị mổ, xẻ, chặt, cắt để đem nấu thành món ăn


Thai nhi trong chậu rửa cùng cái nhau chưa được cắt bỏ


Thai nhi được nấu với thuốc bắc, những thằng mọi rợ chinese
cho rằng món ăn nầy sẽ giúp chúng có nhiều sinh lực trong việc làm tình
(strong sexual ability)


Thai nhi đang được con ác quỷ cho vào nồi để nấu

Đây là món soup thai nhi sau khi được nấu chín và chuẩn bị đem ra phục vụ cho khách
(những con ác quỷ của thế kỷ)

Thai nhi sau khi nấu chín và được cắt ra từng miếng trong dĩa

Con ác quỷ của thế kỷ đang thưởng thức món thai nhi tuyệt vời



Hồi ký của Mai Thy

Vào thời thập niên 60-70, ở Saigon, những rạp hát như Rex, Eden thường hay trình chiếu những cuốn phim Ngoại Quốc như: Ben Hur, Samson Dalida v.v... Những nam minh tinh màn bạc có thân hình như tượng đồng những bắp tay cuồn cuộn, vòng vai, vòng ngực nở rộng, bắp thịt bụng rắn chắc hiện thành 6 múi.. có thể che chở và chống lại những bão táp phong ba đến với họ, đã làm cho tôi ngưỡng mộ những người hùng trong những cuốn phim đó. Không biết có phải tôi bị lậm phim ảnh quá không?

Có lẽ ước mộng của tôi về người yêu của mình cũng giống như bao cô gái khác, ở vào tuổi mới lớn. Nhưng sự mơ ước của mỗi người đều khác nhau về đối tượng của mình. Ước mộng của tôi tuy rất bình thường, nhưng hơi khó thực hiện.

Một hôm, tôi đi vào nhà sách Khai Trí để tìm mua vài cuốn sách Văn Phạm Anh Ngữ để trau dồi thêm cho phần Anh Văn, tôi rất say mê đọc sách đủ loại truyện và mê học Sinh Ngữ từ nhỏ, nên tôi đã ghi tên đi học thêm ở Hội Việt Mỹ và London School, mong là sau khi tốt nghiệp Văn Khoa môn Sinh Ngữ tôi sẽ có cơ hội đi du học Mỹ Quốc.

Trong thời gian này tôi cũng có ghi tên học Trường Quốc Gia Âm Nhạc với nhiều bộ môn: Ca Kịch Cổ Nhạc, Tân Nhạc, và Chèo Cổ Bắc Phần. Ba tôi thì rất mê nghe tôi hát chèo lắm, vì ông là người Bắc.

Tôi lướt qua kệ sách của những nhà văn Việt Nam, tôi thấy tên của một nhà văn nghe hơi lạ: Võ Hà Anh & Dung Saigon, tôi bèn cầm lên, đọc thử xem họ viết gì nào. Ồ! Ông ta đang nói về sự huấn luyện gian khổ của Người Nhái. Nhưng mà Người Nhái là ai vậy? Họ như thế nào? Lúc đó tôi chưa thể mường tượng được Người Nhái, sao không giống như những sự tập luyện của những binh chủng khác mà chúng ta thường thấy ở những Quân Trường? Tôi đang đọc say sưa, quên cả việc vào tìm mua những cuốn sách Anh Văn mà tôi đã dự tính lúc ban đầu, thì có tiếng cô bán hàng hỏi:

- Cô có thích cuốn đó không? Cô có mua không?

Tôi vội gật đầu và nói:

- Dạ! Mua chứ!

Chắc cô ta để ý thấy tôi đứng đọc lâu quá! Chắc sợ tôi coi chùa. Tôi tìm mua thêm vài cuốn sách Văn Phạm và vội về nhà ngay để đọc tiếp đoạn hấp dẫn của cuốn sách vừa rồi…!!

Năm 1966, tôi đã được xem diễn hành Ngày Quân Lực 19 tháng 6 của tất cả các Quân Binh Chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Tôi cũng có ý muốn chờ xem Người Nhái ra sao, và tôi đã thấy đoàn diễn hành của Liên đội Người Nhái, trang phục rất lạ ngồi trên chiếc xuồng cao su, còn chiếc xuồng khác thì các anh thân hình trần không áo, màu da sạm nắng, hàng đứng bốn thanh niên với thân hình lực sĩ giống như tôi thường thấy trong những cuốn phim mà tôi đã kể ở trên, mình trần, quần short vàng, da sạm nằng bóng như những tượng đồng đen, tay cầm khẩu Tiểu Liên trông thật oai hùng.

Kể từ đó, tôi bắt đầu mơ màng về Người Nhái, nhưng làm sao mình có thể quen và được tiếp xúc với họ. Nhưng rồi thòi gian đi qua tôi không còn ở tuổi mơ mộng đó nữa, nhưng vẫn cứ mộng mẫu người trong mơ!

Tôi đang cố gắng hoàn tất chương trình Văn Khoa và song song trong thời gian nầy tôi cũng vẫn tiếp tục học Anh Văn để thực hiện ước mộng của mình.

Nhưng, ước vọng của tôi không thể thực hiện được! Vì Ba tôi đã mất trong khoảng thời gian nầy, nên ước vọng của tôi cũng tan theo, tôi phải nghỉ học để đi làm, nhưng không dám thi vào làm trong Tòa Đại Sứ Mỹ, (vì lúc còn sống, Ba tôi sợ tôi sẽ lập gia đình với người Mỹ nếu vào làm việc trong đó).

Vì tình trạng gia đình đang gặp khó khăn sau khi Ba tôi là cột trụ của gia đình đã về miền vĩnh cửu, tôi bắt đầu bước vào ngành ca hát. Tôi xin vào hát những Phòng Trà ở Saigòn vào mỗi tối, và vừa đi làm việc trong Đoàn Văn Nghệ Hoa Tình Thương. Trong Đoàn công việc cũng nhàn nhã, mỗi tháng chỉ đi công tác xa một lần. Đoàn văn nghệ chúng tôi đi viếng thăm, trình diễn văn nghệ giúp vui cho các anh quân nhân trên bốn vùng chiến thuật, đến những nơi tiền đồn hẻo lánh và những vùng duyên hải xa xôi…

Có những vùng mà chúng ta nghe địa danh cũng đã thấy não nuột rồi, đó là Dãy Phố Buồn Thiu. Trực thăng chở chúng tôi lướt qua vùng miền Trung nghèo nàn nầy, trên một vùng rộng mênh mông cát vàng như sa mạc, giáp cận bờ biển, cây cối không sống nổi với vùng đất cát khô cằn nầy.

Giữa vùng cát vươn lên một dãy phố chợ dài khoảng 10 căn, với vài căn nhà lợp tôle rải rác . Nơi đây bán toàn là hải sản được đem về từ biển cả.. Nhìn cảnh vật đìu hiu đó thật đúng với địa danh Dãy Phố Buồn Thiu ...!

Chuyến viếng thăm trên căn cứ Hỏa Lực An Đô nhìn xung quanh cảnh vật thật hùng vĩ, núi đồi trùng trùng điệp điệp quanh năm sương mù phủ khắp triền núi, triền đồi, vì vị trí căn cứ nằm trên đỉnh núi thật cao, chúng tôi được các anh quân nhân tại căn cứ hướng dẫn và giải thích những điểm đặc biệt về vị trí chiến lược nầy là nhằm bảo vệ cho các ngọn đồi chiến thuật án ngữ con đường mòn Hồ Chí Minh giáp biên hạ Lào, các ngọn đồi chiến thuật đó đều nằm trong vòng bảo vệ tác xạ của xạ biểu đồ Sơn Pháo. Việc di chuyển đều nhờ vào trực thăng. Còn đi đường bộ rất nguy hiểm vì đường cong của các đèo và thung lũng, các anh quân nhân trú đóng nơi đây 3 tháng mới được thay toán khác. Thức ăn thì toàn là lương khô và chúng tôi cũng được khoản đãi một bữa bằng lương khô của quân đội. Tôi còn nhớ chúng tôi đến nhằm vào mùa Hè mà cũng bị lạnh run vì những cơn gió thốc từ bên dưới triền núi. Các anh lính ở đây đều phải mặc áo lạnh quanh năm suốt tháng.

Vào thời điểm này, chiến tranh đang xảy ra thật tàn khốc khắp nơi, những lần đi công tác xa ở những vùng chiến trận thật sôi động như tại Quảng Trị. Vào thời đó miền Nam chúng ta đã bị mất phần đất từ vĩ tuyến 17 đến bờ sông Thạch Hãn. Khi Đoàn Văn Nghệ Hoa Tình Thương chúng tôi đến viếng thăm và tổ chức văn nghệ để ủy lạo các chiến sĩ thuộc đơn vị Thủy Quân Lục Chiến đang trấn đóng tại đây, chúng tôi được các anh quân nhân đưa ra bờ sông Thạch Hãn để được nhìn về phía bên kia, cảnh vật điêu tàn đổ nát sau trận chiến lấn đất dành dân và những cuộc khẩu chiến giữa hai bên vẩn xảy ra hàng ngày. Chúng tôi đến Huế, Đà Nẳng, Pleiku, Kontum, Đà Lạt, Ban Mê Thuột, Bình Long, Củ Chi, Trảng Bàng v.v ...

Ban Mê Thuột, địa danh của vùng đất đỏ mưa mùa gió núi!. Quả thật vậy, chúng tôi đã đến trong một buổi sáng khi đặt chân xuống phi trường giữa cơn mưa gió lạnh của mùa Đông. Nhìn xa xa những hạt mưa rơi xuống phản chiếu ánh sáng mù mờ của buổi ban mai như những sợi tơ dài phất phơ theo chiều gió lộng mang theo luồng giá buốt. Chúng tôi vào câu lạc bộ tại phi trường uống cà phê đặc sản của vùng nầy. Chúng tôi ngồi thu mình ở một góc phòng tránh gió cho đỡ lạnh, mặc dầu có đem theo sẵn áo len ấm. Vì là phi trường vùng đồi núi cao nguyên không có hành khách bao nhiêu, thường thường là cho quân sự sử dụng. Chúng tôi ngồi chờ xe của Tiểu khu ra đón.

Đêm nay chúng tôi trình diễn cho các anh được đổi phiên từ các đỉnh đồi chiến thuật về chung vui. Họ bước vào hội trường với gương mặt tái lạnh vì giá buốt. Họ xúc động với tình người hậu phương mang tình thương an ủi sưởi ấm đến cho họ trong đôi giờ giải trí ... giữa vùng đồi núi hoang vu sương mù đất đỏ??

Sau khi đi thăm viếng các nơi. Tôi cảm thấy thương những người lính, những người đã đem xương máu và mồ hôi tưới lên khắp chiến trường để cho người dân có được sự yên ấm, an lành. Những buổi chúng tôi trình diễn cho các anh chiến sĩ trở về từ mặt trận, những gương mặt còn vương mùi khói súng, những bộ đồ trận còn dính đầy sình, rách tả tơi, và những anh thương binh nằm dưỡng thương nơi hậu cứ, đang nằm trên những băng ca xem chúng tôi hát, ôi! thương làm sao, những người đả góp máu giữ quê hương. !!

Trong một buổi thu thanh thơ cho Ban Thi Văn Mây Tần của chú Thi Sĩ Kiên Giang Hà Huy Hà, tôi có dịp gặp chú Nhạc sĩ Lê Dinh đang làm Chủ Sự phòng điều hợp của Đài, sau khi nghe tôi đọc lời giới thiệu của Ban Thi Văn, chú Lê Dinh cho tôi biết là tôi có khả năng làm xướng ngôn viên, chú mời tôi qua phòng thi. Và sau khi thi đọc qua nhiều thể loại, tôi được tuyển chọn vào ngành. Và cũng từ đó tôi nghỉ việc trong Đoàn Văn Nghệ Hoa Tình Thương.

