Monday, November 24, 2008

Chuyện Chó và Người


Tuấn Phan

Tôi rất vui hôm nay có hai vị “đồng minh” HungNhuBui và NguyenThu Ana lên tiếng bênh vực lòai chó, để chúng không bị oan ức và miệt thị bởi có người vô cớ đem chó ra … đánh hay chửi họăc ví chó như VC! Trước đây đã lâu, tôi cũng từng lên tiếng về chó và đưa ra một thí dụ có thật hồi tôi làm việc ở QĐ 4 Cần Thơ:

Số là anh Trung sĩ TB là XNV truyền hình Quân Đội có đặt một cái bàn ngay cửa ra vào một văn phòng của Khối CTCT. Trên bàn dưới mặt kiếng là mảnh giấy cỡ nửa trang giấy đánh máy ghi đậm dòng chữ, lâu ngày quá không nhớ chính xác 100%, với nội dung như sau: “TỪ NGÀY TÔI GIAO TIẾP VỚI CON NGƯỜI, TÔI CHỈ THÍCH CHÓ”!

Kẻ ra người vào dễ nhìn thấy câu nầy, có người cảm thấy rất khó chịu nó và đề nghị anh chàng TB dẹp đi! Về sau không rõ số phận câu “châm ngôn” của chàng Trung sĩ TB tuy trắng trợn nhưng rất thực tế, có lẽ rút từ kinh nghiệm đau đớn trong đời đã một hay nhiều lần bị phản bội chua cay. Tôi xin nói một vài ưu điểm của chó và con người lợi dụng các ưu điểm này để bắt chó phục vụ cho mình. Hai ưu điểm quan trọng của chó là sự TRUNG THÀNH và sự CANH GIỮ.

Chó có bản năng canh giữ, bảo vệ và báo động cho chủ. Chó được huấn luyện chu đáo (biệt danh K-9 hay Quân Khuyển) đã góp công sức lớn lao cho chiến trận, truy tầm thủ phạm, cùng các đồ quốc cấm. Nhiều con chó nổi tiếng với chiến công hiển hách, khi chết cũng được mồ yên mả đẹp, lập bia, truy điệu v.v… như một quân nhân.

Đặc biệt trước Hiệp Định Genève 1954, ở miền Nam ít có người ăn thịt chó nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long nơi có đa số tín đồ PGHH. Trong Lời Khuyên Bổn Đạo, Đức Thầy không cho phép tín đồ ăn thịt ba con vật vốn gắn bó chặt chẽ cuộc sống vật chất lẫn tình cảm với người dân nông thôn: TRÂU, CHÓ, BÒ.

Trâu bò là hai đại gia súc giúp cày cấy, chuyên chở nông phẩm, có giá trị lao động rất lớn nếu lạm sát sẽ tổn hại nặng nghề nông vào thời bấy giờ Việt Nam còn là xứ thuộc địa Pháp và đang nhiễu nhương giặc giã. Vai trò của chó vào thời nầy cũng không kém phần quan trọng là canh giữ xóm làng, báo động gian phi, trộm đạo nhất là ban đêm khi nông dân thường tự bảo vệ an ninh địa phương bằng tầm vông, giáo mác …

Chó trung thành vô điều kiện. Do bản năng trung thành, chó KHÔNG BAO GIỜ PHẢN CHỦ, trừ khi nó điên cắn bậy, cắn càn mà thôi. Đói hay no, được trìu mến hay bị ngược đãi chó lúc nào cũng vẫy đuôi mừng chủ cho nên nếu người nào biểu lộ bản tánh nầy của chó thì bị cho là NGU TRUNG, tức trung thành một cách mù quáng, bất phân biệt chủ phải trái, hiền từ hay gian ác …. ; Đây là hạng người bị đầu độc tư tưởng hay bị bùa mê thuốc lú mà một chiến hữu hay gọi là lọai “MẶT NGƯỜI TIM CHÓ” hiện không thiếu trong cộng đồng NV Tỵ Nạn CS hải ngoại.

Ngược lại loại người ngu trung là loại người PHẢN BỘI với đầu óc rất tỉnh táo, sáng suốt ở ngôi vị làm … “thầy” dạy đạo lý cho thiên hạ. Hạng “thầy” này sống bình an trong chùa, miễn ra trận mạc trong suốt cuộc chiến Việt Nam tàn khốc.

Hạng “thầy chùa” nầy sống sung sướng nhờ sự cúng dường hậu hỉ của bá tánh là thân nhân ruột thịt của các anh chiến sĩ VNCH đang dầm sương, dãi nắng, đổ máu xương chống lại giặc Cộng ngòai tiền tuyến. Nhưng hạng “thầy chùa” nầy lại nhẫn tâm biến thành những tên GIẶC THẦY CHÙA, phản bội Ân Đàn Na Thí Chủ (*) tức là những người Phật tử VNCH thường xuyên đến chùa lễ Phật, cúng dường nuôi sống chúng và đau đớn nhất là chúng đã PHẢN THẦY:

1. Chúng phản bội Quốc Gia, quậy nát hậu phương VNCH, trở giáo mác, lựu đạn, AK 47, B 40 … hướng sau lưng chiến sĩ VNCH. Chúng ăn cơm gạo Quốc Gia nhưng góp công lớn cho giặc Cộng. Ngày 30-4-1975, bọn giặc thầy chùa này mừng đón “quân giải phóng VC” và sau đó mừng sinh nhật Hồ Chí Minh, tức thờ Đại Ác Ma Cộng Sản.

2. Chúng phản bội Đức Thế Tôn, trắng trợn và công khai phá họai Phật Giáo khi chúng đem bàn thờ Phật từ chùa, tư gia ra đặt ở lề đường, đội nắng hứng mưa, bụi bậm hôi thối bên cạnh cống rãnh, bãi rác. Chúng còn giết người hết sức dã man bằng nướng sống thịt người trong lửa đỏ mà chúng dám huyênh hoang là … cúng dường Tam Bảo (!?)

Tội ác tày trời như thế, khi chết chắc chắn bọn giặc thầy chùa nầy chỉ còn con đường là nối đuôi, kéo nhau xuống Ngục A Tỳ muôn kiếp. Thế mà chúng không ngượng miệng luôn la làng lên rằng chúng vì Đạo Pháp và Dân Tộc để lừa bịp lịch sử.

Chó trung thành theo bản năng nhưng không bao giờ phản chủ, còn chúng – tập đoàn Giặc Thầy Chùa đã PHẢN BỘI có hệ thống, phản bội từ Đức Phật Tổ thiêng liêng xuống đến hạng chúng sanh phàm phu mà chúng luôn tự nhận là “lãnh đạo tinh thần” của họ! Ngày xưa, chúng là ai, bây giờ chúng là ai, xin miễn nói tên, chỉ nhắc tới chúng nhân đề tài CHÓ và nhớ lại câu viết trên bàn của anh lính VNCH thuộc QĐ IV: “Từ ngày tôi giao tiếp với người, tôi chỉ thích … chó”!

Tuấn Phan

- Một thiện nam trong tôn giáo nhà Phật và nạn nhân VC (với sự đồng lõa của GHPGVNTN).

(*) Ân ĐÀN NA THÍ CHỦ: Đối với những kẻ xuất gia quy y đầu Phật, phụ vào những ân huệ đã thọ như đã nói trên [của đồng bào và nhân lọai – TP], họ còn phải trực tiếp chịu ân của đàn na thí chủ, nghĩa là những thiện nam tín nữ có hảo tâm cung cấp những vật dụng cần thiết cho họ. Họ nhờ đến hột cơm, miếng vải, đến thuốc men để sanh sống. Rốt lại họ phải nhờ đến sự nuôi dưỡng hoàn toàn của những kẻ tốt lòng.

Với quần sanh, họ mang cái ân rất nặng nên họ phải dìu dắt sinh linh đi tầm Chân Lý đặng đáp tạ tấm lòng chiếu cố của Thiện Tín. (- Lời Đức Thầy)




Sunday, November 23, 2008

Phan Nhật Nam lươn lẹo chữ nghĩa, đầu hàng việt gian cộng sản!

Trần Thanh

Ðể thực hiện nghị quyết 36, bọn tay sai của cộng sản thường lươn lẹo chữ nghĩa, sáng tác những bài thơ, nhạc, văn có nội dung "chống cộng" nhưng thực chất là ca ngợi cộng sản! Có nhiều bài viết "chửi" cộng sản rất dữ: -nào là cải cách ruộng đất, nào là tết Mậu Thân, nào là Hoàng Sa, Trường Sa, nào là dân oan, nào là tham nhũng ..v..v.. Nhưng đến phần kết luận thì bọn bồi bút thường hạ bút kêu gọi:

- Thôi, nói chung thì chuyện cũ nên bỏ qua, xóa bỏ hận thù. Việt cộng hay quốc gia cũng là người Việt với nhau, là anh em cùng một bọc trứng! Bây giờ hai bên nên cùng hòa hợp, hòa giải để cùng chung sức xây dựng đất nước, cùng đứng dưới lá cờ đỏ sao vàng để chống giặc Trung Quốc xâm lược! Giặc Trung Quốc không lo chống mà cứ chống phá việt cộng làm chi???

Ðó là những tay bồi bút còn non tay ấn. Người đọc có thể nhận ra cái bản mặt tay sai của bọn chúng. Cao tay ấn hơn là hai tên đại ma đầu Bùi Tín và Vũ Thư Hiên, đang làm trùm bọn bồi bút ở hải ngoại. Những hình thức viết lách của hai tên này rất lươn lẹo, nghĩa là nọc độc rắn hổ mang được bọn chúng hòa một cách rất khéo léo vào từng giọt mực. Người đọc bị thẩm thấu từng câu từng chữ rồi chết hồi nào không hay! Tôi đã từng thấy một người quen, tuổi trên 60, từng là chiến sĩ chống cộng rất hăng , nhận xét về tờ báo Ðàn Chim Việt và Ánh Dương như thế này:

- Hai tờ báo đó thường đăng những bài viết của ông Bùi Tín, chống cộng hay quá! Ông Bùi Tín là đại tá của việt cộng đã từng bắt sống tổng thống Dương Văn Minh đó chớ! Ông Bùi Tín ổng chống cộng dữ lắm, ổng chửi việt cộng te tua! Ổng dám chửi luôn mấy thằng trong bộ chính trị. Nghe nói ổng là người cộng sản phản tỉnh! Ổng gan quá!

Một ông bạn già khác thấy vậy bực bội, văng tục:

- Thằng Bùi Tín là thằng điếm chính trị, tại ông không biết đó thôi. Nó ngồi ở Paris nó chửi cộng sản thì có cái đéo gì mà gan! Mấy người dân oan ở Hà Nội mà còn dám đứng trước dinh thủ tướng của thằng Nguyễn Tấn Dũng, tuột quần, cởi truồng 100%, chửi tụi nó, "mời" tụi nó ra ăn với uống! Người dân ở trong nước bây giờ đã dám chửi cộng sản ngay trước mũi súng của cộng sản. Mấy thằng bồi bút ở hải ngoại thì im re! Ai hèn hơn ai?

Công thức nọc độc rắn hổ mang của Bùi Tín pha chế như thế nào mà đã đầu độc được khá nhiều người?

Ðại khái, hắn lấy ra từ gốc chỉ đạo của bộ chính trị rồi chỉ thị cho bọn bồi bút phải viết theo công thức như thế này:

1. Người cộng sản và người quốc gia đều có công với đất nước và bảo vệ tổ quốc:

- Người cộng sản có "công" đánh đuổi giặc Pháp và giặc Mỹ, điển hình là trận Ðiện Biên Phủ và biến cố ngày 30 - 4 - 1975.

- Người quốc gia có công bảo vệ Hoàng Sa, điển hình là trận hải chiến năm 1974 với Trung Cộng, thiếu tá hạm trưởng Ngụy Văn Thà tử trận.

2. Người quốc gia yêu nước theo kiểu của người quốc gia, người cộng sản yêu nước theo kiểu của người cộng sản. Cả hai đều yêu nước nhưng chỉ khác nhau ở hình thức thể hiện!

3. Bác Hồ vừa có công vừa có tội đối với đất nước. Nhưng trước hết bác Hồ vẫn là nhà ái quốc chớ không phải là việt gian!

4. Chính vì có "công" với đất nước cho nên người cộng sản vẫn xứng đáng để cai trị đất nước, cho dù họ có phạm những tội ác tày trời hoặc sai lầm to lớn đến đâu đi chăng nữa!

5. Chính vì có "công" với đất nước (thắng trận Ðiện Biên Phủ) nên không thể gọi những người cộng sản là "việt gian"!!!

6. Những người quốc gia cũng có công với đất nước nhưng công trạng của họ so với người cộng sản thì quá ít ỏi, nhỏ bé. Nếu những người quốc gia ở hải ngoại muốn cùng chia sẻ quyền cai trị đất nước thì người cộng sản sẵn sàng chia bớt một số quyền hành, chẳng hạn như cho làm đại biểu quốc hội, được làm chủ tịch xã, chủ tịch phường, công an giao thông, công an khu vực để gọi là được hưởng chút vinh thân phì gia, kiếm chút cháo! Chỉ cần làm chủ tịch xã là cũng có quyền .... cướp đất của dân rồi!

