Thursday, February 11, 2010

Dân Việt dưới sự lãnh đạo của tà quyền csVN của đỉnh cao loài khỉ

    Thân cò 76 tuổi mò cua băắắt ốốc trong bùn dơ biển lạnh ở Nha Trang

Đêm mùa đông rét như cắt da cắt thịt, cụ Phạm Đoàn, 76 tuổi, thôn Quảng Hội, xã Vạn Thắng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, cơ thể chỉ như da bọc xương, thức dậy từ 1 giờ khuya, lọ mọ xuống ngâm mình dưới biển mò cua bắt ốc kiếm gạo ăn qua ngày.

“Con nước vừa rồi không kiếm đủ gạo, phải mượn hàng xóm 20.000 đồng đắp đổi thêm. Bây giờ phải ráng mò cua ốc kiếm tiền trả nợ, mua gạo, nếu dư dành mua hộp bánh cúng ông bà mấy ngày tết” – cụ Đoàn nói

“Nước biển cạn lúc nào là dậy đi lúc đó. Mùa đông nước thường cạn về khuya: 12 giờ đêm, 1 giờ, 2 giờ … Mắt mũi tui lòa nhòa hết rồi, đi ban đêm không thấy gì hết, phải nhờ mấy đứa trẻ đi trước dẫn đường. Qua mấy cái dây neo ghe, mấy đứa phải hô: “Coi chừng dây neo”, rồi đạp chân xuống cho tui bước qua. Trời tối như mực, đêm nào cũng vấp đá, vấp dây ngã nhào cổ” – cụ Đoàn kể về con đường đi hành nghề vô vùng gian khổ của mình.

Dù kiếm ăn đêm dọc bờ biển nhưng điều rất nguy hiểm là cụ không biết bơi. Cụ cho biết nhiều lần sém chết trong đêm tối.

Cụ Đoàn kể: “Có lúc đang mò cua ốc tui bị những con sóng to xô ngã, nước “đè” lên cả đầu. Tui phải dùng hai tay bấu xuống đất, sợ nước kéo ra ngoài sâu. Còn lội đi bị sụp hầm, sụp hố nước sâu uống nước no cả bụng thì xảy ra như cơm bữa. Sợ nhất là mấy ghe giã cào vào bờ lúc 2-3 giờ sáng, cứ đẩy thúng chai đi ào ào va vô người mình lúc nào không hay”.


Cụ vừa từ dưới biển lên, người run lẩy bẩy


Chân bị miểng chai cắt máu chảy nhiều, cụ phải nhai thuốc lá đắp cầm máu


Cụ đang xem cân số ốc, sò vừa mò được

Từ 1 giờ sáng đến gần 11 giờ trưa trong bụng không có hột cơm, ngâm mình trong giá rét … nhưng chỉ bán được 17.000 đồng. Giá trị cả ngày lam lũ chỉ thu được 10.000-20.000 đồng, gặp lúc sóng to gió lớn chỉ được 5.000-7.000 đồng


Hải Luận (Tuổi Trẻ)

Tini Trần, nữ phóng viên chiến trường Iraq, Afghanistan - Huy Phương

Huy Phương

Tini Trần là một cô bé Việt Nam đến Hoa Kỳ vào đầu tháng 5, năm 1975, lúc cô chỉ mới ba tuổi rưỡi, ngày nay đã trở thành một người nổi tiếng trong ngành truyền thông Hoa Kỳ vì hiện nay cô là thông tín viên của hãng Thông Tấn AP (Associated Press) tại Bắc Kinh. Cái tên Trần Thiên Hương do cha mẹ cô đặt ngày nay đã không còn ai gọi đến, nhưng trong làng ký giả quốc tế, không ai không biết tới cô gái Việt Nam nhỏ con, gan lì đang nhận một nhiệm vụ khá quan trọng tại Ðông Nam Á. Không những cô phụ trách cho hãng thông tấn Hoa Kỳ lớn nhất tại Trung Cộng mà còn hiện diện khắp nơi, từ Ấn Ðộ, Singapore, Thái Lan, Pakistan, Mã Lai đến Afganistan, Kuwait và tại Iraq trong những ngày Hoa Kỳ mở trận chiên tấn công vào cứ điểm Falluja, Baghdad, để đem về những nguồn tin xác thật, ghi nhận tại chỗ rất giá trị. Bài của Tini Trần thường trực hiện diện trên những tờ báo lớn của nước Mỹ như Washington Post, Wall Street Journal, San Jose Mercury News, Los Angeles Times, Baltimore Sun, Chicago Tribune, Houston Chronicle, Sacramento Bees ... và hằng trăm tờ báo khác trên khắp lục địa Hoa Kỳ.

Liệt kê các giải thưởng về báo chí (Journalist Awards) của ký giả Tini Trần:

* 2005: Associated Press Managing Editors Award - Deadline Reporting AP staff coverage of Asian tsunami

* 2000: - National Headliners Award
- 1st Place Coverage of a Major News Event AP coverage of 25th Anniversary of Fall of Saigon, “Vietnam Legacy”

- Associated Press Managing Editors Award - Enterprise Reporting AP coverage of 25th Anniversary of Fall of Saigon, “Vietnam Legacy”

* 1999: Los Angeles Times - Top of the Times Award Beat Coverage & Investigative Reporting

* 1995: - Associated Press Managing Editors Award, 1st Place Non-Deadline Writing “Return to Vietnam” Series, The Tennessean

- Asian American Journalists Association Award

- 2nd Place Asian American Issues “Return to Vietnam” Series, The Tennessean

- Green Eyeshade Investigative Awards, Finalist


Thân phụ của Tini Trần là Bác Sĩ Trần Văn Thuần, bác sĩ y khoa hành nghề tại Houston và mẹ là Công Huyền Tôn Nữ Mỹ Chương, bà du học ở từ năm 1963, và về nước năm 1968. Tini Trần sinh tại Saigon vào tháng 6, năm 1971, và cuối tháng 4, năm 1975, theo gia đình được di tản ra Ðệ Thất Hạm Ðội, đến Subic Bay rời đi Guam và được đưa về định cư tại Alabama. Tini Trần đã học qua nhiều trường trung, tiểu học tại các tiểu bang, Mississsipi và Texas. Lúc thân phụ của Tini đưa gia đình về định cư và mở phòng mạch tại , sau do Tini bắt đầu theo học đại học, ngành báo chí tại University of Texas tai Austin. Tuy vậy khi thấy Tini thích ngành báo chí thì gia đình nghĩ rằng đây chỉ là một sở thích nhất thời của cô nên khuyến khích Tini hoc thêm ngành luật hành chánh cũng tại đại học này.

Tini Trần tốt nghiệp cử nhân báo chí ưu hạng vào mùa Thu năm 1994, sau đó cô được tuyển dụng ngay cho tờ báo Tennessian tại tiểu bang Tennessee, xuất bản tại thủ phủ Nashville. Nhân tháng 5, năm 1995 là tháng kỷ niệm miền Nam rơi vào tay Cộng Sản Bắc Việt, ban biên tập tờ báo nay cử cô đi Việt Nam cùng với phóng viên ảnh Nancy Rhoda để làm một thiên phóng sự tại Việt Nam sau hai mươi năm Saigon sụp đổ.

Bài báo “Return to Việt Nam” dài 43 trang của cô đã làm chấn động báo giới tại Hoa Kỳ và được nhiều tờ báo mua đăng lại. Có thể nói là chưa có một phóng viên Mỹ nào đi sát thực tế, và có khả năng viết về những vấn đề sâu kín mà ngay chính quyền Cộng Sản Việt Nam lúc bấy giờ cũng không muốn các phóng viên ngoại quốc tò mò để mắt tới. Trong khi chính phủ Việt Nam muốn nói đến thành tích dân sinh thì cặp mắt của Tini Trần và ống kính của phóng viên ảnh đã đi vào những xóm lao động, những bệnh viện, những sinh hoạt của đám trẻ nghèo khó bên những đống rác lớn của Saigon. Lúc bấy giờ Việt Nam chưa cởi mở đến độ cho một phóng viên báo Mỹ đến “thăm dân cho biết sự tình” mà chỉ muốn báo chí nói lên những thành tích và chủ trương của chính phủ, do đó Tini Trần và phóng viên ảnh đã đóng vai một Việt Kiều và du khách để đi đây đó và quan sát tận nơi để hoàn thành một bài viết giá trị, một mẫu mực khó tìm của lối viết phóng sự.

Trong giới truyền thông Hoa Kỳ cũng có lối chào mời “mua đào bán kép” như trong giới cải lương ở quê nhà, do đó mà sau bài phóng sự “Return to Việt Nam” này, Tini Trần đã được nhiều tờ báo mời hợp tác với mức thù lao hứa hẹn rất cao, nhất là hai tờ báo xuất bản trong hai địa phương có nhiều người Việt định cư nhất là tờ Los Angeles Times và tờ San Jose Mercury News. Trong thời gian này, Tini Trần thú nhận là tiếng Việt của mình còn yếu nên có thể gặp phải những trở ngại trong khi di làm phóng sự về sinh hoạt cộng đồng Việt Nam tại địa phương, nên cuối cùng Tini đã chọn tờ San Jose Mercury News vì tại Bắc Cali này, Tini Trần có gia đình bà ngoại và các dì, cậu ... có thể cố vấn cho Tini những vấn đề Việt Nam mà cô chưa hiểu một cách sâu sắc. Mặc đầu đã biết Tini Trần về cộng tác với Mercury, Los Angeles Times đã “chiêu dụ” bằng cách mời cô tham quan các cơ sở của tờ báo trong một tuần và lo tất cả chi phí cho cô tại Los Angeles, đồng thời cũng hứa hẹn một mức lương cao hơn tờ Mercury. Tini Trần đã chấp nhận lời mời xuống Nam Cali thăm viếng cơ sở của tờ Los nhưng cuối cùng vẫn giữ ý định ở lại San Jose.

Cộng tác với San Jose Mercury hai năm, Tini Trần đòi hỏi tờ báo này phải để cho cô sang Việt Nam, nhưng vì tờ báo chưa đáp ứng nhu cầu của cô, nên Tini Trần về cộng tác với Los Angeles Times vì chủ biên của tờ này hứa cho cô đi làm phóng sự tại Việt Nam ba tháng. Trong thời gian làm tại Los Angeles, vào cuối năm 1999, Tini Trần cũng đã lăn lộn với nhóm phóng viên của tờ L.A. Times tại khu phố Bolsa để theo dõi và tường thuật vụ Trần Trường và bài tường thuật này đã được một giải thưởng báo chí

Phải nói là năm 1995 sau khi về Việt Nam và hoàn tất phóng sự “Return to Viet Nam,” Tini Trần đã thấy rõ đời sống của dân chúng, phong cảnh cũng như văn hóa Việt Nam Việt Nam, cô yêu thật sự quê hương mình, nơi mà cô đã theo cha mẹ bỏ ra đi từ lúc mới lên ba. Tini Trần đã đạt được hai mơ ước của mình, một là trở thành một người phóng viên báo chí và hai là được làm việc ngay trên quê hương Việt Nam. Làm việc ở đâu cô cũng muốn nhận những công việc tại Việt Nam, do đó khi hãng thông tấn AP mời cô về cộng tác và đưa cô về Việt Nam làm việc, cô không ngần ngại nhận lời và đã ở đó trong một thời gian dài 5 năm. Ngoài khả năng về nghề nghiệp, Tini Trần là một phóng viên năng nổ, không ngại khó khăn, luôn luôn hoàn thành nhu cầu của hãng đặt ra và cô có những nhận xét được công nhận là sâu sắc. Ban Giám Ðốc AP tại New York rất biết tới khả năng của cô và muốn đề bạt cô lên những chức vụ cao hơn và muốn đưa cô đi làm Trưởng Văn Phòng ở các nước khác.

Chỉ vài tháng sau, Tini Trần trở thành Trưởng Văn Phòng AP tại Việt Nam.

Tini Trần quan niệm đây là quê hương mình, đồng bào mình, được sống, hiểu và phục vụ quê hương là điều tốt nhất. Chính trong thời gian làm việc và sinh sống tại Việt Nam, Tini Trần được học hỏi và thông cảm thêm về con người và đời sống Việt Nam, bổ khuyết cho những gì thiếu sót khi cô rời Việt Nam ra đi lúc còn quá nhỏ. Dù thế nào, thì phương tiện sinh sống ở Việt Nam, nhất là tại Hà nội không tốt bằng tại Mỹ, nhưng cô không hề muốn rời nhiệm sở, xa những công việc hằng ngày của một phóng viên mà cô đã yêu thích.

Vào cuối tháng 2, năm 2003, Tini được New York biệt phái sang Kuwait trong khi chờ đợi Mỹ sẽ tấn công vào Iraq. Bốn tuần trong lửa đạn, giao tranh và khủng bố đã làm cho bố mẹ và gia đình cô rất lo lắng. Ðến tháng 3, Tini loan báo cho gia đình biết là cô phải ở lại trận địa lâu hơn vì Hoa Kỳ sắp tấn công vào cứ điểm Falluja. Trong thời điểm này vô số bài viết của Tini Trần đã được chuyển đi và trở thành những tin chiến sự hàng đầu trên các báo chí Hoa Kỳ. Sau bốn tháng ở Baghdad, cô đã sang Jordan và báo tin về nhà cho biết cô đã hoàn tất nhiệm vụ, nghỉ ngơi ở Siri Lanka và sắp trở về Hà Nội. Chỉ trong thời gian 4 năm, người phóng viên AP tên Tini Trần đã làm nhiệm vụ tại 22 quốc gia.

Trong cuộc đời làm phóng viên tại Việt Nam, Tini Trần đã tiếp xúc nhiều với cảnh nghèo khó của quê nhà, trẻ em thiếu ăn, đi học không có giày mang, trời lạnh không có đủ áo ấm. Tini thương Việt Nam là thương nỗi nghèo khó, bất hạnh đó và luôn luôn khuyến khích các em cô, hai gái một trai đã tốt nghiệp đại học tại Mỹ, ráng dành thời gian tham gia các công tác thiện nguyện để giúp đồng bào nghèo khổ ở Việt Nam. Do đó các em Tini Trần đã tham gia các tổ chức N.G.O. (Non-goverment-organization) và về nước giúp đồng bào nghèo. Quan điểm của Tini Trần là Việt Nam cần phát triển giáo dục và cải tiến xã hội để nâng cao kiến thức và đời sống của dân chúng.

Cuộc đời của một phóng viên thường trú tại một quốc gia và đôi khi lại trở thành một phóng viên chiến trường bất đắc dĩ như trong nhiều lần cô đã dến Baghdad đầy lửa đạn. Từ năm 2003 đến năm 2005 Tini đã đi Iraq 5 lần, cô luôn luôn xông xáo, năng nổ đi lại và người ta ít gặp cô ở văn phòng, mặc dù chức vụ của cô là Văn Phòng Trưởng AP tại Việt Nam.

