Saturday, July 14, 2012

Phải làm gì khi nhật báo Người Việt nhục mạ “VNCH là bè lũ Việt gian tay sai của Mỹ” - Đào Nương Hoàng Dược Thảo




Hình ảnh đồng bào biểu tình trước toà soạn báo Người Việt khi báo này nhục mạ lá cờ vàng năm 2007

Đào Nương Hoàng Dược Thảo
Tuần báo Saigon Nhỏ số ra ngày Thứ Sáu 13 tháng 7, 2012

Từ nhiều năm nay, khi có dịp xuất hiện trên các diễn đàn có sự hiện diện của người Mỹ, Đào Nương tôi vẫn lập đi, lập lại rằng: Đừng đề cập tới chiến tranh Việt Nam như một chuyện của quá khứ khi mà người dân Việt Nam sinh sống tại miền Nam trước 1975 vẫn còn là những công dân hạng hai của chế độ cầm quyền hiện nay tại Việt Nam. Sự trả thù tàn độc của đảng cộng sản Việt Nam dành cho “thành phần” mà họ gọi là ngụy quân, ngụy quyền tức quân, dân, cán, chính của VNCH thì còn hiểu được. Nhưng sự thật thì, đã hơn 3 thập niên, đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn tiếp tục trả thù trên thế hệ con và cháu của “ngụy”. Thử đi vào những con đường chính của các thành phố miền Nam ngày nay xem thành phần chủ nhân của tất cả các cơ sở thương mại ở đó là ai? Họ là những người nói tiếng Bắc, nếu không phải là vợ con của cán bộ đảng CS cao cấp thì cũng là bà con trực thuộc của họ.

Không lẽ toàn thể dân tộc Việt Nam chỉ có bọn cán bộ Bắc Cộng là thông minh, là giỏi làm thương mại? Có phải họ giàu là nhờ làm ăn lương thiện trên thương trường? Thực tế đã chứng minh đó chỉ là một đảng cướp làm giàu nhờ cướp đất, cướp nhà của dân, bán tài nguyên thiên nhiên, bán biển, bán đất cho ngoại bang! Từ hai thập niên qua, chúng tồn tại nhờ cái tình cảm tiểu tư sản của người Việt hải ngoại gửi mỗi năm hàng chục tỷ đô la Mỹ về Việt Nam để trợ giúp cho thân nhân! Như thế thì chiến tranh Việt Nam, tiếng súng tại Việt Nam đã chấm dứt với người ngoại quốc nhưng với toàn dân Việt, nhất là những người Việt sinh sống tại miền Nam, những công dân của Việt Nam Cộng Hoà, cuộc chiến đó chưa hề kết thúc, nếu không muốn nói rằng, cuộc chiến đó càng ngày càng sâu đậm, tỷ lệ thuận với sự tham ô và dã man của bọn Việt Cộng từ khi chúng chiếm trọn cả Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam không phải là một chính quyền dân cử của toàn dân Việt Nam mà mà một đảng cướp. Sau khi cướp được chính quyền, họ đã dùng quyền thống trị để cướp tài sản của dân, tài nguyên của đất nước làm của riêng.

Điều đó giải thích được tại sao tinh thần chống Cộng của các cộng đồng người Việt hải ngoại không hề suy giảm theo thời gian nếu không muốn nói là ngược lại. Bằng mọi cách, mọi phương tiện dù hạn hẹp, người Việt hải ngoại đã thành công trong việc gìn giữ lá cờ vàng ba sọc đỏ của dân tộc Việt Nam tung bay khắp nơi trên thế giới; trong khi ngọn cờ đỏ màu máu của Việt Cộng chỉ tóm gọn trong các cơ sở ngoại giao của Việt Cộng.
Khi chiến tranh chưa chấm dứt thì có nghĩa là lằn ranh Quốc Gia và Cộng Sản vẫn còn hiện hữu. Đối với người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại thì khi chọn đứng bên này hay bên kia chiến tuyến, chúng tôi sẽ nhận diện anh là bạn hay thù. Đối với 85 triệu người Việt Nam, đảng cộng sản là kẻ thù của dân tộc Việt Nam.

Ngày 30 tháng 4 không chỉ là một ngày đau buồn của riêng miền Nam mà là ngày đại hoạ của đất nước, một trang sử đen tối của dân tộc! Nhìn lại, những gì xảy ra cho Việt Nam ngày nay kể từ khi Việt Cộng chiếm trọn đất nước: Chúng ta không chỉ mất đất, mất biển, mất đi chủ quyền đất đai vào tay Tàu Cộng mà tai hại hơn là sự tham ô và ngu xuẩn của bọn cán bộ cộng sản đã làm băng hoại đạo đức xã hội, suy đồi luân lý đạo đức của dân tộc Việt Nam. Nền giáo dục dựa trên căn bản lý lịch của bọn cộng sản đã, đang, và sẽ tiếp tục đưa những thế hệ trẻ Việt Nam vào con đường mù chữ hay biết chữ mà như mù so sánh với mức độ dân trí của các quốc gia lân bang. Biết vậy nhưng thay vì thay đổi tình trạng giáo dục trong nước thì chúng lại cho con cái của chúng sang Pháp, Úc, Canada, Hoa Kỳ... tỵ nạn về giáo dục. Chúng đã tạo ra những thế hệ trẻ không biết gì về lịch sử, về quá khứ đáng hãnh diện của tiền nhân nước Việt, về những đại họa mà đảng cộng sản Việt Nam đã gây ra cho dân tộc Việt Nam.

Ai có thể vui được trong ngày 30 tháng 4? Dù ở bên này hay bên kia chiến tuyến? Ngày nay còn ai không biết về tội ác của Hồ Chí Minh? Về những đại họa mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu từ khi Đảng CSVN thành lập. Ngày 30 tháng 4 không chỉ quan trọng với người Việt tị nạn cộng sản mà còn cả với những người ở miền Bắc Việt Nam. Đó là một ngày mà ngàn đời sau, lịch sử Việt Nam sẽ phải ghi lại: Đó là một ngày lịch sử đau thương cuả dân tộc Việt khi vì lợi ích chiến lược toàn cầu, Hoa Kỳ đã chọn một quyết định vô nhân đạo khi quay lưng với một đồng minh mà trong 20 năm chiến tranh, họ đã đẩy ra làm thành trì để ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Hậu quả của cái chiến lược “thua để thắng” đó của người Mỹ đã gây di hại lâu dài cho đất nước Việt Nam của chúng ta không chỉ vài chục năm sau cuộc chiến mà còn tồn tại kéo dài nhiều thế hệ sau.

Nhưng đó không phải là quan điểm của báo Người Việt, cơ quan ngôn luận đã khiến người Việt trong vùng Little Saigon biểu tình từ bao năm nay vì chủ trương thân cộng một cách lộ liễu của họ. Từ 20 năm qua, tôi đã lột mặt nạ báo người Việt nhiều lần. Từ thập niên 80, báo Người Việt đã sưu tầm tài liệu cho Việt Cộng khi cho tổ chức cuộc thi viết về nạn đói năm Ất Dậu song song với tin Việt Cộng kiện Nhật bản đòi đền bù cho nạn nhân nạn đói năm Ất Dâu (1945). Toà soạn báo Người Việt đã bị đốt sau khi đài truyền hình của Người Việt phát hình cờ Việt Cộng chạy trên sông Thủ Thiêm. Sau mỗi lần bị lột mặt nạ, báo Người Việt lại sa thải người chịu trách nhiệm biên tập. Sa thải kiểu “đèn trống quân” vì sau một thời gian, khi mọi việc lại lắng dịu thì người bị sa thải này lại được thu hồi vào vị trí cũ.

Đến năm 2007 thì vai trò đi đêm của báo Người Việt và cộng sản không còn là một nghi ngờ. Khi cuộc biểu tình của đồng bào Việt Nam chống báo Người Việt in hình VNCH trong chậu nước rửa chân đang sôi nổi thì hình ảnh ông Đỗ Ngọc Yến, cố chủ nhiệm và là người sáng lập ra báo Người Việt chủ tọa buổi họp với Nguyễn Xuân Phong và Nguyễn Tấn Dũng, nguyên lãnh sự CSVN tại San Francisco, được phát tán ra ngoài. Hình được chụp từ năm 1997, khi Nguyễn Tấn Dũng là trưởng phái đoàn thương thảo phía Việt Cộng trong Hiệp Định Thương Mại đầu tiên của Hoa Kỳ với Việt Nam sau khi bỏ cấm vận. Hai khuôn mặt quen thuộc trong cộng đồng người Việt tại Nam Cali hiện diện trong hình bên cạnh Đỗ Ngọc Yến là Võ Tá Chước, em trai của nhạc sĩ Võ Tá Hân và Lê Quí Biên. Tin đồn là chính Lê Quí Biên là người tung những bức ảnh này ra ngoài chưa được kiểm chứng thì tin Lê Quí Biên bị đụng xe chết ở Hà Nội bay đến Hoa Kỳ. Ngẫu nhiên hay dàn dựng? Chết vì tai nạn xe cộ ở Việt Nam thì không hiếm nhưng chết ngay khi hình ảnh đi họp với Việt Cộng cao cấp cỡ Nguyễn TấnDũng, Nguyễn Xuân Phong cùng với Đỗ Ngọc Yến “được” phổ biến khi cuộc biểu tình chống báo Người Việt đang diễn ra thì quả thật là một “tình cờ của lịch sử” vậy.

Nhưng tất cả những “lỗi lầm” kỹ thuật trên đây của báo Người Việt chỉ là chuyện nhỏ.

Người Việt tỵ nạn cộng sản hình như có trí nhớ rất ngắn nên chuyện vượt biên, mười phần chết bảy còn ba, chuyện tù cải tạo, chết năm còn một không sao hết. Tất cả rồi cũng qua và quảng cáo trên báo Người Việt vẫn nhiều, báo Người Việt vẫn tồn tại để làm công cụ tuyên truyền cho Việt Cộng với sự hợp tác của nhiều ông “ngụy quân, ngụy quyền”, những ông từng ở tù cộng sản lâu năm. Nhiều ông sĩ quan cao cấp, chính trị gia của VNCH vẫn dùng hội trường của báo Người Việt để ra mắt sách, để nói chuyện về dân chủ và nhân quyền trong khi các cuộc biểu tình đả đảo cuả đồng bào vẫn ở bên ngoài. Ngay cả các hội đoàn, đoàn thể đấu tranh chống Cộng, khi phân ưu, chia buồn cũng “nhào” vô mảnh đất này! Chúng tôi nêu ra vấn đề này, không phải để cạnh tranh nghề nghiệp mà muốn nói lên “cái vô tư” của một cơ quan ngôn luận đấu tranh chống cộng. Làm báo Việt ngữ chống cộng mà những người thuộc HĐQT báo Người Việt đi ra đi vào Việt Nam như đi chợ, không sao cả… Thế là thế nào? Phải chăng báo Người Việt đã có một cương lĩnh mới?

Có phải vì vậy mà ngày Chủ Nhật, 8 tháng 7-2012 vừa qua, trong phần Diễn Đàn, báo Người Việt đã có một cái “thư độc giả” “đáng giá”, một cái tát làm “vỡ mặt” người Việt Nam tị nạn cộng sản vẫn coi ngày 30 tháng 4 là một ngày đau buồn cuả đất nước. Mấy hôm nay, tôi nhận được nhiều cú điện thoại, nhiều điện thư phẫn nộ phản đối báo Người Việt về chuyện này. Nhưng theo tôi, bức thư “độc giả” này chỉ là một bằng chứng thêm về mối liên hệ “mật thiết” giữa những người đang điều hành nhật báo Người Việt và đảng cộng sản Việt Nam, vì ngày nay, 6 năm sau ngày ông Đỗ Ngọc Yến qua đời (ngày 17 tháng 8/ 2006) và 4 năm sau ngày lá cờ VNCH xuất hiện trên báo Người Việt trong chậu nước rửa chân, “độc giả” Sơn Hà đã lên tiếng một cách “dõng dạc, hùng hồn” trên mặt báo Người Việt số ra ngày Chủ Nhật 8 tháng 7, năm 2012 nhục mạ toàn thể người Việt tị nạn cộng sản, nhục mạ toàn thể quân dân, cán chính, của VNCH bằng một thứ luận điệu và ngôn ngữ cộng sản “nhà nòi”. Một bài viết mà khi đọc xong, Đào Nương tôi, một người làm báo không chấp nhận cộng sản, đã thấy rằng không còn ngôn ngữ gì để nói thêm ngoài việc xác định chiến tuyến giữa bạn và thù ngày nay đã rõ. Sau đây là nguyên văn bài viết của “độc giả” Sơn Hà trên mặt báo Người Việt để trả lời bài viết của Nguyễn Gia Kiểng về “Vết Thương Ngày 30 tháng 4”

Lời lẽ bóp méo sự thật của Nguyễn Gia Kiểng:

Kỷ niệm ngày chiến thắng 30-4 liền kề với ngày quốc tế lao động ngày 1-5 làm cho niềm vui của chúng ta được nhân lên gấp bội. Cả dân tộc vui mừng, tự hào, tất cả những người lao động vui mừng, tự hào. Nhưng lạ thay, ông Nguyễn gia Kiểng đã viết bài “Vết thương ngày 30 tháng 4” đưa lên mạng Internet, theo đó đã sặc mùi chia rẽ Nam Bắc, làm như thể miền Nam, Sài gòn là một miền đất khác Việt Nam, một dân tộc khác Việt Nam, làm như thể từ ngày 30 tháng 4, 1975 thì miền Nam Sài Gòn mất tất cả, bị xâm lăng tất cả! Không hiểu ông có thâm thù gì với cách mạng, thâm thù gì với dân tộc mà lại than thở như vậy. Ông quên mất điều đơn giản, tối thiểu là chỉ có đội quân xâm lược Mỹ và bè lũ Việt gian tay sai của Mỹ là thất thủ, là mất miền Nam, mất Sài Gòn, còn dân tộc Việt Nam, cả Nam lẫn Bắc là người thắng trận, thu giang sơn về một mối, chấm dứt ách thống trị của thực dân mới. Chỉ có người mất trí mới viết như ông Nguyễn Gia Kiểng rằng “Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã không đến trong niềm vui thống nhất đất nước, hòa giải và hòa hợp dân tộc mà mọi người mong ước”. Viết như vậy là hoàn toàn xuyên tạc và bóp méo sự thật. Sự thật là sau ngày chiến thắng 30 tháng 4, 1975 thì một loạt sự kiện lịch sử ra đời, đánh dấu sự thống nhất nước nhà. Đó là Việt Nam có một nhà nước thống nhất, bao gồm một Quốc Hội thống nhất, một chính phủ thống nhất, có cơ cấu tổ chức chính quyền các cấp thống nhất cả nước, nói chung có cơ cấu hệ thống chính trị các cấp thống nhất cả nước, có nền giáo dục thống nhất cả nước, có nền y tế thống nhất cả nước, cả nước có đồng tiền chung và một thị trường thống nhất, người Việt Nam đi lại tự do trên toàn cõi Việt Nam… Ngày 30 tháng 4, 1975 là ngày hội của toàn dân đoàn kết, chiến thắng. Đặc biệt, Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bao gồm các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, đồng bào các tôn giáo và không tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, các nhân sĩ, các cá nhân tiêu biểu… xóa bỏ hận thù, thành kiến giai cấp, gác quá khứ, nhìn về tương lai, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường cùng nhau xây dựng và bảo vệ tổ quốc thống nhất. Nhân dân trong nước và cả thế giới chứng kiến sau 30 tháng 4, 1975 không hề có tắm máu, không hề có trả thù. Có một số người trong ngụy quân ngụy quyền, trong đó có số nợ máu với nhân dân, thậm chí đã có tội ác tày trời, đã được tổ chức học tập, cải tạo, nhằm khêu gợi lòng yêu nước, tình đồng bào, nghĩa dân tộc, biết phân biệt chính nghĩa và phi nghĩa, trở lại cuộc sống có đạo lý, có nhân phẩm, làm ăn lương thiện, trở thành công dân của nước Việt Nam mới, thống nhất. Như thế là việc làm vô cùng nhân đạo, rất nhân quyền của cách mạng, chứ sao lại xuyên tạc “chính sách cải tạo là để tiêu diệt đại bộ phận thành phần tinh nhuệ và trí tuệ của miền Nam”! (ngưng trích)

Bài viết này đăng tải trong số báo ra ngày Chủ Nhật 8 tháng 7-2012. Đến ngày thứ Ba, báo Người Việt đăng lại một bài viết của vài độc giả phản biện lại luận điệu tuyên truyền này của Việt Cộng cũng trong phần thư dộc giả. Nhưng “đau buồn” nhất là sự khinh thường của báo Người Việt dành cho Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH. Lá thư phản kháng sự nhục mạ Tập Thể Chiến Sĩ VNCH là “bè lũ Việt gian tay sai của Mỹ” của báo Người Việt ký tên ông chủ tịch Phan Tấn Ngưu chỉ được đăng bên cạnh những cái thư độc giả trong mục Diễn Đàn.

Các tổ chức cộng đồng khác sẽ phản ứng ra sao? Chúng ta có nên chấp nhận quan điểm “Ngày 30 tháng 4, 1975 là ngày hội của toàn dân đoàn kết, chiến thắng. Đặc biệt, Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bao gồm các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, đồng bào các tôn giáo và không tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, các nhân sĩ, các cá nhân tiêu biểu… xóa bỏ hận thù, thành kiến giai cấp, gác quá khứ, nhìn về tương lai, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường cùng nhau xây dựng và bảo vệ tổ quốc thống nhất…”. Trong chúng ta, ai không là những nạn nhân trực tiếp của việc cộng sản bỏ tù người thân trong các trại tù cải tạo nhiều năm, chúng ta nghĩ gì, phản ứng ra sao với một cơ quan ngôn luân viết rằng:

Nhân dân trong nước và cả thế giới chứng kiến sau 30 tháng 4, 1975 không hề có tắm máu, không hề có trả thù. Có một số người trong ngụy quân ngụy quyền, trong đó có số nợ máu với nhân dân, thậm chí đã có tội ác tày trời, đã được tổ chức học tập, cải tạo, nhằm khêu gợi lòng yêu nước, tình đồng bào, nghĩa dân tộc, biết phân biệt chính nghĩa và phi nghĩa, trở lại cuộc sống có đạo lý, có nhân phẩm, làm ăn lương thiện, trở thành công dân của nước Việt Nam mới, thống nhất” (Ngưng trích)

Người đau nhất trong vụ này là Nguyễn Gia Kiểng. Có thể nói rằng nếu không có báo Người Việt thì không hề có phong trào Dân Chủ Đa Nguyên kêu gọi hoà hợp, hoà giải của Nguyễn Gia Kiểng. Mấy năm sau này, Nguyễn Gia Kiểng đã đổi thái độ vì biết rằng bọn lãnh tụ CSVN không đủ lương tri và trí tuệ để chuyển hướng về chính trị. Bây giờ thì chính báo Người Việt lại “chơi” Nguyễn Gia Kiểng.

Xin nhắc lại vì nhiều vị sang Hoa Kỳ sau 1998 có thể chưa biết về điều này: luận điệu “chính sách cải tạo là một khoan hồng cuả nhà nước dành cho những người có nợ máu với nhân dân, có tội với cách mạng” lần đầu tiên được Nguyễn Xuân Phong, tên lãnh sự đầu tiên của Việt Cộng tại San Francisco tuyên bố trong bài phỏng vấn thực hiện bởi ông Vũ Bình Nghi và đăng tải trong báo Xuân Thời Báo 1998 năm 1998 khiến đồng bào tại Bắc Cali biểu tình rầm rộ hàng tháng trời. Báo Thời Báo cuả ông Vũ Bình Nghi cũng như Liên Hội Bắc Cali bị đồng bào Bắc Cali xem như là những tổ chức thân cộng từ ngày đó. Muốn biết mặt mũi của Nguyễn Xuân Phong thì xem hình trên. Y là người số 3 phía bên trái của cố chủ nhiệm Đỗ Ngọc Yến của báo Người Việt trong ảnh trên.

Luận điệu “chính sách cải tạo là một khoan hồng cuả nhà nước dành cho những người có nợ máu với nhân dân, có tội với cách mạng” này thật ra đã không còn được ngay cả chính những cán bộ cộng sản trong nước đồng ý. Nhiều bài viết của người trong nước đã kết án chính sách cải tạo của Việt Cộng dành cho quân dân cán chính miền Nam Việt Nam là sai lầm, là đào sâu sự chia rẻ giữa hai miền Quốc Cộng, giữa Miền Nam và Miền Bắc. Thật ra, đó cũng không hẳn là đúng nếu chúng ta nhìn vào thành phần lãnh đạo và cách hành xử cuả bọn lãnh tụ cộng sản ngày nay. Chính sách cải tạo giam giữ tất cả quân dân cán chính miền Nam nhằm mục đích tiêu diệt các cấu trúc gia đình, truyền thống đạo đức, luân lý cuả xã hội miền Nam để củng cố chế độ cộng sản ngày nay không còn đứng vững. Vì sự tham ô cuả đảng cộng sản không ngừng ở việc trả thù hay tiêu diệt, cướp tài sản của những người “thất trận” ở miền Nam. Ngày nay, bọn cấp trên của đảng đã bóc lột cấp dưới không khác gì chúng đã hành xử dã man với người miền Nam VNCH mà điển hình là vụ Đoàn Văn Vươn, “kỳ tài đất Tiên Lãng” đã chứng minh. Điều đó cho thấy gì? Cán bộ cộng sản ở đâu thì cũng thế: đó là những tên vô lại, vô học có được quyền hành trong tay nên chúng lợi dụng để cướp của, bóc lột người dân, tàn phá đất nước. Ở Nga, ở Đức, ở Tàu, ở Cuba, ở Bắc Hàn… chúng sẵn sàng làm tất cả những việc vô luân nhất, ngay cả việc bán nước để đạt được mục đích. Ý tưởng xây dựng đất nước, bảo tồn văn hoá dân tộc không hề có trong đầu của chúng. Đừng nhìn vào cái bề ngoài hào nhoáng của một Trung Cộng cường thịnh về kinh tế mà quên đi những vấn đề môi sinh và nhân quyền bị xâm phạm mà người dân Hoa Lục đang phải gánh chịu. Nhưng ít ra, bọn lãnh tụ Tàu cộng còn có tinh thần quốc gia dân tộc và trí tuệ để thực hiện những điều cần phải thay đổi để tồn tại, những điều mà bọn lãnh tụ cộng sản Việt Nam không hề có. Chúng ta chưa nhìn thấy một ánh lửa cuối đường hầm cho đất nước Việt Nam là vì thế.

Không biết sau bài viết này, những “nhân vật” đã từng đăng đàn, họp báo chống báo Việt Weekly trước đây khi báo này đăng bài viết Bài Học Khó Thuộc của Hà Văn Thùy (số ra ngày 24 tháng 5 năm 2007) như các ông Trần Phong Vũ, ông Đỗ Thái Nhiên, Nguyễn Chí Thiện… sẽ làm gì? Các ông có lên tiếng họp báo kêu gọi đồng bào tẩy chay không đọc báo Người Việt, không đăng quảng cáo trên báo Người Việt như khi báo Việt Weekly đăng một bài viết cũ của Hà Văn Thủy, một tác giả trong nước? Để đối phó với tờ VW, một buổi họp báo diễn ra từ 1 giờ đến 4 giờ chiều, Thứ Bảy, ngày 16 Tháng Sáu, 2007 tại hội trường Nhật Báo Viễn Đông. Sau đó “Bản Lên Tiếng tố cáo lập trường thân Cộng và xuyên tạc lịch sử của tuần báo Việt Weekly tại Nam California” với hàng trăm nhân sĩ, đại diện tất cả các Hội Đoàn, Đoàn Thể của người Việt tị nạn CS được phổ biến rộng rãi. Điều này liệu có xãy ra khi sự nhục mạ không chỉ dành cho tập thể chiến sĩ VNCH mà còn cho toàn thể người dân sinh sống tại Miền Nam trước 1975?

Khi đăng bài của Hà Văn Thùy, báo VW cũng ghi: “Ý kiến của tác giả phản ảnh quan điểm cá nhân trên tinh thần diễn đàn, không phải của tòa soạn” thì nhật báo Người Việt cũng bắt chước báo VW viết tương tự như vậy: “Các bài viết đăng trên phụ trang diễn đàn Người Việt không nhất thiết phản ảnh quan điểm của nhật báo Người Việt, mà chỉ là quan điểm riêng của từng cá nhân”.

Đừng biện luận rằng đây chỉ là một cái thư độc giả. Vì ai là độc giả này? Một tên cán bộ đảng như Nguyễn Xuân Phong hay là cả cái Bộ Chính Trị CSVN mượn tay của một diễn đàn tự nhận là lớn nhất ở hải ngoại để nhục mạ cả VNCH là tay sai cho giặc Mỹ chỉ cần qua hình thức một cái thư “bạn đọc” như thế thì thật là quả dễ dàng. Vì thế người viết là ai không quan trọng, quan trọng là người đã đăng, đã phổ biến bài viết mới là quan trọng. (Luật pháp Hoa Kỳ có ấn định rõ về điều này)

Với lá thư nhục mạ VNCH là tay sai cho giặc Mỹ này trên báo Người Việt, hệ thống báo Saigon Nhỏ nhận định rằng báo Người Việt là một công cụ của đảng cộng sản Việt Nam và do đó, hệ thống báo Saigon Nhỏ không thể đứng cùng chiến tuyến với báo Người Việt được.

Từ nay, hệ thống báo Saigon Nhỏ sẽ ngừng đăng tải bài viết của những tác giả còn cộng tác với báo Người Việt cũng như kêu gọi đồng bào Việt Nam tị nạn cộng sản hãy đọc kỷ bài viết trên đây cuả báo Người Việt và suy nghĩ: Đã đến lúc quí vị có nên dễ dãi, tha thứ cho hành động của Việt gian? Nếu câu trả lời là không thì xin quí vị hãy suy nghĩ thêm là có nên yểm trợ cho những cơ quan ngôn luận hay những diễn đàn thân cộng tại hải ngoại khi họ đã lộ diện. Chúng ta không cuồng tín nhưng chúng ta biết rất rõ ngày nào bọn Việt Cộng còn nắm chính quyền thì dân tộc Việt Nam còn bị đày đọa, thất học, sống đời nô lệ để phục vụ cho bọn thiểu số đảng viên cộng sản sống xa hoa vương giả trên máu, mồ hôi và nước mắt của người dân Việt. Chúng ta, Người Việt tị nạn cộng sản có tự do, có dân chủ, có tài lực thì xin hãy nghĩ đến 85 triệu đồng bào ruột thịt ở bên nhà. Việt gian đáng phỉ nhổ hơn Việt Cộng vì chúng có thể có một chọn lựa khác hơn là con đường… bác đi tức con đường bi đát của dân tộc. Sau vụ này, báo Người Việt sẽ tìm cách xoa dịu sự phẫn nộ của người Việt tị nạn cộng sản bằng cách sa thải ngay vị chủ bút, TTK toà soạn như đã từng đối xử với ông Vũ Ánh hay Vũ Quí Hạo Nhiên trước đây trong vụ cái chậu nước rửa chân có lá cờ vàng một thời gian rồi sẽ thu dụng lại. Lần này, sau ông “du sinh” Phạm Phú Thiện Giao từ Đông Âu sang, không lẽ lại là ông Hạo Nhiên hay ông Đinh Quang Anh Thái lên thay? Kẹt thật! Cách hay nhất là báo Người Việt nên xin với ông Tổng Biên Tập cuả 700 tờ báo trong nước phái sang một người để chắc chắn rằng quí vị đi đúng lề phải của nhà nước ta. Không cần phải màu mè “Cơ quan Tranh Đấu Thời Sự Văn Nghệ Giáo Dục” như hiện nay. Vì Tranh Đấu thì phải chống ai chứ không lẽ chống … Thời Sự Văn Nghệ Giáo Dục. Khi báo Người Việt không chống cộng thì báo Người Việt chống ai? Hỏi tức là trả lời.

Đảng cộng sản Việt Nam đã có 700 tờ báo lề phải trong nước ca tụng cho “Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xóa bỏ hận thù, thành kiến giai cấp, gác quá khứ, nhìn về tương lai, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường cùng nhau xây dựng và bảo vệ tổ quốc thống nhất” làm trò cười cho cả nước thì còn có thể hiểu được. Nhưng việc đảng có thêm một tờ báo sống giữa lòng thủ đô tị nạn và ca tụng đảng đến như báo Người Việt thì quả thật là một “thành công vĩ đại” cuả đảng cộng sản Việt Nam trong lãnh vực tuyên truyền ở hải ngoại vậy. Ôi còn nỗi nhục nào hơn nỗi nhục này với những người tị nạn cộng sản đã mất tất cả trên đường lưu vong! Đến được đất nước tự do mà vẫn bị làm nhục đến như thế này thì quả là… nhục thật! Và cũng thật ngậm ngùi khi nghĩ đến: Oan hồn của hàng triệu chiến sĩ VNCH đã hy sinh khi chiến đấu, đã chết trong các trại tù cải tạo chỉ vì muốn bảo vệ lý tưởng tự do và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam trước hiểm hoạ xâm lăng cuả cộng sản, của hàng triệu người đã hy sinh trên đường vượt biên tìm tự do, hàng triệu đứa trẻ không được sống cho ra con người chỉ vì lý lịch của mẹ cha… Ngậm ngùi thay!