7. Phải hướng tất cả lòng căm thù của người dân vào bọn "giặc" Trung Quốc xâm lược để làm họ quên đi kẻ thù ngay trước mắt là "phe ta" (việt gian cộng sản)

8. Phao tin là có hai "phe" trong nội bộ đảng, một phe thân Trung Quốc, một phe thân Mỹ. Phao tin là sắp có đảo chánh, phe thân Mỹ do Nguyễn Tấn Dũng cầm đầu sẽ chiến thắng và sẽ mời những "nhân sĩ" ở hải ngoại về nắm chính quyền, ví dụ như những nhân vật:

-Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Chí Thiện, Trần Phong Vũ, Phan Nhật Nam, Ðỗ Thị Thuấn, Ðỗ Thái Nhiên ....v..v..

Các tờ báo như VietWeekly, Người Việt, Ánh Dương, Ðàn Chim Việt cũng sẽ được mời về để tham gia chính quyền, có thể sẽ được tham gia vào trung ương đảng!

Ðây, chân dung một "hiền huynh" của Alibaba!

Mới đây "nhà văn" Phan Nhật Nam đã sáng tác một bài thơ, mang tựa đề: Tổ quốc chúng tôi không là 'chế độ các anh'*. Nếu đối chiếu bài thơ này với công thức nọc rắn hổ mang nói trên thì ta thấy đúng là Phan Nhật Nam đã viết theo đơn đặt hàng của Nghị quyết 36 của việt cộng!

Trước hết chúng ta thấy cái tựa đề rất là mơ hồ, nghĩa là giải thích theo kiểu nào cũng được. Nội dung bài thơ là "chửi" cộng sản nhưng thật ra là ca ngợi cộng sản! Nếu nói theo giọng điệu của bọn việt gian cộng sản thì cái tựa đề có thể được diễn giải như sau:

- Tổ quốc Xã Hội Chủ Nghĩa của chúng tôi không là cái chế độ Việt Nam Cộng Hòa của các anh!

Cái thâm ý lưu manh của tên phản bội Phan Nhật Nam, viết theo đơn đặt hàng của việt cộng là ở chỗ này!

Bài thơ dài lê thê gồm toàn những rác và rác. Những câu rác rưởi thơ được cố tình viết ra để làm hoa mắt người đọc, kèm theo một đống những từ ngữ ngô nghê, mù mờ, vô nghĩa, lươn lẹo. Nhiều câu thơ dài ngắn loạn xà ngầu đan xen kẽ với nhau, cố tình lập dị một cách vô lối, lố bịch, làm dáng ra vẻ như bài thơ Ðồng Lầy của tác giả Vô Danh! Tất cả những cái này chỉ là mục tiêu giả. Mục tiêu thật của Phan Nhật Nam nằm trong những câu sau đây, nằm trong phần đầu của bài thơ khoảng 20 câu:

- Giữa vùng nước phương Nam này chiến hạm Hải Quân 10 Nhật Tảo, hòa máu Ngụy Văn Thà đổ xuống đậm sắc biển xanh ...

- Có còn không Bộ Ðội vây trận Ðiện Biên?

- Quân lực Cộng Hòa đã thật gẫy tan nòng pháo!

- Sử Việt không nên viết từ "Cách Mạng Mùa Thu, Tuyên Ngôn Tháng Chín" Nhưng bởi giòng máu lệ kiên cường chung phần độc dược. Phan Thanh Giản uống cạn nghĩa tận trung báo quốc. Vệ Quốc Quân chết trên đồi Hồng Cúm, Him Lam

- Ðể Hồn Nước ngời ngời hơi thở lộng mỗi khắc giây

- Ðể Tự Do hiến trọn ý nghĩa cao thượng cho Người

- Và Ðộc Lập khởi dậy tầng tầng kiêu hãnh

Toàn bộ bài thơ, kể cả phần Chú Thích gồm khoảng 150 câu. Khi đọc xong bài thơ,những chữ đập vào trí óc và còn ghi lại trong đầu của người đọc chính là những chữ:

- Bộ Ðội, Ðiện Biên Phủ

- Vệ Quốc Quân, Hồng Cúm, Him Lam

- Ðộc Lập, Tự Do, Người

Nên nhớ tất cả những chữ này đều được viết hoa. Sở dĩ người đọc sẽ ghi nhớ những chữ này vì nó đã được guồng máy tuyên truyền của việt cộng nhắc đi nhắc lại hàng tỷ lần. Người dân Việt Nam, trừ lúc ngủ, còn những lúc thức, suốt ngày đều phải bị nhồi nhét những từ ngữ nói trên vào đầu. Ðặc biệt chữ "người" mà được viết hoa, chắc chắn đó phải là thằng Hồ Chí Minh chớ không ai khác!

Như vậy cái ý chính trong bài thơ này chính là muốn nói:

1. Hồ Chí Minh là người yêu nước, đem lại độc lập, tự do cho đất nước (Có sự liên hệ giữa những chữ "Ðộc lập-Tự Do-Người" diễn tả qua hai câu thơ)

2. Những người cộng sản là những người có công đánh đuổi giặc Pháp (Bộ Ðội - Ðiện Biên Phủ, Vệ Quốc Quân-Hồng Cúm-Him Lam)

3. Người quốc gia có công đánh nhau với Trung Cộng để bảo vệ Hoàng Sa năm 1974 (Hải Quân 10 Nhật Tảo- Ngụy Văn Thà)

4. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa bị thua trận (Quân lực Cộng Hòa đã thật gãy tan nòng pháo!)

5. Người cộng sản và người quốc gia đều có công với đất nước nhưng công của người cộng sản nhiều hơn, do đó họ xứng đáng để lãnh đạo đất nước, còn người quốc gia bất quá chỉ được làm chủ tịch phường, chủ tịch xã là cùng!!!

Ngoài ra, chúng ta cần lưu ý đến sự lươn lẹo của tên bưng bô cho việt cộng Phan Nhật Nam, qua cách dùng chữ:

" ...nguyên phẩm tính Lính Cộng Hòa gục ngã Cổ Thành Ðinh Công Tráng(5)
Ðể Hồn Nước ngời ngời hơi thở lộng mỗi khắc giây
để Tự Do hiến trọn ý nghĩa cao thượng cho Người
Ðộc Lập khởi dậy tầng tầng kiêu hãnh ...."

Qua mấy câu thơ này chúng ta thấy sự lưu manh và lươn lẹo của Phan Nhật Nam khi ông ta dùng nhóm chữ "Cổ Thành Ðinh Công Tráng", sau đó, trong phần Chú Thích, ông ta giải thích đó là "Cổ Thành Quảng Trị"!

Lính của quân lực VNCH chiến đấu tại Cổ Thành Quảng Trị mùa hè năm 1972. Cái tên "Cổ Thành Quảng Trị" là cái tên quen dùng bấy lâu nay. Tại sao lại nói lính Cộng Hòa chiến đấu ở Cổ Thành Ðinh Công Tráng là có ý gì? Thời Ðinh Công Tráng làm gì có lính Cộng Hòa?

Như vậy, theo ý của Phan Nhật Nam, các chiến sĩ quân lực VNCH hy sinh tại Cổ Thành Quảng Trị là hy sinh cho Người ("bác" Hồ!), và hy sinh cho Ðộc Lập, Tự Do, theo đúng công thức tuyên truyền của giặc cộng!

Tóm lại, chủ đề của bài thơ này là ca ngợi người cộng sản có công với đất nước, đánh đuổi giặc Pháp và đánh bại "giặc" Ngụy Việt Nam Cộng Hòa!

Còn tất cả những câu thơ rác lăng nhăng bên dưới, "chửi" Trung Cộng, chửi bộ chính trị nô lệ Tàu, chửi Ðỗ Mười và nhiều câu vớ vẩn, không đâu vào đâu đều chỉ là những nghi binh, những mục tiêu giả để làm hoa mắt người đọc!

Nhiều người đã nói Phan Nhật Nam hồi trước năm 1975 đã chết rồi. Cái thân xác còn sống bây giờ chỉ là cái đài phát thanh cho nghị quyết 36 của việt cộng! Ðúng lắm và rất đúng! Ðồng tiền đô la của nghị quyết 36 của việt cộng đã đánh gục khá nhiều người nổi tiếng, biến họ thành những tên phản bội, khoác áo người quốc gia "chống cộng" nhưng thực chất là đi đổ bô cho việt cộng và đâm vào sau lưng chúng ta!

Phan Nhật Nam trước năm 1975 đã chết rồi. Ông ta hoàn toàn không còn xứng đáng là chiến sĩ, là sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa nữa*. Ðừng tự xưng là cựu nhà văn quân đội, là cựu đại úy binh chủng nhảy dù nữa, nhục lắm! Và nhất là ông ta đã làm ô danh binh chủng nhảy dù! Những thiên thần mũ đỏ không có ai hèn nhát, đi đầu hàng giặc như Phan Nhật Nam! Khi nhắc đến binh chủng Nhảy Dù, ai ai cũng nhớ đến những vị anh hùng bất tử như đại úy Nguyễn Văn Ðương "Anh không chết đâu anh", hay cố đại tá Nguyễn Ðình Bảo, "Người ở lại Charlie"

Những đồng đô la dơ bẩn của việt cộng đã làm ngã gục nhiều người. Có người đã từng là khoa học gia nổi tiếng trên toàn thế giới, là cựu tư lệnh quân chủng không quân, vậy mà đã bị đảng việt gian Việt Tân xỏ mũi dắt đi như người ta dắt một con bò!!!

Buồn tủi và rất đau lòng nhưng chúng ta phải nói lên sự thật để nhiều người cùng biết và cảnh giác!

KẾT LUẬN:

Khi bày tỏ lập trường chính trị, chúng ta nên bày tỏ một cách rõ ràng, dứt khoát. Một là theo phe chính nghĩa quốc gia, hai là theo tà phái việt gian cộng sản. Những kẻ mà có những kiểu phát biểu mập mờ, nửa dơi nửa chuột, giải thích theo kiểu nào cũng được như bài thơ ví dụ nêu trên của Phan Nhật Nam, dứt khoát là những kẻ đã đầu hàng, đi bưng bô cho việt gian cộng sản! Chúng ta phải tố cáo những hạng người này!

Không thể nào nói lập lờ, gán ghép chiến lũy Ba Ðình và nghĩa quân của Ðinh Công Tráng với lính Cộng Hòa và gọi cổ thành Quảng Trị là "cổ thành Ðinh Công Tráng"!

Bài thơ nêu trên được viết theo rất đúng "công thức" của tên đại ma đầu Bùi Tín: người cộng sản có công đánh bại giặc Pháp, do đó không thể gọi họ là việt gian và bọn chúng có "công" nên xứng đáng là những kẻ cai trị đất nước!!!