Mùa Thu 2006, Tini đã trở về Mỹ, theo một học bổng Fellowship ở Harvard. Ðể có thể hoạt động cho AP, Tini đã phải theo học tiếng Mandarine 6 tháng tại Mỹ và 3 tháng tại Ðài Loan trước khi đi nhận nhiệm sở mới.

Ngày 19 tháng 9, năm 2009 vừa qua, cô Tini Trần đã lập gia đình với Edward Wong, hiện là thông tín viên của tờ New York Times tại Bắc Kinh. Wong cũng tốt nghiệp báo chí tại Ðại Học California, Berkerley, và có mặt tại Iraq từ những năm 2003 với vai trò phóng viên báo chí. Tin mới nhất cho biết, Tini Trần đang được AP biệt phái qua Kabul để làm phóng sự tại chiến trường Afganistan, trong dịp Tổng Thống Obama cho tăng quân đến chiến trường này.

Huy Phương


Đồng Chiêm, Đồng Chí, Đồng Đạo, Đồng Bào ! - Đinh Xuân Minh

Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh (Đức Quốc)

1. Đồng chiêm

Đồng chiêm? Danh từ xem ra lạ, và không biết nguồn gốc hai chữ Đồng Chiêm lấy từ đâu? Và tại sao lại đặt tên một vùng hẻo lánh với cái tên là Đồng chiêm? Và ý nghĩa Đồng Chiêm là gì?.

Đồng là đồng thanh, đồng nhất, đồng ý, đồng lòng, đồng là chung v.v. Nói chung, chữ Đồng nói lên ý nghĩa sự hàng loạt và lên một của một tập thể đông. Thế còn chữ Chiêm? Chiêm ngắm, chiêm ngưỡng, chiêm niệm. Chiêm là nhìn, là suy tư.

Hay ý nghĩa danh từ Đồng chiêm là cánh Đồng Chiêm, loại lúa Chiêm, thóc Chiêm, loại hoa qủa sinh không đúng mùa?

Qua sự kiện đang xẩy ra ở giáo xứ Đồng chiêm, khi mọi người giáo dân trong xứ, đặc biệt là giới phụ nữ và giới trẻ, (Đúng là giặc đỏ đến nhà, đà bà cũng phải đánh!) thì chúng tôi thiết nghĩ rằng, hai chữ Đồng chiêm, phải là ý nghĩa của sự chiêm nghiệm, chiêm niệm, chiêm ngắm, chiêm ngưỡng (Thánh giá, suy tôn Thánh giá). Thánh giá là biểu tượng cứu rỗi. Trong Cựu ước đã nói về biểu tượng nàỵ „Ai bị rắn cắn, ngước nhìn rắn do Moisen làm bằng đồng, sẽ được cứu rỗi“. (Sách Dân số 21, 6-9).

Trong Tân Ước, chính Đức Giêsu cũng đã tiên ứng về chính mình với Nikodemus: „Như Moisen đã giương cao con rắn trong sa mạc, thì Con người cũng phải bị giương cao như vậy, ngõ hầu kẻ nào tin trông cậy vào Ngài, sẽ được sự sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã yêu mến thế gian như thế đó, đến nỗi đã thí ban Người Con Một, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được có sự sống đời đờị“ (Gioan 3, 14-15).

Ai là con rắn được giương caỏ Đó là cái chết của Đức Giêsu trên thập giá. Cái cắn con rắn làm chết người. Nhưng, cái chết của Thiên Chúa thì ban lại sự sống. Ngước nhìn Thánh giá, tuyên tương Thánh giá, chiêm niệm Thánh giá, ban lại cho chúng ta ơn cứu rỗi trần gian. Đơn thuần, đây không là cây Thập tự, song đây là Thánh giá. Vì, chính quân dữ đã đóng đinh thân thể của Ngài vào cây Thập tự. Vì thế, sẽ không còn cây thập tự lẻ loi, song là Thánh giá, vì Thập tự và thân thể Chúa đã đóng chặt thành một.

Sự gian ác, giả dối gian manh và tính lươn lẹo của tập đoàn tay sai Hán Cộng, thật cực kỳ độc hại chết người, không khác gì cái cắn của con rắn. Ai không biết khôn ngoan né tránh và xua đuổi nó, có ngày chết người với loại Mãng xà này.

Khi chúng ta hướng về Thánh giá, chiêm ngưỡng Thánh giá, suy tôn thánh giá, là chúng ta được cứu rỗi, sẽ thoát khỏi con “mãng xà Việt Cộng” cắn.

Thiên Chúa chịu bị đóng đinh bên tay trái và tay phải đễ mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá, chúng ta ban phép lành cho mọi người anh em có lòng thiện ngay. Thánh giá treo khắp nơi, (trong nhà thờ, trong nhà, treo trên cổ, trên Núi chẻ ...), đấy là dấu chỉ để Thiên Chúa ban sức mạnh cho chúng ta vác thánh giá với Ngài, mà không sợ phải trốn tránh. Thánh giá Chúa đem nghị lực cho chúng ta, khi chúng ta tuyên dương và suy tôn Thánh giá.

Thánh giá Chúa giải thoát chúng ta khỏi mọi tội lỗi và giải thoát chúng ta khỏi mọi sự gian dữ. Vì vậy, chúng ta đừng bao giờ xa lìa Thánh giá!

2. Đồng chí

Thú thật, lúc còn nhỏ, khi Việt Cộng chưa xâm chiếm trọn vẹn được miền Nam, mỗi khi có những phim chiếu về Việt Cộng đội nói cối, mà nghe hai chữ Đồng chí, thì thật tình, lòng tôi cảm thấy bực bội rất khó chịu. Cứ nghe đến hai danh từ này, là tôi thấy ghê tởm rợn tóc gáy. Và cứ hễ nhìn đến nón cối là tôi cảm thấy kinh dị, và nghĩ đến bản tính rừng rú của người đội nó.

Có lẽ, từ ngày Việt Cộng xâm nhập vào miền Nam và áp đặt chủ nghĩa bất nhân trên toàn quốc, thì xem ra, danh từ Đồng chí có lẽ nghe cũng bớt đau cái lỗ nhĩ. Có lẽ thế chăng?! Và có lẽ, cũng từ đó, cái nón cối cũng đã bớt đi cái biểu tượng gian ác và bản tính quê mùa cục mịch của nó?

Mặc dù, những người quốc gia sinh hoạt trong đảng phái, tuy nhiên, họ cũng ít gọi nhau bằng đồng chí. Ngược lại, Việt Cộng, những kẻ phản bội đồng bào, phản đồng loại, phản tình đồng quê hương, thì gọi với nhau bằng đồng chí, theo nghĩa tiêu cực, như cơm bữa. Rất vô tư!

Đồng là đồng nhất, đồng tâm. Chí là chí hướng, bền bỉ theo đuổi một mục đích. Nuôi chí lớn. Có chí thì nên. Thế những Đồng chí việt Cộng đeo đuổi mục đích gì?

Mục đích “Giải phóng”? Thưa không! Đồng chí Việt Cộng chỉ làm tay sai cho Tầu Cộng và phục vụ đường lối bành trướng Chủ Thuyết Thế Giới Đại Đồng của Liên Xô?

Từ khi có sự hiện diện Cộng sản trên quê hương Việt Nam, cách nay 80 năm, đến nay, Cộng sản đã gieo bao nhiêu sự đau thương chết chót, gieo bao nhiêu cảnh đau buồn ly hương. Đồng bào dân tộc bị chia rẽ. Từ ngày có sự hiện diện Cộng sản, toàn thể đồng bào bị ách nặng: Nạn Đồng Chí Việt Cộng, quàng vào cổ.

Qua những sự kiện xẩy ra tại Thái Hà, Tam tòa, giáo xứ Thủ Thiêm, Đồng Chiêm, Loan Lý, tu viện Bát Nhã, và mới đây tại Cồn Dầu (Đã Nẵng), thì chúng ta phải gọi nhóm Đồng chí này là Đồng bọn, đồng bọn với bọn côn đồ du đãng, đồng bọn cùng với thành phần xã hội đen. Giặc đỏ Cộng sản Việt Nam, cùng với côn đồ và xã hội đen là đồng bọn cá mè một lứa!

“Đồng bọn” này, đã không một lần từ bỏ manh thú dã man để đàn áp người chân chính. Qủa thật, họ là một mối nguy cực kỳ nguy hại cho nền an ninh hòa bình, và phát triển đạo đức tôn giáo bền vững, để thành hình nền tảng cơ sở nhân bản cho dân tộc. Chế độ này, chúng tôi hay còn gọi là loại chế độ thổ tả.

Chính vì cái tình và cái tính “đồng chí” này của tà quyền Việt Cộng, đã và đang gây ra không biết bao nhiêu “bệnh dịch hạch” cho đồng bào: hận thù, chém giết, xảo trá gian manh, độc ác.. Chỉ có thuốc “dân chủ tự do đa nguyên”, mới thật sự trị hết loại dịch này!

3. Đồng bào

“Đồng” là cùng, “bào” là bào thai. Truyền thống khai sinh dân tộc Việt Nam được dựa qua sự tích mẹ Âu Cơ, đẻ ra trăm trứng. Dân tộc Việt Nam thuộc dòng dõi Tiên rồng, cùng một “bào thai”. Từ khi, Cộng sản đặt chủ nghĩa phản bội dân tộc trên quê hương Việt Nam, thì cảnh nồi da xáo thịt trải qua bao năm tháng không nguôi, do chủ mưu tay sai Cộng Sản Việt Nam. Họ làm chư hầu cho Cộng sản quốc tế, và tiếp tay cho “chủ nghĩa đại đồng” của Trung Cộng và Liên Xô.

Thủ Tướng Việt cộng Phạm Văn ĐỒNG, ngày 14/09/1958, ký công văn bán hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cho Tầu cộng. Bán đất nhượng biển, để mua vũ khí giết người anh em cùng “đồng bào”. Chiến tranh huynh đệ, từ năm 1960-1975, cũng do Việt Cộng gây ra, mặc dù đã có những Hiệp ước ký năm 1954, 1973 v.v.. Và những sự đàn áp hiện nay của Cộng Sản Việt Nam đối với các nhà đấu tranh dân chủ, tạo sự bất ổn xã hội, cũng do tập đoàn tay sai Hán Cộng gây ra, chỉ vì “đồng bọn” này đã làm tay sai thật sự cho Tầu cộng, phản bội đồng bào.

Chống đối lại cảnh đàn áp của Việt Cộng là tạo sức mạnh đoàn kết của đồng đạo, tạo thế và lực, ngang hàng với đồng bọn Việt Cộng. Nếu, chúng ta không can đảm phản cự, thì chúng ta sẽ mãi là người qụy lụy và gián tiếp, tiếp tay cho sự dữ tung hoành.

Trong Cựu ước cũng nói đến cảnh tượng anh em giết nhau, đó là câu truyện hai anh em Cain và Abel. (Sách Sáng Thế 4, 1-9)

Nội dung câu truyện như sau:

Cain và Abel, hai anh em cùng dâng của lễ cho Chúa. Nhưng Chúa chỉ nhận của lễ người em là Abel, vì người anh ăn ở không tốt lành. Cain ganh tị với em, và đã ra tay giết người em, khi Cain rủ em ra đồng.

“Thiên Chúa hỏi Cain: “Abel, em ngươi đâủ” Nó thưa: “Tôi không biết! Tôi có phải là người canh giữ em tôi ư?”. Người phán: “Ngươi đã làm gì? Tiếng máu của em người từ đất kêu oán lên Ta. Bây giờ người hãy là đồ chúc dữ và bật khỏi mặt đất mầu mỡ đã há miệng hớp lấy từ tay ngươi máu, em ngươi. Ngươi có canh tác đất đai, đất đai sẽ chẳng còn cho người sức lực của nó. Ngươi sẽ vất vơ vất vưởng chạy rong trên đất”.

Vì tính kêu ngạo, vì tính ganh tị, vì chống lại Thiên Chúa, đã gây lên cảnh anh em giết lẫn nhau. Trong tình huống hiện nay tại Việt Nam. Ai là người anh giết người em? Cain là ai? Và Abel là ai? Trải dài qua lịch sử cận đại Việt Nam, Cộng sản Việt Nam chính là Cain. Trước sự kiện Đồng Chiêm, Tam tòa, Thái Hà, Tòa Khâm Sứ, Chùa Bát Nhã, Việt Cộng thể hiện tâm gian của người anh hiểm độc.

Việt Cộng có kình địch với Thiên Chúa không? Khi con người đả kích và nhục mạ Thiên chúa, người ta đi đến kình địch với nhau. Tội gian ác càng ngày càng thêm khốc liệt. Có nghĩa, người “anh” càng ngày càng tạo ra cái “nghiệp” phải trả sau này.

Những sự kiện Việt cộng đã và đang hành xử đối với đồng bào, đối với những dân quân cán chính của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, đối với công viên chức của Chính Phủ Miền Nam, đã chứng minh hùng hồn: Việt Cộng là kẻ giết người, là hiện thân hình ảnh của người anh, giết người em, vì ganh tị, vì tự hào, vì chối bỏ Thượng đế, vì bản tính hiềm tị, xảo quyệt gian manh. Huynh đệ cùng “đồng bào” giết nhau. Cảnh nồi da xáo thịt!

Vì quyền lực đang nằm trong tay người “anh”, nên đồng bọn Cộng Sản tha hồ rảnh tay giết và đánh đập người “em”, mà không có quyền lực nào kiểm soát và ngăn cản. Huyết thù đang xẩy ra hiện nay tại Việt nam không có Tư pháp hay tòa kiện. Vì thế, “đồng bào” là tập thể to lớn nhất, là Tòa Án Công Lý vĩ đại nhất, hãy đứng ra dẹp cảnh nồi da sáo thịt này, và “xử lý” người “anh”!
Cũng chính vì vậy, mỗi anh Công An, mỗi anh Bộ Đội: Một, họ là kẻ tòng phạm giết người; Hai, họ là thủ phạm tay sai giết đồng bào, vì guồng máy Cộng sản đang tạo mọi sự thuận lợi cho họ cơ hội giết anh em, mà những anh công an bộ đội không sợ nhúng máu.

