Monday, June 9, 2014

TRƯỚC & SAU CUỘC GẶP CẤP CAO TRUNG-VIỆT Ở THÀNH ĐÔ

Đôi lời: Về quá trình bình thường hóa quan hệ VN-TC, nhiều năm qua đã có những tiết lộ về vai trò của TBT Nguyễn Văn Linh và đại tướng bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh qua 2 cuộc gặp riêng với đại sứ TC Trương Đức Duy ngày 5 và 6/6/1990 *.

Thế nhưng mới đây, viên đại sứ này còn tiết lộ thêm mấy cuộc tiếp xúc “bí mật” nữa ngay sau đó, theo nghi thức rất lạ, mà xem ra giới chức chóp bu VN khi đó hoàn toàn không biết *. Để rồi chỉ mươi ngày sau đã có cuộc gặp cấp cao Trung-Việt tại Thành Đô đầu tháng 9/1990, qua lời mời cũng rất lạ của TC với các vị “nguyên thủ” VN trước chuyến thăm chỉ có 5 ngày. Thực hư chuyện này tới đâu, tại sao phía TC lại tung ra bản gọi là “hồi ký” của họ Trương vào lúc này, đó là điều cần phải làm rõ.
_____________________________
TRƯỚC & SAU CUỘC GẶP CẤP CAO TRUNG-VIỆT Ở THÀNH ĐÔ
21-11-2011
(Ghi lại việc giải quyết vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước [Trung-Việt])
Tác giả: Trương Đức Duy
Người dịch: Quốc Thanh

Tóm tắt về tác giả: Sinh năm 1930 ở huyện Tân Hội, tỉnh Quảng Đông, từng là Hoa kiều học tại Việt Nam. Năm 1948 tham gia Đội công tác chính trị thuộc Biên khu Việt Quế[1], năm 1949 được Tung đội Biên khu Việt Quế điều vào tham gia bộ đội Việt Nam, sau đó điều vào làm trong Đoàn cố vấn chính trị, quân sự giúp Việt Nam chống Pháp của Trung Cộng. Năm 1954, tham gia thành lập Đại sứ quán Trung Cộng tại Việt Nam, phụ trách phần phiên dịch và điều tra nghiên cứu. Năm 1964, lại được phái về giữ chức Bí thư thứ ba ở Đại sứ quán Trung Cộng tại Việt Nam. Năm 1967, giữ các chức Thư ký Tổ chăm sóc y tế cho Hồ Chí Minh và phiên dịch cho Hồ Chí Minh.

Từ tháng 7 năm 1985 đến tháng 3 năm 1983, làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Vương quốc Thái Lan kiêm Đại sứ tại Campuchia dân chủ, đồng thời là Đại diện thường trú của Ủy ban Kinh tế và Xã hội Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương của Liên Hiệp Quốc; từ tháng 4 năm 1989 đến tháng 3 năm 1993, làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Trung Cộng tại Việt Nam. Từ tháng 6 năm 1993 về hưu cho đến nay, từng trải qua các chức vụ Phó chủ tịch Hội hữu nghị Trung-Việt, Chủ tịch các khóa 3, khóa 4, khóa 5 và Chủ tịch danh dự Hội hữu nghị Hoa kiều Việt Nam, Campuchia, Lào.

Lời người biên tập: Năm nay nhân dịp kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ giữa hai nước hai Đảng Trung-Việt, xin đặc biệt đăng tải một bài hồi ký của tác giả viết sau ngày rời bỏ chức vụ ở Việt Nam, nhằm cung cấp cho độc giả một sự hiểu biết khá tường tận về sự kiện lịch sử trọng đại này.

Chuyến bay huyền bí

Sớm ngày 3 tháng 9 năm 1990, Hà Nội – Thủ đô Việt Nam, mưa phùn lất phất.

8 giờ 10 phút (10 giờ 10 phút giờ mùa hè Bắc Kinh), một chiếc chuyên cơ Tu-134 màu bạc cất cánh từ Sân bay quốc tế Nội Bài tĩnh lặng, chầm chậm bay lên không trung, lặng lẽ hướng thẳng tới biên giới Trung-Việt. Đây là chiếc máy bay dân dụng Việt Nam đầu tiên bay tới Trung Cộng kể từ 20 năm nay, còn hành khách trên máy bay lại là các nhà lãnh đạo tối cao của Việt Nam – Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Bộ chính trị Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chính phủ Đỗ Mười, Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, nguyên Thủ tướng chính phủ Phạm Văn Đồng. Có thể dự đoán được hành động này sẽ có ảnh hưởng hết sức quan trọng đến mối quan hệ Trung-Việt. Tuy nhiên, trên sân bay không có đông người ra tiễn, không có nhà báo, lại càng không có cảnh tượng quần chúng. Tất cả những điều đó đã khoác lên một màu sắc huyền bí cho chuyến bay này.
Cuộc gặp Thành Đô giữa lãnh đạo Trung-Việt (3-9-1990).
Hàng trước từ trái sang: Hoàng Bích Sơn, trưởng ban đối ngoại T.Ư.(1), Phạm Văn Đồng, cố vấn BCHTƯ (3),
Nguyễn Văn Linh, tổng bí thư (4), Giang Trạch Dân (5), Lý Bằng (6), Đỗ Mười (7), Hồng Hà (9), …

Chuyến đi Trung Quốc bí mật lần này của các nhà lãnh đạo tối cao Việt Nam, theo lời mời của Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Trung Cộng Giang Trạch Dân và Ủy viên Bộ chính trị Trung ương Đảng cộng sản Trung Cộng, Thủ tướng Quốc vụ viện Lý Bằng, là tới Thành Đô để tổ chức hội đàm nội bộ về vấn đề Campuchia và mối quan hệ Trung-Việt. Những người đi theo phía Việt Nam có: Ủy viên Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Chủ nhiệm Văn phòng Trung ương Hồng Hà, Ủy viên Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Thứ trưởng thứ nhất Bộ ngoại giao Đinh Nho Liêm. Tôi với tư cách là Đại sứ Trung Cộng tại Việt Nam đã đi theo tới và tham gia cuộc hội đàm một cách ngẫu nhiên.

Máy bay bay an toàn, trong khoang rất yên tĩnh, mọi người không nói chuyện nhiều, dường như đều đang trầm tư, hình dung xem chuyến đi này sẽ có ảnh hưởng như thế nào đến mối quan hệ Việt-Trung. Tôi nhìn từng đám từng đám mây lùi lại phía sau bên ngoài cửa sổ máy bay, trăm mối suy nghĩ, những việc đã qua hiện về trong đầu…

Ôn lại mối quan hệ Trung-Việt, từ buổi đầu thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Cộng cho đến giữa thập niên 70 của thế kỷ 20, mối quan hệ hai nước hai Đảng luôn hết sức tốt đẹp và thân thiện. Trong các cuộc Chiến tranh chống Pháp và Đấu tranh chống Mỹ cứu nước lâu dài của Việt Nam, trong quá trình khôi phục và xây dựng kinh tế toàn diện của Việt Nam, Trung Cộng đều có sự ủng hộ và chi viện lớn nhất. Nhất là trong thời khắc ngặt nghèo khi quân xâm lược Mỹ đem bom rải khắp Việt Nam, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã trịnh trọng tuyên bố: “Bảy trăm triệu nhân dân Trung Quốc là hậu thuẫn vững chắc của nhân dân Việt Nam, đất Trung Quốc rộng rãi bao la là hậu phương đáng tin cậy của nhân dân Việt Nam”. Đồng thời, đã điều hơn 32 vạn Giải phóng quân nhân dân Trung Quốc tới Miền Bắc Việt Nam, kề vai sát cánh cùng quân dân Việt Nam chống trả lại những trận ném bom rải thảm của bọn giặc trời Mỹ. Cố Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói một cách thấm thía: Trung Quốc đối với Việt Nam là “Trăm ơn ngàn nghĩa vạn tình” và đã dùng câu thơ sâu sắc “Mối tình thắm thiết Việt Hoa, Vừa là đồng chí, vừa là anh em” để mô tả mối quan hệ thắm thiết giữa hai nước. Nhưng, ai mà biết được chữ ngờ, sau lưng Hồ Chí Minh, khi đã giành được thắng lợi trong cuộc Đấu tranh chống Mỹ cứu nước và hoàn toàn thống nhất, bè đảng do Lê Duẩn cầm quyền đã từ bỏ con đường đúng đắn của Hồ Chí Minh, trắng trợn thi hành chính sách xâm lược Campuchia, phản Hoa bài Hoa, làm cho mối quan hệ Trung-Việt cực kỳ xấu đi, để đến nỗi nhìn nhau như kẻ thù. Từ đó, mối quan hệ không bình thường đầy bi kịch giữa hai nước đã kéo dài suốt hơn 10 năm.

Làm Đại sứ Việt Nam với đầy trọng trách

Tháng 4 năm 1989, tôi nhận nhiệm vụ làm Đại sứ tại Việt Nam, gánh trên vai một sứ mệnh quan trọng, đó là quán triệt phương châm mà Trung ương đã định ra là: Trước hết, Việt Nam phải thực sự rút sạch quân ra khỏi Campuchia, thực sự giải quyết công bằng vấn đề Campuchia theo chủ trương của cộng đồng quốc tế, thực sự thay đổi chính sách đối với Trung Cộng, thì mới có thể gạt bỏ được mọi trở ngại mà khôi phục lại mối quan hệ bình thường Trung-Việt, đây chính là then chốt. Căn cứ vào toàn bộ cục diện quốc tế, cục diện khu vực và động hướng chuyển biến về chính sách của ban lãnh đạo mới của Đảng cộng sản Việt Nam do Nguyễn Văn Linh đứng đầu, cần sớm thúc bách Việt Nam rút quân triệt để khỏi Campuchia, đồng thời giải quyết công bằng vấn đề Campuchia theo chủ trương của cộng đồng quốc tế, từ đó mà mở đường cho việc khôi phục lại mối quan hệ bình thường Trung-Việt. Cần thấy rằng, điều kiện lúc này đã cơ bản đầy đủ. Nhưng, qua một thời gian tìm tòi và làm việc kể từ khi tới nhậm chức, tôi cảm thấy muốn giải quyết được hai vấn đề đại sự này vẫn còn những khó khăn không nhỏ, nguyên nhân là do tàn dư thế lực của Lê Duẩn vẫn còn gây quấy nhiễu từ nhiều phía, mối quan hệ Trung-Việt vẫn còn ở trạng thái đối lập và đối kháng, tranh chấp biên giới vẫn còn xảy ra đôi lúc; giữa hai nước ngoài quan hệ ngoại giao ra, mọi mối quan hệ khác đều đã bị đoạn tuyệt.

Song, vũ đài ngoại giao rất rộng lớn, tôi đã mở hoạt động bằng nhiều phương thức, tận dụng hết những mối quan hệ cũ, tới thăm khắp những người lãnh đạo các cấp các ngành để làm việc xoay quanh các vấn đề nói trên. Trải qua bao nỗ lực, tuy cũng có được một vài tiến triển, nhưng Nguyễn Cơ Thạch khi ấy là Ủy viên Bộ chính trị Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ ngoại giao lại đang nắm đại quyền ngoại giao của Việt Nam. Tôi đã nhiều lần bàn bạc trao đổi với ông ta về vấn đề Campuchia nhưng không bao giờ tới nơi, vấn đề mấu chốt vẫn chưa giải quyết được. Thời gian đã trôi qua 1 năm, làm thế nào bấy giờ?

Lúc này tôi cân nhắc đến việc phải tìm cách thâm nhập chuyện trò với những người lãnh đạo cấp cao hơn bên phía Việt Nam. Trong thời gian này, tôi từng thông qua con đường ngoại giao bình thường để đề xuất nguyện vọng tới thăm chủ tịch nước và thủ tướng chính phủ, nhưng do mối quan hệ hai nước hai đảng vẫn đang ở trạng thái không bình thường, cho nên Bộ ngoại giao Việt Nam đều không sắp xếp. Vì thế, tôi nghĩ đến Nguyễn Văn Linh đang giữ chức Tổng bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, trong thời kỳ Đấu tranh chống Mỹ của Việt Nam từng bí mật tới thăm Trung Quốc với tư cách là nhà lãnh đạo chủ yếu của Miền Nam Việt Nam, khi gặp mặt các nhà lãnh đạo Trung Quốc ở Bắc Kinh, tôi từng đảm nhận vai trò phiên dịch cho ông ta, ông ta chắc vẫn còn nhớ tôi, thế là tôi bày tỏ ý muốn được tới thăm ông thông qua bạn bè. Quả nhiên không lâu sau, Nguyễn Văn Linh đã tiếp tôi vào ngày 5 tháng 6 năm 1990. Khi gặp mặt, ông bắt tay tôi rất lâu và nhiệt tình, tỏ ra hết sức thân thiết. Tự đáy lòng, ông vẫn nhớ mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước hai Đảng trong quá khứ, đồng thời bày tỏ hết sức trân trọng mối tình hữu nghị tốt đẹp Việt-Trung, hy vọng mối quan hệ này sẽ được khôi phục trong thời gian sớm nhất. Tôi trình bày theo đúng tinh thần của Trung ương là lãnh đạo Trung Cộng luôn coi trọng mối quan hệ và tình hữu nghị truyền thống giữa hai nước Trung-Việt, hy vọng phía Việt Nam sớm áp dụng những biện pháp thiết thực để giải quyết tốt vấn đề Campuchia…, đồng thời mở đường cho việc khôi phục mối quan hệ bình thường giữa hai nước Trung-Việt. Nguyễn Văn Linh nói, ông cũng có nguyện vọng giống như lãnh đạo Trung Cộng, đồng thời bày tỏ nguyện vọng được đi thăm Trung Cộng theo đường nội bộ, để đích thân trao đổi trực tiếp với lãnh đạo cấp cao Trung Cộng về những vấn đề cùng quan tâm. Ở lần gặp mặt này, vì có nhiều người đi theo cùng có mặt, nên Nguyễn Văn Linh chưa bàn sâu đến vấn đề Cam puchia và quan hệ giữa hai nước. Nhưng sau đó, mọi việc đã có bước tiến triển mới.

