Wednesday, July 15, 2009

HỊCH TƯỚNG SĨ - Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn

    HỊCH TƯỚNG SĨ

    BẢN HÁN VĂN CÓ DIỄN NÔM

    諭諸裨將檄文
    Dụ chư tỳ tướng hịch văn
    余常聞之
    Dư thường văn chi:
    紀信以身代死而脫高帝
    Kỷ Tín dĩ thân đại tử nhi thoát Cao Đế;
    由于以背受戈而蔽招王
    Do Vu dĩ bối thụ qua nhi tế Chiêu Vương.
    蓣讓吞炭而復主讎
    Dự Nhượng thốn thán nhi phục chủ thù;
    申蒯断臂而赴國難
    Thân Khoái đoạn tí nhi phó quốc nạn.
    敬德一小生也身翼太宗而得免世充之圍
    Kính Đức nhất tiểu sinh dã, thân dực Thái Tông nhi đắc miễn Thế Sung chi vi;
    杲卿一遠臣也口罵禄山而不從逆賊之計
    Cảo Khanh nhất viễn thần dã, khẩu mạ Lộc Sơn nhi bất tòng nghịch tặc chi kế.
    自古忠臣義士以身死國何代無之
    Tự cổ trung thần nghĩa sĩ, dĩ thân tử quốc hà đại vô chi?
    設使數子區區為兒女子之態
    Thiết sử sổ tử khu khu vi nhi nữ tử chi thái,
    徒死牖下烏能名垂竹白
    Đồ tử dũ hạ, ô năng danh thùy trúc bạch,
    與天地相為不朽哉
    Dữ thiên địa tương vi bất hủ tai!
    汝等
    Nhữ đẳng
    世為將種不曉文義
    Thế vi tướng chủng, bất hiểu văn nghĩa,
    其聞其說疑信相半
    Kỳ văn kỳ thuyết, nghi tín tương bán.
    古先之事姑置勿論
    Cổ tiên chi sự cô trí vật luận.
    今余以宋韃之事言之
    Kim dư dĩ Tống, Thát chi sự ngôn chi:
    王公堅何人也
    Vương Công Kiên hà nhân dã?
    其裨將阮文立又何人也
    Kỳ tỳ tướng Nguyễn Văn Lập hựu hà nhân dã?
    以釣魚鎖鎖斗大之城
    Dĩ Điếu Ngư tỏa tỏa đẩu đại chi thành,
    當蒙哥堂堂百萬之鋒
    Đương Mông Kha đường đường bách vạn chi phong,
    使宋之生靈至今受賜
    Sử Tống chi sinh linh chí kim thụ tứ!
    骨待兀郎何人也
    Cốt Đãi Ngột Lang hà nhân dã?
    其裨將赤脩思又何人也
    Kỳ tỳ tướng Xích Tu Tư hựu hà nhân dã?
    冒瘴厲於萬里之途
    Mạo chướng lệ ư vạn lý chi đồ,
    獗南詔於數旬之頃
    Quệ Nam Chiếu ư sổ tuần chi khoảnh,
    使韃之君長至今留名
    Sử Thát chi quân trưởng chí kim lưu danh!
    況余與汝等
    Huống dư dữ nhữ đẳng,
    生於擾攘之秋
    Sinh ư nhiễu nhương chi thu;
    長於艱難之勢
    Trưởng ư gian nan chi tế.
    竊見偽使往來道途旁午
    Thiết kiến ngụy sứ vãng lai, đạo đồ bàng ngọ.
    掉鴞烏之寸舌而陵辱朝廷
    Trạo hào ô chi thốn thiệt nhi lăng nhục triều đình;
    委犬羊之尺軀而倨傲宰祔
    Ủy khuyển dương chi xích khu nhi cứ ngạo tể phụ.
    托忽必列之令而索玉帛以事無已之誅求
    Thác Hốt Tất Liệt chi lệnh nhi sách ngọc bạch, dĩ sự vô dĩ chi tru cầu;
    假雲南王之號而揫金銀以竭有限之傥庫
    Giả Vân Nam Vương chi hiệu nhi khu kim ngân, dĩ kiệt hữu hạn chi thảng khố.
    譬猶以肉投餒虎寧能免遺後患也哉
    Thí do dĩ nhục đầu nỗi hổ, ninh năng miễn di hậu hoạn dã tai?
    余常
    Dư thường
    臨餐忘食
    Lâm xan vong thực,
    中夜撫枕
    Trung dạ phủ chẩm,
    涕泗交痍
    Thế tứ giao di,
    心腹如搗
    Tâm phúc như đảo.
    常以未能食肉寢皮絮肝飲血為恨也
    Thường dĩ vị năng thực nhục tẩm bì, nhứ can ẩm huyết vi hận dã.

    Tuy
    余之百身高於草野
    Dư chi bách thân, cao ư thảo dã;
    余之千屍裹於馬革
    Dư chi thiên thi, khỏa ư mã cách,
    亦願為之
    Diệc nguyện vi chi.
    汝等
    Nhữ đẳng
    久居門下
    Cửu cư môn hạ,
    掌握兵權
    Chưởng ác binh quyền.
    無衣者則衣之以衣
    Vô y giả tắc ý chi dĩ y;
    無食者則食之以食
    Vô thực giả tắc tự chi dĩ thực.
    官卑者則遷其爵
    Quan ti giả tắc thiên kỳ tước;
    祿薄者則給其俸
    Lộc bạc giả tắc cấp kỳ bổng.
    水行給舟
    Thủy hành cấp chu;
    陸行給馬
    Lục hành cấp mã.
    委之以兵則生死同其所為
    Ủy chi dĩ binh, tắc sinh tử đồng kỳ sở vi;
    進之在寢則笑語同其所樂
    Tiến chi tại tẩm, tắc tiếu ngữ đồng kỳ sở lạc.
    其是
    Kỳ thị
    公堅之為偏裨
    Công Kiên chi vi thiên tì,
    兀郎之為副貳
    Ngột Lang chi vi phó nhị,
    亦未下爾
    Diệc vị hạ nhĩ.
    汝等
    Nhữ đẳng
    坐視主辱曾不為憂
    Tọa thị chủ nhục, tằng bất vi ưu;
    身當國恥曾不為愧
    Thân đương quốc sỉ, tằng bất vi quý.
    為邦國之將侍立夷宿而無忿心
    Vi bang quốc chi tướng, thị lập di tú nhi vô phẫn tâm;
    聽太常之樂宴饗偽使而無怒色
    Thính thái thường chi nhạc, yến hưởng ngụy sứ nhi vô nộ sắc.
    或鬥雞以為樂
    Hoặc đấu kê dĩ vi lạc;
    或賭博以為娛
    Hoặc đổ bác dĩ vi ngu.
    或事田園以養其家
    Hoặc sự điền viên dĩ dưỡng kỳ gia;
    或戀妻子以私於己
    Hoặc luyến thê tử dĩ tư ư kỷ.
    修生產之業而忘軍國之務
    Tu sinh sản chi nghiệp, nhi vong quân quốc chi vụ;
    恣田獵之遊而怠攻守之習
    Tứ điền liệp chi du, nhi đãi công thủ chi tập.
    或甘美酒
    Hoặc cam mỹ tửu;
    或嗜淫聲
    Hoặc thị dâm thanh.
    脱有蒙韃之寇來
    Thoát hữu Mông Thát chi khấu lai,
    雄雞之距不足以穿虜甲
    Hùng kê chi cự, bất túc dĩ xuyên lỗ giáp;
    賭博之術不足以施軍謀
    Đổ bác chi thuật, bất túc dĩ thi quân mưu.
    田園之富不足以贖千金之軀
    Ðiền viên chi phú, bất túc dĩ thục thiên kim chi khu;
    妻拏之累不足以充軍國之用
    Thê noa chi lụy, bất túc dĩ sung quân quốc chi dụng.
    生產之多不足以購虜首
    Sinh sản chi đa, bất túc dĩ cấu lỗ thủ;
    獵犬之力不足以驅賊眾
    Liệp khuyển chi lực, bất túc dĩ khu tặc chúng.
    美酒不足以沈虜軍
    Mỹ tửu bất túc dĩ trấm lỗ quân;
    淫聲不足以聾虜耳
    Dâm thanh bất túc dĩ lung lỗ nhĩ.
    當此之時
    Ðương thử chi thời,
    我家臣主就縛
    Ngã gia thần chủ tựu phọc,
    甚可痛哉
    Thậm khả thống tai!
    不唯余之采邑被削
    Bất duy dư chi thái ấp bị tước,
    而汝等之俸祿亦為他人之所有
    Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc vi tha nhân chi sở hữu;
    不唯余之家小被驅
    Bất duy dư chi gia tiểu bị khu,
    而汝等之妻拏亦為他人之所虜
    Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc vi tha nhân chi sở lỗ;
    不唯余之祖宗社稷為他人之所踐侵
    Bất duy dư chi tổ tông xã tắc, vi tha nhân chi sở tiễn xâm,
    而汝等之父母墳墓亦為他人之所發掘
    Nhi nhữ đẳng chi phụ mẫu phần mộ, diệc vi tha nhân chi sở phát quật;
    不唯余之今生受辱雖百世之下臭名難洗惡謚長存
    Bất duy dư chi kim sinh thụ nhục, tuy bách thế chi hạ, xú danh nan tẩy, ác thụy trường tồn,
    而汝等之家清亦不免名為敗將矣
    Nhi nhữ đẳng chi gia thanh, diệc bất miễn danh vi bại tướng hĩ!
    當此之時
    Ðương thử chi thời,
    汝等雖欲肆其娛樂
    Nhữ đẳng tuy dục tứ kỳ ngu lạc,
    得乎
    Đắc hồ?
    今余明告汝等
    Kim dư minh cáo nhữ đẳng,
    當以措火積薪為危
    Đương dĩ thố hỏa tích tân vi nguy;
    當以懲羹吹虀為戒
    Đương dĩ trừng canh xuy tê vi giới.
    訓練士卒
    Huấn luyện sĩ tốt;
    習爾弓矢
    Tập nhĩ cung thỉ.
    使
    Sử
    人人逄蒙
    Nhân nhân Bàng Mông;
    家家后羿
    Gia gia Hậu Nghệ.
    購必烈之頭於闕下
    Cưu Tất Liệt chi đầu ư khuyết hạ;
    朽雲南之肉於杲街
    Hủ Vân Nam chi nhục ư cảo nhai.
    不唯余之采邑永為青氈
    Bất duy dư chi thái ấp vĩnh vi thanh chiên,
    而汝等之俸祿亦終身之受賜
    Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc chung thân chi thụ tứ;
    不唯余之家小安床褥
    Bất duy dư chi gia tiểu đắc an sàng nhục,
    而汝等之妻拏亦百年之佳老
    Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc bách niên chi giai lão;
    不唯余之宗廟萬世享祀
    Bất duy dư chi tông miếu vạn thế hưởng tự,
    而汝等之祖父亦春秋之血食
    Nhi nhữ đẳng chi tổ phụ diệc xuân thu chi huyết thực;
    不唯余之今生得志
    Bất duy dư chi kim sinh đắc chí,
    而汝等百世之下芳名不朽
    Nhi nhữ đẳng bách thế chi hạ, phương danh bất hủ;
    不唯余之美謚永垂
    Bất duy dư chi mỹ thụy vĩnh thùy,
    而汝等之姓名亦遺芳於青史矣
    Nhi nhữ đẳng chi tính danh diệc di phương ư thanh sử hĩ.
    當此之時
    Ðương thử chi thời,
    汝等雖欲不為娛樂
    Nhữ đẳng tuy dục bất vi ngu lạc,
    今余
    Đắc hồ!
    今余歷選諸家兵法為一書名曰兵書要略
    Kim dư lịch tuyển chư gia binh pháp vi nhất thư, danh viết Binh thư yếu lược.
    汝等
    Nhữ đẳng
    或能專習是書受余教誨是夙世之臣主也
    Hoặc năng chuyên tập thị thư, thụ dư giáo hối, thị túc thế chi thần chủ dã;
    或暴棄是書違余教誨是夙世之仇讎也
    Hoặc bạo khí thị thư, vi dư giáo hối, thị túc thế chi cừu thù dã.
    何則
    Hà tắc?
    蒙韃乃不共戴天之讎
    Mông Thát nãi bất cộng đái thiên chi thù,
    汝等記恬然不以雪恥為念不以除凶為心
    Nhữ đẳng ký điềm nhiên, bất dĩ tuyết sỉ vi niệm, bất dĩ trừ hung vi tâm,
    而又不教士卒是倒戈迎降空拳受敵
    Nhi hựu bất giáo sĩ tốt, thị đảo qua nghênh hàng, không quyền thụ địch;
    使平虜之後萬世遺羞
    Sử bình lỗ chi hậu, vạn thế di tu,
    上有何面目立於天地覆載之間耶
    Thượng hữu hà diện mục lập ư thiên địa phú tái chi gian da?
    故欲汝等明知余心
    Cố dục nhữ đẳng minh tri dư tâm,
    因筆以檄云
    Nhân bút dĩ hịch vân.

    Tác giả: Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
* BẢN DỊCH TIẾNG ANH CỦA GEORGE F, SHCULTZ

TRAN HUNG DAO'S PROCLAMATION TO HIS OFFICERS
Translated and adapted by George F. Schultz

I have often read the story of Ky Tin who replaced the Emperor Cao to save him from death, of Do Vu who took a blow in his back to spare King Chieu, of Du Nhuong who swallowed burning charcoal to avenge his leader, of Than Khoai who cut off an arm to save his country, of young Kinh Duc who rescued the Emperor Thai Tong besieged by The Sung, and of Cao Khanh, a subject living far from the Court, who insulted the rebel Loc Son to his face. Every century has produced heroes who have sacrificed their lives for their country. If they had remained at home to die by the fire, would their names have been inscribed on bamboo and silk to live eternally in Heaven and on the Earth?

But as descendants of warrior families, you are not well-versed in letters; on hearing about these deeds of the past, you may have some doubts. Let us speak of them no more. I shall tell you instead of several more recent events that have taken place during the years of the Tong and Nguyen dynasties.

Who was Vuong Cong Kien? And who was his lieutenant Nguyen Van Lap? They were the ones who defended the great citadel of Dieu Ngu against Mong Kha's immense army; Therefore, the Tong people will be eternally grateful to them.

Who was Cot-Ngai Ngot-Lang? And who was his lieutenant Xich Tu Tu? They were the ones who drove deep into an unhealthful country in order to put down the Nam-Chieu bandits and they did it within the space of a few weeks; therefore, their names have remained rooted in the minds of the Mongol military chieftains.

You and I were born in a period of troubles and have grown up at a time when the Fatherland is in danger. We have seen the enemy ambassadors haughtily traveling over our roads and wagging their owlish tongues to insult the Court. Despicable as dogs and goats, they boldly humiliate our high officials. Supported by the Mongol emperor, they incessantly demand the payment of pearls, silks, gold and silver. Our wealth is limited but their cupidity is infinite. To yield to their exactions would be to feed their insatiable appetites and would set a dangerous precedent for the future.

In the face of these dangers to the Fatherland, I fail to eat during the day and to sleep at night. Tears roll down my cheeks and my heart bleeds as if it were being cut to shreds. I tremble with anger because I cannot eat our enemy's flesh, lie down in his skin, chew up his liver, and drink his blood. I would gladly surrender my life a thousand times on the field of battle if I could do these things.

You have served in the army under my orders for a long time. When you needed clothing, I clothed you; when you lacked rice, I fed you; when your rank was too low, I promoted you; when your pay was insufficient, I increased it. If you had to travel by water, I supplied you with vessels; if you had to travel by land, I supplied you with horses. In time of war, we shared the same dangers; at the banquet table our laughter resounded in unison. Indeed, even Cong-Kien and Ngot-Lang did not show more solicitude for their officers than I have displayed for you.

And now, you remain calm when your emperor is humiliated; you remain indifferent when your country is threatened! You, officers, are forced to serve the barbarians and you feel no shame! You hear the music played for their ambassadors and you do not leap up in anger. No, you amuse yourselves at the cockfights, in gambling, in the possession of your gardens and rice fields, and in the tranquility of family life. The exploitation of your personal affairs makes you forget your duties to the State; the distractions of the fields and of the hunt make you neglect military exercises; you are seduced by liquor and music. If the enemy comes, will your cocks' spurs be able to pierce his armor? Will the ruses you use in your games of chance be of use in repulsing him? Will the love of your wives and children be of any use in the Army? Your money would neither suffice to buy the enemy's death, your alcohol to besot him, nor your music to deafen him.