Trần Thanh

Ngày 22 tháng 11 năm 2008

==============================

Phần Chú Thích:

Chú thích một:

Xin mời quý bạn đọc bịt mũi để đọc bài thơ "bưng bô" sau đây của thi sởi Phan Nhật Nam:

Tổ Quốc Chúng Tôi
Không là “chế độ các anh”

Gởi Kim Phượng,
Bằng Hữu Úc Châu nơi Phương Nam

Hãy thống hận khi Đất cha ông cướp đoạt mất
Hãy gào uất buổi Biển, Trời tổ tiên giặc chiếm, cắt
Hãy biết xót đau,
Hãy biết hờn căm,
Thấm đê nhục..
Dân Tộc cúi đầu, nín thinh, khinh miệt..
Nơi quan ải phía Bắc xa một lần Nguyễn Phi Khanh bật khóc,
nước mắt lắng sâu mạch đất.
Giữa vùng nước phương Nam nầy chiến hạm Hải Quân 10 Nhật Tảo,
hòa máu Ngụy Văn Thà đổ xuống đậm sắc biển xanh.(1)
Có còn không Bộ Đội vây trận Điện Biên? (2)
Quân lực Cộng Hòa đã thật gẫy tan nòng pháo!
Xé không gian nghe âm vọng bao lần người lính giữ nước xung phong
Tát cạn đáy bày ra vạn cốt xương lớp lớp dân oan di tản
Trời Nam bàng hoàng khốc tang
Biển Đông lềnh loang bi phẫn..
Hoàng Sa, Trường Sa..
Hãy trải rộng Nhất Thống Toàn Đồ..
Hẳn thấy lớn dài mênh mông biên cương Đại Việt
Lẽ nào bộ chính trị, ban bí thư, chủ tịch đảng, đoàn không hề hay biết?
Sử Việt không viết nên từ “Cách Mạng Mùa Thu, Tuyên Ngôn Tháng Chín”,(3)
nhưng bởi giòng máu lệ kiên cường chung phần độc dược
Phan Thanh Giản uống cạn nghĩa tận trung báo quốc.
Vệ Quốc Quân chết trên đồi Hồng Cúm, Him Lam(4)
Nguyên phẩm tính Lính Cộng Hòa gục ngã Cổ Thành Đinh Công Tráng.(5)
Để Hồn Nước ngời ngời hơi thở lộng mỗi khắc giây
Để Tự Do hiến trọn ý nghĩa cao thượng cho Người
Và Độc Lập khởi dậy tầng tầng kiêu hãnh
Việt Nam,
Tên gọi đến..
Rưng rưng nước mắt cảm xúc.
Tất cả nay đã là vô ích!
Với một chữ ký!
Hợp thức hóa một lần dâng giặc cướp!
Hoàn tất trọn một lần xong bán nước!
Đồng thuận mưu sâu Quốc Vụ Viện Bắc Kinh
Mậu Tuất, Năm “Một-ngàn chín-trăm năm-mươi-tám”.(6)
Các Vua Hùng nơi đâu?
Cuộc hành quân xẻ dọc Trường Sơn cuối cùng hóa ra thất bại
Tự Vệ Thành nổ lựu đạn tan thân,
gục đầu lên giao thông hào chống xe tăng Pháp,
Chết giữ hùng khí Thăng Long.(7)
Đảng khinh miệt gạch phăng, bôi bẩn!
Trang lịch sử linh thiêng viết bởi máu vô vàn
Vạn, triệu trái tim lẫm liệt Việt Nam yêu nước.
Tất cả nay đã là vô ích!
Không bớt lằn roi đau rạch nát tấm lưng..
Đám sinh viên oằn người trên đất cũ cha ông
Thảm nhục hứng đòn thù công an Hà Nội,
nơi “Thủ Đô Phẩm Giá Con Người”!(8)
Rùa thiêng ngượng mặt lặng sâu..
Cương thổ ngập hàng lậu thuế
Made in China.
Made in China
Đỗ Mười giữ ghế tổng bí thư thêm nhiệm kỳ
Địa giới Nam Quan cắt phăng một phần cửa ải.
Ba mươi năm hơn sau ngày “giải phóng Miền Nam”
Đà Nẵng nhìn ra bóng Hồng Kỳ đỏ ngầy mặt nước.
Chính danh, quốc sĩ mất lý nghĩa linh thiêng,
“Tình Hữu Nghị”
, món hàng tuỳ nghi miệng lưỡi,
Trung Quốc mặc tình cung cấp.
Mười năm hơn xẻ dọc Trường Sơn đánh Mỹ kiên cường
Cuối đoạt thắng..
Quê hương dầm sâu vũng bùn hôi tanh ô nhiễm
Phanh thây Dân bằng nanh vuốt sói lang
Xây dựng Nước với giấy, tiền giả mạo
Ấn chứng từ Bắc Kinh.
Nỗi đau kinh dị làm khô sôi tròng mắt,
Ôi giá như các anh còn chút lương tri,
Đôi phần trí nhớ..
Ở đâu nên “độc lập/hạnh phúc/tự do”?(9)
Họa chăng chỉ trên báo đảng
Cơ quan trung ương, món hàng cũ xưa, hư mòn, phế thải
Xứng đáng vất thiêu bãi lửa
Giải hạn oan hồn vất vưỡng cõi nghiệt Việt Nam
Để Mát-xcơ-va nên thành “thánh đô” thiện mỹ huy hoàng
Để Bắc Kinh kết tụ “chiếc nôi hòa bình” tuyệt vời thế kỷ
Âm u cặn máu cờ đỏ vàng sao
Vấy bẩn màu Bồ Đề hai ngàn năm trăm hơn Đại Phật!
Tưởng như một chuyện đời xưa..
Người chết hiện nguyên hình/râu/tóc/răng/mắt..
Theo dõi em thơ bới rác, lội cống, ngập sình
Hốt phân thối theo kế hoạch ngũ niên, quy trình tuổi nhỏ
Hoàn thiện mô hình “hạnh phúc”,
tiến lên thời kỳ quá độ.
“Khăn quàng đỏ”
không đủ lau khô giòng lệ ứa!
“tự do”
nào?!..
tự do, báo được phép đưa tin từ một nguồn kiểm duyệt
tự do, giết cướp giữa ban ngày không thể tìm ra dấu vết
tự do, phí tiêu bạc tỷ, triệu của dân
tự do, hủy phá đền, chùa, ruộng, rừng.. không cần nhận lệnh
tự do, phán quyết con người không quyền được sống..
Từ chứng tích, tội danh lý lịch quá khứ ngụy quân,
xếp nên hạng tiện dân,
phận ngặt lưu đày trên quê cha, đất tổ!
Ba mươi-ba năm sau lần “Đại Thắng Mùa Xuân”(10)
Đất nước đi lên bằng hai chân giấy, gỗ
Với khẩu hiệu ngây ngô,
Nghị quyết hàm hồ,
Kết tinh trọn vinh hoa, “Tư Bản Đỏ”.
Giai cấp (cách mạng) mới
Tổng hợp phương trình quỷ ma: “Thực dân/Vô sản”,
Nhìn xuống “bọn Sàigòn mất tên” ứ tràn khinh miệt!
Với trí hiểm tiếm danh, “Người Ái Quốc”
Với hãnh tiến tự tuyên công, “Cha Già Dân Tộc” (11)
Thây xác nằm nơi Ba Đình luôn mở mắt,
Sống tráo trở đổi tên,
Chết không hề che mặt.
Hiển hiện toàn phần chước quỷ/tính ma.
Quái thai hậu nhiên phẩm chất, khối lượng rặt ròng..
Quốc hội biểu quyết “chín-chín-phầm trăm” hơn nhất trí,
Ngàn đại biểu dùng chung một miếng khẩu trang!
Mỗi buổi sớm mai..
Mặt trời mọc nơi phương Đông vô hồi vĩnh cửu
Cũng muôn đời ô nhục
Loang thấm dần từ vết máu Hoàng, Trường Sa..

Để nhớ,

19 tháng 1, 1974-2008
Phan Nhật Nam

(1) Chiến Hạm; Hạm Trưởng/QLVNCH tử trận Hoàng Sa, 19/1/1974
(2) Chiến trường lớn kết thúc chiến tranh (1946-54)
(3) 19/8/ và 2/9/1945
(4) Đồi chiến thuật quanh vòng chảo Điện Biên Phủ
(5) Cổ Thành Quảng Trị
(6) Công hàm Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gởi Chu Ân Lai
(7) Trận chiến giữ Hà Nội 19/12/46
(8) Logos của Hà Nội trong thời kỳ chiến tranh (1960-1975)
(9) Quốc Hiệu của nhà nước cộng sản Việt Nam
(10) “30/4/1975”
(11)Những bí danh, danh hiệu của Nguyễn Tất Thành, Hồ Chí Minh..

Chú thích hai:

Còn một tay bưng bô ngoại hạng khác, bạn thân của Nguyễn Chí Thiện, đó là "sử gia" Minh Võ. Ông này cũng đã từng là sĩ quan trong quân lực VNCH. Thế nhưng ngày nay ông đã tình nguyện tham gia vào đội quân đi bưng bô cho việt cộng, viết những bài ra vẻ là "nghiên cứu, khách quan" nhưng thật ra là đâm những nhát dao thật sâu vào lưng của chúng ta! Trước đây "sử gia" Minh Võ có viết một bài đăng trên VietNam Exodus, lập luận rằng:

- "công" của người cộng sản đánh thắng thực dân Pháp lớn lắm, nhờ đó Việt Nam mới được độc lập, tự do. Nếu ngày nay người cộng sản có dâng vài chục ngàn km vuông đất và hai đảo Hoàng-Trường Sa cho Trung Cộng cũng được, so với toàn lãnh thổ nước Việt Nam, ta cũng còn "lời" chán!!!

- "công" của người cộng sản trong chiến thắng Ðiện Biên Phủ là một bằng chứng rất hiển nhiên, không ai có thể chối cãi. Những người quốc gia không thể nhận đó là công lao của họ!

Thật ra đây chỉ là lý luận của một con bò tót, đi liếm trôn và "thổi kèn" cho bọn việt gian cộng sản. Bọn việt gian cộng sản hoàn toàn không có một công lao gì với đất nước và dân tộc Việt Nam hết. Ðây là một sự khẳng định rất chắc chắn một trăm phần trăm như công thức toán học. Bọn chúng chỉ có tội và tội, không tội tày trời thì tội lớn, tội nhỏ!

Từ khi mới lọt tọt ở bên Tàu về, còn sống chui rúc ở hang Bắc Pó trong những năm 1940 - 1944 thì vốn liếng của tên Hồ tặc có trong tay chỉ là đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân, chỉ có một trung đội mà hơn phân nửa là người dân tộc Tày. Vậy thì làm sao trong vòng 8 năm sau, Hồ đã có khoảng 500 ngàn quân để đánh Pháp trên quy mô toàn quốc? Không có phép lạ nào có thể giúp Hồ tặc phát triển lực lượng nhanh đến như vậy! Câu trả lời và sự giải thích hợp lý nhất, đó là:

- Chính các lực lượng quân sự, bán quân sự của các đảng phái quốc gia, vốn đã hoạt động trong và ngoài nước từ vài thập niên trước đó đã cầm đầu cuộc những cuộc nổi dậy mà sau này Hồ tặc đã lươn lẹo, chơi trò con chim tu hú đẻ trứng, cướp trắng công của những người quốc gia và tiêu diệt họ đến gần hết!

- Nội số dân công tham gia trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ là gần một trăm ngàn người. Toàn bộ người dân tham gia đánh Pháp lúc bấy giờ, đa số vì lòng yêu nước và hầu như vào thời điểm đó hầu như không mấy ai biết rõ bộ mặt thật của Hồ tặc và cái đảng việt gian Cộng Sản của hắn. Hơn nữa, lúc bấy giờ Hồ đã rất quỷ quyệt, che dấu bản chất của hắn rất kỹ. Hắn đã đổi tên đảng Cộng Sản thành đảng Lao Ðộng, cùng thi hành nhiều thủ đoạn gian manh, lừa bịp khác!!!

Chú thích ba:

Chiến lũy Ba Ðình, rộng 400 mét, dài 1200 mét ở huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Lính của Ðinh Công Tráng, gọi là nghĩa quân. Năm 1887, giặc Pháp đã huy động tới 3500 quân bao vây chiến lũy Ba Ðình và bắn vào đó khoảng 16000 quả đạn đại bác chỉ trong một ngày!

Cổ Thành Quảng Trị thuộc tỉnh quảng Trị. Năm 1972, quân lực VNCH đã giao tranh ác liệt với bọn xâm lược việt gian cộng sản tại đây. Bọn giặc đã thua chạy, cờ vàng ba sọc đỏ lại ngạo nghễ tung bay trên Cổ Thành quảng Trị.

Phan Nhật Nam đã lươn lẹo, cố ý lấy râu ông nọ cắm vào cằm bà kia, giữa hai sự kiện lịch sử, nhằm đề cao Hồ tặc và bọn việt gian cộng sản bán nước và hạ nhục quân đội Cộng Hòa (gãy tan nòng pháo!).

Tuyên bố của hội Người Việt Tỵ Nạn tại Köln

HỘI NGƯỜI VIỆT TỊ NẠN TẠI KÖLN
VEREIN DER VIETNAMESISCHEN FLÜCHTLINGE IN KÖLN
Postfach 80 11 51 51011 Köln Germany

TUYÊN BỐ

Sau khi bị Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn tại CHLB Đức tẩy chay và không tổ chức gây quỹ từ thiện cho cô TIM ALINE REBEAUD vào những ngày đầu tháng 12/2008 tại München và những nơi khác, Cô Mai ở Heidelberg lại tìm cách tổ chức việc quyên góp thu tiền trong những nhóm nhỏ với tính cách riêng tư (privat) tại Köln vào ngày 06.12.2008 nhằm mục đích:

- Lợi dụng lòng trắc ẩn của Người Việt Tị Nạn Hải Ngoại dành cho đồng bào bất hạnh trong nước qua các cuộc quyên góp cứu trợ, giúp trẻ mồ côi, người khuyết tật, v.v….

- Việc làm từ thiện giúp trẻ em mồ côi và tật nguyền tại Việt Nam là một điều cần làm và có thể nói là mọi người Việt đang sống ở hải ngoại nên làm, nhưng làm từ thiện với cái TRÍ xét đoán, tức là trái tim cùng với bộ óc biết suy nghĩ là tại sao dân tộc phải khổ sở bất hạnh và phải biết tiền từ thiện của mình bị lọt vào túi ai và được sử dụng thế nào ở trong nước?