Một buổi trình diễn quan trọng tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc của Bộ Văn Hóa Giáo Dục do Quốc vụ Khanh- ông Mai Thọ Truyền tổ chức để trình diễn bộ môn Văn Nghệ Cổ Truyền của Dân Tộc cho các phái đoàn Ngoại Giao đến tham dự. Chủ tọa buổi lễ hôm nay là Thống Thống Nguyễn Văn Thiệu và Phu Nhân.

Chúng tôi đang tập dượt ca hát trước khi trình diễn màn hợp xướng ba nhạc phẩm Hòn Vọng Phu của Nhạc Sĩ Lê Thương. Tình cờ, tôi thấy một số người đi ngang qua cửa sổ phòng nhạc của chúng tôi, trong số đó có một người gương mặt hơi ngâm đen sạm nắng, tóc anh dợn quăn nhẹ. Có vẻ giống như cầu thủ của đội bóng tròn, gợi cho tôi sự chú ý đặc biệt. Tôi có cảm giác hình như tôi đã gặp ở đâu rồi nhỉ! Họ đang nhìn vào và cười với chúng tôi, như là muốn làm quen thì phải. Và sau cùng các anh ngỏ ý muốn mời chúng tôi qua Câu Lạc Bộ của Phủ Tổng Thống, tôi cũng đánh bạo đi theo các cô bạn, nhưng trong lòng hồi hộp … và cũng hơi run.

Lúc đó, chúng tôi mới được biết các anh cùng làm việc trong Khối Cận Vệ của Phủ Tổng Thống đang kiểm soát lại vấn đề an ninh, bảo đảm an toàn cho các vị yếu nhân trong đêm nay. Nhưng anh chàng có nét đen sạm rắn rỏi đó, theo sát và nói chuyện riêng với tôi mãi, làm cho tôi thật là hồi hộp và cảm thấy ngượng ngùng. Tôi tự hỏi “Không biết có phải anh là người mà tôi mong được gặp gở hay không? Nhưng sao trong lòng nghe rung động chi lạ!”. Đang say sưa với ý nghĩ lạ lùng đó, tôi … giật mình … khi nghe các anh đề nghị mời chúng tôi đi Cát Lái chơi ski nautique (trượt nước), mọi người đều đồng ý. Trên đường đi, anh có kể chuyện cho tôi biết, trước khi ở trong ngành này (Sĩ Quan Cận Vệ) anh đã xuất thân từ đơn vị Người Nhái. Tôi bỗng giật mình ... nghe xao xuyến ... nhớ lại ... mộng ước … và đối tượng của tôi từ hồi còn thơ ngây ….

Khi đến nơi, bạn của anh là anh Trương Nghĩa Thành ra đón chúng tôi vào chơi Ski. Trong lúc anh đang lái chiếc ca-nô, để cho anh Thành chạy Ski, thì trong đầu tôi đang xáo trộn dấy lên với nhiều ý nghĩ …

Bỗng chiếc ca-nô chao mạnh nghiêng qua như muốn lật, tôi giật mình … chụp ngay cánh tay của anh … cánh tay của anh thật rắn chắc như sắt thép. Luồng hơi nóng ấm từ anh chuyển sang tôi như mang theo cả sức mạnh lan truyền. Trong lúc đó anh đang giữ vững tay lái để giữ thăng bằng chiếc ca-nô. Tôi đỏ mặt, ngượng quá! vội buông tay anh ra, và không dám nhìn anh. Anh Thành đổi tay lái với anh, đến phiên anh chạy Ski ….

Và sau buổi gặp gỡ đó, chúng tôi cảm thấy như có tiền duyên và chúng tôi bắt đầu yêu nhau với những buổi hẹn hò tiếp nối. Chúng tôi đã làm lễ thành hôn tại Câu Lạc Bộ Sĩ Quan An Đông, vào thời Mùa Hè Đỏ Lửa nên chỉ diễn ra trong vòng thân mật giữa gia đình, các bạn học và những bạn nghệ sĩ rất thân mà thôi.

Đến ngày 30-4-75 Miền Nam mất vào tay bọn Cộng Sản khát máu. Những tên VC nằm vùng lộ mặt theo dõi chúng tôi từng giây từng phút. Tôi còn nhớ rõ anh như con cọp lìa rừng bị loài lang sói giỡn mặt nhiều lúc tôi thấy mặt anh như đanh lại đôi mắt anh như rực lửa căm hờn …

Rồi anh cũng phải vào tù như những Sĩ Quan khác … ”học tập” để biết đường lối mới của Đảng. Còn tôi cũng bị đi “học tập” trong ngành Truyền Thông tại Đài Phát Thanh Saigon. Họ bảo, tôi là Xướng Ngôn Viên, tôi đã gián tiếp có tội ác với nhân dân vì bản tin viết ra tôi đã đọc cho thính giả nghe đó cũng là có tội. Nói chung, đối với Cộng Sản thì tất cả đều có tội, chỉ ngoại trừ Đảng Cộng Sản của họ.

Sau tháng tư, 75. Tôi là một người vợ của ngụy quân hay là tù cải tạo. Tôi chỉ biết nhớ thương chồng qua hình bóng của con (vì nó giống anh như đúc) Tôi thường thầm nhủ: Cảm ơn anh đã cho em đứa con, nó như là sức mạnh nung đúc nghị lực cho em. Có nhiều lúc em nhớ anh nhưng không dám nghĩ đến những gì có thể xảy ra ..! . Tôi lo sợ vì biết tánh của anh rất cang cường.

Lúc đó, con trai tôi được 6 tháng, không biết lấy gì để nuôi con? Tôi đã gom hết những áo dài cũ, mới và tất cả đồ trang sức luôn cả những vật gì trong nhà có thể bán được, đưa cho một người bạn đem bán ở chợ trời để có tiền mua sữa cho con, nhưng rồi cuối cùng tôi không còn vật gì để bán, tôi đành dứt sữa cho con, và tập cho nó ăn cơm gạo mục và mốc (lúc đó dân sắp hàng dài chờ đợi để được mua gạo như vậy đó, nên khi vo gạo phải vo nhẹ nhẹ nếu không sẽ bị nát). Tôi cố gắng nuôi con bằng đủ mọi cách để chờ chồng.

Hoàn cảnh của tôi thật không còn con đường nào để tính, vì không biết buôn bán như các chị em khác, bao nhiêu nhọc nhằn, cay đắng tôi nhận lãnh thật bất ngờ sau tháng tư đen-75. Đã hơn ba tháng rồi mà tôi không nhận được tin tức gì của anh, chớ đừng nói đến thăm nuôi, lúc đó bên ngoài gia đình và dân chúng đã hoang mang than oán. Đến tháng thứ tư, tôi nhận được thư anh gởi về từ Trại cải tạo tôi vui mừng biết rằng anh vẫn còn yên lành. Nhưng … chỉ có 2 ngày sau tôi nhận được tin anh đã trốn thoát trại tù Thành Ông Năm và đang ở tạm nhà người Dì của tôi. Anh không về nhà vì biết bọn Việt Cộng đang theo dõi.

Tôi vừa mừng vừa lo sợ, buồn vui lẫn lộn. Nhưng anh không thể ở đâu được lâu, vì bọn Việt Cộng thường hay lùng xét để bắt phản động, Việt Cộng thường dùng “bọn 30″ theo dõi hành động của dân. Anh cho biết anh muốn đi tìm những đường dây kháng chiến để sát nhập với anh em cùng chống lại bọn Việt Cộng cho nên anh tìm cách trốn ra. Anh phải sống như những người dân du mục nay Saigon, mai Miền Tây, mốt Miền Đông mà trong người thì không tiền. Với chiếc xe đạp mượn của một người bạn, anh đạp cả ngày từ Chợ lớn ra Saigon hay ngược lại, anh phải sống nhiều ngày với nải chuối trên xe, vì nếu ngừng lại thì sẽ bị công an khám xét. Vì anh không muốn liên lụy đến những người bạn nên có nhiều đêm không có chỗ ngủ, anh phải mướn chiếu để ngủ ở Nhà Ga Xe Lửa Saigon hay Xa Cảng Miền Tây. Có những lúc mang con, gặp lén anh ở những quán Café vỉa hè và các quán ăn, anh cho biết đêm nay anh không biết trú ngụ ở đâu. Trời ơ ới! Lòng tôi thật đau đớn vô cùng, tôi cố nén lòng, mà như ai bóp nát tim tôi, cố dằn nhưng nước mắt cứ đoanh tròng …, tôi không biết làm sao để giúp được cho anh.

May mắn tôi được sự giúp đỡ của một người bạn thân của anh tôi trở về từ Thụy Điển giúp cho vào làm việc cho một công ty của ông ta với số tiền lương nhỏ.

Tai ách lại đến với anh.

Một hôm, anh hẹn tôi gặp anh ở một điểm hẹn gần Sở làm của tôi để giao lại cho tôi chiếc xe đã gắn cái yên nhỏ để chở con phía trước thay vì phía sau sợ con bị kẹt chân. Khi đến điểm hẹn, anh giao chiếc xe cho tôi rồi bảo: “Chạy gấp đi vì anh đang bị theo dõi”, tôi không dám đứng lâu vội lên xe chạy đi. Anh nói vói theo như một lời trối trăn: "... Cố gắng nuôi con nghe em …!!"

Trên đường về nhà tôi thật lo lắng ! vì anh chỉ có giấy giả., mà lại mang tên giả! Người tôi như chùn xuống không còn sức chịu đựng nữa, đêm đó tôi bồn chồn thao thức, hình như đả xảy ra chuyện không may đến anh, tôi buồn rầu vật vã mải cho đến sáng.

Sáng hôm sau, vào Sở làm, tôi vẫn còn nhiều câu hỏi trong đầu về anh, thì anh bạn gọi tôi vào văn phòng và cho tôi biết, chồng tôi đã bị bắt tối hôm qua và hiện đang bị giam trong phường Công An Huyện Sĩ, họ mời tôi qua gặp họ, để điều tra. Tôi vừa nghe, nước mắt tôi đang chực để trào ra, tôi ngồi phệt xuống ghế, và không biết tôi đang làm gì!. Tâm trí tôi lúc đó đang quay cuồng, lo sợ họ sẽ xử tử anh vì biết anh đã vượt tù. Phần thì lo sợ nếu tôi bị mất việc sẽ không có tiền nuôi con. Đang miên man suy nghĩ thì hình như anh bạn của anh tôi cũng hiểu sơ ý tôi nên anh nói: “Cô đừng lo! qua thăm anh ấy đi, có cần gì anh sẽ giúp cho, rồi trở lại làm việc sau”. Tôi vội qua Phường Công An thăm anh, tôi gặp tên công an trưởng, và hắn cho biết:

- Chồng chị, đã trốn trại học tập, về Saigon, sao chị không báo cáo cho Chính Phủ Cách Mạng? Dám đánh Công An để chạy trốn nhé!

(Lúc đó, tôi nổi nóng nên không sợ gì cả) - Xin lỗi! Tôi không thể báo cáo được, vì các anh đã hứa học tập chỉ có 10 ngày, nhưng không đúng như lời hứa, nên chồng tôi phải trốn ra.

Thì vừa lúc đó chúng dẫn chồng tôi ra, anh đi không nổi, tên lính công an dìu anh ra. Nhìn anh với thân hình tiều tụy và gương mặt trỏm lơ vì thiếu ngủ, lòng tôi se thắt lại, tôi không cầm được nước mắt (sau này anh kể lại đêm đó sau khi bắt được anh, chúng treo anh lên hổng mặt đất và 2 tên Công An thay phiên nhau đánh đấm vào ngực, bụng anh túi bụi, sau khi chúng thả anh xuống, hai tay anh không dở lên được.). Tôi đau xót vô cùng, nhưng anh sợ tôi khai không giống như lời khai của anh, sợ liên lụy đến anh em cùng hoạt động trong thành phố, nên anh vội nói khi gặp tôi:

- Em nói cho mấy anh này biết là anh nhớ Mẹ con em nên anh trốn trại về và ngủ ở nhà ga xe lửa.