Mỗi anh bộ đội, mỗi anh công an là một “Natural born killers”? Bản tính thiên nhiên của họ sinh ra để giết người, hãm hại chính đồng bào mình? Họ mang mần mống tị hiềm ganh ghét chém giết?
Con cái của Cain bị phạt sống một cuộc sống lang thang, kẻ bị chúc dữ. Kẻ giết người bị nguyền rủa.
Chúng tôi mượn câu Kinh thánh, đặt vấn đề với tà quyền Cộng Sản Việt Nam: “Hỡi Cain, Abel, em người đâủ” Vâng, đúng vậy! Hỡi những kẻ giết người! Abel: những anh em đồng bào chân chính, em ngươi đâủ”. Ai đã ra lệnh ám hại đồng bào? Ai ra lệnh bắt tù, và đánh đập các chiến sĩ anh dũng đấu tranh cho Công lý và Hòa bình? Ai? Ai là tay sai cho Tàu Cộng?

Dân tộc Việt Nam như đang bị chia đôi: người “anh” ở miền Bắc, người “em” người Nam. “Anh” giết “em”. Người anh ác tâm giết người em thiện tâm. Người anh thủ đoạn gian manh giết người em tốt bụng thật thà. Người anh tham vọng, tham lam giết người em hiền lành đơn sơ chất phát. Cũng vì vậy, sự dữ đang tràn lan trên khắp nẻo đường quê hương Việt Nam. Nếu đồng đạo không cùng chung tay dẹp loạn giặc đỏ, thì tương lai dân tộc Việt nam chỉ tồn tại những người “anh” hung hăng khát máu.

“Hỡi cain, Abel, em ngươi đâủ”. Mượn câu hỏi trách cứ này trong Kinh Thánh, chúng ta quy trách mọi tội cho tập đoàn tay sai Hán ngụy cộng sản Việt Nam. Vì sao chúng ta quy tội này cho Việt Cộng?

Vì, khi Việt Cộng làm tay sai cho Tầu Cộng ám hại đồng bào, thì họ được hưởng lộc và quyền lợi. Vừa hạ được đối thủ, vừa có uy quyền lại giầu có, như xưa Việt Minh bắt tay với Pháp để tiêu diệt các đảng phái Quốc gia, củng cố nội bộ.

Khi kẻ vừa đói, vừa khát máu, thì khó kiềm chế ác ý và dã tâm của chúng được.
Một khi bọn chủ mưu đã nhúng ta vào máu, thì bọn giết người cũng không ngần ngại đổ máu thêm, để đạt tới hành động của quân giết người khát máu.

Chừng nào chưa có được những tòa án công minh chính đại, dưới thể chế tự do dân chủ đa nguyên thật sự, thì tập đoàn tay sai Hán Cộng vẫn còn áp dụng phương thức bắt bớ, đầu độc hay giết người để khủng bố đồng bào.

Trong Kinh Thánh đã nói lên sự nguyền rủa cho những kẻ khát máu. Các ngươi đã làm những gì vậỷ!!! Từ dưới đất, tiếng máu của hàng bao trăm ngàn đồng bào, và ngay tại cố đô Huế, đang kêu lên Ta. Giờ đây, các ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút máu đồng bào, do tay các ngươi đổ ra. Từ nay, các ngươi có làm điều gì cũng bị thất bại. Các ngươi sẽ phải lang thanh phiêu bạc trên mặt đất. Các ngươi lúc nào cũng sẽ phải sa sấm nét mặt. Vì các người đã hành động không tốt, thì tội lỗi đang nằm phục của, nó thèm các ngươi.

4. Kết luận

Đất nước chúng ta đã rơi vào tay Tầu Cộng, vì tập đoàn tay sai Cộng sản Hà Nội đã nhượng bán. Muốn dẹp tan giặc cờ đỏ này, mọi tôn giáo phải biết đồng tâm, đồng lực, đồng giáo, hiệp thông với Đồng chiêm, kháng cự lại Đồng chí, phản lại văn kiện của Phạm Văn Đồng, thủ tướng Việt Cộng, để mọi người chúng ta là đồng bào thân thương với nhau.

Chúng tôi rất tâm đắc với cư sĩ Hứa Phi, Ngài thay mặt ban đại diện Khối Nhơn Sanh Đạo Cao Đài Tây Ninh, hôm thứ sáu, ngày 29-01-2010, viết lên ý nguyện Hiệp Thông với Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội: “Ban Hồng Ân cho tất cả anh em chúng ta đồng một Đức tin, đồng một mục đích, đồng nhìn nhau trong tình cốt nhục Thiêng liêng của Ngài, đề đem đến cho thế gian niềm an vui và hạnh phúc”.

Vâng, nếu tất cả mọi người thiện tâm thiện trí đều quyết đồng tâm, đồng giáo, đồng lòng, cùng chung lòng với giáo dân Đồng Chiêm, chắc chắn chúng ta sẽ dẹp tan được giặc cờ đỏ: đồng chí Việt Cộng.

Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh
(Frankfurt, thứ ba, ngày 9 tháng 02 năm 2010)


Wednesday, February 10, 2010

Kẻ Sĩ và Bồi Bút ! - Lê TamAnh

Lê Tam Anh

Khi chúng ta nói đến hai chữ Sĩ khí, có nghĩa là nhắc nhở nhau hãy quay nhìn lại mình trước khi hành động về một vấn đề gì đó hay dấn thân vào một phong trào, một đảng phái ... mà theo chủ quan, đó là lý tưởng hoặc ít ra đó là con đường đúng đắn của kẻ sĩ! Theo chủ quan, theo cái nhìn với góc cạnh từ hai mắt mình, từ sự suy nghĩ của mình đôi khi chưa phải là chín chắn khi chính mình chưa kinh qua những kinh nghiệm.

Mỗi khi mùa xuân về, mỗi khi hoa đào nở, gió xuân làm lòng người dịu lại những trăn trở theo cuộc sống; thì chúng ta, ai cũng nhớ đến bài thơ “Ông Đồ” của Vũ Đình Liên. Bài thơ giản dị và trong sáng, không có những từ ngữ đổm dáng hay văn vẻ, nhưng nó làm cho mọi người cảm thấy bùi ngùi tiếc thương một thời đã qua. Hình dáng một ông đồ mặc áo dài khăn đóng, trải chiếc chiếu hoa củ kỷ bên đường phố đông người. Ông Đồ ngồi chờ khách thuê viết đôi câu liễn treo trong nhà nhân dịp tết. Ông đồ viết chữ đẹp như phượng múa rồng bay ... Nhưng người thuê viết chẳng đọc được, chẳng hiểu được nữa những nét chấm phá tuyệt vời ấy. Đôi khi theo thói quen, họ thuê ông viết đôi câu đối mà không biết nghĩa những chữ đó ra thế nào, có thể đem về treo trên tường, nghĩ rằng nó là vật kỷ niệm mà thôi. Rồi mỗi năm khách dần thưa, người ta qua đường thờ ơ với một ông Đồ già, hình bóng một quá khứ đã qua, không thể nào có thể níu kéo lại ...!

Tôi nhớ lúc trọ học ở Bồng Sơn, thuộc quận Hoài Nhơn, trong gia đình Bác Tám Thơm. Hồi đó là năm 1958, Bác Tám khoảng chừng 60 tuổi, để râu dài, trông như một cụ đồ nho, nhưng bác Tám không biết một chữ nho nào, kể cả chữ quốc ngữ. Nhưng bác luôn luôn tôn thờ chữ “thánh hiền”. Tôi còn nhớ, lịch treo tường có in hai loại chữ Việt và Hán văn ghi ngày tháng dương và âm lịch. có lần tôi xé tờ lịch, vò tròn vứt vào thùng rác. Bác Tám nghiêm sắc mặt, vừa cuối xuống lượm tờ lịch vừa nói với tôi: “Chữ Thánh Hiền không được vò xé, chỉ nên đốt hay để chỗ tôn kính!”. Thế đấy, những người trong thời trước chúng ta một vài thập niên, dầu họ không được học, hay đọc chữ “thánh hiền”, họ đều có chung một tư tưởng tôn thờ chữ nghĩa. Mà theo họ, chữ nghĩa ấy là linh hồn của Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tùng Tứ Đức. Dầu sao thì thời đại củ đã lùi xa, nhưng cũng ít ai quay lưng lại với chính quá khứ của mình bằng nhà thơ Vũ Đình Liên cùng một vài văn thi sĩ thời tiền chiến sau đó theo “cách mạng”.

Trở lại mùa xuân với bóng dáng ông Đồ già trong thơ Vũ Đình Liên, không ai trong chúng ta phủ nhận một hình ảnh của thời gian giao thoa giữa hai nền văn học. Cái mới của văn minh Âu Châu đã đánh bại một nền móng văn hóa bao đời ngự trị trên quê hương Việt. Bài thơ “ông Đồ” đã phản ảnh bao sự giằng co, bao hoài niệm và tiếc thương, giống như ta thường tiếc thương mối tình đầu đã qua trong đời!
    Mỗi năm hoa đào nở,
    Lại thấy ông đồ già
    Bày mực tàu giấy đỏ,
    Bên phố đông người qua.

    Bao nhiêu người thuê viết
    Tấm tắc ngợi khen tài
    Hoa tay thảo những nét,
    Như phượng múa rồng bay.

    Nhưng mỗi năm một vắng,
    Người thuê viết nơi đâu?
    Giấy đỏ buồn không thắm
    Mực đọng trong nghiên sầu.

    Ông đồ vẫn ngồi đấy
    Qua đường không ai hay
    Lá vàng rơi trên giấy
    Ngoài trời mưa bụi bay.

    Hôm nay đào lại nở,
    Không thấy ông đồ xưa,
    Những người muôn năm củ,
    Hồn ở đâu bây giờ?
Bài thơ không những đã được mọi người khen tặng, nó còn được hân hạnh làm bài giảng văn và học thuộc lòng trong các lớp trung học thời Việt Nam Cộng Hòa. Bài thơ và tên tuổi tác giả được liên tục nhắc đi nhắc lại mỗi khi mùa xuân trở về với mọi người, nhắc nhở một quá khứ đầy hoài niệm và mang biết bao lịch sử trong văn hóa dân tộc Việt. Nhưng chưa có ai trong chúng ta, trước đây biết nhiều về cuộc đời và sự nghiệp tác giả bài thơ “ông Đồ”, hay có thể cố tình không nói đến. Vì thế người đời sau ít biết rỏ về Vũ Đình Liên, một người Cộng Sản, một bồi bút rất có uy tín trong Đảng và trong nền văn học vô sản tại Việt Nam.

Vũ Đình Liên, sinh năm 1913 tại phố Hàng Bạc Hà Nội. Sau khi đậu tú tài ở trường Pháp Collège de protectorat ( Trường Bảo hộ tại Thụy Khuê, chính là Trường Bưởi, sau đổi thành Chu Văn An). Ông ta ghi danh học Luật một vài năm rồi bỏ ngang để dạy học tư và làm báo. Năm 1946, Vũ Đình Liên theo kháng chiến trong Hội Văn Nghệ Cứu Quốc Liên Khu 3, gia nhập vào Đảng Cộng Sản năm 1951, dạy học và biên soạn sách giáo khoa cho chế độ!

Bài thơ “Ông Đồ” được Vũ Đình Liên sáng tác vào năm 1937, đăng trên báo Tinh Hoa. Ngoài ra ông còn những bài thơ khác nữa nhưng không nổi tiếng. Vì bài Ông Đồ làm cho tiếng tăm Vũ Đình Liên được vào danh sách những văn thi nhân có hạng, nên khi trở thành Đảng viên Cộng Sản, ông tiếp tục lấy hơi hám bài thơ nầy làm sườn cho ý tưởng ca tụng “Đảng và Bác” một cách rất ư là ngây ngô và nịnh hót! Ta hãy xem bài thơ sau đây, họ Vũ dựa vào bài “ông Đồ” để diễn tả “tấm lòng” theo đảng trung thành của mình như thế nào:

Bài thơ “Thủy Chung” sáng tác năm 1977, Tết Đinh Tỵ:
    Năm nay đào nỡ rộ,
    Mừng hội Đảng, Hội Dân,
    Bút ông đồ lại họa
    Những nét chữ đẹp, thân.

    Cờ biển ngập phố phường,
    Cành đào bay thắm đỏ,
    Như cả ngàn hoa xuân,
    Nét hoa trên mỗi chữ.

    Thấy trong lòng say sưa,
    Dừng chân không muốn bước,
    Nghe đọc những vần thơ
    Ngợi khen những nét bút.

    Xuân Cộng Hòa Xã Hội
    Mai đào tươi thắm hoa
    Một nguồn hạnh phúc mới
    Trào ngọn bút dòng thơ ...!
Đây là bài thơ tiêu biểu của một bồi bút, nó phản ảnh không biện bác được rằng, Vũ Đình Liên, trước sau cũng chẳng giữ được tiết tháo “kẻ sĩ”như Trần Dần. Nhà thơ họ Trần đã để lại cho đời mấy câu thơ ngắn cho một giai đoạn bị tù đày, trả giá mấy vần thơ:
    “Tôi bước đi, không thấy phố, không thấy nhà,
    Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ...!”

    Trần Dần
Chưa hết, Vũ Đình Liên dựa vào thể thơ năm chữ đã thành công trong bài Ông Đồ, sáng tác nhại theo như thế rất nhiều bài có phong cách tương tự nhưng ý và mục đích ca tụng Đảng cùng với “bác” một cách không ngượng ngập gì cả. Sau đây là bài ca tụng đầy tính “nâng bi” một cách trân tráo của nhà thơ, mà, những người chống Cộng, chống sự kèm kẹp thô bạo của tập đoàn Cộng Sản trong nước, vẫn hàng năm nhắc đến tác giả, nhắc đến bài thơ Ông Đồ mà không nhắc đến những bài khác mang tính “cách mạng cao” là một thiếu sót. Bài “Mùa Xuân Cộng Sản” dưới đây là một trong những bài mà Vũ Đình Liên làm theo thể thơ năm chữ nhại theo bài Ông Đồ:
    Một cây đào muôn thuở,
    Năm bốn mùa nở hoa
    Một ông đồ bất tử
    Tay với bút không già.