- Việc cung ứng những phúc lợi xã hội cho dân nghèo và bất hạnh ở trong nước là thuộc về nhiệm vụ bắt buộc của giới cầm quyền CSVN mà nay đa số trở thành tư bản Đỏ, có tài sản hàng trăm tỷ đô la gửi tại các ngân hàng ở Thụy Sĩ.

Vì những lý do nêu trên Hội Người Việt Tị Nạn tại Köln long trọng tuyên bố:

- Cực lực phản đối việc tổ chức buổi gây quỹ từ thiện ngày 06.12.2008 tại Köln.
- Kêu gọi đồng bào tẩy chay không tham gia buổi gây quỹ.
- Vận động dư luận người Đức về thái độ vô trách nhiệm của chế độ CSVN.

Köln, ngày 21 tháng 11 năm 2008.
TM Ban Chấp Hành
Nguyễn hữu Dõng


Saturday, November 22, 2008

Hoàng Hậu Nam Phương Lúc Cuối Đời

NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU


Tôn Thất An Cựu

Giai phẩm Việt Báo Tết năm Mão (1998), trong loạt bài đặc biệt về "100 năm áo dài Việt Nam" có phần bài viết sơ lược về Nam Phương Hoàng Hậu va hinh ảnh bà mang áo dài Việt Nam. Nhiều bạn đọc, từ hai năm qua, vẫn ngỏ ý mong sẽ có một bài viết đầy đủ hơn về vị Hoàng Hậu cuối cùng, không chỉ của Triều Nguyễn, mà là của lịch sử nước Việt.

Việt Báo Tết Tân Tỵ trân trọng giới thiệu bài viết đặc biệt của nhà bỉnh bút Tôn Thất An Cựu.

Trong gần sáu mươi năm qua, kể từ khi Triều Nguyễn chấm dứt vào năm 1945 đến nay, có rất nhiều người viết về cựu Hoàng Bảo Đại, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn. Nhưng rất ít người nhắc đến bà Hoàng hậu cuối cùng, tức Nam Phương hoàng hậu. Có chăng thì cũng chỉ nhắc đến một vài chi tiết viết chung trong tài liệu nói về vua Bảo Đại. Hoặc nói cho đúng thì chưa có ai viết một tài liệu riêng về Hoàng hậu Nam Phương. Do đó nên cũng rất ít người biết đến một bà Hoàng hậu mà trong thời gian giữ ngôi vị mẫu nghi thiên hạ đã có nhiều đóng góp cho Hoàng tộc Nguyễn Phước và cho xã hội lúc bấy giờ.

Để tưởng nhớ đến một người đàn bà tài sắc, đức hạnh và mẫu mực, đã từng là đệ nhất phu nhân của nước Việt Nam suốt mười một năm, tôi xin ghi lại đôi điều về Nam Phương hoàng hậu mà tôi đã tham khảo theo tài liệu của người bí thư của bà, ông Nguyễn Tiến Lãng, con rể của cố học giả Phạm Quỳnh và một số tài liệu khác thu thập trong cuốn hồi ký của cựu hoàng Bảo Đại và của hai sử gia Pháp là Jean Renaud và Daniel Grandclément như dưới đây:

Nam Phương Hoàng Hậu, khuê danh Nguyễn Hữu Thị Lan hay là Marie Thérèse, sinh năm 1914 tại Gò Công Nam phần, con của đại điền chủ Nguyễn Hữu Hào và là cháu ngoại của ông Lê Phát Đạt, tức huyện Sỹ, một trong những người giàu có nhất miền Nam, có thể sánh ngang hàng với gia đình Bạch công tử ở Bặc Liêu. Ông huyện Sỹ là người đã bỏ tiền ra xây cất ngôi thánh đường nguy nga ở cuối đường Võ Tánh Sài Gòn thường được gọi là nhà thờ huyện Sỹ mà đến nay vẫn còn tồn tại.

Năm 1926, Nguyễn Hữu Thị Lan, 12 tuổi, được gia đình cho sang Pháp tòng học tại trường Couvent des Oiseaux, một trường nữ danh tiếng thuộc loại nhà giàu ở Paris do các nữ tu điều hành. Sau khi thi đậu Tú tài vào năm 1932, cô gái miền Nam theo chuyến tàu của hãng Messagerie Maritime trở về nước. Tình cờ trên chiếc tàu nầy có ông vua Việt Nam hồi loan sau khi hoàn tất việc học, đó là vua Bảo Đại mà hồi đó giới sinh viên ở Pháp thường gọi một cách thân mật là Prince Vĩnh Thụy.

Tuy cùng trên một chiếc tàu bồng bềnh giữa đại dương một thời gian khá lâu nhưng Nguyễn Hữu Thị Lan chưa có cơ hội làm quen với vị Vua trẻ tuổi. Mãi cho đến gần một năm sau, nhân dịp vua Bảo Đại nghỉ mát tại Đà Lạt và do sự sắp đặt của Toàn quyền Đông Dương, viên Đốc Lý (tức Thị Trưởng sau nầy) thành phố Đà Lạt tổ chức một buổi dạ tiệc tại khách sạn Palace (sau gọi là khách sạn Langbian) để tìm cách cho hai người gặp nhau. Tối hôm đó, trong chiếc áo lụa màu thiên thanh, Nguyễn Hữu Thị Lan đã xuất hiện trước Hoàng đế Bảo Đại để rồi chiếm gọn trái tim của một người có địa vị cao nhất nước.

Tưởng cũng nên nói thêm là trước đây có nhiều nguồn tin nói rằng vua Bảo Đại đã gặp Marie Thérèse trên chuyến tàu thủy từ Pháp về Việt Nam, nhưng căn cứ vào hồi ký của vua Bảo Đại và tiết lộ của Hoàng hậu Nam Phương được chúng tôi trích dẫn dưới đây thì hai người đã gặp nhau trong một hoàn cảnh khác.

Nhờ tòng học ở một trường thuộc nhà Dòng, được các nữ tu chỉ dạy các lễ nghi Tây phương đối với Vua Chúa nên tối hôm đó, lúc vừa diện kiến vua Bảo Đại, Nguyễn Hữu Thị Lan đã quỳ một gối và cúi đầu sát mặt đất để tỏ lòng tôn kính nhà Vua. Lẽ tất nhiên, một vị vua trẻ tuổi và hào hoa như vua Bảo Đại thì làm sao ông có thể không xiêu lòng trước sắc đẹp mỹ miều của Nguyễn Hữu Thị Lan. Và chuyện sẽ đến đã đến: đám cưới của vị thiếu quân hào hoa với một nữ lưu tràn trề hương sắc miền Nam đã diễn ra tại Huế ngày 20-3-1934. Ngay ngày hôm đó Nguyễn Hữu Thị Lan được tấn phong làm Hoàng hậu với danh hiệu Nam Phương. Sự kiện Nguyễn Hữu Thị Lan được tấn phong Hoàng hậu ngay sau khi cưới là một biệt lệ đối với các bà vợ Vua thuộc triều Nguyễn. Vì mười hai đời vua Nguyễn trước kia, các bà vợ Vua chỉ được phong tước Vương phi, đến khi chết mới được truy phong Hoàng hậu.

Nhắc đến cuộc nhân duyên với Hoàng hậu Nam Phương, cựu hoàng Bảo Đại đã ghi lại trong cuốn CON RỒNG VIỆT NAM:

"Sau lần hội ngộ đầu tiên ấy, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp nhau để trao đổi tâm tình. Marie Thérèse thường nhắc đến những kỷ niệm ở trường Couvent des Oiseaux một cách thích thú. Cũng như tôi, Marie Thérèse rất thích thể thao và âm nhạc. Cô ta có vẻ đẹp dịu dàng của người miền Nam pha một chút Tây phương. Do vậy mà tôi đã chọn từ kép Nam Phương để đặt danh hiệu cho nàng. Các vị Tiên Đế của tôi cũng thường hướng về người đàn bà miền Nam. Nếu tôi nhớ không sai thì trước Hoàng hậu Nam Phương, có đến bảy phụ nữ miền Nam đã từng là chủ nhân của Hoàng thành Huế. Khi chọn phụ nữ miền Nam làm vợ, hình như đức Tiên Đế và tôi đều nghĩ rằng trước kia đức Thế Tổ Cao Hoàng (tức vua Gia Long) đã được nhân dân miền Nam yểm trợ trong việc khôi phục giang sơn. Chính đó là sự ràng buộc tình cảm giữa Hoàng triều Huế với người dân miền Nam".

Về phần Hoàng hậu Nam Phương, bà đã nhắc lại "cái thuở ban đầu lưu luyến ấy" như sau:

"Hôm đó ông Darle, Đốc Lý thành phố Đà Lạt gởi giấy mời cậu Lê Phát An (Lê Phát An là anh ruột bà Nguyễn Hữu Hào) và tôi đến dự dạ tiệc ở Hotel Palace. Tôi không muốn đi nhưng cậu An tôi năn nỉ và hứa với tôi là chỉ đến tham dự một chút và vái chào nhà Vua xong là về nên tôi phải đi một cách miễn cưỡng và tôi cũng chỉ trang điểm sơ sài thôi. Chúng tôi đến trễ nên buổi tiệc đã bắt đầu từ lâu. Cậu tôi kéo ghế định ngồi ngoài hiên thì ông Darle trông thấy, ông ta chạy đến chào chúng tôi rồi nắm tay cậu tôi kéo chúng tôi vô nhà. Vừa đi ông vừa nói: "ông và cô phải đến bái yết Hoàng thượng mới được". Khi cánh cửa phòng khách vừa mở, tôi thấy vua Bảo Đại ngồi trên chiếc ghế bành chính giữa nhà. Ông Darle bước tới bên cạnh Vua rồi nghiêng mình cúi chào và kính cẩn nói:

- Votre Majesté, Monsieur Lê Phát An et sa nièce, Mademoiselle Marie Thérèse. (Tâu Hoàng thượng, đây là ông Lê Phát An và người cháu gái, cô Marie Thérèse)

Nhờ các nữ tu ở trường Couvent des Oiseaux từng chỉ dạy nên tôi biết phải làm gì để tỏ lòng tôn kính đối với bậc Quân Vương, vì vậy tôi đã không ngần ngại đến trước mặt Hoàng Đế, quỳ một gối và cúi đầu sát nền nhà cho đến khi thấy bàn tay cậu tôi kéo tôi dậy tôi mới đứng lên. Vua gật đầu chào tôi đúng lúc tiếng nhạc vừa trổi theo nhịp điệu Tango, Ngài ngỏ lời mời và dìu tôi ra sàn nhảy rồi chúng tôi bắt đầu nói chuyện.

Về sau, khi đã trở thành vợ chồng, Ngài mới cho tôi biết hôm đó Ngài rất chú ý cách phục sức đơn sơ của tôi. Tôi nghĩ rằng tôi được nhà Vua lưu ý một phần do trong suốt buổi dạ tiệc chỉ có tôi là người đàn bà Việt Nam duy nhất nói tiếng Pháp và theo đúng cung cách lễ nghi âu tây đối với Ngài".

Sau lễ cưới, vua Bảo Đại cùng hoàng hậu Nam Phương dọn về ở tại điện Kiến Trung thuộc khu vực cấm thành. Điện nầy xây cất từ thời vua Khải Định nhưng được sửa chữa và tân trang các tiện nghi Tây phương vào đầu triều vua Bảo Đại.

Tại điện Kiến Trung, Hoàng hậu Nam Phương đã lần lượt hạ sanh 5 người con gồm có:

-Thái tử Bảo Long, sinh ngày 4-1-1936

-Công chúa Phương Mai, sinh ngày 1-8-1937

-Công chúa Phương Liên, sinh ngày 3-11-1938

-Công chúa Phương Dung, sinh ngày 5-2-1942

-Hoàng tử Bảo Thắng, sinh ngày 9-12-1943

Thường ngày, ngoài việc chăm sóc dạy dỗ con cái, thỉnh thoảng hoàng hậu Nam Phương phải cùng các quan ở Bộ Lễ bàn thảo các lễ lạc trong cung đình, lo việc cúng giỗ các Tiên đế và đi vấn an sức khỏe các bà Tiên cung và Hoàng thái hậu Từ Cung, tức mẹ vua Bảo Đại. Tóm lại, bà rất chu toàn bổn phận làm dâu.

Ngoài việc quản trị nội cung như đã nói trên đây, hoàng hậu Nam Phương còn tham gia các việc xã hội và từ thiện. Như đi thăm trường nữ Trung học Đồng Khánh ở đường Jules Ferry (tức Lê Lợi sau nầy), bà thường tiếp xúc với các Giáo sư, nhắc nhở họ cố gắng làm tròn thiên chức của một nhà mô phạm; đi thăm Nữ Công Học Hội ở đường Khải Định (tức đường Nguyển Huệ ngày nay). Theo lời nữ sĩ Đạm Phương sau nầy kể lại thì có lần Hoàng hậu Nam Phương bảo bà làm đơn xin phép Bộ Giáo Dục đem môn nữ công gia chánh vào học đường. Hàng năm bà đều tham dự các buổi phát giải thưởng cho các học sinh giỏi tổ chức tại trung tâm Accueil gần nhà dòng Cứu Thế.