Đào Nương Hoàng Dược Thảo

Thư Hiệp Thông của Giám Mục Nguyễn Văn Long với Giáo Sứ Con Cuông, tỉnh Nghệ An



Kính gởi: Các nạn nhân và tất cả anh chị em tín hữu tại Con Cuông, tỉnh Nghệ An

Anh chị em thân mến,

Từ nước Úc Đại Lợi xa xôi, tôi cùng các linh mục, tu sĩ, giáo dân và đồng bào tị nạn cộng sản tại đây xin bày tỏ sự xúc động sâu xa trước những biến cố đang dồn dập xẩy đến với anh chị em trong những ngày qua. Thật như lời Đức Cha của anh chị em viết từ Paris: Đó là “…. những sự việc mà đáng lẽ ra không được hiện diện ở thế kỷ XXI này”. Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã dùng cả một hệ thống quân đội, công an và côn đồ như công cụ để trấn áp anh chị em đang khi thi hành một quyền căn bản và một bổn phận thiêng liêng nhất là thờ kính Thiên Chúa qua Thánh Lễ.

Thật đau buồn khi chúng ta phải chứng kiến cảnh bắt bớ, đánh đập và hành hung linh mục và các giáo dân trong khi thờ phượng. Thật xót xa khi những người làm công cụ của chế độ đã không kể việc phạm sự thánh khi đập phá ảnh tượng và gây thương tích cho các nạn nhân vô tội.Thật oái oăm khi tất cả những sự việc không bao giờ xẩy ra tại một xã hội văn minh ở thế kỷ 21, lại đang xẩy ra ở quê hương “Bác Hồ”-cha đẻ của cái gọi là xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Phải chăng thiên đàng cộng sản mà “bác” phác họa cho dân tộc ta chỉ là chiếc bánh vẽ khổng lồ? Phải chăng cái “độc lập tự do hạnh phúc” mà do hậu duệ chính trị của “bác” tuyên truyền chỉ là một cái thùng rỗng? Anh chị em tại Nghệ An cũng như nạn nhân trên khắp đất nước chính là nhân chứng của sự băng hoại của chế độ cộng sản. Chúng ta cùng tâm thức rằng, bao lâu còn cộng sản, bấy lâu đất nước chúng ta đứng trước hố sâu của tuyệt vọng.

Chúng tôi cũng đã là nạn nhân của cộng sản nhưng giờ đây được may mắn sống trong xã hội văn minh tự do. Trong tình đồng bào cũng như trong cùng một đức tin, chúng tôi muốn bày tỏ sự hiệp thông sâu xa đến các nạn nhân cũng như toàn thể anh chị em giáo dân Con Cuông. Chúng tôi ngưỡng mộ và cảm phục đức tin can trường và ý chí bất khuất của anh chị em trước bạo quyền. Chính lòng tin và ý chí này sẽ chiến thắng bóng tối của sự dữ.

Cảm ơn anh chị em đã cho chúng tôi thấy sự trân qúy của tự do mà anh chị em sẵn sàng trả bằng mọi gía, ngay cả bằng tính mạng. Sự hào hùng của đất Vinh và sự bất khuất của Nghệ An đang sống lại trong anh chị em. Bạo quyền rồi sẽ phải lui bước; bóng tối tội ác rồi cũng bị chế ngự.

Tôi xin dùng lời Đức Kitô để khích lệ anh chị em: “Đừng sợ những người chỉ làm hại thân xác mà không thể làm hại linh hồn”. Việc bạo quyền khủng bố anh chị em cho thấy sự yếu thế và báo hiệu ngày cánh chung của họ. Một thể chế không còn chính nghĩa và một chế độ không còn được lòng dân sẽ không thể tồn tại. Anh chị em không cô đơn trong khổ nhục vì công lý. Chúng tôi đồng hành với anh chị em. Những người thiện tâm đồng hành với anh chị em. Nhưng trên hết, Đức Kitô là phiến đá tảng của niềm tin và niềm hy vọng của chúng ta. Chính Đức Kitô đã chiến thắng sự dữ và tà thần qua sự đau khổ, sự chết và sống lại của Ngài. Chính Đức Kitô đồng hành và đưa anh chị em đến ngày viên mãn của công lý và sự thật trên quê hương mến yêu. Một lần nữa, chúng ta đến với Mẹ La Vang trong lúc lâm nguy ngặt nghèo:

Xin Mẹ La Vang toàn thắng nơi quê hương chúng ta.

Xin Mẹ toàn thắng ngay cả qua những đau khổ và thất bại của chúng ta.

Xin Mẹ cho chúng ta đừng nản lòng tranh đấu cho công lý và sự thật,

cho tự do và nhân phẩm của con người.

Xin Mẹ đem lại chiến thắng của ánh sáng trên tối tăm, sự lành trên sự dữ,

chí nhân trên cường bạo và đại nghĩa trên hung tàn. Amen.

Thân ái trong Chúa Kitô,

Vincent Nguyễn văn Long OFMConv
Giám Mục Phụ Tá Melbourne, Australia. 

Người Lính Việt Nam Cộng Hòa

    Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh
Hoàng Nhật Thơ

Quân đội là một tập thể lớn nhất trong một quốc gia, được hình thành từ đủ mọi thành phần trong xã hội ở khắp mọi miền đất nước theo luật động viên hoặc tổng động viên ... Vì thế tập thể quân đội rất phức tạp nhưng sự phức tạp này đã được trui rèn trong những lò luyện thép để trở thành một tập thể kỷ luật nhất với trách nhiệm cao quý "Bảo Quốc-An Dân".

Quân Đội Quốc Gia Việt Nam được Quốc Trưởng Bảo Đại thành lập năm 1949 cho đến khi chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa ra đời ngày 26/10/1955, Vị Tổng Thống dân cử đầu tiên của nước Việt Nam, Tổng Thống Ngô Đình Diệm với tư cách là nguyên thủ quốc gia kiêm tổng tư lệnh tối cao đã cải danh Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, danh xưng thân thương này được trân quý giữ cho đến ngày hôm nay và mãi mãi.

Từ sau cuộc chính biến ngày 01/11/1963, cuộc chỉnh lý tháng 01/1964 cho đến năm 1965, tình hình chính trường Miền Nam Việt Nam thật sự rối ren, bất ổn bởi những cơn lốc chính trị ... tên đồ tể Hồ Chí Minh và bọn CSBV đã lợi dụng tình trạng này để gia tăng đánh phá trong mưu đồ thôn tính MNVN. Trước những cơn phong ba chính trị với cơn bão lửa chiến tranh lan dần và sau nhiều phiên họp của Thượng Hội Đồng Quốc gia ... Chính phủ dân sự do Thủ Tướng Phan Huy Quát lãnh đạo đã quyết định trao quyền lãnh đạo đất nước lại cho quân đội.

Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương được thành lập và trình diện trước quốc dân ngày 19/06/1965. Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu với tư cách là Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, đã thay mặt đại gia đình quân đội nhận lãnh trọng trách lèo lái con thuyền Quốc Gia trong cơn nghiêng ngả của đất nước. Vì thế ngày 19/06 được gọi là ngày Quân Lực, chớ không phải là ngày Thành lập Quân Lực VNCH như một số người đã hiểu sai.

Kể từ giờ phút lịch sử này, QLVNCH vinh dự gánh vác thêm trọng trách nặng nề hơn đối với quốc gia, dân tộc ... Người Lính VNCH ngoài trách nhiệm "Bảo Quốc-An Dân", họ còn phải chèo chống con thuyền Quốc Gia trong cơn bão lửa chiến tranh trên dòng sông lịch sử.

Nói đến quân đội là phải nói đến Người Lính, những người đã đem cả cuộc đời, một phần thân thể và sinh mạng để bảo vệ hai chữ Tự Do cho Miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến tang thương kéo dài 20 năm bởi cuồng vọng nhuộm đỏ cả quê hương do tên tội đồ Hồ Chí Minh và bọn CSBV gây nên.

Nhân dịp lễ kỷ niệm Ngày Quân Lực lần thứ 46, người viết xin được trải lòng mình trong những dòng chữ hạn hẹp, kính cẩn Vinh Danh-Tri Ân Người Lính VNCH, những người đặt Tổ Quốc_Dân Tộc lên trên hết, những người trân quý Tổ Quốc-Dân Tộc hơn cả mạng sống của mình.

Trước khi gói trọn cuộc đời trong chiếc áo trận phủ dày bởi khói lửa sa trường, họ là những thanh niên sống dưới khung trời Tự Do của Miền Nam Việt Nam, ý thức được trách nhiệm của người trai trong thời loạn ... Họ từ giã học đường, xếp lại con đường công danh khoa bảng vào trang vở thơm mùi giấy học trò, giã biệt người yêu trong tiếng ve ngân ngày tháng Hạ, những cành phượng vỹ đỏ thắm nhẹ đong đưa trong gió như vẫy tay tiễn người đi khoác chinh y, bạn bè kẻ ở người đi nâng chén quan hà chúc tụng nhau những gì đẹp nhất ; Họ hy sinh tình cảm cá nhân, gia đình, người thân, người tình ... đặt bước chân vào cuộc sống quân ngũ bảo vệ, gìn giữ quê hương.

Sau những tháng ngày dài chạy đều bước 1, 2, 3, 4 ... hát vang "chân cứng đá mềm", mũi thở ra khói nơi "thao trường đổ mồ hôi", người thanh niên tuổi trẻ ngày nào đã gột rửa nét thư sinh bằng những giọt mồ hôi của mình ... Mái tóc ba phân, ánh mắt cương nghị, thân thể cường tráng khỏe mạnh được phủ bởi làn da sạm nắng cháy quân trường với lời thề "Vị Quốc Vong Thân" trong ngày lễ mãn khóa ... Người thư sinh ấy đã trở thành đứa con yêu của Tổ Quốc với tên gọi thân thương "Người Lính VNCH".

Người Lính VNCH đem tấm thân được trui rèn từ lò luyện thép, kiến thức quân sự được đào tạo từ mái trường Tổ Quốc mang hành trang "Bảo Quốc-An Dân" hiện diện trên mọi nẻo đường đất nước, gìn giữ quê hương bằng chính sinh mạng của mình.

Người Lính VNCH không đi chinh chiến xây đắp tương lai cho cá nhân mình ... Người Lính VNCH không đem sinh mạng vào vùng lửa đạn đánh đổi quyền cao chức trọng ... Người Lính VNCH không mang giòng máu thắm đổi lấy huy chương trên ngực áo ... Người Lính VNCH không đem một phần thân thể làm nấc thang binh nghiệp ... Người Lính chỉ biết đi chiến đấu cho đất nước yên vui.

Hai mươi năm chinh chiến ... Người Lính VNCH đi miệt mài không ngừng nghỉ, đôi giày trận mòn gót từ miền địa đầu giới tuyến nắng cháy da người ... vùng cao nguyên khô cằn sỏi đá, bụi đỏ mịt mờ ... miền Tây sình lầy nước đọng, rừng già âm u, núi đồi lộng gió cho đến cao vút không gian bao la vương dấu giày trên vùng mây trắng mênh mông ... xa ngút ngàn trùng khơi sóng vỗ lắc lư chiến hạm ... Người Lính đi trong lửa khói mịt mờ, đi trong mưa đạn pháo của quân thù, đi trên xác giặc xâm lăng, ẩn hiện như những bóng ma đi vào mật khu của giặc, âm thầm làm người chiến sĩ vô danh trong công tác đặc biệt "vượt tuyến" ... không nơi nào thiếu vắng bóng dáng Người Lính VNCH, những người đem sinh mạng che chắn cơn bão lửa chiến tranh để mang niềm vui cho đời.

Người Lính đi từ lúc mặt trời còn say ngủ, sương đêm buốt lạnh đôi vai cho đến khi quả cầu lửa khổng lồ chiếu ngay trên đỉnh đầu, bộ chinh y đẫm ướt mồ hôi, thân thể bốc khói ... Người Lính tạm dừng chân lấy nước từ sông hồ, kinh rạch, từ dây rừng đổ vào bọc gạo sấy, nuốt vội vã, hớp ngụm nước mát từ lòng đất mẹ, phì phà vài hơi thuốc lá rồi tiếp tục lên đường ... Hoàng hôn buông phủ, đơn vị tạm dừng quân ... sau khi lót lòng bằng phần lương khô, Người Lính dành chút thì giờ quý báu "từ KBC giá lạnh rừng sâu" trong cái lều vải cá nhân vội vàng viết lá thư tiền tuyến gởi về thăm gia đình ... Kẻ thì thăm hỏi, kính chúc sức khỏe mẹ già vạn an, khói lửa chiến tranh vẫn còn phủ kín quê hương nên con chưa thể về bên mẹ để làm tròn chữ "Hiếu", mong mẹ thứ lỗi cho con. Con vẫn khỏe mạnh, bình an ... Thương nhớ mẹ nhiều ; Người thì cặm cụi bên chiếc balô làm bàn nên nét chữ không ngay, trải nỗi lòng nhung nhớ vợ hiền, con thơ trên trang giấy nhỏ bé ... Thương nhớ em và con thật nhiều. Anh khỏe và an lành ; Người thì nắn nót từng nét chữ yêu thương gởi về người yêu nơi phố thị ... đã từ lâu chưa một lần về thăm ... hẹn ngày hoa giăng đầu ngõ ... Hôn Em ; Kẻ thì nguệch ngoạc đôi dòng thăm bạn bè đang ghìm súng ở một KBC nào đó. Xếp vội những lá thư còn thơm mùi mực, Người Lính vừa chợp mắt thì có lệnh lên đường ... Người Lính tiếp tục bước quân hành, âm thầm khuất vào màn đêm đen tăm tối dưới cơn mưa lạnh buốt để canh giữ quê hương cho người dân tròn giấc ngủ.