Sau khi được anh nhắc, tôi cũng lập lại lời anh nói với bọn công an. Thấy không khai thác gì được ở tôi, nên tên công an trưởng bảo dẫn chồng tôi vào và cho tôi về. Ngày hôm sau tôi đến đó hỏi thăm, thì họ cho biết, đang chuyển anh qua trại tù Quận Nhì Saigon. Chúng không trả anh trở về trại học tập cũ, có lẽ bọn chúng sợ anh sẽ trốn nữa. Tôi vội chạy đi mua một số thức ăn đi thăm anh, nhưng bọn chúng không cho gặp mặt , chỉ cho gởi thức ăn vào thôi! Cũng cùng lúc đó, thì chiếc xe chở tù cũng vừa ngừng lại trước cổng Quận Nhì, tôi vội chạy theo đưa thức ăn cho anh và chỉ kịp nhìn bóng anh khuất sau cánh cửa trại tù. Ôi! Cánh cửa oan nghiệt đó đã đóng kín chia cắt tôi và anh, tưởng như là vĩnh viễn …. không gặp lại anh. Anh ơi!

Kể từ đó, tôi bặt tin tức của anh, buồn bã, thất vọng, tôi không biết tâm sự cùng ai! Nhưng, trong nỗi thất vọng đó, tôi cũng rất tin tưởng ở anh, và hãnh diện ở anh, Người hùng của tôi.

Lần vượt tù thứ nhất anh đã vượt qua những hàng rào kẽm gai kiên cố bao quanh trại học tập. Được biết theo lời Ban Quản Giáo của bọn Việt Cộng mỗi khi bắt lại được những Sĩ Quan nào trốn trại chúng đem ra sân cờ xử bắn để hăm dọa những người còn lại: “Các anh đừng hòng trốn thoát khỏi nơi đây, cho dù một con kiến cũng không lọt được”. Nhưng chúng đã lầm! Sau bốn tháng, tại Thành Ông Năm, Hốc Môn, bất chấp lời hăm dọa của bọn chúng, đã có một Người Nhái vượt được khỏi vùng kiểm soát của lính canh và mười mấy lớp kẽm gai bao bọc. Anh đã cho chúng thấy sự gan lì của một Sĩ Quan QLVNCH đã không e ngại vì những lời hăm dọa đó anh đã ra khỏi trại mà chúng cũng không hay biết.

Tôi luôn nghĩ, anh vẫn còn sống và anh sẽ tranh đấu để sống còn, để còn có một ngày….Anh thường suy nghĩ rất nhiều về thế hệ tương lai con cháu sau này.

Sáu tháng sau khi bị bắt lại, chúng giam anh ở Quận Nhì tôi nhận được thư anh là bọn chúng cho phép lên thăm nuôi, nhưng không phải ở Quận Nhì mà lại là trại Phản Động K3, ở Gia Rây, tỉnh Long Khánh. Tôi vội vàng làm những món ăn để anh có thể giữ ăn được lâu và mang con theo lên thăm anh. Trong thư anh dặn mang theo Café và vài đòn bánh tét.

Sáng sớm ngày Chúa Nhật, tôi và con tôi đi xe lửa từ Saigon đến Gia Rây, Long Khánh thăm anh. Trưa thì đến nơi, trại tù này nằm trên một ngọn đồi cao, chung quanh có nhiều hàng rào kẽm gai bao bọc thật kiên cố. Tôi phải chờ đợi đến gần chiều tối tôi mới được thăm anh, Trông anh sức khỏe khá hơn lúc gặp ở trại tù Quận Nhì, chúng tôi được gặp nhau trong vòng 15 phút, thằng bé lâu quá không gặp mặt Ba nên lạ, cứ nhìn Ba mà khóc hoài, tôi thật xót xa. Anh hỏi qua loa về những chuyện nhà, khi thấy tên Công An lơ đãng anh ghé vào tai tôi nói thì thầm:

- Khi nào trời có mưa, em nhớ cầu nguyện cho anh!

Tôi giật mình tôi hỏi nhỏ giọng lo lắng:

- Anh … anh định ... trốn nữa hả!

Anh không trả lời, nhưng tôi thấy ánh mắt sáng ngời của anh hiện lên nét cương quyết. Tôi gật đầu nhẹ vì tôi rất hiểu ý của chồng tôi khi mà anh quyết định việc gì thì có thể nói là không có gì lay chuyển anh được!…

Anh chỉ lấy cà phê với mấy đòn bánh tét nhỏ, còn lại bao nhiêu đều để lại cho tôi đem về, vì anh biết khi đi thăm nuôi là tôi phải bán đi một vật kỷ niệm nào đó của chúng tôi. Tôi nghẹn ngào.

Tôi đứng lên từ biệt anh mà lòng đau như dao cắt. Trời đã bắt đầu tối, tôi bồng con đứng nhìn theo anh đang lầm lũi theo đoàn tù cải tạo hướng về trại giam mà dòng nước mắt tuôn tràn. Anh ơi !!

Tôi bồng con vội vã ra nhà ga xe lửa cho kịp giờ khi đến nhà ga thì cũng vừa kịp chuyến xe lửa từ Nha Trang tới, khi lên được xe lửa thì trời tối đen như mực, đưa bàn tay lên không nhìn thấy gì cả, vì xe lửa không có đèn.

Tôi rấtt lo lắng cho anh lòng tôi đang rối loạn vì không biết lúc nào thì anh sẽ vượt tù?. Và anh vượt ra có an toàn không?

Vì tôi cũng có nghe vài người vượt tù bị bắn chết bọn chúng đem thây người chết mà vùi dập tại chỗ. Tôi miên man với nhiều ý nghĩ lo buồn bỗng giật mình vì nghe tiếng mưa rơi. Trời ơi …

Anh ... Anh ơi! Em đang thầm cầu nguyện cho anh …

Vì tối quá, con tôi nó khóc mãi cho đến khi về tới Saigon. Tôi về đến nhà thì đã 12 khuya dưới cơn mưa tầm tã.

12 giờ trưa hôm sau, tôi được một người em bà con cho hay anh đã trốn thoát một lần nữa và đang có mặt tại Saigon. Anh đến tìm người em của tôi nhờ cho tôi hay.!

Đêm qua tôi về đến Saigon cũng là lúc anh trốn trại vượt qua bao hàng rào kẽm gai kiên cố và nhất là Bãi Mìn đầy nguy hiểm để tìm tự do. Anh chạy bộ 35 cây số dọc theo đường rầy xe lửa từ Gia Rây về Long Khánh với một anh Trung Úy Bộ Binh, cả hai cùng ôm vai nhau làm thành khoảng cách như giữa 2 bánh xe lửa, rồi cùng chạy trên đường rầy. Khi về đến Long Khánh, hai anh đáp xe lửa về Saigon vào trưa hôm sau.

Tôi thầm nghĩ “Người Nhái Hải Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã làm cho bọn Cộng Sản thấy rõ ý chí can cường bất khuất của một người lính thiện chiến VNCH.

Sau đó, anh lẩn trốn rất nhiều nơi và cũng suýt bị bắt mấy lần, trước khi được một người bạn giúp đỡ tìm cách rời khỏi Việt Nam để tìm thuốc “chữa bệnh”.

Cuộc vượt biên đầy nguy hiểm

Một đêm hồi hộp phập phồng, vì mấy tên công an đi dòm ngó vòng quanh, vì tất cả những người vượt biên đều ngủ tạm tại bến xe đò Cần Thơ để chờ sáng, khoảng 4 giờ sáng được người liên lạc của trong tổ chức tại địa phương hướng dẫn xuống bến Ninh Kiều và tất cả đều xuống đò đưa ra trên hai chiếc ghe chài đậu ở giữa sông, sau khi kiểm soát người đủ chiếc ghe chài trực chỉ ra cửa biển Tranh Đề, trên đường đi tất cả đều chun xuống khoang ghe, còn trên thì được ngụy trang đồ đạc chất đầy. Ghe chạy gần tới biển thì gặp chiếc ghe đánh cá Kiên Giang cập vào, tất cả leo qua ghe đánh cá nầy để vượt biên, khi qua chiếc ghe nầy mọi người cũng phải trốn dưới khoang chứa cá. Khi ra đến cửa biển thì trời đã tối, tất cả mọi đều vui mừng vì được ló đầu ra khỏi khoang ghe để thở không khí trong lành. Nhưng ghe chạy chưa được bao lâu thì lại vướng lên cồn cát, tất cả mọi người đểu xôn xao lo sợ vì có nhiều người đi trên ghe nầy đã bị bắt nhiều lần, có người bị bắt lại 9 – 10 lần, nên họ đã mất hết tài sản rồi, nếu bây giờ mà bị lần nữa thì hết mong vượt biên.. Còn về phần chúng tôi được người bạn thân gởi đi nhờ nên anh không phải là tài công.

Vì cùng đi chung một chiếc thuyền nên phải tự cứu mình, anh đứng ra kêu ggọi tất cả trên ghe phải nghe theo anh sắp xếp tất cả đàn ông và thanh niên. Chỉ định cứ hai người làm thành một tổ, anh nói:

- Bắt đầu các anh xuống nước lấy chiếc ghe làm chuẩn, mỗi tổ chia ra đều xung quanh ghe, hướng mặt ra ngoài và đi ra khỏi ghe khi nào các anh gặp chỗ sâu ngang cổ thì la lên.

Tất cả đểu làm theo, trong lúc đó tiếng cầu kinh của các bà thì thầm khấn vái trong gió biển dạt dào.

Khoảng độ 15 phút sau nghe có tiếng la to: “chỗ nầy nước sâu lắm bà con ơi ...!” Tất cả vui mừng cùng đẩy chiếc ghe đến chỗ nước sâu rồi anh tài công mở máy chạy thẳng ra biển. Nhưng chỉ chạy được vài trăm thước thì máy bơm nước trong ghe ra bị bể, mọi người lại lo sợ nữa. Anh liền lựa ra ba người lớn tuổi làm trưởng Toán rồi chia thanh niên ra làm ba toán thay phiên nhau tát nước trong ghe ra ngoài.

Kể từ giờ phút đó anh trách nhiệm lái chiếc ghe vì anh có hỏi qua tài công không rành đường đi trên biển? (hay có ý riêng tư?!). Anh vào phòng lái mà lái ghe đi theo hướng anh đã định.

Đến sáng hôm sau trời còn lờ mờ nhưng mọi người vì lo lắng nên đã thức dậy. Anh chỉ cho mọi người thấy hòn đảo Côn Sơn phía bên trái của chiếc ghe và nói:

- Mình đã đi đúng đường rồi !! ghe sẽ đi thêm ba tiếng đồng hồ nữa thì đến hải phận quốc tế …

Mọi người trên ghe đều vui mừng.

Giữa cảnh trời nước bao la tôi cảm thấy mình như quá nhỏ bé so với mặt đại dương mênh mông, nhưng tôi đã có anh bên cạnh nên những hãi hùng lo sợ đã nhường lại cho bóng mát của niềm tin yêu …

Tôi ôm con ngồi dựa cột cờ nhìn anh làm việc mà lòng xúc động. Anh vẫn hiên ngang trước mọi biến cố. Rất cương quyết bất chấp hiểm nguy nhận lãnh trách nhiệm và anh đã hoàn thành. Đưa tất cả là 59 người đến bến bờ Tự Do. Trên một chiếc ghe hư hại nặng mang số KG 0660 không được sửa chữa, chai trét ghe đã bị sóng biển vỗ tróc ra nên nước biển vào rất nhiều, ba toán thanh niên phải vất vả tát nước suốt hải trình từ Việt Nam đến Mã Lai hai ngày hai đêm rưỡi, trên ghe độc nhất chỉ có la bàn ….

Khi anh lái ghe theo lộ trình của Hải Tiêu vừa vào đến bờ chiếc ghe ủi lên cồn cát thì ghe rã ra và chìm xuống nước. Tất cả mọi người đều nhảy xuống biển, mặt nước ngập sâu đến ngang cổ mọi người đều bồng bế nhau và lội vào bờ của đất nước Mã Lai.