Lời nhắn quan trọng chuyển rõ ý

Sau đó không lâu, vào ngày 16 tháng 8, một cán bộ Viện khoa học xã hội Việt Nam là Hoàng Nhật Tân (con trai Hoàng Văn Hoan) tới sứ quán gặp tôi (ông cùng với mẹ tới Bắc Kinh thăm bố mình vừa về), xúc động nói: “Tối ngày 13 tháng 8, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cho xe tới đón tôi đến nhà ông nói chuyện một tiếng đồng hồ, hỏi thăm kỹ lưỡng về tình hình sinh hoạt và sức khỏe của bố tôi, hết sức thân thiết. Tổng bí thư còn nói, ông muốn được gặp Đại sứ Trương lần nữa, nhưng Bộ ngoại giao nói chưa cần và đã ngăn lại. Vì thế, ông ấy nhờ tôi ghi lại một lời nhắn. Khi Tổng bí thư nói, tôi đã ghi lại hết sức tường tận. Cuối cùng còn đọc lại một lượt và đã được sự xác nhận của ông ấy”. Sau đó, Hoàng Nhật Tân trịnh trọng chuyển cho tôi lời nhắn của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, nội dung chủ yếu như sau: “Tháng 10 năm ngoái, đồng chí Khải Sơn đã chuyển đến tôi lời thăm hỏi của đồng chí Đặng Tiểu Bình và lòng mong mỏi sớm được thấy sự bình thường hóa mối quan hệ Trung-Việt của đồng chí Đặng Tiểu Bình, tôi nghe thấy rất phấn khởi. Tôi cũng tha thiết mong mỏi mối quan hệ tốt đẹp Việt-Trung có thể được khôi phục trong nhiệm kì Trung ương khóa 6 Đảng cộng sản Việt Nam do tôi chủ trì, để mở đầu một giai đoạn mới cho quan hệ hai nước khi tiến hành Đại hội 7 của Đảng cộng sản Việt Nam. Làm được việc này thì mới khỏi phụ sự tín nhiệm của nhân dân Việt Nam và các Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam đối với tôi. Tôi muốn nói một cách thẳng thắn rằng, sở dĩ trở ngại về vấn đề Campuchia cứ bị kéo dài chưa được giải quyết là vì có những người trong Đảng luôn làm sai lệch sự việc, chưa quán triệt được tinh thần chủ yếu của Trung ương. Tôi hi vọng phía Trung Cộng cho mời tôi và Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười cùng Cố vấn Phạm Văn Đồng tới thăm Trung Quốc theo con đường nội bộ, để trao đổi trực tiếp và sâu hơn với lãnh đạo Trung Cộng về việc giải quyết vấn đề Campuchia…, tin rằng những vấn đề này nhất định sẽ được giải quyết thật tốt, từ đó mà thực hiện được bình thường hóa quan hệ hai nước Việt-Trung. Tôi sẽ đi theo con đường của Hồ Chủ tịch, vun đắp tình hữu nghị Việt-Trung tốt đẹp, bảo vệ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và những lợi ích cách mạng chung giữa hai nước Việt-Trung, sẽ đi tiếp một cách kiên định không lay chuyển”.
Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ Trương Đức Duy (5-6-1990)

Sau khi đã chăm chú nghe lại lời nhắn từ Nguyễn Văn Linh, tôi nói với Hoàng Nhật Tân: Nếu có cơ hội, nhờ anh chuyển lời lại cho đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh rằng tôi hiểu được ý tứ và nỗi lòng của ông ấy, tôi sẽ báo cáo ngay với Trung ương chúng tôi.

Tiễn chân Hoàng Nhật Tân xong, tôi quay về phòng làm việc suy nghĩ mãi về một vấn đề. Ngày 5 tháng 6, tôi từng báo cáo về trong nước là khi Nguyễn Văn Linh gặp tôi có đề xuất yêu cầu được đi thăm Trung Cộng theo đường nội bộ. Trả lời từ trong nước là phải giải quyết trước hai vấn đề mấu chốt còn lại trong vấn đề Campuchia (đó là: Việt Nam phải rút quân triệt để khỏi Campuchia và giải pháp chính trị công bằng cho Campuchia), rồi sau đó mới bố trí cuộc gặp cấp cao hai nước theo đúng trình tự và hợp lý. Bây giờ lại đã xuất hiện những tình huống và nhân tố mới, vậy tôi nên đưa ra quan điểm và kiến nghị ra sao đây? Suy nghĩ mãi, tôi thấy vẫn nên đề xuất kiến nghị tích cực hưởng ứng yêu cầu của Nguyễn Văn Linh, để lãnh đạo tham khảo ra quyết sách. Trong báo cáo, tôi chủ yếu phân tích mấy điểm sau: Một là Nguyễn Văn Linh luôn thân thiện với Trung Cộng. Việc ông ta mong sớm giải quyết vấn đề Campuchia và khôi phục mối quan hệ tốt đẹp Trung-Việt là chân thành. Hai là vấn đề Campuchia bị để dây dưa không giải quyết, nguyên nhân quan trọng là do Nguyễn Cơ Thạch cùng Bộ ngoại giao do ông ta nắm quyền ngăn chặn khắp nơi. Nguyễn Văn Linh muốn vượt qua được tầng chướng ngại vật này thì phải có sự bàn định từ lãnh đạo tối cao của hai nước trước, rồi sau đó mới tìm cách nghĩ ra các biện pháp, điều này phù hợp với thực tế trước mắt của Việt Nam. Ba là Nguyễn Văn Linh hy vọng chúng ta mời cả Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng cùng đi, dụng ý là để tăng thêm độ uy quyền của chuyến đi và tiện cho việc quyết ngay tại chỗ những vấn đề trọng đại, đồng thời cũng cho thấy ông hết sức coi trọng những vấn đề này. Bốn là phán đoán từ tình hình đối nội và đối ngoại mà phía Việt Nam hiện tại đang ở vào, thì với việc tổ chức hội đàm nội bộ giữa lãnh đạo hai nước vào lúc này, xác suất có thể đạt kết quả tốt là rất lớn.

Ngày hôm sau, nhận được điện trả lời chỉ thị muốn tôi phải lập tức kiểm tra độ xác thực của nội dung lời nhắn, đề xuất với người tin cậy bên Nguyễn Văn Linh là “đích danh Đại sứ muốn được gặp riêng Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh trong một ngày gần đây”, để trực tiếp tìm hiểu ý đồ thực của Nguyễn Văn Linh. Hơn 10 năm qua, quan hệ Trung-Việt ở trạng thái không bình thường, sứ quán không có mối liên hệ nào với người tin cậy bên Nguyễn Văn Linh, vậy thì nên thông qua con đường nào đây để yêu cầu được gặp riêng một cách ổn thỏa hơn? Tôi triệu tập ngay cuộc họp Đảng ủy mở rộng, mời mọi người bàn bạc ra mưu sách. Ý tưởng thông qua con đường Vụ đối ngoại Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam thì sợ sẽ không giữ được bí mật, mà cũng khó để thực hiện “gặp riêng”. Có đồng chí nêu xem xem có thể thông qua con đường quân đội được không? Tôi cho như thế sẽ khá là ổn thỏa, lại càng có lợi hơn cho việc bảo mật. Thế là tôi liền nghĩ tới Thiếu tướng Vũ Xuân Vinh Cục trưởng Cục đối ngoại Bộ quốc phòng mà tôi khá thân thiết, từ ngày đến Việt Nam lần này, tôi đã gặp ông ta vài lần, quan hệ rất tốt, có thể thông qua ông ta để yêu cầu được gặp Đại tướng Lê Đức Anh (Ủy viên Bộ chính trị Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Bộ trưởng Bộ quốc phòng) thân thiết với Nguyễn Văn Linh, rồi xin Lê Đức Anh giúp đỡ bố trí cho tôi bí mật gặp Nguyễn Văn Linh. Mọi người thấy biện pháp này có thể được. Thế là tôi lập tức cho Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ liên hệ chính thức với Cục trưởng Vũ Xuân Vinh. Khi gặp Cục trưởng Vũ Xuân Vinh, Tùy viên quân sự Triệu đã trịnh trọng đề xuất: “Đại sứ Trương có việc gấp và quan trọng muốn được gặp Bộ trưởng Lê Đức Anh. Xin Cục trưởng bố trí cho ngay”. Chiều hôm đó, Vũ Xuân Vinh trả lời Tùy viên quân sự Triệu rằng: “Đồng chí Đại tướng rất vui lòng được gặp đồng chí Đại sứ, 8 giờ sáng hoặc 7 giờ tối mai đều được. Đại tướng còn nói, sau này đồng chí Đại sứ có muốn gặp ông thì cứ Cục đối ngoại Bộ quốc phòng bố trí là được”.

Vào 8 giờ sáng ngày 20 tháng 8, xe của tôi chạy thẳng vào Bộ quốc phòng. Thiếu tướng Vũ Xuân Vinh đón đợi ở cổng tòa nhà, dẫn tôi vào phòng tiếp khách của Bộ trưởng rồi lui ra, khép chặt cửa lại. Tôi đang tiến thẳng vào thì Bộ trưởng Lê Đức Anh cũng bước vào phòng khách từ một cửa khác, khi gặp nhau Lê [Đức Anh] bắt tay, ôm tôi rất nhiệt tình. Tôi nói xã giao: “Thực sự được xin lỗi, mới sáng ra đã tới làm phiền đồng chí Đại tướng”. Đại tướng Lê [Đức Anh] mỉm cười bảo: “Đại sứ đến lúc nào tôi cũng tiếp”. Trong phòng khách ngoài hai chúng tôi ra, không có ai đi theo. Chuyện trò hàn huyên xong tôi chuyển ngay sang chủ đề chính, đầu tiên bày tỏ lãnh đạo Trung Quốc rất coi trọng mối quan hệ Trung-Việt, hiện nay tình hình quốc tế phát triển rất nhanh, thời gian không chờ đợi mình, cả hai bên cần chớp lấy thời cơ, nhanh chóng loại bỏ trở ngại là vấn đề Campuchia, từ đó thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung-Việt. Sau đó tôi nhắc đến lời nhắn của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã được ghi lại gửi cho tôi, tôi cảm thấy hết sức quan trọng, cho nên mong được gặp riêng Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh để trực tiếp lắng nghe ý kiến của Tổng bí thư, đồng thời tôi cũng có một vài điều nữa cần nói với Tổng bí thư. Tôi nói, hiện giờ mà thông qua con đường khác sẽ có khó khăn, cho nên xin phiền đồng chí Đại tướng giúp cho. Lê Đức Anh nói rất thoải mái: “Đây quả thực là việc hết sức quan trọng, hôm nay tôi sẽ báo cáo lại yêu cầu của Đại sứ với Tổng bí thư”. Tiếp đó, Lê Đức Anh cũng nói về hai quan điểm, đại ý là: Thứ nhất, nhấn mạnh Nguyễn Văn Linh rất có tình cảm với Trung Cộng, luôn chủ trương thân thiện với Trung Cộng, từ sau khi nhậm chức Tổng bí thư vào năm 1986 đã làm rất nhiều việc để khôi phục lại mối quan hệ giữa hai nước hai Đảng. Trước tình hình thế giới phức tạp như hiện nay, việc thực hiện bình thường hóa quan hệ giữa hai nước lại càng trở thành niềm mong muốn ấp ủ của ông ấy. Thứ hai, bước đi đầu tiên trong việc giải quyết vấn đề Campuchia là phải thành lập Hội đồng tối cao toàn quốc Campuchia, nhưng nếu hai đảng cộng sản ở Campuchia không thực hiện hòa giải, thì có thành lập ra Hội đồng tối cao cũng không thể thực sự giải quyết được vấn đề, các phái sẽ vẫn còn tiếp tục tranh cãi, thậm chí còn lại đánh nhau. Cho nên, cả hai phía Trung-Việt cần cùng nỗ lực khuyên giải hai đảng cộng sản ở Campuchia hòa giải, để nước Campuchia tương lai có thể bình yên được lâu dài.

Gặp riêng Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh

Chiều hôm đó, Cục trưởng Vũ Xuân Vinh hẹn gặp gấp Tùy viên quân sự Triệu, nói rằng: “Theo chỉ thị của Đại tướng Lê Đức Anh, xin chuyển lời tới Đại sứ Trương. Vào 19 giờ 30 phút ngày 22, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh sẽ gặp riêng Đại sứ Trương tại phòng khách Bộ trưởng Bộ quốc phòng. Cả hai bên đều không đem theo phiên dịch và thư kí. Đề nghị Đại sứ Trương đổi sang một chiếc xe nhỏ, không cắm quốc kỳ, đi vào từ cửa bên Bộ quốc phòng”.

Mọi sự được tiến hành thuận lợi hơn dự kiến. Tối đó, tôi theo hẹn đúng giờ đến Bộ quốc phòng. Trong cuộc gặp hơn 40 phút, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh nói chuyện với tôi hết sức thân mật và thẳng thắn, ông đã chứng thực cho lời nhắn mà Hoàng Nhật Tân đã ghi lại. Nguyễn [Văn Linh] nói: “Trong công cuộc đấu tranh cách mạng dài lâu và trong các cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, Việt Nam luôn nhận được sự ủng hộ và viện trợ to lớn từ lòng tấm chân thành của Trung Quốc. Bản thân tôi trước sau đều cho rằng, Việt Nam cần giữ mối quan hệ tốt đẹp với Trung Cộng. Thời kỳ Đại hội IV Đảng cộng sản Việt Nam năm 1976, vì không đồng tình với một vài cách làm làm xấu đi mối quan hệ Việt-Trung mà tôi đã bị chỉ trích là “hữu khuynh”. Thời kỳ Đại hội V năm 1982, lại chỉ vì không tán thành chính sách bài Hoa và chủ trương ở giai đoạn hiện tại cần cho phép nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại mà tôi đã bị ra khỏi Bộ chính trị. Khi ấy, tôi rất khó lí giải được vì sao lại phải áp dụng thái độ đó với Trung Cộng. Nếu như Bác Hồ còn sống khỏe mạnh, thì dứt khoát sẽ không xuất hiện chuyện quái gở như vậy. Rồi còn chính sách đối xử với người Hoa và Hoa kiều cũng là sai lầm. Người Hoa, Hoa kiều đã có những đóng góp quý báu cho sự nghiệp cách mạng và xây dựng của Việt Nam, khi thắng lợi rồi chúng tôi lại kỳ thị họ, xua đuổi họ, thật là cạn tàu ráo máng”.

