Monday, July 6, 2009

Chiến Dịch Hoa Hồng Đỏ

LỜI NÓI ĐẦU:

Nhiều người Việt miền Bắc di cư năm 1954 đã thuật lại cho dân miền Nam biết về những thủ đoạn thâm độc của CS, nhưng có một số không tin; đặc biệt là vài người trong giới trí thức khoa bản, họ tin vào lòng chân thành của CS để "hoà hợp hoà giải". Khi miền Nam bị rơi vào tay CS thì một số bị vào tù hoặc phải cao bay xa chạy; số còn lại vẫn còn tin nơi "thực tâm hoà giải giữa những người Việt với nhau", chỉ trích chính quyền CS như họ đã từng làm dưới thời "không-dân-chủ" của Thiệu-Kỳ. Đối với Đảng, việc nầy không thể tha thứ được; người của Đảng thì được lệnh chỉ trích đảng, nhưng người không thuộc guồng máy tuyên truyền của đảng thì sẽ như cá cắn câu: CS đã từ từ khép miệng họ lại, đóng cửa các tờ báo như Tin Sáng của tên gian Ngô Công Đức, Tiếng Chuông, Đối Diện của "linh mục thiên tả" Thanh Lãng và nhốt họ vào địa lao. Một thời gian sau khi được thả, họ lại ráng nói vài câu trần tình đầy sự bất mãn (như linh mục tiến sĩ Chân Tín, được thả vào 12/5/93 và "cha" Nguyễn Ngọc Lan vào 1992). Sau đó, người ta không còn nghe họ nói gì nữa. Họ là những kẻ đặt lòng yêu nước thương nòi không đúng chỗ (chỉ trích chính phủ Quốc Gia, nhưng lại tin CS) và cuối cùng họ phải gánh hậu quả của việc không có lập trường vững chắc. Họ đinh ninh rằng có thể "cải hóa" CS dựa vào tình dân tộc, nghĩa đồng bào. Tuy nhiên họ đã bị phản bội vì không hiểu rõ người CS. Họ lầm lẫn vì cứ xem CSVN cũng là người VN thuần túy như họ. Sự thật không phải như vậy vì người CS ở đâu cũng thế; họ là những người của một hệ thống "đại đồng" và "quốc tế"; họ là đệ tử của Lê-nin. Lê-nin đã từng nói trong tập 2 và 3, cuốn VI của Lê-nin toàn tập như sau:

"Đối với kẻ thù (của gia cấp vô sản), khi cần phải hợp tác thì cứ hợp tác" nhưng "Người cộng sản không được tỏ ra ngại ngùng trước chuyện phản bội; kẻ nào chống lại sự phản bội tức là anh ta đã theo quan điểm tư sản chứ không phải quan điểm vô sản".

Đi sâu vào trong bài, ta sẽ thấy tại sao khó có thể cải hóa người CS được. Thật sự ngày nay, có lẽ ít có ai dám đi thử xem tư tưởng trên của Lê-nin kia ra sao.

Dân 2 miền Nam Bắc đã từng bị Đảng CS "chơi xỏ", không phải một mà nhiều lần. Một số khoe với các bạn miền Bắc vào sau 1975 rằng họ đâu còn sợ bị lừa nữa khi kinh qua các vụ đổi tiền và đánh tư sản. Nhưng các người nầy nói rằng, các anh đã lầm to, các anh chưa nếm đủ hết các màn xảo trá của CS Hà Nội đâu! Điều nầy có đúng không? Thời gian qua cho ta thấy là câu nói kia của các người miền Bắc rất đúng.

Vì sao người ta bị lừa mà vẫn lao đầu vào "lửa"? Bởi vì các màn lừa lọc đều khác nhau. Không lẽ một số rất ít trong chúng ta ngu muội tới mức độ chưa thấy rõ CS? Khi đã chạy trốn CS, bỏ quê hương, mồ mả tổ tiên, thân nhân và nhà cửa tức là ta đã thấy rõ chế độ đó như thế nào rồi. Đó là một sự lựa chọn có ý thức trong tự do. Đã quyết định chối bỏ một chế độ để ra đi, tức là đã có thái độ chính trị rõ ràng được bày tỏ. Nay lại quay đầu về cùng với các tay "ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản" để hỗ trợ chế độ độc tài bằng cách nầy hay cách khác; không có ý chí sắt đá tin vào lý tưởng mình đang theo đuổi. Về vấn đề nầy ta vẫn còn thua xa người CS. Đó phải chăng đây là một thái độ, một lập trường tư tưởng bất chính, phản phúc, phản bội với chính bản thân mình trước, và sau với đồng bào cùng ra đi với mình trên những chiếc thuyền mỏng manh?

Sự phản phúc thấy rõ nhất trong quá khứ là ở một thiểu số trong thành phần được may mắn đi du học nước ngoài trước 1975. Trong khi những người cùng lứa tuổi phải giải gió dầm sương, liều mình bảo vệ hậu phương, bảo vệ gia đình họ để họ an tâm đi học. Những người chiến sĩ kia chỉ mong người có may mắn hơn được học thành tài hầu báo đáp phần nào sự hy sinh kia, thì lại phản trắc và lưu manh, không biết đâu là chánh nghĩa, chạy đuôi theo bọn "bồ câu đỏ" tố khổ lại "đám cực đoan vàng" các người đang bảo vệ gia đình của mình ở quê nhà. Rồi, theo sự ru ngủ của VC, đám "một dạ hai lòng" nầy đã nghe lịnh từ quan thầy CS, len lỏi vào trong các cơ quan quốc tế và nằm chờ cơ hội. Nay, chính những kẻ "ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản" đó lại chài người nhẹ dạ, chưa bao giờ biết CS là gì, để giúp CS.

Các kinh nghiệm từ xưa tới nay đốc thúc ta nhớ kỹ là nên có một lập trường dứt khoát; lập trường này không bao giờ sai lầm và không có gì lay chuyển nổi: không giúp CS bành trướng. Dù là CS Tàu hay CSVN, họ đều tàn bạo, xảo quyệt và khát máu; đặc biệt là CSVN, họ có thể được xem là tên đứng đầu trong thành tích xảo trá và hay bắt chước đàn anh nhất trong các nước CS trên thế giới xưa và nay. Họ biết lúc nào đứng lên cũng như biết lúc nào nằm mẹp xuống. Họ vẫn không ngừng dòm ngó và suy xét làm sao chủ nghĩa kia được sinh tồn để lấn át đi những gì mà dân tộc ta xây đắp qua mấy ngàn năm đầy máu và nước mắt.

Chuyện gì đã xãy ra mấy năm trước đây chắc bây giờ không còn ai nhớ nữa.

"Ôn cố nhi tri tân" vẫn là phương thế soi rọi cho người sau biết rõ mình đang làm gì, lợi và hại ra sa0?.

Bài "CHIẾN DỊCH HOA HỒNG ĐỎ HẢI NGOẠI CỦA CSVN" được đăng lên với mục đích đó. Số người bị vướng vào chủ nghĩa CS qua muôn tình huống thì rất nhiều. Bọn họ có thể là triết gia, tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư, văn sĩ, họa sĩ, sinh viên, nông nhân, thợ thuyền,... Đa số nghe theo lời dụ dỗ của CS qua công tác gọi là TRÍ VẬN (công tác lừa dối quần chúng). Bọn họ cũng có thể là "vài" kinh tài cho VC; nhiều người trung gian chuyển tiền nầy được kết nạp kín đáo vào Hội Việt Kiều Yêu Nước với giấy chứng nhận, giấy giới thiệu của giới chức VC ở hải ngoại cấp cho để khi về VN được giúp đỡ dễ dàng. Từ chỗ ham lợi vào Hội Việt Kiều Yêu Nước để buôn bán với VC, vừa có lợi tiền bạc, lại được sự nâng đỡ của các đồng chí khi về thăm quê hương, đi tham quan,... Rồi từ đó tính đến chuyện móc nối tuyên truyền, dụ giỗ gia nhập Đảng, làm cán bộ nằm vùng ở hải ngoại, chỉ khoảng cách ... một gang tay! Những người này được CS nhận định và lợi dụng như thế nào, ta sẽ tìm hiểu qua bài "Chiến dịch ...".

Điều đáng để ý nhất là một số người bị chài mà xưa kia chính gia đình họ hay chính bản thân họ đã bị CS tù đàỵ Những người nầy đã được CS giảng giải về "lòng yêu nước kiểu CS" hay nhận vài sự thi ân liền quay về làm việc cho CS (quay về với "dân tộc" là quay về với đảng). Một trong những thí dụ nầy là trường hợp của Hà Văn Lâu.

Cán bộ CS được đào luyện về chính trị (nhồi sọ) và lòng hận thù giai cấp liên tục từ khi còn ở nhà trường, và cứ như thế, ngày nầy qua tháng nọ, họ trở thành những kẻ xảo quyệt, chuyên dùng mưu mô để làm sao có lợi cho Đảng. Với sự chuẩn bị như thế và với lối suy nghĩ một chiều, họ sẵn sàng hy sinh mù quán cho "lý tưởng CS" dù có đi ngược với quyền lợi của quần chúng. Họ phải làm đủ cách để con mồi vào rọ, nhất là những con mồi chưa bao giờ sống trong thế giới của họ.

Ta tự đặt thêm câu hỏi tại sao CS lại có thể lừa được quá nhiều người, không phải một lần mà rất nhiều lần? Câu trả lời có thể là CS là những tay tuyên truyền và nói dối chuyên nghiệp; họ đặc biệt giỏi ở chỗ khơi dậy lòng yêu nước của người khác để lợi du.ng. Từ VN, họ đã gởi nhân viên đi khắp nơi và, chỉ trong một khoảng thời gian, họ đã gom tụ được một số "cảm tình viên gốc ... ngụy, nhất là giới trẻ non nớt và tự phụ", không vững ý chí và sáng suốt. Những người nầy, đã được giới thiệu đọc những sách phản chiến, được "sinh hoạt", "giúp đỡ", "bồi dưỡng" và kết cuộc họ đã làm việc không công cho CS.

Một phương pháp đáng để ý khác nữa là "dùng gậy ông đập lưng ông". Phương pháp nầy được chính thức áp dụng bởi CS. Gần đây và rõ ràng nhất là vụ CS dùng nó để các người theo đạo Phật tố lẫn nhau. Sư và ni cô "quốc doanh", phối hợp với sư và ni cô "công an" bắt đầu đè bẹp những người cùng theo một lý tưởng tôn giáo với mình. Bên công giáo cũng thế, xuyên qua cánh tay của Đảng, Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam (the Vietnam Fatherland Front) đã dùng linh mục quốc doanh Huỳnh Công Minh để chờ tiếm quyền của Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình (vì vậy CS không muốn Vatican tấn phong một vị khác) hoặc tên linh mục "có vợ" Phan Khắc Từ nổi tiếng "linh mục hốt rác" trước 1975 ngày xưa để dò xét sinh hoạt công giáo cho Đảng ở Saigon.

Ta hãy đọc kỹ một trong những cách chài người của CS để đừng bao giờ khinh thường họ cả. Ngoài ra, hãy để ý tới vài nhóm phản chiến được gài trong "religious groups"; chính những nhóm nầy đã hỗ trợ cho VC xâm chiếm miền Nam và gây bao đổ vỡ tan thương cho bao gia đình .

Chúng ta sẽ thấy trong tương lai những hiện tượng xảy ra y như những gì mà người ta đã biết về người CS khi họ dùng các phương pháp nầy để hại bao thế hê đi trước. Thực vậy, ở mỗi thế hệ, một số người đã bị sa vào lưới trong đó chỉ có rất ít, cả già lẫn trẻ, được may mắn thoát khỏi chủ thuyết mà thôị Cứ như thế bánh xe trớ trêu của con tạo cứ xoay dần và nghiền nát những kẻ ít may mắn đó.

Ngạn ngữ Mông Cổ có câu:

"Không phải tất cả những người cười với anh đều là bạn, cũng như không phải tất cả những người làm anh bực mình đều là kẻ thù".

Cho tới 1988, Hà Nội thường không ngớt gọi tập thể người Việt tỵ nạn chính trị tại hải ngoại là những phần tử "gian manh, lười biếng", không chịu ở lại "xây dựng đất nước" mà chạy theo "bơ thừa, sữa cặn của đế quốc". Một mặt, CS gây biết bao hãi hùng cho dân và làm họ phải bỏ chạy, còn mặt khác thì đánh tiếng cho người Tây phương biết là đám người Việt kia chỉ là những kẻ "hèn nhát và ăn bám" để người ngoại quốc không cho họ có chỗ dung thân: CS đã đưa họ vào thế lưỡng đầu thọ đi.ch. Sau đó, CS lại nói khác: người Việt tỵ nạn cũng là "những Việt kiều yêu nước" nếu họ đem tiền về giúp kẻ đuổi họ đi hoặc hãy hợp tác với họ.

Một vài Việt gian đã làm được việc này: gần đây ở Little Saigon, Phạm Đăng Long Cơ (bác sĩ) và Dean Lâm -- anh của Tony Lâm (Lâm Quang, người bán bún ốc mười mấy năm được bầu làm nghị viên thành phố Westminster, Orange County, California; thời hạn 2 năm) -- đã đưa Lê Văn Bằng (đại sứ VC tại Liên Hiệp Quốc) và 2 tướng VC dạo chơi và ăn uống thoải mái, rồi cùng thăm viếng những cơ sở làm ăn của người Việt ở Wesminster.

Khi nhìn lại quá khứ, chúng ta mới hiểu rõ người CS thật giỏi tài nói lươn lẹo; họ ỷ "có đất và dân" nắm trong tay nên dằn dặt cho đám "phản tặc" biết tay.

Thật vậy, khi vầy khi khác có chi lạ và đó cũng là một trong các thói quen của CS: họ chỉ hợp tác, hữu nghị, khi lâm vào thế cần sự giúp đỡ và xuôi chiều để tồn tại. Xưa kia trong thời chiến tranh với Pháp, Hồ Chí Minh có nói câu: "Khi cần thì cờ tam tài (cờ của Pháp) cũng treo".

Câu này suy rộng ra là khi Đảng đang ở thế nguy hiểm thì nếu cần bán nước cho Pháp, qui lụy cho Nga - Tàu, bắt tay lại với "đế quốc" Mỹ thì không sao, miễn là Đảng được vững và tồn tại. Đó là tư tưởng Hồ Chí Minh mà CSVN hiện đang giữ gìn, nghiên cứu và áp dụng. Nhưng có một điều là "tư tưởng" nầy có khác gì các câu nói của Lê-nin ở trên?