Hai mươi năm chinh chiến, hầu như Người Lính không có dư thì giờ nhiều để tắm gội nhưng họ lại là những người tắm nhiều nhất ... họ tắm trên bước quân hành dưới những cơn mưa tầm tả ngày đêm, vừa đi vừa tắm bằng giòng suối mát ngọt ngào nơi núi cao dốc thẳm, sông hồ kinh rạch, họ tắm bằng những giọt nước từ chiếc biđông nhỏ giọt trên đầu dưới sức nóng gay gắt của mặt trời và họ tắm bằng những giòng biển mặn thoát ra từ cơ thể của họ.

Hơn bảy ngàn ngày đêm, Người Lính chưa bao giờ có một lần tròn giấc, Người Lính ngủ trong thức, thức trong từng giấc ngủ ... Người Lính có thể ngủ bất cứ giờ phút nào, bất cứ nơi đâu dù chỉ năm ba phút, ngủ trong lúc di hành, ngủ trong lúc ăn, ngủ trong lúc đang nói chuyện với đồng đội, ngủ dưới cơn mưa tầm tả nơi giao thông hào, ngủ trong lúc đang đánh răng, ngủ ngay cả lúc đang đại hay tiểu tiện ... Có người đã thiếp đi vài phút dưới cơn mưa pháo của quân thù vì họ quá mệt mỏi trong một trận chiến dài nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, trận chiến 510 ngày đêm trên ngọn đồi Tống Lê Chân. Người Lính rất thèm ngủ nhưng Người Lính tự ban "quân lệnh" cho mình không được ngủ khi quê hương còn thao thức vì tiếng súng đạn xâm lăng ... Hầu như Người Lính đi và thức gần trọn cuộc đời khoác chinh y.

Hai mươi năm chinh chiến ... có biết bao nhiêu Người Lính VNCH đã ngủ quên trên chiến địa, trên vùng trời Tổ Quốc Không Gian, dưới lòng Tổ Quốc Đại Dương mãi mãi không trở về với đồng đội ... Bao nhiêu Người Lính VNCH trở về bằng mỗi một tấm thẻ bài lạnh giá hoặc ngủ im lìm trong hòm gỗ cài hoa, không bao giờ biết mặt đứa con thơ vừa cất tiếng khóc chào đời, không được nhìn thấy những giòng lệ trào tuôn trên khuôn mặt người vợ hiền đầu vừa chít vội mảnh khăn tang ... không được vuốt mái tóc người tình hay vị hôn thê mới vừa đeo chiếc nhẫn đính hôn tháng rồi nay tan nát tâm hồn quấn chiếc khăn tang đang gục đầu trên quan tài gỗ được phủ lá quốc kỳ ... không được tự tay lau những giọt lệ từ giòng nước mắt khô cạn của người mẹ già yêu quý.

Hai mươi năm chinh chiến ... bao nhiêu Người Lính VNCH trở về không nguyên vẹn hình hài ... kẻ trở về với một hoặc hai ống tay áo dư thừa ... người thì vĩnh viễn không bao giờ mặc lại được cái quần dài vì đôi chân đã gởi lại chiến trường ... người thì mãi mãi sống trong bóng tối suốt quãng đời còn lại vì họ đã hiến dâng cặp mắt cho hai chữ Tự Do của Miền Nam Việt Nam. Trong thời chiến, họ đem tấm thân gầy chống đỡ giang san ... ngày tàn cuộc chiến, họ lê tấm thân phế tàn chống đỡ tang thương, bất hạnh phủ trùm lên thân phận người thua cuộc kéo dài hơn một phần ba thế kỷ.

Chinh chiến triền miên không biết bao giờ chấm dứt ... Anh miệt mài đi mãi ... đem sinh mạng đi canh giữ quê hương ... lấy máu hồng đi dập tắt ngọn lửa chiến tranh ... đi cho đến khi nào người dân không còn kinh hoàng, hốt hoảng dìu dắt, bồng bế nhau chạy loạn trong khói lửa ngút trời bởi thảm họa chiến tranh do lũ cộng sản gây nên ... đi cho đến khi không còn thảm cảnh đứa bé thơ đang ngậm bầu sữa khô, nút những giọt máu rỉ ra trên xác người mẹ vừa chết bên ven đường bởi đạn thù, pháo giặc ... đi cho đến khi đất nước thật sự thanh bình, người dân được sống an vui, hạnh phúc, tiếng cười đùa của trẻ thơ rộn rã khắp nơi nơi, tiếng ê a hồn nhiên tuổi thơ vang lên dưới mái trường làng rợp bóng mát thanh bình, tự do.

Đường quân hành dịu vợi mù xa ... đôi chân nhỏ bé của Người Lính đã vượt qua ngàn ngàn cây số, bao nhiêu sông hồ kinh rạch, núi thẳm rừng sâu, sình lầy nước đọng, muỗi đỉa bám đen cả thân mình ... gian nan trên mỗi bước đi, hiểm nguy trong từng hơi thở, tử thần lảng vảng bên cạnh, cái chết có thể đến bất chợt trong buổi ăn, giấc ngủ ... Nhưng Người Lính VNCH, những người nguyện hiến dâng cuộc sống cho đời nào có xá chi hiểm nguy, chết chóc khi quê hương còn vang rền tiếng súng xâm lăng. Người Lính VNCH ơi ... Anh thật là cao cả.

Hai mươi năm lao vào vùng lửa đạn do tên Hồ Chí Minh và bọn CSBV gây nên ... Hằng ngàn ngàn quân lệnh ban ra ... phải chiến thắng, phải dứt điểm mục tiêu, phải giải quyết chiến trường không để một tấc đất quê hương, một căn nhà người dân lọt vào tay quân giặc ... Lá Quốc Kỳ màu Vàng Ba Sọc Đỏ thân yêu phải tung bay phất phới trên xác giặc trong thời hạn bắt buộc. Người Lính VNCH nghiêm chỉnh chấp hành quân lệnh không một lời than van, hiên ngang bước vào vùng tử địa, đem máu đào và sinh mạng của mình giành lấy chiến thắng mang về dâng lên Tổ Quốc.

Trước khi đi vào chốn hiểm nguy, lao mình vào vùng lửa đạn, Người Lính VNCH không nghĩ đến gia đình mà chỉ nghĩ đến sự an nguy của quê hương dân tộc ; Trong vùng lửa đạn mịt mờ ... Người Lính VNCH vừa chiến đấu vừa bảo vệ người dân, dù Người Lính bị thương thân thể đẫm máu, họ vẫn cố gắng dìu dắt người dân, bồng bế trẻ thơ, cõng ông lão, bà cụ thoát khỏi vùng hiểm nguy ... Người Lính VNCH chẳng những bảo vệ người dân mà còn chăm sóc, chữa trị vết thương cho những tù binh cộng sản bị bắt trên chiến trường, Người Lính VNCH tự tay băng bó vết thương cho tù binh, đút cho họ ăn từng muỗng cơm, từng ngụm nước, gắn lên môi họ điếu thuốc sau đó tải thương giao họ lại cho các cơ quan thẩm quyền đưa về điều trị vết thương, khai thác và giáo huấn họ trở về con đường chính nghĩa của quê hương dân tộc. Đây là tánh nhân bản của Người Lính VNCH trên con đường lý tưởng "Bảo Quốc-An Dân".

Người Lính VNCH chèo chống con thuyền quốc gia trong cơn bão lửa chiến tranh, cắm ngọn cờ chiến thắng khắp mọi nơi từ giòng sông Bến Hải miền địa đầu giới tuyến dài xuống tận mũi Cà Mau phần đất cuối cùng của quê hương. Sau trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, quân đội CSBV đã kiệt quệ, chiến tranh lắng dịu, quê hương hồi sinh, nắng ấm thanh bình tạm trải dài muôn nơi sau trận chiến kinh hồn, máu và lửa đỏ cả quê hương suốt năm tháng rưỡi trong cuộc chiến tang thương dài triền miên.

"Cờ bay, cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu ...". Trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa kết thúc, Người Lính VNCH đã dùng máu và sinh mạng tạo một chiến công lẫy lừng làm cả thế giới nghiêng mình kính phục ... Lá Quốc Kỳ tung bay khắp mọi miền đất nước dưới tia nắng ấm thanh bình vừa ló dạng nơi chân trời thì cũng là lúc Người Lính VNCH bắt đầu bị trói tay trên bàn cờ chính trị thế giới, để rồi đưa đến cái chết tức tưởi của chính thể VNCH, Người Lính VNCH bị bức tử gãy súng ... Con thuyền quốc gia chuyên chở "Tự Do-Hạnh Phúc" cho người dân Miền Nam Việt Nam trong suốt hai mươi năm đã bị người bạn đồng minh nhẫn tâm nhận chìm vào giòng sông máu của cộng sản ngày 30/04/1975.

Năm vị tướng lãnh cùng một số Quân Cán Chính VNCH các cấp đã quyên sinh theo con thuyền quốc gia nhưng họ không chìm vào giòng sông máu của cộng sản ... Họ miên viễn đi vào lòng đất mẹ, linh hồn quyện vào Lá cờ Hồn Thiêng Sông Núi ... Họ đã hiên ngang, can trường đi bước quân hành cuối cùng trong sự uất nghẹn "gãy súng" để bảo vệ danh dự cho đại gia đình QLVNCH, bảo toàn chính nghĩa Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, để lại ngàn đời sau nhắc nhớ và thương tiếc.

Ngay sau khi Miền Nam Việt Nam lọt vào tay CSBV ... Hằng ngàn Quân Cán Chính VNCH đã bị lũ quỷ đỏ mạo danh "chống Mỹ, cứu Nước" khoan hồng bằng những loạt đạn AK47 hận thù nơì pháp trường thù hận. Hằng trăm ngàn đã được "hòa hợp, hòa giải" bằng gông cùm xiềng xích, biệt giam ngục tối, bằng những cực hình tra tấn dã man, bị bỏ đói, cưỡng bức lao động trong thủ đoạn thâm độc giết dần mòn nơi các trại tù khổ sai, khắc nghiệt mang ba chữ hoa mỹ "Trại Cải Tạo" trên hai miền Nam Bắc.

Những người TPB.VNCH bị lũ quỷ đỏ chà đạp, lết lê hít thở khói xe, bụi đường bên lề cõi sống. Họ uống nước mắt uất nghẹn kéo lê kiếp sống vong quốc hơn nửa cuộc đời ngay chính trên mảnh đất quê cha mà họ đã hy sinh giòng máu, một phần thân thể để gìn giữ.

Lũ cộng sản vô thần không tim óc, độc ác, dã man cũng không buông tha những người đã chết. Chúng tàn phá nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa, tàn nhẫn giẫm lên những nắm xương tàn vô tri, những thân xác mục rã không còn lòng thù hận.

Người Lính VNCH dù đặt bước chân trên con đường vong quốc trước hay sau đều trở thành những người lính già xa quê hương, đã ổn định cuộc sống nơi xứ lạ. Người thì buồn bã khép mắt ra đi vĩnh viễn trong nỗi uất nghẹn không nguôi ... Người thì đã về hưu sau những năm dài tạo lập cuộc sống mới nơi quê người, ngày ngày trông về cố quốc với ánh mắt xa xăm, hơi thở mỏi mòn, chiếc bóng đời đang ngã dần về Tây trên đất khách ... Người thì vẫn tiếp tục cày trả nợ áo cơm ...

Người Lính VNCH đã đi trên đoạn đường chiến binh dài bằng một phần ba đời người ... Sau ngày "gãy súng", họ vẫn cố gắng tiếp tục đi nốt quãng đường quân hành còn lại bằng con đường đấu tranh trong thời gian hạn hẹp của chiếc bóng hoàng hôn trên con đường vong quốc. Họ tranh đấu cho ai ... Họ đã có tự do, cơm no áo ấm, con cái lớn khôn thành đạt, cuộc sống ổn định thì chắc chắn một điều là họ không tranh đấu cho bản thân hay gia đình họ ... Trong thời chiến, họ không đem sinh mạng đi chiến đấu vì danh vọng, địa vị, quyền uy, chức tước thì ngày nay họ không đem tuổi già ra tranh đấu vì bất cứ một tham vọng gì ... Họ chỉ muốn đóng góp những chuỗi ngày còn lại vào công cuộc đấu tranh giải thể lũ bạo quyền CSVN, cho quê hương dân tộc không còn ngập chìm trong bể máu cộng sản ... Họ tranh đấu cho những thế hệ mai sau được hít thở không khí tự do, không còn bị nhồi sọ, cai trị bởi chủ nghĩa cộng sản bệnh hoạn, vô thần, khát máu. Hai mươi năm chinh chiến ...Ba mươi sáu năm vong quốc ... bây giờ họ là những người lính già lưu vong ... con đường chiến binh dang dở năm xưa vẫn chưa thấy đoạn cuối nhưng hơi thở của họ ... đã cạn ...

Hai mươi năm chinh chiến ... Người Lính VNCH không bao giờ đòi hỏi Tổ Quốc bất cứ một điều gì. Người Lính chỉ mong đem cuộc đời của mình đổi lấy hai chữ Tự Do cho quê hương dân tộc cho dù phải trả cái giá đắt nhất là mạng sống.

Hai mươi năm miệt mài đi canh giữ quê hương ... Người Lính VNCH không yêu cầu người dân bất cứ một điều gì cho lợi ích cá nhân. Người Lính chỉ mong muốn nhìn thấy người dân được sống những tháng ngày an vui, hạnh phúc, cơm no, áo ấm dưới nắng ấm thanh bình trên quê hương mến yêu mang tên Việt Nam.

Những năm dài bị lũ giặc thù tra tấn dã man, chết đi sống lại bao nhiêu lần trong các trại tù khổ sai, khắc nghiệt sau ngày "gãy súng" ... Người Lính VNCH không quỵ lụy, lòn cúi kẻ thù để được tồn tại. Người Lính VNCH trước sau vẫn thủy chung với con đường "Lý Tưởng" mà mình đã chọn, vẫn giữ được khí khái , "Danh Dự" của Người Lính VNCH khi bị bức tử trở thành kẻ thua cuộc.

37 năm vong quốc ... bao nhiêu năm đem phần đời còn lại miệt mài tranh đấu ... "Người Lính già xa Quê Hương" không có bất cứ một tham vọng chính trị nào ... Người Lính Già chỉ mong sao đất nước thoát khỏi gông cùm, xiềng xích của lũ cộng sản bạo tàn, độc ác để người dân Việt Nam có được nụ cười "Tự Do-Hạnh Phúc" mãi mãi nở trên môi.

Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh.