Nguyễn Văn Linh còn nói đến cả chuyện khi lên làm Tổng bí thư vào năm 1986, ông liền quyết tâm khắc phục mọi trở lực, từng bước chỉnh sửa những sai lầm trong quá khứ, khôi phục lại tình thân thiện với Trung Cộng. Ông nói, đầu tiên ông thuyết phục Ban chấp hành Trung ương kiến nghị với Quốc hội xóa bỏ những nội dung chống Trung Cộng trong Hiến pháp, đồng thời sửa đổi những chính sách sai lầm đối với người Hoa và Hoa kiều. Sau đó, lại làm công tác từ các phương diện, để rồi cuối cùng đã ra được quyết định rút quân khỏi Campuchia.

Trong tình hình thế giới hiện nay, việc Việt Nam cùng với Trung Cộng, trung tâm xã hội chủ nghĩa vững mạnh, thiết lập và phát triển nên mối quan hệ hữu nghị, hợp tác, đoàn kết đã trở nên ngày càng quan trọng và cấp thiết. Nguyễn Văn Linh nhấn mạnh, niềm mong mỏi ấp ủ lớn nhất của ông là tới Đại hội VII Đảng cộng sản Việt Nam tổ chức vào năm 1991 sẽ thực hiện được bình thường hóa quan hệ Việt-Trung, đây sẽ là một việc lớn gây phấn chấn lòng người đối với toàn Đảng toàn dân Việt Nam.

Về vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh nói, ông thấu hiểu được tầm quan trọng và tính bức thiết của việc giải quyết vấn đề này, vì thế, nhiệm vụ đầu tiên mà ông dự định tới Bắc Kinh lần này là muốn thảo luận với phía Trung Cộng về vấn đề Campuchia, cho nên thử xem xét để mình ông cùng với một hai vị lãnh đạo cao cấp thân cận tới Bắc Kinh trao đổi bàn bạc trực tiếp với Tổng bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng theo kiểu đồng chí, với thái độ chân thành tâm giao, nhằm tìm ra phương án giải quyết tối ưu. Nguyễn Văn Linh cho rằng, khi giải quyết vấn đề Campuchia nên xem xét từ hai phương diện: Trước hết, thỏa mãn yêu cầu rộng khắp của cộng đồng quốc tế, để cho Sihanouk đứng đầu, bảo đảm cho Campuchia trong tương lai sẽ trở thành một đất nước hòa bình, độc lập, trung lập và không liên kết, giữ được mối quan hệ hợp tác tốt đẹp với các nước. Thứ đến, thúc đẩy các phái ở Campuchia đi đến xóa bỏ hiềm thù, hòa giải thực sự theo tinh thần hướng tới tương lai. Làm như vậy không có nghĩa là phe này đầu hàng phe kia, và cũng không tồn tại vấn đề ai thôn tính ai, mà là các phái xắn tay hợp tác để cùng tạo nên tương lai. Ông nhấn mạnh, điều hết sức quan trọng là không được để cho Campuchia trong tương lai bị rơi vào tay Mỹ, trở thành bàn đạp cho chủ nghĩa đế quốc thực hiện diễn biến hòa bình ở Bán đảo Đông Dương.

Nguyễn Văn Linh còn nói một cách sâu sắc rằng: Cả Mao Chủ tịch và Thủ tướng Chu [Ân Lai] đều không còn nữa, khi nào cùng với các đồng chí Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi thăm Trung Quốc theo đường nội bộ, ông mong sẽ được gặp đồng chí Đặng Tiểu Bình, được đích thân lắng nghe mọi ý kiến và kinh nghiệm từ đồng chí ấy.

Tôi nghe hết sức chăm chú từng chi tiết buổi nói chuyện của Nguyễn Văn Linh, đồng thời ghi lại những nội dung quan trọng mà ông đã nói. Cuối cùng tôi đã bày tỏ rằng vô cùng cảm động khi được nghe buổi nói chuyện hết sức thân mật của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, tôi nhất định sẽ báo cáo ngay lại với Trung ương chúng tôi về những ý kiến và yêu cầu của đồng chí Tổng bí thư .

Đồng ý mời lãnh đạo cấp cao Việt Nam đi thăm Trung Quốc theo đường nội bộ

Chiều này 28 tháng 8, sứ quán chúng tôi nhận được điện trả lời từ trong nước về việc đồng ý mời các vị lãnh đạo Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi thăm Trung Quốc theo đường nội bộ từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9. Làm sao trực tiếp nói với riêng Nguyễn Văn Linh về quyết định quan trọng này của Trung ương bây giờ? Lúc này thời gian đã rất gấp, chỉ còn cách ngày lên đường đi Trung Cộng của đoàn Nguyễn Văn Linh có 5 ngày. Thế là tôi liền quyết định vẫn thông qua kênh Bộ quốc phòng Việt Nam, như thế là nhanh chóng và ổn thỏa nhất. Không cho phép được chậm trễ một giây, tôi bảo ngay Tùy viên quân sự Triệu lập tức hẹn gặp Cục trưởng Cục đối ngoại Vũ Xuân Vinh. Thật là không may, Vũ Xuân Vinh đi Hải Phòng mất rồi, ngày hôm sau mới về Hà Nội. Tùy viên quân sự Triệu nhanh chóng quyết định lập tức đổi sang hẹn với trung tá Vũ Tần Vụ trưởng của Cục đối ngoại. Sau đó anh ta báo lại với tôi, tôi nói anh làm rất đúng, phải hết sức tranh thủ thời gian.
Vào 9 giờ tối hôm đó, Tùy viên quân sự Triệu vừa gặp mặt trung tá Vũ Tần đã nói thẳng vào vấn đề luôn rằng Đại sứ Trương có việc hết sức gấp và quan trọng, mong được gặp ngay Đại tướng Lê Đức Anh, xin đồng chí trung tá giúp bố trí cho. Vũ Tần bảo Đại tướng tối nay tham dự Hội nghị toàn thể Ban chấp hành trung ương khóa 9 Đảng cộng sản Việt Nam, không biết lúc nào tan. Tôi sẽ đến ngay nhà ông ta xem sao. Khi Đại tướng định giờ gặp một cái là tôi sẽ gọi ngay điện thoại báo cho anh biết. Tùy viên quân sự Triệu vừa về tới sứ quán chưa được bao lâu đã nhận ngay được trả lời điện thoại của Vũ Tần: “Đúng 8 giờ sáng mai Đại tướng sẽ gặp Đại sứ Trương, địa điểm vẫn ở chỗ cũ”.
 Đỗ Mười gặp Đại sứ Trương Duy Đức (7-1991)

Sáng ngày 29, tôi đến phòng khách Bộ trưởng Bộ quốc phòng đúng giờ. Khi gặp mặt, Đại tướng Lê Đức Anh nói một cách dí dỏm: “Trông bộ dạng Đại sứ Trương vui thế kia, chắc là đem tin tốt lành đến cho chúng tôi rồi”. Tôi nói: “Chiều tối qua, tôi nhận được chỉ thị quan trọng của Trung ương. Cho nên, hôm nay vừa mới sáng ra đã lại tới làm phiền anh rồi”. Tiếp đó, tôi thông báo lại với Đại tướng Lê Đức Anh việc Tổng bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng mời Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi thăm Trung Cộng theo đường nội bộ, xin Lê Đức Anh chuyển lời mời đồng thời bố trí cho tôi được gặp Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh một lần nữa, để trả lời trực tiếp với đồng chí ấy. Lê [Đức Anh] bày tỏ: “Đây quả thực là một tin tốt lành, tôi nghe mà cảm thấy rất phấn khởi. Xin đồng chí Đại sứ cứ yên tâm, tôi sẽ báo cáo ngay với Tổng bí thư. Chuyến đi thăm lần này hết sức quan trọng, chúng tôi phải có những nỗ lực lớn nhất để chuyến đi thăm được thành công.”. Khi chuyện trò tiếp, tôi nhắc đến việc 5 nước thành viên thường trực của Liên hợp quốc đã thông qua các văn bản khung về giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia, hy vọng phía Việt Nam thể hiện sự ủng hộ rõ ràng cho vấn đề này, đồng thời thúc đẩy phía Phnom Penh tiếp nhận. Lê [Đức Anh] bày tỏ là đã hiểu, đồng thời nêu lại một lần nữa việc giải quyết vấn đề Campuchia cần xem xét tới hai phương diện, một là hòa giải trong nội bộ Campuchia, hai là thỏa mãn đòi hỏi của cộng đồng quốc tế. Hy vọng cả hai nước Việt-Trung sẽ cùng nhau nỗ lực, tạo mọi điều kiện để các phái ở Campuchia thực hiện hòa giải.

Sau khi cáo từ Lê Đức Anh về sứ quán được khoảng hơn 1 tiếng, Trung tá Vũ Tần ở Bộ quốc phòng Việt Nam đã hẹn với Tùy viên quân sự Triệu rằng: Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh sẽ cùng với Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười gặp Đại sứ Trương vào 4 giờ chiều nay. Đại sứ có thể chính thức đề xuất yêu cầu được gặp mặt với Ban đối ngoại Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam. Tôi lập tức hẹn gặp luôn với Phó Ban đối ngoại Đảng cộng sản Việt Nam Trịnh Ngọc Thái, nói rằng có chuyện gấp yêu cầu được tới thăm Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười, hi vọng anh ta sẽ báo cáo ngay. Một lúc sau, Vụ Lễ tân Ban đối ngoại Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam liền thông báo cho sứ quán tôi: Theo yêu cầu của Đại sứ Trương Đức Duy, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười sẽ gặp Đại sứ Trương Đức Duy vào 4 giờ chiều tại nhà khách Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam.

Vào 3 giờ 55 phút chiều, tôi ngồi trên chiếc xe có cắm quốc kỳ tới cổng tòa nhà Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Vụ trưởng Vụ Lễ tân Ban đối ngoại Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Phạm Quang Anh dẫn tôi vào nhà khách, lúc này Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười đã có mặt, họ đều lần lượt bắt tay và ôm tôi rất thịnh tình. Theo đề nghị từ phía Việt Nam, lần này vẫn không bố trí phiên dịch, thư ký và người đi cùng. Trước hết tôi cảm ơn hai vị đã dành thời gian đón tiếp tôi trong muôn vàn bận rộn. Nguyễn Văn Linh nói: Theo báo cáo từ Ban đối ngoại Trung ương, đồng chí Đại sứ có việc gấp cần trao đổi với chúng tôi, chúng tôi rất vui được gặp anh. Tôi nói: Chiều tối qua, tôi có nhận được chỉ thị từ trong nước, yêu cầu tôi nhanh chóng chính thức chuyển ý kiến của Tổng bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng mời các đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi thăm Trung Quốc theo đường nội bộ từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9. Để tiện cho việc bảo mật, sẽ bố trí địa điểm ở Thành Đô. Sau đó, tôi lấy văn bản từ trong cặp ra đọc rành rọt từng chữ tờ đính kèm đánh máy bằng tiếng Việt rõ ràng. Đồng chí Nguyễn Văn Linh còn đòi tôi đưa cho tờ đính kèm ấy, đọc xong rồi chuyển cho đồng chí Đỗ Mười xem. Hai vị Nguyễn [Văn Linh], Đỗ [Mười] bàn bạc ngay tại chỗ xong, Nguyễn Văn Linh bày tỏ: “Tôi và Chủ tịch Đỗ Mười rất phấn khởi, rất hoan nghênh, rất cảm ơn lời mời của Tổng bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng. Chúng tôi hết sức vui mừng khi nhận được lời mời, đồng ý với sự bố trí thời gian, địa điểm và những việc có liên quan do phía Trung Quốc đề xuất. Chúng tôi sẽ báo cáo ngay lên Bộ chính trị, nhanh chóng xác định danh sách đoàn đại biểu và bắt tay vào công tác chuẩn bị, thậm chí ngay cả đồng chí Phạm Văn Đồng, nếu như tình trạng sức khỏe cho phép, cũng nhất định sẽ tiếp nhận chuyến đi thăm theo lời mời này”. Cuộc gặp mặt được diễn ra hơn nửa giờ trong bầu không khí thân mật, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh còn đề xuất một lần nữa nguyện vọng được gặp đồng chí Đặng Tiểu Bình, được đích thân lắng nghe những ý kiến và kinh nghiệm quý báu từ đồng chí ấy.

Tối ngày 2 tháng 9, Nhà khách Phủ Chủ tịch đèn sáng rực. Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười chủ trì cuộc chiêu đãi nhân ngày Quốc khánh Việt Nam, Cố vấn Phạm Văn Đồng đứng trên bàn chủ tịch. Bộ trưởng Hoàng Bích Sơn đưa tôi đến trước mặt Phạm Văn Đồng nói: “Kính chúc đồng chí Cố vấn khỏe mạnh sống lâu!”. Tôi chuốc rượu cùng Phạm Văn Đồng . “Anh Duy đấy à? Tôi nhận ra tiếng anh”. Mắt Phạm Văn Đồng đã không còn nhìn rõ nữa, nhất là về buổi tối, chỉ có thể nhận ra người khác bằng thính giác. Ông kéo tôi lại nói khẽ: “Thời gian tôi còn sống chẳng nhiều nữa đâu, lần này mà được đi Trung Cộng, được gặp mặt lãnh đạo Trung Cộng, thì quả thực là một việc hết sức phấn khởi, nhất là mong sẽ được gặp đồng chí Đặng Tiểu Bình, nói những lời tâm huyết…”

Cuộc gặp “Thành Đô” mấu chốt

Ngày 3 tháng 9, đúng 11 giờ theo giờ Bắc Kinh, chiếc chuyên cơ của phía Việt Nam hạ cánh yên ổn xuống sân bay chuyên dụng Nam Ninh. Khi tôi đưa các vị lãnh đạo Việt Nam do Nguyễn Văn Linh dẫn đầu xuống máy bay, Thứ trưởng Bộ ngoại giao Trung Cộng Tề Hoài Viễn, Trợ lí Bộ trưởng Từ Đôn Tín, Thứ trưởng Ban liên lạc đối ngoại Trung ương Chu Thiện Khanh… đã tới đón các vị khách trước thang máy bay. Cũng là vì để bảo mật, nên các vị lãnh đạo vùng Quảng Tây đã không xuất hiện. Sân bay được bố trí hết sức chặt chẽ, chúng tôi xuống khỏi chuyên cơ của phía Việt Nam xong là lên ngay chuyên cơ của phía Trung Cộng, bay tới Thành Đô.