Chúng tôi đứng nhìn chiếc ghe tan rã chìm vào lòng biển cả, cảm nghĩ đó như thân hình bệnh hoạn yếu đuối của Mẹ Việt Nam nhưng vẩn cố gắng đưa đàn con thân yêu thoát khỏi vòng tù ngục cộng sản và đã trút hơi tàn để vĩnh viễn trở về với lòng biển lạnh ngàn đời ..!! Hỡi ơi ! Mẹ Việt Nam ..!!

Chồng tôi đã sống lại từ cõi chết của ngục tù Cộng Sản, tôi nghĩ mình còn được may mắn hơn những chị em đã phải nhận xác chồng qua trận chiến tranh tàn khốc, hoặc tìm xác chồng trong các trại cải tạo xa xôi qua cuộc trả thù người đồng chủng của bọn Cộng Sản vừa qua.

Tôi ngậm ngùi thương cho thân phận người Việt Nam chúng ta. Tôi rất hãnh diện và tự hào về anh nói riêng và nói chung cho tất cả các anh chiến sĩ Quân Lực VNCH, những người vợ lính đã chịu đựng những sự nhọc nhằn, ngược đãi của chế độ phi nhân.

Trong cuộc đời nầy và mãi mãi chúng ta vẩn hãnh diện là người vợ lính VNCH. Chúng ta đã khổ sở, phải chịu nhục nhã và vợ chồng phải sống cách xa nhau. Những cảnh phân ly chồng vợ do bọn Cộng Sản gây nên, chúng ta may mắn vì đã được đoàn tụ. Vậy thì chúng ta phải quý mến những chuỗi ngày còn lại cho đến ngày tàn của cuộc đời chúng ta, phải không các chị? Đó là câu tâm niệm của tôi.

Chúng ta đã vượt qua mọi trở ngại mọi khó khăn mới có được ngày hôm nay thì xin hãy quý trọng giữ gìn hạnh phúc và lo cho con cháu chúng ta sau nầy và nếu hoàn cảnh đã không cho phép để thực hiện những gì mà chúng ta muốn, thì hãy cố gắng gầy dựng cho thế hệ mai sau nối tiếp con đường mà cuộc đời của chúng ta phải bỏ dở dang …

Mẹ Việt Nam ơi! Chúng con cầu mong sẽ có một ngày trở về Việt Nam trong quang đãng,thanh bình, ấm no hạnh phúc và Tự Do ..Nghĩa là trên toàn cõi đất nước Việt Nam không còn bóng dáng ác quỷ Cộng Sản dã man ...!

Mai Thy - 2004

Giải Tỏa Huyền Thoại Hồ Chí Minh - Ls. Nguyễn Hữu Thống

Ls. Nguyễn Hữu Thống

Để xây dựng uy tín và thần thánh hóa Hồ Chí Minh, Đảng Cộng Sản đã sử dụng nhiều chiêu bài và ngụy tạo nhiều huyền thoại:

1. Huyền thoại gia đình cách mạng.

2. Huyền thoại lên đường cứu nước.

3. Tiếm danh Nguyễn Ái Quốc.

4. Giả danh Trần Dân Tiên.

5. Giả đoàn kết quốc gia.

6. Giả hiệp ước quốc tế.

7. Ngụy tạo tư tưởng Hồ Chí Minh.

1. HUYỀN THOẠI GIA ĐÌNH CÁCH MẠNG

Các nhà sử học Cộng Sản trình bày rằng Hồ Chí Minh xuất thân từ một gia đình cách mạng. Thân phụ là phó bảng Nguyễn Sinh Sắc hay Nguyễn Sinh Huy là bạn đồng khoa với Phan Chu Trinh và thường giao kết với Phan Bội Châu là người đồng hương. Sau khi được bổ nhiệm tri huyện Bình Khê, Nguyễn Sinh Sắc đã tự ý từ quan để phản kháng chế độ thực dân phong kiến.

Sự thật không phải như vậy. Dầu là một sĩ phu đỗ đại khoa, Nguyễn Sinh Sắc đã không có một đời sống cá nhân đứng đắn. Ông thường say rượu và trong những lúc nóng giận đã có thái độ thô lỗ và đánh đập con cái. Năm 1910, cũng vì say sưa, Nguyễn Sinh Sắc đã quá tay đánh chết một nghi can là Tạ Đức Quang. Cũng vì vậy ông bị triều đình tuyên phạt 100 trượng, giáng 4 cấp, cách chức tri huyện và sa thải khỏi quan trường. Sau này ông được miễn phạt trượng hình. Dầu sao ông đã làm nhục giới nho sĩ vì không biết tu thân trước khi trị quốc. Do sự sỉ nhục này đối với sĩ lâm và bà con lối xóm, ông đã dắt các con rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, đi tha phương cầu thực làm nghề bốc thuốc tại miền Nam.

Sự thật lịch sử này đã được chứng minh bằng một văn thư do Hồ Chí Minh dưới tên Paul Tất Thành viết từ Nữu Ước ngày 15-12-1912 gửi Khâm Sứ Trung Kỳ, xin cho cha được phục chức và được làm thừa biện, giáo thụ hay huấn đạo để có phương tiện mưu sinh.

Và truyền thống gia đình cách mạng của Hồ Chí Minh chỉ là một huyền thoại (Chính Đạo: Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại).

2. HUYỀN THOẠI LÊN ĐƯỜNG CỨU NƯỚC

Các nhà sử học CS còn trình bày rằng năm 21 tuổi Hồ Chí Minh rời Bến Nhà Rồng Saigon xuất dương lên đường cứu nước. Thời gian này, phong trào kháng thuế tại Quảng Nam và các tỉnh miền Trung đã bị dập tắt. Trường Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội đã bị thâu hồi giấy phép, và tại Nhật Bản, Phan Bội Châu, Cường Để cùng 200 sinh viên Việt Nam du học đã bị trục xuất. Theo gương Phan Chu Trinh, năm 1911 Hồ Chí Minh tìm đường qua Pháp để học hỏi tinh thần tự do dân chủ, hy vọng có ngày trở về giải phóng đồng bào khỏi ách đế quốc tư bản.

Đây cũng chỉ là một huyền thoại. Do đơn ngày 15-9-1911, Nguyễn Tất Thành xin Bộ Thuộc Địa Pháp đặc cách cho theo học Trường Thuộc Địa "để trở nên người hữu ích cho nước Pháp" (utile à la France). Trường Thuộc Địa là trung tâm đào tạo các cán bộ hành chánh và giáo dục của chế độ thuộc địa. Theo quy chế, các sinh viên phải được sự giới thiệu của nhà chức trách Đông Dương. Nhiều vị khoa bảng và trí thức nổi tiếng đã theo học trường này như Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Thân Trọng Huề, Bùi Quang Chiêu, Bùi Bằng Đòan v.v... Vì không đúng thủ tục, đơn của Nguyễn Tất Thành đã bị bác bỏ.

Và huyền thoại Hồ Chí Minh từ Bến Nhà Rồng xuất dương lên đường cứu nước đã bị giải tỏa.

3. TIẾM DANH NGUYỄN ÁI QUỐC

Từ 1911 đến 1914, Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp tại các tầu buôn của hãng Les Chargeurs Réunis chạy quanh các nước Âu Châu, Phi Châu và Mỹ Châu. Khi Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ, Nguyễn Tất Thành sang Anh làm phụ bếp tại nhà hàng Carlton và trở về Paris năm 1917. Trong thời gian này LS Phan Văn Trường đã thành lập Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước để đấu tranh công khai đòi tự trị và độc lập cho Việt Nam.

Do lời mời của lãnh tụ Đảng Xã Hội Pháp Jean Jaurès (người đã can thiệp với Thủ Tướng Pháp để ân xá cho Phan Chu Trinh), cùng với cụ Phan, LS Phan Văn Trường đã nhiều lần đến điều trần tại Quốc Hội Pháp để trình bày quan điểm về chính sách bảo hộ của Pháp tại Việt Nam và đạo đạt nguyện vọng của người dân Việt Nam lên Quốc Hội.

Sau Thế Chiến Thứ Nhất, năm 1919 tại Paris, dưới bút hiệu chung Nguyễn Ái Quốc, bộ ba Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành, nhân danh Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước đã đệ trình các Chính Phủ Đồng Minh và Chính Phủ Pháp Thỉnh Nguyện Thư của Dân Tộc Việt Nam trong tinh thần hợp tác và thương nghị, nguyên văn như sau:

"Từ sau cuộc chiến thắng của Đồng Minh, các dân tộc bị trị vô cùng xúc động trước những triển vọng tương lai, căn cứ vào những cam kết minh thị và trân trọng của các cường quốc Đồng Minh trước dư luận thế giới trong cuộc đấu tranh vừa qua để bảo vệ Văn Minh chống Dã Man.

Chiếu theo các cam kết này, một Kỷ Nguyên mới của Luật Pháp và Công Lý sẽ khai mở đem lại hy vọng chứa chan cho các dân tộc bị trị.

Trong khi chờ đợi Nguyên Tắc Chủ Quyền Quốc Gia được chấp thuận, trong lý tưởng cũng như trên thực tế, do sự thừa nhận và thực thi Quyền Dân Tộc Tự Quyết thiêng liêng, Dân Tộc Việt Nam trân trọng đệ trình các Chính Phủ Đồng Minh cao quý, cũng như Chính Phủ Pháp khả kính, những thỉnh nguyện khiêm tốn sau đây:

1. Ban hành Đại Xá cho tất cả các chính trị phạm bản xứ.

2. Cải thiện chế độ tư pháp Đông Dương bằng cách ban hành những bảo đảm về quyền bình đẳng trước pháp luật giữa người bản xứ và người Âu Châu. Bãi bỏ toàn bộ và vĩnh viễn hệ thống tòa án đặc biệt được dùng làm công cụ khủng bố và đàn áp các thành phần lương thiện nhất của dân tộc Việt Nam.

3. Ban hành Tự Do Báo Chí và Tự Do Ngôn Luận

4. Ban hành Tự Do Lập Hội và Tự Do Hội Họp.

5. Ban hành Tự Do Di Trú và Xuất Ngoại

6. Ban hành Tự Do Giáo Dục và thiết lập tại các tỉnh những trường kỹ thuật và chuyên nghiệp cho người bản xứ.

7. Thay thế chế độ cai trị bằng nghị định bằng chế độ pháp trị.

8. Thành lập Phái Bộ Thường Trực dân cử của người bản xứ bên cạnh Quốc Hội Pháp để đạo đạt tới Quốc Hội những nguyện vọng của người bản xứ.

Khi đệ trình những thỉnh nguyện nêu trên, Dân Tộc Việt Nam kỳ vọng vào nền Công Lý Thế Giới của các Cường Quốc và đặc biệt tin tưởng vào sự hào hiệp của Dân Tộc Pháp cao quý hiện đang nắm giữ vận mệnh của Dân Tộc Việt Nam bằng cách đứng ra bảo hộ Dân Tộc Việt Nam nhân danh Cộng Hòa Pháp. Dân Tộc Việt Nam không hổ thẹn được sự bảo trợ của Dân Tộc Pháp, trái lại còn cảm thấy vinh hạnh.

Vì họ biết rằng Dân Tộc Pháp biểu tượng cho Tự Do và Công Lý, và sẽ không bao giờ từ bỏ lý tưởng cao cả của Nghĩa Bác Ái toàn cầu. Vì những lý do đó, trong khi lắng nghe tiếng nói của kẻ bị trị, Dân Tộc Pháp sẽ hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với nước Pháp cũng như đối với nhân loại.

Thay mặt Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước: Nguyễn Ái Quốc".

Luật Sư Phan Văn Trường, tiến sĩ luật, Chủ Tịch Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước là người soạn tài liệu này.