All of us, you and I together, would then be taken prisoner. What grief! And not only would I lose my fief, but your property too would fall into enemy hands. It would not be my family alone that would be driven out, but your wives and children would also be reduced to slavery. It would not be only the graves of my ancestors that would be trampled under the invader's heel, but those of your ancestors would also be violated. I would be humiliated in this life and in a hundred others to come, and my name would be ignominiously tarnished. Your family's honor would also be sullied forever with the shame of your defeat. Tell me: Could you then indulge yourselves in pleasures?

I say to you in all frankness: Take care as if you were piling wood by the fire or about to imbibe a hot liquid. Exercise your soldiers in the skills of archery until they are the equals of Bang Mong and Hau Nghe, those famous archers of olden times. Then we will display Tat-Liet's head at the gates of the Imperial Palace and send the King of Yunnan to the gallows.

After that, not only my fief will be safe forever, but your privileges too will be assured for the future. Not only my family will enjoy the comforts of life, but you too will be able to spend your old age with your wives and children. Not only the memory of my ancestors will be venerated from generation to generation, but yours too will be worshipped in the spring and autumn of every year. Not only will I have accomplished my aspirations in this life, but your fame too will endure for a hundred centuries to come. Not only will my name be immortalized, but yours too will find a place in our nation's history. At that moment, would you not be perfectly happy even if you did not expect to be?

I have studied every military treatise in order to write my manual entitled "Principles of Military Strategy". If you will make an effort to study it conscientiously, to instruct yourselves in its teachings, and to follow my directions, you will become my true companions-in- arms. On the other hand, if you fail to study it and ignore my advice, you will become my enemies. Why? Because the Mongols are our mortal enemies; we cannot live under the same sky with them.

If you refuse to fight the Mongols in order to wash away the national shame, if you do not train your soldiers to drive out these barbarians, it would be to surrender to them. If that is what you want, your names will be dishonored forever. And when the enemy has finally been defeated, how will you be able to hold your head high between Heaven and Earth?

The purpose of this proclamation is to let you know my deepest thoughts.

Tác giả: Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
----------------------------

Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước. Kính Đức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có ? Ví thử mấy người đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình thì cũng đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách cùng trời đất muôn đời bất hủ được ?

Các ngươi vốn dòng võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước hẵng tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói: Vương Công Kiên là người thế nào ? Nguyễn Văn Lập, tỳ tướng của ông lại là người thế nào ? Vậy mà đem thành Điếu Ngư nhỏ tày cái đấu đương đầu với quân Mông Kha đường đường trăm vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay còn đội ơn sâu ! Cốt Đãi Ngột Lang là người thế nào ? Xích Tu Tư tỳ tướng của ông lại là người thế nào ? Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm đánh quỵ quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt !

Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau.

Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.

Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá, nào có kém gì?

Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng nào ! Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng ?

Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" làm nguy; nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông, mọi người đều tài như Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhaị Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không ?

Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù.

Vì sao vậy ? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa ?

Cho nên ta viết bài hịch này để các ngươi hiểu rõ bụng ta.
---

Trong thời quân Nguyên sang xâm chiếm nước ta, sau hội nghị quân sự ở Vạn Kiếp để bàn định kế chống giặc Nguyên, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn viết "hịch" cho phổ biến trong dân chúng để hiệu triệu các tướng sĩ và nhân dân hãy cương quyết chống xâm lăng. Nội dung bài hịch được cử nhân Nguyễn Văn Bình dịch thành lối song thất lục bát như sau:
    BẢN DIỄN SONG THẤT LỤC BÁT

    Xưa Kỷ Tín liều thân chịu chết,
    Cứu Hán Vuơng thoát khỏi Hoàng Dương
    Do Vu cháu Sở Chiêu Vương,
    Giơ lưng đỡ giáo tìm đường cứu vua.
    Kìa Dự Nhượng thuở xưa người Tấn,
    Từng nuốt than lận đận phục thù.
    Kìa Thân Khoái một Tể Phu,
    Chặt tay theo nạn với vua Tề.
    Quan nhỏ nhưa Uất Trì Kính Đức,
    Giúp Thái Tông khỏi bước trùng vi.
    Cảo Khanh quan ở biên thùy,
    Già mồm chửi giặc không hề tiếc thân.
    Bậc nghĩa sĩ trung thần từ trước,
    Từng diệt thân cứu nước có nhiều.
    Những người kia nếu chẳng liều,
    Chết suông như đám nữ lưu xó nhà.
    Còn danh tiếng đâu mà chép lại,
    Cùng kiền khôn truyền mãi không ngần.
    Các ngươi dòng dõi vũ thần,
    Xưa này nào có hiểu văn nghĩa gì.
    Nghe câu chuyện bán nghi bán tin,
    Sự muôn năm nhắc đến chi vay ?
    Nay ta hãy nói cho hay,
    Thử xem Tống, Thát truyện này ra sao ?
    Vương Công Kiên người nào thế vậy ?
    Tướng Nguyễn Văn Lập ấy người nào ?
    Điếu ngư thằng bé tẻo teo,
    Chống quân Mông Cổ ồn ào trăm muôn..
    Khiến quân Tống thắng luôn mấy trận,
    Đến bây giờ dân vẫn hàm ân.
    Ngột Lang là tướng Đốc Quân,
    Với Tỳ tướng Xích là nhân phẩm nào ?
    Ngoài muôn dặm quản bao nước độc,
    Trong mấy ngày phá rốc quân Nam.
    Lòng vua Thát Đát đã cam,
    Đ^'n nay lừng lẫy tiếng thơm nhường nào ?
    Ta với ngươi sinh vào đời loạn,
    Vừa gặp bao cơn vận hạn gian nan.
    Sứ Nguyên lai vãng bao lần,
    Mọi nơi đường sá muôn vàn nôn nao.
    Triều đình bị cú diều soi mói,
    Tể tướng thì lang sói rẻ khinh.
    Mượn oai Hốt Liệt tranh giành,
    Lấy bao của báu chưa đành lòng tham..
    Cậy thế chúa Vân Nam nạt nã,
    Đòi bạc vàng hết cả kho ta.
    Thịt nuôi hùm đói mãi a ?
    Sao cho thoát khỏi lo xa sau này.
    Ta đây những hàng ngày quên bữa,
    Lúc đêm thâu ngồi dựa gối kiêu.
    Giọt châu tầm tã tuôn trào,
    Như nung gan sắt, như bào lòng son.
    Chí nhừng muốn moi gan lấy tiết,
    Lòng những toan xẻ thịt vằm da.
    Dù thân dầu với cỏ hoa,
    Dù da ngựa bọc thân đà cũng vui.
    Các người vốn là người môn thuộc
    Được trông nom mọi việc binh cơ,
    Áo không, ta cỡi áo cho,
    Cơm không, ta sẻ cơm no cho lòng.
    Quan nhỏ thì ta phong chức cả,
    Lộc ít thì ta trả lương thêm.
    Đi sông, ta cấp cho thuyền,
    Đi đường, ta cũng lệnh truyền ngựa đi.
    Cho cầm quân an nguy cùng lối,
    Cho nằm yên, vui nói cùng hàng.
    So Vương Kiên với Ngột Lang,
    Đãi chư Tỳ tướng mọi người kém chi.
    Nếu vua nhục ngươi thì chẳng đoái,
    Mà nước nguy, ngươi lại làm ngơ,
    Đừng hầu tướng giặc không dơ,
    Nghe ca thết sứ vẫn trơ táo ngồi
    Khi gà chọi, khi thời cờ bạc,
    Cuộc vui chơi, gỡ gạc đủ trò.
    Ruộng vườn muôn sự ấm no,
    Vợ con vui thú riêng cho một mình.
    Ham lập nghiệp, quên tình nhà, nước,
    Mãi đi săn, nhác việc ngăn, ngừa.
    Rượu chè hôm sớm say sưa,
    Hát hay, đàn ngọt sớm trưa thỏa lòng
    Đúng có lúc quân Mông, Thát tới,
    Cựa gà không chọc nỗi áo da,
    Những nghề cờ bạc tinh ma,
    Phải đâu kế hoạch của nhà cầm quân ?
    Ruộng nương nào đủ phần chuộc mạng,
    Vợ con nào đủ cáng quân nhu ?
    Của đâu chuốc được đầu thù ?
    Chó săn đâu đủ sức khua giặc trời ?
    Rượu ngon khó làm mồi bã giặc,
    Hát hay không làm điếc tai thù.
    Bây giờ chẳng sót lắm ru ?
    Vua tôi bị trói gô một đàn !
    Tước ấp ta bị tan nát cả,
    Bổng lộc người cũng chẳng còn gì
    Gia đình ta bị đuổi đi,
    Vợ ngươi cũng phải đến khi nhục nhằn
    Tông xã ta, địch quân xéo đi,
    Phần mộ ngươi cũng bị quật lên.
    Đời ta khổ nhục liên miên,
    Cái tên nhơ nhuốc lưu truyền mãi sau !
    Nhà các ngươi cũng đều mang tiếng,
    Không khỏi làm những tướng bị thua.
    Các ngươi đang lúc bây giờ,
    Muốn mong vui thích như xưa được nào ?
    Lời ta nhũ thấp ca ngươi nhớ,
    Phải coi nằm trên lửa là nguy.
    Kiềng canh đưa cũng thổi xùy,
    Luyện quân sĩ tốt tập nghề đao cung.
    Khiến ai nấy nức lòng mạnh mẽ,
    Sức Bàn Mông, Hậu Nghệ cũng ham.
    Bêu đầu Hốt Liệt cho cam,
    Phơi luôn thịt chúa Vân Nam bên đường.
    Tước ấp ta chăn thường ấm chỗ,
    Bổng lộc ngươi hưởng có trọn đời
    Gia đình ta được yên vui,
    Vợ con ngươi cũng lo đời trăm năm.
    Tông miếu ta nghìn năm hương lửa,
    Tổ tiên ngươi muôn thuở cương thường,
    Ta đây phỉ chí bồng tang,
    Các ngươi dường cũng vẻ vang vô cùng.
    Huy hiệu ta tôn sùng mãi mãi
    Tính danh ngươi ghi với sử xanh.
    Bấy giờ vui thú linh đình,
    Các ngươi đều muốn buồn tênh được nào ?
    Này binh pháp soạn theo đời trước,
    Là "Binh Thư Yếu Lược" ban ra,
    Các ngươi theo đúng sách ta,
    Ấy là thần, chủ một nhà từ xưa.
    Nếu bỏ sách thờ ơ lời dạy,
    Ấy kẻ thù đã mấy đời nay,
    Tại sao mà lại thế vầy ?
    Là thù không đội trời này được chung.
    Nếu các ngươi lòng không biết hổ,
    Không coi đều "sát Lỗ" là cần,
    Lại không vâng dạy luyện quân,
    Ấy là quay giáo, bó thân quy hàng.
    Giặn yên rồi còn mang tiếng mãi,
    Mặt mũi nào đứng với ca cao đây ?
    Muốn ngươi hiểu rõ lòng đây,
    Vậy nên thảo bức hịch nầy cho nghe.
    Tác giả: Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn

Nhờ có bài Hịch trên đây mà quân Nam đã toàn thắng quân Mông Cổ hết sức vẻ vang, lưu lại cho hậu thế một kỳ công hiển hách bia truyền vạn đại.

Chú thích:

Kỷ Tín:
tướng của Hán Cao Tổ Lưu Bang. Khi Lưu Bang bị Hạng Vũ vây ở Huỳnh Dương, Kỷ Tín giả làm Hán Cao Tổ ra hàng, bị Hạng Vũ thiêu chết. Hán Cao Tổ nhờ thế mới thoát được.
Do Vu: tướng của Sở Chiêu Vương thời Xuân Thu. Theo Tả Truyện, Sở Chiêu Vương bị nước Ngô đánh phải lánh sang phương Đông, một đêm bị cướp vây đánh. Do Vu đã chìa lưng ra đỡ giáo cho vua mình.
Dự Nhượng: gia thần của Trí Bá thời Chiến Quốc. Trí Bá bị Triệu Tương Tử giết, Dự Nhượng bèn nuốt than cho khác giọng đi, giả làm hành khất, mưu giết Tương Tử để báo thù cho chủ.
Thân Khoái: quan giữ ao cá của Tề Trang Công thời Xuân Thu. Trang Công bị Thôi Trữ giết, Thân Khoái bèn chết theo chủ.
Kính Đức: tức Uất Trì Cung đời Đường. Khi Đường Thái Tông (bấy giờ còn là Tần Vương Lý Thế Dân) bị Vương Thế Sung vây, ông đã lấy mình che chở, hộ vệ cho Thái Tông chạy thoát.
Cảo Khanh: họ Nhan, một bề tôi trung của nhà Đường. Khi An Lộc Sơn nổi loạn, đánh đuổi Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi, ông đã cả gan chưởi mắng An Lộc Sơn và bị cắt lưỡi.
Vương Công Kiên: tướng tài nhà Tống, giữ Hợp Châu, lãnh đạo quân dân Tống cầm cự với quân Mông Cổ do Mông Kha chỉ huy ở núi Điếu Ngư suốt bốn tháng trời. Mông Kha cuối cùng bị loạn tên chết, quân Mông Cổ đành phải rút lui.
Điếu Ngư: tên ngọn núi hiểm trở ở Tứ Xuyên, ba mặt nhìn xuống sông. Đời Tống, Dư Giới đắp thành ở đó.
Mông Kha: tức Mongke, anh của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, làm Đại Hãn Mông Cổ từ năm 1251. Mông Kha trực tiếp chỉ huy cuộc viễn chinh sang Trung Quốc và các nước phía Đông. Ông bị tử trận năm 1259 dưới chân thành Điếu Ngư trong cuộc vây hãm đội quân Tống do Vương Công Kiên chỉ huy..
Cốt Đãi Ngột Lang: tức Uriyangqadai, tướng giỏi của Mông Cổ, con của viên tướng nổi tiếng Subutai. Cốt Đãi Ngột Lang nhận lệnh của Mông Kha, cùng Hốt Tất Liệt đánh chiếm nước Nam Chiếu. Cốt Đãi Ngột Lang cũng là viên tướng chỉ huy đạo quân Mông Cổ xâm lược Đại Việt lần thứ nhất (1258).
Xích Tu Tư: chép Xích theo Hoàng Việt Văn Tuyển. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép Cân. Hai chữ gần giống nhau, không biết quyển nào chép nhầm. Hiện nay, chưa có tài liệu nào nói gì về viên tướng này, và việc khôi phục lại tên Mông Cổ từ Hán tự cũng không phải là chuyện đơn giản.
Nam Chiếu: nước nhỏ nằm ở khoảng giữa tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam ngày nay; thủ đô là Đại Lý, thuộc Vân Nam.
Hốt Tất Liệt: tức Qubilai, em ruột và là tướng của Mông Kha. Sau khi Mông Kha tử trận ở Điếu Ngư, Hốt Tất Liệt tự xưng làm Đại Hãn ở Khai Bình, khiến xảy ra cuộc nội chiến tranh giành ngôi báu với em ruột là Ariq-Buka. Năm 1264, Ariq-Buka đầu hàng, Hốt Tất Liệt bèn dời đô về Yên Kinh (tức Bắc Kinh ngày nay), xưng Nguyên Thế Tổ, lập nên nhà Nguyên.
Vân Nam Vương: tức Hugaci hay Thoát Hoan, con ruột Hốt Tất Liệt, được phong làm Vân Nam Vương năm 1267 với nhiệm vụ khống chế các dân tộc thiểu số vùng này cũng như mở rộng biên cương nhà Nguyên về phía Nam. Thoát Hoan là người chỉ huy quân Nguyên xâm lược Đại Việt lần thứ hai năm 1285 và lần thứ ba năm 1287-1288.
Nghìn thây ta bọc trong da ngựa: điển tích lấy từ câu nói của viên tướng khét tiếng Mã Viện đời Hán chép trong Hậu Hán Thư - Đại trượng phu dương tử ư cương trường, dĩ mã cách khỏa thi nhĩ. (Bậc đại trượng phu nên chết ở giữa chiến trường, lấy da ngựa mà bọc thây.)
Thái thường: tên loại nhạc triều đình dùng trong những buổi tế lễ quan trọng ở tông miếu. Bấy giờ là thời kỳ ngoại giao căng thẳng giữa ta và quân Nguyên, trong những buổi yến tiệc tiếp sứ Nguyên, triều đình nhà Trần nhiều khi phải buộc dùng đến nhạc thái thường để mua vui cho sứ giả. Trần Quốc Tuấn xem đó là một điều nhục nhã.
Thái ấp: phần đất vua Trần phong cho các vương hầu.
Đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ: từ câu văn trong Hán Thư - phù bão hỏa, thố chi tích tân chi hạ nhi tẩm kỳ thượng, hỏa vị cập nhiên nhân vị chi an. (Ôm mồi lửa, đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên, lửa chưa kịp cháy vẫn cho là yên.)
Kiềng canh nóng mà thổi rau nguội: xuất xứ từ một câu văn trong Sở Từ - trừng ư canh nhi xuy tê hề. (Người bị bỏng vì canh nóng, trong lòng đã e sợ sẵn, dù gặp rau nguội đi nữa, cũng vẫn thổi như thường.)
Bàng Mông: danh tướng đời nhà Hạ, có tài bắn cung trăm phát trăm trúng.
Hậu Nghệ: một nhân vật bắn cung giỏi nữa trong thần thoại Trung Quốc.
Cảo Nhai: nơi trú ngụ của các vua chư hầu khi vào chầu vua Hán ở Trường An.
Mãi mãi vững bền: nguyên văn chữ Hán là vĩnh vi thanh chiên. Sách Thế Thuyết chép chuyện Vương Tử Kính đêm nằm ngủ thấy bọn trộm vào nhà "sạch sành sanh vét" mọi vật. Ông từ tốn bảo chúng rằng: cái nệm xanh (thanh chiên) này là đồ cũ của nhà ta, các ngươi làm ơn để lại. Tác giả dùng điển tích này để chỉ những của cải được lưu truyền từ đời này sang đời khác.
Binh Thư Yếu Lược: tức Binh Gia Diệu Lý Yếu Lược, nay đã thất truyền. Tác phẩm với đầu đề tương tự được lưu truyền hiện nay không phải là văn bản thực thụ, trong đó có vài đoạn chép các trận đánh thời Lê Nguyễn sau này.
Dẹp yên nghịch tặc: nguyên văn chữ Hán là bình lỗ chi hậu. Các dịch giả Dương Quảng Hàm, Trần Trọng Kim đoán Bình Lỗ là tên đất ở đâu đó vùng Phù Lỗ thuộc tỉnh Vĩnh Phú ngày nay. Ở đây, chúng tôi theo Ngô Tất Tố và Phan Kế Bính dịch thoát là bình định nghịch tặc nói chung.