Vào khoảng đầu năm 1988, một tờ nhật báo ở Pháp mang tên Paris Soir có đề cập đến một tổ chức hoạt động KINH TÀI và PHÁ RỐI của CSVN tại các quốc gia hải ngoại -- nơi có nhiều người VN tỵ nạn -- và được mệnh danh là "Hoa Hồng Đỏ". Ngoài ra chiến dịch này còn mang một cái tên khác là chiến dịch "Mạng Nhện". Có 2 cán bộ CS đặc trách chỉ huy và vận động cho chiến dịch trên là Huỳnh Trung Đồng và Lê Quang Sơn. Trước đây tổ chức này đã có cơ quan truyền thông chính thức là các tờ báo Cái Đình Làng, Thái Bình, Việt Kiều Yêu Nước, Hồn Nước và những tờ báo thân hữu của họ là Mằm Non, Thanh Niên Hành Động,... Mục đích là tuyên truyền cho CS nhắm vào 2 chủ điểm sau:

1. Kinh tài: CS cho xây dựng các cơ sở kinh tài hải ngoại (một số đã thực sự hoạt động liên tục kể từ 1976), trong dịch vụ buôn bán, gửi quà, tiền và vật dụng về VN, kể cả các dịch vụ đưa người vượt biên, xin thủ tục ODP (Operation Departure Program). Họ cũng liên hệ đến các tổ chức lo các chuyến về thăm VN.

2. Chánh trị: Nhằm phá rối cộng đồng tỵ nạn, gây xáo trộn mọi sinh hoạt cộng đồng, nhất là sinh hoạt chính trị.

Sau đây là một bài báo của Hoàng Văn Trác trên "Ngày nay", số 160, 1/6/1988 nói kỹ hơn về vấn đề này. Sống trong những thể chế dân chủ, chúng ta có quyền tin hay không tin vào bài nầy. Tuy nhiên, đây cũng là một tài liệu để ta suy ngẫm.

Sau khi thi hành bản án tử hình ĐINH BÁ THI tại Phan Thiết, Bộ Chính trị đảng CSVN tại Hà Nội đưa tên đại tá có nhiều kinh nghiệm về tình báo và khuynh đảo là HÀ VĂN LÂU, sang nắm trọn guồng máy tình báo nước ngoài tại Liên-Hiệp-Quốc. Đi theo phụ tá cho Hà Văn Lâu là Nguyễn Ngọc Dung, nữ Trung tá, nguyên chỉ huy trưởng tình báo và phản gián quân khu 7 của Trung tướng CS Trần Văn Trà.

Mới đây, Hà Văn Lâu còn được tăng cường thêm một tình báo cỡ gộc nữa, đó là Phạm Ngọc Ân. Bộ máy tình báo và khuynh đảo của Hà Văn Lâu được đặt trực tiếp dưới quyền điều khiển của Bộ Chính trị tại Hà Nội, thay vì thuộc bộ ngoại giao của họ.

Không cần phải dầy công tìm hiểu, mà chỉ cần căn cứ vào yếu tố trực thuộc Đảng, người ta cũng có thể lượng định được vai trò quan trọng mà Trung Ương Chính Trị Bộ tại Hà Nội sắp đặt cho bộ máy nầy, nhằm cũng cố địa vị của họ đối với thế giới bên ngoài và triệt hạ đối thủ là khối hơn một triệu người Việt tị nạn khắp thế giới, đặc biệt tại Mỹ. Vẫn biết rằng, đối với CS, thì Nhà nước với Đảng là một. Nhưng khi một cơ quan được đặt trực tiếp với Đảng (tức Trung ương Chính trị bộ), có nghĩa là chủ trương, đường lối, nội dung kế hoạch của cơ quan đó sẽ cứng rắn hơn, sắt máu hơn, và vì thế phải được giao cho những cán bộ từng chứng tỏ "Trung với Đảng, hiếu với dân". Đảng lại có kỹ luật của Đảng, để một khi đi ra ngoài vòng kỹ luật đó, thì chỉ có lãnh mã tấu như Đinh Bá Thi, Trung tướng Nguyễn Bình đã lãnh.

Cho nên, việc Bộ Chính trị Hà Nội đặt guồng máy tình báo và khuynh đảo của Hà Văn Lâu trực thuộc Đảng, cho ta một nhận xét rất rõ ràng, về tầm mức quan trọng của họ nhằm vào hàng ngũ tị nạn chúng ta. Kế hoạch của họ được thực hiện từng bước, mỗi bước gọi là một cánh hồng. Trong bài nầy, ta hãy lượt qua những bước chính họ đã đi; đó là bốn bước căn bản, được gọi là Cánh Hồng 1, 2, 3 và 4.

A. Cánh hồng 1: Kết hợp

Đinh Bá Thi, người CS có công nhất trong việc dành chiếc ghế đại diện cho CSVN tại Liên-Hiệp-Quốc, và cũng là đại diện đầu tiên của CSVN tại diễn đàn quốc tế nầy, bị cơ quan phản gián FBI Mỹ bắt vào trưa ngày 31/1/1978 cùng với tên tay sai người Mỹ là Donald L. Humphrey (có vợ Việt) và TRƯƠNG ĐÌNH HÙNG (con trai luật sư Trương Đình Dzu), khi cả ba bị bắt quả tang đang ăn cắp tài liệu mật của Mỹ và bị Hà Nội giết tại Phan Thiết.

Khi Đinh Bá Thi chết, thì hệ thống tình báo và khuynh đảo của Hà Nội trong kế hoạch "Hoa Hồng Đỏ" đã thực hiện được bước đầu trong bốn bước của toàn bộ kế hoạch. Bước đầu nầy là bước "Kết Hợp" (Cánh hồng 1).

Cánh hồng 1 đã được Đinh Bá Thi và nhóm sinh viên Việt Nam du học do sinh viên Nguyễn Thái Bình là đầu (Nguyễn Thái Bình bị CIA bắn chết trên không phận biển Nam Hải khi tên nầy trở về VN năm 1969, một tên sinh viên khác lên thay Bình dường như là Ngô Bá Long), có nhiệm vụ kết hợp các cán bộ CS rải rác khắp nước Mỹ, mà vì lý do chính trị, họ đã phải phân tán và thu vào trong bóng tối. Ta còn nhớ những năm 1976-1978, hầu hết mọi gia đình VN tại Mỹ đều nhận được tờ báo THÁI BÌNH (là tên của sinh viên Nguyễn Thái Bình). Tờ Thái Bình được phát hành, vừa có mục đích tuyên truyền, vừa để kết hợp cán bộ qua đường giây PO Box.

Cũng như năm 1956, khi Hà Nội bắt đầu kế hoạch tập trung cán bộ nằm vùng khắp Nam VN, họ đã dùng nhiều hình thức, nhưng dấu hiệu rõ ràng nhất, mà chính quyền VNCH lúc đó không để ý, là cuốn phim "Mưa Rừng", do cán bộ CS nằm vùng Kim Chung thực hiện. Nội dung cuốn phim là một chuyện tình, như nội dung của bất cứ cuốn phim thường nào khác. Nhưng hình ảnh cuối cùng được chiếu trên màn bạc, là hình một đóa hoa hồng đỏ tươi, với một con bướm vàng bay lượn nhiều vòng, và cuối cùng đậu lại ngay giữa bông hồng. Màu đỏ của hoa hồng tượng trưng cho nền cờ đỏ. Còn bướm vàng tượng trưng cho ngôi sao vàng. Hình ảnh cuối cùng của cuốn phim nầy, là một lệnh tập trung cho cán bộ nằm vùng toàn quốc. Tờ Thái Bình sau đó thấy mất tăm, nhưng để thay thế, CS cho ra đời tờ CÁI ĐÌNH LÀNG, nhưng tờ nầy cũng thấy ngưng, sau khi người đứng đầu là Dương Trọng Lâm bị bắn chết.

Ngoài việc kết hợp cán bộ CSVN mà CS đã có sẵn, Đinh Bá Thi tìm đến những tay Mỹ phản chiến thứ nặng nhất, để phối hợp và yểm trợ, trong số nầy, hai người CS đáng tin tưởng hơn cả là Don Luce (tên ký giả đã tạo ra huyền thoại chuồng cọp Côn Sơn) và Jane Fonda đã dõng dạc đứng chửi Mỹ ngay tại Hà Nội: "Nhân dân Mỹ và nhân dân yêu chuộng hoà bình khắp thế giới, hãy vùng lên, cùng với nhân dân yêu chuộng hoà bình tại VN, xây dựng một nền Hoà Bình trên phần đất nầy". (báo Nhân Dân, số 1485, ngày 28/4/1964).

Ngoài 2 người Mỹ nầy, CS làm danh sách những tay phản chiến mà họ tin tưởng vẫn còn ủng hộ họ, sau khi đã trực tiếp giúp họ qua chiến thắng 75. Trong số những người và tổ chức được Đinh Bá Thi kết hợp lại, đầu tiên phải nói đến hai hội đạo METHODIST và QUAKER, là hai hội đạo cực kỳ phản chiến đã từng đứng đầu tổ chức cuộc biểu tình lớn lao tại Central Park, Nữu Ước ngày 27/4/64, cuộc biểu tình nầy được mệnh danh là "Diễn hành chống chết" (March against Death). Những Coretta King (vợ mục sư King), Kennedy, McGovern cũng được bọn CSVN tiếp xúc và kết hợp.

Một thành phần khác cũng được lệnh kết hợp, là số cán bộ CS được Hà Nội gởi sang Mỹ qua ngã các đoàn vượt biên. Ta còn nhớ, mấy năm trước đây, những bộ mặt từng tung hô CS và hợp tác với họ trong cuộc chiến, như TRẦN NGỌC CHÂU, HOÀNG NGỌC GIÀU là những người ta không nghi ngờ gì cả, đã được Hà nội gởi sang đây để tiếp tục hoạt động cho họ. Hàng trăm cán bộ khác không được nêu tên tuổi, nhưng cơ quan phản gián FBI đều biết rõ tung tích của họ.

Móc nối lại những thành phần từng hoạt động cho họ Liên lạc với những thành phần mới xâm nhập qua đường giây tị nạn. Củng cố thêm thành phần phản chiến cũ, CSVN coi như đã hoàn tất giai đoạn "Kết Hợp" tức "Cánh Hồng 1". Bước thực hiện kết hợp nầy, CSVN đặt ra như một bước căn bản, như tài liệu học tập của họ đã ghi: "Thông suốt đường lối Đảng, nắm vững chỉ tiêu Cách Mạng, kết hợp nhịp nhàng giữa bạn và ta, bước 1 tiến vững vàng, để ta bước qua bước tiến 2 "(Học tập số 2, 6/76).

B. Cánh hồng 2: Vòng tay

CS gọi giai đoạn nầy là "Vòng tay", nghĩa là tìm bạn khắp nơi, đứng về phía họ để yễm trợ họ, như họ đã làm trong cuộc chiến và họ đã thành công. Người tổ chức và cho phát động bước tiến 2 là HÀ VĂN LÂU, đại tá thâm niên và có nhiều kinh nghiệm nhất về khuynh đảo trong hàng ngũ cao cấp của CSVN.

Sở dĩ Hà Nội phải xét lại và củng cố thêm hàng ngũ bạn của họ, vì sau 1975, rất nhiều thành phần phản chiến Mỹ đã phản tỉnh, trong số đó, cay cú nhất cho Hà Nội là Joan Baez, người nữ ca sĩ nổi danh, cặp bài trùng của Jane Fonda, từng hết lời ca ngợi cộng sản Việt Nam, và coi Hồ Chí Minh như một "Washington Việt Nam".

Hà Nội cũng nhận định và đánh giá chính xác tiềm năng đấu tranh của khối người Việt Quốc gia hải ngoại, để thấy được rằng, khối Quốc gia nầy là một trợ lực chính trong nỗ lực của CS nhằm củng cố địa vị của họ trên bình diện quốc tế, nhất là đối với Mỹ, hy vọng cuối cùng để cứu vãn tình trạng kiệt quệ về kinh tế, và đôn đốc về chính trị của họ.

Đưa vòng tay lớn ra để tìm thêm bạn, CSVN đã thấy rõ thế yếu của mình. Nhưng CS không tìm bạn theo đúng nghĩa của bạn, mà CS tìm bạn theo tiêu chuẩn mà họ gọi là TIÊU CHUẨN CÁCH MẠNG, và nhất là để đáp ứng nhu cầu giai đoạn. Ta thấy CS phân loại bạn mà họ muốn thu thập và tìm kiếm, ra hai loại:

1. Bạn lâu dài:

Gồm những thành phần mà quá trình hoạt động có thể chứng minh được lòng trung kiên đối với chế độ CS. Những đảng viên CS Mỹ, những thành phần phản chiến cũ còn giữ vững lập trường. Những Don Luce, Stanley Karnow, Michael McLean, Trần Tam Tĩnh,... là những thành phần được CS coi là đồng chí và là bạn lâu dài.

Chủ đích của CSVN khi thu nhập những bạn lâu dài nầy, không phải chỉ để có thêm bạn, mà chính là để, từ những thành phần cốt cán nầy, sẽ ảnh hưởng đến nhiều địa hạt khác, thành phần khác, hầu thu lợi và lôi kéo đứng về chiến tuyến của họ Hay nói cách khác, những thành phần mà CS coi là bạn lâu dài, được CS sử dụng như một vết dầu loan. Một Donald L. Humphrey không phải tự nhiên mà điên khùng đi lấy cắp tài liệu ngoại giao mật của chính quốc gia mình cho Đinh Bá Thi để lảnh án tù 6 năm. Một Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, bên cạnh lòng nhân từ, đạo đức của các ngài, chắc chắn các ngài còn bị ảnh hưởng từ ngoại vị Ngoại vi đó có thể là Kennedy, là đám sinh viên thiên tả tại đại học Harvard, Massachussetts, hay Pennsylvania, là những đại học nổi tiếng phản chiến. Để các ngài không nhìn thấu được cái quỉ quyệt của CSVN, nên mới có bản nhận định 19/11/70, một nhát búa nặng ngàn cân, đập xuống chính quyền Mỹ.

Một bản chính trong bản nhận định đó: "Bất cứ lợi ích nào, dù lớn lao đến đâu, mà chúng ta hy vọng đạt được qua việc tiếp tục tham chiến tại VN, cũng không thể bù đắp được những tàn phá về sinh mạng do cuộc chiến đó gây nên." (At this point of history, it seems clear to us that whatever good we hope to achieve through continued involvement in this war is now outweighed by the destruction of human life and moral values which it inflicts).

Những Coretta King, Kennedy, Ramsey Clark, tự họ không làm gì đáng phải làm cho chính phủ Mỹ bó tay về vấn đề VN, nhưng tự họ đã lôi cuốn hàng trăm ngàn người Mỹ khác, là vì khờ khạo không một chút hiểu biết gì về bản chất của CS, đã cùng nhau xuống đường, hò la, lên án việc tham chiến của Mỹ tại VN là phản đạo đức (morally wrong) phản hòa bình (against peace).