Hoàng Nhật Thơ

Sunday, June 10, 2012

Ai bắn què chân hùm xám Nguyễn Ngọc Loan? - Chu Việt

Chu Việt
    "Ngẫm hay muôn sự tại Trời" - Nguyễn Du
Cho đến nay các sử gia đều tin rằng tấm hình nổi tiếng một thời của Eddie Adams đã kết liễu cuộc đời binh nghiệp của tướng Nguyễn Ngọc Loan. Không sai, nhưng chỉ đúng một nửa. Chính nhiếp ảnh gia đoạt giải Pulitzer của AP này đã viết trong tuần báo TIME (1): “Ông tướng giết thằng Việt Cộng; tôi giết ông tướng bằng máy chụp hình của tôi”. Đó là tấm hình chụp tướng Loan thản nhiên hành quyết một tù binh cộng sản bị còng tay sau lưng, mặt mếu máo. Một hành vi sát nhân ghê tởm gây chấn động toàn thế giới. Mặc dù sau đó Adams đã thú nhận: “Người ta tin vào hình ảnh, nhưng hình ảnh cũng nói dối, cho dù không có sửa đổi gì. Chúng chỉ là những nửa sự thật”. Dẫu vậy nhưng nó cũng đã đánh dấu khúc ngoặt quan trọng của cuộc chiến: Dư luận phản chiến nở rộ tại Hoa kỳ đã khiến Tổng thống Johnson mất niềm tin vào một chiến thắng quân sự tại miền Nam Việt Nam. Và cuộc thương thảo với Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Việt Nam (MTGPMN) đã diễn ra sau đó dưới triều đại Nixon như giải pháp duy nhất đem lại hòa bình.

Đằng sau tất cả những sự kiện lịch sử ấy là chuyển động âm thầm nhưng có ảnh hưởng quyết định của tình báo chiến lược. Cơ quan CIA (Tình Báo Trung Ương) Hoa kỳ và đối tác VNCH ở cấp cao đã phải đối mặt với những tình huống gây ra mâu thuẫn trầm trọng giữa một bên là MACV (Bộ Tư Lệnh Quân Sự Mỹ), CIA, Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ và bên kia là Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH và Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia khi ấy do Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan nắm giữ. Bối cảnh chung là cuộc tấn công bất ngờ của Việt Cộng – khi ấy vẫn được báo chí Mỹ coi là MTGPMN, tách biệt với Cộng Sản Bắc Việt (CSBV), một huyền tích chỉ được giải ảo sau 1975 – trong dịp hưu chiến Tết Mậu Thân (tháng 1, 1968).

Nguyễn Ngọc Loan: Ông là Ai?

Tướng Nguyễn Ngọc Loan, hỗn danh Sáu Lèo, sinh năm 1930 tại Huế. Chị cả của ông, bà Bích Hồng, là phu nhân Đại tá Bác sĩ Văn Văn Của, nguyên Đô trưởng thành phố Sài Gòn (1965-68) (2). Ông học trường Trung học Albert Sarraut và đậu Tú tài Toán toàn phần rồi bị động viên Khóa 1 Sĩ quan Trừ bị (Nam Định). Thiếu úy Loan theo học Trường Sĩ quan Không quân Pháp Salon de Provence năm 1953 rồi thực tập hoa tiêu khu trục phản lực tại căn cứ Meknes, Maroc, trở thành phi công khu trục phản lực đầu tiên của Không lực VNCH. Về nước, ông được bổ nhiệm Phi đoàn trưởng Phi đoàn 2 Quan sát. Được thuộc cấp nể trọng nhưng ông không được các sĩ quan Cố vấn Hoa kỳ ưa thích vì ông hay đả kích lề lối làm việc máy móc của họ.

Năm 1964, ông Loan thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm “Tư lệnh Phó Không Quân VNCH” dưới quyền Tư lệnh, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ. Năm 1965, vinh thăng Chuẩn tướng, ông tham dự chiến dịch không kích Bắc Việt trong khu vực Đồng hới – Vĩ tuyến 17 (Bến Hải).

Những năm kế tiếp, tướng Loan được đề cử đảm nhiệm 3 chức vụ an ninh, tình báo quan yếu của VNCH:

- Đặc ủy trưởng, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo
- Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và
- Cục trưởng Cục An Ninh Quân Đội.

Lòng tận tụy với trách nhiệm nặng nề và tính “bất cần đời” của tướng Loan, coi cái chết “như pha” tạo cho ông một cá tính gồ ghề, bề ngoài tưởng như ngổ ngáo, hãnh tiến, nhưng thật ra ông là con người đầy cảm tính và “cận nhân tình”, được cấp dưới nể trọng và bạn hữu chí tình thương mến. Thỉnh thoảng gặp ông tại Phủ Thủ Tướng (Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương – UBHPTƯ), ông cười nói xuề xòa, moa moa, toa toa, miệng không ngớt chửi thề: đ.. cụ, đ.. cụ.

Tuy nhiên, Định Mệnh dường như đã an bài cho ông một số phận khắc nghiệt. Chỉ nội trong ngày 31 tháng 1 năm 1968, sự nghiệp của ông được kể như chấm dứt vì một quyết định làm cho người Mỹ coi ông là kẻ phản bội. Mặt khác, có thật là bức hình của Eddie Adams chụp cảnh ông xử bắn tên đặc công Lém ở đường Ấn Quang ngày 4 tháng 2, 1968 mới là nguyên nhân chính? Sự thực không phải như vậy.

Hoa kỳ đi đêm với MTGPMN

Kề từ tháng 2 năm 1967, Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Sài Gòn đã có những tiếp xúc sơ bộ với một số cán bộ cấp thấp thuộc MTGPMN. Sau đó,với sự trợ giúp của Tình báo Hải ngoại Pháp (SDECE, Service de Documentation et de Contre-Espionage), cộng đồng tình báo Mỹ ở Việt Nam đã bắt tay được với những nhân vật trọng yếu của Cục R (Trung Ương Cục miền Nam) và MTGPMN như: Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Dương Quỳnh Hoa, Trần Văn Trà, Đồng Văn Cống, Trần Bửu Kiếm và Trần Bạch Đằng, Cục trưởng Cục R (3).

Sau việc hộ tống êm thắm vợ con Trần Bửu Kiếm và Trần Bạch Đằng ra vùng “giải phóng” an toàn, Sứ quán Hoa kỳ móc nối với Nguyễn Thị Bình (qua trung gian LS Đinh Trịnh Chính, Bộ trưởng Chiêu Hồi, Dân Vận VNCH) toan tính thành lập chính phủ “liên hiệp hòa giải dân tộc” với 2 thành phần: MTGPMN và chính quyền VNCH.

Tất cả những tiếp xúc “đi đêm” nói trên đều không lọt qua con mắt của tướng Loan, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia. Tướng Loan ra lệnh cho S-6 (Cảnh Sát Đặc Biệt) tổng giam một số nhân vật MTGPMN khi ấy đang được Sứ quán Hoa kỳ bảo vệ tại các “nhà an toàn” (safe house) ở ven đô Sài Gòn và Tây Ninh. Sứ quán Hoa kỳ gây áp lực với tướng Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch UBHPTƯ, phải thả lập tức các sứ giả MTGPMN và yêu cầu các cơ quan an ninh VNCH không được phép xâm nhập các nhà an toàn và những khu vực dành riêng cho nhân viên ngoại giao Hoa kỳ trên khắp lãnh thổ VNCH.

Mặt khác, Tổng thống Lyndon B. Johnson được Đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker bảo đảm rằng Sài Gòn là thủ đô an toàn và Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Saigon là khu vực an ninh 100% không bao giờ bị tấn công vì đây sẽ là địa điểm mật đàm đã được thỏa thuận giữa Hoa kỳ và MTGPMN.

Tòa Đại sứ Hoa kỳ rơi vào tay Đặc Công CSVN

Trong trận mở màn Chiến dịch Tổng Tấn Công – Tổng Khởi Nghĩa của CSVN, một biến cố ít ai biết đến, kể cả báo chí Mỹ, là Tòa ĐS Hoa kỳ đường Thống Nhất đã rơi vào tay Đặc công CS ngay những phút đầu. Đó là hậu quả của việc tướng Loan đã cho rút 2 trung đội Cảnh Sát Dã Chiến bảo vệ bên ngoài TĐS Mỹ về tăng cường cho Dinh Độc Lập.

Diễn tiến: Tổ C-10 gồm 18 tên đặc công CS thuộc Tiểu đoàn Đặc công 276 của Đặc Khu Ủy Sài gòn – Chợ Lớn đã xuất phát lúc 1 giờ đêm 31 tháng 1, 1968 từ tiệm Phở Bình đường Yên Đổ, góc Hai Bà Trưng, trên 1 xe van mầu trắng. Hai giờ sáng, xe dừng trước cửa sau Tòa ĐS đường Mạc Đĩnh Chi lúc đó chỉ có một tiểu đội Quân Cảnh Mỹ giữ an ninh phía trong. Bọn đặc công CS chia làm 6 mũi khai hỏa tấn công. Chúng dùng bộc pha, B-40 và AK-47 báng xếp triệt hạ vọng gác của Cảnh sát QG đặt giữa Lãnh sự và tòa nhà chính. Nhưng vọng gác này đã bỏ trống từ chiều hôm trước cùng lúc với hai trung đội Cảnh Sát Dã Chiến, theo lệnh của tướng Loan.

Hai tên đặc công tấn công vào cửa chính Tòa ĐS, tức thì bị QC Mỹ hạ sát. Sau đó QC Mỹ rút vào trong và dùng radio cầu cứu. Hai tên đặc công khác dùng bộc pha phá thủng một lỗ lớn tường rào góc đường Thống Nhất – Mạc Đỉnh Chi, giúp cho toàn bọn C-10 tràn vào vườn hoa rồi tiến chiếm Lầu 1 và Lầu 2 trong khi QC Mỹ rút lên Lầu 3 cố thủ. Lầu 2 Đại Sứ quán Mỹ là Tổng Hành Dinh Tình Báo Chiến Lược của Hoa kỳ ở Đông Nam Á. Toàn bộ tài liệu mật mã “Tuyệt Mật” của CS Bắc Việt mà Mỹ thủ đắc được từ 1961, gồm hồ sơ chính sách, cương lĩnh, nghị quyết tấn công quân sự miền Nam, cùng các tài liệu khác liên quan đến cuộc chiến, đều được lưu trữ trong các tủ và két sắt Diebolt nặng trên 1 tấn (4). Bốn tên đặc công CS cố thủ Lầu 2 ra sức cậy phá, tháo gỡ 6 ổ khóa của 12 két sắt nhưng vô hiệu.

Mười hai giờ khuya (12 giờ trưa Washington, D.C.), tại trụ sở CIA, Giám Đốc Richard Helms đang khoản đãi ông William Colby, tân Giám đốc CORDS (5) Việt Nam. Giữa tiệc, một thiếu tá tùy viên hối hả xin gặp để trình một công điện Hỏa Tốc từ MACV: “Trụ sở CIA và Sứ quán Hoa kỳ Saigon đã lọt vào tay đặc công MTGPMN từ 1 giờ sáng 31 tháng 1, 1968”. Cùng lúc, Tòa Bạch Ốc cũng nhận được công điện hỏa tốc: “Saigon đang bị 5 tiểu đoàn địa phương MTGPMN tấn công ồ ạt. Tòa ĐS ở trung tâm thủ đô thất thủ. Bộ Tư Lệnh MACV và Bộ TTM/QLVNCH tràn ngập khói súng, chống trả yếu ớt vì bị bất ngờ”.

Giám đốc CIA Richard Helms đọc công điện 3 lần vẫn cả quyết với quan khách: “Đây là những ‘điều giả tưởng’ không thể nào có thể xẩy ra được với Hoa kỳ”.

Sáu giờ sáng, một đại đội xung kích thuộc Sư đoàn Không kỵ 101 được trực thăng vận đổ xuống từ nóc Tòa ĐS, đột nhập Lầu 3 rồi Lầu 2, cận chiến với 12 đặc công CS, tiêu diệt toàn bọn và giải tỏa Tòa ĐS — biểu tượng của sức mạnh Hoa kỳ tại Đông Nam Á.

Lãnh đạo VNCH, đệ I và II Cộng Hòa, biết gì?

Đầu tháng 2, 1975, tôi đến Washington D.C. nhận nhiệm vụ Tùy Viên Lục Quân tại Tòa Đại sứ VNCH, ưu tiên tìm hiểu và báo cáo về quân viện Mỹ cho VNCH lúc đó đang lửng lơ. Một chị bạn nhà tôi, tên Dung, Đệ Nhị Tham Vụ, mời tôi đi ăn lunch. Tò mò, tôi hỏi chị: “Tòa Đại Sứ mình vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ra sao?” Chị đáp: “Tôi vẫn bỏ tiền túi mời mấy ông dân biểu đi ăn lunch”. Vậy thôi?

Tôi nghĩ, từ Ngô Đình Diệm cho đến Nguyễn Văn Thiệu, các nhà lãnh đạo VNCH có thể ví như những người đi buôn không vốn, không hiểu rành rọt về tổ chức và vận hành của chính quyền Hoa Kỳ, cho nên không biết đến hiệu quả của “lobby” và không giám hay không biết “chi” cho nỗ lực này vì không vốn (?). Khoảng cuối thập niên 70 bỗng sì căng đan “Koreagate”, bùng nổ. Điệp viên KCIA (Tình Báo Trung Ương Đại Hàn) Tongsun Park đã tung hàng trăm ngàn đô mua chuộc ảnh hưởng của một số nhà lập pháp Hoa kỳ để chống lại nguy cơ Nixon đòi rút quân khỏi Nam Hàn như đã làm ở Nam Việt Nam khiến VNCH rơi vào tay CSBV. Ở đời ai dại, ai khôn? Thành thử, chúng ta luôn luôn cầm dao đằng lưỡi để cho đối phương tuốt dao máu chẩy thành vòi! Lý do: không nắm được những nguyên lý căn bản về Tình Báo Chiến Lược để sử dụng nó hữu hiệu trong chiến tranh.

Có ai ý thức được rằng Hoa kỳ ào ạt đổ quân vào Việt Nam, thật ra, không phải là để bảo vệ nền độc lập và chủ quyền của VNCH?

Có ai ý thức được rằng, với Hoa kỳ, không có quốc gia nào là bạn lâu dài và cũng chẳng có nước nào là kẻ thù vĩnh viễn, mà chỉ có quyền lợi của Hoa kỳ là vĩnh cửu?