Bình Ngô Đại Cáo - Nguyễn Trãi

  • Bình Ngô đại cáo (1427) là bài cáo của Nguyễn Trãi viết thay lời Bình Định vương Lê Lợi để tuyên cáo kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập cho Đại Việt.
    Trích dẫn từ Bình Ngô đại cáo của Wikipedia.

Bình Ngô đại cáoBình Ngô đại cáoBình Ngô đại cáoBình Ngô đại cáo
Nguyên văn (Hán văn) "Bình Ngô đại cáo"
Nguyên bản tiếng Hán Phiên âm tiếng Việt
代天行化皇上若曰。

蓋 聞 ﹕

仁 義之 舉, 要 在 安 民,
弔伐 之 師 莫 先 去 暴 。
惟 我 大 越 之 國,
實 為文 獻 之 邦 。
山 川 之 封域 既 殊,
南 北 之 風 俗亦 異 。
自 趙 丁 李 陳 之肇 造 我 國,
與 漢 唐 宋元 而 各 帝 一 方 。
雖 強弱 時 有 不 同
而 豪 傑 世未 常 乏 。

故 劉 龔 貪 功以 取 敗,
而 趙 禼 好 大 以 促 亡 。
唆 都 既 擒 於 鹹 子 關 ,
烏 馬 又 殪 於 白 藤 海 。
嵇 諸 往 古,
厥 有 明 徵。

頃 因 胡 政 之 煩 苛 。
至 使 人 心 之 怨 叛 。
狂明 伺 隙, 因 以 毒 我 民;
惡 黨 懷 奸, 竟 以 賣我 國 。
焮 蒼 生 於 虐 焰,
陷 赤 子 於 禍 坑 。
欺天 罔 民, 詭 計 蓋 千 萬狀;
連 兵 結 釁 稔 惡 殆二 十 年 。
敗 義 傷 仁 ,乾 坤 幾 乎 欲 息;
重 科厚 歛, 山 澤 靡 有 孑 遺。
開 金 場 塞 冒 嵐 瘴 而斧 山 淘 沙,
採 明 珠 則觸 蛟 龍 而 緪 腰 汆 海 。
擾 民 設 玄 鹿 之 陷 阱 ,
殄 物 織 翠 禽 之 網 羅 。
昆 虫 草 木 皆 不 得 以 遂其 生,
鰥 寡 顛 連 俱 不獲 以 安 其 所 。
浚 生 靈之 血 以 潤 桀 黠 之 吻 牙;
極 土 木 之 功 以 崇 公私 之 廨 宇 。
州 里 之 征徭 重 困,
閭 閻 之 杼 柚皆 空 。
決 東 海 之 水 不足 以 濯 其 污,
罄 南 山之 竹 不 足 以 書 其 惡 。
神 民 之 所 共 憤,
天 地之 所 不 容 。



奮 跡 藍山,
棲 身 荒 野 。
念 世讎 豈 可 共 戴,
誓 逆 賊難 與 俱 生 。
痛 心 疾 首者 垂 十 餘 年,
嘗 膽 臥薪 者 蓋 非 一 日 。
發 憤忘 食, 每 研 覃 韜 略 之書,
即 古 驗 今, 細 推究 興 亡 之 理 。
圖 回 之志
寤 寐 不 忘 。
當 義 旗初 起 之 時,
正 賊 勢 方張 之 日 。

奈 以 ﹕

人 才秋 葉,
俊 傑 晨 星 。
奔走 先 後 者 既 乏 其 人 ,
謀 謨 帷 幄 者 又 寡 其 助。
特 以 救 民 之 念, 每鬱 鬱 而 欲 東;
故 於 待賢 之 車, 常 汲 汲 已 虛左 。

然 其

得 人 之 效 茫若 望 洋,
由 己 之 誠 甚於 拯 溺 。
憤 兇 徒 之 未滅,
念 國 步 之 遭 迍 。
靈 山 之 食 盡 兼 旬,
瑰縣 之 眾 無 一 旅 。
蓋 天欲 困 我 以 降 厥 任,
故與 益 勵 志 以 濟 于 難 。
揭 竿 為 旗, 氓 隸 之 徒四 集
投 醪 饗 士, 父 子之 兵 一 心 。
以 弱 制 彊, 或 攻 人 之 不 備;
以寡 敵 眾 常 設 伏 以 出 奇。

卒 能

以 大 義 而 勝 兇殘,
以 至 仁 而 易 彊 暴。
蒲 藤 之 霆 驅 電 掣 ,
茶 麟 之 竹 破 灰 飛 。
士氣 以 之 益 增,
軍 聲 以之 大 振 。
陳 智 山 壽 聞風 而; 褫 魄,
李 安 方 政 假 息 以 偷生 。
乘 勝 長 驅, 西 京既 為 我 有;
選 兵 進 取, 東 都 盡 復 舊 疆 。
寧橋 之 血 成 川, 流 腥 萬里;
窣 洞 之 屍 積 野 ,遺 臭 千 年 。
陳 洽 賊 之腹 心, 既 梟 其 首;
李亮 賊 之 奸 蠹, 又 暴 厥屍 。
王 通 理 亂 而 焚 者益 焚,
馬 瑛 救 鬥 而 怒者 益 怒 。
彼 智 窮 而 力盡, 束 手 待 亡;
我 謀伐 而 心 攻, 不 戰 自 屈。
謂 彼 必 易 心 而 改 慮,
豈 意 復 作 孽 以 速 辜。
執 一 己 之 見 以 嫁 禍於 他 人,
貪 一 時 之 功以 貽 笑 於 天 下 。
遂 靈宣 德 之 狡 童, 黷 兵 無厭;
仍 命 晟 昇 之 懦 將, 以 油 救 焚 。
丁 未 九月 柳 昇 遂 引 兵 猶 邱 溫而 進,
本 年 十 月 木 晟又 分 途 自 雲 南 而 來 。
予 前 既 選 兵 塞 險 以 摧其 鋒,
予 後 再 調 兵 截路 以 斷 其 食 。
本 月 十八 日 柳 昇 為 我 軍 所 攻, 計 墜 於 支 稜 之 野 ;
本 月 二 十 日 柳 昇 又 為我 軍 所 敗, 身 死 於 馬鞍 之 山 。
二 十 五 日 保定 伯 梁 銘 陣 陷 而 喪 軀,
二 十 八 日 尚 書 李 慶計 窮 而 刎 首 。

我 遂 迎刃 而 解,
彼 自 倒 戈 相攻 。
繼 而 四 面 添 兵 以包 圍,
期 以 十 月 中 旬而 殄 滅 。
爰 選 貔 貅 之士,
申 命 爪 牙 之 臣 。
飲 象 而 河 水 乾,
磨 刀而 山 石 鈌 。
一 鼓 而 黥刳 鱷 斷,
再 鼓 而 鳥 散麇 驚 。
決 潰 蟻 於 崩 堤,
振 剛 風 於 稿 葉 。
都督 崔 聚 膝 行 而 送 款 ,
尚 書 黃 福 面 縛 以 就 擒。
僵 屍 塞 諒 江 諒 山 之途,
戰 血 赤 昌 江 平 灘之 水 。
風 雲 為 之 變 色,
日 月 慘 以 無 光 。

其雲 南 兵 為 我 軍 所 扼 於梨 花 ,自 恫 疑 虛 喝 而先 以 破 腑;
其 沐 晟 眾 聞 昇軍 大 敗 於芹 站, 遂 躪 藉 奔 潰 而 僅 得 脫 身。
冷 溝 之 血杵 漂, 江 水 為 之 嗚 咽;
丹 舍 之 屍 山 積, 野草 為 之 殷 紅 。
兩 路 救兵 既 不 旋 踵 而 俱 敗 ,
各 城 窮 寇 亦 將 解 甲 以出 降 。
賊 首 成 擒, 彼既 掉 餓 虎 乞 憐 之 尾 ;
神 武 不 殺, 予 亦 體 上帝 孝 生 之 心 。
參 將 方政, 內 官 馬 騏, 先 給艦 五 百 餘 艘, 既 渡 海而 猶 且 魂 飛 魄 散;
總兵 王 通, 參 政 馬 瑛 ,又 給 馬 數 千 餘 匹, 已還 國 而 益 自 股 慄 心 驚。
彼 既 畏 死 貪 生, 而修 好 有 誠;
予 以 全 軍為 上, 而 欲 民 之 得 息。

非 惟 謀 計 之 極 其 深遠,
蓋 亦 古 今 之 所 未見 聞 。
社 稷 以 之 奠安,
山 川 以 之 改 觀 。
乾 坤 既 否 而 復 泰,
日月 既 晦 而 復 明 。
于 以開 萬 世 太 平 之 基,
于以 雪 天 地 無 窮 之 恥 。
是 由 天 地 祖 宗 之 靈 有 以 默 相 陰 佑 而 致 然 也 !

於 戲 !

一戎 大 定, 迄 成 無 兢 之功;
四 海 永 清, 誕 布維 新 之 誥 。
播 告 遐 邇,
咸 使 聞 知 。
Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết:

Cái văn:

Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.
Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi phong vực ký thù,
Nam bắc chi phong tục diệc dị.
Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,[1]
Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương.
Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,
Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.

Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,
Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.
Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,
Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.[2]
Kê chư vãng cổ,
Quyết hữu minh trưng.

Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà,
Trí sử nhân tâm chi oán bạn.
Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;
Nguỵ đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc.
Hân thương sinh ư ngược diệm,
Hãm xích tử ư họa khanh.
Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;
Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên.
Bại nghĩa thương nhân, càn khôn ky hồ dục tức;
Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di.
Khai kim trường, tắc mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,
Thái minh châu, tắc xúc giao long nhi hoàn yêu thộn hải.
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,
Điễn vật chức thúy cầm chi võng la.
Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,
Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.
Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;
Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.
Châu lý chi chinh dao trọng khốn,
Lư diêm chi trữ trục giai không.
Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô,
Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.
Thần dân chi sở cộng phẫn,
Thiên địa chi sở bất dung.

Dư:

Phấn tích Lam Sơn,
Thê thân hoang dã.
Niệm thế thù khởi khả cộng đái,
Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.
Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên,
Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.
Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,
Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.
Đồ hồi chi chí
Ngộ mị bất vong.
Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,
Chính tặc thế phương trương chi nhật.

Nại dĩ:

Nhân tài thu diệp,
Tuấn kiệt thần tinh.
Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân,
Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.
Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;
Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.

Nhiên kỳ:

Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,
Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch.
Phẫn hung đồ chi vị diệt,
Niệm quốc bộ chi tao truân.
Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,
Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.
Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,
Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.
Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.
Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;
Dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ.

Tốt năng:

Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo.
Bồ Đằng chi đình khu điện xế,
Trà Lân chi trúc phá khôi phi.
Sĩ khí dĩ chi ích tăng,
Quân thanh dĩ chi đại chấn.
Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,
Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.
Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;
Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.
Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;
Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.
Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;
Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.
Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,
Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.
Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;
Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.
Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,
Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.
Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân,
Tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên hạ.
Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;
Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần.
Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến,
Bản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.
Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,
Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.
Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng chi dã;
Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã Yên chi sơn.
Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu,
Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.

Ngã toại nghênh nhận nhi giải,
Bỉ tự đảo qua tương công.
Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,
Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.
Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ,
Thân mệnh trảo nha chi thần.
Ẩm tượng nhi hà thủy càn,
Ma đao nhi sơn thạch khuyết.
Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,
Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.
Quyết hội nghĩ ư băng đê,
Chấn cương phong ư cảo diệp.
Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,
Thượng thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm.
Cương thi tái Lạng Giang, Lạng Sơn chi đồ,
Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thủy.
Phong vân vị chi biến sắc,
Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.

Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;
Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân đại bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.
Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị chi ô yết;
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.
Lưỡng lộ cứu binh, ký bất toàn chủng nhi câu bại,
Các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng.
Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;
Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.
Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.

Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,
Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.
Xã tắc dĩ chi điện an,
Sơn xuyên dĩ chi cải quán.
Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,
Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,
Vu dĩ tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ.
Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu, nhi trí nhiên dã.

Ô hô!

Nhất nhung đại định, ngật thành vô cạnh chi công;
Tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo.
Bá cáo hà nhĩ,
Hàm sử văn tri.
---oOo---

Tượng mảng:

Việc nhân-nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu-phạt chỉ vì khử bạo,
Như nước Việt ta từ trước,
Vốn xưng văn-hiến đã lâu,
Sơn-hà cương-vực đã chia,
Phong-tục bắc nam cũng khác.
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc-lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng-cứ một phương,
Dẫu cường nhược có lúc khác nhau,
Song hào-kiệt đời nào cũng có.

Vậy nên

Lưu Cung sợ uy mất vía,
Triệu Tiết nghe tiếng giật mình,
Cửa Hàm-tử giết tươi Toa Đô,
Sông Bạch-đằng bắt sống Ô Mã,
Xét xem cổ-tích,
Đã có minh-trưng,

Vừa rồi

Vì họ Hồ chính-sự phiền-hà,
Để trong nước nhân-dân oán bạn,
Quân cường Minh đã thừa-cơ tứ ngược,
Bọn gian-tà còn bán nước cầu vinh,
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung-tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai-vạ.
Chước dối đủ muôn nghìn khoé,
Ác chứa ngót hai mươi năm.
Bại nhân-nghĩa nát cả càn-khôn,
Nặng khóa-liễm vét không sơn-trạch
Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu,
Nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim trả,
Tàn-hại cả côn-trùng thảo-mộc,
Nheo-nhóc thay! quan quả diên liên
Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy! no-nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục-dịch cho vừa,
Nặng-nề về những nỗi phu-phen,
Bắt-bớ mất cả nghề canh-cửi.
Độc-ác thay! trúc rừng không ghi hết tội,
Dơ-bẩn thay! nước bể khôn rửa sạch mùi,
Lẽ nào trời đất tha cho,
Ai bảo thần-nhân nhịn được.

Ta đây:

Núi Lam-sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang-dã nương mình,
Ngắm non sông căm nổi thế thù,
Thề sống chết cùng quân nghịch-tặc,
Đau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa,
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối,
Quên ăn vì giận, sách lược-thao suy-xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng-phế đắn-đo càng kỹ.
Những trằn-trọc trong cơn mộng-mị,
Chỉ băn-khoăn một nỗi đồ hồi.
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang thịnh.