Tất cả những người Mỹ ngớ ngẩn một cách tội nghiệp đó được CSVN coi là bạn trung thành, bạn lâu dài của họ, vì nhờ họ, mà CS được thêm những thành phần khác đứng sau lưng, nghĩa là CS đã thành công trong chiến lược vết dầu loang. Chính những thành phần nầy đã tạo chiến thắng cho họ năm 1975.

Dĩ nhiên, trong thành phần mà CS coi là bạn lâu dài, CS còn sử dụng họ trong nhiều phạm vi hoạt động khác, tùy theo khả năng, để gài vào các nhiệm vụ như gián điệp, trí vận, học đường vụ,...

2. Bạn giai đoạn:

Gồm những thành phần mà CS biết rằng, chỉ theo họ vì hoàn cảnh, vì nhu cầu, hoặc ở một thế kẹt nào đó. Cũng được coi là bạn giai đoạn những người không theo họ, nhưng cũng không chống họ, nhưng lại chống kẻ thù của họ.

Những thành phần được CS coi như bạn giai đoạn không nhất thiết phải theo họ, không cần thiết phải biết về chủ thuyết cộng sản của họ, chỉ cần đừng chống họ, nhưng chống các đoàn thể quốc giạ Trường hợp điển hình, như Phong Trào Liên Ban Đông Nam Á, một thời hoạt động mạnh tại Pháp, tuy nói rằng họ không theo CS, nhưng họ lại có một chủ trương rất mập mờ, là liên kết những người da vàng để chống lại người da trắng. Họ không chịu dùng quốc kỳ vàng 3 sọc đỏ. Chủ tịch của phong trào này là ông Hoàng Văn Mười, một cái tên rất lạ đối với người VN chống cộng. Tổng thư ký của phong trào này là cô Trần Thị Thanh Nga, con gái cố Thượng Nghị sĩ Trần Chánh Thành, tuy không theo CS, nhưng chị ruột của cô Nga là Trần Thị Ý Hoa, lại là một cán bộ CS thứ dữ. CS đã kích các đoàn thể khác, nhưng chưa một lần nào nhắc đến Phong Trào Liên Ban Đông Nam Á. Cho nên người ta đặc một dấu hỏi lớn về phong trào này, nếu không phải do CS tổ chức thì cũng được CS giật dây theo lối bạn giai đoạn.

Chúng ta còn nhớ một phong trào quái dị khác được thành lập tại Saigon năm 1955 do một số trí thức miền Nam chủ trương gồm có các ông TRỊNH ĐÌNH THẢO, TRƯƠNG ĐÌNH DZU, LÂM VĂN TIẾT đứng ra thành lập, đó là Phong Trào Bảo Vệ Hoà Bình. Phong trào này không phải là tổ chức của CS, nhưng được CS ủng hộ và thúc đẩỵ Người ta thấy chủ trương của phong trào này thiên về CS một cách rõ ràng, chủ trương đó là đòi hỏi những bên ký hiệp định Geneva 1954 phải thi hành những điều khoảng ghi trong hiệp định, và họ nhấn mạnh đến điều khoản tổng tuyển cử 1956. CS Bắc Việt lúc đó cũng cương quyết đòi hỏi Mỹ và Nam VN phải tổ chức tổng tuyển cử, vì với bộ máy kìm kẹp miền Bắc, thêm vào là hàng chục ngàn cán bộ được gài vào miền Nam, chắc chắn tổng tuyển cử sẽ mang lại phần thắng cho CS.

Những cá nhân và đoàn thể được CS coi là bạn giai đoạn, bạn nhu cầu, là những cá nhân và đoàn thể thuộc loại vừa kể trên. Nghĩa là những cá nhân, những đoàn thể không phải nhất thiết phải theo họ, dĩ nhiên, theo họ và phục tùng họ là nhất, nhưng họ cần các thành phần đó đừng chống đối họ là được. Chủ đích của CS khi lôi kéo những thành phần nầy, trước hết là chỉ để chặt bớt chân tay của địch.

Đối với khối người Việt tỵ nạn, CS cũng áp dụng lối chọn bạn như họ đã áp dụng trong thời chiến trước đâỵ CS biết rằng, đối diện với thực tế, họ đang trong thế quá yếu kém so với lực lượng chống cộng hùng hậu của người tỵ nạn, và nhất là đại đa số người tỵ nạn đều có những mối hận cay đắng với họ. Do đó, dùng những thủ đoạn bịp bợm, dụ dỗ những thành phần này trở thành người CS, hoặc thành loại bạn trung kiên của họ là điều họ không hề nghĩ đến. Điều mà họ nghĩ đến và cố gắng thực hiện, là biến càng nhiều càng tốt những người chống họ, thành những người không chống ai cả. Bước đi này của CS tương tự chủ trương của họ từ ngàn xưa mà ai cũng đã biết: "Cái gì của tôi, tôi giữ đến cùng. Cái gì của anh, chúng ta thương thuyết."

Chính vì thủ đoạn này của CS, mà ta thấy có một số người Việt tỵ nạn đặt chân lên đất Mỹ năm 1975 với đầy ắp một lòng căm thù CS, bỗng dưng một thời, quên cả thù cũ, ngớ ngẩn tuyên bố: "Phải no bụng đã mới chống cộng được."

Một số khác, từ căn bản, họ là những người chống cộng, nhưng chỉ vì một bất mãn cá nhân, quay mặt đi không còn nhìn nhận đoàn thể, bạn hữu của mình nữa, và cũng được CS coi như những người bạn giai đoạn.

C. Cánh hồng 3: Xâm nhập lũng đoạn.

Giai đoạn nầy là giai đoạn quan trọng nhất của chiến dịch, vì nó là thành quả của 2 giai đoạn trên, và nhất là một bảo đảm cho giai đoạn saa. Giai đoạn này thất bại, coi như cả chiến dịch thất bạị Vì thế, CS đã điều nghiên rất kỹ, họ lấy kinh nghiệm cũ, trau dồi thêm phần kỹ thuật mới để áp dụng kế hoạch trong giai đoạn 3 nầy.

Ta thử nhìn xem, CS đã đi như thế nào trong giai đoạn xâm nhập và gây lũng đoạn.

1. Xâm nhập:

Bài học ôn:

Vào những năm đầu của cuộc tỵ nạn, tức khoảng 1975-1977, CS Hà Nội đánh giá rất thấp tập thể người Việt tỵ nạn trên thế giớị Họ quan niệm rằng, các đoàn thể của người tỵ nạn hầu hết được lãnh đạo bởi những người thuộc các thành phần rất bê bối, tham nhũng, nhiều tội ác, dốt nát. Những người nầy có nói, cũng chẳng ai nghe. Nhận định của Hà Nội không phải hoàn toàn vô căn cứ, vì thực ra cũng có một số ít người lãnh đạo của một vài hội đoàn, tỏ ra quá kém cỏi và thiếu hẳn tư cách lãnh đạọ Vài ba hội đoàn nầy, dần dần thấy biến mất dạng.

Nhưng, vào những năm sau này, khi khí thế đấu tranh của người Việt lên cao, có tổ chức và được hậu thuẫn của cả tập thể người Việt lẫn một số quốc gia tự do, lần lượt ra đời, thì Hà Nội bắt đầu chuyển hướng, và mục tiêu chính của họ tại hải ngoại, không phải chỉ còn nhắm vào lãnh vực chính trị, kinh tế, ngoại giao nữa, mà đồng thời phải ra sức tiêu diệt tiềm năng đấu tranh của "bọn tàn dư Ngụy", tức là khối người Việt tỵ nạn. Những hội đoàn các Cộng Đồng tôn giáo, nhất là Công Giáo, Lực Lượng Thanh Niên Tự Do Âu Châu, Tổ Chức Người Việt Tự Do, là những hội đoàn được cộng sản chú tâm nhiều nhất. Việc Hà Nội đưa Hà Văn Lâu sang Mỹ, cũng không ngoài chủ đích tìm cách khuynh đảo khối người Việt tỵ nạn, như hắn đã làm được tại Thái Lan.

Trước hết, nhìn lại quá khứ đấu tranh suốt 30 năm, ta thấy CS đã chứng tỏ một kỹ thuật xâm nhập và gài người rất tinh vi vào các doàn thể, các tôn giáo và ngay cả quân độị Những trường hợp điển hình mà ta chưa quên, phải nói vụ Huỳnh Văn Trọng, phụ tá đặc biệt của TT Nguyễn Văn Thiệu. Đây là một cán bộ CS lọt được vào một chức vụ cao nhất thuộc phía hành pháp. Cho đến nay, sau nhiều năm mất nước, về phía Việt Nam Cộng Hòa, ông Thiệu và ông Đặng Văn Quang, có lẽ ít ai biết Trọng đã lọt được vào Dinh Độc Lập qua ngả nào (2 quyển sách mới có nói về vụ Huỳnh Văn Trọng, hiện mang quân hàm tướng công an VC). Có người cho rằng, CS Hà Nội dùng tiền, vì vụ đổ bể, một vị đại tá làm việc trong dinh đã được nghe ông Thiệu quở trách ông Quang và ông Quang trả lời: "Moa làm tiền cho cả nhóm chứ riêng gì cho cá nhân moa".

Có người lại cho rằng, chính CIA đã đưa Trọng vào qua trung gian ông Quang, vì ai cũng biết ông Đặng Văn Quang là tay CIA nặng ký vào bậc nhất trong số những người VN cộng tác với cơ quan tình báo chiến lược nầy.

Qua ngã nào thì tên cán bộ CS nầy cũng đã lọt vào ngồi bên cạnh ông Thiệu suốt mấy năm trời, và sau nầy người ta chẳng còn ngạc nhiên gì, khi những kế hoạch tối mật được soạn thảo tại Dinh Độc Lập, chính phủ ông Thiệu chưa kịp thực hiện thì Hà Nội đã được thông báo đầy đủ. Chẳng hạn như những dự tính chính trị đưa ra áp dụng tại Hội Nghị Paris năm 1971, Dinh Độc Lập đánh mật điện cho phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa đêm hôm trước để sáng hôm sau trưởng phái đoàn đưa ra hội nghị Khi VNCH vừa đưa ra, Nguyễn Hữu Thọ đã cười nhạt và hắn phản pháo không một sơ hở. Kế hoạch đánh chiếm Hạ Lào năm 1972 cũng thế, theo lời một sĩ quan Tham mưu Lữ đoàn Nhảy dù, thì CS đã biết trước tất cả nên chỉ việc nằm chờ, bao nhiêu sinh mạng chiến sĩ VNCH để lại trên chiến trường một cách oan uổng. Ông Thiệu phải chịu trách nhiệm trước lịch sử.

Trường hợp chuẩn tướng NGUYỄN HỮU HẠNH, người đã cùng Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đầu hàng CS sáng 30/4/75, đã bí mật liên lạc với tướng CS TRẦN VĂN TRÀ, trong suốt thời gian Trà làm Trưởng Phái Đoàn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tại hội nghị quân sự bốn bên tại Tân Sơn Nhất, mà không một ai hay.

Cựu dân biểu TRẦN NGỌC CHÂU, lợi dụng bất khả xâm phạm của một dân biểu, cùng sát cánh với KIỀU MỘNG THU và các "Thày", công khai đánh phá ta ngay tại Sàigòn, nhưng lại âm thầm thảo kế hoạch và trao tin mật cho em ruột là Trần Ngọc Hiền, đại úy tình báo CS Bắc Việt.

Đại tá PHẠM NGỌC THẢO, một cựu Trung Đoàn Trưởng CSBV, giả vờ hồi chánh, bịp cả chế độ đệ I và đệ II Cộng Hoà. Với chức vụ Tỉnh trưởng Kiến Hoà, Thảo (Tướng TRẦN BẠCH ĐẰNG của VC đã vinh danh và tổ chức truy điệu cho Thảo năm 1980-81 ở Saigon) đã gây nên không biết bao tội ác tầy trời với dân chúng, mục đích của Thảo là để gây căm thù giữa dân chúng đối với chính quyền Việt Nam Cộng Hoà (có lẽ vì vậy mà một số dân Bến Tre theo CS; báo chí ngoại quốc khi tường thuật về những "tội ác" chỉ biết Thảo là quân nhân của quân lực VNCH; tên Thảo nầy thật thâm độc;). Thảo bị giết tại Hố Nai năm 1969. Sau 30/4/75, cộng sản cải mộ Thảo và đưa về chôn cất tại nghĩa trang dành riêng cho tử sĩ cộng sản.

Trên mặt trận văn hóa, cộng sản đội lốt nhà văn VŨ HẠNH (mặc dầu cố gắng nhưng vẫn chưa vào đảng được sau 1975; thất chí, Vũ Hạnh không còn sáng tác như hồi trước 75 nữa), đào Kim Cương, đào tiếng chuông vàng đất Bắc Kim Chung, là những CS nằm vùng và đắc lực cho Hà Nội.

Ngoài những tên CS nằm im lìm trong các cơ quan chính quyền,lập pháp cũng như hành pháp, quân đội, văn hóa, báo chí, ta còn thấy những tên CS đội lốt nhà tu, trí thức, chính khách, công khai tiếp trợ cho đồng bọn dưới nhiều danh nghĩa. Những linh mục PHAN KHẮC TỪ, với khổ nhục kế "Kẻ Hốt Rác" để nắm thành phần lao động. "Linh mục" NGUYỄN NGỌC LAN, lợi dụng tự do báo chí để viết sách, viết báo cổ võ chủ thuyết cộng sản, mà ghê gớm hơn hết là cuốn "Đường Hay Lô Cốt?". Linh mục TRƯƠNG BÁ CẦN (nay lòi ra là linh mục quốc doanh ở Saigon), luôn luôn dùng tòa giảng để kêu gọi chấm dứt chiến tranh (theo đường lối CS, nghĩa là Mỹ phải rút, miền Nam phải buôn súng). Những tên cộng sản đội lốt nhà sư: THÍCH ĐÔN HẬU, THÍCH MINH CHÂU, THÍCH NHẤT HẠNH, sư cô HUỲNH LIÊN, là những tên CS ồn ào nhất, chính những tên CS ngụy trang nhà tu nầy đã chủ trương đưa bàn thờ Phật xuống đường, rồi ngồi chắn trên cầu Gia Hội, An Cựu tại Huế, không cho quân đội tiếp viện, chính vì thế mà các đơn vị thuộc sư đoàn I Bộ binh tại An Lộ bị thiệt hại nặng nề vào đầu tháng 4/1966 vì không được tiếp viện.

Ngoài các tên CS đội lốt nhà tu vừa kể, người Việt Nam không thể nào quên được những tên trí thức ăn cơm quốc gia từ đời cố nội ngoại của họ, nhưng vẫn ngu xuẩn vùi đầu đứng trong hàng ngũ kẻ thù trong cuộc chiến tàn bạo giết hại bao người trong 30 năm. Điển hình hơn hết là bọn Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc tại Huế với các tên LÊ KHẮC QUYỂN, VĨNH KHA, HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG, LÊ TUYÊN, HOÀNG VĂN GIÀỤ Giữa lúc bọn "Cứu Quốc" hoành hành tại Huế, thì tại Saigon, đồng minh của họ cũng múa lên một nhịp bài hát "Cứu Quốc" do các tên nằm vùng Huỳnh Tấn Mẫm, Cao Thị Liên, Lý Quí Chung, Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Kiều Mộng Thu, Trần Ngọc Châu, "linh mục" Nguyễn Ngọc Lan ...