Có ai biết rằng: Trong thời gian CSVN làm xiếc đi giây giữa Liên Xô và Trung Cộng, Trung Cộng coi VNCH là bạn và là đối trọng răn đe CS Bắc Việt? Với Trung Cộng, Liên Xô và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt) là hai kẻ thù không đội trời chung? Mặc dầu Mao vẫn chi viện cho Hồ để đoạt hai chiến thắng vang dội: Chiến dịch Biên giới 1950 và Điện Biên Phủ, 1954. Nhưng cũng vì vậy mà Trung Cộng phải dè chừng. Cuộc chiến biên giới 1979 đã chứng minh cho điều này khi Đặng Tiểu Bình muốn “dậy” cho Việt Nam một bài học.

CIA ra lệnh thủ tiêu Nguyễn Ngọc Loan

Tháng 4 , 1968, Cố vấn trưởng Cảnh sát Quốc gia VNCH, J. Accompura (nguyên đại tá Lục quân Hoa kỳ) được mời đến gặp vị tân Trưởng Trạm CIA (Station Chief) tại VNCH, ông George Weisz đến thay thế ông Jorgensen. Không úp mở, ông Weisz cho Accompura hay: “Chính phủ Hoa kỳ quyết định thủ tiêu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát QGVN, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan”.

Mặc dầu làm cố vấn cho tướng Loan chưa được 2 năm, Accompura lại rất thân tình và cảm mến ông. Accompura dấu kín chuyện CIA sẽ thủ tiêu ông, nhưng yêu cầu tướng Loan không được rời khỏi Dinh Độc Lập và không được tham gia bất cứ trận đánh nào có mục đích tiễu trừ các lực lượng MTGPMN tại trung tâm và ven đô Sài Gòn. Tướng Loan hứa xuông với Accompura cho qua chuyện, nhưng ông không ngồi yên.

Ở đâu có tiếng súng AK-47 là ông nhào tới. Chỉ cần một tấm áo giáp, một khẩu M-16, với 12 băng đạn 5.56 ly vòng quanh bụng, đầu không nón sắt, chân dép cao su, không lon không lá, tướng Sáu Lèo lâm trận… không coi mũi tên hòn đạn của kẻ thù có kí lô nào. Một Don Quixote hay Triệu Tử Long? Có lẽ cả hai gom một. Nhiều người coi ông như “người hùng đơn độc”, một phán xét có phần cảm tính. Tôi quan niệm đơn giản: Ông là người chỉ huy biết lãnh đạo. Lãnh đạo bằng cách làm gương, nghĩa là sát cánh cùng quân sĩ, đồng lao cộng khổ, ngay nơi trận tiền. A true leader. Phải nói như thế. Như người Mỹ thường nói.

Đầu tháng 5, 1968, hay tin VC tràn về khu Tân Cảng, tướng Loan điều động 2 đại đội CS Dã Chiến truy kích Tiểu đoàn Thủ-Biên (6) MTGPMN đang đốt nhà dân để “chém vè” vì bị trực thăng võ trang UH-1B của Sư đoàn 25 BB Mỹ tấn kích từ phía bắc cầu Sài Gòn. Hay tin tướng Loan dẫn CSDC ra Tân Cảng, Accompura vội nhẩy xe Jeep Cảnh sát chặn đoàn xe của ông Sáu Lèo ở ngã tư Dakao – Phan Thanh Giản và yêu cầu ông cùng về Tổng Nha tham dự buổi họp Chương Trình Phượng Hoàng do W. Colby chủ tọa. Tướng Sáu Lèo từ chối.

Ai bắn nát chân tướng Loan?


Tin tức loan tải: 11 giờ 45 ngày 7 tháng 5, 1968, một tên VC núp dưới chân cầu Sài Gòn bắn sẻ viên đạn “dum dum” (7) phá vỡ nát bắp chân trái tướng Nguyễn Ngọc Loan.

Các bác sĩ giải phẫu tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, sau khi khám vết thương, nêu thắc mắc và khẳng định:

- Đầu đạn phá nát bắp chân trái tướng Loan không phải là “dum dum”. Nếu phải thì nó phải để lại những mảnh li ti và dấu vết thuốc nổ khi đầu đạn nổ lần thứ 2.
- Súng xung kích AK-47 của CS Bắc Việt sử dụng ở miển Nam không trang bị loại đạn “dum dum”.
- Súng bắn sẻ CKC của Tiệp Khắc cũng không trang bị đầu đạn “dum dum”.
- Đầu đạn AK-47 và CKC không phải là đạn xuyên phá. Loại đạn này chỉ tạo 1 lỗ nhỏ đường kính không quá 1 cm ở mặt trước vết thương, và mặt sau ít khi có lỗ rộng quá 5 cm.

Có lẽ chỉ có cố vấn Accompura biết rõ viên đạn làm tan nát cuộc đời binh nghiệp của tướng Loan là loại đạn gì. Và sát thủ là ai?

2005: Sau rốt, màn bí mật cũng được vén lên, bởi không ai khác là chính Accompura. Sát thủ thi hành bản án tử hình tướng Loan là một hạ sĩ quan TQLC Hoa kỳ có vợ Việt Nam, làm việc cho CIA Sài Gòn. Khẩu súng bắn lén tướng Loan là M-16 gắn viễn vọng kính. Viên đạn M-16 cỡ 5.56 mm thuộc loại Flechette

(8). Chi tiết được biết thêm:

Sát thủ đứng trên sàn trực thăng võ trang UH-1B, qua viễn vọng kính đã lẩy cò khi chiếu môn thập tự [+] nhắm trúng đầu tướng Loan. May thay,“Thiên bất dung gian”, người không thể giết người, chỉ có Trời mới giết được người. Lúc sát thủ lẩy cò cũng vừa là lúc trực thăng gặp “air turbulence” hụt hẫng đưa viên đạn trúng bắp chân trái Sáu Lèo đang gác trên thành cầu thay vì trúng đầu ông. Viên đạn Flechette 5.56mm đã phá nát bấy toàn thể bắp chân trái tướng Loan, cắt đứt gân lòng thòng và động mạch tiếp tế máu cho bàn chân.

Bác sĩ Trưởng Khoa Giải Phẫu Tổng Y Viện Cộng Hòa đề nghị cắt bàn chân bởi vì động mạch đã bị phá nát, nếu không, một thời gian ngắn bàn chân sẽ bị hư thối.

Tướng Loan yêu cầu, bằng mọi cách, giữ lại bàn chân trái cho ông.

Ảnh hưởng tiêu cực của tấm hình hay do lệnh CIA?

Bác sĩ cố vấn trưởng Tổng Y Viện đề nghị đưa tướng Loan đến điều trị tại Bệnh viện Quân Y Mỹ tại Long Bình. Giám đốc Bệnh viện từ chối vì không có khả năng nối động mạch vi ti ở bắp chân.

Tướng Kỳ yêu cầu MACV can thiệp với Hạm Đội 7 có tầu bệnh viện đón nhận tướng Loan để chữa trị. Tầu Bệnh Viện Đệ Thất Hạm Đội từ chối.

Chính phủ VNCH yêu cầu Tòa Đại sứ Hoa kỳ giúp đỡ đưa tướng Loan đến Bệnh viện Jama trên đất Nhật. Tòa Đai sứ Hoa kỳ khước từ.

Không thể trông cậy vào Đồng minh Hoa Kỳ giúp đỡ, tướng Kỳ cuối cùng nhờ đến Tòa Đại sứ Úc chấp thuận cho tướng Loan được điều trị tại Canberra. Chính quyền Canberra khước từ lời yêu cầu của VNCH, viện cớ dư luận dân chúng Úc không đồng tình chứa chấp một kẻ giết tù binh chiến tranh không vũ khí trong tay (9).

Tướng Loan giải ngũ, trở lại đời sống dân sự. Tướng Kỳ mất một người vừa là bạn thân, vừa là quân sư lỗi lạc trong cuộc đời tham chính của mình.

Hoa kỳ không giết chết được Loan nhưng vẫn căm tức “Sáu Lèo” một lúc phá hỏng hai giải pháp chính trị và quân sự của Mỹ tại Việt Nam. Họ quả quyết: “Nếu Loan không rút 2 trung đội Cảnh sát Dã chiến bảo vệ Sứ quán ở đường Thống Nhất thì không tài nào tổ đặc công C-10 của MTGPMN có thể xâm nhập thành lũy tối cao và kiên cố nhất của Mỹ, làm ô danh siêu cường số 1 thế giới”.

Rất có lý, nhưng Hoa kỳ vẫn khờ khạo khi tin rằng “nắm được Nguyễn Thị Bình, Trần Bạch Đằng và Trần Văn Trà là chế ngự được thế thượng phong quân sự của đối phương”. Sự thực phũ phàng là [như ngày nay ai cũng biết] Cuộc Tổng Công Kích – Tổng Nổi Dậy Tết Mậu Thân 1968 của CSVN là thuộc quyền quyết định và được điều khiển bởi Lê Đức Thọ, Bí Thư Trung Ương Cục miền Nam và Võ Văn Kiệt, Bí thư Đặc ủy Khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn.

Lý do tướng Loan rút 2 trung đội CSDC bảo vệ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ trên đường Thống Nhất rất đơn giản và ngay thẳng. Đã là nơi sẽ diễn ra thương thảo giữa MTGPMN và Hoa Kỳ, thì VNCH cần gì phải canh gác? Đó là trách nhiệm của Mỹ.

Dự tính bắt cóc 6,000 người Mỹ làm con tin

Trong cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”, TS Nguyễn Tiến Hưng có đề cập đến một tình huống mà ông gọi là “cực kỳ ê chề” (10) khi Tòa Đại sứ Mỹ phải đối diện, nếu và khi QLVNCH hay Cảnh sát “nổi khùng” mà cưỡng chế cuộc di tản 6 ngàn người Mỹ và một số người Việt thân quen hay làm việc cho Mỹ khi thấy những người này cứ kìn kìn ra đi, bỏ mặc họ cho số phận. Nên nhớ là khi ấy, trong nội vi Sài Gòn, lực lượng Cảnh Sát Dã Chiến hầu như nguyên vẹn cũng như một số đơn vị Nhẩy Dù và TQLC. Nếu có ai xúi dục và thuyết phục được họ đó là biện pháp duy nhất có thể làm để Mỹ phải đem quân tham chiến trở lại thì họ có khả năng quay súng bắn lại người Mỹ. Do đó, Hoa kỳ cũng có kế hoạch phòng hờ (11) đối phó với tình huống này, và Đại sứ Graham Martin cứ phải hành xử “bình chân như vại” cho tới phút chót mới chịu ra đi sáng ngày 30 tháng 4.

Điều này lý giải tại sao Mỹ phải cho ưu tiên di tản những phi công khu trục sang Utapao, Thái Lan, bởi vì QLVNCH chỉ cần vài chiếc F-5 là có thể bắn hạ những trực thăng di tản rơi rụng như sung. Trong tình huống này, TS Hưng lập luận, VNCH sẽ tức khắc trở thành thù địch, và sẽ không thể có Eden Center, Little Saigon hay Cabramatta vì không có người Việt nào được di tản thì làm gì có cộng đồng Người Việt Hải Ngoại như ngày nay?

Ý tưởng “bắt con tin” này có thể đã nhen nhúm trong đầu óc tướng Loan và có thể ông đã bàn bạc với bạn bè hay người thân. Từ ý tưởng sang ý định và đem ra thực hiện thì một người có uy tín và thành tích như ông có thể dễ dàng thuyết phục bạn bè tướng lãnh và thuộc cấp trong Không Quân và Cảnh Sát Quốc Gia. Nhưng ông đã không làm mặc dù Mỹ đã thù hận ông vì làm như thế sẽ có hại cho cả hai bên Việt, Mỹ và CSVN sẽ là kẻ thủ lợi. Ý tưởng này đã được một chuẩn úy KQVN kể lại cho Tòa Đại sứ Mỹ.

Từ cuối 1972, tướng Loan đã được một người bạn chính trị gia làm việc ở Tòa Bạch Ốc gửi thư riêng thông báo đầy đủ về kế hoạch rút quân của Hoa kỳ theo đúng những điều khoản của Hiệp Định Paris ký kết giữa Lê Đức Thọ và H. Kissinger ngày 27 tháng 1, 1973. Cuối thư, người bạn khuyên ông liên lạc với TVQL Anh tại Sài Gòn để thu xếp việc di tản cho chính bản thân ông và gia đình một khi Sài Gòn lọt vào tay các toán tiền tiêu của 6 sư đoàn CSBV. Ông biết là Hoa Kỳ sẽ chẳng bao giờ đem quân trở lại tham chiến tại miền Nam. Trừ phi…

Rốt cuộc, trưa ngày 29 tháng 4, 75, tướng Loan và gia đình đã phải chật vật lắm mới leo lên được một vận tải cơ C-130 và tới Utapao lúc 16:00 giờ chiều.

“Trời kia đã bắt làm người có thân” – Nguyễn Du

Để kết thúc câu chuyện, tôi xin nhường lời cho Eddie Adams

“Ông Loan chạy thoát Việt Nam trong thời gian Sài Gòn xụp đổ và đến Mỹ. Sau cùng ông định cư ở vùng Burke, tiểu bang Virginia. Ông gắng mở một tiệm ăn ở miền Bắc Virginia nhưng khi có người biết ông là chủ thì tiệm ăn đóng cửa. Có những người phản đối đi vòng quanh khu đó hò hét để xả hơi nỗi bất bình của họ một cách thời thượng, an toàn.

“Ông ta rất đau yếu vì bị ung thư một thời gian. Và tôi nói chuyện với ông trên điện thoại tôi muốn làm một cái gì đó. Tôi giải thích mọi điều và kể lại chuyện tấm hình đã hủy hoại đời ông như thế nào thì ông ta chỉ muốn quên chuyện đó. Ông nói thôi bỏ đi. Còn tôi thì không muốn ông bỏ đi như vậy.”

“Thiếu tướng Loan từ giã cõi đời cách đây một năm và một tháng (12). Ông để lại vợ và năm đứa con. Phần lớn những bản tóm lược tiểu sử người quá cố cũng giống như tấm ảnh đã hủy hoại đời ông, chỉ có một chiều và cố chấp”.

Adams gửi hoa phúng điếu với một tấm thiệp trên viết dòng chữ, “Cho tôi xin lỗi. Lệ đang ứa trong mắt tôi.”

Chu Việt

Tháng 5, 2012

Nguồn: Tài liệu Ngành Tình Báo Điện Tử (SIGINT, Signal Intelligence) QLVNCH Tuần báo TIME ngày 27 July, 1968

(1) Tuần báo TIME ra ngày July 27, 1968.