Lại ngặt vì:

Tuấn-kiệt như sao buổi sớm,
Nhân-tài như lá mùa thu,
Việc bôn-tẩu thiếu kẻ đỡ-đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn-bạc.
Đôi phen vùng-vẫy, vẫn đăm-đăm con mắt dục đông
Mấy thủa đợi chờ, luống đằng-đẵng cỗ xe hư-tả,
Thế mà trông người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt-mù như kẻ vọng dương,
Thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội-vã như khi chửng nịch,
Phần thì giận hung-đồ ngang-dọc,
Phần thì lo quốc-bộ khó-khăn,
Khi Linh-sơn lương hết mấy tuần,
Khi Khôi-huyện quân không một đội,
Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma,
Cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử.
Múa đầu gậy ngọn cờ phất-phới, ngóng vân-nghê bốn cõi đan hồ,
Mở tiệc quân chén rượu ngọt-ngào, khắp tướng-sĩ một lòng phụ-tử.
Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi,
Quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.

Dọn hay:

Đem đại nghĩa để thắng hung-tàn,
Lấy chí nhân mà thay cường-bạo.
Trận Bồ-đằng sấm vang sét dậy,
Miền Trà-lân trúc phá tro bay,
Sĩ-khí đã hăng,
Quân-thanh càng mạnh,
Trần Trí, Sơn Thọ, mất vía chạy tan.
Phương Chính, Quý An tìm đường trốn-tránh.
Đánh Tây-kinh phá tan thế giặc.
Lấy Đông-đô thu lại cõi xưa,
Dưới Ninh-kiều máu chảy thành sông,
Bến Tụy-động xác đầy ngoài nội.
Trần Hiệp đã thiệt mạng,
Lý Lương lại phơi thây.
Vương Thông hết cấp lo-lường,
Mã Anh khôn đường cứu-đỡ
Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao,
Ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất.
Tưởng nó đã thay lòng đổi dạ, biết lẽ tới lui,
Ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội-nghiệt.
Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người,
Tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dở-duốc.
Đến nỗi đứa trẻ con như Tuyên-đức, nhàm võ không thôi.
Lại sai đồ nhút-nhát như Thạnh, Thăng đem đầu chữa cháy.
Năm Đinh-mùi tháng chín,
Liễu Thăng tự Khâu-ôn tiến sang[1],
Mộc Thạnh tự Vân-nam kéo đến.
Ta đã điều binh thủ hiểm, để ngăn lối Bắc-quân,
Ta lại sai tướng chẹn ngang, để tuyệt đường lương-đạo.
Mười-tám, Liễu Thăng thua ở Chi-lăng[2],
Hai-mươi, Liễu Thăng chết ở Mã-yên,
Hai-mươi-lăm, Lương Minh trận vong,
Hai-mươi-tám, Lý Khánh tự vẫn,
Lưỡi dao ta đang sắc,
Ngọn giáo giặc phải lùi,
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc.
Sĩ-tốt ra oai tì-hổ,
Thần-thứ đủ mặt trảo nha.
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận sạch không kinh-ngạc.
Đánh hai trận tan-tác chim-muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê cũ.
Thôi Tụ phải quỳ mà xin lỗi,
Hoàng Phúc tự trói để hàng.
Lạng-giang, Lạng-sơn, thây chất đầy đồng,
Xương-giang, Bình-than, máu trôi đỏ nước.
Ghê-gớm thay! sắc phong-vân phải đổi,
Thảm-đạm thay! sáng nhật-nguyệt phải mờ.
Binh Vân-nam nghẻn ở Lê-hoa, sợ mà mất mật.
Quân Mộc Thạnh tan chưng Cần-trạm, chạy để thoát thân,
Suối máu Lãnh-câu, nước sông rền-rĩ,
Thành xương Đan-xá, cỏ nội đầm-đìa.
Hai mặt cứu-binh, cắm đầu trốn chạy,
Các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu.
Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội,
Thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh.
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ-hôi.
Nó đã sợ chết cầu hòa, mở lòng thú-phục,
Ta muốn toàn quân làm cốt, cả nước nghỉ-ngơi.
Thế mới là mưu-kế thật khôn,
Vả lại suốt xưa nay chưa có.

Giang-san từ đây mở mặt,
Xã-tắc từ đây vững-bền.
Nhất-nguyệt hối mà lại minh,
Kiền-khôn bĩ mà lại thái.
Nền vạn thế xây nên chăn-chắn.
Thẹn nghìn thu rửa sạch làu-làu.
Thế là nhờ trời đất tổ-tông khôn-thiêng giúp-đỡ cho nước ta vậy.

Than ôi!

Vẫy vùng một mảnh nhung-y, nên công đại định.
Phẳng-lặng bốn bề thái-vũ, mở hội vĩnh-thanh,
Bá cáo xa gần,
Ngỏ cùng nghe biết.

Người dịch: Bùi Kỷ

Tư Tưởng Bán Nước Của Hồ Chí Minh - Hồ Đinh

    TỪ DÔNG DƯƠNG CỘNG SẢN ÐẢNG TỚI TƯ TƯỞNG BÁN NƯỚC CỦA HỒ CHÍ MINH
Hồ Đinh

Sau khi CS Bắc Việt cưỡng chiếm được toàn thể lãnh thổ VN vào trưa ngày 30-4-1975, ngoài sự nhuộm đỏ quê hương trong máu lệ, còn đẩy dân tộc tới địa ngục khốn nghèo, nhục nhã và mất mát hơn bất cứ một thời kỳ nào trong lịch sử, kể cả những năm tháng bị Pháp thuộc. Chính Nguyễn văn Linh, tổng bí thư đảng VC trước cảnh kinh tế suy đồi của đất nước vào thập niên 80, không còn thuốc chữa cũng như che dấu được, đã phải xưng tội với tờ Times của Mỹ ngày 21-9-1987, đồng thời ra mặt "CHÊ BAI CHỦ THUYẾT MARX-LÊNIN" là chế độ thư lại trung ương tập quyền, khiến cho dân chúng lầm than khốn đốn.

Tóm lại để chạy tội cướp của giết người cùng sự thất bại thảm thê trong thời gian thống trị và đô hộ cả nước, CSVN đã theo bước quan thầy Nga-Tàu, đem luận thuyết Lê-Marx ra làm vật tế thần để cứu đảng.

Năm 1989, các chế độ độc tài cọng sản đệ tam tại Ðông Âu lần lượt sụp đổ. Năm 1990 Ðức thống nhất, sau khi Ðông Ðức từ bỏ thiên đàng xã nghĩa và đập bỏ bức tường ô nhục Bá Linh. Cuối cùng tại Liên Xô, chẳng những chế độ cọng sản bị diệt tuyệt, mà tính đến tháng 8-1990, đã có 13 trong số 15 nước Cộng Hòa thuộc đế quốc Liên Sô, tuyên bố độc lập hoàn toàn. Cũng kể từ đó tới nay, thiên đàng xã hội chủ nghĩa chỉ còn lại bốn địa ngục môn. Ðó là Bắc Hàn, Cu Ba, Trung Cộng và Việt Cộng.. nhờ dựa vào tư bản nhất là Hoa Kỳ, để cố lội ngược thời gian, tiến thẳng lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.. như luận cương của đệ tam quốc tế cọng sản đề ra năm 1930.

Tại VN, sau khi chủ thuyết Marx-Lenin bị nhân loại quăng vào sọt rác, đảng vội vã vơ vét lại những lời nói của Hồ cách đây hơn nửa thế kỷ và gọi đó là ‘Tư Tưởng Hồ Chí Minh’, vừa để dụ khị bọn cán bộ trung kiên già nua đang chao đảo trước cuộc đổi đời, vừa lừa gạt thế giới rằng là ‘ đảng ta độc lập, không mắc mớ gì tới chủ nghĩa LêMarx.’

Nói một cách bình dân học vụ không cần úp mở, VC khi cho Hồ Chí Minh đội nắp hòm kiếng sống lại với đảng, chẳng qua cũng chỉ mượn miệng Hồ, để nhất quyết: ‘Tiêu diệt các hình thức sở hữu không thuộc xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế riêng rẽ trở thành thuần nhất và trên hết chế độ sở hữu của toàn dân , là không ai có được của riêng vì nhà nước là chủ tất cả từ người tới của cải vật chất’. Như vậy VC ngày nay, trị nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh vừa dẫn trên, cái thứ tư tưởng mà lúc Hồ còn sống, cũng chỉ dựa theo luận thuyết của Lenin thời đó, về các vấn đề dân tộc, thuộc địa và cũng là con đường giải phóng dân tộc VN của Hồ và Ðảng.

Trò hề kéo xác chết Hồ ra khỏi nhà mồ vĩ đại Ba Ðình, dựng lại những huyền thoại tưởng tượng, tuy có gây chút hào khí nơi bọn đảng viên VC già nua trong nước và một đám Việt gian trí thức, ăn chén đá bát, no cơm rửng mỡ nơi hải ngoại, thì cũng không thể dấu nổi ‘Sự Ngiệp Vĩ Ðại Bán Nước và làm tôi tớ cho Nga Tàu, của Cáo Hồ và đồng đảng gần tám mươi năm qua và hiện tại do Nông Ðức Mạnh, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng cầm đầu. ’ ’.

1. ÐÔNG DƯƠNG CỘNG SẢN ÐẢNG

Từ các tài liệu hiện còn lưu trữ nhất là của Ðảng VC, thì tiền thân của đảng cộng sản Việt Nam là Nhóm Tân Việt Thanh Niên Ðoàn hay Tâm Tâm Xã của Việt Nam Quang Phục Hội do Phan Bội Châu và Cường Ðể thành lập. Sau đó là Việt Nam Kách Mệnh Thanh Niên Hội rồi Việt Nam Kách Mệnh Ðồng Chí Hội, lung tung danh xưng, như chính con người Nguyễn Tất Thành, xác chỉ một mà tên thì có hằng trăm. Thật ra các tổ chức trên đều dựa vào tên tuổi có sẳn của Tâm Tâm Xã, để Hồ lấy đó thu hút và dụ dỗ các thanh niên yêu nước đang lạc lỏng trên con đường chống Pháp tại hải ngoại. Quyết định mọi sự đều do một tổ chức bí mật của Hồ đứng sau lưng, tức là Ðoàn Cọng Sản gồm những thành phần thân tín tuyển chọn, mà trong tài liệu của Ban Phương Ðông gọi là Việt Nam Kách Mệnh Hội (viết theo chữ của Nguyễn Ái Quốc).

Xưa nay hầu hết những người Quốc Gia dấn thân, dù là ai chăng nữa cũng phải tự mưu sinh kiếm sống để hoạt động sinh tồn. Vì thế họ dễ bị thất bại hay dang dở nữa chừng, điển hình là Việt Nam Cộng Hòa qua cuộc chiến ngăn chống cọng sản quốc tế từ năm 1955-1975, đã phải bõ dở cuộc chiến thắng gần kề, vì không còn phương tiện tự tồn khi bi Hoa Kỳ phản bội và tháo chạy.

Trái lại VC, nhất là Hồ Chí Minh từ lúc bán thân cho đệ tam cọng sản quôc tế, thì không hề lo tới chuyện ăn sống. Liên Xô lúc đó qua chủ trương xuất cảng chủ nghĩa Tam Vô khắp thế giới, nên đã vơ vét hết tài nguyên của đất nước mình, để vung tiền mua chuộc người theo, nhất là với Trung Hoa ÐANG ÐÓI NGHÈO, LẠC HẬU VÀ BỊ Tây Phương-Nhật Bổn ức chế.

Lý Thụy tức Hồ Chí Minh may mắn lọt vào kho vàng, vừa yên ổn múa may trên đất Tàu lại có hậu phương LX to lớn yểm trợ, thì sao không khuyến dụ được những thanh niên yêu nước lúc đó, đang sống bơ vơ thiếu thốn và đầy hiểm nguy trên đất Tàu, Nhật, Thái và khắp Âu Châu. Bởi vậy người Quốc Gia chỉ với tấm lòng yêu nước nồng nàn, thì thất bại trước giặc cướp, cũng đâu có gì là lạ.

Ðể đạt mục đích nhuộm đỏ quê hương, đầu tiên là phải có thực lực và Nguyễn Ái Quốc đã trồng người và những cây người mọc rể từ Tâm Tâm Xã có trước như Lê Thiết Hùng, Lê Quang Ðạt, Trương văn Lệnh, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Trần Phú. Tóm lại, tất cả đều là người Việt bằng xương thịt nhưng tim óc do Liên Xô tưới trồng với nhiệm vụ duy nhất ‘quảng bá tư tưởng Mac-Lê’ trên quê hương Việt Nam.

Và tấn thảm kịch VN được bắt đầu từ ngày 21-06-1925, khi Hồ qua tổ chức Việt Nam Kách Mệnh Thanh Niên Hội, đem tư tưởng Lenin từ Nga về VN truyền bá, qua các báo Thanh Niên, Lính kách mệnh, Công Nông, Tiền Phong. Cơ sở cộng sản đầu tiên được thành lập trong nước là Kỳ Bộ Nghệ-Tỉnh vào năm 1926, do Lê Huy Lập làm Bí thư. Kế tiếp mới tới Hải Phòng, Hà Nội và sau rốt là Nam Kỳ.

Tuy nhiên dù được tổ chức chặt chẽ, có đầy đủ tiền bạc, phương tiện nhưng lúc đó không có bao nhiêu người biết Việt Nam Kách Mệnh Thanh Niên Hội hay Nguyễn Ái Quốc là gì. Trái lại khắp nước, mọi người nô nức gia nhập các đảng phái Quốc Gia vừa được thành lập như Việt Nam Quốc Dân Ðảng của nhóm Nguyễn Thái Học ra đời tại Bắc Kỳ năm 1927. Tại Trung Kỳ có Việt Nam Cách Mạng Ðảng hay Tân Việt Ðảng. Trong Nam, mọi người theo Ðảng Lập Hiến và Cao Ðài giáo. Ðảng Cộng Sản bấy giờ chẳng những bị dân chúng tẩy chay, mà còn bị Mật Thám Pháp ruồng bố, nên rốt cục các cán bộ đầu nảo như Phạm văn Ðồng, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng văn Hoan phải trốn sang Xiêm La, Tàu hay bị bắt.

Cũng trong năm 1925, việc Phan Bội Châu bị mật thám Pháp bắt cóc ở Thượng Hải, rồi bí mật giải về Hà Nội hiện nay vẫn còn là một nghi án, mặc dù đa số tài liệu trong và ngoài nước, đều xác quyết do Lý Thụy, tức Hồ Chí Minh cùng Lâm Ðức Thụ, bán đứng cho thực dân, để nhận số tiền thưởng rất lớn lúc đó, lên tới 150.000 phật lăng. Cũng tại Quảng Châu, theo tin tình báo của Pháp ngày 18-10-1926, bác ‘Hồ’ cưới một nữ hộ sinh Tàu trong đảng CS Trung Hoa tên Tăng Tuyết Minh làm vợ. Sau này vào tháng 5-1991, báo Nhân Dân và Tuổi Trẻ của VC mới chịu đăng tin xác nhận là ‘bác’ cũng có vợ như mọi người, chứ không hề còn trinh hay trai tơ như báo chí của đảng ta đã phổ biến từ trước, chỉ vì muốn bảo mật trong thời gian ‘ bác ‘ chống ‘ Mỹ-Ngụy ‘ cứu nước.

Tại Trung Hoa đầu năm 1925, Tôn Dật Tiên qua đời đột ngột, khiến nội bộ TH Quốc Dân Ðảng phân hoá trầm trọng vì tranh giành quyền lực. Trong lúc đó đảng CS Trung Hoa, từ phong trào Ngũ Tứ ngày 4-5-1919, của 3000 sinh viên biểu tình chống Hội Quốc Liên, bắt Tàu cắt nhượng Tô Giới Ðức cho Nhật Bổn. Trong phong trào này, hàng lãnh đạo có nhiều người Mácxít tả phái như Trần Ðộc Tú, Trương Thái Lôi, Lý Ðại Chiêu đã giúp cho đảng bành trướng rất nhanh, tới tháng 7-1921 khắp nước đã có hơn 60.000 đảng viên hoạt động. Rồi ngày 30-05-1925, toàn quốc phát động phong trào Ngũ Táp, đình công bãi thị, khiến Nhật, Anh, Pháp tại các tô giới thẳng tay đàn áp, đe doạ trầm trọng tình trạng an ninh khắp nước. Ðể cứu vãn tình hình, trong tháng 3-1927 Tưởng Giới Thạch từ miền Nam xua quân lên Bắc, mượn danh đánh Nhật, bất thần tiêu diệt toàn bộ cơ sở của đảng cọng sản Tàu tại Bắc Bình, Thượng Hải, treo cổ lãnh tụ Lý Ðại Chiêu.