Nguyễn Ái Quốc (Nguyen le Patriote) là bút hiệu chung của bộ ba Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành. Nguyễn là dòng họ đa số tại Việt Nam và Ái Quốc là phỏng theo tên Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước (Groupe des Patriotes Annamites). Với bút hiệu này, họ đã viết những bài bình luận trên các báo của Đảng Xã Hội như Nhân Loại (L'Humanité), Dân Chúng (Le Populaire) v..v...

Mặc dầu vậy, Hồ Chí Minh đã tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, trong cuốn "Những Mẩu Chuyện về Đời Hoạt Động của Hồ Chủ Tịch". Hồ Chí Minh viết: "Khi chiến tranh chấm dứt, tại Hội Nghị Hoà Bình Véc-Xây, Tổng Thống Mỹ Wilson nói về 14 điều. Các đại biểu các dân tộc bị áp bức đến để yêu cầu độc lập và tự do. Trong số đó, có Nguyễn Ái Quốc (tức là Anh Ba hay Hồ Chí Minh). Ông Nguyễn tổ chức nhóm người Việt Nam yêu nước tại Paris và ở các tỉnh khác. Với danh nghĩa của tổ chức này, ông đã đưa yêu cầu 8 điều ra trước Hội Nghị Véc-Xây".

Đây chỉ là một sự mạo nhận. Vì những lý do sau đây:

a. Thỉnh Nguyện Thư được soạn thảo nhân danh Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước, một tổ chức do Phan Văn Trường thành lập năm 1914 tại Paris, khi Nguyễn Tất Thành còn ở Luân Đôn.

b. Thỉnh Nguyện Thư đề cập đến những nguyên tắc pháp lý mà trong thời gian đó (1919) chỉ các luật gia và chính trị gia mới thấu hiểu như quyền bình đẳng trước pháp luật, chế độ pháp trị, chế độ tòa án đặc biệt, quyền dân tộc tự quyết v.v...

c Đề nghị thành lập Phái Bộ Thường Trực Dân Cử Việt Nam tại Quốc Hội Pháp là do sáng kiến của Phan Văn Trường. Từ năm 1911, cùng với Phan Chu Trinh, theo lời mời của Jean Jaurès, ông đã nhiều lần đến điều trần tại Quốc Hội Pháp để đạo đạt những nguyện vọng của nhân dân Việt Nam lên Quốc Hội.

d. Nguyễn Tất Thành chỉ là một học sinh vừa qua bậc tiểu học và không có kiến thức chính trị. "Ông rất ít hiểu về chính trị, không biết thế nào là công hội, thế nào là bãi công, và thế nào là chính đảng... Ông không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan Văn Trường viết thay... Ông lắng nghe những buổi thảo luận, nhưng không hiểu rõ về chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản v.v... ông nhức đầu vì khó hiểu". Vả lại vốn liếng tiếng Pháp của ông chỉ gồm những chữ thông dụng trong đời sống hằng ngày học từ những cô sen trong giới bình dân (Trần Dân Tiên, sđd).

e. Trần Dân Tiên còn nêu lên yêu cầu bãi bỏ chế độ sưu dịch, thuế đinh, thuế muối và việc bắt ép dân mua muối và thuốc phiện. Các điều khoản này không thấy trong bản Thỉnh Nguyện Thư tiếng Pháp đăng trên báo L'Humanité ngày 18-6-1919. (Chính Đạo: Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại).

Nói tóm lại, trái với lời Trần Dân Tiên, Hồ Chí Minh không phải là tác giả Thỉnh Nguyện Thư của Dân Tộc Việt Nam. Và năm 1919 Hồ Chí Minh cũng chưa phải là Nguyễn Ái Quốc. Đây chỉ là một sự mạo nhận tư cách của Nguyễn Tất Thành, một người ít học nhưng nhiều tham vọng.

Năm 1917, khi từ Luân Đôn trở về Paris, Nguyễn Tất Thành tá túc tại nhà Luật sư Phan Văn Trường số 6 Villa des Gobelins. Năm 1914, Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường bị bắt giam về tội phản nghịch (tình nghi liên lạc với Cường Để tại Berlin). Sau 9 tháng điều tra, hai nhà chí sĩ họ Phan đã được miễn tố (Phan Chu Trinh chủ trương hợp tác với Pháp đánh Đức, cũng như Gandhi hô hào thanh niên Ấn Độ tình nguyện gia nhập quân đội Hoàng Gia Anh).

Mặc dầu vậy, hai vị vẫn bị cảnh sát điều tra theo rõi. Mỗi khi có trát đòi Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Tất Thành đứng ra nhận trát, tự xưng là Nguyễn Ái Quốc. Ông nói: "Nguyễn Ái Quốc chính là tôi, các ông cứ đưa trát cho tôi, đừng làm phiền chú/bác tôi (ý nói Phan Văn Trường hay Phan Chu Trinh)". Năm 1921, Nguyễn Tất Thành bỏ Đảng Xã Hội để gia nhập Đảng CS dưới tên Nguyễn Ái Quốc.

4. GIẢ DANH TRẦN DÂN TIÊN

Các nhà sử học cho rằng Hồ Chí Minh là người thông minh, nhưng là sự thông minh ngoài phố. Sự khôn ngoan giảo quyệt này đã được biểu lộ rõ nét nhất trong cuốn "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch" của Trần Dân Tiên xuất bản và tái bản nhiều lần từ 1948 đến 1976. Ngày nay ai cũng biết Trần Dân Tiên là Hồ Chí Minh. Trong lịch sử văn học thế giới, không thấy một nhà văn tự trọng nào lại giả danh bằng một bút hiệu để tự đề cao mình. Dùng bút hiệu thật để nói về mình cũng là vạn bất đắc dĩ, vì cái tôi thường đáng ghét. Dùng bút hiệu giả để thần thánh hóa mình thì quả là đáng khinh!

Chúng ta thử đánh giá sự "khiêm tốn" của tác giả:

"Nhiều nhà văn nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, nhưng mãi đến nay chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất đơn giản: Chủ Tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình (...). Hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn, rất nhiều đồng bào đang đói khổ. Sau 80 năm nô lệ, nước ta bị tàn phá, bây giờ chúng ta phải xây dựng lại. Chúng ta nên làm những công việc hết sức cần kíp đi đã (...). Với đức tính khiêm tốn nhường ấy, và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc làm sao Hồ Chủ Tịch có thể kể lại bình sinh của Người được".

Thế nhưng Hồ Chủ Tịch đã đại ngôn:

"Khi còn là một thiếu niên 15 tuổi, người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh khâm phục các cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Hoàng Hoa Thám, nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của 3 người, vì:

- Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương.

- Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp, chẳng khác gì đưa hổ cửa trước rước beo cửa sau.

- Cụ Hoàng Hoa Thám còn nặng cốt cách phong kiến".

Năm 1905, khi Hồ Chí Minh 15 tuổi, cụ Phan Chu Trinh chưa viết Đầu Pháp Chính Phủ Thư (l906), chưa phát động phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục (l907). Vậy mà Hồ Chí Minh đã phê phán chính sách canh tân và giáo dục của cụ là cải lương (mà cải lương thì đã sao?).

Chưa thấy cụ Phan Bội Châu rước cọp vào nhà, chỉ thấy Hồ Chí Minh cõng rắn CS về cắn gà nhà, gây tai hại vô lường cho đất nước và dân tộc.

Năm 1945, khi mới 55 tuổi, Hồ Chí Minh tự phong mình là "cha già của dân tộc". Ông còn tự thần thánh hóa mình, kể rằng "chân dung Hồ Chủ Tịch được treo trên bàn thờ giữa những bình hương hoa đèn nến".

"Hồ Chủ Tịch được nhân dân yêu mến là do lòng hy sinh và lòng nhân từ của Người. Chủ Tịch không bao giờ nghĩ đến mình. Người chỉ nghĩ đến người khác, nghĩ đến nhân dân (...). Đối với nhi đồng, tên Bác Hồ là như một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở nên ngoan ngoãn".

Vậy mà người cha già (67 tuổi) đã nhẫn tâm để đàn em hạ sát người vợ trẻ đã sinh cho mình đứa con trai là Nguyễn Tất Trung. Năm l957, khi cô Nguyễn Thị Xuân yêu cầu công khai hoá cuộc hôn phối đã kéo dài trên 2 năm, Hồ Chí Minh vẫn ngọt ngào giả lả: "Cô xin như vậy là hợp tình hợp lý, nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được". Do đó, cô đành phải chờ một thời gian. Trong thời gian này, cô đã biến thành chướng ngại vật làm mất uy tín của lãnh tụ. Theo đúng phương châm hành động, tất cả những chướng ngại vật làm cản trở con đường của lãnh tụ sẽ bị thanh toán và vô hiệu hóa.

Thanh toán trước hết bằng cách hạ nhục đối phương, cho viên tướng công an Trần Quốc Hoàn mặc sức hãm hiếp. Rồi cho thủ hạ chùm chăn lên đầu và dùng búa đánh vỡ sọ nạn nhân (như vụ Staline hạ sát Trotsky tại Mexico).

Một người có những thủ đoạn bất nhân như vậy, mà bộ máy tuyên truyền của CS còn đề cao như một vị anh minh kết tinh "đức tính từ bi của Đức Phật, tính công bằng bác ái của Chúa Ki-Tô, sự minh triết của Khổng Tử, sự siêu thoát của Lão Trang".

Ngoài ra, Trần Dân Tiên còn tự sánh mình với Mặc Tử là người đã mòn trán lỏng gót bôn ba khắp nơi để lo cho thiên hạ. Điều đáng nói là, trong khi Mặc Tử chủ trương hòa bình, thì Hồ Chí Minh cổ võ chiến tranh. Trong khi Mặc Tử theo thuyết kiêm ái, yêu dân tộc, yêu nhân loại, thì Hồ Chí Minh gieo rắc căm hờn, thúc dục thú tính để phát động đấu tranh giai cấp và thủ tiêu những lương dân vô tội và những người quốc gia yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc.

5. GIẢ ĐOÀN KẾT QUỐC GIA

Khi hay biết phe Thế Giới Dân Chủ không chịu trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương vì họ không muốn Staline mở rộng Bức Màn Sắt từ Đông Âu qua Đông Á, ngày 11-11-1945 Hồ Chí Minh giả bộ giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương để thành lập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Các-Mác. Để có chính nghĩa đoàn kết quốc gia, Hồ Chí Minh mời Nguyễn Hải Thần thuộc Cách Mạng Đồng Minh Hội và Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng tham gia chính phủ liên hiệp.

Trong Tuyên Cáo Đoàn Kết ngày 24-12-1945, Hồ Chí Minh cam kết tôn trọng sự đoàn kết của các đảng phái quốc gia để tranh thủ độc lập, "Vì độc lập quốc gia là cứu cánh tối hậu cần phải tranh thủ và chỉ có sự hợp tác và hữu nghị chân thành giữa những người Việt Nam mới có thể đạt được độc lập quốc gia". Ông còn lên án mọi hành vi phá hoại tình đoàn kết quốc gia cũng như việc dùng võ lực để tiêu diệt các đảng phái quốc gia.

Vậy mà sau đó Trần Dân Tiên đã vu oan giá họa "bọn phản động Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam được Trung Hoa Quốc Dân Đảng giúp đỡ đã có âm mưu phá hoại và Hồ Chủ Tịch đã phải nhường cho họ 70 ghế quốc hội".

Ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny công nhận Việt Nam là một quốc gia tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. 15 ngàn quân Pháp được thay thế quân Trung Hoa, đổ bộ Hải Phòng và đồn trú tại Bắc Việt trong 5 năm.

Tháng 5-1946, Hồ Chí Minh qua Paris thương nghị. Phái đoàn Việt Nam đáng lẽ do ngoại trưởng Nguyễn Tường Tam lãnh đạo, nhưng trước đó: "Bộ Trưởng Tam đã bỏ trốn". Và mùa hè năm đó, Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh cũng bỏ trốn sang Tàu để khỏi bị sát hại như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm v.v...