    Hoa tươi màu sông núi,
    Chữ thắm tình quê hương
    Cành đào và câu đối
    Ngàn đời Tết Việt Nam

    Nghiên bút xưa vẫn đợi
    Tự ngàn năm bài thơ
    Tự ngàn năm câu đối,
    Đảng sáng tác bây giờ

    Nghệ sĩ với ông đồ
    Tình nước non vô tận
    Như Đảng với bác Hồ
    Hương đất trời Cộng Sản

    Năm nay đào lại nỡ
    Vui người mới hồn xưa
    Một mùa xuân bất tử
    Tươi nét lụa lời ca!
Trong bài thơ nầy, chúng ta thấy Vũ Đình Liên không còn là một thi sĩ, tác giả bài thơ ông Đồ ngày nào, không còn là một văn nhân đầy sĩ khí như Trần Dần, Phan Khôi. Mà hóa thân thành bồi bút ca tụng một chế độ khát máu nhất, tàn bạo nhất trên Thế giới. Những chữ “ muôn thuở, “ngàn đời” “vô tận”... làm cho ta cảm thấy xót xa và thương cho chữ nghĩa Việt Nam. Người thi sĩ cảm nhận cái ý nghĩa, cái hay của đất trời, cảm hoài một vài ý thơ và sáng tác. Mỗi bài thơ là mang một nét gì khác với bài trước, là xuất thần với ý thơ. Nhưng Vũ Đình Liên không những đã nghèo nàn ý thơ, nghèo nàn sáng tác mà còn “ôm” lấy cả thể điệu, cả hình dáng Ông Đồ để làm nhân chứng tiêu biểu cho chính mình! Dĩ nhiên khi bài thơ Ông Đồ nổi tiếng thì hoàn cảnh và không gian thời gian khác với “ông Đồ” trở về làm “cách mạng”.Theo họ Vũ, ông Đồ của bài thơ làm cho tên tuổi của mình nổi tiếng khác với ông Đồ “phục vụ Đảng”, đó là ông Đồ mới(?).

Nhưng không phải một mình họ Vũ, tác giả bài thơ Ông Đồ được Đảng “lột xác” mà rất nhiều nhà văn nhà thơ tiền chiến cũng bị rơi vào hoàn cảnh như thế. Nào là Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Công Hoan, Hoàng Xuân Nhị, Huy Cận, Chế Lan Viên...

Bồi bút thứ thiệt, trùm lên tất cả các bồi bút xưa nay, không ai qua mặt được Tố Hữu với những bài thơ ca tụng Cộng Sản quốc tế và tự nhận làm đệ tử trung thành. Ta hảy xem những đoạn thơ sau đây chứng minh tên đồ đệ họ Hồ phóng bút làm dơ bẩn văn thơ Việt như thế nào:

Ca tụng Lenin, cho học sinh cấp tiểu học:

... Ông Lenin ở nước Nga,
Mà em đã biết rất là Việt Nam...!


Khi nghe Stalin chết:

... Ông Stalin ơi! ông Stalin
Trời ơi ông chết đất trời có hay,

... Thương cha thương mẹ thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười...!


Ta hãy nghe Xuân Diệu ca tụng:

Mổi lần tranh đấu gay go,
Chúng con lại được Bác Hồ tới thăm.
Nghe lời Bác dạy khuyên răn

Chúng con ước muốn theo chân của người.


Trong chiến dịch hô hào đấu tố, Xuân Diệu cao giọng:

Thắp đuốc cho sáng khắp đường
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay
Lôi cổ bọn nó ra đây,
Bắt quỳ gục xuống, đọa dày chết thôi.


Khi từ trại tập trung về, kẻ viết bài nầy bị tống ra khỏi thành phố, đến ở vùng Đồng Nai làm rẫy. Hàng xóm là một anh cựu Trung Sĩ đang làm khuân vác. Chiều xuống là anh từ nơi làm việc về nhà say lý túy. Vừa đi anh ta vừa hát nghêu ngao những bài hát xen với thơ “tiền chiến”. Tuy say nhưng anh ta vẫn cố tình kéo dài “nhại” những câu thơ Xuân Diệu, cố cho bàng dân thiên hạ nghe chơi:
    “... Con nai vàng không còn ngơ ngác nữa em ơi!
    Nó đã thành trâu chạy húc người...”
Có hôm anh chàng gõ cửa nhà người viết bài nầy, tay cầm chai rượu, hai mắt đỏ bừng, hét vào tai tôi: “Con nai hay con trâu? Tôi cười đáp: “ con nai!” anh chàng ôm lấy tôi, đưa chai rượu bắt tôi tu một hốp, rồi nói: “Trâu cũng có sừng, nai cũng có sừng ... Mỗi con ngu một cách ... xin đừng bỏ nhau!”... Anh Trung Sĩ của chúng ta đó, kẽ sĩ thời nay có bằng một góc hay không?

Xem thế chúng ta mới hiểu rằng, muốn làm “kẻ sĩ” cho đúng nghĩa chắc chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Mà nghĩ cho cùng, Trong khung cảnh bị “cải tạo tư tưởng” bị chỉ đạo sáng tác và chế độ “tem phiếu”, thì làm sao kẻ sĩ có thể ngồi xem vợ con chết đói, khư khư giử tiếng tăm cho một ảo tưởng của Khổng Giáo để lại, có mấy ai trọn tình trọn nghĩa? Nhưng để làm gì nhĩ!

Ngày nay, khi người ta đã thoát khỏi cái cảnh kèm kẹp, ra hải ngoại làm thơ, viết văn; trong khung cảnh tự do như thế, lại có những nhà văn nhà thơ “thiết tha” tình nguyện làm “bồi bút” mới là chuyện lạ. Xem thế, chúng ta sẽ chẳng có thể nào phân biệt được là, trong hoàn cảnh nào thì người nghệ sĩ biến thành “bồi bút” và trong trường hợp nào thì họ có thể thực hiện đúng“ sĩ khí” để được tiếng thơm muôn đời!

Lê Tam Anh

ĐỐI THỌAI VỚI HY. PHẠM MINH MẪN VỀ CHỦ TRƯƠNG ĐỐI THỌAI VỚI CSVN - Nguyễn Phúc Liên

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Trong THƯ CHÚC XUÂN NĂM THÁNH VÀ XUÂN CANH DẦN, Đức HY Phạm Minh Mẫn mở đầu Lá Thư như sau:

”Vào thời điểm chuẩn bị bước vào Năm Thánh 2010, Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI nhắn nhủ cộng đồng dân Chúa Việt Nam hãy dành thời gian Năm Thánh xây dựng ba mối tương quan căn bản của đạo làm người: - thể hiện lòng thảo kính đối với Chúa là Cha trên trời cùng ông bà tổ tiên và các tiền nhân; - phát huy tình huynh đệ hiệp nhất đối với nhau trong cộng đồng dân Chúa là anh em đồng đạo; - mở rộng tình huynh đệ liên đới đối với mọi người trong cộng đồng xã hội, là anh em đồng bào và đồng loại ».

Để cắt nghĩa thêm về “mở rộng tình huynh đệ liên đới đối với mọi người trong cộng đồng xã hội, là anh em đồng bào và đồng loại”, HY Mẫn viết:

“Con đường đồng hành cùng dân tộc. Vào dịp các giám mục Việt Nam đi Ad Limina cuối tháng 6 năm 2009, Đức Bênêđitô XVI có lời nhắc nhở cộng đồng dân Chúa Việt Nam: đồng hành cùng dân tộc trên con đường lịch sử của đất nước, mọi người cần quan tâm mở rộng tình huynh đệ cùng phát huy tinh thần trách nhiệm liên đới trong cộng đồng xã hội, qua con đường đối thoại và hợp tác với mọi thành phần xã hội, trên nền tảng sự thật và công ích, nhằm phục vụ cho sự sống con người cùng sự phát triển đất nước.”

Khi trả lời Phóng viên Jerome BORUSZEWSKI (Báo La Croix), ngày 24.01.2010, HY Mẫn nói:

“... tôi cố gắng đi theo con đường mới Công đồng Vatican II đã mở ra, là đối thoại và hợp tác với mọi tổ chức văn hoá và tôn giáo, kinh tế và chính trị trong cộng đồng xã hội, trên cơ sở sự thật và công ích. Cả hai vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Bênêđitô XVI đều nhắc lại con đường này cho các Giám mục Việt Nam trong những lần đi Ad Limina trong thập niên đầu của thiên niên kỷ thứ ba.”

Chúng tôi xin nêu ra những điểm sau đây và sẵng sàng đối thọai với HY Phạm Minh Mẫn:

1. Thời điểm cổ võ việc đối thọai

HY Mẫn đề cập và nhấn mạnh chủ trương ĐỐI THOẠI ở một thời điểm rất tế nhị để Giáo dân có thể hiểu rằng đây là việc công kích thái độ của Tổng Giáo Phận Hà Nội cương quyết trước việc đàn áp của CSVN đối với những vụ Tòa Khâm sứ, Xú Thái Hà, Tam Tòa và nay là Đồng Chiêm. Giáo dân và những Linh mục trong những vụ này chỉ là những nạn nhân của đàn áp bằng vũ lực. Nếu họ cứng rắn phản ứng lại, thì dó cũng là quyền tự vệ một phần nào. Khi Tổng Giáo phận Hà Nội đang phải chịu đựng đàn áp như vậy, mà Hy Mẫn chỉ lớn tiếng kêu gọi đối thọai, mà không nói cho kẻ đàn áp hãy ngưng tàn bạo, thì những lời kêu gọi này trở thành thiên vị: một đàng như công kích Tổng Giáo phận Hà Nội, một đàng như biện minh cho sự đàn áp của CSVN.

Một lời kêu gọi về những giá trị luân lý tổng quát có thể có lợi ở thời điểm này, nhưng lại hại ở thời điểm khác. Người kể chuyện có duyên là người biết đúng thời điểm để kể ra câu chuyện. Cùng một câu chuyện, nhưng kể ra ở một thời điểm khác, có thể trở thành vô duyên. Hy Mẫn thử đến bên những người đàn bà bị đánh bể đầu, vỡ mặt, máu lênh láng... để kể chuyện ĐỐI THỌAI với CSVN dùng vũ lực, xem người ta hay chính Hồng Y thấy vô duyên, thậm chí độc ác nữa.

Các Giám Mục của Tổng Giáo phận Hà Nội, khi cùng ký tên Hiệp Thông với Đồng Chiêm, không phải là những Vị không biết đối thọai để đến nỗi Hồng Y Mẫn phải la hò lên ở thời điểm này như công kích.

Vào thời điểm Cộng Hòa Miền Nam, Phong trào Ngô Bá Thành, Tôn Thất Dương Kỵ... đứng lên kêu gọi HÒA BÌNH. Chính Miền Nam đang phải chiến đấu để bảo vệ Hòa Bình cho Miền Nam, trong khi ấy Miền Bắc gửi quân vào để phá đời sống an bình của dân Miền Nam. Tại sao Phong trào Hòa Bình không kêu gọi kẻ từ Miền Bắc gây chiến, mà chỉ lớn tiếng kêu gọi Miền Nam phải ngưng đấu tranh. Hai tiếng HÒA BÌNH thật đẹp, nhưng Phong trào đã xử dụng ở thời điểm ấy như lưỡi gươm đâm vào phía Miền Nam. Họ là tay sai của Miền Bắc gây chiến.

HY Mẫn lớn tiếng kêu gọi ĐỐI THỌAI không đúng thời điểm, hay là ở hòan cảnh tế nhị lúc này, có thể bị coi là tay sai của CSVN nhằm diệt tinh thần can cường tự vệ của Giáo dân Tổng Giáo phận Hà Nội và do đó ủng hộ việc đàn áp đẫm máu của CSVN.

2. HY Mẫn hiểu sai tinh thần ĐỐI THỌAI của Công Đồng Vatican II

Chính trong THƯ CHÚC XUÂN NĂM THÁNH VÀ XUÂN CANH DẦN, Hy Mẫn đã nói rõ rệt:”... mở rộng tình huynh đệ liên đới đối với mọi người trong cộng đồng xã hội, là anh em đồng bào và đồng loại.” Khi trả lời Phỏng vấn của Jerome BORUSZEWSKI, Hy Mẫn còn nhắc lại việc ĐỐI THOẠI là đối với anh em trong “cộng đồng xã hội, trên cơ sở sự thật và công ích. “

Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với tinh thần ĐỐI THỌAI này mà Công Đồng Vatican II đã chỉ dậy. Mọi người trong cộng đồng xã hội là những ai ? Là những đồng bào nghèo khổ đang bị cướp nhà, đất; là những công nhân bị bóc lột sức lao động; là những trí thức lên tiếng xây dựng xã hội thì bị bỏ tù; là những ngư dân bị Tầu cướp bóc, giết hại mà CSVN không làm gì để bênh vực; là những tăng ni Bát Nhã bị đánh đập, đuổi khỏi cơ sở tu trì; là những Giáo dân bị đánh bể đầu khi bảo vệ Thánh Giá Chúa; là những cô gái bị bán ra nước ngòai để phục vụ tình dục; là những nữ sinh vị thành niên bị ép tình dục như vụ việc đang xẩy ra tại Hà Giang. Họ là những đồng bào gần nhất trong cộng đồng xã hội của chúng ta hiện nay.

Đối với những người này của Cộng đồng Xã hội, hãy mang cái nhìn đối thọai, thông cảm và hiệp thông đến với họ. Nền tảng của ĐỐI THỌAI là tình yêu thương. Việc đối thọai đối với đồng bào này là yêu thương họ, đến với họ để trợ lực khi họ phải chịu những bất công.

Đúng như lời Hy Mẫn đã nhắc lại tinh thần Đối Thọai của Vatican II là dành cho mọi người thuộc CỘNG ĐỒNG XÃ HỘI, nhưng Hy Mẫn đã thực hiện đến mức nào ?

Trong hai câu nói mà Hy Mẫn nhắc ra trên đây, không có từ nào nhắc đến Nhà Nước, đến đảng CSVN độc tài trị dân với những bất công, đàn áp dân với vũ lực và nhà tù. Công Đồng Vatican II không khuyên ta rõ rệt là Đối Thọai với một đảng Chính trị, một Nhà Nước độc tài chỉ tìm mọi cách cai trị cộng đồng xã hội như đồ dùng vô tri không còn nhân phẩm nữa. Lời giáo huấn của Vatican II là đối thọai với mọi người thuộc Cộng đồng Xã hội, nhưng Hy Mẫn chỉ hiểu rằng đó là lời khuyên đối thọai với một đảng phái Chính trị độc tài. Việc hiểu sai lời dậy của Công Đồng Vatican II là vô tình hay đó là hữu ý xử dụng lời khuyên cao đẹp của Công Đồng trong mục đích bênh đỡ cho một đảng phái, một Nhà Nước đang làm bất công, tham nhũng và cướp bóc.

Cho dù vô tình hay hữu ý trích dẫn Giáo Huấn Công Đồng Vatican II, thì Hồng y Mẫn cũng phải xét những điểm sau đây làm điều kiện cho ĐỐI THỌAI:

Người đối thọai với mình có THIỆN CHÍ đối thọai hay không? Chúa Giêsu không bao giờ đối thọai với quân Pharisiêu giả hình vì thâm tâm của chúng chỉ mưu mô lừa người khác. Chúa mang cứu rỗi cho những ai có thiện tâm mà thôi.

Mục đích đối thọai mang đến cái gì ? Cộng đồng Xã Hội mong muốn đi tới những điều tốt hơn cho xã hội, nhưng CSVN dùng chiêu bài đối thọai như làm yên đòi hỏi thăng tiến xã hội của dân, để họ tiếp tục giữ độc quyền gây thêm tội ác cho xã hội.