Vào 1 giờ chiều, chiếc chuyên cơ hạ cánh đúng giờ xuống Sân bay Thành Đô. Khi đoàn đại biểu tới Nhà khách Tỉnh ủy Tứ Xuyên, Tổng bí thư Giang [Trạch Dân] và Thủ tướng Lý [Bằng] đứng trước cửa nhà khách đón khách. Sau khi chủ và khách đã ngồi cả trong nhà khách, hai bên hỏi han lẫn nhau đồng thời tiến hành trao đổi đơn giản. Tổng bí thư Giang [Trạch Dân] giải thích: “Đồng chí Đặng Tiểu Bình đi nghỉ ở xa, nên lần này không gặp các vị được”. Cuộc gặp mặt đơn giản kết thúc xong thì nghỉ ngơi một lúc, đến 3 giờ chiều, hai bên bắt đầu tiến hành hội đàm chính thức vòng đầu. Tổng bí thư Giang [Trạch Dân] bắt đầu bằng một phát biểu ngắn, tiếp theo Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đọc lời mở đầu theo một bản đã chuẩn bị sẵn. Sau đó, Tổng bí thư Giang [Trạch Dân] trình bày một cách có hệ thống về giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia và mối quan hệ Trung-Việt;

Thủ tướng Lý [Bằng] phát biểu kỹ hơn về giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia. Sau khi nghỉ 15 phút, Nguyễn Văn Linh làm một bài phát biểu dài, nhấn mạnh trước đây Trung Cộng đã dành sự ủng hộ và giúp đỡ hết sức to lớn cho cách mạng Việt Nam và các cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, Đảng, chính phủ và nhân dân Việt Nam mãi mãi không bao giờ quên; ông bày tỏ bây giờ nguyện sẽ cùng với phía Trung Cộng nỗ lực giải quyết tốt vấn đề Campuchia, sớm thực hiện bình thường hóa quan hệ hai nước, khôi phục lại mối quan hệ truyền thống tốt đẹp Việt-Trung. Chủ tịch Đỗ Mười cũng có bài phát biểu tương ứng, bày tỏ phía Việt Nam nguyện cùng với phía Trung Cộng giải quyết thật tốt vấn đề Campuchia, sẽ tiến hành nghiên cứu kĩ lưỡng phương án giải pháp do phía chúng ta đề xuất. Hội đàm vòng đầu chủ yếu xoay quanh việc Việt Nam rút quân triệt để khỏi Campuchia và vấn đề thành lập bộ máy quyền lực lâm thời – Hội đồng tối cao Campuchia (tức phương án phân bổ quyền lực) sau khi rút quân.

Sau tiệc chiêu đãi tối, các ban làm việc của hai bên đã tiến hành bàn bạc căng thẳng từng chi tiết trong phương án giải pháp cho vấn đề Campuchia, theo chỉ đạo cụ thể của lãnh đạo từng bên, nhằm chuẩn bị tốt cho cuộc hội đàm chính thức vào ngày hôm sau, đồng thời bên phía ta đề nghị soạn thâu đêm luôn một bản dự thảo văn kiện chung.

Sáng ngày hôm sau tổ chức hội đàm vòng hai, trọng điểm là vấn đề Campuchia. Qua nỗ lực suốt cả một đêm của các ban làm việc hai bên, cả hai bên đã dần đi đến nhất trí đối với phương án giải pháp cho vấn đề Campuchia. Nhưng trong hội đàm vòng hai vẫn còn xuất hiện một điểm bất đồng, đó là việc lập ra Hội đồng tối cao Campuchia gồm 13 đại biểu do phía ta đề xuất, phân bổ cụ thể là: 6+2+2+2+1 (tức phái Hun Sen 6 người, phái Campuchia dân chủ 2 người, phái Sihanouk 2 người và phái Son Sann 2 người + đích danh Sihanouk làm Chủ tịch). Đỗ Mười bày tỏ tán thành để Sihanouk làm Chủ tịch Hội đồng tối cao Campuchia, nhưng cho rằng nên gộp Sihanouk vào trong danh mục phái Sihanouk, hai bên mỗi bên một nửa đã là thiệt cho Phnom Penh rồi, nếu như bên phái đối lập lại còn nhiều hơn 1 người, thì như vậy là không công bằng. Phía ta trình bày theo lý chủ trương và đòi hỏi rộng rãi của cộng đồng quốc tế, chứng tỏ phương án này là thích hợp nhất. Trong giờ nghỉ, Nguyễn Văn Linh đã có cuộc hội ý lại với Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng. Trong buổi tiệc, Nguyễn Văn Linh thay mặt phía Việt Nam bày tỏ sự nhất trí toàn bộ với phương án do phía ta đề xuất, đồng thời nói sau khi về nước sẽ làm việc ngay với Phnom Penh, đồng thời cũng mong Trung Cộng thúc đẩy thực hiện việc hòa giải thực sự giữa Khơme Đỏ với Phnom Penh. Đến đây, vấn đề Campuchia đã được bàn bạc ổn thỏa, trở ngại lớn nhất trong quan hệ Trung-Việt đã được loại bỏ.

Tiếp đến, vấn đề khôi phục lại quan hệ giữa hai nước hai Đảng được bàn bạc trao đổi một cách khá thuận lợi, không gợi lại quá nhiều nợ nần cũ. Sau khi hai vấn đề lớn trong cuộc hội đàm lần này đã được trao đổi ổn thỏa, Tổng bí thư Giang Trạch Dân bày tỏ, giữa hai nước chúng ta từ đây có thể “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”, đồng thời dùng hai câu thơ của Lỗ Tấn [1] “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại/ Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu” [3] làm lời kết cho cuộc hội đàm nội bộ lần này. Phía Việt Nam bày tỏ hết sức mỹ mãn và phấn khởi trước thành quả của cuộc hội đàm lần này. Cuối cùng, Tổng bí thư Giang Trạch Dân đề nghị, hai bên cần ký vào một bản kỷ yếu về thành quả của cuộc hội đàm lần này, Nguyễn Văn Linh vui vẻ đồng ý. Chiều hôm đó, trước khi Đoàn đại biểu Việt Nam rời Thành Đô, Tổng bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng và Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười đã cùng nhau ký vào bản “Kỷ yếu hội đàm Thành Đô” mang ý nghĩa lịch sử.

Sau khi đoàn Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng nói lời tạm biệt với Tổng bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng và các đồng chí Tằng Khánh Hồng, Tề Hoài Viễn, Chu Thiện Khanh…, đã đáp lên chiếc chuyên cơ của phía ta rời Thành Đô bay tới Nam Ninh, dừng ở Nam Ninh rồi đổi ngay sang chuyên cơ của phía Việt Nam bay về Hà Nội. Tôi cũng ngẫu nhiên đi theo Đoàn đại biểu Việt Nam quay về Hà Nội. Trên đường về, không khí trong khoang máy bay khác hẳn với lúc đến. Các vị lãnh đạo trao đổi bàn bạc nhiều, những người khác cũng nói cười vui vẻ. Chủ nhiệm Văn Phòng Trung ương Đảng Hồng Hà phấn khởi nói với tôi: “Cuộc gặp lần này rất thành công, quá tốt!”. Trưởng Ban đối ngoại Trung ương Hoàng Bích Sơn cũng tràn đầy phấn khởi nói, về đến Hà Nội tôi sẽ mở tiệc mời đồng chí Đại sứ thưởng thức toàn những món ăn có tiếng của Việt Nam.

Một lúc sau, Chủ tịch Đỗ Mười đi lại phía tôi hỏi: “Nguyên văn hai câu thơ mà đồng chí Giang Trạch Dân trích dẫn đọc thế nào ấy nhỉ?”. Tôi dùng ngay âm đọc Hán Việt (chú thích: Trong Nho học Việt Nam có một phép đọc cố định đối với chữ Hán) đọc lại một lượt cho ông ấy nghe, ông ấy còn bắt tôi viết nguyên văn ra, rồi nhờ tôi dịch ra tiếng Việt. Đỗ Mười xem cả nguyên văn lẫn phần dịch ra tiếng Việt hai lần rồi bảo: “Đồng chí Giang Trạch Dân dẫn hai câu thơ này vào lúc kết thúc hội đàm là quá xác đáng!”. Về Hà Nội được ít ngày, tôi lại đọc được một bài thơ do Nguyễn Văn Linh viết thể hiện tâm trạng cảm khái cùa mình sau thành công của cuộc “Hội đàm Thành Đô”: “Huynh đệ chi giao sổ đại truyền/ Oán hận khuynh khắc hóa vân yên/ Tái tương phùng thời tiếu nhan triển/ Thiên niên tình nghị hựu trùng kiến”[4]

Mao Trạch Đông và Hồ Chủ tịch (Trương Đức Duy làm phiên dịch năm 1960)

Thực hiện bình thường hóa quan hệ hai nước hai Đảng Trung-Việt

Để thực hiện nghị quyết của cuộc Hội đàm Thành Đô, trong vòng vài tháng sau khi trở về Hà Nội, theo chỉ thị từ trong nước, tôi đã 2 lần hẹn gặp Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười và nhiều lần hẹn gặp Thứ trưởng thứ nhất Bộ ngoại giao Việt Nam Đinh Nho Liêm để giục phía Việt Nam gấp rút thúc đẩy phía Hun Sen tiếp nhận nghị quyết mà hai bên Trung-Việt đã đạt được, nhằm nhanh chóng làm cho vấn đề Campuchia có được giải pháp chính trị. Tuy nhiên, tiến trình giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia lại bị trì hoãn mất rất nhiều thời gian, để đến nỗi khiến cho tiến trình bình thường hóa quan hệ Trung-Việt cũng chịu sự ảnh hưởng nhất định.

Vào giữa mùa hè năm sau (năm 1991), Đảng cộng sản Việt Nam họp “Đại hội VII”. Ban lãnh đạo mới đã có sự điều chỉnh rất nhiều. Nguyễn Văn Linh đã giao ban một cách suôn sẻ, điều đáng tiếc là ông chưa thể thực hiện được mong muốn ấp ủ của mình vào trước “Đại hội VII” Đảng cộng sản Việt Nam – chính thức công bố thực hiện bình thường hóa quan hệ hai nước hai Đảng Trung-Việt trước khi rời khỏi chức vụ.

Chính vào năm đó, cùng với việc thực hiện giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia và việc thành lập Hội đồng tối cao toàn quốc Liên hợp bốn bên Campuchia, việc bình thường hóa quan hệ Trung-Việt cũng được diễn ra hết sức tự nhiên. Tháng 11 năm 1991, theo lời mời của Trung ương Đảng và chính phủ nước ta, Tổng bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Võ Văn Kiệt mới nhậm chức đã dẫn đầu “Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam” chính thức đi thăm Trung Cộng, các đồng chí lãnh đạo gồm Tổng bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng… đã tổ chức hội đàm chính thức với Đoàn đại biểu Việt Nam, hai bên đã ra thông cáo chung, tuyên bố bình thường hóa quan hệ hai nước hai Đảng. Mối quan hệ Trung-Việt từ đây đã mở ra một trang mới.
[1] Quảng Đông – Quảng Tây –ND
[2] Chỗ này tác giả nhầm. Đây là hai câu thơ của nhà thơ đời Thanh Giang Vĩnh. – ND
[3] Tạm dịch: Trải qua cơn sóng gió/ tình anh em vẫn còn/ Gặp nhau cười một cái quên hết oán thù . – ND
[4] Tạm dịch: Anh em chơi với nhau đã mấy thế hệ/ Oán hận trong khoảnh khắc đã biến thành mây khói/ Khi gặp lại nhau cười rạng rỡ/ Tình nghĩa ngàn năm xây dựng lại -ND.
Video tham khảo: 中越高层成都秘密会晤 一年后关系正常化 - Cuộc gặp mật cấp cao Trung-Việt ở Thành Đô - Một năm sau, bình thường hóa quan hệ.
________________________________________
Ghi chú:
* Tham khảo: + Hồi ký Trần Quang Cơ, các chương:
10. THUỐC ĐẮNG NHƯNG KHÔNG DÃ ĐƯỢC TẬT. “Ngày 5.6.90, vài ngày trước khi Từ Đôn Tín đến Hà Nội, TBT Nguyễn Văn Linh đã mời đại sứ Trương Đức Duy (vừa từ Bắc Kinh trở lại Hà Nội) đến Nhà khách Trung ương Đảng nói chuyện thân mật để tỏ lòng trọng thị đối với Bắc Kinh … Sáng 6.6.90, Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh lại gặp riêng và mời cơm đại sứ Trương Đức Duy. Cuộc gặp riêng chỉ giữa hai người, Trương Đức Duy vốn là thông dịch, rất thạo tiếng Việt nên không cần có người làm phiên dịch. Nội dung cuộc gặp này mãi đến ngày 19.6 trong cuộc họp BCT để đánh giá cuộc đàm phán 11-13.6 giữa tôi và Từ Đôn Tín, Lê Đức Anh mới nói là đã gặp Trương Đức Duy để nói cụ thể thêm ba ý mà anh Linh đã nói với đại sứ Trung Cộng hôm trước (gặp cấp cao hai nước; hai nước đoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội; hai nhóm cộng sản Khmer nên nói chuyện với nhau). Nhưng trước đó, từ ngày 6.6, phía Trung Cộng (tham tán Lý Gia Trung và Bí thư thứ nhất Hồ Càn Văn) đã cho ta biết nội dung câu chuyện giữa Lê Đức Anh và Trương Đức Duy.”
12. MỘT SỰ CHỌN LỰA THIẾU KHÔN NGOAN. “Nhưng rồi cuộc gặp Thành Đô đã làm lãnh đạo Việt Nam xa rời quan điểm thực tế này mà ngã hẳn theo Trung Cộng, thậm chí còn định ép PhnomPenh chấp nhận đòi hỏi quá đáng của Bắc Kinh về vấn đề SNC Campuchia.”
13. CUỘC GẶP CẤP CAO VIỆT – TRUNG TẠI THÀNH ĐÔ. Đọc chương này sẽ thấy rõ ràng Thứ trưởng Trần Quang Cơ cũng như nhiều lãnh đạo cao cấp trong Bộ chính trị, Chính phủ của VN hoàn toàn không biết những cuộc gặp gỡ “bí mật” giữa Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh với đại sứ Trung Cộng Trương Đức Duy từ sáng 29/8/1990 trở về trước.
14. THÀNH ĐÔ LÀ THÀNH CÔNG HAY LÀ THẤT BẠI CỦA TA ? “Nhìn lại, trong cuộc gặp Thành Đô, ta đã mắc lỡm với Trung Cộng ít nhất trên 3 điểm …”

“Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là vì chính ta đã tự lừa ta. Ta đã tự tạo ra ảo tưởng là Trung Cộng sẽ giương cao ngọn cờ CNXH, thay thế cho Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam và CNXH thế giới, chống lại hiểm hoạ ‘diễn biễn hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Tư tưởng đó đã dẫn đến sai lầm Thành Đô cũng như sai lầm “giải pháp Đỏ”.
“Cuộc hội đàm Thành Đô tháng 9.90 hoàn toàn không phải là một thành tựu đối ngoại của ta, hiện tại đó là một sai lầm hết sức đáng tiếc về đối ngoại. Vì quá nôn nóng cải thiện quan hệ với Trung Cộng, đoàn ta đã hành động một cách vô nguyên tắc, tưởng rằng thoả thuận như thế sẽ được lòng Bắc kinh nhưng trái lại thoả thuận Thành Đô đã làm chậm việc giải quyết vấn đề Campuchia và do đó làm việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, uy tín quốc tế của ta bị hoen ố.”
+ Tướng Việt Nam kể chuyện bình thường hóa quan hệ với Trung Cộng (TVN,21/12/2011). Bài của Trung tướng Vũ Xuân Vinh, cựu Cục trưởng Cục Đối ngoại Quân sự, Bộ Quốc phòng, người “môi giới” các cuộc gặp trên.

Trong bài chỉ nói tới hai cuộc gặp ngày 5 và 6/6/1990 thôi và đặc biệt lại cho là “ngày 19/8/1990, Đại sứ Trung Cộng gửi thư của lãnh đạo Trung Cộng mời Tổng Bí thư Nguyên Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng sang thăm chính thức Trung Quốc”, trong khi bài của cựu đại sứ TQ thì cho biết “chiều này 28 tháng 8, sứ quán chúng tôi nhận được điện trả lời từ trong nước về việc đồng ý mời các vị lãnh đạo Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi thăm Trung Cộng …”
Có điều lạ là bài này ra đời khá bất ngờ, sau “hồi ký” trên của Trương Đức Duy đúng 1 tháng, phải chăng là để ngầm “phản bác” lại sự “xuyên tạc”, “bịa đặt”?

* Về tướng Lê Đức Anh gần đây: + Đại tướng Lê Đức Anh: Nếu sợ thì mất chủ quyền! (Người đưa tin,2/6/2011) + Tướng Việt Nam phân tích tình hình Biển Đông (Đất Việt, 10/6/2011).



Sunday, June 8, 2014

Nhật ký Lý Bằng

Li diary disclose the 1990s and Vietnam normalized relations Whole Story
At 08:28 on May 2nd, 2012
Source: People
http://news.ifeng.com/history/zhongguoxiandaishi/detail_2012_05/02/14268175_0.shtml
http://news.ifeng.com/history/zhongguoxiandaishi/detail_2012_05/02/14268175_1.shtml
Author: Li Peng

Google translated

Core Tip: on the normalization of economic relations under the principle of equality and mutual benefit may, by mutual consultation counterparts, China on trade, postal, shipping, banking settlement, restore land transport are taking a positive attitude.

This article taken from "Development Cooperation Peace - Foreign Affairs Li Diary" Author: Li Publisher: Xinhua Publishing House originally appeared in: People

The late 1970s, Vietnam sent troops to Cambodia. In 1979, the Sino-Vietnamese relations bottoming out. December 1986, as the CPV Central Committee General Secretary Nguyen Van Linh. With the changes in the international situation, especially in Eastern Europe, the Soviet Union, Nguyen Van Linh adjustment policies, seeking to normalize relations with China.

After China and Vietnam secret liaison in 1990, 3 to 4 September, the Council of Ministers of Vietnam Nguyen Van Linh main 席杜梅 accompanied with Chinese leaders met in Chengdu, which became a turning point in the normalization of Sino-Vietnamese relations. November 1991, the new CPV General Secretary Do Muoi, etc. visit China announced the normalization of relations between the two countries.

[1986]

December 26 rainy Friday

CPV General Secretary Nguyen Van Linh was elected on six Viet Cong, who died in July to replace the former General Secretary Le Duan.

[1989]

August 26 rainy Saturday

Today, from Cambodia, Vietnam announced "full withdrawal." This creates the conditions for the successful resolution on Cambodia, but also for the normalization of relations cleared the obstacles.

* Turning point in Sino-Vietnamese relations - Chengdu conference

[1990]

Wednesday, June 6, Clear

Nguyen Van Linh, general secretary of Defense met with the Ambassador in Vietnam 张德维. Nguyen hopes the two countries, the normalization of relations between the two parties and hope for an early visit to China.

August 26 rainy Sunday

About CPV General Secretary Nguyen Van Linh Vietnamese side of the main leaders in China and other internal access issue, I told Comrade Jiang Zemin, he said totally agree.

Monday, August 27 rain

Comrade Jiang Zemin on Nguyen Van Linh and I will meet with the issue, I would like to Deng Xiaoping reported comrades. In view of the upcoming Asian Games held in Beijing, and the meeting involved the normalization of bilateral relations at stake, for ease of confidential talks locations to be arranged in Chengdu.

August 30 Thursday Clear

Comrade Jiang Zemin and I went to Chengdu with CPV General Secretary Nguyen Van Linh, Vietnam and the Council of Ministers regarding the main 席杜梅 internal talks, Vietnam has issued an invitation. Now to see how Vietnam responded.

September 2 sunny Sunday

15:30, I'm from the western suburbs of Beijing by special plane Airport around 6:00 arrived in Chengdu Airport. We took the car away after more than 20 minutes to reach the Taurus hotels, provincial party secretary Yang Ruidai waiting. Comrade Jiang Zemin took another half an hour late I frame plane arrived in Chengdu. 8:30 to 11:00 evening, I Comrade Jiang Zemin on policy and Vietnam exchanged views on the talks tomorrow.

Monday, 3 September Chengdu Clear

Morning, afternoon, he and I will continue to study the principle of talks with the Vietnamese side in place of Comrade Jiang Zemin.

Around 14:00, the CPV Central Committee General Secretary Nguyen Van Linh, Council of Ministers and the Communist Party of Vietnam Central Advisory 席杜梅 Pham Van Dong arrived in Chengdu Taurus hotels, Jiang Zemin, and I greet them in the 1st cottage. Nguyen Van Linh wearing a brown suit, some scholars demeanor. Dumay body still robust, his hair white, wearing a blue suit. They are seventy-three-year-old man, and Pham Van Dong poor binocular vision cataract, wearing a blue suit and cadres, as China's veteran.

Afternoon, the talks began, Nguyen Van Linh first made a long speech. Although Cambodia expressed the desire to solve the problem as soon as possible, and said that the establishment of the Supreme Council of Cambodia is a priority, should not exclude any party, but expressed reluctance to interfere in the internal affairs of Cambodia. It seems that in Cambodia, Nguyen Van Linh just want to make a statement of principles which focus on the normalization of Sino-Vietnamese relations.

Talks continued until 20:00, 8:30 dinner began. At the dinner table, my comrades and Jiang Zemin were made Muoi and Nguyen Van Linh work.

Tuesday, September 4 overcast

Morning, we continue to meet with the leaders of Vietnam. At this point, the question raised by the meeting should be said to have a relatively successful in reaching consensus, decided to draft a meeting.

14:30, China and Vietnam held a signing ceremony at the hotel on the 1st Taurus bungalow, the two sides signed by the General Secretary and the Prime Minister respectively. This is a historic turning point in Sino-Vietnamese relations. Vietnam Comrade Jiang Zemin presented a poem on the spot, "we remain brothers in transition, smile can melt away allies and enemies." This poem by Lu Xun . In this regard, the Vietnamese comrades said he was delighted.

16:00, the plane took off back to Beijing, arrived around 6:10.

* CPV Seven held

[1991]

Saturday, June 29

Seven Vietcong closing, Do Muoi was elected General Secretary Nguyen Van Linh, Pham Van Dong as a consultant. CPV seven overall tone is upholding socialism, to carry out economic reforms, advocated the more the Soviet Union, Vietnam and friendly. The spirit of the meeting will help to improve Sino-Vietnamese relations.

Tuesday, July 30 Beijing Clear

Afternoon, I met with the Special Representative of the Party Central Committee of Vietnam Le Duc Anh and the Red River. They demanded high-level meeting held in Vietnam. I said that in order to make the two peoples to be prepared, other ASEAN countries will not have misgivings about the meeting should be carried out in Vietnam's Deputy Foreign Minister and the Foreign Minister level, as high-level meeting, the Chinese side that there is no problem in principle. Jiang Zemin tomorrow they will make a formal reply. About the normalization of Sino-Vietnamese economic relations, under the principle of equality and mutual benefit may, by mutual consultation counterparts, China on trade, postal, shipping, banking settlement, restore land transport are taking a positive attitude.

* Normalization of Sino-Vietnamese relations

November 5 Tuesday Clear

17:00, Comrade Jiang Zemin and the Communist Party of Vietnam General Secretary Do Muoi, I was Chairman of the Council and Minister Vo Van Kiet's visit to China at the Great Hall of the east plaza held a welcoming ceremony. Then, we held talks. Dumay clear attitude on the Taiwan issue. Comrade Jiang Zemin said, after going through a tortuous bilateral relations, Chinese and Vietnamese leaders to sit together high-level meeting held today, has important significance. This is the end of the first over, opened the meeting in the future, it marked the normalization of bilateral relations, will have a profound impact on the development of bilateral relations. Muoi said that normalization of relations between Vietnam and China in line with the aspirations and fundamental interests of the two peoples, but also conducive to peace and stability in the region and the world. Then, holding the banquet.

November 6 Wednesday Clear

Afternoon, I and Vietnam, the Council of Ministers Chairman Vo Van Kiet talks, the atmosphere is very good. Let me first point out that Jiang Zemin and General Secretary Do Muoi morning had very good talks, a full exchange of views. On the Taiwan issue, Vo Van Kiet stand good. I am in talks on the issue of debt, borders, refugees are point to. After the two sides agreed to further meetings. Vietnam put forward a new project loans, I promise to be the first study on the Vietnamese side of the project. Cambodia, I pointed out that a comprehensive political settlement of the Cambodian problem agreements have been signed in Paris, the parties to implement the agreements still need to continue their efforts.

November 7 Thursday Clear

Afternoon, the Sino-Vietnamese trade agreements and the Interim Agreement on Border Affairs was signed between the two countries deal with the Diaoyutai State Guesthouse. The two party leaders attended the signing ceremony, and then I with Comrade Jiang Zemin and Do Muoi and Vo farewell. They will travel to Guangzhou, Shenzhen and other places to visit.
___________________________
NHẬT KÍ LÝ BẰNG TIẾT LỘ ĐẦU ĐUÔI CHUYỆN
BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ TRUNG-VIỆT NĂM 1990

Tác giả: Lý Bằng
Người dịch: Quốc Thanh
02-05-2012

Ý cốt lõi: Về việc bình thường hóa mối quan hệ kinh tế Trung-Việt, nên dựa trên nguyên tắc hai bên bình đẳng và cùng có lợi, sẽ do các đối tác của hai bên bàn bạc giải quyết, Trung Quốc giữ thái độ tích cực với tất cả các lĩnh vực thương mại, bưu chính, vận tải, thanh toán ngân hàng, khôi phục lại giao thông đường bộ.

Bài này trích trong cuốn “Hòa bình Phát triển Hợp tác – Nhật ký ngoại sự của Lý Bằng” Tác giả: Lý Bằng Nhà xuất bản: Tân Hoa xuất bản xã. Nguồn: people.com.cn 

Vào cuối thập kỷ 70 của thế kỷ 20, Việt Nam xuất quân sang Campuchia. Năm 1979, quan hệ Trung-Việt bị chìm xuống đáy. Tháng 12 năm 1986, Nguyễn Văn Linh nhậm chức Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam. Cùng với sự xấu đi của cục diện quốc tế, đặc biệt là sau biến động ở Châu Âu, Liên Xô bị tan rã, Nguyễn Văn Linh đã điều chỉnh lại chính sách, tìm kiếm sự bình thường hóa quan hệ Trung-Việt.   

Qua đường liên lạc bí mật giữa hai bên Trung-Việt, từ 3 – 4.9.1990, Nguyễn Văn Linh đi cùng Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Đỗ Mười, cùng với lãnh đạo Trung Quốc tổ chức cuộc gặp mặt ở Thành Đô, sự kiện này trở thành bước ngoặt trong việc bình thường hóa quan hệ Trung-Việt.
[Năm 1986] Thứ sáu ngày 26.12, mưa u ám.
Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam tại Đại hội 6 Đảng cộng sản Việt Nam, thay cho nguyên Tổng bí thư Lê Duẩn đã qua đời vào tháng 7.
[Năm 1989] Thứ bảy ngày 26.8, mưa u ám.
 Hôm nay, Việt Nam tuyên bố đã “rút quân toàn bộ” khỏi Campuchia. Điều này tạo điều kiện cho việc giải quyết vấn đề Campuchia một cách thuận lợi, đồng thời cũng gạt bỏ được sự trở ngại cho bình thường hóa quan hệ Trung-Việt.
  