Ngày nay, không ai còn lạ lùng khi trông thấy quý vị đệ nhất phu nhân xuất hiện nơi công cộng để giúp chồng trong việc ngoại giao, nhưng cách đây sáu mươi năm, Hoàng hậu Nam Phương giúp vua Bảo Đại trong việc tiếp kiến các nhà ngoại giao là một điều quý hiếm. Vào thời đó, nhiều người ở kinh đô Huế đều biết trong những lần vua Bảo Đại tiếp đón các quốc khách như Thống Chế Tưởng Giới Thạch của Đài Loan, Quốc Vương Soupha Vangvong Lào quốc hoặc Quốc vương Sihanouk của Cao Mên v.v... đều có sự hiện diện của hoàng hậu Nam Phương. Lần vua Bảo Đại tự mình lái xe hơi đi thăm Nam Vang cũng có mặt Hoàng hậu tháp tùng.

Chi tiết đáng kể nhất là việc Hoàng hậu Nam Phương đã đem lại hòa khí giữa các chức sắc đạo Thiên Chúa ở Việt Nam với Hoàng tộc nhà Nguyễn. Vì như chúng ta đã biết, đạo Thiên Chúa với các vị vua triều Nguyễn vốn có những căng thẳng lịch sử thì Nam Phương hoàng hậu, như một làn gió mát, đã thoa dịu sự căng thẳng lịch sử tưởng chừng như không bao giờ thay đổi.

Nhân đây, tưởng cũng nên nhắc lại một hành động chứng tỏ lòng thiết tha với quê hương đất nước của Hoàng hậu Nam Phương mà chúng tôi mới tìm thấy trong tài liệu của sử gia Pháp Jean Renaud do nhà xuất bản Guy Boussac ấn hành năm 1949:

Số là sau khi quân Pháp dựa vào thế lực của quân Anh quốc để gây hấn ở miền Nam với ý đồ tái chiếm thuộc địa Việt Nam. (Xin lưu ý bạn đọc lúc cuộc chiến khởi đầu tại Nam phần là thuần túy giữa thực dân Pháp một bên và một bên là người Việt Nam chống lại sự đô hộ của người Pháp, không giống thực chất cuộc chiến Quốc Cộng sau nầy). Lúc đó vua Bảo Đại đã từ chức, bà Nam Phương đang ở tại An Định cung bên bờ sông An Cựu. Đau lòng trước thảm cảnh mà đồng bào miền Nam, quê hương của bà đang trực tiếp gánh chịu, cựu Hoàng hậu Nam Phương đã gởi một Thông điệp (Message) cho bạn bè ở Á châu yêu cầu họ lên tiếng tố cáo hành động xâm lăng của thực dân Pháp với lời lẽ như sau:

"Kể từ tháng 3 năm 1945, nước Việt Nam đã thoát khỏi sự đô hộ của người Pháp nhưng vì lòng tham của một thiểu số thực dân Pháp với sự tiếp tay của quân đội Hoàng gia Anh nên hiện nay máu của nhân dân Việt Nam lại tiếp tục chảy trên mãnh đất vốn đã có quá nhiều đau khổ. Hành động nầy của thực dân Pháp là trái với chủ trương của Đồng Minh mà nước Pháp lại là một thành viên. Vậy tôi tha thiết yêu cầu những ai đã từng đau khổ vì chiến tranh hãy bày tỏ thái độ và hành động để giúp chúng tôi chấm dứt chiến tranh đang ngày đêm tàn phá đất nước tôi.

Thay mặt cho hàng chục triệu phụ nữ Việt Nam, tôi thỉnh cầu tất cả bạn bè của tôi và bạn bè của nước Việt Nam hãy bênh vực cho tự do. Xin các chính phủ của khối tự do sớm can thiệp để kiến tạo một nền hòa bình công minh và chân chính và xin quý vị nhận nơi đây lòng biết ơn sâu xa của tất cả đồng bào của chúng tôi".

Ký tên:

Vĩnh Thụy

(tức Hoàng hậu Nam Phương.)

Trong một dịp tiếp xúc riêng tư, một người Việt Nam trong ngành ngoại giao trước năm 1975 hiện ở Pháp nói với chúng tôi rằng bức thông điệp trên đây đã được bà Nam Phương gởi đến Tổng Thống Truman của Hiệp Chủng Quốc vào đầu năm 1946 để nhờ can thiệp. Tuy nhiên, đối với một tin tức có tính cách lịch sử nhưng vì không được tận mắt nhìn thấy trên giấy trắng mực đen nên tôi xin ghi lại đây với tất cả sự dè dặt thường lệ.

Bà Hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn đã trút hơi thở cuối cùng tại làng Chabrignac, một vùng quê thuộc miền Bắc nước Pháp theo như lời thuật lại sau đây:

Ngày 14 tháng 9 năm 1963, vào khoảng 5 giờ chiều, cựu hoàng hậu Nam Phương cảm thấy mệt bèn cho người nhà đi mời Bác sỹ đến thăm mạch. Sau khi chẩn khám, Bác sĩ cho biết bà bị viêm họng nhẹ, chỉ uống thuốc vài hôm là khỏi. Nhưng không dè, Bác sĩ vừa rời khỏi nhà chừng vài tiếng đồng hồ thì bà cảm thấy khó thở. Người hầu bà bèn nhờ một người Pháp hàng xóm đi mời một Bác sĩ khác, nhưng người Bác sĩ thứ hai chưa đến kịp thì cựu Hoàng hậu Nam Phương đã êm ái lìa đời ngay trong đêm đó khi vừa tròn 49 tuổi. Ngoài hai người giúp việc trong nhà, không có một người ruột thịt nào có mặt bên cạnh bà trong giờ phút lâm chung, vì các con bà đều ở tận Paris để làm việc và đi học.

Đám tang của bà Hoàng hậu Viêt Nam lưu vong được tổ chức một cách sơ sài lặng lẽ như những năm tháng cuối đời của bà. Hôm đưa đám, ngoài hai Hoàng tử và ba Công chúa đi bên cạnh quan tài của mẹ không có một người bà con nào khác. Về phía quan chức Pháp thì chỉ có ông quan đầu Tỉnh Brive la Gaillarde và ông Xã Trưởng Chabrignac.

Trong suốt thời gian tang lễ, cựu Hoàng Bảo Đại cũng không có mặt mà sau nầy, kẻ viết bài nầy trong thời gian ở Pháp được nghe kể lại thì khi hay tin mẹ chết, công chúa Phương Liên tức tốc đánh điện tín báo tin cho cựu Hoàng nhưng gặp lúc cựu Hoàng vắng nhà vì bận đi chơi xa với bà Mộng Điệp, vì vậy mà cựu Hoàng Bảo Đại không hay biết gì nên đã vắng mặt trong ngày đám tang của một người mà có thời đã cùng ông đầu ấp tay gối. Sự kiện đó đã gây sự hiểu lầm khiến về sau các Hoàng tử và Công chúa đã ôm lòng oán hận người cha mà họ nghĩ là một người chồng không trọn nghĩa thủy chung!

Trong lần trở lại Pháp vào tháng 4 năm 1999, do đề nghị của một người bạn thường giao thiệp với Hoàng tử Bảo Long, từ Paris tôi theo người bạn đi về làng Chabrignac, cách tỉnh Brive la Gaillarde ba mươi cây số để viếng mộ Hoàng Hậu Nam Phương.

Gió chiều nghĩa trang lồng lộng thổi, trước mắt tôi là một ngôi mộ đơn sơ với tấm bia đá hai mặt ghi hai hàng chữ bằng hai thứ tiếng khác nhau, mặt trước viết chữ Hán, mặt sau viết chữ Pháp như dưới đây:

Bia chữ Hán: ĐẠI NAM NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU CHI MỘ, có nghĩa là:

"Mộ phần của bà Hoàng hậu nước Đại Nam là Nam Phương".

Bia chữ Pháp: ICI REPOSE L'IMPéRATRICE D'ANNAM NéE MARIE THÉRÈSE NGUYEN HUU THI LAN, có nghĩa là: "Đây là nơi an nghỉ của bà Hoàng hậu Việt Nam tên là Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan".

Tôi lặng nhìn ngôi mộ với những cành hoa đã úa vàng lăn lóc đó đây, lòng bồi hồi nhớ lại hơn năm mươi năm trước, từ nhà tôi đi dọc theo bờ sông An Cựu, mỗi khi đi ngang cung An Định tôi ngẩng nhìn lên bao-lơn, nhiều lần tôi bắt gặp Hoàng hậu Nam phương đang tựa lưng vào tường, mắt đăm đăm nhìn đám lục bình trôi lờ lững giữa giòng sông. Tự nhiên lòng tôi se lại, thương tiếc bà Hoàng hậu của kinh đô Huế thuở nào và buồn cho chính thân tôi, một thời thơ ấu nay đã đi qua! Thuở ấy, có một đôi lần tôi đứng xếp hàng trong hàng ngũ học sinh Tiểu học để đón chào Hoàng hậu. Chúng tôi, với nét mặt rạng rỡ tay cầm cờ vàng phất lia lịa mỗi khi Hoàng hậu xuất hiện và hướng mắt về phía đám nhóc con Tiểu học. Than ôi! Ngày ấy nay còn đâu?

Tôi kính dâng lên hương linh Hoàng hậu Nam Phương những hàng chữ thô thiển nầy và xin Hoàng hậu chứng giám cho lòng kính trọng vô vàn của người viết khi ghi lại những chi tiết về cuộc đời trong sáng của bà.

Tháng 9 năm 2000. Kỷ niệm 37 năm ngày mất của Hoàng hậu Nam Phương

Tôn Thất An Cựu

Tài liệu tham khảo:

- La Famille d'Annam của Nguyễn Tiến Lãng

- Le Dragon d'Annam của Bảo Đại

- Souverains et Notabilités củaJean Renaud

- Les Derniers Jours De L'Empire d'Annam của Daniel Grandclément


"Hồng Nhan Cô Đơn" Hoàng Hậu Nam Phương Lúc Cuối Đời.
(Nov 30,2007) -


* Hoa hậu Đông Dương Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan, tức Hoàng hậu Nam Phương

Hồi còn rất nhỏ (1952) chúng tôi (người Viết) theo học tại trường Trung Học Phương Mai, một trường Trung Học Công Lập đầu tiên của Việt Nam tại Dalat. Trường nầy, theo biến cố lịch sử đã lần lượt đổi tên thành trường Quang Trung rồi kế tiếp là trường Nữ Trung Học Bùi Thị Xuân. Một hôm người bạn học cùng lớp là Lê Văn Lộc và người cậu của anh, sau nầy là nhà văn Bữu Ấn. Hai anh bạn học nầy là người xứ Huế lại có liên hệ đến Hoàng Tộc nên cứ nằng nặc rủ tôi đi xem mã ông Nguyễn Hữu Hào bởi vì công chúa Phương Mai là cháu ngoại của ông Hào. Lê Văn Lộc khi lớn lên được nhiều người biết đến tên từ trước năm 1975, đó là nhạc sĩ quá cố tên Phương của cặp nghệ sĩ Lê Uyên Phương.

Mộ Ông Bà Nguyễn Hữu Hào nằm về phía Bắc thác Cam Ly trên một ngọn đồi rất cao, thoáng mát với quanh năm gió lùa về từ những rừng thông cao chất ngất rất ư thanh thản. Từ chân đồi đến phần mộ trên đỉnh đồi cao phải leo lên hơn 500 bực tam cấp. Phần mộ Ông Bà Nguyễn Hữu Hào, thời đó, chỉ là hai khối xi măng rất cao nằm song song cạnh nhau trong một nhà mồ rộng thênh thang đầy gió lộng và chỉ có vậy thôi, thời đó, chúng tôi không thấy có gì đặc biệt xung quanh. Đi lên rồi đi xuống gần ngàn bực cấp đôi chân mỏi đến rã rời!

Nhà tỷ phú Nguyễn Hữu Hào, một đại điền chủ ở Gò Công, một trong những người giàu có nhất nhì ở miền Nam thời Pháp Thuộc. Tại Sàigòn ngày nay vẫn còn một nhà thờ mang tên người bỏ tiền ra xây cất đó là Nhà Thờ Huyện Sĩ. Ông Huyện Sĩ có tên là Lê Phát Đạt và cũng là người anh vợ của ông Nguyễn Hữu Hào. Nhà tỷ phú Nguyễn Hữu Hào có một người con gái rất xinh đẹp là cô Nguyễn Hữu Thị Lan sinh năm 1914. Cô Lan xinh đẹp đó được Ba Mẹ gửi sang Pháp năm 12 tuổi và theo học trường Trung Học Couvent Des Oiseaux (Paris - Pháp). Cô Lan nổi tiếng xinh đẹp với ba lần liên tiếp đoạt vương miện Hoa Hậu Đông Dương. Cô Lan đỗ Tú Tài Toàn phần vào năm 1932 khi vừa đúng 18 tuổi.