Sau khi tống xuất quân đội Trung Hoa, CS thẳng tay đàn áp và thủ tiêu các cán binh Quốc Dân Đảng và Đồng Minh Hội. Như vậy, Tuyên Cáo Đoàn Kết 1945 chỉ nhằm thành lập chính phủ liên hiệp để làm bình phong thương nghị với Pháp. Rồi nhờ Pháp tống xuất Tàu cho Đảng CS rảnh tay tiêu diệt các đảng phái quốc gia để được độc quyền lãnh đạo.

Trong Thế Chiến Thứ Hai, để được Đồng Minh yểm trợ, Staline đưa ra chính sách thân thiện với Anh Pháp. Đảng CS Pháp phối hợp với Đảng Xã Hội trong Mặt Trận Bình Dân. Phe CS Việt Nam cũng hợp tác với phe Tân Tả Phái của Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch để thành lập Mặt Trận Dân Chủ và xuất bản tờ La Lutte (Tranh Đấu).

Trong những cuộc bầu cử Hội Đồng Đô Thành Saigon và Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ, liên danh Tranh Đấu của Tạ Thu Thâu toàn thắng. Đây là giai đoạn đấu tranh công khai, ôn hòa, hợp pháp và bất bạo động. Chiêu bài đoàn kết quốc gia một lần nữa được áp dụng. Nguyễn An Ninh thuộc phe Trung Hoà, Tạ Thu Thâu thuộc phe Tân Tả Phái và Nguyễn Phan Long thuộc phe Lập Hiến, đã đứng ra tổ chức Đông Dương Đại Hội để đạo đạt thỉnh nguyện của nhân dân Việt Nam tới phái đoàn Quốc Hội từ Paris sang.

Vậy mà ngay sau khi cướp được chính quyền, Đảng CS đã phản bội lời giao ước đoàn kết và đã thủ tiêu Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Văn Sâm, Hồ Văn Ngà, Dương Văn Giáo v.v... là những người quốc gia yêu nước thuộc các nhóm Tân Tả Phái và Lập Hiến.

Về việc hạ sát Tạ Thu Thâu, Hồ Chí Minh còn giả nhân nghĩa tiếc Tạ Thu Thâu là người yêu nước. Nhưng ông lại thêm rằng những ai chống lại chính sách của ông đều sẽ bị vô hiệu hoá. Sau khi Staline thủ tiêu người chiến hữu đàn anh của mình là Trotsky năm 1940, tất cả phe tân tả phái Trotskit đều phải bị thanh toán và triệt hạ uy tín.

Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn cho hạ sát Đức Giáo Chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ và các lãnh tụ các đảng phái quốc gia yêu nước như Trương Tử Anh (Đại Việt), Lý Đông A (Duy Dân), Khái Hưng, Nhượng Tống (Quốc Dân Đảng) v...v...

6. GIẢ HIỆP ƯỚC QUỐC TẾ

Theo sách lược CS ký hiệp ước không phải để thi hành hiệp ước. Vì các hiệp ước ngoại giao chỉ là những phương tiện để thực thi những mục tiêu chính trị:

a. Ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny ngày 6-3-1946 nhờ Pháp tống xuất Tàu để rảnh tay thanh toán các đảng phái quốc gia nhằm giữ độc quyền yêu nước, độc quyền lãnh đạo. Sau đó lại phát động chiến tranh ngày 19-12-1946.

b. Ký Hiệp Định Đình Chiến Genève 1954 để tống xuất Pháp và cướp chính quyền tại Miền Bắc. Sau đó lại tái phát động chiến tranh.

c. Ký Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973 để tống xuất Mỹ. Sau đó lại tái phát động chiến tranh để thôn tính Miền Nam.

7. NGỤY TẠO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Sau cuộc Cách Mạng giải thể CS tại Đông Âu, chủ nghĩa CS đã bị nhân dân thế giới vứt vào thùng rác lịch sử. Tại Đức, quê hương của Các-Mác, chủ nghĩa Mác đã bị phủ định và được thay thế bằng chủ nghĩa Dân Chủ Tự Do và Dân Chủ Xã Hội. Tại Nga, quê hương của Lênin, chủ nghĩa Lênin cũng đã bị phủ định để thay thế bằng chủ nghĩa Dân Chủ Tự Do và Dân Chủ Xã Hội.

Trước sự phá sản của chủ nghĩa Mác Lê, Đảng CS ngụy tạo cái gọi là "tư tưởng Hồ Chí Minh", một điều mà chính Hồ Chí Minh thời sinh tiền cũng không bao giờ đề cập đến. Ông chỉ nói đến chủ nghĩa Mác Lê, tư tưởng Mao Trạch Đông, và tác phong Hồ Chí Minh. Ông nhìn nhận rằng, về phần tư tưởng, "Bác Mao đã viết cả rồi, tôi không còn gì để viết nữa".

Do đó ông chỉ thực thi trung thành những nguyên lý Mác Lê và tư tưởng Mao Trạch Đông. Ông hết sức tán tụng Staline và Mao Trạch Đông. Ông viết: "Mao Trạch Đông đã đông phương hóa chủ nghĩa Mác Lê và đã đưa cách mạng Trung Quốc đến thành công. Cách mạng Việt Nam phải học tập và thực sự đã học hỏi rất nhiều từ cuộc cách mạng Trung Quốc. Các nhà cách mạng (CS) Việt Nam phải ghi nhớ điều này và phải biết ơn Mao Trạch Đông về sự đóng góp to lớn này".

Thật vậy, Hồ Chí Minh không có tư tưởng gì đặc sắc. Ông chỉ là người sao chép lại.

Những mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc ghi trong các tiêu đề chánh thức của nhà nước chỉ là phỏng theo 3 cương lĩnh của chủ nghĩa Tam Dân do Tôn Dật Tiên đề xướng trong Cách Mạng 1911: "Dân Tộc Độc Lập, Dân Quyền Tự Do và Dân Sinh Hạnh Phúc".

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập do Hồ Chí Minh đọc ngày 2-9-1945 cũng là sự sao chép Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ theo đó: "mọi người sinh ra bình đẳng và được Tạo Hóa ban cho những quyền bất khả xâm phạm như quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Thêm vào đó là lời mở đầu Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền Pháp 1789: "mọi người sinh ra tự do và bình đẳng và luôn luôn được tự do và bình đẳng".

Dùng giả nhân nghĩa là ngụy quân tử. Nhưng khéo ngụy trang Hồ Chí Minh đã viện dẫn các tư tưởng minh triết của Nho Gia trong việc giáo hóa, trị dân và dựng nước như: "Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; lo trước cái lo của dân, vui sau cái vui của dân; không lo nghèo mà lo không đều; mười năm trồng cây, trăm năm trồng người" v.v....

Về mặt kiến thức, Hồ Chí Minh thú nhận ông không am tường chính trị và nhức đầu khi nghe nói về những vấn đề lý thuyết chủ nghĩa. Ông chỉ là người cán bộ thừa hành trung thành và tận tụy của Staline và Mao Trạch Đông. Nhờ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền, ông nổi danh vì bút hiệu chung Nguyễn Ái Quốc. Từ đó, ông được giới thiệu với các lãnh tụ Xã Hội và CS Pháp như Léon Blum, Marcel Cachin v..v... Từ một tiểu trí thức, ông đã bước lên địa vị một cán bộ CS quốc tế, phụ trách vùng Đông Nam Á.

Trong khi các lãnh tụ CS Á Châu khác như Roy tại Ấn Độ hay Malaka tại Nam Dương đều bị thất sủng dưới bàn tay sắt của Staline vì họ có những tư tưởng hướng về chủ nghĩa Dân Tộc và chủ thuyết Hồi Giáo, thì Hồ Chí Minh vẫn một lòng một dạ chung thủy với Quốc Tế CS.

Dầu không có tư tưởng chính trị đặc sắc nhưng Hồ Chí Minh đã thành công trong việc:

Dùng ngụy trang dối trá (ngụy chủ nghĩa Dân Tộc);

Lấy giả nhân giả nghĩa (bằng các chiêu bài độc lập, tự do, hạnh phúc, đoàn kết, hòa giải, hòa hợp);

Để giành chính nghĩa (giải phóng dân tộc, giải phóng lao động);

Và cướp chính quyền (để không chia quyền với bất cứ ai).

L.S. Nguyễn Hữu Thống

http://nguyenhuuthong.blogspot.com/


4 Tội Phản Bội Tổ Quốc Của Đảng Cộng Sản Việt Nam - Luật Sư Nguyễn Hữu Thống

4 Tội Phản Bội Tổ Quốc Của Đảng Cộng Sản Việt Nam

Luật Sư Nguyễn Hữu Thống

"… Bằng kế hoạch thôn tính 4 bước, đế quốc Bắc Kinh buộc Hà Nội hiến dâng toàn thể hải phận Việt Nam từ Vịnh Bắc Việt đến vùng biển Hoàng Sa Trường Sa …"

- Năm 1999 Đảng Cộng Sản Việt Nam ký Hiệp Định Biên Giới Việt Trung để nhượng đất biên giới cho Trung Quốc.
- Năm 2000, Đảng Cộng Sản Việt
Nam ký Hiệp Định Phân Định Vịnh BắcBộ để bán nước Biển Đông cho Trung Quốc.
- Cũng trong năm này Đảng Cộng Sản Việt
Nam ký Hiệp Định Hợp Tác Nghề Cá để dâng cá dâng dầu cho Trung Quốc.
- Và năm 1958, bằng văn thư của Phạm Văn Đồng, Đảng Cộng Sản Việt
Nam đồng ý chuyển nhượng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
cho Trung Quốc.


Những hành vi này cấu thành 4 tội phản bội tổ quốc bằng cách "cấu kết với nước ngoài nhằm xâm phạm chủ quyền của quốc gia, xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc và xâm phạm quyền của quốc dân được sử dụng đầy đủ những tài nguyên và nguồn lợi thiên nhiên của đất nước".
Đây là bản đồ nguyên gốc từ .... phương bắc:



I. TỘI NHƯỢNG ĐẤT BIÊN GIỚI CHO NƯỚC NGOÀI

Năm 1949, sau khi thôn tính lục địa Trung Hoa, mục tiêu chiến lược của Quốc Tế Cộng Sản là nhuộm đỏ hai bán đảo Đông Dương và Triều Tiên.

Qua năm sau, 1950, với sự yểm trợ của các chiến xa Liên Xô và đại pháoTrung Quốc, Bắc Hàn kéo quân xâm lăng Nam Hàn. Mục đích để giành yếu tố bất ngờ. Tuy nhiên âm mưu thôn tính không thành do sự phản kích của quân lực Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc.

Từ 1951 cuộc chiến bất phân thắng bại đưa đến hòa đàm. Hai năm sau Chiến Tranh Triều Tiên kết thúc bởi Hiệp Định Đình Chiến Bàn Môn Điếm tháng 7, 1953.

Thất bại trong chiến tranh Triều Tiên, Trung Cộng tập trung hỏa lực và kéo các đại pháo từ mặt trận Bắc Hàn xuống mặt trận Bắc Việt.

Để tiếp tế võ khí, quân trang, quân dụng, cung cấp cố vấn và cán bộ huấn luyện cho Bắc Việt, các xe vận tải và xe lửa Trung Cộng đã chạy sâu vào nội địa Việt Nam để lập các căn cứ chỉ huy, trung tâm huấn luyện, tiếp viện và chôn giấu võ khí. Thừa dịp này một số dân công và sắc dân thiểu số Trung Quốc kéo sang Việt Nam định cư lập bản bất hợp pháp để lấn chiếm đất đai.