Khắp nơi, quân Quốc Dân Ðảng xuống tay tiêu diệt trọn vẹn từ cơ sở tới chi nhánh, đảng bộ.. khiến cộng đảng chỉ còn đường trốn chạy. Tính đến tháng 12-1927 hơn 40.000 đảng viên cọng sản Trung Hoa đã bị Tưởng Giới Thạch bắt giết, khiến Chu Ðức, Mao Trạch Ðông phải chạy về vùng nông thôn tỉnh Giang Tây cố thủ. Tại Quảng Châu, trụ sở đảng Việt Nam Kách Mệnh của Hồ bị tàn phá. Hồ Tùng Mậu bi bắt, các thanh niên Việt Nam đang theo học tại trường Võ Bị Hoàng Phố bi giam lỏng để thanh lọc. Borodin bị gọi về Liên Xô, còn Hồ thì trốn theo cánh quân Trung Cộng tới Sa Ðầu để về Nga Sô Viết. Tóm lại giai đoạn đi thực tế đễ trở thành một chuyên viên cọng sản, Hồ đã hoàn thành và cũng kể từ đó, chỉ còn có một bổn phận duy nhất ‘tiếp tục trung thành, hữu dụng cho đế quốc Liên Xô và mưu đồ độc chiếm ngai vàng cho mình’.

Theo tài liệu cho biết, trước khi Hồ Chí Minh qua nhân vật Lý Thụy tới Quảng Châu để phụ tá Toàn Quyền Liên Xô là Boradin, thì tại đây đã có tổ chức Tâm Tâm Xã thuộc VN Quang Phục Hội, do Phan Bội Châu và Cường Ðể thành lâp. Trong nhóm đa số gồm nhiều thanh niên yêu nước trí thức, phần lớn sinh trưởng tại Nghệ An và Hà Tỉnh, trong đó có Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Phong. Chính Phan Bội Châu đã can thiệp với Tưởng Giới Thạch, lúc đó là Giám Ðốc Chỉ Huy trưởng Trường Sĩ Quan Hoàng Phố, thu nhận các thanh niên VN vào học. Do trên Lê Hồng Phong đã được nhập học tại đây từ tháng 7/1924.

Năm 1925, Hồ và Lâm Ðức Thụ bán Phan Bội Châu cho Pháp, đồng thời tiếm trọn tổ chức Tâm Tâm Xã lúc đó như rắn mất đầu, bằng tiền bạc, khuyến dụ đưa những thanh niên yêu nước chân thành trong trắng, bước vào con đường nhuộm đỏ VN, cũng như giúp xác, máu, đưa Hồ lên đài danh vọng. Do trên, vào tháng 10/1926, Lý Thụy bí mật đưa nhiều thanh niên như Lê Hồng Phong, Trần văn Giàu ... sang học tại trường Phương Ðông Lenin ở Liên Xô. Trước đây không ai biết trường này đã dạy những gì nhưng theo lời Nguyễn Hữu Dung, thì tại đây Lê Hồng Phong được học đủ thứ, qua một thời gian dài từ tháng 10/1926 cho tới năm 1931, mới tốt nghiệp. Theo đó thì Phong đã trải qua các khóa Lý luận quân sự không quân tại Leningrad, lớp phi công tại Borisglevsk, trước khi chính thức vào học các khóa 2 và 3 tại trường Phương Ðông mà Hồ đã học khóa trước.

Cũng nhờ khoe, mà chúng ta biết thêm được chuyên có nhiều đảng viên CSVN đã cầm súng bảo vệ cho LX, khi nước này bi Ðức tấn công ngày 21/6/1941. Vì vậy ngày 12/12/1985 nhân dịp kỹ niệm 40 năm LX chiến thắng Dức Quốc Xã, đích thân E.C.Ligachov, Ủy viên Bộ Chính Trị Cọng đảng LX, đã ký sắc lệnh truy tặng huân chương chiến tranh vệ quốc hạng nhất cho 5 VC đã thí mạng bảo vệ Mạc Tư Khoa khi bị Ðức tấn công. Ðó là Vương Thúc Chính, Lý Nam Thanh, Lý thúc Chắt, Lý Anh Tạo đã được Lý Thụy gởi từ Quảng Châu tới Nga, trong lúc họ chỉ được 12,13 tuổi. Ngày 14/8/1941, Liên Xô thành lập Lữ Ðoàn Bộ Binh Cơ Giới, gồm toàn cán bộ cọng sản chư hầu đang có mặt ở đây, trong đó có VC, để bảo vệ thủ đô. Ngày 7/11/1941, Lữ Ðoàn này được lệnh ra tiền tuyến, đối mặt với quân Ðức và sau đó không có một người sống sót. Hiện cuộc tìm kiếm những oan hồn lãng tử VC tại Nga chưa chấm dứt nhưng Ðảng ta đã rất lấy làm vinh dự có 12 đồng chí VN, noi theo bước chân lãnh tụ vĩ đại Nguyễn Ái Quốc, đã xã thân phục vụ tốt cho nước tổ Liên Xô.

Thời gian này trong nước cũng xảy ra nhiều biến cố thật quan trọng. Năm 1925 vua Khải Ðịnh mất, đồng thời với cái chết của Phan Chu Trinh tại Sài Gòn và vụ án Phan Bội Châu làm xôn xao cả nước. Ngày 8/1/1926 Ðông Cung Thái Tử Vĩnh Thụy lên ngôi Hoàng Ðế An Nam, lấy hiệu là Bảo Ðại, tiếp tục quyền hành của một ông vua bù nhìn, chỉ lo nhiệm vụ xuân thu nhị kỳ tế cúng và ký sắc lệnh phong thần cho các làng xã. Việc nước đã có người Pháp chủ trì qua đám đại thần ‘nghị gật’ trong cái ‘cơ mật viện’ triều mạt Nguyễn. Thể chế chính trị kỳ lạ này, được Pháp gọi là ‘nền quân chủ lập hiến An Nam’. Sau đó Hoàng Ðế trở lại Paris tiếp tục chuyện học, còn nước non thì mặc cho đế quốc Pháp lo liệu. Nhờ vậy nhà vua đã nói và viết tiếng Tây còn thông thạo hơn tiếng Việt mẹ đẻ của mình.

Ngày 23/11/1925, Pháp mở phiên tòa đại hình tại Hà Nội để xử Phan Bội Châu. Ngay tức khắc, cả nước từ nam tới trung-bắc, hầu như tất cả mọi người, mọi đảng phái từ Phục Việt, Thanh Niên cho tới nhóm Jeune của Phạm Quỳnh đều nhất loạt đứng lên tranh đấu cho nhà ái quốc, khiến cho thực dân phải nhượng bộ, ân xá cho Sào Nam, chỉ bắt ông phải sống tại Huế, qua sự kiểm soát gắt gao của Chánh Sở mật thám Trung Kỳ là Léon Sogny.

Từ đó cụ sống ẩn dật bên lề lịch sử cho tới lúc qua đời vào năm 1940, nhưng ngọn lửa đấu tranh và tiếng thơm của người chí sĩ, đã được các thế hệ em, con thay nhau tiếp nối, làm rạng danh ông ngàn đời trong dòng sử Việt. Tại Sài Gòn, Phan Chu Trinh bệnh nặng và mất ngày 26/03/1926. Theo nhận xét của các sử gia, con đường đấu tranh của ông lúc còn sinh tiền, chỉ để chống lại chế độ quân chủ nhưng tôn thờ nước Pháp làm thầy để học hỏi. Tuy vậy, quốc dân VN vẫn kính trọng những người yêu nước, và toàn quốc đã tổ chức Lễ Quốc Táng Phan Chu Trinh ngày 04/04/1926 tại Sài Gòn, trong sự đàn áp của thực dân Pháp nhưng tất cả đều vô vọng, chứng tỏ tinh thần quốc gia yêu nước của người Việt thế hệ mới, đang đối mặt công khai chống lại giặc cướp, sau 60 năm bị đô hộ.

Ðây cũng là niềm tự hào của một dân tộc, có truyền thống lâu đời về sự đánh đuổi ngoại xâm và cũng từng ngang dọc một thời khắp miền nam Á Châu, khiến cho Trung Hoa cũng phải kiêng dè nể sợ. Cho nên chuyện khôi phục lại đất nước sớm muộn cũng phải có, đó là tâm nguyện và ý chí của người đương thời, giống như chúng ta hôm nay cũng đang hoài vọng.

Trong lúc đó, nền kinh tế VN hoàn toàn do thực dân Pháp và một thiểu số người Âu nắm giữ. Sự giàu sang sung sướng hoàn toàn thuộc về giai cấp nắm quyền, bao gồm Pháp, quan lại Nam triều, các đại gia đình điền chủ thương gia đã đầu hàng Pháp và bọn Hoa kiều tập trung tại Sài Gòn-Chợ Lớn và các thành phố, toa rập với Pháp, độc quyền lúa gạo cùng hệ thống mua bán hàng tạp hóa, trong đó có cá mắm và các sản phẩm nội hóa, kể luôn nhà đất, dịch vụ chuyên chở. Người Việt hoàn toàn chỉ là hạng tiểu tốt, nô dịch làm công cho bọn chúng mà thôi. Thêm vào đó là hiện tương chia rẽ người ba kỳ, qua cái chính sách thâm độc phân chia nước VN gần như ba quốc gia riêng biệt với đia giới, ngân sách và luật pháp mỗi vùng. Từ năm 1920, đại đa số nông dân cả nước chỉ làm công cho chủ, nhiều người nghèo cực ở Bắc và Trung Kỳ phải bỏ xứ vào Nam hay sang Cao Miên, Tân Ðảo làm phu đồn điền cao su, trà, sở đường mía cho thực dân Pháp.

Tóm lại qua chế độ nô lệ cướp bóc dã man này, bất cứ gia đình nào dù là nông dân, làm biển, lao động cũng đều lâm vào cảnh nợ lút đầu, rốt cục phải trắng tay vì nợ nần, lãi xuất quá cao của bọn chủ điền, chủ đất, chủ nhà người Ấn-Hoa-Pháp kiều và đám nhà giàu bản xứ, trong đó có bọn đầu nậu, chủ nhân ông của những người làm nghề hạ bạc nghèo cực trên đầu sóng ngọn gió ngoài biển cả. Báo chí cũng bắt đầu phát triển khắp ba kỳ với các ấn phẩm tiền phong bằng Việt Ngữ như Lục Tỉnh Tân Văn, Ðông Pháp Thời Báo, Trung Lập, Thần Chung, Thực Nghiệp Dân Báo, Nam Phong, Hữu Thanh, Tiếng Dân. Ngoài ra còn có vài tờ báo phụ nữ như Phụ Nữ Tân Vân, Phụ Nữ Thời Ðàm. Trường học cũng phát triển nhất là các trường tư vì trường công ít lại thi tuyển rất khó khăn nhưng quan trọng nhất vẫn là trường Pháp-Nam được mở hầu hết tại các tỉnh, thị, giúp một số lớn tầng lớp thanh thiếu niên trên con đường tân học, sau khi các khóa thi cuối cùng của Khổng Hán kết thúc năm 1919.

Trong giai doạn này, đạo Thiên Chúa với hai hệ phái La Mã và Tin Lành bước vào thời kỳ vàng son và phát triển mạnh. Năm 1929, theo thống kê VN đã có gần 2 triệu giáo dân với 10 giáo phận. Tài sản và quyền lực của các Hội Thánh mênh mông vô tận, đến nổi nhà cầm quyền Pháp cũng không biết đâu mà lường. Hầu hết các giám mục tại địa phận là người Pháp hay Tây Ban Nha.

Trong lúc đó các tôn giáo cổ truyền của người Việt như Phật-Khổng-Lão cũng bắt đầu hồi phục, rầm rộ nhất là các Hội nghiên cứu Phật Giáo, gia đình Phật tử, Hội Khổng Học, Khai Trí Tiến Ðức. Tại Nam Kỳ, hình thành Giáo Phái Cao Ðài hay Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, tín đồ có cả người Pháp, ảnh hưởng lan rộng tới Nam Vang và Ba Lê. Do trên Pháp bất đầu theo dõi giáo phái này, theo lệnh của Thống Ðốc Nam Kỳ là Le Fol. Các Hộ Pháp Lê văn Trung, Phạm Công Tắc bị giám sát, lệnh cấm xây cất thánh thất tại Nam Kỳ có hiệu lực năm 1929, cũng như cấm truyền đạo tại Trung Kỳ. Năm 1931, Bắc Kỳ và Cao Mên cũng cấm đạo Cao Ðài.

Từ những biến chuyển trên, công cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp cũng bước vào một lối rẽ quan trọng với hai khuynh hướng chính trị: Hợp tác và chống Pháp bằng võ lực. Phái hợp tác chủ trương ‘Pháp-Việt đề huề’ hay như Phan Chu Trinh khi còn sống ‘thờ người Pháp làm bậc thầy để cầu tiến bộ’ đứng đầu có Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long... chỉ mong chủ Pháp nhả cho một chút quyền hạn. Cũng thuộc nhóm này, có Nguyễn An Ninh, Phan văn Trường theo gương Phan Châu Trinh, đòi thêm phần bãi bỏ chế độ quân chủ, đồng thời cải thiện tình trạng xã hội, giáo dục, luật pháp.

Nguyễn An Ninh phát hành tờ báo bằng tiếng Pháp tại Việt Nam ‘La Cloche Fêlée’ tức Chuông Rè’, được coi như tờ báo đầu tiên của người Việt, công khai đối lập với Pháp. Khuynh hướng chống Pháp bằng võ lực, bắt đầu từ phong trào Văn Thân, Cần Vương được nối tiếp bởi Phan Bội Châu, Cường Ðể và Nguyễn Hải Thần qua Việt Nam Quang Phục Hội rồi Việt Nam Cách Mệnh Ðảng hay Phục Việt do Lê Huân thành lập tại Côn Ðảo. Từ tháng 7/1925, đảng đổi tên là Hưng Nam, hoạt động tại Nghệ An, quy tụ nhiều thành phần ưu tú gồm công chức, sinh viên thời đó như Ðào Duy Anh, Tôn Quang Phiệt, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Vịnh. Tiếc thay Ðảng yêu nước đã bị Nguyễn Ái Quốc khuyến dụ và trở thành công cụ cho đảng cọng sản cùng Hồ vào năm 1929, sau khi lãnh tụ Lê Huân chết trong tù ngục tỉnh Nghệ An.

Trong giai đoạn này, nổi bật hơn hết vẫn là Việt Nam Quốc Dân Ðảng, được thành lập ngày 24/12/1927 do hai lãnh tụ Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu tại miền Bắc, theo khuynh hướng Tam Dân Chủ Nghĩa của Tôn Dật Tiên. Cuối năm 1928, đảng bành trướng mạnh khắp nước với hơn 100 chi bộ và 1500 đảng viên. Nhiều cán bộ đảng hoạt động trong quân đội Pháp. Nhưng sau vụ tên Pháp kiều Horne Bazin, giám đốc công ty mộ phu đồn điền cao su bị ám sát tại Hà Nội ngày 17/2/1929, Pháp bắt đầu triệt hạ Việt Nam Quốc Dân Dảng, nhiều cán bộ cao cấp bị bắt, chỉ có Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu trốn thoát nên đầu năm 1930 đã ra lệnh Tổng Khởi Nghĩa.

Lúc này Nguyễn Ái Quốc an vị tại Liên Xô tuy Ðệ Tam Quốc Tế Cọng Sản hay Việt Nam Kách Mệnh Thanh Niên Hội vẫn hoạt động tại Việt Nam nhưng chỉ là cái bóng mờ trước Việt Nam Quốc Dân Ðảng, Hưng Nam và Cao Ðài giáo. Rồi vì ganh tỵ, tranh chấp, cọng sản đã giở thủ đoạn VIỆT GIAN, rãi truyền đơn hay báo cáo mật, để mật thám Pháp , giúp VC triệt hạ các đảng phái Quốc Gia đang chống giặc.