* Bước ngoặt trong quan hệ Trung-Việt – Hội nghị Thành Đô

[Năm 1990] Thứ tư ngày 6.6, nắng.
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã gặp đại sứ Trương Đức Duy tại Bộ quốc phòng Việt Nam. Nguyễn [Văn Linh] hy vọng thực hiện bình thường hóa được mối quan hệ giữa hai nước, hai đảng, đồng thời mong sớm được sang thăm Trung Quốc.

Chủ nhật ngày 26.8, mưa u ám.
Về chuyến thăm nội bộ tới Trung Quốc của các nhà lãnh đạo chính bên Việt Nam gồm Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh…, tôi đã nói với đồng chí Giang Trạch Dân, ông ta tỏ ý hoàn toàn tán thành.

Thứ hai ngày 27.8, mưa.
Về việc đồng chí Giang Trạch Dân và tôi sẽ hội kiến với Nguyễn Văn Linh, tôi đã báo cáo lên đồng chí Đặng Tiểu Bình. Xét thấy Á vận hội (Asian Games) sẽ được tổ chức ở Bắc Kinh, mà cuộc gặp mặt này lại đề cập đến việc bình thường hóa quan hệ Trung-Việt, đặc biệt hệ trọng, nên để tiện cho việc bảo mật, địa điểm hội đàm sẽ được bố trí ở Thành Đô.

Thứ năm ngày 30.8, nắng.
Việc đồng chí Giang Trạch Dân và tôi đến Thành Đô hội đàm nội bộ với Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Đỗ Mười, đã có gửi lời mời cho Việt Nam. Bây giờ thử xem trả lời từ Việt Nam ra sao.

Chủ nhật ngày 2.9, nắng.
Ba giờ rưỡi chiều, tôi đáp chiếc chuyên cơ cất cánh từ sân bay Tây Giao Bắc Kinh, khoảng 6 giờ tới sân bay Thành Đô. Chúng tôi ngồi ô tô qua lộ trình mất hơn 20 phút đến Nhà khách Kim Ngưu, Bí thư Tỉnh ủy Dương Nhữ Đại đang đợi. Đồng chí Giang Trạch Dân đáp một chiếc chuyên cơ khác đến Thành Đô chậm hơn tôi nửa giờ. Từ 8 giờ rưỡi tối đến 11 giờ đêm, tôi và đồng chí Giang Trạch Dân trao đổi với nhau về phương châm của cuộc hội đàm với phía Việt Nam vào ngày mai.

Thành Đô thứ hai ngày 3.9, nắng.
Buổi sáng, tôi ở chỗ đồng chí Giang Trạch Dân cùng với ông ta tiếp tục nghiên cứu về phương châm của cuộc hội đàm sẽ tiến hành với phía Việt Nam.

Khoảng 2 giờ chiều, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười và Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Phạm Văn Đồng tới Nhà khách Kim Ngưu ở Thành Đô, Giang Trạch Dân và tôi đón họ ở nhà một tầng số 1. Nguyễn Văn Linh mặc bộ com lê màu cà phê, mang hơi hướng phong cách học giả. Đỗ Mười thân hình còn tráng kiện, tóc bạc phơ, mặc bộ com lê màu xanh thẫm. Cả hai đều 73-74 tuổi, còn Phạm Đồng thì hai mắt bị đục thủy tinh thể, thị lực cực kém, mặc bộ áo đại cán, giống các cán bộ lão thành của Trung Quốc.
Buổi chiều, cuộc hội đàm bắt đầu, Nguyễn Văn Linh làm một bài nói dài trước. Tuy bày tỏ nguyện vọng nhanh chóng giải quyết vấn đề Campuchia, đồng thời nói việc thành lập Hội đồng tối cao Campuchia là chuyện cấp bách, không nên loại trừ bất cứ bên nào, nhưng lại tỏ ý không muốn can thiệp vào công việc nội bộ của Campuchia. Xem ra về vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh chỉ muốn làm một sự bày tỏ thái độ về nguyên tắc, còn trọng điểm là đặt vào phương diện bình thường hóa quan hệ Trung-Việt.

Cuộc hội đàm tiếp tục một mạch đến 8 giờ tối, 8 giờ rưỡi mới bắt đầu mở tiệc. Bên bàn tiệc, tôi và đồng chí Giang Trạch Dân lại lần lượt làm việc với Đỗ Mười và Nguyễn Văn Linh.
  
Thứ ba ngày 4.9, râm mát.
Buổi sáng, chúng tôi tiếp tục họp với các đồng chí lãnh đạo của Việt Nam. Đến đây, có thể nói những vấn đề nêu ra trong hội nghị đã đi đến đồng thuận một cách khá thỏa mãn, cùng quyết định khởi thảo một bản Kỷ yếu hội nghị.

Hai giờ rưỡi chiều, hai bên Trung-Việt tổ chức lễ ký kết ở nhà một tầng số 1 tại Nhà khách Kim Ngưu, hai bên lần lượt do Tổng bí thư và Thủ tướng ký. Đây là một bước ngoặt mang tính lịch sử trong quan hệ Trung-Việt. Đồng chí Giang Trạch Dân tặng ngay tại chỗ cho các đồng chí Việt Nam câu thơ “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu” (Qua hết sóng gió anh em vẫn còn, Gặp nhau cười một cái là quên ân oán). Câu thơ này là của Lỗ Tấn. Trước việc này, các đồng chí Việt Nam tỏ ra rất vui.

Bốn giờ chiều, chuyên cơ cất cánh về Bắc Kinh, khoảng 6 giờ 10 tới nơi.

* Đảng cộng sản Việt Nam họp Đại hội 7

[Năm 1991] Thứ bảy ngày 29.6.
Đại hội 7 Đảng cộng sản Việt Nam bế mạc, Đỗ Mười được bầu làm Tổng bí thư, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng làm cố vấn. Quan điểm chủ yếu chung của Đại hội 7 Đảng cộng sản Việt Nam là kiên trì chủ nghĩa xã hội, làm cải cách kinh tế, chủ trương tình hữu nghị Việt-Xô, Việt-Trung. Tinh thần của Đại hội này có lợi cho việc cải thiện quan hệ Trung-Việt.

Bắc Kinh thứ ba ngày 30.7, nắng.
Buổi chiều, tôi hội kiến với đại diện đặc biệt của Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam là Lê Duẩn và Hồng Hà. Họ yêu cầu tổ chức cuộc gặp cấp cao Trung-Việt. Tôi nói để cho nhân dân hai nước có sự chuẩn bị, để cho ASEAN và các nước khác không nảy sinh nghi ngờ, hai bên Trung-Việt cần tiến hành cuộc gặp ở các cấp thứ trưởng và bộ trưởng ngoại giao trước đã, còn về cuộc gặp cấp cao thì phía Trung Quốc cho rằng về nguyên tắc không có vấn đề gì. Ngày hôm sau Tổng bí thư Giang Trạch Dân sẽ có trả lời chính thức với họ. Về việc bình thường hóa quan hệ kinh tế Trung-Việt, nên dựa trên nguyên tắc bình đẳng và hai bên cùng có lợi, sẽ do các đối tác của hai bên bàn bạc giải quyết, Trung Quốc giữ thái độ tích cực với tất cả các lĩnh vực thương mại, bưu chính, vận tải, thanh toán ngân hàng, khôi phục lại giao thông đường bộ.

* Thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung-Việt

Thứ ba ngày 5.11, nắng.
Năm giờ chiều, đồng chí Giang Trạch Dân và tôi tổ chức lễ đón chính thức Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt tại quảng trường ở ngoài cửa phía đông Đại lễ đường nhân dân. Tiếp đó, chúng tôi đã tiến hành hội đàm. Đỗ Mười có thái độ rất rõ ràng về vấn đề Đài Loan. Đồng chí Giang Trạch Dân nói, sau khi quan hệ hai nước đã trải qua một quãng đường gập ghềnh, lãnh đạo hai nước Trung-Việt ngày hôm nay có thể ngồi cùng với nhau để tiến hành cuộc gặp cấp cao là mang ý nghĩa quan trọng. Đây là một cuộc gặp gác lại quá khứ, hướng tới tương lai, nó đánh dấu sự bình thường hóa trong quan hệ hai nước, tất sẽ có ảnh hưởng sâu xa đối với sự phát triển quan hệ hai nước. Đỗ Mười nói, bình thường hóa mối quan hệ hai nước Việt-Trung là phù hợp với nguyện vọng và lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, đồng thời cũng giúp ích cho hòa bình và ổn định của khu vực này và thế giới. Tiếp đó, mở tiệc.

Thứ tư ngày 6.11, nắng.
Buổi chiều, tôi hội đàm với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Võ Văn Kiệt, không khí rất tốt. Tôi nêu ra trước là Tổng bí thư Giang Trạch Dân và Tổng bí thư Đỗ Mười đã tiến hành hội đàm rất tốt, đã trao đổi được hết ý kiến. Về vấn đề Đài Loan, thái độ thể hiện của Võ Văn Kiệt rất tốt. Tôi điểm qua các vấn đề về nợ, biên giới, dân tị nạn… trong cuộc hội đàm. Hai bên đồng ý sau này sẽ không bàn tới nữa. Với các dự án vay vốn do phía Việt Nam đề xuất mới, tôi hứa sẽ cho khảo sát các dự án của phía Việt Nam trước. Về vấn đề Campuchia, tôi nêu rõ, thỏa thuận về giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia đã được ký tại Paris, việc thực hiện thỏa thuận vẫn đòi hỏi các bên phải tiếp tục nỗ lực.

Thứ năm ngày 7.11, nắng.
Buổi chiều, Hiệp định Thương mại Trung-Việt và Hiệp định tạm thời về việc xử lý các vấn đề biên giới giữa hai nước đã được ký kết tại Nhà khách chính phủ Điếu Ngư Đài. Các lãnh đạo đảng và chính phủ hai nước đã dự lễ ký kết, sau đó, tôi cùng đồng chí Giang Trạch Dân chia tay Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt. Họ sẽ đi thăm Quảng Châu, Thâm Quyến…





Chuyện bình thường hóa quan hệ Trung-Việt vào thập niên 1990

Chuyện bình thường hóa quan hệ Trung-Việt vào thập niên 1990

Tác giả: Lý Gia Trung
Người dịch: Quốc Thanh
29-4-2010

Ngày 18 tháng 1 năm 1950, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vừa mới được thành lập không lâu đã thiết lập ngay quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trung Quốc là nước đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi đã công nhận nhà nước này. Từ thập niên 60 đến thập niên 70 của thế kỷ 20, Trung Quốc với tư cách là hậu phương lớn của Việt Nam, đã chi viện toàn lực cho các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của Việt Nam, nhân dân hai nước kết tình hữu nghị sâu đậm. Hồ Chí Minh từng dùng câu thơ “Mối tình hữu nghị Việt-Trung. Vừa là đồng chí vừa là anh em” để ca ngợi mối quan hệ tốt đẹp Trung-Việt.

Từ sau thập niên 70 đến cuối thập niên 80 của thế kỷ 20, quan hệ giữa hai nước gặp khó khăn. Vấn đề chủ yếu là Việt Nam đưa quân xâm chiếm Campuchia, dẫn đến căng thẳng cục diện khu vực, đồng thời khiến cho mối quan hệ Trung-Việt bị rơi xuống đáy. Đến giữa thập niên 80, Việt Nam ý thức được gánh nặng trầm trọng do vấn đề Campuchia mang lại, nên vào tháng 3 năm 1985, lần đầu tiên đã tỏ ý muốn rút quân ra khỏi Campuchia. Tháng 12 năm 1986, sau khi Nguyễn Văn Linh nhậm chức Tổng Bí thư, Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam càng chú trọng bắt tay vào việc điều chỉnh các chính sách đối nội, đối ngoại ở biên độ lớn hơn, mong muốn giải quyết vấn đề Campuchia và cải thiện mối quan hệ với Trung Quốc. Nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình cũng đưa ra ý tưởng ổn định biên giới phía nam. Lúc này, mối quan hệ Trung-Việt tuy ở vào trạng thái không bình thường, nhưng cả hai bên đều cân nhắc đến đến chuyện áp dụng một sáng kiến làm dịu căng thẳng nào đó.

Hòa giải

Lúc 10 giờ rưỡi sáng ngày 14 tháng 12 năm 1988, Bộ Ngoại giao Việt Nam gọi điện tới Đại Sứ quán Trung Quốc nói, Thứ trưởng Thứ nhất Bộ Ngoại giao Việt Nam, Đinh Nho Liêm, mời Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam Lý Thế Thuần tới Bộ Ngoại giao Việt Nam vào lúc 10 giờ sáng ngày 15 để bàn về vấn đề quan hệ giữa hai nước, hy vọng Đại sứ Lý Thế Thuần cho biết, xem có thể tới đúng hẹn được không. Xét về lý, đại sứ tới Bộ Ngoại giao nước sở tại là chuyện hết sức bình thường, nhưng kể từ khi mối quan hệ Trung-Việt trở nên xấu đi, nên Đại Sứ quán Trung Quốc gần như không còn qua lại gì với các bộ, ngành phía Việt Nam nữa. Cho nên, phía Việt Nam bất ngờ gọi điện tới như vậy tất nhiên đã khiến cho sứ quán hết sức thận trọng, không dám khinh suất bày tỏ thái độ, mà ngay lập tức báo cáo thỉnh thị trong nước. Tối hôm đó, trong nước đã trả lời là, Lý Thế Thuần có thể tới gặp Đinh Nho Liêm, chủ yếu là xem đối phương nói những gì để báo cáo lại với trong nước, đồng thời cũng tìm hiểu luôn ý đồ của phía Việt Nam, nhưng không cần phải bày tỏ thái độ gì trong cuộc gặp mặt.   
Sáng ngày 15, đúng giờ hẹn, Lý Thế Thuần tới Bộ Ngoại giao Việt Nam. Đinh Nho Liêm trao trực tiếp bức thư của Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch gửi cho Bộ trưởng Tiền Kỳ Tham, yêu cầu phía Trung Quốc đồng ý cho Nguyễn Cơ Thạch được tới Bắc Kinh vào trước tháng 3 năm 1989 để tổ chức cuộc gặp mặt với Tiền Kỳ Tham. Bức thư viết: “Chúng tôi cho rằng, thời cơ để hai nước Việt-Trung ngồi lại với nhau đã chín muồi. Chúng ta hãy hợp tác với nhau, trên cơ sở đặt nền móng hòa giải dân tộc giữa các bên ở Campuchia để tạo điều kiện cho việc đi đến các giải pháp chính trị một cách ổn thỏa. Theo tinh thần này, tôi mạn phép được tới Bắc Kinh trong thời gian sớm nhất mà ông cho là thích hợp, để tổ chức một cuộc gặp mặt bí mật hoặc công khai”.