Trong Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai khởi sự từ 1956, với các chiến dịch Tổng Công Kích, Tổng Khởi Nghĩa Tết Mậu Thân (1968) và Mùa Hè Đỏ Lửa (1972), Bắc Việt huy động toàn bộ các sư đoàn chính quy vào chiến trường Miền Nam. Thời gian này để bảo vệ an ninh quốc ngoại chống sự phản kích của quân lực Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ (như trong Chiến Tranh Triều Tiên), Bắc Việt nhờ 300 ngàn binh sĩ Trung Quốc mặc quân phục Việt Nam đến trú đóng tại 6 tỉnh biên giới Bắc Việt. Trong dịp này các binh sĩ, dân công và sắc dân thiểu số Trung Hoa đã di chuyển những cột ranh mốc về phía nam dọc theo lằn biên giới để lấn chiếm đất đai.

Trong Chiến Tranh Đông Dương Thứ Ba khởi sự từ 1979, để giành giật ngôi vị bá quyền, Trung Quốc đem quân tàn phá 6 tỉnh biên giới Bắc Việt. Và khi rút lui đã gài mìn tại nhiều khu vực rộng tới vài chục cây số vuông để lấn chiếm đất đai.

Ngày nay, dưới áp lực của Bắc Kinh, Hà Nội xin hợp thức hóa tình trạng đã rồi, nói là thể theo lời yêu cầu của các sắc dân thiểu số Trung Hoa đã định cư lập bản tại Việt Nam.

Năm 1999 họ đã ký Hiệp Ước Biên Giới Việt Trung để nhượng cho Trung Quốc khoảng 800 km2 dọc theo lằn biên giới, trong đó có các quặng mỏ và các địa danh như Ải Nam Quan, Suối Phi Khanh tại Lạng Sơn và Thác Bản Giốc tại Cao Bằng...

II. TỘI BÁN BIỂN ĐÔNG CHO NƯỚC NGOÀI

Kinh nghiệm cho biết các quốc gia láng giềng chỉ ký hiệp ước phân định lãnh thổ hay lãnh hải sau khi có chiến tranh võ trang, xung đột biên giới hay tranh chấp hải phận.

Trong cuốn Biên Thùy Việt Nam (Les Frontières du Vietnam), sử gia Pierre Bernard Lafont có viết bài "Ranh Giới Hải Phận của Việt Nam" (La Frontière Maritime du Vietnam). Theo tác giả, năm 1887, Việt Nam và Trung Hoa đã ký Hiệp Ước Bắc Kinh để phân chia hải phận Vịnh Bắc Việt theo đường kinh tuyến 108 Đông, chạy từ Trà Cổ Móng Cáy xuống vùng Cửa Vịnh (Quảng Bình, Quảng Trị). Đó là đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Hoa tại Vịnh Bắc Việt. Vì đã có sự phân định Vịnh Bắc Việt theo Hiệp Ước Bắc Kinh, nên "từ đó hai bên không cần ký kết một hiệp ước nào khác." Do những yếu tố địa lý đặc thù về mật độ dân số, số hải đảo, và chiều dài bờ biểnViệt Nam được 63% và Trung Hoa được 37% hải phận.

Năm 2000, mặc dầu không có chiến tranh võ trang, không có xung đột hải phận, bỗng dưng vô cớ, phe Cộng Sản đã ký Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ để hủy bãi Hiệp Ước Bắc Kinh 1887.

Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ là một hiệp ước bất công, vi phạm pháp lý và vi phạm đạo lý.

Bất công và vi phạm pháp lý vì nó không tuân theo những tiêu chuẩn của Tòa Án Quốc Tế, theo đó sự phân ranh hải phận phải căn cứ vào các yếu tố địa lý, như số các hải đảo, mật độ dân số và chiều dài bờ biển. Ngày nay dân số Bắc Việt đông gấp 6 lần dân số đảo Hải Nam, và bờ biển Bắc Việt dài gấp 3 lần bờ đảo Hải Nam phía đối diện Việt Nam. Ngoài ra Việt Nam có hàng ngàn hòn đảo trong khi Hải Nam chỉ có 5 hay 6 hòn. Tại miền bờ biển hễ đã có đất thì phải có nước; có nhiều đất hơn thì được nhiều nước hơn; có nhiều dân hơn thì cần nhiều nước hơn. Vì vậy hải phận Việt Nam phải lớn hơn hải phận Trung Hoa (63% và 37% theo Hiệp Ước Bắc Kinh). Và cũng vì vậy vùng biển này có tên là Vịnh Bắc Việt.

Ngày nay phe Cộng Sản viện dẫn đường trung tuyến để phân ranh hải phận với tỉ lệ lý thuyết 53% cho Việt Nam. Như vậy Việt Nam đã mất ít nhất 10% hải phận, khoảng 12.000 km2. Tuy nhiên trên thực tế phe Cộng Sản đã không áp dụng nghiêm chỉnh đường trung tuyến. Họ đưa ra 21 điểm tiêu chuẩn phân định Vịnh Bắc Việt theo đó Việt Nam chỉ còn 45% hải phận so với 55% của Trung Quốc. Và Việt Nam đã mất 21.000 km2.

Bất công hơn nữa là vì nó không căn cứ vào những điều kiện đặc thù để phân định Vịnh Bắc Việt. Tại vĩ tuyến 20 (Ninh Bình, Thanh Hóa), biển rộng chừng 170 hải lý, theo đường trung tuyến Việt Nam được 85 hải lý để đánh cá và khai thác dầu khí (thay vì 200 hải lý theo Công Ước về Luật Biển). Trong khi đó, ngoài 85 hải lý về phía tây, đảo Hải Nam còn được thêm 200 hải lý về phía đông thông sang Thái Bình Dương. Theo án lệ của Tòa Án Quốc Tế, hải đảo không thể đồng hóa hay được coi trọng như lục địa. Vậy mà với số dân chừng 7 triệu người, đảo Hải Nam, một tỉnh nhỏ nhất của Trung Quốc, đã được hưởng 285 hải lý để đánh cá và khai thác dầu khí. Trong khi đó 42 triệu dân Bắc Việt chỉ được 85 hải lý. Đây rõ rệt là bất công quá đáng. Bị án ngữ bởi một hải đảo (Hải Nam) người dân Bắc Việt bỗng dưng mất đi 115 hải lý vùng đặc quyền kinh tế để đánh cá và thềm lục địa để khai thác dầu khí. .

Hơn nữa, Hiệp Ước này còn vi phạm đạo lý vì nó đi trái với những mục tiêu và tôn chỉ của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền như Công Lý, Bình Đẳng, Hữu Nghị, không cưỡng ép, không thôn tính và không lấn chiếm.

III. TỘI DÂNG CÁC TÀI NGUYÊN VÀ NGUỒN LỢI THIÊN NHIÊN CHO NƯỚC NGOÀI

Cùng ngày với Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ, Đảng Cộng Sản Việt Nam còn ký Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá.

Ngày 15-6-2004, Quốc Hội phê chuẩn Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ. Tuy nhiên, trái với Điều 84 Hiến Pháp, Hiệp Ước Đánh Cá không được Quồc Hội phê chuẩn, chỉ được Chính Phủ "phê duyệt".

Theo Hiệp Ước sau này, hai bên sẽ thiết lập một vùng đánh cá chung rộng 60 hải lý, mỗi bên 30 hải lý, từ đường trung tuyến biển sâu nhiều cá, khởi sự từ vĩ tuyến 20 (Ninh Bình, Thanh Hóa) đến vùng Cửa Vịnh tại vĩ tuyến 17 (Quảng Bình, Quảng Trị).

Tại Quảng Bình biển rộng chừng 120 hải lý, theo đường trung tuyến Việt Nam được 60 hải lý. Trừ 30 hải lý cho vùng đánh cá chung, ngư dân chỉ còn 30 hải lý gần bờ. Trong khi đó Hải Nam được 290 hải lý để đánh cá.

Tại Ninh Bình, Thanh Hóa, biển rộng chừng 170 hải lý, theo đường trung tuyến, Việt Nam được 85 hải lý. Trừ 30 hải lý cho vùng đánh cá chung, ngư dân chỉ còn 55 hải lý gần bờ. Trong khi đó Hải Nam được 315 hải lý.

Hơn nữa, theo nguyên tắc hùn hiệp, căn cứ vào số vốn, số tàu, số chuyên viên kỹ thuật gia và ngư dân chuyên nghiệp, Trung Quốc sẽ là chủ nhân ông được toàn quyền đánh cá ở cả hai vùng, vùng đánh cá chung và vùng hải phận Trung Hoa.

Ngày nay Trung Quốc là quốc gia ngư nghiệp phát triển nhất thế giới. Trên mặt đại dương, trong số 10 tàu đánh cá xuyên dương trọng tải trên 100 tấn, ít nhất có 4 tàu mang hiệu kỳ Trung Quốc. Như vậy trong cuộc hợp tác đánh cá với Trung Quốc, Việt Nam chỉ là cá rô, cá riếc sánh với cá mập, cá kình:

a. Trong số 17 quốc gia ngư nghiệp phát triển trên thế giới có tàu đánh cá lớn trọng tải trên 100 tấn, một mình Trung Quốc chiếm hơn 40 % số tàu, so với 5% của Hoa Kỳ, 3% của Nhật Bản và 2% của Đại Hàn, (Việt Nam không có mặt trong số 17 quốc gia này).

b. Các tàu đánh cá lớn này có trang bị các lưới cá dài với tầm hoạt động 60 dặm hay 50 hải lý. Do đó đoàn ngư thuyền Trung Quốc không cần ra khỏi khu vực đánh cá chung cũng vẫn có thể chăng lưới về phía tây sát bờ biển Việt Nam để đánh bắt hết tôm cá, hải sản, từ Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh tới Quảng Bình, Quảng Trị. Chăng lưới đánh cá tại khu vực Việt Nam là vi phạm hiệp ước. Tuy nhiên các đội tuần cảnh duyên hải Việt Nam sẽ ngoảnh mặt làm ngơ. Là cơ quan kinh tài của Đảng, họ sẽ triệt để thi hành chính sách thực dụng làm giàu với bất cứ giá nào, kể cả bằng sự cấu kết với ngoại bang vi phạm luật pháp và hiệp ước.

Trong cuộc hùn hiệp hợp tác này không có bình đẳng và đồng đẳng. Việt Nam chỉ là kẻ đánh ké, môi giới mại bản, giúp cho Trung Quốc mặc sức vơ vét tôm cá hải sản Biển Đông, để xin hoa hồng (giỏi lắm là 10%, vì Trung Quốc có 100% tàu, 100% lưới và 95% công nhân viên).

c. Rồi đây Trung Quốc sẽ công nhiên vi phạm Hiệp Ước Hợp Tác Đánh Cá cũng như họ đã thường xuyên vi phạm Công Ước về Luật Biển. Chiếu Công Ước này các quốc gia duyên hải có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý để đánh cá. Nhưng cũng có nghĩa vụ phải bảo toàn và dinh dưỡng ngư sinh để dành hải sản cho biển cả và các thế hệ tương lai. Trung Quốc đã trắng trợn và thường xuyên vi phạm Công Ước về Luật Biển trong chính sách "tận thâu, vét sạch và cạn tàu ráo máng" áp dụng từ thời Đặng Tiểu Bình. Đó là chính sách thực dụng mèo đen mèo trắng, làm giàu là vinh quang, làm giàu với bất cứ giá nào.

Từ hơn 1/4 thế kỷ theo kinh tế thị trường, với sự phát triển công kỹ nghệ, thương mại, đánh cá và khai thác dầu khí, ngày nay tại vùng duyên hải Trung Hoa, các tài nguyên, hải sản và nguồn lợi thiên nhiên như tôm cá, dầu khí đã cạn kiệt. Trong khi đó nhu cầu canh tân kỹ nghệ hóa và nạn nhân mãn (của 1 tỉ 380 triệu người) đòi hỏi Trung Quốc phải mở rộng khu vực đánh cá và khai thác dầu khí xuống Miền Nam.

d. Với hơn 25 năm kinh nghiệm trong nghề cá, Trung Quốc đã huấn luyện được một đội ngũ công nhân viên đông đảo gồm các kỹ thuật gia, chuyên viên điện tử, và ngư dân có tay nghề. Trong khi đó về phía Việt Nam chỉ có một số công nhân không chuyên môn để sai phái trong các công tác tạp dịch hay công tác vệ sinh như rửa cá, rửa tàu v...v... Và rồi đây, bên cạnh các lao động nô lệ xuất khẩu tại Đông Nam Á , chúng ta sẽ có thêm một số lao động nô lệ tại Biển Đông trên các tàu đánh cá xuyên dương Trung Quốc.