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 04.02.2010


Vietnam's New Money



Bài "Vietnam's new money" trên báo Foreign Policy ngày 21 tháng một năm 2010:

Một làn sóng của sự giàu sang phú quý và quyền lực đang làm thay đổi bộ mặt quốc gia xã hội chủ nghĩa này. Nhưng, trong khi những nhà hoạt động dân chủ đang bị tù đày và hệ thống quyền lực cứ tiếp tục xiết chặt, "bàn tay mạnh mẽ" của Đảng Cộng sản có thể biến những tiến bộ về kinh tế thành một thảm họa về mặt xã hội.



Ngày 16 Tháng 11 năm 2008,tại Caravelle, khách sạn sang trọng đầu tiên của thành phố Hồ Chí Minh, nơi từng là chổ cư ngụ của các nhà báo công tác thời "chiến tranh Mỹ", hai nhà doanh nghiệp mới của Việt Nam đã kết hôn Chú rể là Nguyễn Bảo Hoàng, 36 tuổi, tổng quản lý của một công ty đầu tư, IDG Ventures Việt Nam, và cô dâu của ông đã 27 tuổi, tên Nguyễn Thanh Phương, chủ tịch của một công ty đầu tư, VietCapital. Hai người đứng đầu hai công ty, họ chịu trách nhiệm kiểm soát nguồn vốn khoảng $ 150,000,000 đô la từ các khoản đầu tư tại Việt Nam.

Nhưng đám cưới này đâu phải chỉ là một câu chuyện về tiền bạc mới tại Việt Nam. Nguyễn Thanh Phương đâu phải chỉ là một chuyên viên ngân hàng đầu tư xòang xĩnh- mà cô là con gái của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Người đàn ông cô lấy làm chồng chính là một công dân Mỹ, con của một người đã chạy trốn Việt Nam năm 1975 để trốn thoát gông cùm cộng sản - bây giờ trở về cưới con gái của một trong số những tên cộng sản đó.

Cuộc hôn nhân của họ gói trọn nhiều yếu tố của một "kiểu mẫu" Việt Nam mới, bất kể một làn sóng mới của sự giàu có, Đảng Cộng sản vẫn còn chi phối cả các lãnh vực kể cả công cộng lẫn tư nhân. Nhiều doanh nghiệp "tư nhân" hoặc là của nhà nước trước đây (DNNN) hay hiện nay vẫn còn có một số quyền sở hữu nhà nước,còn phần lớn vẫn do đảng viên nắm giữ. hầu hết những người nắm giữ các chức vụ điều hành cao cấp trong các hãng tư nhân đều thuộc về các đảng viên, thân nhân hay bạn bè của họ. Các đảng viên (Cộng sản) ưu tú đang biến đổi chủ nghĩa tư bản Việt Nam thành một doanh nghiệp mang tính cách gia đình. Và nếu trong tuần này, sự kiện bốn nhà hoạt động dân chủ bị kết án về tội lật đổ chính quyền có đưa ra dấu hiệu gì chăng nữa, việc củng cố quyền lực đảng là một sự phát triển rất đáng sợ cho tương lai của Việt Nam.

Có rất nhiều thí dụ về mối quan hệ ruột thịt giữa (những người nắm) tiền bạc và quyền lực tại Việt Nam hiện nay: Một trong những người giàu có nhất của Việt Nam là Trương Gia Bình,chủ tịch của FPT, một công ty công nghệ thông tin lớn nhất ở quốc gia bản địa. Ông cũng là người duy nhất ở Việt Nam thường được gọi với thủ ngữ "cựu rể" vì ông đã từng kết hôn với con gái của Võ Nguyên Giáp - từng được coi là anh hùng trong chiến tranh, tướng lãnh quân đội đã về hưu, và cựu phó thủ tướng. Trong thập niên 1990, nếu một cơ sở làm ăn cần người liên hệ trong số các công ty có dính dáng đến quân đội, hoặc trong ngành xây dựng hoặc thông tin, thì Giáp là người họ cần phải đến gặp.

Một thí dụ khác nữa là Đinh Thị Hòa, người Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp MBA của Đại học Harvard. Vào đầu thập niên 1990, khi Ngân hàng Thế giới muốn kích thích sự phát triển trong địa hạt tư nhân tại Việt Nam, quốc gia này đã được trao tặng nhiều học bổng cho những người trẻ, trong số đó có Hòa. Khi về nước, Hòa đã sử dụng kiến thức vừa tìm thấy của mình để thành lập Galaxy, một công ty tư vấn cho hầu hết các nhà hàng muốn tổ chức theo phong cách thương mại Tây phương, một rạp chiếu phim lớn ở TP Hồ Chí Minh, và một công ty sản xuất phim.

Nhìn từ nhiều khía cạnh thì đây là là một mô hình của một doanh nghiệp thành công mà trong đó tư nhân làm chủ. Nhưng Galaxy đâu phải từ đâu lù lù xuất hiện, mà nó là một trong những công ty được thành lập bởi con cháu của những đảng viên gộc. Khi Ngân hàng Thế Giới chọn Hoa để trao tặng học bổng, cha cô đang làm tới chức thứ trưởng bộ ngoại giao VN.

Câu chuyện về tự do hóa nền kinh tế của Việt Nam có thể dùng câu nói của Hồ Chí Minh về tình đoàn kết dân tộc dể diễn tả, "thành công, thành công, đại thành công." Năm 1993, theo số liệu của chính phủ VN, gần 60 phần trăm dân số sống dưới mức nghèo khổ. Đến năm 2004 con số đó đã giảm xuống còn 20 phần trăm. Coi như quốc gia này đã đáp ứng hầu hết các mục tiêu phát triển do Liên hiệp quốc đề ra gọi là Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, họ đã thoát ra khỏi cấp bậc của các nước nghèo nhất để tham gia vào nhóm của "những quốc gia với thu nhập hạng trung." Đời sống nhân dân được thăng hoa, chân trời của họ được mở rộng, và tham vọng của họ cứ thế lớn dần.

Tuy nhiên, vấn đề kiểm soát của nhà nước trên sự phát triển của Việt Nam là điều trở ngại. Cuộc hôn nhân giữa đảng và quyền lợi tư nhân đang méo mó nền kinh tế để phục vụ ý muốn của một số người thay vì phục vụ cho nhiều người. Và hệ thống chủ nghĩa xã hội bè phái đang trở thành một mối đe dọa cho sự ổn định trong tương lai của Việt Nam. Việt Nam đang làm nguy hại tới số phận của nhiều con em tiêu biểu mà Ngân Hàng Thế Giới tài trợ trước đây-- khi sự thăng hoa khi trước được tiếp nối bằng một cuộc phá sản

Source: http://www.vietcatholic.net/News/Html/76728.htm
====
    Vietnam's New Money
An influx of wealth and privilege is shaking up this socialist country. But, as pro-democracy activists are jailed and the network of power tightens, the Communist Party's strong hand may be turning economic progress into a social disaster.

BY BILL HAYTON | JANUARY 21, 2010

On Nov. 16, 2008, two of Vietnam's new entrepreneurs were married in the Caravelle, Ho Chi Minh City's first luxury hotel, once home to journalists covering the "American War." The groom was 36-year-old Nguyen Bao Hoang, managing general partner of an investment firm, IDG Ventures Vietnam, and his bride was 27-year-old Nguyen Thanh Phuong, chairperson of another investment firm, VietCapital. Between them, their two companies controlled around $150 million of investments in Vietnam.

But the wedding wasn't just another story about new money in Vietnam. Nguyen Thanh Phuong isn't just an investment banker -- she's the daughter of the prime minister, Nguyen Tan Dung. The man she was marrying is an American citizen, the child of parents who fled Vietnam in 1975 to escape the communists -- now returned to wed the daughter of one of them.

Their union encapsulates many elements of the new Vietnam where, despite an influx of new wealth, the Communist Party still dominates both the public and private sectors. Many "private" businesses are either former state-owned enterprises (SOEs) or still have some state ownership, and most are still run by party members. Most of the controllers of the commanding heights of the private sector are party appointees, their family, or their friends. The Communist Party elite are turning Vietnamese capitalism into a family business. And if this week's conviction of four pro-democracy activists on subversion charges is any sign, the consolidation of party power is a very frightening development for Vietnam's future.

There are many examples of the family relationship between money and power in today's Vietnam: One of Vietnam's richest men, Truong Gia Binh, is chairman of the country's biggest indigenous IT firm, FPT. He's also the only man in Vietnam routinely referred to with the prefix "former son-in-law" because he was once married to the daughter of Vo Nguyen Giap -- war hero, retired army commander, and former deputy prime minister. During the 1990s, if a business needed contacts in the army's extensive array of companies, or in construction or communications, Giap was the man to see.

Another example is Dinh Thi Hoa, Vietnam's first Harvard University MBA graduate. In the early 1990s, when the World Bank wanted to stimulate private-sector development in Vietnam, it awarded many scholarships to young people, including Hoa. On her return, Hoa used her newfound knowledge to found a company called Galaxy that now owns a PR agency, most of the good Western-style restaurant chains in the country, a big cinema in Ho Chi Minh City, and a film production company. In many ways it's a model of private-sector success. But Galaxy didn't just spring up out of nowhere. It's one of the many firms created by the children of the party elite. When the World Bank chose Hoa for the scholarship, her father was deputy foreign minister.

The story of Vietnam's economic liberalization has been, to quote Ho Chi Minh on national unity, "success, success, great success." In 1993, according to government figures, almost 60 percent of the population lived below the poverty line. By 2004 that figure was down to 20 percent. The country has met most of its Millennium Development Goals, development targets set by the United Nations, escaping the ranks of the poorest countries to join the group of "middle-income states." People's living standards are soaring, their horizons are widening, and their ambitions are growing.

But the state's control over Vietnam's expansion is troublesome. The marriage between party and private interest is distorting the economy toward the wants of the few rather than the needs of the many. And networks of crony socialism are becoming a threat to Vietnam's future stability. Vietnam risks the fate of many of the World Bank's previous poster children -- boom followed by bust.

The biggest state corporations are setting up unaccountable funding channels to finance projects with minimal economic logic. By June 2008, 28 SOEs had spent around $1.5 billion establishing or buying controlling stakes in fund management companies, stock brokerages, commercial banks, and insurance firms. Three-quarters of Vietnam's finance companies are now owned by the biggest SOEs (those known as general corporations). Many also have bought securities companies dealing in shares. Add all this together, and several of Vietnam's biggest general corporations have the potential to become self-financing black boxes with opaque funding arrangements.

Although the days of the soft loan from a state bank are largely past, there are plenty of other ways to channel money to SOEs. The state's Vietnam Development Bank (subsidized by aid from foreign governments) and its Social Insurance Fund (expected to become the biggest investor in the country by 2015) seem to act as unaccountable slush funds for the benefit of the state sector. Clearly SOEs have a significant, if not necessarily bright, future ahead.

The Vietnamese Communist leadership wants to run the country along the lines of Gaullism in France -- where the commanding heights of the public and private sectors are coordinated by an elite trained in such institutions as the École Nationale d'Administration. Under "Vietnamese Gaullism," a behind-the-scenes elite (the party) is supposed to set the overall direction of policy and then delegate its implementation to the state (which is controlled by the party). The government then draws up the laws and uses whatever resources are available to it -- the state bureaucracy, SOEs, the private sector, foreign investors, international donors, etc. -- to see the policy executed. Behind the scenes, the party monitors, corrals, and presses the various actors to make sure that its policy is followed. That, at least, is what the party would like to have happen. The reality is usually something quite different.

With easy money around, it's not hard to bribe patrons, officials, and regulators to turn a blind eye to breaches of the law. The party members in charge of the SOE tail end up wagging the party policy dog. But this isn't the whole story. What is remarkable about Vietnam is the way, at moments of crisis, the Communist Party can discipline its errant members and bring the economy back under central control. But how much longer can it do so?

Until recently, Vietnam had shared the benefits of growth more equitably than any of its neighbors. The party's socialist orientation still meant something. But in the future, redistribution will mean taking wealth away from the party's biggest supporters. Does the party leadership have the ability to stand up to its newly rich citizens and demand they hand over part of their wealth through taxation to benefit poorer people in faraway provinces? Do the convictions this week signal that the corrupt networks of party, power, and privilege have already gotten out of control? If so, Vietnam's new money could collapse under its own weight.

Source: http://www.foreignpolicy.com/articles/2010/01/21/vietnams_new_money


Tại sao thành phần trí thức Việt Nam vẫn tiếp tục bị tù tội ? - TT Thích Viên Định

TT Thích Viên Định

PARIS, ngày 3.2.2010 (PTTPGQT) - Vụ án xử các nhà hoạt động dân chủ vừa qua gây công phẫn trong dư luận quốc nội và quốc tế, vì tính chất giả trá của phiên tòa. Nhân dịp này, Thượng tọa Thích Viên Định, Phó Viện trưởng kiêm Tổng thư ký Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất viết bài bình luận về sự kiện tại sao thành phần trí thức trong nước không được phục vụ đất nước mà lại bị bắt giam, tù tội ? Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin đăng tải bài bình luận ấy sau đây:

Cuộc chiến ở Việt Nam chấm dứt đã 35 năm, vậy mà đất nước, mọi mặt, vẫn chậm tiến. Kinh tế vẫn sút kém, không theo kịp các nước trong khu vực; văn hoá, đạo đức, xã hội ngày một suy đồi; trộm cắp, cướp giật, tiếp tục gia tăng; tham nhũng, hối lộ đã trở thành quốc nạn. Bên cạnh đó, nạn ngoại xâm, thế lực thù địch Bắc phương, hàng ngàn năm nay, vẫn tiếp tục âm mưu gặm nhắm, xâm chiếm đất đai, biển đảo của tổ quốc. Trong nước, tình trạng, các thành phần tôn giáo, trí thức, văn nghệ sĩ, luật sư, bác sĩ, sinh viên, học sinh, những nguồn sinh lực của đất nước, là lực lượng nòng cốt lãnh đạo, hướng dẫn dân tộc, vẫn tiếp tục bị đánh phá, khống chế, cô lập, quản thúc, tù tội, bị gán ghép bằng nhiều tội danh.

Tại sao đất nước Việt Nam ta lại rơi vào hoàn cảnh tồi tệ như vậy ? Hay đây là tái hiện chính sách “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” của chủ thuyết hận thù giai cấp, Mác-Lê nin, được áp dụng tại Miền Bắc Việt nam vào thập niên 50, trong Thế kỷ trước ? Tầng lớp trí thức là tầng lớp dẫn đầu trong mọi thăng tiến của dân tộc. Nhưng, hết người này đến người khác, hết lớp này đến lớp khác, bị đưa vào tù. Tình trạng đó, kéo dài đã trên 50 năm. Đó là lý do tại sao chiến tranh chấm dứt đã 35 năm mà đất nước vẫn nghèo nàn, lạc hậu, kém xa các nưởc trong khu vức và trên thế giới. Nếu cứ tiếp tục tình trạng như vậy, tương lai tổ quốc Việt Nam sẽ đi về đâu ?