Theo chuyến tàu của hãng Messagerie Maritime trở về nước từ Marseille (Pháp) đến Cap Saint Jacque (Vũng Tàu VN).

Suốt hơn một tháng lênh đênh trên biển, cô Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan chỉ từ xa xa nhìn được thiên nhan của vị vua nước Việt Nam, thời đó, rất đẹp trai và còn rất trẻ, chỉ mới 20 tuổi. Hoàng Đế Bảo Đại trở về Việt Nam cùng trên một chuyến tàu.

Về Việt Nam được ít lâu và khi vua Bảo Đại lên nghĩ mát tại Dalat và bởi sự giàn xếp của vị Toàn Quyền Pháp Pasquier và viên Đốc Lý Darle (Thị Trưởng) Dalat. Tại khách sạn Langbian Palace, Cô Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan được giới thiệu đến vị Hoàng Đế đang còn độc thân Bảo Đại.

Cựu Hoàng Bảo Đại viết trong cuốn hồi ký mang tên Le Dragon D’Annam (Con Rồng Việt Nam) ở trang 63 ông viết (Tiếng Pháp): "... Dans les salons du Langbian Palace, me présente une juene fille... Elle vient de terminer se études au Couvent Des Oiseaux, en France. Elle a dix huit ans..." (Tại phòng khánh tiết Khách sạn Palace, Tôi được giới thiệu với một thiếu nữ còn rất trẻ, mới 18 tuổi, vừa hoàn tất việc học từ trường Couvent Des Oiseaux ở Pháp ...)

Nhờ theo học một trường thuộc nhà Dòng, được các nữ tu chỉ dạy các lễ nghi Tây Phương đối với Vua Chúa nên hôm đó, lúc vừa diện kiến Bảo Đại, Nguyện Hữu Thị Lan đã quỳ gối và cuối đầu sát mặt đất để tỏ lòng tôn kính nhà Vua. Lẽ tất nhiên, một vị vua trẻ tuổi và hào hoa như vua Bảo Đại thì làm sao không thể không xiu lòng trước sắc đẹp mỹ miều của Nguyễn Hữu Thị Lan. Và chuyện sẽ đến đã đến. Bảo Đại say mê Nguyễn Hữu Thị Lan và khi Bảo Đại hỏi cưới thì gia đình Ông Nguyễn Hữu Hào ra điều kiện:

(1) Nguyễn Hữu Thị Lan phải được tấn phong Hoàng Hậu ngay trong ngày cưới.

(2) Được giữ nguyên đạo Công Giáo, và các con khi sinh ra phải được rửa tội theo luật Công Giáo và giữ đạo.

(3) Riêng Bảo Đại thì vẫn giữ đạo cũ là Phật Giáo.

(4) Phải được Tòa Thánh La Mã cho phép đặc biệt hai người lấy nhau và giữ hai tôn giáo khác nhau.

Bởi vậy cuộc hôn nhân giữa Bảo Đại và Nguyễn Hữu Thị Lan gặp phải rất nhiều phản đối của Triều Đình vì đa số người trong Hoàng Tộc, thời đó, đều theo Phật Giáo.

Một lần, trước Hoàng Tộc Vua Bảo Đại nói: "Trẫm cưới vợ cho Trẫm đâu phải cưới vợ cho cụ Tôn Thất Hân và Triều Đình" (Đại Lão rất uy quyền của Triều Đình Huế thời đó là Cụ Tôn Thất Hân: Viện Trưởng Viện Cơ Mật kiêm Thượng Thư Bộ Hình (Bộ Tư Pháp) là người chống đối quyết liệt nhất khi Bảo Đại quyết định thành hôn với Nguyễn Hữu Thị Lan một người theo Thiên Chúa Giáo).

Người con gái đến từ Phương Nam mang theo cái hương thơm Miền Nam đã quyết định bước qua ngưỡng cửa hoàng cung, vào Cấm Thành. Và do tình yêu gắn liền với định mệnh, một định mệnh không khỏi trớ trêu, vào buổi sáng mùa Xuân đó, cả một cuộc đời mới đã mở ra. Bỗng chốc cô trở thành Hoàng Hậu của cả nước. Từ nay không còn ai nhắc đến cái tên Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan nữa. Cô là Nam Phương Hoàng Hậu. Lòng chất đầy cảm xúc suốt hành trình từ Nam ra Huế, chen lẫn lo âu và sung sướng trong niềm hân hoan không tả xiết, mỉm cười chấp nhận những gì sắp xảy ra cho mình.

Lần đầu tiên trong triều Đình Huế, có một phụ nữ xuất hiện giữa Triều Đình. Bảo Đại giải thích thêm về hai chữ Nam Phương như sau: "Tôi chọn tên trị vì cho bà Hoàng Hậu mới Nam Phương có nghĩa là hương thơm của Miền Nam (Parfume du Sud) và Tôi cũng ra một chỉ dụ cho phép Bà được phục sức màu Vàng - Màu dành riêng cho Hoàng Đế".

Đám cưới của vị thiếu quân hào hoa Bảo Đại lúc 21 tuổi và một nữ lưu tràn trề hương sắc miền Nam mới lên 19 tuổi đã diễn ra tại Huế ngày 23 tháng 4 năm 1934, trước sự hiện diện của đình thần và đại diện nước Pháp tại Điện Cần Chánh. Triều đình đứng thành hàng dọc theo tấm thảm hai màu Vàng và Đỏ dành riêng cho Hoàng Đế.

Bà Nam Phương, mặc áo thụng. Chân đi hài mũi cong, đầu đội vương miện đính 9 con Phượng bằng vàng thật và nhiều ngọc ngà châu báu óng ánh. Bà Nam Phương đi dến giữa tấm thảm, cả Triều Đình cúi rập đầu vái chào. Với một vẻ đẹp lộng lẫy, Bà đi thẳng vào phòng lớn giữa lúc nhà Vua đang ngồi trên ngai vàng. Sau đó, Hoàng Đế và Hoàng Hậu sánh vai bước đi trong tiếng nhạc mừng qua Tử Cấm Thành và vào Điện Kiến Trung, nơi ở và làm việc của Hoàng Đế.

Ngay ngày hôm đó Nguyễn Hữu Thị Lan được tấn phong làm Hoàng Hậu với danh hiệu Nam Phương.

Sự kiện Nguyễn Hữu Thị Lan được tấn phong làm Hoàng Hậu ngay sau khi cưới là một biệt lệ đối với các bà vợ Vua triều Nguyễn. Vì 12 đời vua nhà Nguyễn trước Bảo Đại, các bà vợ Vua chỉ được phong tước Vương Phi và đến khi chết mới được truy phong Hoàng Hậu.

Lần đầu tiên, trong hoàng cung triều đình nhà Nguyễn, vóc dáng một người phụ nữ uy nghi, đoan trang đem lại những nét đổi mới trong sinh hoạt cung đình: Giản dị hóa lễ nghi, giản dị hóa những tương quan giao tiếp giữa bầy tôi và chủ, tư tưởng phóng khoáng, ngay thẳng, ghét những xun xoe xu nịnh, những lời đàm tấu. Nam Phương Hoàng Hậu là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên cùng vua tiếp đón các nguyên thủ quốc gia khác trong vai trò đệ nhật phu nhân như thời đại nầy.

Toàn Quyền Decoux đã hết lời khen ngợi bà Nam Phương là người đức hạnh, nề nếp, một sự tổng hợp hai nền văn hoá Đông Tây.

Đêm 4 tháng 1 năm 1936, người dân Huế nghe những tiếng súng bắn mừng, báo tin Nam Phương đã hạ sanh, và lờ mờ sáng lại một lần nữa 7 tiếng súng thần công làm lay động cả Hoàng Thành, báo hiệu Nam Phương đã sanh ra một hoàng tử. Người đó chính là Đông Cung Thái Tử Bảo Long.

Hoàng Hậu Nam Phương và Vua Bảo Đại có tất cả 5 người con:

- Thái Tử Bảo Long (4/01/1936)

- Công Chúa Phương Mai (01/08/1937)

- Công Chúa Phương Liên (03/11/1938)

- Công Chúa Phương Dung (05/02/1942)

- Hoàng Tử Bảo Thắng (09/12/1943) .

Sau biến cố lịch sử tháng 8 năm 1945. Bảo Đại thoái vị và một thời gian sau trong bối cảnh nhà Nguyễn suy vong, Bảo Đại càng ngày càng mất hết quyền lực, rồi thì danh sách những người đẹp lăng nhăng với Bảo Đại thêm dài: Mộng Điệp, Lý Lệ Hà, Hoàng Tiếu Lang (Jenny Woong).

Thời gian sau là Phi Ánh, Vicky, Clément, Monique Baudo ...

Cứ thế, Bà Nam Phương ẩn nhẫn trong cô đơn chịu đòn một mình theo cái cách của một bậc mẫu nghi thiên hạ được ăn học, có nhân cách. Để rồi cuối cùng Bà Nam Phương tự chọn con đường của mình là phải đi xa, giã từ vinh hoa phú quý và nhất là chấp nhận sự quên lãng của Hoàng Thượng.

Vì vậy, kể từ năm 1950 dòng họ Nguyễn và Bảo Đại kể như không còn trong mắt bà nữa.

Năm 1950, Bà quyết định mang các con sang Pháp sống ở Paris, phần lo chuyện học hành cho các con, phần tránh xa những nhớp nhúa của dư luận.

Đến năm 1958, để tránh mặt gia đình, người quen và báo chí Bà Nam Phương mua lại một khu nhà của dân quý tộc tại một nơi có địa danh là làng Chabrignac thuộc Tỉnh Corrèze nằm cách xa Paris 500m về phía Nam. Một lâu đài có 32 buồng, 4 phòng khách và 7 phòng tắm tọa lạc trên một khu đất rộng 160 mẫu có tên là Trang Trại La Perche (Domain De La Perche). Bà sống ở nơi nầy trong yên vắng và đơn độc. Các con của Bà học hành và làm việc ở xa, thỉnh thoảng mới về thăm Bà. Riêng cựu hoàng Bảo Đại thì ít khi về thăm bà ở nơi nầy. Dân ở trong làng nói rằng vài lần Bảo Đại có ghé thăm nhưng mới nghe xe ông về thì thoắt một chốc xe ông đã lại quay đi!

Có dư luận cho rằng Bà Nam Phương bị bệnh ngứa nặng và lãng tai nên Bảo Đại không thích gần gũi!

Bà Nam Phương với tháng ngày còn lại tại Chabrignac trong cô đơn đã từng bước, từng bước đi đến chỗ để về! Mỗi ngày, mỗi năm tháng, cứ héo mòn như cái cây không có nước, cứ ủ rủ cho đến lúc tàn lụi. Ngày một ngày hai, mỗi ngày vẫn phải chạm trán với cái sống thực bên ngoài và nỗi cô đơn ở bên trong. Nỗi cô đơn từ mọi phía. Nỗi cô đơn cả đời. Sức khoẻ thì càng ngày càng suy yếu về bịnh suyễn và tim. Tháng ngày vẫn trôi qua trong niềm hy vọng cứ dần dần tan bởi những câu hỏi về cuộc đời, về cớ sự đa đoan, về tình người và cuối cùng là tình vợ chồng!

Một lần, sau chuyến đi chơi về, Bà thấy đau ở cổ. Bác Sĩ đến khám bệnh nói Bà bị viêm cổ họng nhẹ. Không ngờ sau đó bà bị khó thở. Hai người giúp việc vội chạy đi tìm bác sĩ ở làng bên, cách mươi cây số và khi bác sĩ chưa đến thì Bà Nam Phương càng lúc càng khó thở hơn và trái tim của Bà đã ngừng đập ở tuổi đời mới có 49. Đó là ngày 14 Tháng 9 Năm 1963!

Theo Tôn Thất An Cựu viết trong Đặc San "Huế" thì đám tang của Bà Hoàng Hậu Việt Nam lưu vong được tổ chức một cách rất sơ sài.

Hôm đưa đám, ngoài hai Hoàng Tử và ba Công Chúa đi bên cạnh quan tài mẹ không có một người bà con nào khác và Cựu Hoàng Bão Đại cũng không có mặt. Bởi vì khi hay tin mẹ chết Công Chúa Phương Liên tức tốc đánh điện báo tin cho Cựu Hoàng nhưng gặp lúc Cựu Hoàng đang đi chơi xa với Bà Mộng Điệp vì vậy nên không hay biết gì và đã vắng mặt.