Đinh Nho Liêm còn bổ sung thêm, Nguyễn Cơ Thạch trước đây từng 2 lần yêu cầu được tới Bắc Kinh, phía Trung Quốc đều nói Tiền Kỳ Tham đang bận công việc, xin phía Việt Nam thông cảm. Hiện tại phía Việt Nam mong ông Tiền Kỳ Tham có thể thu xếp được thời gian trong vòng 3 tháng để gặp Nguyễn Cơ Thạch. Phía Việt Nam thực sự mong muốn sớm giải quyết được vấn đề Campuchia, thực hiện bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, nhằm thuận ứng được với xu thế phát triển chung của thế giới hiện tại

Trong nước đã nghiên cứu cẩn thận bức thư của Nguyễn Cơ Thạch, cùng buổi nói chuyện với Đinh Nho Liêm, cho rằng lập trường của Việt Nam về vấn đề Campuchia đã xuất hiện việc giảm lập trường cứng rắn mới, có thể tiến hành tiếp xúc với phía Việt Nam về vấn đề quan hệ Trung-Việt và nhất là về vấn đề Campuchia. Nhưng xét về cuộc gặp mặt cấp bộ trưởng ngoại giao hai nước là một sáng kiến chính trị quan trọng, thì trong bối cảnh quan hệ giữa hai nước khi ấy, thời cơ vẫn chưa chín muồi.
Tiếp đó, vào ngày 23 tháng 12 đã trả lời Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc mời Lý Thế Thuần hẹn với Đinh Nho Liêm: Phía Trung Quốc cho rằng, vẫn còn nhiều công việc chuẩn bị phải làm để thực hiện cuộc gặp gỡ cấp bộ trưởng ngoại giao hai nước, đề nghị phía Việt Nam cử một thứ trưởng ngoại giao tới Bắc Kinh trong thời gian gần nhất về việc này, để sớm tổ chức trao đổi nội bộ về các giải pháp chính trị, giải quyết vấn đề Campuchia. Phía Trung Quốc còn đề nghị không công bố công khai bức thư của Nguyễn Cơ Thạch, chuyện trao đổi tiếp xúc giữa hai bên cũng không đưa tin công khai.

Sáng ngày 24 tháng 12, Lý Thế Thuần tới gặp Đinh Nho Liêm để truyền đạt ý kiến nói trên của phía Trung Quốc cho phía Việt Nam. Do trước đây phía Trung Quốc đã hai lần không chấp nhận gặp mặt Nguyễn Cơ Thạch, cho nên không thể dò được lần này phía Việt Nam sẽ trả lời phía Trung Quốc ra sao. Trả lời của Lý Thế Thuần tuy không đề cập đến chuyện Nguyễn Cơ Thạch tới Bắc Kinh, nhưng đồng ý cho phía Việt Nam cử một thứ trưởng ngoại giao tới Bắc Kinh, thực tế là lập trường cũng đã bớt cứng rắn, điều này khiến cho Đinh Nho Liêm không khỏi bất ngờ.

Đinh Nho Liêm hai lần bày tỏ thái độ “hết sức cảm ơn”. Ông nói, phía Việt Nam hết sức hoan nghênh sự trả lời nhanh chóng từ phía Trung Quốc về bức thư của Nguyễn Cơ Thạch, hoan nghênh phía Trung Quốc đã bộc lộ thành ý trong lời phúc đáp. Muốn tăng cường thêm sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai phía Việt-Trung, cần sớm tổ chức cuộc gặp mặt nội bộ giữa hai nước. Phía Trung Quốc đề nghị phía Việt Nam cử trước một thứ trưởng ngoại giao tới Bắc Kinh, để chuẩn bị cho cuộc gặp mặt cấp bộ trưởng ngoại giao hai nước, đây là một bước đi tốt, đồng thời cũng rất cần thiết. Ông còn nói, phía Việt Nam nhất trí với ý kiến của phía Trung Quốc, sự tiếp xúc và trao đổi giữa hai nước hiện tại cần được tiến hành bí mật, không công khai.

Lưu Thuật Khanh nói, về thời điểm cuộc gặp mặt, phía Việt Nam có thể nêu ý kiến trước, phía Trung Quốc sẽ xem xét. Phía Trung Quốc cho là vào đầu tuần hay trung tuần tháng 1 năm 1989 đều có thể được. Về nội dung cuộc gặp mặt, phía Trung Quốc biết vấn đề mà phía Việt Nam quan tâm nhất là nhanh chóng thực hiện bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Còn phía Trung Quốc thì cho là phải giải quyết vấn đề Campuchia trước, rồi sau đó mới nói đến chuyện bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Lưu Thuật Khanh nhấn mạnh, trong cuộc trao đổi lần này, thứ trưởng ngoại giao hai nước sẽ tiến hành thảo luận, xoay quanh việc làm sao để có thể giải quyết vấn đề Campuchia một cách công bằng, hợp lý, còn vấn đề bình thường hóa quan hệ giữa hai nước thì để sau này hãy thảo luận.
Ngày 31 tháng 12, chuyên viên Vụ Trung Quốc Bộ ngoại giao Việt Nam, Nguyễn Bá Cự đã thông báo cho Bí thư thứ hai Đại sứ quán Trung Quốc ở Việt Nam Hồ Càn Văn: Đoàn của ông Đinh Nho Liêm dự định sẽ đáp máy bay hàng không dân dụng của Trung Quốc từ Bangkok tới Bắc Kinh vào (thứ hai) ngày 16 hoặc vào (thứ tư) ngày 18 tháng 1 năm 1989. Do khi đó cả đường sắt, đường bộ lẫn đường hàng không giữa hai nước đều đã bị gián đoạn, nên đoàn Đinh Nho Liêm chỉ có thể đi đường vòng để tới Bắc Kinh.

Ngày 10 tháng 1 năm 1989, chuyên viên Nguyễn Bá Cự thông báo với Hồ Càn Văn về danh sách đoàn Đinh Nho Liêm. Nguyễn Bá Cự nói, mới đầu dự định đoàn đại biểu gồm 4 người, nhưng phía Việt Nam do nhận thức đầy đủ về ý nghĩa quan trọng của cuộc trao đổi lần này, cho nên đã quyết định từ 4 người tăng lên đến 8 người, đó là Thứ trưởng thứ nhất Đinh Nho Liêm, Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Minh Phương, Trợ lý Bộ trưởng Bộ ngoại giao Đặng Nghiêm Hoành, Tham tán sứ quán tại Trung Quốc Hoàng Như Lý, Vụ trưởng Vụ Trung Quốc Bộ ngoại giao Trần Hữu Nghĩa, chuyên viên Vụ Trung Quốc Bộ ngoại giao kiêm phiên dịch Nguyễn Bá Cự, Bí thư thứ ba Sứ quán tại Trung Quốc Chu Công Phùng và Tùy viên Sứ quán tại Trung Quốc Bùi Trọng Vân. Nguyễn Bá Cự còn nói với Hồ Càn Văn rằng, phía Trung Quốc đồng ý bàn bạc với phía Việt Nam là một niềm khích lệ to lớn đối với cả đất nước Việt Nam. Việt-Trung đối kháng nhau đã 10 năm, không thể tiếp tục đối kháng được nữa. Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã phổ biến cho các cán bộ trung cao cấp trong cả nước về việc hai nước Việt – Trung sắp sửa ngồi trao đổi với nhau, tất cả mọi cán bộ đều tỏ ý hoan nghênh, đồng thời hy vọng cuộc trao đổi sẽ thành công. Nguyễn Cơ Thạch cũng nói phía Việt Nam sẽ không bỏ lỡ cơ hội nữa, mà sẽ nỗ lực cùng với phía Trung Quốc để đi đến một hiệp định cả hai bên đều chấp nhận được.

Theo sự sắp xếp của nhân viên tham gia cuộc trao đổi bên phía Việt Nam, phía Trung Quốc quyết định sẽ có 6 người tham gia, đó là Thứ trưởng Lưu Thuật Khanh, Trợ lý Bộ trưởng Từ Đôn Tín, Vụ phó Vụ Á châu Trương Thanh, Tham tán Tạ Nguyệt Nga, Trưởng ban Lý Gia Trung, Phó ban kiêm phiên dịch Hồ Chính Dược.

Ngày 13 tháng 1 năm 1989, đoàn Đinh Nho Liêm rời Hà Nội tới Bangkok. Thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Dy Niên, Quyền Vụ trưởng Vụ Trung Quốc Ngô Tất Tố và Đại sứ Lý Thế Thuần đã ra sân bay tiễn đoàn. Tại sân bay, Đinh Nho Liêm nói với Lý Thế Thuần, tư tưởng chỉ đạo của phía Việt Nam về cuộc trao đổi lần này là xóa bỏ bất đồng, hiểu biết lẫn nhau và nhượng bộ cho nhau, hy vọng cả hai bên quan tâm và lắng nghe ý kiến của đối phương, để cuộc trao đổi đạt được nhiều thành quả hơn.

Trao đổi

Lúc 6 giờ 20 phút chiều ngày 14 [tháng 1 năm 1989], đoàn Đinh Nho Liêm đáp máy bay dân dụng hàng không của Trung Quốc từ Bangkok qua đường Quảng Châu tới Bắc Kinh. Do cuộc trao đổi mật, nên máy bay chỉ dừng lại trên một mảnh đất đóng băng ở một góc tương đối khuất của sân bay thủ đô, tôi ra sân bay đón với tư cách là Trưởng đoàn Bộ Ngoại giao. Lưu Thuật Khanh, Trương Thanh và Đại sứ Việt Nam Nguyễn Minh Phương đợi đón ở phòng nghỉ của sân bay cũ. Khi ấy, có mấy chục nhà báo ngoại quốc nghe nói có quan chức cao cấp Việt Nam tới Bắc Kinh, đã vội vã lao tới sân bay. Do sự sắp xếp khéo léo của phía Trung Quốc mà đã tránh được các nhà báo, khiến cho họ chẳng thu hoạch được gì. Phía Việt Nam từng nói trước là đoàn Đinh Nho Liêm sẽ ở Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh trong thời gian lưu lại Bắc Kinh. Sau do phía Trung Quốc tỏ ý muốn bố trí cho họ ở Thanh Lộ Đường trong khu Nhà khách quốc gia Điếu Ngư Đài, mọi chi phí do phía Trung Quốc chu cấp. Phía Việt Nam tiếp nhận thiện ý của phía Trung Quốc đồng thời bày tỏ sự cảm ơn.
 
Tối ngày 15, Lưu Thuật Khanh mở dạ tiệc tại lầu số 7 Điếu Ngư Đường để đón tiếp đoàn Đinh Nho Liêm. Lưu Thuật Khanh nói, trước đây quan hệ giữa hai nước rất tốt, sau này quan hệ trở nên xấu đi, chúng ta rất đau lòng. Phía Trung Quốc cho rằng nếu tiếp tục đối kháng thì sẽ không phù hợp với lợi ích của nhân dân hai nước, quan hệ giữa hai nước cần được khôi phục lại bình thường. Nhưng trước tiên cần giải quyết sự bất đồng lớn nhất giữa hai nước – vấn đề Campuchia. Nhiệm vụ của cuộc trao đổi lần này rất quan trọng, mang một ý nghĩa rất lớn, tuy nói là trao đổi nội bộ, nhưng cả thế giới đều đã biết. Chúng ta cần làm việc cho thật tốt để có được thành quả, không phụ lòng mong mỏi của nhân dân hai nước và dư luận quốc tế.

Đinh Nho Liêm nói, kể từ 10 năm nay lần đầu tiên ông có cơ hội được ngồi cùng với các đồng chí Trung Quốc, đây là sự mở đầu cho việc thực hiện bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Việt Nam và Trung Quốc dần cải thiện mối quan hệ cho phù hợp với lợi ích của nhân dân hai nước, và cũng phù hợp với xu thế chung trên toàn thế giới là đi vào hòa hoãn và giải quyết bất đồng bằng thương lượng. Ông nói, phía Việt Nam đã chuẩn bị thảo luận vấn đề Campuchia với phía Trung Quốc, nhưng cũng phải bàn tới cả vấn đề bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.

Sáng ngày 16, cuộc trao đổi được diễn ra tại phòng họp tầng 4 trụ sở Bộ Ngoại giao cũ trong Triều Dương Môn và kéo dài cho tới chiều. Ngày 17, Từ Đôn Tín, Trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc và Đặng Nghiêm Hoành, Trợ lý Bộ trưởng Bộ ngoại giao đã tiến hành thảo luận suốt cả ngày. Hai bên chú trọng thảo luận về vấn đề Campuchia, kết quả chủ yếu là:

1. Về vấn đề Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, phía Việt Nam nhắc lại, sẽ căn cứ theo văn bản khung về các giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia, chậm nhất đến tháng 9 năm 1989 sẽ rút toàn bộ quân khỏi Campuchia, đồng thời nói đây là quyết sách từ người lãnh đạo tối cao của Việt Nam. Phía Trung Quốc không có đề nghị gì khác về thời hạn rút quân mà phía Việt Nam đã hứa, nhưng nhấn mạnh, rút quân phải là rút quân thật.