Nhìn lại thế cờ bố trí trên mặt trận xâm nhập của CS Hà Nội tại miền Nam trong quá khứ, người quốc gia hải ngoại ngày nay không thể không cảnh giác. Cảnh giác để không bước vào trong dĩ vãng, để đến nỗi một tên CS nằm ngay trong cơ quan đầu não tối cao của quốc gia mà vẫn không hay biết. Một tên nằm vùng trong làng báo chí suốt 15 năm mà không hề bị lộ tông tích. Những cố vấn, những phụ tá, những thầy tu nằm vùng đó hiện nay không thiếu gì trong hàng ngũ người Việt tỵ nạn hải ngoại.

Bài học mới:

Những bước căn bản được soạn thảo cho kế hoạch xâm nhập thời chiến, cộng sản vẫn giữ nguyên để áp dụng cho kế hoạch xâm nhập hàng ngũ quốc gia tại hải ngoại. Nghĩa là có những tên lính tiên phong đóng vai tu hành, học giả, sinh viên, nhà buôn và một số những người Việt không có kinh nghiệm, được gài vào hàng ngũ tỵ nạn. CS chỉ thay đổi mục tiêu, để thay vì đích thân đứng ra tổ chức những cuộc khuynh đảo, họ đã dùng những phần tử trên để gây lũng đoạn chia rẽ, phá nát hàng ngũ ta, hầu tru diệt một chướng ngại vật và tránh hậu hoạ trong tương lai.

Trước hết về mặt chìm, ta thấy CS len lỏi, bố trí người của họ ngay quanh ta. Những tên sinh viên du học trước đây, nay là những nhà khoa bảng đóng vai cố vấn, phối trí cho một vài đoàn thể quốc gia, lâu lâu tổ chức Tuần Lễ Văn Hóa, nói là thuần túy văn hóa nên không trương cờ quốc gia nào. Những hội đoàn này, có một vài nơi mới được thành lập, nhưng cũng có một vài nơi, họ tách từ các hội đoàn quốc gia chính ra để thành lập hội đoàn khác. Ta cũng thấy ít lâu nay, những bàn tay vô hình đã đi thu lại các chương trình truyền hình tuyên truyền cho CS, như Vietnam: a History", The First Complete Account, The Ten Thousand Day War,..., những cuốn phim video nầy được chuyền tay cho đồng bào xem miễn phí. Ai đã bỏ công ra thu, ai đã chi tiền để thu? Người thơ ngây đến đâu cũng trả lời được xuất xứ của việc làm nầỵ Một số người quốc gia cũng biết thế, nhưng vì tò mò, nên vô tình cứ tiếp tay cho kẻ thù.

Những chiến dịch thư nặc danh bôi bẫn những người quốc gia, hạ danh thế những nhà lãnh đạo tôn giáo, gây chia rẽ giữa các hội đoàn chống cô.ng. Những chiến dịch tuyên truyền rỉ tai, phao tin đồn nhảm nhắm đích danh một số người lãnh đạo đoàn thể quốc gia tôn giáo.

Những tổ chức du đãng, buôn lậu, giết người, hành động phi pháp, để gây tiếng xấu cho tập thể người quốc gia tỵ nạn.

Tất cả những hành động được thúc đẩy bởi những bàn tay vô hình, ném đá giấu tay đó, không ai khác hơn là những tên CS chìm. Đến đây ta lại nhớ vụ xích mích Phật giáo và Công giáo đã xảy ra tại Saigon năm 1964. Mấy tháng sau vụ đảo chánh 1963, Phật giáo và Công giáo trải qua thời kỳ rất căng thẳng tạo nên do những ngộ nhận. Một toán đặc công cộng sản đã dùng một chiếc xe Lam ba bánh có gắn loa, chạy đến khu Vạn Hạnh kêu gọi Phật tử phải đến ngay chùa Ấn Quang để giải cứu các Thầy, vì có bọn Công giáo quá khích đang vây và đập phá chùa. Chiếc xe Lam đó, lại chạy đến khu ngã ba Ông Tạ là nơi có đông đảo người Công giáo di cư, kêu gọi đồng bào Công giáo phải lên ngay toà báo Xây Dựng (báo Công giáo) để cứu cha Nguyễn Quang Lâm và các cha, vì có bọn Phật tử Ấn Quang đang phá nhà thờ Huyện Sĩ và đốt tòa báo Xây Dựng. Một cuộc ẩu đả bằng dao và gậy gộc, súng nhỏ đã xảy ra tại cả 2 nơi Ấn Quang và nhà thờ Huyện Sĩ giữa thanh niên Công giáo và và thanh niên Phật tử. Cuộc ẩu đả diễn ra trong một ngày, làm hàng trăm thanh niên đôi bên bị thương. Cảnh sát đặc biệt đã bắt được chiếc xe Lam cùng ngày và gồm luôn cả 4 tên đặc công CS chủ trương, tránh cho Saigon một cuộc Thánh chiến, mà hậu quả không thể lường được.

Về mặt nổi, CS xâm nhập và đang tổ chức những hội đoàn, hoặc lấy chính danh là đoàn thể CS, hoặc ẩn núp dưới một danh nghĩa khác. Những hội như Hội Việt Kiều Hải Ngoại, Hội Các Nhà Văn, Hội Truyền Thanh Truyền Hình, Hội Phật Tử Hải Ngoại, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Tự Trị, là những hội do CS tạo nên làm điểm tựa cho thế đứng của họ tại nước ngoài.

Gây lũng doạn:

Xâm nhập được hàng ngũ địch bằng nhiều cách, dưới nhiều hình thức, hoạt động bên địch với nhiều danh hiệu khác nhau, CS mới có thể tìm được đất đứng, tạo được vị trí hành động. CS bước thêm bước nữa trong giai đoạn của Cánh Hồng 3 nầy, đó là lũng đoạn, là gây chia rẽ giữa người quốc gia với nhau.

Những hình thức bôi bẩn do CS chủ trương, hoặc xúi dục người quốc gia chủ trương bôi bẩn lẫn nhau, xảy ra nhan nhản khắp nơi tại Oregon, tại Louisiana, tại Washington và nhiều nơi khác toàn nước Mỹ, đã đôi khi làm người quốc gia nản chí, nhất là khi biết chắc những đòn hạ nhục đó, do chính anh em, bạn hữu cùng một chiến tuyến với nhau, mà chỉ vì óc tị hiềm, tự ái cá nhân, bất bình, đã vô tình lọt đúng vào bước tiến gây lũng đoạn của CS nhằm vào hàng ngũ quốc gia.

D. Cánh hồng 4: Xây Dựng:

Trong cuộc chiến gần 40 năm, chưa có một tên CS nào thành công trên lãnh vực khuynh đảo bằng viên Đại tá Hà Văn Lâu.

Hà Văn Lâu sinh năm 1918 tại Huế, con trai Tuần phủ Hà Văn Ngoạn là Hội viên của Hội Liên Hiệp Pháp. Hà Văn Lâu nguyên là viên sĩ quan mật thám quân đội Pháp, đào ngũ theo Việt minh năm 1945 và được Võ Nguyên Giáp giao ngay trọng trách gián điệp, tình báo trong quân độị Hà Văn Lâu trở thành đảng viên thực thụ CS năm 1950, và trở thành một sĩ quan tình báo chiến lược của Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng. Hà Văn Lâu lập được rất nhiều công đối với CSVN, mà một trong những công lao đó là khuynh đảo để nắm được vào khoảng 60,000 Việt kiều tại Thái Lan, tạo một hậu thuẫn rất mạnh về chính trị và quân sự cho CS suốt cuộc chiến Việt Nam. Người ta sang Thái Lan về đều ngao ngán, vì thấy Toà Đại sứ Việt Nam Cộng Hoà không làm gì để phổ biến chính nghĩa, trong khi CS phản quốc, lừa bịp được Việt kiều, bằng cớ, là hầu hết các gia đình bên đó đều treo hình Hồ Chí Minh. Trong các lễ của CS. CS tổ chức Việt kiều tham gia đông đảọ Một số nhỏ những gia đình người quốc gia sống rất cô đơn, một số khác nêu cao chính nghĩa quốc gia liền bị giết.

Bài học thành công về Việt kiều tại Thái Lan là bài học rất quí đối với CS, cho nên Hà Nội đã vội đưa Hà Văn Lâu sang Mỹ thay Đinh Bá Thi với một giấc mơ, là cũng biến đổi một triệu người Việt tị nạn thành khối người như Việt kiều ở Thái Lan. Nhưng CS cũng biết rằng, khối người VN một triệu nầy, không phải 60,000 Việt kiều Thái Lan, vì thế, CS đã phải mang cả một bộ tham mưu chuyên về tình báo và khuynh đảo như đã trình bày ở đoạn I và CS đã phải tung nguyên một chiến dịch gọi là Hoa Hồng Đỏ để thực hiện cho được mặt trận đánh thẳng vào khối người Việt tị nạn. CS chưa thành công, bằng cớ là sau chín năm với từng bước tiến (từng cánh hồng), CS tỏ Ra còn quá yếu ớt so với thực lực của khối quốc giạ Nhưng đừng vội nghĩ rằng CS đã thua cuộc. Qua bao kinh nhiệm, ta thấy kẻ bỏ cuộc trước chính là phe Tự Do, phe Quốc Gia, chứ không phải CS. Nhất là hiện nay, tình trạng phân hóa giữa người Quốc Gia hải ngoại vẫn còn trầm trọng; nghĩa là chúng ta vẫn còn tạo môi trường để vi trùng CS có thể sống và phát triển.

Cánh hồng 4, hay giai đoạn Xây Dựng của CS đã bắt đầu, nhưng CS không hề đặt thời điểm phải hoàn tất. Điều nầy có nghĩa là họ sẽ "đánh trường kỳ". Tài liệu học tập đã ghi rõ, đối tượng xây dựng chính của họ là thế hệ thứ 2, tức là lứa tuổi đang lớn lên, chưa có một ý niệm gì về CS, chưa bị nếm mùi cay đắng nào từ cs (CS giả vờ che đậy cho những việc làm tàn bạo trong quá khứ bằng cách nói là họ làm sai và "những con nai vàng ngơ ngác" tin là CS cũng là những kẻ biết "hướng thiện"). CS đã tập trung được cán bộ, từ cấp tiểu bang, thành phố, mà họ gọi là "đường giây 3 cụm chiến lược" (tức Trung tâm Waterside Plaza, nơi phái đoàn Hà Văn Lâu đặt bản doanh, các tiểu bang và thành phố). CS móc nối hệ thống những tổ chức và cá nhân yểm trợ ho.. CS xâm nhập các tổ chức và đoàn thể ta để gây lũng đoạn.

Giai đoạn 4 được phát động, nếu họ thành công, có nghĩa là người quốc gia phải đối đầu, không phải từ hệ thống cán bộ, từ những thành phần yểm trợ, mà ngay từ tập thể, có khi ngay từ gia đình (người trẻ non dạ không tin lời cha mẹ kể về những kinh nghiệm với CS). Người quốc gia chúng ta sẵn sàng chấp nhận cuộc đấu trước khi tình trạng quá muộn chưa?

THAY LỜI KẾT:

Người CS luôn mang trong người hai thứ võ khí: bản kinh chiều êm ái, nhẹ nhàng. khi cất lên có tác dụng làm người nghe đi dần vào một giấc ngủ miên man. Và một con dao bén nhọn, giết người rất nhanh.

Hai thứ võ khí nầy, được người CS xử dụng trong một kết hợp vô cùng nhịp nhàng, uyển chuyển. Có những trường hợp cần phải cất lên bản kinh, chờ cho đối phương mê ngủ, rồi bất thần đưa lưỡi dao đi một đường ngọt xớt vào giữa tim đối phương. Có những trường hợp bản kinh và lưỡi dao cùng được hoà nhịp một lượt. Cũng có những trường hợp người CS chủ quan, xử dụng lưỡi dao mà không cất lên bản kinh, bị chặn lại, họ tức khắc rút dao về, bản kinh lại được cất lên, chờ cho đối phương mê ngủ, họ mới hạ thủ.

Việt Nam, với bản kinh chiều được NHẤT CHI MAI (một nữ Phật tử, ngây thơ hay cố ý thiên tả, tự thiêu để đòi hoà bình theo kiểu CS; theo đó phong trào của Nhất Chi Mai muốn miền Nam phải "trở về với "dân tộc" tức là với CS") cất lên qua lời cầu thống thiết, vào đúng lúc phần thắng trong cuộc chiến đang nghiêng về phía quốc gia: "Hãy sống dùm tôi, hãy thở dùm tôi, quả tim nầy dành cho thù hận, cho hoà bình".

Bản kinh HOÀ BÌNH của Nhất Chi Mai được kết thúc bằng cái chết tự thiêu của cô cho Hoà Bình giữa lòng thủ đô Sàigòn đã được những McGovern, Kennedy, Coretta King, Jane Fonda, KIỀU MỘNG THU, TRẦN NGỌC CHÂU, THƯỢNG TỌA THÍCH TRÍ QUANG, LINH MỤC PHAN KHẮC TỪ, BÀ NGÔ BÁ THÀNH đồng loạt phụ xướng, và đã lừa được dư luận Mỹ. Không một chần chờ, Hà Nội rút lưỡi dao khỏi bao đi một đường lút cán ngay giữa trái tim Nam Việt Nam. Thế giới sử đã ghi lại, hôm đó là ngày 30/4/1975, lúc 10 giờ sáng. Bản khai tử của Việt Nam Tự Do hiện còn lưu trữ tại Toà Bạch Ốc, Washington. D.C., Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Bản sao được trao cho điện Kremlin tại Mạc Tư Khoạ, nước Nga Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Bang Sô Viết.

Sau một thập niên kể từ ngày Việt Nam Cộng Hoà bị bức tử, không phải không có những người đã thức tỉnh; Michael Novak, tác giả cuốn sách phản chiến nhất nước Mỹ: cuốn "Vietnam: a crisis of conscience". Joan Baez, người đã cùng Jane Fonda, ca ngợi Hồ Chí Minh như một Washington Việt Nam. Gần đây hơn, hai nữ bác sĩ VN trên 20 tuổi đảng. cháu ruột của tên trùm đỏ Đặng Xuân Khu, là bác sĩ Đặng Kim Thoa và bác sĩ Đặng Kim Thu, đã giã từ thiên đường CS, trốn sang Phi Châu tìm tự do.