Tại Liên Xô, Stalin lên kế quyền Lenin gây cảnh huynh đệ tương tàn. Ngày 14/11/1927 đã trục xuất Trotsky và Zinoviev là hai đồng chí của Lenin ra khỏi đảng cọng sản Nga, đồng thời đày họ tới Tây Bá Lợi Á rồi tháng 1/1929, Trotsky bị trục xuất khỏi Liên Xô. Từ đó, Stalin ban lệnh tiến tới ‘xã hội chủ nghĩa’ mà thí điểm đầu tiên là nước Nga. Nguyễn Ái Quốc được lệnh công tác tại Bá Linh, sau khi đề nghị Trần Phú làm Bí thư nhóm VC đang hoạt động tại Việt Nam, đồng thời xin cho Lê Hồng Phong vào học tại Viện thợ thuyền Ðông Phương. Ðầu năm 1928, Nguyễn Ái Quốc được lệnh trở lại hoạt động tại Ðông Nam Á, địa bàn lần này là Xiêm La.

Theo Hoàng văn Hoan cho biết là Hồ đã có mặt ở đây vào tháng 6/1928. Những bi danh có trước như Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy nay đổi lại là Mr Tho, Nam Sơn và Thầu Chín. Giữa lúc Hồ đang thi hành quốc tế vận, thì đảng cộng sản trong nước qua Nghị quyết hành động của Ðại Hội Quốc Tế Cọng Sản lần thứ VI năm 1928, đã tách thành 5 nhóm cùng những hiềm khích bùng nổ lớn. Nói chung từ tháng 9/1929 Việt Nam Kách Mệnh Thanh Niên Hội coi như tan rã, Quốc phải xin lệnh Stalin cho mình giải quyết. Ðầu năm 1930, Quốc tới Hồng Kông để hàn gắn tranh chấp nội bộ, giữa hai đảng Dông Dương Cọng sản đảng và An Nam cọng sản đảng. Cuối cùng Quốc đưa lệnh của Bộ Phương Ðông, khiến hai phe đồng ý hợp nhất thành một, đó là ‘Ðảng Cọng Sản Việt Nam’, do Trần Phú (1904- 1931) được Liên Xô chỉ định là Tổng Bí Thư đầu tiên.

Hai cuộc nổi dậy của VN Quốc Dân Ðảng vào dịp Tết Canh Ngọ (1930) và các cuộc biểu tình bạo động của giới lao công và nông dân, từ tháng 6/1930 tới giữa năm 1931, dù thất bại nhưng cũng đã gây chấn động khắp nước và lan tới Pháp, mở màn cho cao trào đấu tranh của người Việt, dù thực dân tại Ðông Dương cố đánh dẹp. Ngày 26-1-1930 tại hội nghị Phú Thọ, đảng trưởng Nguyễn Thái Học, quyết định tổng khởi nghĩa, trong đêm giao thừa tết Canh Ngọ. Ông tuyên bố ‘không thành công thì thành nhân’, chứ không thể sống mãi đời nô lệ nhục nhã dưới gót giầy nô lệ ngoại bang.

Cuộc chiến đã thất bại vì nghĩa binh không đủ thực lực chống với giặc Pháp có đầy đủ phương tiện chiến tranh. Làng Vĩnh Bảo trong tỉnh Hải Dương bị bom của Pháp san bằng, hầu hết cán bộ trong đảng bị bắt. Ngày 17-6-1930, Ðảng trưởng Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí lên đoạn đầu đài tại Yên Bái. Ông và các anh hùng đã chết nhưng khí tiết và danh dự luôn là ngọn đuốc soi sáng tâm hồn các thế hệ trong dòng sử Việt. Cũng từ đó, qua ảnh hưởng cuộc khởi nghĩa trên, cộng với hoàn cảnh kinh tế khủng hoảng, đã tạo nên tình trạng rối loạn khắp nước. Lợi dụng cơ hội trên, Trần Phú và cán bộ đảng VC, sách động dân chúng biểu tình chống phá Pháp khắp nơi nhưng rầm rộ nhất là tại Nghệ An, khiến cho hằng trăm người bị Pháp bắn chết.

Cũng trong giai đoạn hỗn loạn này, lần đầu tiên tại VN, cán bộ cọng sản quốc tế, đã rập khuôn Trung Cộng, biến biểu tình thành du kích chiến, tổ chức các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi gọi là Sô Viết tại hai huyện Nam Ðàn và Thanh Chương. Nên sau này mới có danh từ Sô Viết Nghệ Tĩnh. Hậu quả của cuộc xúi bậy này, làm cho Toàn Quyền Ðông Dương Pasquer cho lệnh bắn giết thẳng tay bằng phi cơ giội bom làng mạc, song song với cuộc tảo thanh của Lính Lê Dương, gây nên cảnh tang tóc chưa từng có cho những lương dân vô tội, trước cảnh dao thớt đoạn trường. Loạn lạc kéo dài tới nửa năm 1931, khi cán cộng đầu sỏ không còn và nạn đói khắp nơi, mới tàn lụn.

Ngày 10/10/1931 tại Cửu Long-Hương Cảng, Trần Phú mở hội nghị Trung Ương Ðảng lần thứ 1, ngoài việc gián tiếp chỉ trích sự bất tài của Nguyễn Ái Quốc, còn đổi tên VN cọng sản đảng thành Ðông Dương Cọng sản đảng. Do trên Quốc không tới tham dự dù cũng còn chỉ huy Chi Nhánh Bộ Phương Ðông của Sô Viết tại Hồng Kông. Từ đây trước âm mưu tài trợ của Stalin cho các đảng cọng sản địa phương làm loạn, đã khiến thực dân Tây Phương liên kết với nhau, để chống đỡ.

Vì vậy Cục Phương Nam do Hồ chỉ huy cùng thủ hạ đang hoạt động tại VN, bị mật thám các nước lùng bắt dữ dội. Tháng 4/1931 Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn thị Vịnh bị Anh bắt tại Hồng Kông. Trong nước Trần Phú chết trong tù. Ðây cũng chỉ là cuộc tắm máu khởi đầu (1930-1931) của Quốc Tế Cọng Sản, vì phía sau còn có một hậu phương vĩ đại, chịu chung tiền bạc, vũ khí và bạo lực, để đạt dược thắng lợi cuối cùng, là nhuộm đỏ cả thế giới, trong đó có Ðông Dương.

Chúng ta biết, năm 1931 Nguyễn Ái Quốc chết trong ngục vì nghiện thuốc phiện. Ðây là một trong những chuyện dài không đoạn kết. Nhưng dù là chết thật hay giả, thì cũng kể từ đó, Hồ bị xuống giá, chỉ trích là bọn thời cơ. Tập sách Ðường Kách Mệnh, dùng làm kim chỉ nam cho cán bộ VN Kách Mệnh Thanh niên Hội, của Hồ được coi là thứ dỏm, sặc mùi quốc gia, tiểu tư sản. Tháng 12/1934, Hồ bị ngay chính cơ quan ngoại vi của Ðảng Cọng Sản Ðông Dương, chỉ trích nặng nề trên tờ báo đảng là Bôn-sơ-vic.

Các lãnh tụ Nga cũng không tha Nguyễn Ái Quốc, kết tội nhiều điểm trong đó nặng nhất là hành vi coi thường, không làm đúng lệnh chủ nhân Quốc Tế Cọng Sản đã ban ra. Nói chung theo sử liệu, thì cả Lê Hồng Phong, Trần Văn Giàu và nhất là Tổng Bí Thư Trần Phú, đều không nể nang Nguyễn Ái Quốc. Ðiều này có thể chứng minh là từ năm 1931, khi Trần Phú về làm Tổng Bí Thư ÐDCS đảng, mọi báo cáo đều thỉnh thị trực tiếp với Bộ Phương Ðông tại Mạc Tư Khoa, mà không thèm qua văn phòng của Quốc tại Hồng Kông. Một điều mai mỉa khác là Liên Xô lúc nào cũng coi Ðông Dương, chỉ là một tỉnh của Pháp, kể cả đảng cọng sản Ðông Dương cũng coi là một thành phần phụ thuộc vào đảng cọng sản Pháp.

Về Á Châu, Stalin chỉ coi trọng Trung Cộng mà thôi, dù có đặt Ban Phương Nam do Nguyễn Ái Quốc phụ trách tại Quảng Châu để lo Ðông Dương và vùng Nam Á, thực chất chỉ là lý thuyết hay cái bóng mờ. Cũng vì lẽ đó, nên Mao Trạch Ðông đã chê biếm đảng CSVN như là ‘một thứ đống bụi, chổi chưa quét tới’.

Tóm lại không như nhiều người tưởng, xưa nay Quốc Tế Cọng Sản chỉ coi Nguyễn Ái Quốc chỉ là một cán bộ ngoại vi hạng trung, có hay không cũng chẳng hề hấn gì, mặc dù khi Lenin còn sống, Hồ đã làm thơ ca tụng như mặt trời của nhân loại. Ðau khổ hơn nữa từ sau năm 1930, Liên Xô đã có trong tay hơn 50 cán bộ VC, vừa trẻ lại có học thức và con tim thép máu của Stalin. Quan trọng hơn hết, là vây cánh của Hồ đều thuộc phe Zinoviev vừa bị loại bỏ khỏi Quốc Tế Cọng Sản, nên chuyện Hồ bị thanh trừng một cách bí mật suốt năm năm tại Nga, là điều không tránh được.. Năm 1936 do tình hình thế giới biến chuyển, tại Pháp chính phủ Bình Dân của liên minh Léon Blum và Jacques Doriot cầm quyền. Rồi Trung Nhật đại chiến, khiến cho trùm đỏ Stalin cũng thay đổi phần nào sắt máu.

Do trên tình hình sinh hoạt chính trị tại VN lại có cơ hội bừng dậy. Vì các đảng phái Quốc Gia chỉ có lòng yêu nước, nên vẫn gặp đầy khó khăn. Trái lại Quốc Tế Cọng Sản lại được Liên Xô cung cấp tiền vàng vô hạn định, đồng thời gởi về nước tới tấp những cán bộ người Việt nhưng đã được thay óc và tim, để biến thành những con người máy chỉ biết có cách mạng vô sản và chủ nghĩa mà thôi. Trong giai đoạn này, Ban Phương Nam do Lê Hồng Phong lãnh đạo, thế Nguyễn Ái Quốc đã bị khai tử. Lúc này Hà Huy Tập làm Tổng Bí Thư Ðông Dương Cộng Sản đảng, còn Hồ Nam Trần Văn Giàu được lệnh về Nam tổ chức lại đảng.

Tóm lại từ năm 1934, Ban lãnh đạo ngoại vi của VC, dời về Ma Cau và tập hợp lại gần như đầy đủ các thành phần có trước trong Tâm Tâm Xã, kể cả Cô Duy, tức Nguyễn thị Minh Khai. Tháng 7-1936, Nga ra lệnh cho Lê Hồng Phong đua Ban Phương Nam, tức là cơ quan lãnh đạo tối cao của VC về Nam Kỳ hoạt động. Trong năm 1936, đảng Bình Dân Pháp đã ra lệnh phóng thích hàng ngàn tù nhân chính trị VN, trong đó phần lớn là cán bộ cọng sản như Phạm văn Ðồng, Nguyễn văn Cừ, Hạ Bá Cang, Lê Duẩn, Nguyễn văn Linh.

Nhờ vậy đảng cọng sản Ðông Dương đã phục hồi nhanh chóng và liên kết với các thành phần tả phái không cọng sản, thành lập Mặt Trận Dân Chủ Ðông Dương, trong đó có Ðặng Xuân Khu (Trường Chinh), Võ Nguyên Giáp, Phạm văn Ðồng, Trần Huy Liệu. Nhưng chưa được bao lâu thì Stalin ra lệnh cho nhóm Stalinist tức Ðông Dương cọng đảng, đệ tam quốc tế, phải cắt đứt liên hệ với phe Ðệ tứ cọng sản hay là nhóm Trốt-kít của Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu.. ở Sài Gòn. Tại miền Trung, các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi Bình Ðịnh đã bắt đầu có Tỉnh Ủy lâm thời. Riêng kinh đô Huế từ năm 1937, VC hoạt động bán công khai qua tờ báo L’épi du Riz (Nhành lúa), do VC cao cấp HẢI TRIỀU Nguyễn Khoa Văn chủ biên. Lợi dụng những cuộc đấu tranh hợp pháp, từ năm 1939 cán bộ Quốc Tế Cọng Sản tại Ðông Dương, ra sức tổ chức và phát triển các nghiệp đoàn lao động bất hợp lệ, nông hội cùng nhiều hội đoàn bô lão, thanh niên, phụ nữ, đánh giày, bán báo, bình dân giáo dục... lúc đó, khắp nước đã có trên 1000 cán bộ chính thức. Tóm lại trong giai đoạn này, cộng sản đệ tam phát triển mạnh nhất là tại Việt Bắc với nhiều cơ sở, còn có cả một tiểu đội du kích do Lê Quảng Ba và Hoàng Sâm chỉ huy tại Cao Bằng.

Thế chiến thứ 2 bùng nổ, tại Ðông Dương vào đầu năm 1940, Pháp lại thẳng tay càn quét và gần như toàn thể đảng viên VC, trong đó có hầu hết các cán bộ từ Bộ Phương Ðông về. Ðúng lúc đó thì Nguyễn Tất Thành qua bí danh Thiếu Tá Hồ Quang, xuất hiện tại Quảng Tây và Côn Minh, trong sứ mạng điều khiển Ban Hải Ngoại của đảng. Lần tái xuất này, ‘bác’ lại gặp hên, vì hầu hết các ‘đảng chúa’ trong nước đều nằm rọ. Hồ chợp cơ hội tuyển cán bộ mới, để làm hậu thuẫn cho mình sau này, qua mộng bước lên ngai vàng An Nam vào tháng 9-1945. Trong giai đoạn này, Hồ ngoài cái tên Trần Vượng, còn là Thiếu Tá Hồ Quang của Ðệ Bát lộ quân, do Diệp Kiếm Anh chỉ huy, đồng thời cũng chỉ đạo Ban Hải Ngoại của Phùng Chí Kiên.

2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Căm thù xã hội vì cha là Nguyễn Sinh Sắc uống rượu đánh chết ngươi, nên bị bãi quan tại Binh Ðịnh. Nguyễn Tất Thành vào Phan Thiết sống nhờ qua sự đùm bọc của Hồ Tá Bang, Trương Gia Mô và mấy người con của Nguyễn Thông một thời gian ngắn. Năm 1911, Thành sang Pháp nhờ làm bồi trên tàu Latouche Tréville.

Sau khi gia nhập đảng cọng sản Pháp, tháng 5-1923 Nguyễn Ái Quốc (tên mới của Nguyễn tất Thanh) sang Nga và bắt đầu một cuộc đổi đời về vật chất, cũng như được quan thầy Nga huấn luyện dạy dỗ, trở thành một điệp viên cọng sản quốc tế. Rồi Hồ được lưu lại công tác tại Bộ Phương Ðông, phụ trách vấn đề các nước thuộc địa. Theo Hồng Hà, lúc đó Hồ được ở trong khách sạn Luych, lương tháng bảy Tchervonetz, tương đương với bảy chục đồng Rúp vàng hoặc 50 gam vàng. Trong lúc đó, tại Nga nạn đói đang diễn ra thê thảm, khắp cả nước giặc giã loạn lạc triền miên. Thế nhưng đảng cọng sản Nga lại cưng chiều Hồ, với thực phẩm ê hề, tiền nong đầy đủ, và chỗ ở thì đông vui nhất.

Hèn chi Hồ đã sớm trở thành tên phản quốc số một của thời đại, suốt đời chỉ biết trung kiên và phục vụ cho chủ mà thôi. Chính nơi thiên đàng này, Hồ cho biết là mình đã được giác ngộ, hạnh phúc nên đã coi đây mới chính là quê hương và tổ quốc đích thực của mình. Cũng tại đây, trong ngày quốc tế Lao Ðộng 1-5-1924, Hồ theo lệnh thượng cấp, đến nói chuyện trước đám đông trong cuộc biểu tình, dưới một biểu ngữ màu đỏ, để tang cho LêNin. Cũng theo Hồng Hà, Hồ đã hứa là sẽ đem Lá Cờ Búa Liềm của Liên Xô, cũng như chủ nghĩa xã hội của Ðệ Tam Cọng Sản Quốc Tế, về cấm tại tổ quốc VN và Y đã thực hiện đúng lời cam kết trước vong linh của LêNin.