IV. TỘI CHUYỂN NHƯỢNG CÁC QUẦN ĐẢO HOÀNG SA TRƯỜNG SA CHO NƯỚC NGOÀI

Với đà này Đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ nhượng nốt các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng. Họ đã nhiều lần công bố ý định này:

1. Ngày 15-6-1956, ngoại trưởng Ung Văn Khiêm minh thị tuyên bố: "Hà Nội nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa".

2. Ngày 14-9-1958 qua lời Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Đảng, Chủ Tịch Nước, xác nhận chủ quyền hải phận của Trung Quốc tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

3. Để biện minh cho lập trường của Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng, sau khi Trung Cộng tiến chiếm Trường Sa hồi tháng 3-1988, báo Nhân Dân, cơ quan chính thức của Đảng Cộng Sản trong số ra ngày 26-4-1988 đã viết: "Trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược thì Việt Nam phải tranh thủ sự gắn bó của Trung Quốc, và ngăn chặn Hoa Kỳ sử dụng 2 quần đảo nói trên". Đây chỉ là lời ngụy biện. Vì tại Thái Bình Dương, Hoa Kỳ có Đệ Thất Hạm Đội nên không cần đến các hải đảo Trường Sa và Hoàng Sa để làm căn cứ xuất phát hay địa điểm chỉ huy.

4. Và hồi tháng 5-1976, báo Saigon Giải Phóng trong bài bình luận việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng võ lực đầu năm 1974, đã viết: "Trung Quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí, mà còn là người thầy tin cẩn đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có ngày hôm nay. Vì vậy chủ quyền Hoàng Sa thuộc Việt Nam hay thuộc Trung Quốc cũng vậy thôi".

Từ 1956, mục tiêu chiến lược của Đảng Cộng Sản Việt Nam là "giải phóng Miền Nam" bằng võ lực. Để chống lại Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Đồng Minh, Hà Nội hoàn toàn trông cậy vào sự cưu mang nhiệt tình của người thầy phương Bắc. Vì sau cái chết của Stalin năm 1953, Lien Xô chủ trương chung sống hòa bình với Tây Phương, trong khi Mao Trạch Đông vẫn tuyên bố "sẽ giải phóng một ngàn triệu con người Á Châu khỏi ách Đế Quốc Tư Bản".

Mà muốn được cưu mang phải cam kết đền ơn trả nghĩa. Ngày 14-9-1958, qua Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Đảng, Chủ Tịch Nước cam kết chuyển nhượng cho Trung Quốc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Qua năm 1959, Đảng Cộng Sản phát động chiến tranh Giải Phóng Miền Nam.

Có 3 lý do được viện dẫn trong cam kết này:

a. Vì Hoàng Sa, Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến 17-7 (Quảng Trị-Cà Mâu) nên thuộc hải phận Việt Nam Cộng Hòa. Đối với Hà Nội nhượng Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc trong thời điểm này chỉ là bán da gấu! (không phải tài sản của mình).

b. Sau này do những tình cờ lịch sử, nếu Bắc Việt thôn tính được Miền Nam thì mấy hòn đảo san hô tại Biển Đông đâu có ăn nhằm gì so với toàn thể lãnh thổ Việt Nam?

c. Giả sử cuộc "giải phóng Miền Nam" không thành, thì việc Trung Cộng chiếm Hoàng Sa Trường Sa thuộc lãnh hải Việt Nam Cộng Hòa cũng có tác dụng làm suy yếu phe quốc gia về kinh tế, chính trị, chiến lược và an ninh quốc phòng.

Bản đồ "chín gạch" về "biển lưỡi rồng"
do Trung quốc áo đặt từ 1949


KẾ HOẠCH THÔN TÍNH BIỂN ĐÔNG CỦA TRUNG CỘNG

Năm 1982, với tư cách ngũ cường thuộc Hội Đồng Bảo An có quyền phủ quyết, Trung Cộng hoan hỷ ký Công Ước về Luật Biển. Ký xong Công Ước, Bắc Kinh mới thấy lo! Theo Công Ước các quốc gia duyên hải chỉ có 200 hải lý, vừa là vùng đặc quyền kinh tế để đánh cá, vừa là thềm lục địa để khai thác dầu khí. Trong khi đó Hoàng Sa tọa lạc ngoài lục địa Trung Hoa 270 hải lý, và Trường Sa cách Hoa Lục 750 hải lý, nên không thuộc hải phận (thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế đánh cá) của Trung Quốc.

Vì vậy, cuối năm 1982, Bắc Kinh tập hợp 400 học giả Trung Hoa ngày đêm nghiên cứu thảo luận ròng rã trong suốt 10 năm, để kết luận rằng "Nam Hải là Biển Lịch Sử của Trung Quốc từ thời Hán Vũ Đế ".

Đây là thái độ trịch thượng võ đoán của phe đế quốc, cũng như Đế Quốc La Mã thời xưa coi Địa Trung Hải là "biển lịch sử của chúng tôi!"

Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc nằm sát bờ biển, cách Quảng Ngãi 40 hải lý, cách Nam Dương 30 hải lý, cách Mã Lai và Phi Luật Tân 25 hải lý. Nó bao gồm toàn thể vùng biển Hoàng Sa Trường Sa và chiếm trọn 3 túi dầu khí đang khai thác là Tứ Chính (Vanguard) của Việt Nam, Natuna của Nam Dương và Cỏ Rong (Reed Bank) của Phi Luật Tân.

Tuy nhiên về mặt pháp lý, nếu Ấn Độ Dương không phải là đại dương của Ấn Độ, thì Nam Hải cũng không phải là biển của Trung Hoa về phía Nam.

Vả lại theo Tòa Án Quốc Tế La Haye, biển lịch sử chỉ là nội hải. Hơn nữa Thuyết Biển Lịch Sử của Trung Quốc cũng bị Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển bác bỏ trong Điều 8: "Biển lịch sử hay nội hải của một quốc gia tọa lạc trong lục địa hay đất liền, bên trong bờ biển hay đường căn bản" (đường căn bản là lằn mực thủy triều xuống thấp).

Do đó Biển Nam Hoa hay Nam Hải không phải là Biển Lịch Sử của Trung Quốc vì nó là ngoại hải và cách lục địa Trung Hoa hơn 2000 cây số.

Và công trình 10 năm nghiên cứu của 400 học giả Trung Hoa chỉ là công "dã tràng xe cát Biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì"!

Thất bại trong thuyết Biển Lịch Sử, Trung Cộng đề ra kế hoạch 4 bước để xâm chiếm Biển Đông về kinh tế:

1. Ký kết Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ năm 2000 để hủy bãi Hiệp Ước Bắc Kinh 1887 (theo đó Việt Nam được 63% và Trung Hoa được 37%. Nếu theo đường trung tuyến, hai bên được chia đều 50%. Tuy nhiên trên thực tế, Trung Cộng không theo đường trung tuyến và đã đề ra 21 điểm tiêu chuẩn phân định theo đó Việt Nam chỉ còn 45% so với 55% của Trung Hoa.

2. Ký kết Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá năm 2000 để thiết lập Vùng Đánh Cá Chung 60 hải lý. Và Việt Nam chỉ còn 25% tại vĩ tuyến 17, và 32% tại vĩ tuyến 20. Với các tàu đánh cá viễn duyên, với các lưới cá dài 50 hải lý, và nhất là với sự cấu kết đồng lõa của đội tuần cảnh duyên hải Việt Nam, toàn thể Vịnh Bắc Việt sẽ biến thành khu đánh cá tự do cho đội kình ngư Trung Quốc mặc sức tận thu, vét sạch, và cạn tàu ráo máng.

3. Từ đánh cá chung đến hợp tác khai thác dầu khí chỉ còn một bước. Trong Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt có điều khoản quy định rằng, khi dầu khí được phát hiện, hai bên sẽ khởi sự hợp tác khai thác dầu khí. Dầu khí là do các chất hữu cơ kết tụ trong các thủy tra thạch kết tầng dưới đáy biển. Các chất hữu cơ này được nước phù sa Sông Hồng Hà từ Vân Nam và Sông Cửu Long, con sông dài nhất Đông Nam Á, từ cao nguyên Tây Tạng đổ ra Biển Đông từ cả triệu năm nay. Do đó dầu khí nếu có, là do các chất hữu cơ từ lục địa Việt Nam, chứ không phải từ Hoa Lục. Mặc dầu vậy, tại Vịnh Bắc Việt, Trung Quốc đã đề ra nhiều dự án thăm dò và khai thác dầu khí, như "Dự Án Quỳnh Hải" bên bờ đảo Hải Nam và "Dự Án Vịnh Bắc Bộ" phía Bắc vĩ tuyến 20. (Khi dùng danh xưng "Vịnh Bắc Bộ", Trung Quốc mặc nhiên nhìn nhận rằng đó là Vịnh của Việt Nam về phía Bắc. Vì nếu là củaTrung Hoa thì phải gọi là Vịnh Nam Bộ mới đúng địa lý).

4. Với chính sách vết dầu loang, sau khi thành tựu kế hoạch đánh cá và khai thác dầu khí chung tại Bắc Việt, hai bên sẽ tiến tới việc hợp tác đánh cá và khai thác dầu khí chung tại miền duyên hải Trung và Nam Việt. Điều đáng lưu ý là vùng lãnh hải này thuộc thềm lục địa và khu đặc quyền kinh tế đánh cá 200 hải lý của Việt Nam nên thuộc chủ quyền tuyệt đối của Việt Nam. Ở đây không có sự trùng điệp hay chồng lấn hải phận như trường hợp Vịnh Bắc Việt.

Không ai ngu dại gì cho người nước ngoài đến đánh cá và khai thác dầu khí chung tại thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế riêng của nước mình. Chiếu Điều 77 Luật Biển, thềm lục địa thuộc chủ quyền tuyệt đối của quốc gia duyên hải. Mọi sự chiếm cứ bất cứ từ đâu tới cũng đều vô hiệu, nhất là chiếm cứ võ trang (trường hợp Trung Cộng dùng võ trang chiếm Hoàng Sa năm 1974 và Trường Sa từ năm 1988).

Bằng kế hoạch thôn tính 4 bước, đế quốc Bắc Kinh buộc Hà Nội hiến dâng toàn thể hải phận Việt Nam từ Vịnh Bắc Việt đến vùng biển Hoàng Sa Trường Sa theo lời cam kết của Hồ Chí Minh (Phạm Văn Đồng chỉ là kẻ thừa sai, bất lực, vô quyền, không có cả quyền bổ nhiệm một thứ trưởng theo lời tự thú của đương sự).

Như vậy, Thuyết Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc từng bị Công Ước về Luật Biển và Tòa Án Quốc Tế bác bỏ, nay sẽ trở thành hiện thực do kế hoạch 4 bước thôn tính Biển Đông của Trung Cộng. Vì quyền lợi riêng tư, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã táng tận lương tâm nhượng đất, bán nước, dâng cá dâng dầu và dâng các hải đảo cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc.

Hành động như vậy Đảng Cộng Sản Việt Nam đã 4 lần phản bội Tổ Quốc.

Vì những lý do nêu trên:

Thay mặt đồng bào trong nước không còn quyền được nói
Trước Tòa Án Quốc Dân và Tòa Án Lịch Sử
ỦY BAN LUẬT GIA BẢO VỆ DÂN QUYỀN
KẾT ÁN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ 4 TỘI PHẢN BỘI TỔ QUỐC

Luật sư Nguyễn Hữu Thống

Nguồn:http://nguyenhuutho ng.blogspot. com/