2. Về các mặt như ngừng viện trợ bên ngoài từ các phía cho Campuchia, bảo đảm địa vị trung lập của Campuchia, thực hành sự giám sát quốc tế và cung cấp sự bảo đảm quốc tế…, ý kiến cả hai bên thiên về nhất trí.

3. Sự bất đồng chủ yếu nhất giữa hai bên là làm sao bảo đảm được hòa bình ở Campuchia sau khi Việt Nam rút quân. Để tránh cho Campuchia khỏi xảy ra nội chiến, phía Trung Quốc chủ trương trong giai đoạn quá độ từ khi Việt Nam rút hết quân cho đến khi chưa tiến hành tổng tuyển cử thành lập chính phủ mới ở Campuchia, cần thành lập chính phủ liên hợp có bốn bên ở Campuchia, do Sihanouk đứng đầu, để chính phủ liên hợp này chủ trì cuộc tổng tuyển cử; đồng thời đông kết các phái quân đội, giảm thiểu các phái quân đội tới quân số ngang nhau, thành lập quân quốc phòng thống nhất. Cái gọi là bốn bên ở Campuchia chỉ một phe là chính quyền Phnom Penh cho Việt Nam hỗ trợ, một phe là lực lượng đối kháng. Lực lượng đối kháng lại bao gồm 3 phe là phe Sihanouk, phe Khơme Đỏ và phe Son Sann. Phía Việt Nam cho rằng, đây là phương diện nội bộ của vấn đề Campuchia, tức vấn đề nội bộ của Campuchia, cần để các bên của Campuchia bàn bạc giải quyết, chứ không nên để hai bên Việt-Trung bàn bạc thảo luận.

Đồng thời, phía Việt Nam nhiều lần yêu cầu thảo luận về vấn đề bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, đã đưa nhiều kiến nghị cụ thể như hai bên chấm dứt các tuyên truyền thù địch, chấm dứt các hành động thù địch ở đường biên giới trên bộ và các vùng hải đảo của hai nước, các lực lượng vũ trang ở vùng biên giới hai bên cần tránh đụng độ, cung cấp phương tiện đi lại và mưu sinh cho người dân vùng biên của hai nước…

Phía Trung Quốc bày tỏ, cần giải quyết trước vấn đề Campuchia, để tạo điều kiện cho việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Tin tưởng rằng, cùng với việc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và giải quyết vấn đề Campuchia, mối quan hệ Trung-Việt sẽ dần được cải thiện.

Ngày 19 tháng 1, Tiền Kỳ Tham đã tiến hành hội kiến với đoàn Đinh Nho Liêm, đã có bài phát biểu quan trọng về việc giải quyết vấn đề Campuchia và việc cải thiện mối quan hệ Trung-Việt. Tiền Kỳ Tham nói, ý kiến của phía Trung Quốc đã trình bày trong cuộc trao đổi là ý kiến của Trung ương chúng tôi, đồng chí Đinh Nho Liêm hãy về báo cáo lại với ban lãnh đạo Việt Nam, đồng thời xem xét thật kỹ lưỡng. Trung-Việt có tình hữu nghị truyền thống, lại là nước láng giềng, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam, Trung Quốc đã góp sự hy sinh dân tộc. Nhưng những chuyện phát sinh sau này, đã tạo nên vấn đề giữa hai nước, kéo dài tới 10 năm trời. Tiền Kỳ Tham nói, xu thế của cục diện quốc tế hiện nay là hòa hoãn và đối thoại, nhằm chấm dứt các xung đột khu vực. Các nước đều phải dồn sức mạnh vào xây dựng kinh tế, hy vọng nhân dân Việt Nam cũng được sống một cuộc sống hòa bình, xây dựng Việt Nam trở thành một quốc gia giàu mạnh. Chính vì thế, chúng tôi giữ thái độ hoan nghênh đối với việc Việt Nam quyết định rút quân khỏi Campuchia vào trước tháng 9 năm nay, hy vọng rằng quyết định từ phía Việt Nam sẽ được thực hiện một cách thực sự. Cuộc trao đổi nội bộ lần này đã đạt được nhiều điểm chung.

Về vấn đề nội bộ của Campuchia, tất nhiên cần do bốn bên Campuchia tự giải quyết, với điều kiện không có bên ngoài can thiệp. Nhưng với tư cách là nước đương sự, Việt Nam cùng với các nước có liên quan trực tiếp tới vấn đề Campuchia, như Liên Xô, Trung Quốc, Thái Lan, cần có chủ trương rõ ràng về vấn đề này, đó là sau khi quân đội nước ngoài rút quân và chấm dứt viện trợ từ nước ngoài, Campuchia cần thực hiện liên hợp bốn bên, thực hiện hòa giải dân tộc, không được để xảy ra nội chiến và hỗn loạn, đây là một vấn đề hết sức quan trọng. Các nước có liên quan đều cần giữ thái độ tích cực và mang tính xây dựng, Việt Nam lại càng phải như vậy. Trung Quốc không gây khó dễ cho Việt Nam, những cũng mong Việt Nam cần có thành ý. Cuộc trao đổi lần này đã có được sự khởi đầu tốt đẹp, nên tiếp tục. Có những vấn đề phía Trung Quốc còn phải chuẩn bị thêm. Hoan nghênh đồng chí Đinh Nho Liêm tới Bắc Kinh sau một thời gian ngắt quãng. Tiền Kỳ Tham nhờ Đinh Nho Liêm chuyển lời thăm hỏi của mình tới Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, nói rằng đã nhận được thư của Nguyễn Cơ Thạch. Tiền Kỳ Tham nói, đúng như trong lời phúc đáp từ phía Trung Quốc, cuộc gặp mặt cấp bộ trưởng giữa hai bên còn nhiều công việc chuẩn bị cần làm, chỉ khi vấn đề Campuchia có tiến triển, thì mới có thể xem xét được. Nếu như những phương diện cơ bản trong vấn đề Campuchia đã được giải quyết, thì việc cải thiện và bình thường hóa quan hệ Trung-Việt sẽ là kết quả đương nhiên.

Đinh Nho Liêm cảm ơn cuộc tiếp kiến của Tiền Kỳ Tham, đồng thời chuyển lời thăm hỏi của Nguyễn Cơ Thạch đến Tiền Kỳ Tham. Đinh Nho Liêm nhấn mạnh, giải quyết sớm vấn đề Campuchia và thực hiện bình thường hóa quan hệ Việt-Trung, tập trung lực lượng vào xây dựng kinh tế là một chiến lược lâu dài của Việt Nam. Thông qua cuộc trao đổi lần này, hai bên tăng thêm sự hiểu biết lẫn nhau, đã có được sự nhất trí ở rất nhiều phương diện. Tất nhiên vẫn còn có những bất đồng. Phía Việt Nam sẵn sàng nhìn về phía trước, mong muốn tiếp tục được trao đổi ý kiến với phía Trung Quốc. Bản thân ông sẵn sàng tới Bắc Kinh bất cứ lúc nào để giải quyết tốt những vấn đề chưa đi đến sự cảm thông.
Trong cuộc họp toàn thể cuối cùng vào ngày 18, Đinh Nho Liêm đánh giá cuộc trao đổi lần này là “một bước mang tính đột phá” trong quan hệ Việt-Trung.

Đinh Nho Liêm khi ấy là Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, từng là Đại sứ ở Liên Xô, là một nhà ngoại giao rất tinh thông lão luyện. Từ năm 1977 đến năm 1978, ông từng làm trưởng đoàn Đoàn Đại biểu Chính phủ Việt Nam tới thăm Bắc Kinh, tiến hành đàm phán về vấn đề biên giới đất liền với Thứ trưởng Ngoại giao Hàn Niệm Long của Trung Quốc. Tôi đã tham gia cuộc đàm phán lần ấy với tư cách là phiên dịch và thư ký. Trong bối cảnh quan hệ giữa hai nước khi đó, ngôn từ đàm phán của hai bên đều không tránh khỏi quá nặng nề. Nhưng 10 năm sau, Đinh Nho Liêm lại trở nên cẩn trọng và chừng mực khác thường, đi đến đâu cũng tỏ ra hết sức nhã nhặn, như chuyến đến Bắc Kinh lần này.

Ngày đến Bắc Kinh, khi tôi theo ông đi vào sảnh phòng nghỉ của sân bay thủ đô cũ, chỉ thấy ông nhẹ nhàng cởi áo khoác ngoài treo lên giá, sau đó lấy từ trong túi bộ Âu phục ra một chiếc lược, chải đầu cho thật ngay ngắn rồi mới bước vào phòng nghỉ để gặp Lưu Thuật Khanh và những người cùng đi. Trong buổi dạ tiệc do Lưu Thuật Khanh tổ chức, Đinh Nho Liêm rất chú ý thể hiện bộ dạng thoải mái và tươi tắn. Ông còn tự giới thiệu mình rất thích thơ Đường, rồi ngâm ngay tại chỗ mấy câu thơ của Thôi Hộ “Khứ niên kim nhật thử môn trung, Nhân diện đào hoa tương ánh hồng, Nhân diện bất tri hà xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu đông phong”. Trong cuộc trao đổi, tuy không đồng ý với một vài ý kiến nào đó từ phía Trung Quốc, ông không phản bác lại ngay trước mặt, mà kiên nhẫn lắng nghe, rồi nói sẽ về báo cáo lại với lãnh đạo trong nước.

Khi ấy, Hàn Niệm Long đã lui xuống từ cương vị Thứ trưởng, sang giữ chức Hội trưởng Học hội Ngoại giao. Để biểu thị sự đối đãi thân thiện và lịch sự, trưa ngày 19, Hàn Niệm Long đã đứng ra mời đoàn Đinh Nho Liêm tới thưởng thức món vịt quay ở tiệm vịt quay Toàn Tụ Đức trước cổng chính. Đinh Nho Liêm khi nhìn thấy đối thủ đàm phán Hàn Niệm Long từ 10 năm trước, đã chạy ngay đến ôm ông. Đoàn Đinh Nho Liêm rời Bắc Kinh vào ngày 20, đi qua Thâm Quyến, Hongkong rồi về nước. Trương Thanh và tôi cùng Cao Đức ở Vụ Á châu đã cùng đi theo đoàn tới Thâm Quyến tham quan thăm hỏi. Tại Thâm Quyến, Đinh Nho Liêm nắm chặt hai cánh tay tôi nói: “Hãy tin rằng chúng tôi nhất định sẽ rút hết quân khỏi Campuchia”.

Bình thường hóa quan hệ

Đầu tháng 9 năm 1990, Tổng Bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười và Cố vấn Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Phạm Văn Đồng, theo lời mời đã tới Thành Đô, Tứ Xuyên, tổ chức cuộc gặp mặt nội bộ với Tổng bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng, tổ chức cuộc gặp mặt cấp cao về các giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia và vấn đề quan hệ Trung-Việt, đã có được sự đồng nhận thức quan trọng, trải phẳng con đường bình thường hóa quan hệ hai nước. Khi kết thúc cuộc gặp mặt, Giang Trạch Dân đã dẫn hai câu thơ của nhà thơ đời Thanh Giang Vĩnh là: “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại/ Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu” (1). Để đáp lại, Nguyễn Văn Linh tối đó đã viết 4 câu thơ: “Huynh đệ chi giao sổ đại truyền/ Oán hận khuynh khắc hóa vân yên/ Tái tương phùng thời tiếu nhan triển/ Thiên niên tình nghị hựu trùng kiến” (2).

Tháng 11 năm 1991, Tổng bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Đỗ Mười, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Võ Văn Kiệt theo lời mời đã chính thức đi thăm hữu nghị Trung Quốc, tiến hành hội đàm với Giang Trạch Dân và Lý Bằng, công bố thông cáo chung giữa hai bên, tuyên bố thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung-Việt. Gần 20 năm nay kể từ lúc đó, với sự nỗ lực chung của hai bên, sự giao lưu và hợp tác trong nhiều lĩnh vực giữa hai nước đã không ngừng phát triển và đi vào chiều sâu, sự tin cậy lẫn nhau dần dần tăng lên.

Tháng 2 năm 1999, trong thời gian Lê Khả Phiêu, Tổng Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tới thăm Trung Quốc, lãnh đạo hai nước đã ra “Tuyên bố chung”, xác định phương châm 16 chữ chỉ đạo sự phát triển lành mạnh mối quan hệ Trung-Việt ở thế kỷ mới, đó là ”Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai“. Sau đó, lãnh đạo hai nước còn xác định thêm mục tiêu nỗ lực của hai nước và nhân dân hai nước, đó là vĩnh viễn trở thành “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.

Đương nhiên giữa hai bên vẫn còn tồn tại một số bất đồng và tranh cãi. Tháng 4 năm 2009, Thủ tướng Ôn Gia Bảo khi tham dự Hội nghị thường niên Diễn đàn Châu Á Bác Ngao, đã nói với Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, vấn đề Nam Hải (tức Biển Đông) là vấn đề lịch sử cuối cùng tồn đọng, còn chưa được giải quyết giữa hai nước Trung-Việt. Hai bên phải nhìn xa trông rộng, xuất phát từ đại cục, tích cực duy trì sự ổn định ở Nam Hải, đẩy mạnh sự hợp tác hai bên cùng có lợi, tranh thủ tiến những bước đi tích cực trong việc đồng khai thác ở Nam Hải. Tin tưởng rằng, với nỗ lực chung của hai bên, trong những năm tháng sắp tới, mối quan hệ láng giềng tốt đẹp giữa hai nước Trung-Việt sẽ phát triển theo hướng ổn định hơn.

Nguồn: Mạng tin tức Trung Quốc Đảng Cộng sản

Ghi chú:
(1) Tạm dịch: Trải qua cơn sóng gió/ tình anh em vẫn còn/ Gặp nhau cười một cái quên hết oán thù.
(2) Tạm dịch: Anh em chơi với nhau đã mấy thế hệ/ Oán hận trong khoảnh khắc đã biến thành mây khói/ Khi gặp lại nhau cười rạng rỡ/ Tình nghĩa ngàn năm xây dựng lại.
Đăng 22nd February 2012 bởi vietsuky