Từ bản chất mặc cảm đói nghèo, Hồ xuất đương qua động cơ thúc đẩy là kiếm sống và vươn lên trong xã hội, nên chúng ta sẽ không lấy làm lạ về chuyện Hồ nộp đơn xin vào học miễn thi tại trường thuộc địa Pháp hay xin Khâm Sứ Trung Kỳ cho cha là Nguyễn Sinh Sắc một chức quan nhỏ, để kiếm cơm nuôi miệng. Sống ở Nga trong suốt thời kỳ biến động, trời long đất lở, có lúc tưởng chừng chế độ Bonsovich sẽ bị tan tành. Nhưng chính hoàn cảnh đó, lại trở thành thân quen , đáp ứng đầy đủ ý thức nô lệ của một con người ôm đấy khát vọng, đã dạy cho Hồ những mô thức xã hội tương lai, rập khuôn theo Liên Xô, qua vấn đề thiếu nhi và nghệ thuật khủng bố của KGB.Thật vậy ở Liên Xô, thiếu nhi ngay từ thuở nhỏ, đã được đảng giáo dục và huấn luyên biết căm thù, yêu, ghét theo mệnh lệnh.

Ðây là chuyện mà Hồ thích nhất và đã đem nó về trồng người tại VN. Về sau chính đó là thủ phạm trong mọi tội ác, mà đầu tiên là vụ án ‘ cải cách ruộng đất’ long trời lở đất tại đất Bắc, khi Hồ làm chúa nơi này. Sau tới là việc đem cấy ý niêm hận thù và đấu tranh giai cấp , được coi như kim chỉ nam trong đạo lý cách mạng. Chính hai chủ trượng độc hại này trong tư tưởng Hồ Chí Minh suốt tám chục năm qua, đã phá vỡ truyền thống tu thân, trị quốc và đạo đức ngàn đời của quốc dân Hồng Lạc, khiến băng hoại xã hội, gia đình và nhân cách của con người VN, từ khi đảng cong sản , được Hồ đem từ Liên Xô về.

Cũng kể từ đó, người Việt sống dưới chế độ cọng sản miền Bắc và cả nước từ sau tháng 4-1975, theo đề cương văn hóa, được đảng giáo dục , cách yêu, cách ghét, cách sống và làm việc, đã không còn là một con người, mà là những công cụ phản ảnh chính sách của đảng. Tóm lại, chính Hồ đã làm cho văn hoá và lịch sử VN vong thân, từ khi Y chính thức trở thành một tên nô lệ chủ nghĩa ngoại bang. Cũng vì vậy mà nay dù to mồm lắm miệng nói đổi mới, với cảnh phồn hoa giả tạo khắp phố phường, nhưng trong tận cùng, người dân nhất là ngư, nông, tầng lớp lao động ở mọi miền đất nước, đời sống tinh thần và vật chất , có hơn gì thời Pháp thuộc ? người vẩn nguyên là thân phận của trâu, ngựa, có khác chăng khi trước kẻ cưỡi, người chăn là thực dân da trắng, ngày nay, chủ được thay thế là những tên tư bản đỏ mà sự bốc lột bạo tàn, gấp trăm ngìn lần kẻ thù xưa củ. Ðó cũng là nhờ tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đạo.

Ta biết Hồ ra khỏi nước từ năm 1911 và sau đó gần 20 năm, chỉ sống ở các nước Âu Châu và năm 1930 được Liên Xô chỉ thị về Hồng Kông, lúc đó là một thuộc địa của Anh quốc, để thống nhất ba đảng cọng sản thành một, theo quốc tế cọng sản. Ðiều này cho thấy đảng Việt Cộng, không hề có chủ quyền ngay đến việc đặt một cai tên theo ý mình, cũng bị chủ Liên Xô gay gắt lên án và phê bình. Ðây là bằng chứng, do chính Hồ thố lộ, trong bức thư đề ngày 27-2-1930 khi gửi cho đảng cọng sản Pháp., rằng là Y không biết mình là ai ? cọng sản Pháp, VN, quốc tế cọng sản hay cọng sản LX tại Ðông Phương Bộ ?

Tại VN vào những năm của thập niên 20, xã hội tuy đang trong thời kỳ Pháp thuộc , nhưng hoàn toàn không giống Liên Xô dưới chủ trương ‘ vô sản hóa kiểu Bônsôvich ố Stalinnit’, mà nhu cầu của Stalin lúc đó, là phải loại bỏ những thành phần trí thức, tiểu tư sản , công nông có học.. từng theo LêNin, trong cuộc cách mạng tháng 10-1917. Nhưng do nhu cầu đạt lòng tin của chủ, Hồ Chí Minh nhân danh quốc tế cọng sản, ra lệnh cho VC , thi hành chủ trương ‘ Vô sản hóa rập khuông, theo kiểu Stalinnit ‘ thì quả là tư tưởng Hồ Chí Minh siêu tuyệt.. Do trên, khi Hồ kêu gọi lập đảng VC, Y đã tuyên bố thẳng thừng :’ đảng cọng sản VN là đảng vô sản ‘ thế nhưng giờ đây, các chóp bu trong đảng đều là những tỷ phú tư bản , có tên trong tóp những người giàu nhất thế giới đương thời.

Tóm lại đây chỉ là những nét khái quát về một phần đời hoạt động của Hồ, trong quốc tế cọng sản, qua những thay đổi theo thời gian của VC. Nhưng từ đó cho ta thấy cái được gọi là khuynh hướng dân tộc trong lòng đảng cọng sản VN, chỉ là một ảo vọng vì dưới lăng kính lịch sử, không hề có thể xảy ra. Tất cả giờ đây đã gần như hiện nguyên hình, xác nhận Hồ cùng đảng cọng sản VN,Ô chỉ là quan hệ chủ tớ, trong một giai đoạn mà Nga-Tàu bành trướng chủ nghĩa khắp Ðông Nam Á và cũng từ đó, qua cái gọi là tư tưởng HCM, đã nói lên sự nghiệp vĩ đại làm tay sai và bán nước cho ngoại bang của Hồ và đảng VC trong suốt 80 năm qua.

Và kết quả gần một thế kỷ theo đuổi xã hội chủ nghĩa, nhưng thiên đàng vẫn biệt tích, trong khi địa ngục đỏ nơi chốn trần gian vẫn hằng hằng , chôn kín người người trong nghèo đói, lạc hậu và chiến tranh thì không bao giờ thây dứt. Kết quả người nghèo càng thêm nghèo, giai câp xã hôi càng có cơ hội nảy sinh, để người trắng trợn làm khổ và bốc lột người như hiện trang tại VN ngày nay. Cũng vì quan niêm khoán trắng cuộc đời, gia đình và vận mệnh của quốc gia dân tộc mình cho cấp lãnh đạo, mà VN ngày nay sau khi cởi được ách nô lệ của ngoại bang, lại đắm chìm trong địa ngục cọng sản và mất nước vào tay Tàu đỏ.

Tám năm kháng Pháp cam go máu lệ, để đạt đưọc những chiến thắng lẫy lừng tại Bắc Sơn, Sông Lô, Ðiện Biên Phủ, kết thúc 80 năm đô hộ của giặc Pháp, là xương máu chung của toàn dân cả nước. Rốt cục đồng bào và các đảng phái Quốc Gia, cũng chỉ làm viên gạch lót đường, để Hồ và đảng VC tới Geneve, thò bút ký vào văn kiện, lãnh nữa phần đất nước vào năm 1954, dùng làm căn cứ địa, cho xã hôi chủ nghia Nga-Tàu có phương tiện bành trướng xuống phương Nam.

Rồi thì Hồ theo gót Mao ba bước nhảy vọt, tiến hành chủ nghĩa Marx-LêNin, qua ba lần cải cách ruộng đất, mục đích để tiêu diệt tận gốc rễ những thành phần xã hội, bị kết tôi là phú nông, địa chủ, trí thức và tiểu tư sản, dù rằng trong cuộc kháng chiến vừa qua, chính họ là nhửng người đã góp phần lớn xướng máu , để Hồ và đảng có sự nghiệp. Tất cả đều nằm trong cái được gọi là biện chứng pháp duy vật sử quan, do đảng đề ra là tiến nhanh, tiến mạnh, tiến lên xã hội chủ nghĩa. Kết quả trong những cuộc tắm máu đồng bào, đã có hơn triệu người ở mền Bắc và bắc Trung Phần, gục chết vì đấu tố, phần lớn do chính thân nhân hay gia đình của họ gây nên. Hung thủ trong thảm trạng này, chính là Hồ Chí Minh và cái đám người trồng , trong cái tư tưởng mà Hồ học được từ LX, đem về cấy , chẳng những tại VN mà còn trên đất Chùa Tháp. Cảnh giết người không gớm tay của Pol Pot và Khờ Mer đỏ, sau năm 1975, chỉ là bản sao hay là sự tái diễn của lịch sử , mà chúng đã học được từ Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh và Hà Nội.

D.Pike trong cuốn sách viết về HCM, dẫn chứng rằng tư tưởng của đương sự, tuy có tính cách huyền thoại nhưng đó là một sự gian lận cần thiết, để cọng sản đạt được chiến thắng. Thật ra Pike viết sách, qua nguồn sử liệu do chính VC cung cấp , chỉ biết có cái tốt mà không bao giờ ngờ tới những xấu xa bẩn thỉu tàn bạo của Hồ, đã bị che lấp hay thần thoại hoá, cả đến sự Hồ có vợ con , cũng bị dấu diếm, tới năm 1991 mới bị khai quật một phần.

Sau năm 1975, VC say men chiến thắng và sự tự tin vào thứ khoa học giả tưởng của những đỉnh cao trí tuệ loài vượn khỉ, đã dẫn dắt cả dân tộc vào con đường tự tôn u mê, biến đất nước thành nếp sống cổ đại, ngăn chận mọi bước tiến hóa, để chỉ còn có một lối quẩn quanh thần bí, đó là con đường chạy theo cái gọi la tư tưởng HCM đã quá lỗi thời, lạc hậu.. nhưng nhờ dối trá và cưỡng bức, mà trở thành nếp sống cho cá nhân cán bộ và nhu cầu của đảng , trở thành thứ thể chế hoá, không có không được. Tóm lại, từ thời Hồ tới ngày nay trong chế độ cọng sản, dối trá không chỉ là bệnh tật của cá nhân, mà trở thành của lãnh đạo từ nhỏ tới lớn .

Vấn đề lớn nhất của đảng hiện nay, là làm cách nào giữ vững đưọc ghế ngồi chỉ còn có ba chân, hơn là sự cần thiết của lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Cho nên dù đảng có muốn trì níu quyền lực, bằng cách lôi trong nấm tro than tàn lụn, vực dậy hình ảnh hay tư tưởng gì gì đó của lãnh tụ Hồ Chí Minh, thì cũng đã lở tàu, không còn được như cũ nữa. Thời cai trị người dân cả nước bằng chế độ khu vực công an, tem phiếu thực phẩm đã lổi thời. Cũng càng không thể bưng bít, cướp giật, làm càn trong thời đại điện toán. Cho nên nói theo sử quan, vương quyền của VC ngày nay, ở ngoài mắt nhắm mắt mở nhìn vào, tưởng to lớn, quyền lực cùng mình, thật ra chỉ là một cơn mộng dữ dội, sau 30 năm tác quái làm oai, chỉ tội nghiệp cho người dân miền Bắc, mang niềm đau khắc khoải, mở miệng lại mắt quai, vì trót dấn thân vào tội lỗi, mang tội danh thiên cổ, khi biết mình chỉ là công cụ, giúp kẻ cướp làm giàu, trên máu xương của đồng bào.

Thân phận của người VN là thế đó, người dân sống trong vùng đất thắng hay bại trận đều đói nheo và cũng bị miễn cưỡng phải phục tùng đảng và lãnh tụ. Quyền được làm người , chỉ là sự bình thường trong thế giới văn minh của nhân loại. Nhưng VC qua chiến thắng, luôn tự coi mình là giai cấp ưu việt theo kinh điển Mác Xít, khoắc hình dạng quái gở khác người hiện thực, với quyền hành sinh sát trong tay, một mình một chợ , ngả nghiêng cùng với bóng của chính mình, đi hoài trên con đường hoang tưởng, mang nhiều danh xưng.. Sự lố bịch ngu xuẩn trong bao năm, đã tạo nên một dạng VC phi nhân ngày nay, mù đui đi hoài trong đường hầm ngỏ cụt, vậy mà vẫn huênh hoang , nói là đi trong thế giới nhân bản. Ngày nay, bức màn sắt đã vén, HCM cũng bị đội mồ sống lại, cho nên những sử gia chân chính, phải có lương tâm và bổn phận xác nhận sự thật ,để viết lại lịch sử VN. HCM cũng như đảng VC, trong tiến trình lịch sử, cũng là những sự kiện bình thường, cũng có tốt xấu và nhân tính, cho nên phải được lột trần, để không còn mù mù mịt mịt, khiến cho ta không biết đâu mà mò. Cũng chính vì điểm này, cho nên cũng đừng lấy làm lạ, khi VC đem xác HCM vào giam lỏng trong nhà mồ Ba Ðình và sau rốt, vực xác Hồ ngồi dậy, để nhặt những gì mà Y đã phán. Có vậy mọi tội lỗi sau này, nếu trời đất bỗng dưng nổi cơn gió bụi, làm một cuộc đổi đời, thì VC đã có lý do chạy mang, và bảo đó là tư tưởng HCM chỉ đạo.

Thảm ghê cho cả một thế hệ , chỉ vì bị tư tưởng HCM mê hoặc, mà một đời phải tủi thân, ăn năn không đủ. Còn đất nước và dân tộc Việt cũng bị ‘ tư tưởng HCM và đảng cộng sản ‘ liên tục bán đứng cho Tàu đỏ, mà nay ai cũng cắn răng nuốt hận trố mắt đứng nhìn..

Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 7-2009
Mường Giang


Monday, July 13, 2009

Trung Cộng Lũng Đoạn Toàn Diện Việt Nam - Vi Anh


Vi Anh

Trung Cộng lũng đoạn toàn diện VN, từ Bộ Chánh trị Đảng CS Hà nội đến con tôm VN. Người dân Việt lâm vào thế lưỡng đầu thọ địch, chống ngoại xâm lẫn nội xâm.

Chánh trị gia Tây Phương thường nói không có thù muôn thuở bạn muôn đời. Tây Phương có thể tin như vậy vì trong dòng lịch sử Tây Phương, trong đó tính luôn Au, Mỹ và Uc, đa số các nước không bị ngoại bang xâm chiếm hay thực dân cai trị lâu dài như VN với 1000 năm ba lần Bắc thuộc. Do hoàn cảnh lịch sử và địa lý chiến lược đặc biệt, VN có lý do để không hẵn phải tin như Tây Phương. Nếu lịch sử có 4000 năm thì bị Bắc thuộc, tức là Tàu cai trị 1000 năm, tức cứ 4 năm thì người Việt bị Tàu cai trị hết 1 năm. Người Việt có thể thay đổi triều đại, chế độ chánh trị, nhưng người Việt không thể thay đổi người láng giềng khổng lồ ở phương Bắc lúc nào cũng dòm hành ngươi VN và vua quan Tàu coi như dị tộc, dã man, "ô nàm nán", thằng an nam xấu. Và người VN ở phiá Nam không còn nơi nào để đi nữa, con đường nam tiến đã đến biển rồi, nên lúc nào cũng coi chừng " mấy anh Ba Tàu" ở phương Bắc. Lúc nào họ mạnh là muốn chiếm VN.

Nhưng nhờ tinh thần đề cao cảnh giác, tánh bất khuất, VN "thà núi xương sông máu chớ không chịu đầu hàng". Nhờ sẵn sàng đoàn kết tạo nội lực dân tộc khi đất nước lâm nguy, sơn hà nguy biến, tuy đất hẹp người ít, VN đất nước có lúc thịnh suy nhưng anh hùng hào kiệt đời nào cũng có. Nên dân tộc VN là dân tộc duy nhứt ở Đông Nam Á được thế giới sử ghi điểm son -- là dân tộc từng đánh đuổi quân Tàu qua ba lần Bắc thuộc, là dân tộc duy nhứt ở Đông Nam Á đã đánh bại quân Nguyên bách chiến bách thắng ở Bắc Á lẫn Đông Âu.