(2) Đại tá Của bị trọng thương do trực thăng Mỹ bắn lầm quân bạn tại đường Khổng Tử, Chợ Lớn trong cuộc Tổng Công Kích đợt II, tháng 5, 1968. Cũng bị sát hại nơi đây là Trung tá Phó Quốc Trụ, Quận trưởng 5 Cảnh sát và Thiếu tá Nguyễn Bảo Sĩ (em trai Trung tướng Nguyễn Bảo Trị) là bạn người viết bài này.

(3) Trong thời gian này, Trần Văn Trà là Tư lệnh CT-5 (CT = Công Trường hay Sư đoàn), Nguyễn Văn Sỹ, Tư lệnh CT-7, và Đồng Văn Cống, Tư lệnh CT-9. Trần Bửu Kiếm là Ủy viên Ngoại Giao của Trung Ương Cục Miền Nam (Cục R). Nguyễn Thị Bình là Bộ trưởng Ngoại Giao, Dương Quỳnh Hoa, Bộ trưởng Y tế và Nguyễn Hưũ Thọ, Chủ tịch Chính phủ Lâm thời MTGPMN.

(4) Loại két sắt này chịu được nhiệt hỏa hoạn cao hàng ngàn độ C, phía trong được trang bị chất phóng xạ radium chống chụp hình lén.

(5) CORDS (Civil Operations and Revolutionary Development Support) là nỗ lực bình định nông thôn miền Nam của Hoa Kỳ qua chương trình “Phượng Hoàng”.

(6) Thủ Dầu Một – Biên Hòa

(7) Đầu đạn “dum dum” có sức công phá mạnh vì dãn nở hay nổ lần thứ hai khi xuyên vào mục tiêu. Do đó, công ước The Hague đã cấm chỉ sử dụng.

(8) Đạn Flechette BF3, tốc độ cực nhanh có thể xuyên qua thiết giáp.

(9) Đại úy đặc công Nguyễn văn Lém bị Cảnh Sát Dã Chiến bắt tại trại gia binh Thiết Giáp Phù Đổng Thiên Vương, Gò Vấp, sau khi hắn đã tàn sát dã man tòan thể gia đình Trung tá Tuấn, gồm cha mẹ và vợ con ông (trong đó có đứa 6 tuổi). Tuấn là bạn đồng khóa, rất thân với tướng Loan. Khi bị bắt, trong mình Lém vẫn còn dấu khẩu súng lục K-54 bị áo che khuất. Lém không được coi là tù binh chiến tranh theo Công Ước Geneva.

(10) Xem Chương 15: “Vào để giúp… Ra lại Bắn Nhau?”.

(11) Kế hoạch phòng hờ này được TS Hưng lược trình trong Chương 15, Sách đã dẫn. Đại sứ Martin gọi nó là “crazy” (điên rồ) và cực lực phản đối. Đại khái, nó bao gồm 3 phương sách thay thế nhau để di tản 6,000 người Mỹ và một số người Việt nhất định:

- Mỹ trải 2,000 TQLC dọc theo QL-15 (Sài Gòn – Vũng Tầu) giữ an ninh di tản.
- Mỹ thiết lập cầu không vận bằng C-130 và C-141 giữa Tân Sơn Nhất và Utapao.
- Mỹ thiết lập cầu không vận trực thăng giữa Sài Gòn và các quân vận hạm ngoài khơi Vũng Tầu.

(12) Ông mất ngày 14 tháng 7, 1998 ở tuổi 68.

Tuổi trẻ hãy dấn thân - Nhã Nam

Nhã Nam

Tre già măng mọc tựa như tuổi trẻ tiếp nối bước đường của cha, anh đó là lẽ tự nhiên của đời thường không gì phải ngạc nhiên. Thế nhưng, muốn cho thế hệ trẻ, chưa có ý niệm gì nhiều về cộng sản và cũng chưa từng nếm mùi cay đắng của chúng, kế thừa để nối tiếp đắc lực con đường cách mạng giải thể chế độ đảng trị Hà Nội mà thế hệ cha, anh đang còn dang dở thì thế hệ này, phải trang bị cho giới trẻ một hành trang, mà hành trang đó không gì khác hơn là nắm và biết được bản chất của cộng sản Việt Nam, để từ đó trên bước đường cách mạng sẽ không bị chao đảo hay rơi vào mê hồn trận trước những luận điệu tuyên truyền tinh vi và xảo quyệt của chúng.

Tội chia đôi đất nước:

Sau khi Nhật đảo chánh ngày 9 tháng 3 năm 1945, Vua Bảo Đại tuyên bố Việt Nam độc lập nằm trong khối Đại Đông Á của Nhật, như vậy trên mặt pháp lý Pháp không còn chủ quyền ở Việt Nam. Thế nhưng khi Nhật đầu hàng vô điều kiện 15 tháng 8 năm 1945, vì sợ Quân đội Tàu được phân công giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra, sẽ hỗ trợ các đảng phái Quốc Gia, điều này đã làm cho HCM rất nỗi lo âu.

Để giải quyết đảng cộng sản Việt Nam qua HCM, chỉ vì quyền lợi của quốc tế cộng sản, mà không nghĩ gì đến quyền lợi của quốc gia, dân tộc đã manh tâm thỏa hiệp với giặc Pháp hầu rảnh tay đàn áp và tiêu diệt các đảng phái quốc gia, qua tạm ước tại Hà Nội 6 tháng 3 năm 46 và sau đó Hiệp Định Fontainbleau 14 tháng 9 năm 46 trong đó có điều khoản bán nước, chấp nhận quân đội Pháp thay thế quân đội Tàu giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra. Bản văn này đã chính thức tạo pháp lý cho quân đội Pháp trở lại Việt Nam qua cuộc đổ bộ quân tại cảng Hải Phòng 19 tháng 5 năm 46, và từ đó, tạo cho Pháp điều kiện thuận lợi để tái chiếm Việt Nam. Biến cố này đã đưa đến cuộc chiến Việt-Pháp kéo dài trong 9 năm và chấm dứt bằng Hiệp Định Genève chia đôi đất nước năm 1954.

Khích động lòng Yêu nước bằng những lời tuyên truyền tinh vi, xảo quyệt:

HCM nói: "đất nước ta ra ngõ gặp anh hùng!". Tại sao không ra ngõ gặp anh tài hay anh hiền mà lại gặp anh hùng? Có như vậy thì sau này khi xâm lược miền Nam mới có cảnh, Sanh Bắc Tử Nam.

Tạo ra gương anh hùng tưởng tượng của một Lê văn Tám, đã làm cây đuốc phá kho xăng Nhà Bè để tuyên truyền và từ đó đã tàn nhẫn đẩy thanh, thiếu niên vào chỗ chết một cách mù quáng qua xiềng chân vào súng đại liên, lấy thân làm bàn đế cho súng cối để bắn, hay lấy thân lấp lỗ châu mai……

Hòa hợp, hòa giải dân tộc:

Đem chiêu bài "thống nhất đất nước" kêu gọi người Việt hải ngoại "hãy xóa bỏ hận thù để hòa hợp, hòa giải dân tộc hầu góp phần xây dựng đất nước". Làm sao có thể hòa hợp, hòa giải với tập đoàn Hà Nội khi chính họ chẳng những đã không chịu lắng nghe những ý kiến đóng góp để xây dựng đất nước của những nhà bất đồng chính kiến ở trong nước mà còn áp bức, đàn áp và kết án tù tội, thì làm gì có thể nói chuyện hòa hợp, hòa giải với người Việt Quốc Gia ở hải ngoại. Do đó, đây chỉ là đòn phép tuyên truyền của chúng mà thôi.

Thôi thì hãy lấy hai trường hợp người Việt hải ngoại về nước hợp tác trong lãnh vực kinh tế, làm điển hình để biết được thực chất về những lời kêu gọi trên của cộng sản Hà Nội:

- Nguyễn Gia Thiều ở Pháp, về kinh doanh điện thoại, sau một thời gian công ty phát triển mạnh mẽ, điều này bất lợi cho chính sách kinh tế của chúng, nên đã triệt hạ bằng tội buôn lậu, trốn thuế, bị phạt 130 tỷ đồng và bị tù 20 năm.

- Trịnh Vĩnh Bình ở Hòa Lan, mang 4 triệu đô la về mở quán ăn và đầu tư đất đai đã bị công an gài bẩy và phải nhờ đến chính phủ Hòa Lan can thiệp mới có thể bỏ của chạy lấy người.

Không thể tha thứ:

Đối với người Việt Quốc Gia, không có vấn đề hận thù để mà xóa. Vấn đề ở đây là, không thể tha thứ những gì đảng cộng sản Việt Nam đã và đang làm:

Làm sao có thể tha thứ được:

- Khi cộng sản Hà Nội theo lệnh của Nga Tàu để bành trướng chủ nghĩa cộng sản ở Động Nam Á, đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam qua việc dựng lên "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam" năm 1960, dưới chiêu bài "chống Mỹ cứu nước" (sic) nhưng thời điểm ấy (1960) ở miền Nam có quân Mỹ đâu để mà chống ! Và cuộc chiến xâm lược này đã cướp đi sinh mạng môt cách oan uổng của gần 3 triệu thanh, thiếu niên của cả hai miền Nam, Bắc để đánh ”Mỹ " vào ngày 30 tháng 4 năm 75. Thế nhưng chẳng bao lâu sau đó lại khẩn khoản và ân cần mời mọc và trải thảm đỏ để rước Mỹ vào trở lại!

- Đem một chủ nghĩa duy vật ngoại lai, mất nhân tính vào miền Bắc trước đây và miền Nam sau năm 75, với chủ trương đấu tranh tư tưởng, đấu tranh giai cấp, đã làm đảo lộn mọi luân thường, đạo lý của dân tộc, qua việc tạo ra sự nghi kỵ lẫn nhau để đưa đến tình trạng con tố cha, vợ tố chồng…, qua việc giết hại một cách tàn nhẫn không gớm tay đồng bào vô tội trong cải cách ruộng đất, qua Tết Mậu Thân, 1968, tại Huế v.v…. Chính vì bản chất phi nhân và tàn bạo đó của chủ nghĩa cộng sản, nên ngày 25 tháng 1 năm 2006 quốc hội Âu Châu ra quyết nghị 1481, đã lên án cộng sản trên thế giới là phi nhân, là thảm họa dân tộc, là tội ác chống nhân loại.'

- Để ru ngủ giới trẻ, cộng sản Hà Nội đã theo chính sách của toàn quyền Decoux Pháp trước đây, thay vì phong trào thể thao, chúng cho phát động phong trào hưởng thụ qua các quán cà phê ca nhạc, qua các quán karaoke, qua các tụ điểm ca nhạc…. Phong trào này không những tạo cho giới trẻ chẳng quan tâm gì đến chế độ độc tài, đảng trị của chúng mà còn đẩy họ vào cuộc sống sa đọa và trụy lạc, trai thì ăn chơi trác tráng, nghiện ngập sì ke, ma túy, gái thì trở thành gái đứng đường, gái gọi cho người mua vui. Cảnh tượng này đã và đang diễn ra nhan nhản khắp mọi nơi trong nước. Thảm trạng này đã đuợc thể hiện qua hai câu ca dao được truyền miệng trong dân gian:
    “Chiều chiều ra bến Ninh Kiều,
    Dưới chân tượng bác đĩ nhiều hơn dân.”

- Nhằm cứu vãn cuộc khủng hoảng kinh tế trong thập niên 90, tập đoàn cộng sản Hà Nôi đã thay đổi chính sách kinh tế từ, kinh tế xã hội chủ nghĩa sang “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Chính sách kinh tế quái đản này, chỉ cứu vản chế độ chứ không vì lợi ích của quốc gia, dân tộc. Thực vậy, chỉ sau một thời gian không lâu, các "cán bộ" cộng sản đã trở thành các tư bản đỏ giàu xụ trong khi ấy cuộc sống của người dân ngày càng lầm than hơn.

Để hình dung được sự khốn khổ của người dân trong nước như thế nào, hãy đọc những bài viết và hình ảnh được đăng tải trên các nhật báo của cộng sản trong nước sẽ thấy cảnh các ông già, bà lão đã 70, 80 tuổi phải lam lũ làm đủ thứ việc để kiếm tiền độ nhật, các em nhỏ trong độ tuổi đi học đã thất học hay phải rời bỏ ghế nhà trường lao vào xã hội để đi lượm ve chai, bọc ny lông, bán vé số hay lớn hơn, trở thành các cô gái của: bia ôm, cà phê ôm, karaoke ôm… để kiếm tiền giúp cha mẹ trong cuộc sống hàng ngày.

Điều đau lòng và nhục quốc thể là, qua sự tiếp tay của ngụy quyền Hà Nội với bọn chuyên buôn gái, trong nước: xem các cô gái tựa như những món hàng được bày ra để đem bán như phải khỏa thân trình diễn trước những cặp mắt cú vọ của những đàn ông nước ngoài lớn tuổi lỡ thời, tật nguyền, bệnh tật hay ế vợ để họ rửa mắt rồi sau đó chọn lựa để về làm vợ. Ngoài nước thì những hình ảnh của các cô gái Việt đựợc rao hàng như những món đồ chơi với những dòng chữ, sẽ chấp nhận về làm vợ với gía rẻ mạt được đăng tải trên Ebay hay trên các báo của các nước Tân Gia Ba, Mã Lai, Đại Hàn, Nam Dương, Đài Loan, Trung Cộng…..

- Trước hành động ngang ngược của Trung Cộng, đánh phá, giết chóc và bắt giữ tàu bè của ngư nhân Việt Nam đang đánh cá trên vùng biển của mình để đòi tiền chuộc mạng thì chính quyền Hà Nội đã không có một phản ứng quyết liệt nào và biện pháp gì để bảo vệ ngư dân! Thái độ khiếp nhược này đã làm ngạc nhiên không ít cho người Việt trong nước cũng như hải ngoại, tại sao? Câu trả lời là, không gì phải ngạc nhiên khi nhìn lại chủ trương của chúng thà mất nước hơn mất đảng, điều này đã được thể hiện một cách cụ thể trước đây qua các hiệp ước năm 1999 và năm 2000 đã để mất ải Nam Quan, 2/3 thác Bản Giốc, đồi Kỳ Lừa, phố Đồng Đăng, bãi Tục Lãm và mất 11.000km2 vùng lãnh hải. Không những thế, chúng còn muốn biến Việt Nam thành quận, huyện của lũ Tàu Cộng qua việc đàn áp, bất giữ và bỏ tù những người yêu nước biểu tình chống lại việc Trung Cộng trắng trợn cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, điển hình nhất là mới đây đã bắt mà không cho biết nơi giam giữ nhạc và ca sĩ trẻ Việt Khang vì đã thể hiện lòng yêu nước của mình qua hai bản nhạc: Anh Là Ai? và Việt Nam Tôi Đâu?