Nhưng, một thập niên, thời gian vẫn chưa đủ. Và những chứng tích: South Yemen, Ethiopia, Mozambique, Việt Nam, Lào, Cam Bốt, Congo cũng chưa đủ cho một số người thức tỉnh, trong đó có một số người Việt tỵ nạn. Cho nên mới có những hiện tượng những hiện tượng Thích Nhất Hạnh, linh mục Trần Tam Tỉnh.

Không muốn hiểu CS hay không hiểu CS là quyền của những người ngây thơ, dại dột. Quyền của những đồng minh chơi với bạn theo nhu cầu giai đoạn, giúp bạn theo phong cách của một Thái Thú. Quyền của những người mang tị hiềm vô lý, mặc cảm cá nhân, bất đồng nhỏ mọn.

Nhưng, người quốc gia chân chính, những nạn nhân trực tiếp của suốt 40 năm bịp bợm, lừa dối, gian manh từ người CS không có cái quyền đó. Cái quyền mà người quốc gia có là quyền tỉnh thức để không bị ru ngủ bởi bản kinh chiều.

Cảnh giác để khỏi bước vào cái bẫy "dùng bạn của địch đánh địch, dùng địch đánh địch, chia địch để địch bị cô lập và tự diệt". Chưa tìm được cho mình những cái quyền đó, thì đừng nói đến kết đoàn, và nhất là đừng ôm hoài bão dành lại phần đất và tất cả những gì CS đã trắng trợn cướp khỏi tay ta.

Lời nói cuối:

Những lời cảnh cáo nói trên tưởng cũng quá đủ.

Ngoài ra, bài báo nầy còn cho ta thấy một quá khứ đầy sai lầm của những người, vì non kinh nghiệm về chính trị hơn CS hay vì bị lừa dối bởi những phần tử CS hay thân cộng, đã nhiều khi hy sinh thân mình đem đất miền Nam hiến vào tay CS. Người chiến sĩ của VNCH quá là tội nghiệp, họ chết vì nhiều viên đạn không phải từ kẻ thù ngoài mặt trận mà từ vài huynh đệ chi binh và từ vài người ở hậu phương thiếu sáng suốt bắn ra. Kết quả lại phải vào tù ra khám khi miền Nam sụp đổ. Sau đó, hậu phương nầy cũng bị "dần" cho te tua mà một số phải chạy bán sống bán chết và bị người anh em CS khinh bỉ, gia đình thì tan nát, không thể nào gầy dựng lại được nữa. Hàng trăm ngàn người bị chìm sâu dưới đáy biển, một số lớn may mắn hơn tìm được bến bờ và phải nhoi lên vô cùng vất vả tạo lại cuộc sống từ con số không.

Đây là những kinh nghiệm đau thương, được trả bằng máu và nước mắt. Chúng cho thấy, chúng ta đang đương đầu với "những người CS" đầy kinh nghiệm chứ không phải là những người VN thân thương chân chính. Mỗi người đại diện của CS mà ta gặp trong và ngoài nước phải được xem là những tay tình báo giỏi và vô cùng lão luyện về chính tri.. Tôi có đọc ở đâu đó là nhà ngoại giao của CS hay nói trắng ra ông đại sứ phải là tay gián điệp thượng thặng của họ. Dĩ nhiên những nhân viên của ông ta cũng thế.

Ta đang nói về những người tôn thờ Đảng và chỉ có đảng mà thôi. Tất cả những liên hệ với họ đều không ít thì nhiều dĩ nhiên là có lợi cho họ, hay ít ra không thiệt hại gì cho họ cả. Ta cũng biết rõ ràng ta cũng là những con mồi ngon của họ và họ sẽ "thấu cáy" lúc nào cũng được. Vậy, một lời khuyên, hãy tỉnh thức mà dọn đường sẵn để "rút dù" trong an toàn nếu có "chung chạ" với họ. Nếu không thì uổng một đời vì chơi với CS không phải là trò đùa, mà là "một trò chơi vô cùng nguy hiểm và nguy hiểm".

Ý thức hệ của CS không cho phép những người "nửa nạc nửa mỡ" sống chung với họ lâu dài. Nghĩa là, sau một thời gian, phải nhập về bên họ hay sẽ bị quăng đi khi nhu cầu không còn cần thiết nữa. Chuyện quá khứ đã bày ra đó, đừng nên bỏ ngoài tai. Bằng cấp dù cao tột bực tới đâu cũng không cứu vãn nổi thân phận, nếu như ít để ý tới chính trị của CS. Vì nghĩa đồng bào xin được bàn vài câu chói tai, nhưng chúng không phải chỉ được dựa trên chuyện hão huyền.

Source: http://hoivanhoanguoiviettudo.com


Chuyện “Bú Dù” Của “Đỉnh Cao Trí Tuệ” Loài Khỉ! - Nguyễn Thanh Ty

Nguyễn Thanh Ty

“Bú dù” theo Tự điển tiếng Việt của Nguyễn như Ý (Nhà xuất bản Giáo Dục VN 2002) là khỉ, đồ khỉ, là tiếng chỉ dành cho sự mắng chửi.

Trong dân gian, bú dù là tiếng khinh khi rất nặng ký, người ta chỉ dành để mạt sát những kẻ rởm đời hay những cẩu quan ỷ chức, ỷ quyền hay làm trò khỉ nơi công cộng. Hành động, ngôn ngữ của chúng rất vô duyên, trơ trẽn, đôi khi vô giáo dục, chuyên chọc giận thiên hạ, chọc cho thiên hạ mắng chửi.

- Đồ bú dù! Thằng bú dù! Cả một lũ bú dù!

Đồng nghĩa, đồng cân lượng với “bú dù” còn có chữ “tườu” cũng là khỉ, đặc ngữ dùng để chửi.

- Đồ tườu! Đồ con tườu! Cả một lũ tườu!

Lúc xử dụng những tiếng chửi này, người ta còn kèm thêm cái cười nhếch mép hoặc nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đất để biểu lộ sự khinh bỉ tột cùng.

Ai đã từng có lần vào thăm Sở thú ở Sài Gòn, khi đi ngang qua chuồng khỉ, tất sẽ thấy chúng làm những trò “bú dù” để trêu chọc khách đứng xem như nhe răng khọt khẹc, chổng đít về phía người xem, có lúc còn vạch cả háng, cả chim ra gãi để làm trò … khỉ, nom rất chướng mắt.

Đó chỉ là loài khỉ, một thứ súc vật vô tri, người ta mượn hình ảnh thô bỉ của chúng để gán cho những kẻ không còn nhân cách con người. Cường độ của sự mắng mỏ tăng dần từ nhẹ như “Đồ khỉ” hay “Đồ khỉ gió” lên dần đến nặng, phải chửi là “Đồ bú dù” mới hả được sự nóng giận.

Hiện nay có một “lũ người”, một lũ vô học, luôn vênh váo tự xưng mình là “đỉnh cao trí tuệ loài người”, lại đi bắt chước loài “bú dù”, loài “tườu”, chuyên làm những chuyện vô thiên, vô pháp rất rừng rú và mọi rợ, không thể có được ở thế giới văn minh loài người của thế kỷ 21 này, thì người dân phải dùng tiếng chửi gì để văng vào mặt chúng cho xứng ?

Chỉ còn cách liệt chúng vào hàng súc vật, loài khỉ, loài bú dù, loài tườu!

À! Mà cũng đúng thôi! Chúng chẳng đã tự xác nhận tổ tiên chúng là từ khỉ tiến hoá thành người theo chứng minh có “cơ sở” của phép duy vật biện chứng “Đạt Quin” đó sao!

- Thật là cả một lũ bú dù! Thứ tườu!

Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi cướp được chính quyền đã tự mình bao thầu trọn gói, độc quyền lãnh đạo cai trị đất nước. Đảng chỉ đạo guồng máy Nhà nước, điều khiển Quốc Hội. Đảng ngồi xổm trên pháp luật, tiếm quyền luôn cả ba cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, nắm trong tay cả triệu quân đội, công an, cảnh sát, mật vụ, chó săn với súng to, súng nhỏ, tàu bò, xe tăng, dao găm mã tấu, lựu đạn, dùi cui, roi điện … tự tung tự tác muốn chém giết ai, vu oan giá họa ai, bỏ tù ai để cướp đất, cướp nhà, cướp của thì cứ tha hồ.

Đảng là một thứ triều đại siêu phong kiến, độc tài tàn ác gấp trăm lần hơn thời phong kiến trung cổ. So với hôn quân bạo chúa Nê Rông, U vương, Tần Thỉ Hoàng, Đảng Cộng sản Việt Nam còn hơn hẳn một bậc.

Với một chính sách độc tài toàn trị bằng bạo lực và khủng bố trong môt thời gian dài gần ba phần tư thế kỷ như thế, mà ngày nay Đảng Cộng sản Việt Nam đành bó tay trước sự vùng dậy mạnh mẽ của nhân dân từ Nam chí Bắc, quyết liệt phản kháng dưới nhiều hình thức đấu tranh bất bạo động chống lại mình.

Không thể thực hiện được bạo quyền của mình bằng súng và mã tấu như trước nữa, Đảng phải dùng hạ sách một cách rất hèn hạ, đê tiện để trả thù những người yêu nước mà không yêu chủ nghĩa Cộng sản tam vô, không “đồng chí” với mình trong việc tôn thờ ngoại bang.

Đảng bắt chước khỉ trong Sở thú giở trò bú dù, trò con tườu để đối phó từng giai đoạn kiểu vô văn hóa ném đá dấu tay ở xã phường nhà quê, để rối bị dân vạch mặt chỉ trán chửi như tát nước vô mặt.

Thử đan cử vài trò bú dù, con tườu mà Đảng đã ra tay trong thời gian qua cho thiên hạ coi chơi cho rõ mặt quân tiểu nhân, lưu manh.

* Chuyện mấy cây hoa anh đào của Nhật.

Khi bị Nhật cắt viện trợ ODA vì Đảng bao che cho tên Huỳnh ngọc Sỹ, công cụ tham nhũng của Đảng, ăn dơ 2.6 triệu đô la trong dự án Xa lộ Đông Tây, không chịu đem ra xét xử theo lời yêu cầu của chính phủ Nhật, Đảng bèn cho đám lâu la lục tặc của mình ra hái hoa, bẻ cành, bứt nhánh, phá nát tan tành mấy cây hoa anh đào do Nhật mang sang triễn lãm rồi đổ cho dân chúng “tự phát” để trốn trách nhiệm.

Một thời gian sau, khi Nhật nối lại vốn ODA cho thì Đảng xun xoe, bợ đỡ làm trò con tườu, bằng cách huy động một lực lượng công an đông đảo chưa từng có, 600 tên, chỉ để bảo vệ vỏn vẹn có … 10 cây anh đào do Nhật mang sang triển lãm lần này.

Tiền của Đảng hay tiền của dân nghèo phải nai lưng è cổ ra đóng thuế để trả cho một chuyện thối hoắc như vậy?

Rõ là chuyện bú dù!

* Chuyện tên đầy tớ Phạm quang Nghị

Tên Nghị này làm đày tớ cho dân, giữ chức Bí thư tỉnh ủy Hà Nội kiêm Ủy viên Trung ương đảng mà không lo cho dân một tẹo nào, lại còn luôn giở giọng quan lớn rất hách xì xằng.

Trong khi cả Hà Nội bị mưa dầm, gió bão dữ dội mấy ngày liền gây ngập lụt, có chổ nước ngập tận mái nhà, trẻ con, người lớn bi chết đuối lên đến 8 nhân mạng, người bị thương tích rất nhiều, nhà cửa tài sản hư hại vô số. Người dân mạnh ai nấy tự cứu lấy mình trong cơn nguy khốn thập tử nhất sinh này, tuyệt không thấy có bóng dáng một thằng, một con đầy tớ nào ra giúp dân cả.

Mấy hôm sau, trời quang mây tạnh, nước rút, tên Bí thư đày tớ Nghị ngồi trên xe ô tô con bóng lộn ra “tham quan” cảnh dân chúng “sung sướng” ra sao, bởi hắn nghe tà lọt báo cáo rằng dân Hà Nội mấy ngày qua đem thuyền giăng lưới, thả câu giữa lòng thủ đô để đánh cá, bắt được nhiều lắm. Sau khi đảo qua mấy vòng “tham quan” thấy dân chúng dở khóc dở cười trong cảnh nhà cửa tan hoang, đường sá nát bấy đầy ổ voi, ổ trâu, ổ gà, hắn bèn lên giọng phán:

- Dân chúng cứ quen thói ỷ lại vào Nhà nước mà không chịu cố gắng tự cứu. Tuy có một số thiệt hại “nhất định” đấy, nhưng trận lụt này cũng là một dịp may hiếm có, một bài học quý báu để dân chúng thực tập rút kinh nghiệm cho nhiều lần sau.

Người dân Hà Nội đang khốn khổ trong cảnh “hà lội” nghe thấy thế lấy làm “bức xúc” lắm, bèn đồng thanh chửi thẳng vào mặt tên đầy tớ Nghị: “Đố bú dù! Cút xéo ngay cho khuất mắt! Lạng quạng ở đó có mà ăn đòn nhừ xương!”

* Chuyện bà Trần Khải Thanh Thủy

Bà Trần Khải Thanh Thủy là một nhà giáo kiêm nhà báo, nhà văn có lương tâm và lương tri của con người, chỉ vì thấy sự bất công của xã hội mà không ngại gian nguy, xả thân giúp kẻ hoạn nạn. Bà tự nguyện đứng ra viết đơn khiếu tố dùm cho bà con dân oan các nơi bị cường quyền, ác bá địa phương cướp đất, cướp nhà đang ngày đêm ăn sương nằm gió ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng, để gởi đến các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét xử việc oan ức.

Thay vì, phải tỏ thái độ biết ơn bà đã giúp cho Đảng và Nhà nước có cơ hội lắng nghe ý kiến của dân để kịp thời chấn chỉnh, sửa sai chuyện sai trái, tham ô, lạm quyền của cấp dưới, thì Đảng ta lại ra tay bao che cho thuộc hạ và quay ngược lại kết tội bà là kẻ “ăn tiền” của “bọn phản động” để xúi dục người dân “gây rối trật tự” trong âm mưu “diễn biến hòa bình”.

Bà bị Đảng ta cho bọn khuyển ưng, cẩu trệ xông vào nhà đập phá đồ đạc tan hoang để trả thù và trói gô bà lại như trói lợn, bỏ vào nhà tù chẳng cần phải xét xử gì, để bịt miệng bà lại.

Vụ bắt người giữa ban ngày y như vụ bắt cóc tống tiền của bọn cướp khiến cho cả thế giới văn minh lên tiếng phản đối kịch liệt hành vi côn đồ man rợ của đảng ta, buộc lòng đảng ta phải thả bà ra trong sự căm tức, hận thù như hận thù … đế quốc Mỹ.