Vừa qua, rất nhiều người trí thức, lại tiếp tục bị các toà án cho vào tù, vì bị gán ghép tội danh : “hành động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” Có người bị kết án lên đến 16 năm tù, và 4 năm quản thúc sau khi mãn hạn tù.

Có thật những ngưởi trí thức, doanh nhân vừa rồi đã hành động nhằm lật đổ chính quyền không ? Họ đã lập quân đội, trang bị vũ khí, hay tổ chức bạo động ? Không thấy toà án nào đề cập đến các việc này ?

Bằng những lời nói, những bài viết, để góp ý, một cách ôn hoà, với Nhà cầm quyền cộng sản, nhằm ổn định xã hội, phát triển kinh tế, làm giàu đất nước, chống ngoại xâm đang ngày đêm rình mò tìm cách thôn tính tổ quốc Việt Nam, lại bị xem là “hành động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân ?” Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã làm điều gì khuất lấp, nên có tư tưởng, xem những ý kiến đề nghị của người dân là hành động nhằm lật đổ ? Chỉ nói và viết, lại có thể lật đổ được chính quyền hay sao ?

Không chấp nhận hành động lật đổ, bằng bạo động, nếu có, vậy Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam muốn thăng tiến, thay đổi xã hội, bằng cách nào ? Chiến tranh đã chấm dứt 35 năm rồi, đất nước vẫn nghèo đói, các tệ nạn xã hội ngày càng nhiều, Nhà cầm quyền bắt người dân phải chịu đựng bao lâu nữa ?

Đảng cộng sản muốn nhân dân Việt Nam phải chấp nhận sống dưới một chính quyền độc tài, độc đảng, toàn trị, theo kiểu chế độ phong kiến ngày xưa ? Hay muốn nhân dân phải tổ chức tranh cử công bằng, theo tiêu chuẩn tự do, dân chủ, công bằng, đúng như điều lệ Hiến chương Liên Hiệp Quốc, mà Việt Nam đã ký kết tham gia ? Điều này, chưa thấy Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam công bố rõ ràng. Cũng chưa trưng cầu ý kiến toàn dân.

Một nhà nước, vừa ký kết gia nhập Liên Hiệp Quốc, nghĩa là đồng ý điều hành đất nước theo tiêu chuẩn Tự do, Dân chủ, Nhân quyền của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, lại vừa thực hiện những luật lệ, chống trái, ngay cả với Hiến Chương hiện hành của Việt Nam, cũng như chống trái với những điều luật của Công ước Quốc Tế về các Quyền Chính Trị và Dân sự của Liên Hiệp Quốc, tổ chức mà mình ký kết tham gia. Ở điểm này, đã có sự lập lờ đánh lận con đen.

Người dân chỉ đưa ra ý kiến đóng góp, một cách ôn hoà, lại bị bắt. Vậy trước năm 1988, ở Việt Nam cũng có đa đảng, đảng Xã Hội và đảng Dân chủ. Những đảng phái đối lập với Nhà cầm quyền cộng sản khi ấy, không thấy đảng viên nào bị gán tội. Có tội hay không tội là do Nhà cầm quyền độc tài tuỳ hứng quyết định ? Như vậy, người dân Việt Nam biết đâu mà hành xử cho đúng ? Nay mới rõ là hai đảng Xã hội và Dân chủ kia chỉ là các đảng bù nhìn của chế độ, và dù bù nhìn cũng bị giải tán !

Trong cuộc họp Kiểm điểm Thường kỳ toàn diện về Nhân quyền, được tổ chức theo định kỳ, vừa qua, của Liên Hiệp Quốc, có rất nhiều quốc gia đã góp ý với Việt nam, nên sửa đổi những điều luật chưa phù hợp với Hiến Chương của Liên Hiệp Quốc và các Công Ước Quốc về các Quyền Dân sự và Chính Trị, chống trái cả với Hiến Chương Việt Nam hiện hành, nhưng Nhà cầm quyền Việt Nam vẫn khăng khăng không chịu sửa đổi.

Người dân góp ý, chỉ để làm thăng tiến cuộc sống, thăng tiến xã hội, lại bị ghép tội “hành động lật đổ chính quyền nhân dân”. Tại sao người dân, nhất là những thành phần trí thức lại không có quyền ăn nói, không có quyền phát biểu ? Nhà cầm quyền cộng sản, chỉ muốn dân tộc Việt Nam, ngậm miệng, làm thinh, giao số phận dân tộc và vận mệnh tổ quốc Việt Nam cho một đảng chính trị độc tài, mà đảng này lại theo tư tưởng ngoại lai, vô sản, vô thần, lạc hậu của Mác-Lê Nin, rắp tâm đưa tổ quốc và dân tộc Việt Nam đi đâu tuỳ thích ?

Các nước văn minh dân chủ tiên tiến ngày nay, không những, người dân có quyền góp ý, yêu cầu, điều này, điều nọ, mà còn có quyền lập ra những đảng phái đối lập để tranh cử công bằng. Trong kinh tế, chính trị hay bất cứ ngành nghề nào khác, cần phải có sự cạnh tranh công bằng, mới tiến bộ.

Việc đàn áp, khủng bố, tù tội, những người tranh đấu, bất đồng chính kiến, chỉ thấy được sử dụng trong các Nhà cầm quyền thực dân, những kẻ xâm lăng, đô hộ. Các chính quyền dân cử, hợp pháp “của dân, do dân, vì dân” không được phép dùng các biện pháp bạo lực, tù tội, đàn áp, để khủng bố những người dân bất đồng chính kiến, cũng như các đảng phái đối lập.

Tổ quốc Việt nam ta với bốn ngàn năm văn hiến, lại không có tư tưởng nào, khả dĩ, dẫn đạo hướng đi cho dân tộc hay sao, lại phải vay mượn một chủ thuyết, tư tưởng ngoại lai, xa lạ với văn hoá dân tộc ?

Nhờ mạng thông tin tối tân, nhanh chóng hiện nay, người dân Việt Nam đã hiểu biết, có nhu cầu một cuộc sống, vừa thích hợp với văn hoá dân tộc, vừa có đầy đủ các tiêu chuẩn tự do, dân chủ, nhân quyền như các dân tộc văn minh khác trên thế giới. Việc đó có gì là sai lầm, phải bị tù tội ? Không lẽ, dân tộc Việt Nam, lúc nào, cũng phải đứng bên lề của thế giới văn minh ? Dân Việt Nam không phải là con người hay sao ?

Đương nhiên, người dân Việt, với tinh thần bất khuất, không bao giờ chịu nhục nhã, cúi đầu im lặng, chấp nhận một cuộc sống mất tự do, không có nhân quyền, chỉ có miệng ăn, không có miệng nói. Nên càng ngày càng có nhiều người tiếp tục tranh đấu, và sẽ còn có nhiều người, nhất là giởi trí thức, tôn giáo, văn nghệ sĩ, bác sĩ, luật sư, sinh viên, học sinh, công nhân, nông dân, tiếp tục bị tù tội.

Đến bao giờ dân tộc Việt Nam mới thoát khỏi cuộc sống không có tự do, dân chủ, nhân quyền, đầy đau khổ, tối tăm này ?

Cuộc chiến giữa thiện và ác, giữa nô lệ và tự do, giữa độc tài và dân chủ vẫn tiếp tục cho đến ngày thành công.

Thích Viên Định


Văn Hóa Và Chính Trị - Lý Đại Nguyên

Lý Đại Nguyên

Với nền Nhận Thức Nhân Chủ Nhân Văn thời đại, thì Văn Hóa vừa là nền móng, vừa là nội dung, vừa là hướng vươn tới Chân, Thiện, Mỹ, luôn luôn thăng hóa của Con Người, của lịch sử Dân Tộc và Thế Giới. Vì thế, Chính Trị là sự suy tư, phán đoán, lựa chọn đường hướng, thế cách, hành xử của Con Người trong mọi lãnh vực sinh hoạt xã hội, quốc gia và quốc tế và còn định hình cho các Chế Độ. Nên hiện nay được gọi là Dân Quyền, hay là Quyền của Công Dân mỗi Quốc Gia. Biểu hiện cụ thể quyền lực chính trị ra ở 3 lãnh vực: Tôn Giáo là Giáo Quyền. Cai Trị là Thế Quyền. Đại Chúng là Dân Quyền. Vậy, Văn Hóa là Thể của Chính Trị, mà Chính Trị là Dụng của Văn Hóa. Nên Con Người sống giữa thế giới vô thường nhị nguyên: “đúng, sai – thiện, ác – tốt, xấu …”, bắt buộc mỗi người phải có quyền tự do, tự chủ và trách nhiệm về sự lựa chọn chế độ xã hội chính trị của mình, để ứng xử với mọi đối tượng, mọi tình huống, sao cho hợp tình, hợp lý, hợp cảnh, hợp pháp, đúng với nhận thức nhân văn chung, không trái với đạo đức làm người của mình, không làm hại người, hư vật, để mỗi người thể hiện quyền làm người chân chính của mình trong cuộc sống cộng đồng xã hội loài người. Để chung sức xây dựng một Xã Hội Người Tự Do Dân Chủ trong đó quyền Tự Do, Tự Chủ, Sáng Tạo của mỗi người trở thành cứu cánh của Lịch Sử Nhân Loại. Vì vây, người xưa gọi Chính Trị là Nghệ Thuật Thỏa Hiệp. Nay có thể gọi Chính Trị là Nghệ Thuật Ứng Xử.

Những người vì thiếu hiểu biết, hoặc vì bất cứ lý do nào đó, mà không thực hiện quyền làm chính trị của mình, tức là tự chối bỏ quyền tự do, tự chủ lựa chọn của mình, nhường cho kẻ khác quyết định vận mệnh của mình rồi đấy! Hay, có những người cho rằng: Chính trị là lãnh vực đầy ác hiểm, thủ đoạn, dối trá, lừa bịp, mánh khóe, quỷ quái, rình rập hại nhau, nên mình cần phải xa lánh. Lỗi lầm, sai trái đó là do người làm chính trị với tâm gian tà, trí quỷ quyệt đã làm sa đọa Chính Trị thành Tà Trị mà ra. Nên những hành vi sa đọa ấy phải gọi là Tà Trị chứ không thể cho đó là Chính Trị được nữa. Đã là chính trị thì tự nó phải là việc làm chính đáng, tốt lành, chân thật đem lại sự an lành cho Con Người, thịnh trị cho Quốc Gia, công bằng cho Xã Hội, hòa bình cho Thế Giới. Nó thuộc về toàn dân, là Nhân Quyền, là quyền lợi thiết thân, mà mọi công dân đều có bổn phận, trách nhiệm thi hành, đó là Dân Quyền được ứng cử và bầu cử những người đại diện mình vào các cơ quan công quyền quốc gia. Hoặc tham gia các chính đảng để tranh cử, để được bầu lên cầm quyền. Hay đóng góp công sức của mình cho các đoàn thể tôn giáo, ngôn luận, chính trị, nghiệp vụ mà mình theo. Gọi là các Tập Thể Xã Hội Dân Sự. Chính các tập thể xã hội công dân này mới là sức mạnh của toàn dân, của dân tộc để tự bảo vệ lấy giá trị tự do, tinh thần tự chủ, quyền lợi tư hữu của mỗi người trong chế độ Dân Chủ Tự Do. Nhằm giữ cho luật pháp nghiêm minh, chính quyền trong sạch, chính trị chân chính, xã hội công bằng, kinh tế phát triển, đất nước phú cường, thế giới hòa bình.

QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ

Từ ngàn xưa, nhân loại đã thấm thía và bị trả giá quá đắt về những sai trái trong lãnh vực chính trị, nên mới nói: “Làm Thầy Thuốc mà sai thì giết chỉ một mạng người. Làm Chính Trị mà sai thì hại cả một đời, cả một nước. Làm Văn Hoá mà sai thì hại đến muôn người, muôn đời, và muôn nước”. Vì Văn Hóa có giá trị trường cửu, rộng lớn, là biểu hiện của “Chân Lý Tính”, là nội dung của Chính Trị và khắp mặt sinh hoạt quốc gia và quốc tế. Nó ăn sâu, bén rễ vào tâm thức Con Người thành lối sống, cách sống, nếp sống, khuynh hướng sống, truyền thống sống của mỗi Dân Tộc. Nên Văn Hóa mà sai thì Chính Trị sẽ tiếp tục sai, từ đời này sang đời khác, cho tới khi nào Văn Hóa tìm đúng chính đạo để hướng được tới Chân Lý, thể hiện được Chân Lý Tính ra trong khắp mặt sinh hoạt của đời sống xã hội, dân tộc và nhân loại.

Người xưa gọi đây là Đế Đạo, là Đạo của Chân Lý. Đạo mà các Tôn Giáo chân chính rao giảng và thực hiện những điều thánh thiện. Đạo mà là hướng của Văn Hóa vươn tới. Còn trong cuộc sống thực tế vô thường tương đối này thì lý tưởng của người làm chính trị và xây dựng cho thể chế của quốc gia là Vương Đạo, là Đạo của Dân Chủ rộng mở cho toàn dân nhằm thể hiện Dân Quyền. Người dân có toàn quyền tự do lựa chọn thể chế và người cầm quyền của mình. Đạo của các chế độ độc tài bạo trị, các đế quốc thống trị, các đoàn thể chính trị quá khích, tôn thờ bạo lực là Bá Đạo. tức là Đạo của Độc Tài khủng bố toàn trị. Còn các chế độ, chính quyền, đảng phái vừa độc tài, vừa tham nhũng, hại dân, hại nước, buôn dân, bán nước như chế độ Việtcộng hiện nay thì đó là Tặc Đạo, là Đạo của Kẻ Cướp. Ngoài ra các chế độ, các chính quyền, các chính đảng “ăn xổi ở thì”, gặp đâu làm đó, sai rồi sửa, sửa rồi vẫn sai, đó gọi là Mạt Đạo. Vậy “Chính Trị Đạo” gồm: Đế Đạo, Vương Đạo, Bá Đạo, Tặc Đạo. 2 đường chính là Đế Đạo và Vương Đạo, tức là Chính Đạo. 2 đường tà là Bá Đạo và Tặc Đạo, tức là Tà Đạo. Chính, Tà đều do mỗi người, mỗi đoàn thể, mỗi thế lực tự do, chủ động suy nghĩ, phán đoán và lựa chọn. Tất cả là ở người, do người mà chính trị trở thành tốt hay xấu.