Nếu xưa, khi đặt chân vào làm dâu trong triều đình nhà Nguyễn, với một đám cưới trọng thể, uy nghiêm dưới sự chứng kiến của tất cả quần thần văn võ thì trong giờ phút lâm chung, ngoài những người giúp việc, bên cạnh bà không có một người thân. Đám tang thưa thớt, vắng vẽ, không có tiếng khóc, không lời ai điếu. Báo chí Việt Nam tới hàng chục năm sau vẫn không biết Bà Nam Phương Hoàng Hậu cuối cùng của triều Nguyễn mất bao giờ!

Mộ của Bà Nam Phương rất đơn sơ, trên phần mộ dựng một tấm bia nhỏ quen thuộc của người bình dân Việt Nam. Hai mặt bia có khắc chữ Hán và chữ Pháp. Mặt trước khắc chữ Hán "Đại Nam Nam Phương Hoàng Hậu Chi Lăng" (Lăng Mộ của Hoàng Hậu Nam Phương Nước Đại Nam).

Mặt sau chữ Pháp: "Ici Repose L’Impératrice D’Annam Née Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan" (Đây Là Nơi An Nghĩ Của Hoàng Hậu An Nam, Nhũ Danh Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan)!

Nguyễn Tấn Lai - 11/10/2007



Ðáy Ðịa Ngục

Nguyễn Ðạt Thịnh

Tôi mượn 3 chữ “Ðáy Ðịa Ngục” của anh bạn quá cố, họa sĩ, văn sĩ Tạ Tỵ; anh dùng 3 chữ này để đặt tên tác phẩm cuối cùng anh viết, mô tả cuộc sống khiếp đảm trong các trại khổ sai cải tạo do bọn Việt Cộng lập trên mặt đất, trên cổng trời, để thực hiện những đọa đầy chỉ có dưới 9 tầng địa ngục.

Áp lực quốc tế bắt Việt Cộng đóng cổng những trại “địa ngục”, nhưng chúng chỉ đóng cái cổng bên ngoài; bên trong địa ngục vẫn còn nguyên, dù không cổng, không khóa. Chúng còn mở rộng địa ngục bao trùm lãnh thổ để đầy đọa toàn dân Việt Nam.

Ðây là một cảnh địa ngục: “TT - Trụ mới được đến ngày thứ mười tôi sụt mất 3kg. Những cô gái đôi tám, hai mươi làm nghề này bề ngoài coi bộ phổng phao nhưng nhìn kỹ sẽ thấy xanh rớt, bệu bạo vì Anh Thắng làm ở khâu thành phẩm, vợ anh làm ở khâu tạo hình, thu nhập hai vợ chồng tròm trèm 3 triệu đồng/tháng. Tiền thuê nhà, điện nước, sinh hoạt, tằn tiện lắm vợ chồng anh mới dư mỗi tháng chừng 200.000 đồng gửi về quê nuôi đứa con nhỏ. Một tuần anh làm ca ngày, một tuần làm ca đêm, sức khỏe mau xuống do giờ giấc sinh hoạt đảo lộn. Anh nói nhiều khi đang làm giấc ngủ cứ ập đến, thế là phải hút thuốc, nhấp cà phê liên tục chống lại cơn buồn ngủ. “Tới khi tan ca về nhà đã kiệt sức, muốn ngủ nhưng không tài nào chợp mắt” - anh cười buồn.

Đặc trưng của công việc này là chủ khoán theo sản phẩm, thế nên cuộc chạy đua trong mưu sinh ở nơi khắc nghiệt này thêm nghiệt ngã. Thường thu nhập bình quân một người 1,2 triệu đồng/tháng, cao nhất là trên 3 triệu đồng/tháng. Ai kiếm được con số này đồng nghĩa với việc phải làm như máy.”

Hai chữ TT đầu đoạn bài phóng sự vừa trích là hai chữ tắt tên tờ báo Tuổi Trẻ xuất bản tại Sài Gòn; bài báo đăng ngày 23 tháng Mười 2008, cách đây gần một tháng, cảnh địa ngục mới toanh. Cảnh 2 vợ chồng mạnh tay, khỏe chân, làm việc cật lực, mỗi tháng dư được 6 mỹ kim (200,000 đồng), gửi về quê nuôi con.

Ðừng nói chuyện tương lai với vợ chồng anh Thắng, hai người công nhân thủy sản này sẽ tưởng bạn chế diễu họ. Ðể có được 6 mỹ kim sau khi trả tiền ăn, tiền nhà, họ phải làm việc đến mức không có thì giờ đi tiêu, đi tiểu nữa. Tờ tuổi trẻ viết, “… sáng thức dậy sớm từ 3-4 giờ đi lãnh cá. Trong công việc từng thao tác phải cần mẫn, chính xác. Tự vắt kiệt cả sức, hạn chế tối đa cả chuyện vệ sinh, bởi mỗi lần đi vệ sinh phải thay bộ đồ công nhân, đến khi đi vệ sinh xong phải mặc lại. Đối với họ khoảng thời gian hao phí đó là xa xỉ nên phần lớn tự hạn chế tối đa, tranh thủ lúc dùng cơm trưa đi vệ sinh luôn. Chị Loan - một công nhân khâu tạo hình - là một người như thế: lúc nào cũng cắm cúi làm, sợ ngẩng đầu lên tốn thời gian, lâu ngày thành thói quen, lưng bị tôm, dáng đi bị niễng một bên. Không chỉ chị Loan, nhiều cô gái trẻ trong nghề này đều có dáng đi ít bình thường.”

Chị Loan là vợ anh Thắng; hai vợ chồng lao lực làm việc, nhưng còn có việc để mà làm, họ mới ở lưng chừng địa ngục.

Ðây mới là cảnh đáy địa ngục, “Dáng vẻ tiều tụy, những khuôn mặt ủ dột, mắt đỏ hoe chực chờ khóc, rất nhiều công nhân nữ đang lâm vào cảnh thất nghiệp, tâm sự: “Bọn tôi đã gọi điện về quê thông báo với ba mẹ tết này sẽ không về nhà”. Nguyễn Thị Hằng - quê ở xã Vọng Đông, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, công nhân Công ty TNHH một thành viên Công nghệ may mặc VN, quận Thủ Đức - nghẹn ngào nói: “Mỗi năm nai lưng ra làm, cực mấy cũng chịu, chỉ mong đến tết là dịp sum họp gia đình. Năm nay sát tết lại thất nghiệp, không có tiền, chắc đành ở lại TP lang thang, lây lất qua ngày chờ ra giêng xin việc. Không về được ai chẳng nhớ nhà, nhưng nếu về với bộ dạng “không tiền” ba má càng buồn hơn”.

Hằng tính toán với vài trăm ngàn đồng cô dành dụm được nhiều tháng qua cũng chỉ đủ cho những ngày tiếp tục vác đơn đi xin việc. Mà cuối năm, tết nhất cận kề, biết tìm đâu ra được việc! Cô và những người bạn cùng phòng đã chạy khắp nơi tìm việc những ngày qua nhưng chưa nơi nào nhận. “Hết tháng này không tìm được việc trong công ty chắc tôi cũng đành xin làm tiếp viên trong mấy quán ăn hoặc phụ bán cà phê, quán nhậu ...” - Hằng nói với vẻ đầy tâm trạng.

Cô gái trẻ Lê Thị Thương rời vùng quê Bình Thuận vào làm công nhân may tại Công ty Quang Sung Vina từ đầu năm 2008. Sau khi có việc làm, Thương cũng vừa lập gia đình ở ngoài quê được vài ba tháng. Nhưng hạnh phúc ngày tân hôn còn chưa trọn vẹn thì một ngày Thương nhận được “hung tin” công ty phá sản, vị giám đốc người Hàn Quốc bỏ trốn. Vậy là lâm vào cảnh thất nghiệp. Hơn 2,8 triệu đồng tiền lương của cô mà công ty còn nợ cũng mới nhận được một phần. Hơn ba tháng nay, cô sống vật vờ bữa cơm trắng, bữa mì gói với rau tạp nham hái được ở vườn nhà bên khu ở trọ.

Chị đang hâm lại nồi cơm để dằn bụng, chiều đi tìm việc

Thương kể có bữa chủ nhà trọ báo mấy bà trong xóm cúng “cô hồn”, phát gạo làm phước, chị em công nhân trong phòng chạy đến xin được vài ký về dành dụm, ăn dè chừng. Thế rồi gạo “cô hồn” cũng hết, nhiều người đành phải chịu “mặt dày” ra quán đầu ngõ tiếp tục xin mua chịu. “Tiền gạo, đồ ăn, tiền nhà trọ đều thiếu, các chủ nợ nặng nhẹ, mắng nhiếc, tôi đành phải bán chiếc nhẫn cưới và đôi bông tai được 700.000 đồng. Trả nợ hết còn hơn trăm ngàn về quê làm hồ sơ để tiếp tục xin việc. Bữa nay nghe công ty phát mãi tài sản, tôi ra đây mong họ trả cho ít tiền sống qua ngày...” - cô gái trẻ rơm rớm nước mắt kể.

Đáng thương hơn, chị Nguyễn Thị Kiều, quê Hồng Ngự, Đồng Tháp, mấy ngày nay bữa nào cũng bế con nhỏ đến trước cổng Công ty Quang Sung Vina để đòi lương. Công ty còn thiếu chị gần 2 triệu đồng tiền lương tháng bảy và hơn nửa tháng tám. Chị Kiều tâm sự, chồng chị làm nghề lượm ve chai, nhặt nhạnh cả ngày cũng chỉ được vài chục ngàn đồng. Vợ chồng con cái sống lây lất bữa cơm với nước tương, đậu hũ kho, bữa thì mì gói.

Mấy hôm nay, bé Huỳnh Thị Kiều Oanh, con gái chị, bỗng dưng lại bị nổi hai cục hạch to tướng trên cổ. Hỏi vì sao không đưa con đến bệnh viện chữa trị, chị Kiều phân trần: “Cũng muốn lắm nhưng không có tiền, đành chịu. Vợ chồng tui đã đưa cháu đến mấy ông thầy lang nhưng chờ hoài vẫn chưa thấy khỏi ...”.

Bé Kiều Oanh, chị Kiều, ông chồng lượm ve chai của chị, cô Thương, chị Loan, anh Thắng, và tất cả những người đang sống dưới đáy địa ngục, xin quý chị, quý anh, nhận lời tạ tội của tôi, một người lính bất tài không giữ được quê hương, khiến giặc Cờ Ðỏ tràn về hành hình, đọa đầy quý chị, quý anh.

Nguyễn Ðạt Thịnh


Nhóm xe lăn: Nguyễn Minh Trân, Ông là ai ?


Huỳnh Bá Phụng
    Kính thưa quý vị,
Tôi có đọc qua mục Diễn đàn độc giả của báo Saigon Times phát hành ngày thứ Năm 20-11-08 trong đó có bài của Người lính già /QLD, đề cập đến ông Nguyễn Minh Trân thuộc Nhóm Xe Lăn tại Queensland qua buổi gây quỹ giúp Thương Phế Binh VNCH của Chiến hữu Phạm Tín An Ninh đến từ Na Uy.

Theo như Người Lính Già cho biết số tiền thu được trong đêm đó là $17,600.50c.

Trước khi lên đường về lại Na Uy , Đài SBS có phỏng vấn CH PTA Ninh. Khi được hỏi về số tiền thu được tại QLD , CH Ninh cho biết là $17.600 , nhưng CH chỉ lấy tiền bán sách trên $3000 và đã gởi cho Thương phế binh VNCH tại VN. Số tiền còn lại đã giao cho Nhóm Xe Lăn của ông Nguyễn Minh Trân .

Trong bài viết nêu trên, Người Lính Già cho biết Nhóm Xe Lăn của ông Nguyễn Minh Trân từ lâu đã gởi xe lăn về cho cả Thương phế binh của Cộng sản.

Tôi xin xác nhận, cách nay không lâu trên đài SBS , khi cô Phượng Hoàng phỏng vấn và đặt câu hỏi với ông Nguyễn minh Trân về vấn đề gởi xe lăn về VN có cho Thương phế binh cộng sản không ?.. ông Trân xác nhận là cho cả Thương binh VNCH và luôn cả Thương phế binh Cộng sản !!

Tới đây tôi xin được bạch hóa về Nhóm Xe Lăn của ông Nguyễn minh Trân tại QLD trước đây đã lợi dụng Tượng Đài chiến sĩ Việt-Úc ra sao và Ủy Ban Xây Dựng Tượng Đài đã cảnh cáo những việc làm sai trái của đuơng sự:

1. Trong 1 lần gây quỹ được tổ chức tại Hội Cao Niên, tôi đã đồng ý và liên lạc với xưởng đúc đồng cho Nguyễn minh Trân dùng xe Van chở 2 Tượng đồng về trước 1 ngày, sau khi tổ chức xong phải đem trả lại ngay cho xưởng đúc. Trong phiên họp của Ủy Ban tôi trình bày lý do vì chở về sớm quá rất nguy hiểm, lỡ hư hao hoặc mất mát thì sao. Nhưng ông Trân đã chở 2 bức Tượng về nhà trước đó hơn 1 tuần lễ, với dụng ý gì tôi không biết. Khi hay được, tôi đã cảnh cáo ông Trân tại sao anh làm khác đi những gì đã nói trong phiên họp ? Lỡ để trong nhà, CS biết được, đốt nhà anh hoặc tìm cách phá hoại lúc anh vắng nhà lúc đó 2 tượng đài ra tro hoặc hư hại thì ai chịu trách nhiệm đây ? Và tôi cho biết Tượng đài nầy hầu hết đều do đồng hương đóng góp mà có .