Ra khỏi tù, bà Trần Khải Thanh Thủy vẫn kiên cường xông pha giúp dân oan tiếp tục viết báo, viết đơn khiếu kiện và chuyển tải thông tin ra hải ngoại để thế giới biết rõ cái chế độ man rợ có tên là Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Lần này đảng ta biết sợ dư luận trong nước và thế giới nên không dám dùng dao găm, mã tấu, lựu đạn chày để uy hiếp bà, nhưng để trả thù và khủng bố bà, đảng ta bèn dùng miệng ngậm phân người trộn với dầu cặn và mắm tôm, xác súc vật chết sình thối … chờ đêm khuya lẻn đến nhà bà, phun tá lả tràn lan trước cửa nhà.

Chưa đầy hai tháng, đảng ta ngậm cứt phun vào nhà bà 11 lần. Trung bình cứ 5 ngày đảng ta ngậm cứt trong mồm một lần để đi rình phun. Không kể những lần dùng keo dán sắt bít lỗ khóa cửa sắt để cả nhà bà già, trẻ, bé, lớn sẽ chết đói, chết khát trong nhà.

Tưởng đâu bà Trần Khải Thanh Thủy sẽ gớm nhờm, tởm lợm, hãi sợ mà dọn nhà đi về nơi xó rừng, hóc núi nào đó để tránh, nào ngờ bà ta lại nhìn ra trong những bãi phân màu vàng, màu đen lổn nhổn đó lại lấp ló hiện lên khuôn mặt của 15 vị Ủy viên Trung ương đảng “kính mến” và tư tưởng Hồ chí Minh “vĩ đại” sáng ngời, nằm chềnh ềnh một đống trước nhà nên bà càng “yêu mến” cái “thiên đường cộng sản” này lắm lắm.

Bà quyết tâm bám trụ tại thủ đô Hà Nội vô văn hóa chớ không chịu di tản. Không biết trong những ngày sắp tới miệng đảng sẽ ngậm cái “đồ” gì dơ bẩn hơn nữa cho độc đáo hơn phân tươi, xác chết thú vật để tiếp tục hù dọa, khủng bố bà Thanh Thủy?

Có lẽ cái “đồ” màu đỏ của các bà, các cô có hàng tháng chăng?

Màu này là màu cờ của đảng mà Trần Dần đi co ro trong rét buốt, không thấy phố, không thấy nhà, chỉ thấy toàn một màu máu đỏ dưới mưa sa. Nếu đem nó để nhát ma có lẽ sẽ ép phê!
Không thấy bà Trần Khải Thanh Thủy chửi bới, mắng mỏ đảng ta điều gì cả. Nhưng mỗi lần đảng ta phun cứt vào nhà lại gợi hứng, đem ý cho bà làm thơ, viết văn ca tụng đảng và bác thêm phần “hoành tráng”, rất “đậm đà bản sắc dân tộc”, và rất thâm thúy của ngôn ngữ Bắc kỳ.

Chỉ khổ và tội cho những người ở lân cận nhà bà Thanh Thủy, khi không lại bị nạn “thành cháy vạ lậy”, lỗ mũi họ chịu không nỗi với cái mùi khắm của cái xác chết ở Ba Đình nên phải kéo nhau ra trước cửa, vừa bịt mũi vừa chửi đổng lên một hồi cho hả cơn giận:

- Đồ bú dù khốn nạn! Đồ con tườu đê tiện!

* Chuyện Luật sư Lê Trần Luật.

Luật sư Lê Trần Luật nếu chỉ biết chăm lo “trau chuốt bộ lông của mình” mặc cho dân oan đồng loại quằn quại khổ đau trong áp bức, bất công như phần đông luật sư khác thì ông sẽ giàu có, vinh thân phì gia, nhà cao, xe mới, vợ đẹp con khôn.

Nghĩa là nếu ông chịu nghe lời đảng ta, ngậm miệng ăn tiền, nhắm mắt trước việc làm sai trái ngang ngược phi lý của cái chế độ hiện hành và nếu chịu uốn gối, khom lưng a dua hùa theo cái chế độ bất nhân, tàn bạo này thì ông sẽ có được đủ thứ tiền tài, danh vọng, gái gú … nếu ông muốn.
Nhưng không, Luật sư Lê Trần Luật đã gạt bỏ mọi lợi lộc dụ dỗ, bất chấp lời hù dọa của bạo quyền, ông vẫn kiên tâm trì chí, cương quyết bảo vệ công lý cho chính nghĩa đến cùng. Mặc dù ông vẫn biết rất rõ rằng là đi ngược lại với ý muốn của bạo quyền là sẽ gặp nhiều nguy hiểm cho tính mạng, trắc trở cho tương lai nghề nghiệp. Có khi còn phải tra chân vào tù nữa là khác.

Với trường hợp 8 dân oan ở giáo xứ Thái Hà bị cường quyền Hà Nội bắt giam và xử án trái phép chỉ vì họ can đảm dám đứng ra trực diện đấu tranh quyết không cho chúng cướp đi mảnh đất trước Nhà thờ Thái Hà, nơi họ hàng ngày đứng cầu nguyện từ mấy chục năm nay.

Họ đã bị kết án oan sai. Đã vậy mấy cái loa tuyên truyền của đảng như đài truyền hình Hà Nội, tờ báo Hà Nội Mới lại còn loan tin bậy bạ, láo lếu rằng họ đã “ăn năn gục đầu nhận tội”.
Trước sự thể oan ức như vậy, 8 người dân oan Thái Hà đã nhờ luật sư đâm đơn kiện hai cơ quan tuyên truyền trên nhưng đám luật sư ở Hà Nội co vòi trước ác quyền, không một ai dám nhận vụ kiện này.

Luật sư Lê Trần Luật tuy hành nghề ở phía Nam, có văn phòng pháp lý ở Phan Rang (quê của ông), ở Sài Gòn và Vũng Tàu, đã mạnh dạn đứng ra nhận giúp 8 người này để kiện hai cơ quan nói trên.

Ngay từ lúc nhận lời, Luật sư Luật đã gặp ngay sự khó khăn trong việc thụ lý vụ án. Công an một mặt gây áp lực để ông bỏ cuộc, một mặt gây rắc rối, khó khăn cho bản thân ông trong sinh hoạt hàng ngày.

Tuy nhiên với quyết tâm vì công lý, Luật sư vẫn vượt qua được mọi chông gai cản trở của phía công an để hoàn tất mọi thủ tục tố tụng.

Về phía nhà nước thì rất lúng túng trong vụ kiện này, loay hoay như gà mắc tóc, không biết phải xử trí như thế nào cho khỏi mất mặt với dân chúng giáo xứ Thái Hà nói riêng và dư luận cả nước đang theo dõi nói chung.

Lâu nay mấy cái loa của đảng đã quen thói hùa theo hướng gió của đảng mà vu vạ cho người dân để nịnh đảng, bơm đảng lên mây xanh, chẳng có ai dám phê phán chứ nói chi đến chuyện thưa kiện ngược.

Nay bị cái vố nói hùa kiểu cầm đèn chạy trước ô tô, nâng bi, bợ đĩa quá trớn bị dân Thái Hà cứng đầu, cứng cổ phát đơn đi kiện, buộc báo Hà Nội Mới phải công khai đăng báo và đài truyền hình Hà Nội phải đọc lời xin lỗi vì đã trót nói bậy, làm cả hai bất ngờ, đều nghệch mặt ra, chạy đôn chạy đáo xin “trên” cho ý kiến chỉ đạo, chứ không dám tự mình “quyết”.

Buộc phải nói lời xin lỗi công khai với đám dân đen thì ê mặt quá, còn gì thể diện của đảng ta? Đảng ta là thần thánh mà, làm sao có thể sai trái được mà xin lỗi?

Nếu không chịu xin lỗi thì dân Thái Hà sẽ kiện tới bến, làm ra to chuyện lại càng mất mặt! Cái sảy nảy cái ung! Có mà chết cả đám à?

Gần đến ngày lên “cẩu đầu trảm”, đảng ta bèn giở trò “bú dù” con tườu ra là dùng hạ sách ra lệnh cho hãng Hàng không VN trả lại vé máy bay cho Luật sư Luật mà không cần nêu lý do tại sao. Luật sư Luật phải mua một vé khác của hãng hàng không khác để ra Hà Nội cho kịp ngày. Sáng hôm đó đảng vội xua công an ra phi trường Tân Sơn Nhứt bao vây, ngăn chận không cho Luật sư Lê Trần Luật lên đường ra Hà Nội để tham gia vụ kiện. Ông bị công an đưa về đồn bắt ngồi ở đó suốt ngày một cách tùy tiện vô cớ, chiều tối thả cho về. Mục đích của chúng theo lệnh “trên” là gây trở ngại làm trễ chuyến bay của ông.

Theo thủ tục tố tụng, đến ngày giờ xử án mà không có mặt luật sư bên nguyên thì vụ án phải dời lại ngày khác.

Những ngày sau, Luật sư Luật bí mật trốn đi ra Bắc bằng đường bộ. Công an cả trăm tên được lệnh trãi dài suốt dọc đường miền Trung để chận bắt ông lại cho kỳ được. Tiếp theo chúng ra văn bản niêm phong các văn phòng pháp lý của ông và tịch thu toàn bộ máy móc, văn bản, tài liệu có chứa hồ sơ tố tụng khách hàng của ông. Mặt khác chúng đến nhà những thân chủ của ông xúi giục họ thưa ông về tội lường gạt để chúng có cớ bắt giữ và giam ông để kéo dài vụ kiện Thái Hà. Nhưng âm mưu của bọn chúng thất bại. Không một ai chịu làm theo ý muốn của chúng.

Vụ án Thái Hà cuối cùng cũng phải được xử và Toà án của chúng buộc phải tuyên trắng án cho 8 dân oan.

Hiện nay, Luật sư Lê Trần Luật đang bị chúng tước quyền hành nghề. Ba văn phòng pháp lý đều bị đóng cửa. Hàng ngày trước nhà ông thường trực có công an theo “bảo vệ an ninh” rất chặt chẽ.
Tất cả sự việc diễn tiến kể trên đều được bọn nha trảo tuyệt đối thi hành do lệnh miệng ở “trên” của bọn Mafia, theo cách rừng rú của bọn lục lâm thảo khấu của cái nhà nước Cộng-Hoà-Xã-Hội-Chủ-Nghĩa-Độc-lập-Tự-do-Hạnh phúc có điều 4 Hiến pháp và Luật pháp nghiêm minh cộng với tư tưởng Hổ Chí Minh vĩ đại.

Trả lời đài Á Châu Tự do, Luật sư Lê Trần Luật nói:

- Tôi là một luật sư hiểu biết luật lệ, thực thi đúng pháp luật về quyền của một công dân mà chúng (đảng và nhà nước cộng sản) còn đối xử bất công, phi lý, man rợ như vậy thì người dân thấp cổ bé miệng còn bị chúng áp bức tàn tệ đến mức nào mà kể nữa!

Trước cảnh Luật sư Lê Trần Luật bị “thần công lý của pháp luật cộng sản Việt Nam” chà đạp thô bạo, tả tơi, trắng trợn như vậy, người dân chỉ còn biết lắc đầu ngao ngán với lời nguyền rũa, sĩ vả:

- Thật là một lũ bú dù khốn kiếp!

* Chuyện ông Chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa

Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam đã bị Hồ Chí Minh và Phạm văn Đồng toa rập với nhau lén ký công hàm chính thức dâng cho Chu Ân Lai - Mao Trạch Đông để đổi lại, được Tàu chi viện súng ống, đạn dược, bom mìn, xe tăng, tàu bò để phát động chiến tranh xâm lược, bắn giết dân miền Nam, từ cái đời “ông Nhạn ỉa cứt su”. (1958) Nghĩa là hơn nửa thế kỷ rồi. Nhưng tập đoàn Bắc Bộ phủ đã giấu biệt cái công hàm bán nước đó như mèo giấu kít, nhân dân không một ai hay biết.

Nếu có ai đó thắc mắc tại sao đảo của ta mà lại thấy toàn là bọn Tàu phù đóng quân, xây dựng hệ thống phòng thủ trên đó thì được các quan chóp bu Cộng sản Việt Nam trả lời ấm ớ hội tề rằng:

- Ta nhờ ông anh Trung Quốc giữ dùm để bọn đế quốc Mỹ khỏi động lòng tham nhòm ngó í mà! Nay mai hòa bình, ta đòi thì Trung Quốc vừa là đồng chí vừa là anh em sẽ trả lại thôi!

Bất ngờ hồi năm ngoái, ông anh Tàu phù “vĩ đại, kính mến” thình lình ra văn bản tuyên bố một cách ngon ơ là thành lập huyện Tam Sa, hai đảo Hoàng và Trường Sa thuộc quyền của chúng khiến cho một làn sóng phẩn nộ của nhân dân trong nước bùng lên dữ dội. Nhất là trong giới trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên học sinh.

Họ đã rùng rùng kéo nhau tới trước toà đại sứ của Tàu ở Hà Nội và Lãnh sự quán ở Sài Gòn để biểu tình bày tỏ sự phản đối và lớn tiếng đòi Tàu phải trả lại hai quần đảo này.

Lại thêm một bất ngờ nữa, Nhà nước Cộng sản Việt Nam thay vì cùng nhân dân lên tiếng phản đối quân xâm lăng thì lại huy động một lực lượng khổng lồ công an, cảnh sát ra sức đánh dẹp, giải tán đám biểu tình.

Nhiều sinh viên, nhà báo, trí thức bị bắt bỏ tù. Đảng và Nhà nước cộng sản VN vẫn giữ im lặng, ngậm miệng ăn tiền, thái độ rất khó hiểu.

Mấy hôm sau, truyền thông Tàu tung ra bản “Công hàm bán nước” do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký tên và đóng dấu đỏ lòm lại càng làm cho đảng ta nhục nhã, cứng họng.

À ra thế!

Từ khi biết được chuyện Hồ Chí Minh bán nước, dư luận trong dân chúng càng lúc càng xôn xao bất mãn. Nhà nước ra lệnh cấm nói đến vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa “nhạy cảm”.

Sau lệnh đó, người dân vẫn đi biểu tình phản đối và số người bị bắt giam càng nhiều. 700 tờ báo, 68 đài phát thanh - truyền hình, 80 tờ báo điện tử của đảng ta nín khe, không một chữ, một lời về chuyện đất nước bị ông anh “môi răng kính mến” xâm lược, ăn cướp.