Đã là người có trí khôn, sống giữa xã hội người thì không thể không làm chính trị, và có làm hay không cũng đều bị hệ lụy vào guồng máy chính trị cả. Khi nói tới Quyền là nói tới Quyền Lực Chính Trị. Giáo Quyền là quyền lực chính trị của Tôn Giáo. Thế Quyền là quyền lực chính trị của Chính Quyền cai trị. Dân Quyền là quyền lực chính trị của Công Dân. Nhân Quyền là quyền lực chính trị thuộc về Con Người. Đòi Nhân Quyền là đòi quyền lực chính trị của Con Người, vì Con Người, cho Con Người vậy.

Trước, nay, người đời thường lẫn lộn giữa hai lãnh vực chính quyền cai trị, với chính trị dân sự. Vẫn theo quan niệm của thời Phong Kiến, cho rằng: Chỉ có Vua, Quan cầm quyền, thực hiện chủ trương, chính sách, đường lối, thi hành luật lệ quốc gia, và những hoạt động của kẻ thống trị, hay sinh hoạt đảng phái, nhằm cướp chính quyền, mới cho đó là làm chính trị, còn dân không có quyền chính trị. Người dân trong nước là Thần Dân của Vua. Sơn Hà của Vua. Xã Tắc của Vua. Vua thay Trời trị Dân. Vua dựa vào Thần Quyền, nhân danh thần quyền để tạo ra quyền lực chính trị cho mình, cho dòng họ mình, rồi ban quyền cho quan chức để thống trị toàn dân. Dân không có quyền biết, bàn, và làm chính trị. Nhưng ở thời đại Dân Chủ Tự Do ngày nay thì, Quyền Chính Trị thuộc về Toàn Dân. Người Dân là chủ nhân ông có thẩm quyền đích thực về Quốc Gia mình. Tất cả mọi công dân đều phải làm chính trị, phải có bổn phận chính trị, phải có trách nhiệm về Sinh Mạng Chính Trị của mình và của Quốc Gia. Ý chí toàn dân tạo thành quyền lực chính trị quốc gia thể hiện qua luật pháp và chế độ. Nên phải biết suy nghĩ phán đoán để ra ứng cử, hoặc lựa chọn người đại diện mình bầu vào chính quyền. Hay quyết định gia nhập một tổ chức Tôn Giáo, Văn Hóa, Xã Hội, Nghiệp Vụ nào đó để thực hiện lý tưởng, cũng như bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, đó đều là thái độ và là hành vi chính trị cả.

Ngay các tổ chức Tôn Giáo cũng không thoát khỏi chính trị. Vì không một tôn giáo nào lại không có mục đích truyền bá giáo lý, giáo pháp của mình phổ cập tới mọi người, khắp chốn. Để đem Đạo vào Đời thì phải có Giáo Hội. Có giáo hội là phải có giáo chủ, có giáo lý, có đền thờ, có tổ chức, có tu sĩ , có giáo dân, có giáo quyền, có cơ sở, có phương tiện, có chủ trương, có đường lối, có phương pháp truyền đạo. Tức là có đối nội, đối ngoại, có làm chính trị. Chỉ khác là các tôn giáo tuy có xây dựng Giáo Quyền, mà không phải là để đoạt Thế Quyền. Giáo Hội bất cứ thuộc tôn giáo nào cũng không thể trực tiếp cầm quyền cai trị, không trùm phủ lên chính quyền, bắt Thế Quyền làm công cụ phục vụ cho Giáo Quyền như khuynh hướng Hồi Giáo toàn thống hiện nay, để đẩy nhân loại vào các cuộc thánh chiến nguy hiểm. Ngược lại Chính Quyền cũng không thể lợi dụng Giáo Quyền làm công cụ cho Thế Quyền để thỏa mãn tham vọng Đế Quốc Thống Trị của mình, như ở Trunghoa, Lamã xưa, và Cộngsản nay.

PHÂN NHIỆM CHÍNH TRỊ

Ngay từ thời loài người vừa tiến vào cuộc sống sinh hoạt cộng đồng xã hội sơ khai, thì đã hình thành 2 lãnh vực Thế Quyền và Giáo Quyền và đều dựa vào Thần Quyền, nhân danh Thần Quyền để lãnh đạo, hướng đạo toàn dân rồi. Nên trong sinh hoạt chính trị của tập thể xã hội phôi thai đó đã được phân công, phân nhiệm một cách tự nhiên là Thế Quyền nằm trong tay Tộc Trưởng hay Tù Trưởng điều khiển, hướng dẫn Bộ Tộc, hay Bộ Lạc sinh hoạt, kiếm sống. Giáo Quyền nằm trong tay các Pháp Sư hay Thầy Cả có nhiệm vụ thiêng liêng là cầu cúng thần linh, tìm cách trị bệnh cho dân. Thế Quyền giữ phần Lãnh Đạo cai trị bộ tộc. Giáo Quyền là Chỉ Đạo tinh thần cho dân. Hai lãnh vực Tinh Thần và Thực Tế này, luôn luôn có sứ mạng linh thiêng, và thiết thân là phụng sự cho người dân và xã hội thì mới làm tròn thiên chức tự nhiên của lịch sử trao cho.

Bước vào thời thành lập Quốc Gia, thì Thế Quyền hoàn toàn nằm trong tay Nhà Vua và Triều Đình Phong Kiến để lãnh đạo, điều hành Quốc Gia. Giáo Quyền thuộc về các Tôn Giáo thờ kính Thần Linh, hay tin nhận Tâm Linh để chăm sóc, hướng dẫn tinh thần và bảo vệ đạo đức cho Toàn Dân. Thế nhưng, trong quá trình lịch sử, hai thế lực Giáo Quyền và Thế Quyền vì tham vọng độc tôn, thường rơi vào cảnh cạnh tranh lấn vượt, tiếm quyền của nhau, nhằm thống trị Quốc Dân gây ra không biết bao nhiêu cảnh tàn sát, khổ lụy cho loài người. Một khi ở Quốc Gia nào đó, Thế Quyền khống chế nổi Giáo Quyền, hay ngược lại Giáo Quyền nắm được Thế Quyền thì sẽ thành Chế Độ Toàn Thống, thường biến Quốc Gia đó thành Đế Quốc xâm lăng các nước chung quanh, đây là một thảm họa lớn đối với nhân loại.

Đế Quốc Trung Hoa. Hán Võ Đế -140 – 87 trước Tây Lịch, dùng Pháp Trị của Hàn Phi, để cho Nhà Vua nắm hết mọi quyền hành quốc gia, với chủ trương “Trung Quân Ái Quốc” “Quân xử Thần tử, Thần bất tử, bất trung”. “Trung Thần bất sự nhị Quân”, biến Vua thành nhà Độc Tài Bạo Trị. Rồi tổng hợp với nền Đạo Học Nho Giáo lấy “Tam Tài là Thiên, Địa, Nhân”. “Tam Cương là Quân, Sư, Phụ”. “Ngũ Thường là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”, và “phương pháp Nhân Trị”của Khổng Tử làm kim chỉ nam để giáo hóa dân chúng và tuyên dương danh nghĩa Đế Quốc Đại Hán. Vì theo trật tự đẳng cấp Vua đứng trên Sư, nên Thế Quyền trùm lên Giáo Quyền, khiến ở Trunghoa Tôn Giáo đều do Triều Đình tấn phong. Giáo Quyền không thể độc lập phát triển nổi. Theo đề nghị của Đổng Trọng Thư, Võ Đế lấy Nho Giáo làm Quốc Giáo, tôn Khổng Tử làm “Vạn Thế Sư Biểu”. Từ đó tạo ra nền Chính Trị Phong Kiến Đế Quốc Đại Hán pha trộn giữa Pháp Trị với Nhân Trị dẫn tới tình trạng cá nhân độc tôn duy ý chí bạo trị. Vượt qua thời Hán, kéo dài mãi tới ngày nay. Dù Trunghoa đã trải qua 2 cuộc gọi là Cách Mạng Tư Sản Dân Quyền 1911 của Tôn Dật Tiên, và cuộc Cách Mạng Cộng Sản Toàn Trị 1949, của Mao Trạch Đông, thì tinh thần Phong Kiến Bạo Trị, Đế Quốc Đại Hán ở giới cầm quyền Trunghoa ngày càng quái hóa thêm.

Đế Quốc Lamã. Trên 3 trăm năm, các Hoàng Đế Lamã tàn sát Kitô Giáo từ thuộc quốc Do Thái truyền vào Lamã. Đạo Kitô của Đức Jésus càng bị cấm đoán, đầy đọa, giết hại, càng phát triển lan tràn ra khắp Đế Quốc. Hoàngđế Constantine, muốn an dân, bình trị thiên hạ, nên năm 313 đã phải chính thức ra sắc chỉ nhìn nhận Kitô Giáo là Công Giáo của toàn Đế Quốc. Năm 314, ông triệu tập Hội Đồng Giám Mục thành lập Giáo Hội Kitô Giáo Lamã. Nhưng vị cầm đầu Giáo Hội là Giáo Hoàng phải do Hoàngđế chỉ định. Như vậy là Thế Quyền Lamã xử dụng Giáo Hội Kitô làm công cụ cho Đế Quốc. Mãi tới năm 1059, Giáo Hội mới thành lập được Hồng Y Đoàn để tự bầu lên Giáo Hoàng, từ đây Giáo Hội Kitô Giáo mới củng cố được Giáo Quyền Độc Lập. Cuộc tranh chấp quyền lực lãnh đạo giữa Giáo Quyền của Giáo Hội với Thế Quyền của Vua Chúa Âu Châu liên tục nổ ra. Thế Quyền là nhất thời, Giáo Quyền là trường cửu. Giáo Hội Kitô Lamã lan truyền ra khắp thế giới. Phong trào Thực Dân theo gót các nhà truyền giáo mà mở mang thuộc điạ…Tới năm 1962, Cộng Đồng Vaticano II, mới công bố chủ trương “Đem Đạo vào Đời”. “Tách Giáo Hội khỏi Thế Quyền”. “Các tu sĩ không được nắm chính quyền và làm chính trị đảng phái”. Tức là Giáo Hội Kitô Giáo Lamã chính thức phân nhiệm chính trị giữa Giáo Quyền và Thế Quyền.

Hiện nay trên thế giới chỉ còn Hồi Giáo là theo đuổi chủ trương Giáo Quyền Toàn Thống. Tiên tri Mohammed, học từ Do Thái Giáo và Kitô Giáo, vào thế kỷ thứ 7, Ông thành lập Đạo Hồi, tôn thờ một vị Nam thần duy nhất là Allah, đấng toàn năng tối thượng điều khiển vũ trụ, vạn hữu và loài người. Đạo Hồi có bản chất Nam tính cực đoan. Ông tự nhận là vị tiên tri lớn nhất do Thượng Đế Allah gửi đến cho thế giới. Tiên tri Mohammed có khí phách của một Đại Đế, hơn là vị Giáo Chủ nhân từ sẵn sàng nhận lấy phần hy sinh về mình. Ngược lại, Mohammed luôn luôn đòi phần thắng cho mình. Ông tuyên bố: “Thánh chiến với bất cứ ai, bất cứ quốc gia nào không theo đạo Hồi”. Bởi đó, Hồi Giáo biến thành một Đại Đế Quốc, phía Tây từ Y-pha-Nho, phía Đông tới sông Hằng Ấn Độ. Từ năm 1096 đến 1720, Hồi Giáo tiến vào trung tâm Âu Lục tạo thành cuộc Thánh Chiến với Kitô Giáo và các nước Âu Châu. Hồi Giáo bị Kitô Giáo chận ở Âuchâu, bị Ấn Độ Giáo đẩy lùi xuống Đông Nam Á rồi trụ ở 2 nước Malaysia và Indonesia. Do đó, Vua trong các nước Hồi Giáo từ xưa, nay, đều kiêm luôn chức Giáo Lãnh của Đạo Hồi.

Đến thời Dân Chủ, nhiều nước Hồi Giáo theo khuynh hướng của Thổ Nhĩ Kỳ, thành lập các chính quyền cai trị bởi chế độ thế tục. Năm 1979, Ayatollah Khomeini thực hiện cuộc cách mạng Hồi Giáo tại vương quốc Iran. Tạo lập ra một Hội Đồng Tu Sĩ Hồi Giáo Tối Cao, bao trùm lên Chính Quyền Quốc Gia, trực tiếp lãnh đạo Quốc Dân, thi hành Luật Hồi Giáo. Từ đó các phong trào Hồi Giáo Quá Khích thi nhau xuất hiện, để cổ xúy cho chế độ Hồi Giáo Toàn Thống. Nổi bật nhất là tồ chức Hồi Giáo Khủng Bố al Qaeda, do Osama bin Laden lãnh đạo. Đã áp dụng kiểu “ôm bom tự sát”của Palestine. Cướp máy bay dân sự Hoakỳ biến thành quả bom bay khổng lồ, lao thẳng vào và hủy diệt tòa nhà Tháp Đôi thành bình địa, ở khu trung tâm thương mại New York, và một phần Ngũ Giác Đài, biểu tượng cho sức mạnh quân sự vô địch của Mỹ. Cuộc Chiến Quốc Tế “Chống Khủng Bố” toàn diện, quyết liệt, khổ đau, đầy máu, nước mắt, tiền tài, do Mỹ cầm đầu nổ ra chưa thấy ngày kết thúc.

Trong tiến trình lịch sử nhân loại, thường thấy xuất hiện cảnh Tôn Giáo và Vua Chúa luôn luôn tranh chấp với nhau. Giáo Quyền lấn vượt Thế Quyền, hay ngược lại Thế Quyền khống chế Giáo Quyền, hoặc thế lực này lợi dụng thế lực kia, để thống trị nhân loại, đó là mối họa khủng khiếp nhất đối với thế giới. Trong cảnh khổ đau triền miên không lối thoát ấy, cũng như biết rõ Con Người phải sống trong kiếp sinh, già, bệnh, chết và đói nghèo, rét lạnh đe dọa thường xuyên. Thái tử Tất Đạt Đa, đã quyết định lựa chọn, bỏ vương vị quyền uy, thế tập, đi tu tìm đạo giải thoát. Như vậy ngay từ khởi thủy Đạo Phật đã tự chủ động tách Tôn Giáo khỏi Chính Quyền. Tách Giáo Quyền khỏi Thế Quyền. Ở thời ấy, giáo quyền Bà La Môn Giáo trùm lên thế quyền của Vua Chúa Ấn Độ. Bởi vậy, trong luật do chính Đức Phật lập ra mới có điều khoản: “Là quan chức và chưa chính thức từ quan, không được thọ đại giới Tỳ Kheo” Nghiã là Tăng sĩ Phật Giáo không được đảm nhận chức quyền, không được tham gia Thế Quyền Cai Trị. Cũng có nghĩa là Phật Giáo phải luôn luôn ở vị trí Giáo Quyền trong tư thế Văn Hóa đến thẳng với người dân, hướng dẫn dân trong tiến trình mỗi người tự tu “tự giác, giác tha, giác hành viên mãn”. Không lừa mị, cao áp, hù dọa; không làm công cụ cho chính quyền để thống trị dân; không tranh quyền, cướp nước, rồi ngụy biện cho đó như phương tiện truyền đạo, mà chỉ được dùng Đế Đạo, tức là Đạo của Chân Lý để hoằng dương chánh pháp thôi.