Và bây giờ vào đầu thiên niên kỷ thứ ba, đầu thế kỷ 21 Công Nguyên, chế độ đô hộ, thực dân mới, thực dân cũ đã lỗi thời. Nhưng dân tộc Việt Nam đang đứng trước một đại hoạ. Hoạ ngoại xâm do Trung Cộng lấn đất, lấy biển, chiếm đảo. Và hoạ nội xâm do CS Hà nội thần phục TC như một thái thú của Tàu Cộng, như bọn"tự thực dân" là CS Hà nội do TC dùng người Việt dùng làm nanh vuốt của Tàu Cộng để trị người Việt. Báo Fiinancial Times, ngày 06.05.2009 gọi bauxite Cao Nguyên VN là vật triều cống của Nguyễn tấn Dũng dâng cho Tàu Cộng. CS Hà nội là chế độ duy nhứt đã để mất đất mất biển mà không một tiếng rút gươm, một tiếng súng nổ. CS Hà nội là nhà cầm quyền duy nhứt bắt dân, giải tán biểu tình của dân chống quân xâm lược là TC.

Bị hai mặt giáp công, người dân Việt muốn cứu nguy giang sơn gấm vóc cũng khó. Thời CS Hà nội là thời người dân vừa mới lên tiếng, nhốm đứng lên bảo vệ Tổ Quốc là đã bị CS Hà nội sợ quan thầy TC giận dữ, ra tay trấn áp người dân của mình. Nhưng đất nước VN, dân tộc VN không bao giờ là của riêng một triều đại hay một chế độ nào. Triều đại, chế độ nào cũng qua đi, chỉ có quốc gia dân tộc VN mới tồn tại. Nhà cầm quyền CS Hà nội nhu nhược không chống Tàu Cộng thì người dân Việt chống. Chống ngoại xâm lẫn nội xâm. Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Xua đuổi quân thù, câu dao bửa cau ăn trầu cũng sữ dụng. Phải nói từ khi CS Hà nội gồm thâu được cả nước VN, suốt gần 34 năm người dân Việt trong ngoài nưóc đấu tranh không ngừng nghỉ. Qua nhiều giai đoạn, nhiều mặt trận, nhiều mục tiêu, cuộc đấu tranh bảo toàn đất Tổ, là cuộc đấu tranh nổi bật nhứt, được nhiều người ủng hộ nhứt, bền vững với nhiều hình thái sáng tạo và sinh động nhứt.

Trong phạm vi hạn chế của bài này, xin phép phân tích một sự chống đối nhỏ của người dân Việt nhưng ảnh hưởng quần chúng lớn - là phong trào tẩy chay hàng hoá của TC. Lâu nay ở hải ngoại nhờ có thừa tin tức, và lợi tức cũng khá, người Việt hải ngoại đi chợ hay tiệm của Tây, Tàu, Mỹ, Mễ hễ cầm món hàng dù là thực phẩm, dược phẩm hay quần áo, giày dép, nồi chảo có chữ Made in China là để xuống. Do tinh thần chống TC cũng có mà do sợ nguy hại cho sức khoẻ cũng có. Made in China đồng nghĩa với Nguy Hại.

Tội nghiệp đồng bào trong nước không có tin tức, lại nghèo lâu nay phải xài đồ TC vì rẻ. Đâu có biết rõ TC tuồng hàng hoá qua bán rẻ như cho là để giết nông nghiệp, kỷ nghệ VN. Đâu có biết Đảng Nhà Nước CS Hà nội dắt voi về dày mả tổ. Cho người Tàu qua VN không cần chiếu khán nhập cảnh. Ơ Lâm đồng và Đắc nông, trụ sở công ty Trung quốc Chalco trương toàn cờ Tàu, trương bảng lớn toàn chữ Tàu, công nhân Trung quốc coi dân VN là "ô nàm nán" kéo cả bầy ra chưởi bới, đánh đập chủ quán VN và bà con VN ở gần đó. Mà không phải chỉ có ở hai tỉnh Cao Nguyên này, cái nhục mà người dân Việt phải chịu do CS Hà nội cổng rắn cắn gà nhà xảy ra khắp nước. Ở Hải phòng, ở Thanh hoá, ở Bình thuận ... đầy những làng Tàu trong lòng đất nước VN như thế!

Mấy năm nay do kinh tế thế giới suy thoái, xuất cảng TC giảm, hàng hoá made in China bị Liên Au, Bắc Mỹ chê hàng giả, hàng gian, hàng độc, xuất cảng TC giảm 26.6% (theo The Wall Street Jouranal, ngày 13.05.2009). TC tuồng những thứ đó vào VN, CS Hà nội cúi đầu nhận. Gần đây trái cây, rau củ của TC được chở bán tại các chợ bán khắp nước, tận các chợ Miền Tây, thậm chí Cà mau. Bán rẻ như cho, giá mấy lần thấp hơn giá chuyên chở. Bề ngoài trông rất tươi ngon, nhưng bên trong thì thủm thủm, tức ung thúi. TC dùng hoá chất độc để làm tưoi bên ngoài. Bánh trái, phó phẩm làm từ sữa của TC cũng vậy, quốc tế tố cáo có độc chất melamine, nhà cầm quyền CS Hà nội kiểm, tịch thu, không nghe phá hủy, có thể bị tuồng ra ngoài bán lại. Sau một đợt công tác có tánh phong trào, rồi đâu lại vào đấy. Giày vớ TC, dây nịch cũng rẻ, nhưng mang vào đụng da, di ứng, nổi mề đay, ngứa ngáy, có người bị nung mủ. Còn cái gọi là " thuốc Bắc" thì bán đầy đường, đầy chợ, không qua cơ quan kiểm soát dược, thực phẩm VN.

Từ khi sau khi TC chiếm đảo Hoàng Sa,Trường sa lập thành huyện Tam sa của TC, đồng trong nước mới bắt đầu tẩy chay mạnh hàng hoá TC. Đau lòng báo chí dù của Đảng Nhà Nước tương kế tựu kế " viết lách" thì CS Hà nội bị "tham tán kinh tế - thương mại" của Sứ quán Trung quốc ở Hànội là Hồ Tỏa Cẩm, " quở rầy" liền, " bảo" những người lãnh đạo CS Hà nội phải chấn chỉnh các báo chí. Chưa đủ Sứ quán Tàu Cộng ở Hà nội còn nói sẽ đưa ngay một đoàn báo chí Tàu sang để uốn nắn báo chí Hànội.

Nhưng người dân Việt, theo đài RFA hỏi nhiều người Việt tiêu biểu trong nước - có âm chứng - ai cũng tránh hàng hoá TC. Phong trào này đang lan toả trong nước thành phong trào nhân dân VN tẩy chay hàng hoá TC sẽ gây một tác dụng lớn ở hạ tầng cơ sở xã hội VN trước âm mưu của TC lũng đoạn toàn diện kinh tế chánh trị VN.

Vi Anh


Linh mục Nguyễn Văn Lý vẫn bất khuất trong lao tù

(Bản tin ngày 13-07-2009)

Sáng ngày 09-07-2009, chị ruột của linh mục Nguyễn Văn Lý là bà Nguyễn Thị Hiểu và một người cháu gái đã từ Quảng Biên ra trại K1, xã Ba Sao, huyện Kim Bảng, thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam để thăm vị tù nhân lương tâm. Cuộc gặp bắt đầu từ 9g và kéo dài đến gần 10g30.

Sau khi hỏi han tin tức gia đình và bạn bè, linh mục Lý cho biết:

Linh mục Nguyễn Văn Lý
Hôm 13-05-2009, phái đoàn 6 người thuộc Ủy hội Tự do Tôn giáo Quốc tế của Hoa Kỳ đã đến thăm cha tại trại. Ban đầu cuộc gặp được ấn định là 30 phút nhưng rốt cục kéo dài một tiếng rưỡi. Vừa chào hỏi xong, linh mục Lý phân trần:

- Quý vị đừng thấy tôi mặc áo tù sọc dưa này mà bảo tôi chấp nhận mình là phạm nhân. Tôi đã không muốn gặp Quý vị với bộ đồ tù này, nhưng vì nghĩ tình Quý vị đã vất vả xin phép nhà nước rồi lặn lội đến đây thăm tôi, nên tôi mới nén lòng mặc nó mà ra tiếp Quý vị.

Trước tiên phái đoàn hỏi là Tòa Tổng giám mục Huế, kể từ 30-03-2007 cho tới hôm nay, đã đi thăm linh mục bao nhiêu lần. Nghe cha Lý đáp là “hai”, phái đoàn cười !?! Lại hỏi: “Thế còn gia đình?” - “Hai tháng thăm một lần” - “Vậy là vẫn ít” - “Gia đình tôi ở xa, cách đây hơn cả 1000 cây số!”. Tay công an canh gác -thiếu tá Nam- xen vào: “Nhưng hàng tháng vẫn có gởi quà! Yêu cầu Anh Lý nói điều này cho phái đoàn rõ” !?! Chế độ ta nhân đạo lắm chứ !?!

Phái đoàn hỏi tiếp: “Linh mục có muốn phiên tòa được mở lại có luật sư không?” vì họ đã rõ vụ xử án ngày 30-03-2007 tại Huế là phi pháp, quái đản, vì không luật sư, không thân nhân, không nhân chứng, kể cả không quyền tự biện hộ. Linh mục Lý trả lời:

- Theo luật Việt Nam, nếu muốn kháng án thì chỉ trong vòng 15 ngày. Nhưng nay đã hơn hai năm rồi. Kháng án chi được nữa!!! Mà có luật sư cũng chỉ từng ấy!!!

- Chúng tôi sẽ yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do ngay cho linh mục, sau đó phải để linh mục đi làm việc tự do, không được quản chế!

Linh mục Lý nhận định với bà chị (và cháu gái): “Họ nói thế chứ em không hy vọng gì, vì lúc này em đang căng với nhà nước lắm!” Rồi cha kể tiếp: “Cách đây 2 hôm, tức ngày 07-07, lần đầu tiên em được nhà tù cho đọc báo Nhân Dân. Số báo đọc lần đầu này ra ngày 06-06, trong đó có bài “Một việc làm sai lầm”. Tác giả nói hôm 01-07-2009, một số Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ đã khơi lại phiên tòa xử em qua bức thư gửi Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết. Họ yêu cầu xem lại những thiếu sót nghiêm trọng trong tiến trình bắt giữ, xét xử và giam em cùng các bạn. Họ còn yêu cầu nhà nước phải lập tức trả tự do vô điều kiện cho em và cho phép em trở về nhà, tiếp tục công việc linh mục, không bị hạn chế các quyền tự do đã được quốc tế công nhận.

“Em thấy đòi hỏi này là chính đáng và em xin cảm ơn các Thượng nghị sĩ. Tuy nhiên bài báo đó có hai điểm sai lầm mà kẻ đáng trách không phải là tác giả nhưng là viên Tổng biên tập [xin mở ngoặc: 700 tờ báo Việt Nam hiện chỉ có một Tổng biên tập duy nhất!?!]. Một là chi tiết: “Nguyễn Văn Lý xô ngã hai công an áp giải”. Không hề có chuyện đó! Khi bị hai công an xốc nách hai bên đẩy vào tòa án [xin xem hình bên dưới], em chỉ rì lại, không chịu đi, để bày tỏ sự phản kháng phiên tòa, chứ với hai tay bị cùm thì làm chi mà xô ngã được họ. Láo! Họ giữ chặt, bóp chặt đến độ ngày hôm sau, hai cánh tay em còn bị tím bầm. Chi tiết thứ hai: “đạp đổ vành móng ngựa”. Đúng là em có đưa chân đá vào nó, khiến nó lệch một chút [băng video còn ghi lại rõ ràng], để tiếp tục bày tỏ sự phản đối và đả đảo tòa án phi pháp, vô luật của Cộng sản. Làm chi mà có chuyện vành móng ngựa bị đạp đổ! Chị và cháu về nhớ nói lại với mọi người là đừng bao giờ đọc báo Nhân dân cả! Đó là một tờ báo nói láo chuyên đời. (Vừa nói, linh mục Lý vừa đập mạnh xuống bàn, trước mắt viên thiếu tá công an canh gác!).

“Một chuyện đáng phản đối khác mà em muốn nêu ra đây là nội quy “cấm truyền đạo” của nhà tù. Quốc tế người ta có bao giờ cấm như vậy đâu! Thậm chí người ta còn cho phép đem sách Thánh kinh của đạo (Công giáo, Hồi giáo, Tin lành giáo) vào tù, còn cho phép tổ chức việc cầu nguyện theo tôn giáo mình nữa”. Quay sang viên công an, linh mục Lý nói thẳng: “Tôi phản đối quy định này”.

Quay lại với hai người thân, linh mục Lý bảo: “Xin về nói với bà con là đừng trông mong tôi ra tù sớm. Cứ chịu khó đi thăm nuôi cho đến năm 2015. Lo giữ gìn sức khỏe để mà đi thăm! Cũng đừng sợ tôi sẽ lung lay, chao đảo! Có bao giờ tôi nhận mình là phạm nhân, mắc tội với nhà nước, với luật pháp Cộng sản đâu! Bằng cớ là từ mấy lâu nay, họ bắt tôi cứ ba tháng làm kiểm điểm một lần. Có chi mà kiểm điểm! Tôi kiểm điểm nhà nước này thì có! Nhưng vì họ ép quá, nên mỗi lần như thế, tôi đều viết vỏn vẹn 5 chữ: “Tôi vui vẻ ở tù!”

[Xin mở một dấu ngoặc: Ngoài 1 Tuyên ngôn, 9 Lời Kêu gọi, 2 Lời Chứng trước các cơ quan quốc tế mà linh mục Lý từng viết ra từ cuối năm 2000 đến đầu năm 2001, thì kể từ ngày 27-02-2001 tới ngày 09-05-2001, mỗi lần công an đến giáo xứ An Truyền, Huế, để chất vấn, lập biên bản, thì linh mục Lý lại lập biên bản về công an và ĐCSVN, tổng cộng 19 biên bản, với tiêu đề “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: Thiếu Độc lập, Mất Tự do, Không Hạnh phúc” lên án ĐCSVN tội phản quốc, vi phạm nhân quyền, chà đạp tín ngưỡng, ức hiếp các Giáo hội (xin xem một biên bản tiêu biểu bên dưới). Có lẽ đây là trường hợp vô tiền khoáng hậu trong chế độ phi nhân gian dối và bạo tàn như chế độ CSVN].

Linh mục Lý cũng cho hay mình có nghe tin Hội đồng Giám mục Việt Nam đi Rôma viếng mộ hai thánh Tông đồ, có biết vụ việc Luật sư Lê Công Định cùng nhóm bạn rồi ông Trần Anh Kim và Nguyễn Tiến Trung bị nhà cầm quyền CS bắt. Linh mục nhận định đó là những công dân yêu nước, việc đấu tranh dân chủ của họ đáng ca ngợi và ủng hộ. CS vì sợ mà bắt họ thôi!

Sau khi nói chuyện được một giờ, viên công an thúc giục linh mục Lý đi vào. Nhưng cũng như mọi lần, linh mục cự nự lại và ngồi nói chuyện tiếp 30 phút nữa.

Giã từ bà chị và cô cháu gái, linh mục dặn lần sau nhớ mua cho mình thuốc trị cao huyết áp hoặc gởi cho thức ăn gì giảm huyết áp cao (nay có khi lên tới 16), vì nếu chỉ gởi dụng cụ đo huyết áp (kiểu y tá bác sĩ thường dùng) và dụng cụ xông mũi như lần này thì không đủ. Linh mục cho biết: thời gian gần đây, trại giam có cho linh mục một số thuốc men nhưng chẳng có mấy hiệu quả nào. Điều này chẳng có gì lạ. Ở ngoài đời, thuốc do bảo hiểm y tế cấp còn chẳng ra chi, huống nữa là trong nhà tù cộng sản. Trường hợp bệnh tình luật sư Lê Thị Công Nhân hiện nay với sự chữa chạy tồi tệ trong nhà tù chứng nhận thêm chuyện ấy. Điều đó cho thấy tình trạng sức khỏe của vị tù nhân lương tâm đang có vấn đề. Xin đồng bào khắp nơi, đặc biệt giới y sĩ, tiếp tục quan tâm theo dõi, vận động, đồng thời giúp lời cầu nguyện.

Nhóm Phóng viên FNA và 8406 tường trình từ Huế lúc 17g30 ngày 13-07-2009

*http://www.nhandan.org.vn/tinbai/?top=0&article=151588

Lm Nguyễn Văn Lý ngày ra tòa tại Huế và hiện nay trong nhà tù Ba Sao

Một trong 19 biên bản Lm Lý lập ra để kết tội Cộng sản