Phát ngôn viên lưỡi gỗ Lê Dũng chỉ ú ớ được mấy tiếng: “Ta có đủ bằng chứng về chủ quyền đảo Hoàng Sa và Trường Sa.” rồi thụt lưỡi, á khẩu luôn, hết nói được nữa. Bẵng đi một thời gian, hình như chờ cho sự căm giận của dân lắng xuống, nhà nước bèn bày ra trò phát động phong trào hội thảo, học tập, tìm hiểu lịch sử và chủ quyền của Việt Nam về hải đảo Trường Sa, Hoàng Sa ở biển Đông, trong lúc những người yêu nước có nhiệt huyết trong việc tranh đấu vẫn còn bị ngồi tù dài dài như nhà báo Điếu Cầy, cô Nguyễn Thanh Nghiêm …

Người dân lại nhún vai, trề môi mai mĩa: “Chuyện ruồi bu c… ngựa!”

Cứ tưởng xong cái chuyện hội thảo, tìm hiểu, thi đua viết nhăng, viết cuội về hai cái đảo đã dâng hiến cho Tàu, cho qua truông sự căm phẩn của dân chúng, rồi sau đó cho chìm xuồng y như bao nhiêu chuyện đã rồi trong quá khứ, dè đâu…

Đầu tháng 5, thành phố Đà Nẵng tổ chức linh đình lễ trao quyết định bổ nhiệm một ông Chủ tịch huyện Hoàng Sa, cai quản một cái huyện đảo Hoàng Sa chỉ toàn dân Tàu cư ngụ.

Việc bổ nhiệm này làm cho người dân Đà Nẵng được một trận cười bể bụng. Người ta bàn tán về ông Chủ tịch và cái huyện đảo một cách rôm rả y như bàn chuyện tiếu lâm buôn vịt trời. Có người có óc khôi hài bàn rằng có lẽ “cái dĩa CD Lê Dũng, phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao nghe mãi đã chán như cơm nếp nát, Nhà nước cảm thấy ê mặt, nên lần này cho ra một kịch bản khác có vẻ “tích cực” hơn, đó là tạo ra một ông huyện theo kiểu “điều khiển từ xa”.

Sở dĩ người dân tức cười cái chuyện bổ nhiệm này là vì nó bú dù quá! Nó là trò con tườu!. “Ông huyện đảo này cũng có trụ sở, thậm chí có cả ô tô con nhưng cái phần lãnh thổ mà ông được phân công cai quản thì chắc chắn ông chưa từng thấy một lần trong đời, thậm chí cả chuyện trông thấy trên truyền hình. Có người bảo ông xui hay bị đì nên mới được trên cho đi làm cái chức trời ơi như vậy, không có một tên dân đen nào để cai quản thì biết lấy ai ra mà hoạnh hoẹ mà hạch sách đây hả trời ! Lại còn chưa biết cái huyện của mình nó rộng dài, tròn méo ra sao thì làm sao mà “dự án”, mà “qui hoạch”, thôi phen này thua là cái chắc.

Có người lại bảo là ông sướng, chẳng làm gì cả mà tháng nào cũng lãnh lương đủ. Chỉ có điều làm ông bận tâm là trong cái quyết định bổ nhiệm có đoạn nói rằng nhiệm vụ chính yếu của ông huyện Hoàng Sa trong giai đoạn hiện nay là: ‘thu thập chứng cứ, tài liệu lịch sử về chủ quyền của ta về Hoàng Sa’. Cái này mới gay đây, vì người ta quá biết là những cái liên quan đến tài liệu, lịch sử, chữ nghĩa đều không phải là sở trường của các anh Huyện thời nay. (Trích Nguyễn Vọng www.danlentieng.net)

Đúng lúc ông Chủ tịch huyện vừa nhậm chức, ngồi chưa nóng đít, một chuyện bên lề xãy ra có liên quan đến huyện Hoàng Sa và báo Tuổi Trẻ cũng tiếu lâm không kém.

“Trên tờ Tuổi Trẻ số thứ 7 tuần trước có đăng một tin tóm tắt như sau: “Hôm 6/5 tàu của Hải quân vùng 3 duyên hải đã chạy ra Hoàng Sa để đón 11 ngư dân Quảng Ngãi bị nạn trong cơn bão số 1 trong biển Đông. Được biết tàu đánh cá của họ bị bão va vào rặng san hô bị chìm ở đảo Duncan họ được hải quân Trung Quốc cứu vớt và cho trú trên đảo, sau đó Bộ Ngoại giao TQ đã báo cho VN để ra đón”

Vẫn cái tin này, hôm sau báo Tuổi Trẻ cho đăng lại nhưng nội dung đã đổi khác: “ngư dân bị bão chìm tàu trong khu vực Hoàng Sa nhưng đã kịp báo về đất liền, đất liền đã yêu cầu tàu TQ cứu hộ, rồi tàu hải quân ra đón”.

Người đọc báo nhận ngay ra rằng, bản tin hôm qua, mấy anh ở “trển” nhận thấy có điều kỳ cục bất ổn, huyện của ta, có chủ tịch đàng hoàng, sao lại có “hải quân Trung Quốc cứu vớt và cho trú trên đảo” hóa ra là “lậy ông con ở bụi này” rằng đảo của Trung Quốc sao? Nên hôm sau, Chủ Nhật, chỉ đạo cho tờ Tuổi Trẻ đăng lại một cách mập mờ đánh lận con đen để người đọc nghĩ rằng sự chuyển giao người bị nạn diễn ra trên mặt biển, không dính dáng gì tới cái đảo Hoàng Sa cả.
Lại thêm một chuyện bú dù!

Thật là một trò trí trá, gian manh của Việt cộng và báo chí VN hiện nay.

Những chuyện vừa lược kể trên tuy rất là “bú dù” nhưng cũng chỉ là chuyện nhỏ, cái tầm của nó chỉ cở chừng từ thắt lưng trở xuống, chưa thuộc loại “đỉnh cao trí tuệ” của đảng ta.

Tất cả những “Trên” khi ra lệnh làm chuyện xấu hổ, bẩn thỉu như vậy đều giấu mặt trong bóng tối, không dám công khai ra văn bản hay chường mặt chỉ huy, chỉ cho đám côn đồ, du đảng tép riu, nhãi nhép thuộc loại chó lác, chó ghẻ rình cắn trộm, cắn càn mà thôi.

Chuyện “gởi kiến nghị được trả lời là thơ tố cáo khiếu nại” của cơ quan quyền lực cao nhất nước, Ủy Ban Pháp luật của Quốc hội Việt Nam, sau đây mới đáng liệt vào “đỉnh cao trí tuệ” của “Văn hóa bú dù”: Sản phẩm ưu việt của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Đích thân phó Chủ nhiệm Ủy Ban Pháp luật Trần đình Long ra mặt ký tên đóng dấu đỏ loét đàng hoàng.

Chuyện rất bú dù như sau:

- Ngày 12 tháng tư, một nhóm ba người gồm GS Nguyễn Huệ Chi, GS Nguyễn Thế Hùng và nhà văn Phạm Toàn đại diện cho 135 nhà trí thức nổi tiếng trong nước cùng ký Kiến nghị phản đối chủ trương khai thác bô xít tại Tây Nguyên. Ba ông đích thân mang bản Kiến nghị đến văn phòng Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ để tự chính tay mình giao. Tại đây, cả hai nơi, thư ký văn phòng đều không chịu nhận viện cớ rằng chưa có tiền lệ nhận đơn kiến nghị rồi đẩy qua cho Quốc Hội.
Ba nhà trí thức lóc cóc đạp xe đạp đến văn phòng Quốc Hội.Tại đây diễn tiến cuộc tiếp xúc được kể lại như sau:

"Còn khi đến Văn phòng Quốc hội ở 35 Ngô Quyền thì chúng tôi được tiếp đón ân cần, trọng thị, tại phòng làm việc của ông Phó Chủ nhiệm UB Văn hóa Giáo dục Nguyễn Minh Thuyết và phòng ông Phó Chủ nhiệm Văn phòng Nguyễn Sĩ Dũng, qua đó chúng tôi không chỉ gửi được bản Kiến nghị cho ông Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Quốc hội, mà còn gửi thêm ba bản đến ba vị Phó Chủ tịch, một bản đến toàn thể Ban thường vụ Quốc hội, một bản nữa đến toàn thể các thành viên Quốc hội, và một số bản đến các vị Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật, Quốc phòng An ninh, Kinh tế và Chủ tịch hội đồng dân tộc, cùng một số cá nhân đại biểu thường có nhiều ý kiến phản biện trong các kỳ họp trước đây. Cả hai người nhận thư đều hứa chắc: nội trong ngày 17 tháng Tư thư sẽ đến tận tay người nhận."

Mãi đến ngày 15 tháng 5, một bức thư phúc đáp của Ủy Ban Pháp luật Quốc hội được nhân viên bưu điện mang đến nhà GS Nguyễn Huệ Chi, địa chỉ đúng nhà nhưng tên người nhận lại là GS Nguyễn thị Huệ. Nội dung thư trả lời có nhiều điểm sai phạm. Sáng ngày 21 tháng 5, Phóng viên Gia Minh đài RFA hỏi chuyện GS Huệ Chi về văn thư phúc đáp và được giáo sư cho biết:

GS Nguyễn Huệ Chi: - “Thư ấy gửi cho một người là Nguyễn thị Huệ nhưng mà địa chỉ thì đúng là địa chỉ nhà tôi. Tôi định không nhận nhưng thấy địa chỉ đúng nhà, và tên có chữ Huệ. Và trong khu thì không có giáo sư Nguyễn thị Huệ nào cả. Tôi bóc ra thì thấy đúng là Ủy Ban Pháp luật trả lời cái gọi là đơn khiếu nại và tố cáo của ông bà. Kiến nghị chúng tôi gửi đi đánh máy hẵn hoi, kiến nghị này còn được đăng trên các trang mạng và phía sau có danh sách 135 vị nổi tiếng. Không hiểu sao họ lại nói đó là đơn khiếu nại và tố cáo, chúng tôi có khiếu nại, tố cáo ai đâu. Trong kiến nghị có ba người mà họ bỏ tên nhà văn Phạm Toàn đi. Ngày chúng tôi gửi kiến nghị là 12 tháng tư thì họ viết là 21 tháng tư.

Khi bức thư phúc đáp của Ủy Ban Pháp luật Quốc hội được GS Nguyễn Huệ Chi cho lên bàn mổ, đăng lên các trang mạng, lập tức độc giả trong nước phản hồi nhiều ý kiến phân tích các điểm “ưu việt” của bức thư để “ca tụng”,“khen ngợi” cái văn hóa đỉnh cao của một cơ quan có quyền lực cao nhất nước, nơi đẻ ra pháp luật, nơi giám sát việc làm của hành pháp, nơi tích tụ những tinh hoa của đất nước để phô diễn với thế giới về trình độ văn hóa của dân tộc, mệnh danh là “trí tuệ quốc gia của Nước CHXHCNVN”.

Những điểm “ưu việt” của bức thư phúc đáp ấy được đặt thành giả thuyết và nghi vấn, tóm tắt liệt kê như sau: (Trích lược bài viết của tác giả Tiết Liêu: Văn hóa vô lại)

1. Nhân viên phụ trách trả lời đã tắc trách, cẩu thả không đọc bản kiến nghị, không thèm tìm hiểu xem tên của những người gửi kiến nghị, không thèm dùng máy điện toán hay máy đánh chữ để trả lời mà vớ đại cái giấy in sẵn để trả lời các đơn khiếu nạn, mắt nhắm, mắt mở điền cho xong rồi trình ký. Ông phó chủ nhiệm cũng nhắm mắt ký bừa chẳng buồn đọc lại cái mình vừa ký nói cái gì. Thành ra “ông” biến thành “bà” Nguyễn Huệ Chi thành Nguyễn thị Huệ, ngày 12 thành ngày 21, “thư kiến nghị” thành “đơn tố cáo, khiếu nại”.

Giả thuyết này không vững. Một nhân viên hành chánh ở một cơ quan cỡ Ủy Ban Pháp luật của Quốc hội dù có ẩu tả đến đâu cũng không dám coi thường cấp trên đến như thế để có gan làm ra chuyện động trời như thế. Hơn nữa, nếu ghi sai, thì tại sao cái địa chỉ dài lòng thòng rất chi tiết, rất khó nhớ như thế thì ghi đúng, trong khi cái tên Nguyễn Huệ Chi là một cái tên rất “ấn tượng” lại viết thành Nguyễn thị Huệ

2. Đây là một việc làm có chủ ý, có tính toán hẵn hòi. Một việc làm có tính xỏ lá của phường vô lại, nhằm hạ nhục GS Nguyễn Huệ Chi và nhóm kiến nghị. Nó muốn tỏ cho nhóm kiến nghị hiểu rằng, đối với đảng, với quan chức cầm quyền thì “trí thức’ chẳng đáng giá một xu. Chẳng bỏ thì giờ để trả lời. Cái trò này bẩn thỉu này, những người đã từng đối đầu với các quan chức CSVN và nhất là đối với công an, thì chẳng lạ gì. Chính vì vậy, thay vì theo truyền thống, họ chẳng bao giờ thèm trả lời, thì nay họ phá lệ, bố thí cho cái thư kiểu xỏ lá để làm trò cười cho thiên hạ chơi.

Giả thuyết này nêu rõ được tính chất vô lại, hạ cấp của đám quan chức nước CHXHCNVN!

3. Đây là việc làm tâm huyết của một nhân viên làm trong Ủy Ban Ban Pháp luật của Quốc Hội, muốn tiếp tay với nhóm kiến nghị và đồng bào cả nước, chống lại việc dâng Tây Nguyên cho Tàu, nên lén lấy một cái mẫu in sẵn dùng để trả lời các vụ khiếu kiện, đem về nhà nhờ một em bé học lớp hai, lớp ba điền vào, viết địa chỉ phong bì, sau đó đem kẹp chung vào đống công văn để cho ông phó chủ nhiệm Trần Đình Long xưa nay cứ nhắm mắt ký bừa, ký. Thế là vụ việc sẽ trở nên lùm xùm, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội một phen ê mặt và thư kiến nghị được cả nước biết đến. Nếu không thế, dẫu GS Nguyễn Huệ Chi và nhóm kiến nghị có gửi đi năm, ba cái kiến nghi đi nữa cũng sẽ giống như những bức tâm thư của tướng Giáp “theo gió đưa cây cải về trời” mà thôi.

Giả thuyết này nghe có phần hữu lý. Nó giải thích được tại sao chữ viết quá xấu như gà bới, sai ngày, ông biến thành bà, lộn tên mà không lộn địa chỉ, thư kiến nghị thành đơn khiếu kiện và đặc biệt hơn hết là cái thư bôi bác như vậy mà ông phó chủ nhiệm Ủy Ban Pháp Luật của Quốc hội (không biết là tiến sĩ hay thạc sĩ?) vẫn thò bút ký và gửi cho người nhận.

Kết luận: Dù bất cứ lý do gì, động lực gì, thì cái sản phẩm trí tuệ siêu việt là bức thư kia, chỉ có thể có được ở cái gọi là nước CHXHCNVN chứ không thể xẩy ra ở bất cứ nơi nào trên trái đất này.
Người viết định đánh dấu chấm hết của bài bằng cái câu kết của mấy cái ví dụ trên là:

- Thật là một lũ bú dù !