Chính vì thế, mà mỗi lần Phật Giáo bị đưa lên làm Quốc Giáo cho một Quốc Gia nào đấy, thì liền sau đó đều mang họa không nhỏ. Lần đầu là tại Ấn Độ, Đại Đế Asoka -268 đến -232 trước Tây lịch, sau khi dùng binh lực tàn sát các nước nhỏ, thống nhất Ấn Độ thành một Đế Quốc, ông khởi tâm hướng Phật, lấy Phật Giáo là Công Giáo cho toàn Đế Quốc, bỏ Bà La Môn Giáo vốn là tôn giáo phổ biến trong nhân gian tại lục địa Ấn Độ. Nhưng sau khi triều đại Asoka tàn, thì Bà La Môn Giáo quật khởi, đẩy Phật Giáo ra khỏi lục địa Ấnđộ, chạy lên phía Bắc trụ ở Nepal, xuống phía Nam thì trụ ở Tích Lan. Cho đến nay, xứ Ấn là quê hương của Đạo Phật, mà chỉ còn di tích Phật Giáo, chứ người theo Đạo Phật thì rất hiếm.

Lần thứ hai tại Việtnam. Vào đầu mùa tự chủ năm 968, Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong Thập Nhị Xứ Quân, lên ngôi Hoàng Đế. Đinh Tiên Hoàng Đế được nhiều Tăng Sĩ Phật Giáo có tài phò trợ, nhất là về mặt ngoại giao. Nhà Vua phong Ngài Khuông Việt là Tăng Thống. Sang Thời Tiền Lê. Phật Giáo vẫn được xem như Quốc Giáo, vì tuyệt đại đa số dân Việt thời đó đều thờ Phật. Nhưng bản chất của Đạo Phật là Đế Đạo, không thích hợp ở Triều Đình Phong Kiến. Dưới thời Lê Long Đĩnh 1005-1009, Long Đĩnh giết anh để cướp ngôi, từ đó lấy việc giết người làm trò chơi. Giới Tăng Sĩ khuyên can đều bị hại. Phật Giáo gặp đại nạn.

Thời Lý Công Uẩn 1010-1225, lập ra nhà Lý. Vị cố vấn cho vua Lý Thái Tổ là Vạn Hạnh Thiền Sư mới đem Phật Giáo về đúng vị thế của mình. Tăng Sĩ Phật Giáo trở về với toàn dân, trao Triều Đình lại cho Nho Sĩ Khổng Giáo để phò vua, giúp nước. Phân định giữa Giáo Quyền và Thế Quyền độc lập mà tương trợ nhau để phụng sự dân, nước. Thực hiện cuộc Viên Dung Tôn Giáo, triển khai nền Văn Hóa Dân Tộc Dung Hóa cả ba nguồn Đạo Học Đông Phương là Phật, Lão, Khổng. Xây dựng nền Văn Hiến Đa Nguyên, Phân Nhiệm, Điều Hợp cá biệt với hệ thống sinh hoạt hữu vi độc tôn của Trunghoa. Tư tưởng Việtnam lấy Con Người tự chủ làm cứu cánh, lấy Dân Tộc độc lập làm chủ đạo cho mọi sinh hoạt. Nói cách khác, đó chính là lối Nhận Thức Nhân Chủ Nhân Văn mà thời đại ngày nay đang tiến tới.

Nhưng bất hạnh cho Dân Tộc, đại họa của Toàn Dân, và cũng là mối nguy đối với Thế Giới hiện nay là Dòng Sống Văn Hóa Viên Dung Tôn giáo truyền thống của Dân Tộc và cũng là hướng vươn tới của Toàn Thế Giới, đang bị chế độ cộng sản vô thần, vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo, phi nhân tính, phi dân tộc, phi văn hóa đã biến thái thành chế độ đạo tặc, độc tài, tham nhũng, ngu si, đang cố dìm toàn dân và đất nước vào vòng nô lệ Tầucộng, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việtnam. Khiến cho toàn vùng Á châu bị nằm trong vòng đe dọa thường trực của bọn Bành Trướng Bắc Kinh. Khiến cho Thế Giới bị đặt trong tình thế bất an thường xuyên. Việc phục hồi sức mạnh Dân Tộc, tinh thần độc lập Quốc Gia và ý thức tự do tự chủ của Toàn Dân Việtnam, nhằm Dân Chủ Hóa chế độ, đó là sinh lộ của Việtnam thoát khỏi chế độ Tặc Đạo Việtcộng và cũng tạo nổi thế Liên Minh Dân Chủ Phòng Thủ Chung đối với các nước Đông Nam Á và Thế Giới, để làm cùn nhụt khí thế Bành Trướng của Trungcộng, có như vậy Việtnam mới thực sự được tự do, độc lập, tự chủ phát triển thịnh vượng trong hoà bình, để Quốc Gia Chủ Động hội nhập tiến trình Toàn Cầu Hóa với Nhận Thức Nhân Chủ Nhân Văn thời đại.

Lý Đại Nguyên
Xuân Canh Dần 2010


Tuesday, February 9, 2010

THÔNG ĐIỆP HÃY CÙNG ĐỨNG LÊN XUÂN CANH DẦN – 2010 của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN TĂNG THỐNG

Thanh Minh Thiền Viện, 90 Trần Huy Liệu, Phường 15,
Quận Phú Nhuận, TP Saigon
——————————————————————–
Phật lịch 2553 Số 01 /VTT/XLTV


THÔNG ĐIỆP HÃY CÙNG ĐỨNG LÊN XUÂN CANH DẦN – 2010
của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ


Nam Mô Đương Lai Hoan Hỉ Từ Thị Di Lặc Tôn Phật

Kính bạch Chư Tôn Trưởng lão,
Chư Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni,
Cùng toàn thể Phật tử và Đồng bào các giới trong, ngoài nước,

Năm cũ qua, năm mới đến. Nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện, tôi xin gửi đến toàn thể chư liệt vị Trưởng lão, Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni, nam nữ Cư sĩ Phật tử cùng Đồng bào các giới trong và ngoài nước lời cầu chúc một năm an lành, như ý và viên thành Phật sự.

Vì nhớ tưởng mà cây trổ lộc xuân nở hoa, nên Xuân là Mùa Nhớ tưởng. Người dân Việt nhớ tưởng Ông Bà, Tổ tiên đã sinh thành ra nòi giống, quê hương ; người Phật tử nhớ tưởng đức Phật đã trải xuống cõi Diêm Phù Đề con đường giải thoát giác ngộ, đồng lúc nguyện cầu cho Đức Phật Di Lặc thị hiện giữa Mùa Xuân dân tộc, đem tứ vô lượng tâm cải hóa thế giới hận thù, tranh chấp.

Trong Mùa Nhớ tưởng, xin chư liệt vị chớ quên công đức sâu dày của Đức cố Đệ tứ Tăng thống, Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang. Vì nhờ Ngài mà Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vẫn còn hiện hữu uy nghi trước thời đại Pháp nhược ma cường. Nhớ tưởng Ngài là đem hết thân tâm thực hiện lời Ngài căn dặn qua bức Thông điệp Xuân Di Lặc, Phật lịch 2544 :

« Làm con Phật là vượt khỏi địa vị phàm phu, phát bồ đề tâm mà bước vào ngôi vị Bồ Tát. Lấy tâm Đại Bi bảo bọc chúng sanh, lấy tâm Đại Từ làm lợi ích cho chúng sanh, lấy tâm Vô Ngại dẹp tan các chướng duyên và áp bức đang đè nặng nhân thế và muôn loài. Bồ đề tâm ở đâu, Bồ tát ở đó ; Bồ tát ở đâu, Phật đạo ở đó ; Phật đạo ở đâu, An lạc và Tự do ở đó. Bồ đề tâm được phát khởi, thì mọi khổ đau mới chấm dứt ; dù đó là đau khổ vì vô minh hay vì tham luyến, đau khổ của bần cùng hay đau khổ vì áp bức. Công năng này chứa sẵn trong mọi người con Phật, chỉ cần chí thành ưu tư, ước vọng an lành cho hết thảy chúng sanh là Bồ đề tâm hoạt dụng và biến hóa khôn lường ».

Trước cảnh đảo điên của thời thế làm phân hóa lòng người, thì chúng ta hãy nhớ tưởng lời Đức Đệ Tam Tăng Thống, Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu, như bức cẩm nang giải quyết sự khủng hoảng sa lầy của Tăng đoàn do ngoại nhân độc phá. Ngài dạy:

«Trong lịch sử truyền bá Phật Giáo Việt Nam cũng như thế giới, có lúc rất bi thảm đầy tủi nhục, nhưng cũng có lúc vẻ vang rất đáng tự hào. Lúc bi thảm là lúc bản thể của Tăng bị lu mờ, nội bộ của Tăng bị phân hóa và thành phần của Tăng có nhiều quan điểm dị biệt, giới hạnh suy kém và hiểu biết đạo lý một cách cục bộ, phiến diện. Trái lại, lúc vẻ vang là lúc nội bộ chúng Tăng hòa hiệp, biết gạt bỏ những quyền lợi riêng tư, những ngã chấp tầm thường, để tiến xa trên con đường tịnh hạnh, lấy giác ngộ, giải thoát làm cứu cánh, lấy bản nguyện độ sanh làm sự nghiệp»

Đặc biệt năm nay chúng ta hướng lòng tưởng nhớ Đức cố Đại lão Hoà thượng Thích Tịnh Khiết, Ngài là vị Tăng thống thứ nhất thời cận và hiện đại nối tiếp giai phẩm khởi sự từ thời Đinh, lúc Việt Nam minh định chủ quyền dân tộc sau mười thế kỷ bị Bắc phương uy hiếp. Nhớ Ngài là hiến mình hiện diện trên đất nước còn thương đau hôm nay như một thực thể hòa bình. Trong bức Thông điệp Xuân Kỷ Dậu, Phật lịch 2513, Ngài nhắc nhở ân cần:

«Hòa bình chỉ có ý nghĩa đích thực khi bảo đảm được quyền tự chủ quốc gia và những quyền tự do dân chủ căn bản của dân chúng, trong sinh hoạt cộng đồng thế giới. (…) Chúng ta phải hiện diện như một thực thể tiêu biểu đích thực cho nguyện ước Hòa bình của dân tộc để nói lên tiếng nói phát xuất từ thâm tâm con người và tiềm lực dân tộc. Chúng ta không có quyền trao vận mệnh dân tộc này cho những người phi dân tộc, ngụy dân tộc, phản dân tộc. (…) Chỉ có chúng ta, những người Việt đang sống trên đe dưới búa, đang bị tước đoạt quyền sống và bị phá hoại mới có đủ tư cách để tự biện minh trong mọi quyết định vận mệnh chung cho một thể chế quốc gia dân tộc do chính chúng ta tự quyết mà thôi».

Nhân dân Việt Nam, trong đó có Phật tử, phải được sống trong an lạc và tự do để phát triển. Phát triển đời sống vật chất cũng như đời sống văn hóa và tâm linh. Vì vậy Giáo hội phải nói lên ngưỡng vọng của 85 triệu người đòi hỏi cuộc sống nhân quyền và dân chủ để phát triển. Hơn nữa, hiện nay chủ quyền dân tộc đang bị uy hiếp bằng những quyền lực cương hay quyền lực nhu của các manh tâm nước lớn. Phật tử là người hiểu thời thông biến, nên không thể nhắm mắt quay lưng trước các ý đồ mãi quốc. Nước mất thì đạo suy. Cho nên giữ nước là con đường dân tộc hai nghìn năm cứu mình, cứu người đưa quê hương thoát ly xâm lăng, nô lệ và cuồng tín.

Tâm tư của người Phật tử ngày nay là tâm tư của kẻ bị dày xéo từ một thế kỷ rưỡi qua vì những thế lực ngoại lai muốn biến Việt Nam thành chiến trường, thành thị trường, thay vì đạo trường. Tâm tư ấy biến thành cuộc vận động không ngưng nghỉ của Phật giáo suốt thế kỷ XX cho đến nay để phục vụ dân tộc, tổ quốc, nhân loại theo sứ mệnh tôn giáo, chứ không theo cương vị chính trị. Vì vậy mà thái độ của Giáo hội đối với nhà đương quyền Xã hội Chủ nghĩa là thái độ của tôn giáo đối với những chính sách sai lầm, những khuynh loát chính trị, những lạm dụng đất nước và quần chúng.

Cụ thể của chính sách sai lầm, khuynh loát chính trị, lạm dụng đất nước và quần chúng vừa được một lần nữa thấy rõ trong những ngày vừa qua. Khi Nhà nước Xã hội chủ nghĩa đưa ra tòa án giả trá những phần tử ưu tú tương lai của đất nước. Những người tay không tấc sắt với tấm lòng ưu tư trước nạn ngoại xâm và đời sống không có nhân quyền dân chủ, mà Nhà nước và Đảng chẳng đoái hoài. Giáng xuống họ những bản án giam tù và quản thúc nặng nề, khiến dư luận trong và ngoài nước công phẫn, khinh miệt. Đây là bản án của Chế độ Thực dân đầu thế kỷ XX đang được tái hồi cho toàn thể dân tộc vào đầu thiên niên kỷ thứ ba.

Hiểu rõ bi kịch đang ngăn cản sự phát triển quốc gia, làm cho văn hóa suy đồi, đạo lý nghiêng ngửa như thế, chư liệt vị Trưởng lão, Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni, cùng đồng bào Phật tử trong và ngoài nước hãy cùng đứng lên đảm trách sự cứu khổ trừ nguy mà đức Phật trao truyền : Hễ là Chánh đạo thì tiến tới, chỉ sợ bước tới không mau ; hễ không phải Chánh đạo thì lui bước, chỉ sợ đi lui không gấp.

Nguyện cầu chư Phật mười phương gia hộ chư Liệt vị năm an lành, thành công viên mãn đại nghĩa bồ đề.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Làm tại Thanh Minh Thiền Viện,
Saigon, ngày 8.2.2010
Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống
kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN
(ấn ký)
Sa môn Thích Quảng Độ