Sau đó, có một cặp vợ chồng quen thân với tôi cho biết có lần đi chợ trời ở Mt Gravatt, họ gặp Trân cũng đang bán tại đó, Trân đã khoe là 2 bức Tượng hiện đang nằm trong xe Van của Trân. Tôi có check lại với xưởng đúc và nơi đây cho biết Trân đã chở trả lại 2 bức tượng rất trễ.

Sau cùng, tôi có triệu tập phiên họp bất thường và quyết định mời Trân ra khỏi Uỷ ban vận động của Tượng đài từ đó.

2. Số tiền của Ông Bà Giáo sư Lương minh Đáng yểm trợ khi Tượng Đài ở vào giai đoạn cuối, có nghĩa là Tượng Đài đã đúc xong chỉ chờ có Bệ để an vị Tượng Đài là hoàn tất .

Sau khi khảo giá xong, được biết Bệ an vị và Granite 4 mặt Tượng Đài lên đến gần $50.000 , tôi đã viết một thư riêng gởi đến ông bà trình bày những khó khăn mà Ủy Ban xây dựng đang gặp phải và xin ông bà yểm trợ. Trên điện thoại, Giáo sư Đáng rất chân tình và vui vẻ hứa sẽ cho ngay trong ngày số tiền là $20.000 úc kim.

Ông có hỏi tôi gởi vào trương mục nào, tôi nói ông cứ gởi thẳng cho BS Trần văn Lân vì ông ấy đang giữ sổ quyên góp, Nhưng khi nhận được số tiền trên thì Nguyễn Minh Trân lại tuyên bố là chính đương sự xin cho Tượng Đài.

Khi biết được tin trên, tôi gọi ngay cho ông bà GS Lương Minh Đáng để nhờ xác nhận. Trên điện thoại, ông cho biết, ông bà có biết Nguyễn minh Trân là ai đâu ? Và ông cho biết sẽ gởi ngay cho tôi một thư để xác nhận là số tiền đó do tôi xin từ Ông bà (Thư tôi gởi cho Giáo sư LM Đáng xin yểm trợ tiền cho Bệ an vị , và thư trả lời xác nhận của ông hiện tôi đang giữ trong hồ sơ Tượng đài).

Tôi muốn nói lên điều nầy để chứng minh Nguyễn Minh Trân là người chuyên lợi dụng bình phong Nhóm Xe Lăn để lừa gạt đồng hương từ nhiều năm qua. Điển hình là sự việc của Chiến hữu Phạm Tín An Ninh gây quỹ cho Thương phế binh VNCH, đương sự đã lợi dụng nhảy vào để ăn có và nhập nhằng Thương phế binh và Nhóm xe lăn của đương sự.

Tôi cũng đã 2 lần báo cho BS Trần văn Lân biết về Nhóm Xe Lăn gởi xe về VN cho cả thương phế binh của Cộng sản, nhưng thấy BS Lân bỏ ngoài tai nên anh em chúng tôi không bàn tới nữa.

Hôm nay chuyện chẳng đặng đừng tôi phải gióng lên tiếng chuông báo động đến đồng hương nhất là tại QLD về việc làm của Nhóm Xe Lăn để đồng hương đề cao cảnh giác, không khéo lại rơi vào chuyện "ông Tim ở QLD" cũng không chừng.

Huỳnh Bá Phụng - Chủ tịch Hội CQN/QLVNCH/QLD .


Lần theo vết "dấu" của Bút Vàng

Toado 91767

Ngày này,32 năm về trước,các sinh viên năm thứ 3 thuộc Học Viện Quốc Gia Hành Chánh khoá đốc sự 17 đang chăm chú trong các giảng đường tại học viện số 100 Trần quốc Toản, Quận 10, Thủ Đô Sàigòn bỗng nghe một tiếng nổ lớn phát từ khoảng cách không xa vang vọng tới, làm rung rinh và vỡ vụn một số cửa kính của các giảng đường, khiến họ phải giật mình tạm ngưng việc học để xem chuyện gì vừa mới xẩy ra.

Chính tiếng nổ ấy, đã vừa cướp đi của 199 bạn trẻ này một người thầy khả kính,nhà lãnh đạo và là nhà sáng lập phong trào Quốc Gia Cấp Tiến, vị Thủ Tướng tương lai của VNCH như lời loan truyền trong hàng lãnh đạo chính trị, hành chánh, trí thức và quân sự cao cấp nhất của Quốc Gia: Giáo sư Thạc Sĩ Quốc Tế Công Pháp, Viện sĩ Nguyễn Văn Bông, Viện Trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh.

Người ta đồn rằng sau khi ký kết mật ước Thương Hải với Mao trach Đông, cầm chắc TT. Nixon và nước Mỹ sẽ thay đổi chiến lược ở Đông Nam Á, cuộc chiến Quốc Cộng như thế sẽ nghiêng về thế đấu tranh chính trị hơn là quân sự, và như thế một vị thủ tướng dân sự tài ba, có uy tín tại quốc nội cũng như trên trường quốc tế là giải pháp cần phải có ở miền Nam Việt Nam trong thời điểm này và người ta cho rằng Giáo Sư Nguyễn Văn Bông đã được mời để đảm trách nhiệm vụ đầy khó khăn trong biến chuyển mới của lịch sử và hình như ông đã nhận lời .

Giữa lúc đó, cánh quân sự đang nắm giữ vận mệnh của Miền Nam, người ta đã cho rằng giới quân sự sẽ nhất quyết không nhả ra quyền lực họ đang nắm giữ và rằng cái chết của vị giáo sư chẳng qua là sự thanh toán trong giới chức quyền quân sự và hành chánh, nội bộ của Miền Nam. Vì thế, bên cạnh quan tài của chồng, bà quả phụ Nguyễn Văn Bông đã ngất xỉu nhiều lần khi nhắc đến cái chết đột ngột và tàn bạo của chồng mình, bà lúc ấy cũng ám chỉ rằng những kẻ giết người đã ganh ghét và đố kỵ tài năng của chồng mình.

Chúng ta không rõ là sau này, vào thời điểm nào thì nhà hữu trách Việt Mỹ trần tình lại cho bà Jackie Bông biết ai là thủ phạm; nhưng trên thực tế lúc án mạng do khủng bố xẩy ra, thì trên đường từ Saigòn về Thủ Dầu Một, một gã thanh niên, độ tuổi 20 đang vội vã phóng xe hết cỡ: chính y, tên hung phạm giết người, vừa gây án xong, không chờ chính mắt kiểm tra kết quả, từ cuối 1 dẫy phố trên đường Phan Thanh Giản, chỉ nghe tiếng nổ và thấy khói, lửa bốc lên như đã tính toán từ ở góc đường Cao Thắng+Phan Thanh Giản, là y đã ba chân bốn cẳng rời khỏi hiện trường. Giờ đây, dù biết là đã chắc chắn lọt vòng vây bắt mà lòng y vẫn còn hồi hộp.

Tên sát nhân, giết người, ném đá dấu tay để rồi vu oan giá họa giữa những người quốc gia với nhau ấy đã làm theo lệnh của bọn đầu sỏ: Cộng sản Hànội.

Phải đợi mãi 15 năm sau, khi Nguyễn văn Linh làm TBT đảng CSVN, cho phép văn nghệ cởi trói, tên sát nhân ấy mới được phép trình bầy tự sự và y đã kể tòng đầu tuyệt vĩ vụ án mạng trên tờ Công An Thành Phố HCM.

Y, Huỳnh Bá Thành, nay mang quân hàm Trung Tá Công An thuộc Sở CATPHCM, người 15 năm trước chính là sinh viên thứ 200 của khoá DSHC17 do đặc công CS gài vào.

Trong loạt báo đăng trên tờ CA, chính y đã viết y là SV nội trú ở ngay trong Ký Túc Xá học viện, do đó y đã điều nghiên rất kỹ càng đường đi nước bước. Từ Ký Túc Xá đến chỗ đậu xe mà bác tài xế của Giáo Sư thường đậu chỉ có một bước chân. Ngày nào, giờ nào GS đi những đâu những đâu, y đều biết rành mạch VÌ Y LÂN LA LÀM QUEN và trở nên thân tình để HỎI TIN TỨC ẤY TỪ BÁC TÀI XẾ. Bác tài vô tình, có ngờ đâu đứa học trò của thầy Bông lại là một thằng đặc công VC, nên trong lúc vui chuyện Bác thường kể hết nhiều việc mà y cần dò tìm.

Tối hôm trước ngày gây án, y đã nhận quả bom từ tay của một nữ đặc công giả dạng người tình vào thăm y trong ký túc xá. Y đã ra cổng và dẫn cô đặc công vào uống nước tại câu lạc bộ. Nửa đêm về sáng, thừa lúc mọi người ngủ mê, y đã thực hiện âm mưu ám toán, bò dưới gầm xe, y đã mất hàng tiếng đồng hồ để gắn quả bom nổ chậm định giờ.!

***********

Sau loạt bài, địa vị của y trong toà soạn báo CATP lên như diều gập gió,t ừ một biên tập viên y leo lên chức Phó Tổng biên tập, rồi Tổng biên tập.

Ngay trong thời điểm này, y đã cho đăng tải một loạt bài tô hồng cho một người mà trước đó chỉ là vô danh tiểu tốt; y đã biên tập và đích thân khen rằng nhà văn trẻ này có tinh thần cách mạng cao độ, là em của một nhà văn khá nổi tiếng trước 1975 hiện ở ngoại quốc: văn sĩ NHẬT TIẾN.

Y cũng không ngớt lời ca ngợi CHIM HÓT TRONG LỒNG là một tác phẩm mang chiều sâu bao hàm tư tưởng cách mạng, thay đổi xã hội tư bản cũ kỹ nhiều bất công v....v. và v..v....... và cứ như thế NHẬT TUẤN đã lừng lững được ghi danh vào hội nhà văn TPHCM đồng thời là cộng tác viên và nhân viên trong ban biên tập báo CATP kể từ ngày đó.

Cách đây không lâu, Bút Vàng long trọng và lớn tiếng giới thiệu NHẬT TUẤN là nhà văn lớn rất có tâm hồn "chống phá Cộng Sản Việt Nam"........v..v...... như mọi người quan tâm đều biết rõ.

Khi mọi người chất vấn việc này, Bà Giáo Sư Đại Học mà ông Nguyễn Phương Hùng vừa gọi là cô sinh viên F.U, đã có những lời lẽ thật không biết phải nói làm sao cho đúng.

NHẬT TUẤN, em của NHẬT TIẾN, chú ruột của cô MAI KHANH, người "đã chi tiền " mua cả Viet TIDE và LSR, và là em chồng của bà ĐỖ PHƯƠNG KHANH, ai ai cũng biết, chỉ có Bút Vàng không hề biết một mảy.

Bút Vàng đã dùng lời thậm tệ để gán cho những người bảo cô có liên hệ với Nhật Tuấn. Cô đã bảo cô không có liên hệ gì hết. Cô chỉ biết Nhật Tuấn "CHỐNG CỘNG" nên cô trân trọng giới thiệu rộng rãi đến người Việt hải ngoại một "NHÀ VĂN CHỐNG CỘNG Ở NGAY TRONG NƯỚC: NHẬT TUẤN" mà thôi.

Hỡi ơi!

Cô Bút Vàng có thể là không "máu mủ" gì với Nhật Tuấn, nếu cô không máu mủ gì với bà Phương Khanh, nhưng nhất định cô biết rõ Nhật Tuấn, cũng như hôm nay đây cô biết rất rõ đoàn Sứ Giả như lai là ai nên đã không ngớt trân trọng giới thiệu đến mọi người với tư cách một giáo sư Đại Học tự nhận:

Nhật Tuấn kẻ "chống cộng trong lòng địch" phây phây xuất ngoại như đi chợ và các THÁNH TĂNG trong đoàn Sứ giả Như Lai do bọn VẸM từ VN gửi ra ngoại quốc sau 1975.

Hỡi ơi, các bậc phu huynh có con, cháu có được một GS như Bút Vàng giờ đây hẳn phải đau lòng lắm.

Không biết Giáo Sư còn định lừa người đến bao giờ nữa. Không biết giáo sư còn thoá mạ tất cả mọi người đến bao giờ nữa, không biết Giáo sư còn dậy học trò thói lừa đảo đến bao giờ và không biết bao giờ giáo sư mới ngưng dậy học trò biết ...... thoá mạ mọi người.

Toado 91767