Thái độ khiếp nhược và bán nước này không những không thể tha thứ mà còn là trọng tội với Tiền Nhân, với Quốc Gia và Dân Tộc.

Nếu thế hệ trẻ lãnh hội được bản chất độc tài, bán nước của cộng sản Hà Nội do thế hệ thế hệ cha, anh truyền đạt lại, thì họ sẽ sẳn sàng là lực lượng kế thừa để tiếp nối con đường cách mạng, con đường này thế hệ cha, anh đã đi trong 35 năm, nhưng đường đi vẫn chưa đến.

Hy vọng và chắc chắn rằng, thế hệ trẻ dấn thân không một định kiến, với lòng yêu nước cao độ, với sự nhiệt tình và lòng yêu nước của tuổi trẻ thì con đường giải thể chế độ mãi quốc, cầu vinh của cộng sản Hà Nội sẽ đến một ngày không xa !

Nhã Nam


Lời phát biểu của Trung Tá Lục Quân Hoa Kỳ Julian Trần



Background: US Army Lt. Colonel Julian Tran

Title: Branch Chief, Southeast Asia, G5 Security Cooperatin and Policy, USARPAC at U.S Army Pacific
Demographic info: Hawaiian Islands | US Military
Current: Branch Chief, Southeast Asia, G5 Security Cooperatin and Policy, USARPAC at U.S Army Pacific Past:PACOM, Afghanistan, JIOC, HQDA, Singapore, Kuwait, Europe and more at U.S. Army, Asst. Production Manager at Camsco, Campbell Soup Co, Evensville…
Education: BS, Austin Peay University, TN; MBA, Embry Riddle, FL; MA, MIIS, Monterey, California.


___________________________


Kính thưa quý Cựu Chiến Binh chiến tranh Việt Nam; các quân nhân Hải, Lục, Không quân, Thủy Quân Lục Chiến, Biên Phòng và quý quan khách.

Kính thưa quý vị,
Đây là một vinh dự lớn cho tôi ngày hôm nay được ở đây để bày tỏ những lời biết ơn chân thành đến những anh hùng đã chiến đấu cho nền tự do của miền Nam Việt Nam.

Trước hết, tôi xin cám ơn ban tổ chức, nhất là Cô Nina và cựu Đại Tá Castagnetti đã cho tôi cơ hội được đứng nói chuyện với quý vị trong buổi chiều hôm nay.

Kính thưa quý vị,
Là một người lính, tôi tin là “khi đã là lính, thì suốt đời ta sẽ là lính”; thế nên theo sự suy nghĩ của tôi, quý vị không phải là những cựu chiến binh, mà quý vị luôn là người lính cho đến ngày các quý vị nhắm mắt xuôi tay. Vì thế, nếu cho tôi một cơ hội, tôi sẽ không ngần ngại được sát cánh với quý vị xông pha vào mặt trận bất cứ ngày nào, giờ nào, và bất cứ nơi đâu. Cũng như quý vị, tôi cũng đã từng xông pha ngòai mặt trận trên những vùng đất lạ xa xôi để bảo vệ cho cuộc sống và nền tự do mà chúng ta, những công dân Hoa Kỳ, được an hưởng từng ngày từng phút.

Sự khác biệt giữa thế hệ của chúng tôi và thế hệ của quý vị là ít nhất, chúng tôi cũng nhận được một ít lòng biết ơn của đồng bào khi chúng tôi trở về từ mặt trận; những quân nhân của thế hệ chúng tôi là những người gặp nhiều may mắn. Nhưng còn quý vị, những quân nhân chiến đấu trong cuộc chiến ở Việt Nam – và rất nhiều những quân nhân đó đang có mặt nơi đây – những người lính đó khi trở về từ mặt trận đã phải đối mặt với sự ruồng bỏ và thù hằn của xã hội, một cái xã hội đã vội quên đi giá trị của hai chử tự do và nghĩa vụ của một công dân Hoa Kỳ. Tuy vậy, cho dù quý vị đã không nhận được lòng biết ơn của công chúng cũng như phải đối đầu với những lời tuyên truyền một chiều của giới truyền thông, quý vị đã kiên cường chiến đấu và chưa từng chiến bại trên bất cứ một trận đánh nào trong gian đọan đó, từ thung lũng Ia Drang, Khe Sanh, ngọn đồi Hamburger, Tết và còn nhiều hơn nữa. Tôi và quý vị, chúng ta là những người lính, mà là lính, chúng ta thi hành nhiệm vụ theo quân lệnh, tận lực 110% trong bất cứ hòan cảnh khó khăn nào - và có những người lính đã cho hết tất cả - những người lính đó chính là những người hiện đang nằm sâu trong lòng đất thánh nầy.

Về phần tôi, đất nước Hoa Kỳ đã cho tôi một cơ hội, không những ban cho tôi một cuộc sống tự do, mà còn cho tôi cơ hội để phục vụ trong một quân đội hùng mạnh nhất trên quả địa cầu nầy, để bảo vệ cho nền tự do và cuộc sống của người dân Hoa Kỳ. Và tôi cho rằng đây là một vinh dự to lớn nhất trong cuộc đời tôi. Vâng, đất nước Hoa Kỳ tuy không phải là một quốc gia toàn thiện toàn mỹ, nhưng tôi có thể chứng minh rằng sau hơn 35 quốc gia mà tôi đã từng đi qua, Hoa Kỳ vẫn luôn là một quốc gia tốt đẹp nhất trên trái đất nầy. Đối với những kẻ luôn than phiền về đất nước nầy; bôi nhọ quê hương nầy; nếu họ có thể tìm được một vùng đất nào trên thế giới toàn thiện hơn quê hương nầy, xin họ cho tôi biết, tôi sẽ mua cho họ một vé máy bay một-chiều, điểm đến họ tự chọn, và tôi muốn họ đừng bao giờ trở lại đất nước nầy nữa. Vì tôi rất tự hào là một công dân Hoa Kỳ và tôi không bao giờ muốn sống chung với những người đó.

Tuy tôi còn nhỏ trong thời gian chiến tranh đang xảy ra tại Việt Nam, nhưng tôi cũng có thể cảm nhận được và yêu quý sự tự do mà chúng tôi có ở miền Nam Việt Nam. Người anh ruột và 2 cậu của tôi là sĩ quan trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH), cũng chiến đấu và hy sinh để bảo vệ cho nền tự do của quê hương mình. Nền tự do mà người dân miền Nam an hưởng trước 1975 sẽ không bao giờ có được nếu không có những sự hy sinh cao cả của những chiến sĩ QLVNCH cùng sát cánh với những người lính của các quân binh chủng Hoa Kỳ, những người lính Mỹ đó giờ chúng ta gọi là cựu quân nhân Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam.

Kèm theo đây, tôi cũng muốn gởi lời cảm ơn thành kính nhất đến gia đình và thân nhân của hơn 58,000 vị anh hùng ngã xuống và tên họ đã khắc sâu trên Bức Tường Chiến Tranh Việt Nam tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn. Nếu không có những vị anh hùng nầy, chúng tôi, người dân của miền Nam Việt Nam, sẽ không có thể có được một cơ hội để an hưởng nền thịnh vượng và thấm hiểu được giá trị của hai chữ “Tự Do”. Tuy thời gian “Tự Do” đó có ngắn ngủi, nhưng chúng tôi đã học hỏi được cái giá trị của hai chữ “Tự Do”. Và vì thế, xin quý vị nhận nơi đây lời cảm ơn chân thành nhất từ con tim của tôi cho những ngày tháng Tự Do đó mà quý vị đã cho chúng tôi .

Sau chiến tranh Việt Nam, hàng trăm ngàn người dân Việt Nam đã vượt biên để tìm tự do; đã có không biết bao nhiêu những người vượt biên đã bỏ mình trên biển sâu hoặc là trong rừng sâu núi thẳm ở Lào và Cambodia trên bước đường đi tìm tự do. Những người vượt biên đó được mọi người gọi là “Thuyền Nhân,” hoặc là như tôi, những người vượt biên “Đường Bộ” vì tôi vượt biên qua ngã Cambodia. Những người tỵ nạn đó đã chọn “thà chết để được sống tự do;” họ chọn kiếp sống tự do vì quý vị họ đã cho họ nếm được cái ý nghĩa và giá trị của hai chữ Tự Do.

Thống Tướng Douglas MacArthur có nói rằng “người lính già không bao giờ chết, họ chỉ tan biến theo thời gian.” Nhưng tôi muốn cho quý vị biết rằng ”quý vị có thể chết vì tuổi già, nhưng sẽ không bao giờ tan biến theo thời gian” bởi vì quý vị sẽ sống mãi trong con tim và khối óc của hàng triệu người Việt và cộng đồng Việt Nam trên tòan thế giới. Mỗi khi tôi gặp một cựu chiến binh Việt Nam, tôi luôn gởi đến họ hai tiếng cảm ơn, và tôi mong muốn tất cả mọi người điều làm giống như tôi vì những người cựu chiến binh đó đã hy sinh quá nhiều cho miền Nam Việt Nam và cho đất nước Hoa Kỳ.

Tôi cũng mong muốn tất cả công dân Hoa Kỳ bày tỏ lòng cảm ơn của mình cho tất cả những cựu quân nhân cũng như những người lính đang phục vụ trong quân đội hôm nay; nếu không có họ, đất nước Hoa Kỳ sẽ không bao giờ có được như ngày hôm nay; quê hương nầy sẽ không có được sự tự do mà mình đang có; và Hoa Kỳ đã không trở thành một quốc gia vĩ đại trên trái đất nầy. Xin nhận nơi đây lời chào kính trọng của tôi đến tất cả những cựu quân nhân và những người lính có mặt ở đây ngày hôm nay. Xin ơn trên phù hộ cho quê hương nầy cũng như phù hộ cho tất cả quý vị.



*********************************
Remarks at the Memorial Day Commemoration


National Cemetery of the Pacific (Punchbowl), Honolulu, Hawaii
May 27, 2012
By Lieutenant Colonel Julian Tran, U.S. Army

Good Afternoon.
Distinguish guests; veterans of the Vietnam War; Soldiers; Sailors, Marines; Airmen; Coast Guard; and my fellow Americans.

Ladies and Gentlemen:
It is a great honor for me to be here today to express my deepest gratitude to the warriors who had fought for the freedom of South Vietnam.

First of all, I would like to thank the organizer of this event, particularly, Mrs. Nina and Retired Colonel Castagnetti who give me the opportunity to stand in front of you this afternoon.

Ladies and Gentlemen,
As a soldier, I strongly believe that “once a Soldier, you will always be a Soldier”; therefore, to me, you are not a veteran, but you are, and always will be, a Soldier until the day you die. And I, if given the opportunity, would not hesitate to go to battle with you, side-by-side, anyday, anywhere, and anytime. Like you, I’ve deployed and fought in the faraway lands to preserve our way of life and the freedom that we, Americans, all enjoy every day.

The different between your generation and my generation is that, at least my generation, to a certain extent, has received some appreciations from the people that we met once we returned home from war. I am the lucky one; many of today’s servicemen and women are the lucky ones. But for the Soldiers who fought during the Vietnam War – And many of you are here today – they returning home to face the hostility and rejection from a society that has forgotten the value of freedom and what it meant to be an American. Despite under appreciated and bias media propaganda, you had fought well and had never lost a single battle when you were there, from the La Rang Valley, Khe Sanh, Hamburger Hill, and Tet, just to name a few.

You and I, we are Soldiers, and as Soldier we followed orders and executed our missions regardless of the circumstances. We gave 110% – and many gave it all – and are lying here today in this holy ground.
As for me, America has given me the opportunity, not only to live free again, but also to serve the greatest Armed Forces on this planet earth, and to defend our freedom and way of life. And I consider this is the greatest honor of my lifetime. Yes, America is not a perfect country, but I can attest to you that, after having been to more than 35 countries, this country is still the best country on this planet. Those who complain about America; say bad things about America; if you can find a better place on earth to live, please let me know, I will buy you a one-way ticket, destination of your choice, and don’t you ever come back. Because I am so proud to be an American and I sure don’t want to live with you.

Though I was a little boy during the Vietnam War, but I had a great sense of appreciation of the Freedom that we enjoyed in South Vietnam. My brother and two uncles who were officers in the South Vietnamese Army – or ARVN, fought and died to preserve our freedom as well. The Freedom that South Vietnamese people enjoyed until 1975 couldn’t have taken place without the sacrifice of hundreds of thousands of ARVN soldiers who fought alongside the American Soldiers, Sailors, Marines, Airmen and Coast Guards which who they are now called Vietnam War Veterans.

Additionally, my sincere appreciation also goes to families of more than 58,000 names of those warriors are now on the VIETNAM WALL in Washington D.C. WITHOUT YOU, the Vietnam Veterans, WE, the people of South Vietnam couldn’t have enjoyed a period of prosperity and appreciated the value of FREEDOM. Though the period of “Freedom” was short live, we had learned and realized what it meant to be free. And for that, I want to say THANK YOU from the bottom of my heart for giving us those days of freedom.

After the Vietnam War, hundreds of thousands of Vietnamese people escaped from Vietnam; untold number of them died at seas or in the jungles of Laos and Cambodia on their journey of seeking freedom. Those people, as you have known them as “boat people” or, as for me, the “land people” because I escaped from Vietnam thru Cambodia. Those refugees had chosen to “live free or die” because you have given them the TASTE of FREEDOM.

General Douglas MacArthur said “old Soldiers never die; they just fade away.” For the Veterans of the VIETNAM WAR, I want to say that “you may die of old age, but you will never fade away” because in the heart and mind of millions of Vietnamese people and communities around the world, you will live on forever. Whenever I see a Vietnam War Veteran, I always say Thank you to him, and I would ask everyone to do the same because he had given so much and had done so much for South Vietnam and for America.
I also would ask every American to say a word of THANK YOU to every Soldier past and present; because without them, America will not be where we are today; American will not have the freedom that we have today; and America will not be the greatest country on this planet earth. To all the veterans and Soldiers here today, I salute you.

GOD BLESS AMERICA AND GOD BLESS YOU ALL.