Nhưng xét thấy mắng như thế là quá « giản đơn », thô thiễn, vẫn chưa đủ ý và lời để diễn đạt hết cái «bú dù» của cái gọi là « đỉnh cao trí tuệ » của chế độ nên đành mượn lời của ông Tiết Liêu trong bài viết : Văn hóa vô lại : Sản phẩm của quan chức nước CHXHCNVN làm câu kết:

« Từ thuở Hùng Vương dựng nước đến nay, trải qua hơn 4000 năm văn hiến, có thời buổi nào mà « trí tuệ quốc gia » lại đáng xấu hổ, làm nhục đến quốc thể, làm nhục cho cha ông, dòng giống như ở cái thời Xã Hội Chủ Nghĩa quái thai ngày nay không ?

Cho rằng « trí tuệ quốc gia thời XHCN » ở trình độ lớp Ba trường làng là vô tình sỉ nhục cái trình độ đó. Bởi vì, dù có trình độ cỡ nào đi nữa, thì người ta vẫn hành xử với nhau một cách có văn hóa (kể cả đối với kẻ thù) vì đó là sự tự trọng tối thiểu của một con người biết liêm sỉ. Trong lịch sữ nước Việt nam từ thời lập quốc đến giờ, về hành chánh, đặc biệt giữa các quan lại và tầng lớp sĩ phu, chưa từng xẩy ra một lối hành xử thô lỗ, đáng xấu hổ như lá thư trả lời của ông Trần Đình Long, thay mặt Ủy Ban Pháp luật của Quốc hội khóa XII hồi đáp cho bản kiến nghị.

Từ sự việc trên, chúng ta có thể đi đến kết luận là nước CHXHCNVN đã hoàn toàn mục nát, thối rửa, không một thế lực nào có thể cứu vãn nổi.

Tất cả chỉ còn chờ một cơn giông là sẽ sụp ! »

Vừa đóng cửa cái chuồng khỉ, chưa kịp bóp ống khóa lại, để tránh bọn « bú dù » lừa cơ sổng chuồng thì lại được tin Đại Sứ quán Cộng sản Việt Nam tại Nhật nhảy ra một đám « bú dù » làm trò con tườu nữa.

Sự việc tóm tắt như sau:

Ngày 25 tháng 5, một cô gái Việt lấy chồng Nhật đến Sứ quán để gia hạn Passport. Xong thủ tục, nhân viên phụ trách đòi cô trả 60.000 Yen (khoảng 600 USD). Cô gái thấy số tiền đòi quá nhiều so với giá niêm yết nên không chịu trả theo lời vòi vĩnh của tên này. Sau một lúc cãi cọ, tên nhân viên mắng cô gái : « Địt mẹ mày ! Mày là con điếm Nhật ». Cô gái giận quá vất trả đúng số tiền qui định trên bàn rồi bỏ về. Tên nhân viên này nhảy qua bàn làm việc, đuổi theo cô gái, giật xách tay của cô lại định cướp tiền, quai xách bị đứt làm cho cô té nhũi đầu vào cạnh bàn, lỗ đầu máu ra lênh láng. Cô kêu cứu, chồng cô, người Nhật, chạy vào quát tháo giận dữ, đòi kêu cảnh sát Nhật can thiệp. Cả đám nhân viên Sứ quán CSVN sợ quá ôm đầu lũi ra sau trốn mất.

Tất cả màn hài kịch này diễn ra rất ư là ngoạn mục trước mắt nhiều người Nhật đang ngồi chờ xin Visa để sang Việt Nam làm ăn. Một ông già, thương gia Nhật, cũng đang ngồi chờ xin Visa, chứng kiến vở kịch, từ đầu nói:

« Tôi tính xin VISA 3 tháng sang VN tìm cơ hội đầu tư, nhưng thấy cảnh này nản quá, không muốn đi nữa, đang đợi họ trở lại để kêu họ trả lại Passport đây ".

Tôi không nghĩ rằng họ là nhân viên ngoại giao được giáo dục đàng hoàng, cách làm việc giống côn đồ quá, cứ như là phim vậy".

Tôi nghĩ Đại sứ quán là bộ mặt quốc gia mà còn như thế này thì chắc ở Việt Nam sẽ còn khủng khiếp hơn nhiều ! Tôi cảm thấy bất an quá ! »

Bệnh còn có thể chữa được chứ đã thành tật rồi thì chỉ có nước bó tay. Cái văn hóa vô lại được giáo dục nhồi sọ bằng « tư tưởng Hồ chí Minh » này đã thấm vào xương tủy bọn cán bộ cộng sản Việt Nam hơn 70 năm nay, dù có đi phương trời nào, dù có thay da, đổi máu đi nữa thì vô lại vẫn cứ vô lại.

Chuyện xấu hổ buôn lậu sừng tê giác ngay tại Toà Đại Sứ Nam Phi chưa kịp đóng bụi thời gian thì tiếp đến chuyện cả đám phi công, du sinh Việt Nam kéo bè, kéo lũ vào siêu thị Nhật ăn cắp đồ lót phụ nữ, nước hoa, phấn son… bị cảnh sát Nhật bắt quả tang, thật vô cùng nhục nhã.

Tin tức xấu hổ nhục nhã này bị báo chí Nhật đăng hàng đầu trên báo với hàng tít to tướng « Lũ giòi bọ Việt Nam » khiến cho cộng đồng Việt Nam tị nạn Cộng sản tại đây phải cúi mặt, né tránh không dám nhìn người bản xứ quen bấy lâu nay.

Tưởng đâu đã như thế thì bọn cán bộ Việt cộng phải kiềng mặt cho bớt tiếng xấu, nào dè cái thứ «ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt» vẫn không chừa tật. Chứng nào vẫn tật ấy.

Tiện tay, chuồng còn rộng chổ, nhốt luôn cái lũ bú dù, vô lại của Đại sứ quán Cộng sản Việt Nam tại Nhật vào cho đỡ ngứa mắt bàn dân thiên hạ âu cũng là góp phần làm trong sạch bớt cái môi trường xú uế có tên là Cộng Hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam .

Nguyễn Thanh Ty


Michael Jackson Haunting Neverland?




Source: @ Yahoo!7 Video

Sunday, July 5, 2009

Tên tội đồ của Dân Tộc Việt Nam

Tên tội đồ của Dân Tộc Việt Nam
Nguyễn Hộ


Câu ranh ngôn để đời của tên tội đồ việt gian cộng sản NGUYỄN HỘ:

"Nhà chúng, ta ở;
vợ chúng, ta lấy;
con cái chúng, ta bắt làm nô lệ"

"Chúng" đây là bọn "ngụy" chúng ta đấy, các anh Tập Thể Chiến Sĩ QLVNCH ạ.

Chỉ có bọn tay sai CS Việt Tân mới tôn vinh tên Nguyễn Hộ là "nhà ái quốc". Đây mới đúng là ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Mà hình như khối 8406 của Lm Phan Văn Lợi cũng đã phân ưu tên giết người này rồi thì phải. Cũng lại ngưu tầm ngưu, mã tầm mã thôi.

***
From: luutrungkhao@ yahoo.com
Subject: Thanh kinh phan uu: Cu NGUYEN HO vua qua doi
Date: Saturday, July 4, 2009, 6:46 AM

Kính thưa quý vị,

Nguyễn Hộ là một cán bộ cao cấp của CSVN. Sau khi VC cưỡng chiếm miền Nam. Nguyễn Hộ đã giữ những chừc vụ quan trọng và cao cấp trong Ủy Ban Quân Quản. Chính Nguyễn Hộ là người đã phát biểu câu nói dã man ác độc:
"Chiếm được Saigon, nhà của ngụy ta ở, xe của ngụy ta lái, vợ của ngụy ta lấy, con cái ngụy ta bắt làm nô lệ, ngụy quân, ngụy quyền ta sẽ tống vào trại cải tạo, khai thác sức lao động cho chết dần không cần phí đạn mà bắn chúng".
Chỉ sau khi bị mất chức, mất quyền, Nguyễn Hộ mới thành lập Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiền Cũ và tranh đấu chống lại bọn cầm quyền đã tước bỏ quyền lợi của y. Những người đấu tranh không quên những sự kiện đó và đừng bao giờ nhận giặc làm cha.

Kính chào quý vị .
Lưu Trung Khảo
***


CHÁU CHUỘT TRUY ĐIỆU CỤ MÈO
(Gởi bác Tha Hương,
chuyện ghi lại trong lễ cháu chuột truy điệu cụ mèo)


Bác Tha Hương có nhà không
Ra nghe một chuyện lạ lùng lắm cơ
Cụ mèo nằm chết quay lơ
Dăm ba cháu chuột ngây thơ khóc mèo

Này hỡi cụ mèo ơi ...
Ngày cụ sống cụ gieo tang tóc
Năm tám năm ác độc, dã man
Xua quân xâm lược miền Nam

Giết ngươì từng loạt, bạo tàn, bất nhân
Cụ " khuôn nắn" vô thần, vô đạo
Nằm trong dân, trở tráo, giết dân
Nào là cái Tết Mậu Thân

Ngàn người chung một mộ phần Huế đô !
Nào những tấm khăn sô lệ ứa
Khóc Mùa Hè Đỏ Lửa Bảy Hai
Trường học cụ pháo dài dài

Nhà dân hoả tiễn lai rai giải sầu ...
Bảy Lăm, nhuộm đỏ ngầu đất nước
Công cụ to phải được vinh ranh
Bắc, Nam, triệu mái đầu xanh

Chiến trường cụ nghiến tan tành thịt xương!
Riêng họ chuột giỏi luồn cụ ạ
Chết dăm tên cũng chả hề chi!
Chuột, nghề chuyên nghiệp, nâng bi

Có đầy thành tích, danh ghi bảng vàng!
Nay cụ chết cả làng nhà chuột
Đau đớn lòng, đứt ruột, lòi gan!
Bàn thờ, chuột thắp nén nhang

Chuột oà khóc cụ hai hàng lệ rơi
Này hỡi cụ mèo ơi ...
Thưa với cụ, lũ NGƯỜI nó tệ
Cụ công lao to thế .... mà sao ...

Nó không khóc cụ tiếng nào
Mà còn to nhỏ xì xào bàn ra!
Chúng chẳng biết nhìn xa, nghĩ rộng
Tế cụ mèo là cộng chết ngay!

Nó vô ơn cụ thế này
Cái ơn mấy chục năm nay giết người !
Này hỡi cụ mèo ơi
Thương tiếc cụ chúng tôi, nhà chuột

Rất tinh khôn mưu chước đủ điều
Cụ là hình ảnh mỹ miều
Chuột truy điệu cụ bởi yêu cụ mà
Cụ là bậc tài hoa, vĩ đại

Năm tám năm cụ mãi một lòng
Trung thành tàn phá non sông
Quyết tâm giết hại giống dòng Việt Nam!

Này hỡi cụ mèo ơi
Nhưng bọn Ngụy cực đoan kết tội
Bởi cụ mèo có lỗi, đã sao ?
Khi thằng ăn cướp buông dao

Đương nhiên thành Phật, toà cao nó ngồi !
Huống chi cụ từ nôi cộng sản
Đã làm đơn phản kháng thế này .....
Chuột đang tế lễ hăng say

Bỗng đâu tiếng cụ hỡi này, thằng ngu
Mày chớ có hoả mù nghe chuột
Họ nhà mày, cụ nuốt như chơi
Sau năm mươi tám năm giời

Cụ mong đảng tốt hơn thôi, giống Tàu
Cụ có chống đảng đâu, vẽ chuyện
Cứ làm như bay biết việc đời
Khôn hồn đi chỗ khác chơi

Thấy cụ sang, muốn dựa hơi cụ à ?
Ai mướn mày chay ma hở chuột
Truy điệu ư ... hỏi được gì đây ?
Cụ mà sống lại, có ngày
Cụ lòi mặt thật cho bay tịt ngòi!

Trần Dân Tiên Tân Thời

*
**
AI HAY....
(Gởi bác Trần Dân Tiên Tân Thời
đáp bài "Cháu Chuột Truy Điệu Cụ Mèo")


Tha Hương chào bác Dân Tiên
Đọc bài thơ bác, cười nghiêng cuộc sầu
Cụ mèo gốc ở đâu, thưa bác ?
Cháu chuột kia quê quán nơi nao ?
Mà đi than khóc, kêu gào
Xót thương cái cụ ... ôi chao ... cu ... mèo !
Chuột có biết cụ leo rất giỏi
Từ hạ tầng lên tới đỉnh cao
Nấc thang cụ bước, đầy sao
Và đầy xương trắng, máu đào của dân ?
Khen cháu chuột tinh thần tranh đấu
Thiệt là cao, cao thấu trời xanh
Cụ mèo được chuột vinh "ranh"
Nhớ ơn một thuở vuốt nanh cụ mèo
Làm nhà chuột sợ teo, sợ cuống
Chui vô hang, trốn tuột trong hang!
Dám đâu đi dọc về ngang
Dám đâu chút chít thở than nửa lời !
Nay cụ chết, chuột thời truy điệu
Và tiếc thương, ai điếu.
Cũng dzui! Nhưng thôi ... đừng nói ... bác ơi
Nói ra, chuột lại dạy đời, điếc tai
Chuột sẽ giảng cho bài yêu "lước"
Là phải ghi ơn phước cụ mèo
Nếu không là chẳng biết điều
Bởi xưa cụ đã lập nhiều chiến công!
Chiến công cụ chất chồng xương máu
Máu Việt Nam, con cháu Tiên Rồng !!!
Buồn cười, thưa bác, phải không?
Ai hay lời thật mất lòng, bác ơi
Ai hay cháu chuột muôn đời
Nhớ ơn mèo đã nuốt tươi giống nòi !

Tha Hương

***

Một Đàn Chuột Cống “làm show” Khóc Mèo
Trần Tú Uyên

Vẹm Nguyễn Hộ đi chầu Âm Phủ,
Có nhiều thằng lụp sụp phân ưu.
Đáng khinh cái bọn bưng bô,
Một đàn chuột cống “làm show” khóc mèo.

Vẹm Nguyễn Hộ đặc công khủng bố,
Hộ nằm vùng trong hố trong hang,
Ban ngày Hộ giả dân làng,
Chờ khi đêm xuống Hộ tàn sát dân

Buổi họp chợ dân lành vô tội,
Hộ gài bom giết hại dân lành.
Thịt văng, máu chảy kinh hoàng,
Hộ mừng phỏng giái vinh quang giặc Hồ.

Chuyến xe đò đi, về buôn bán.
Hộ giật mìn thịt nát xương tan
Thịt rơi máu đổ kinh hoàng,
Hộ mừng phỏng giái vinh quang giặc Hồ.

Các trường học trẻ em vô tội,
Hộ gài bom giết hại không tha.
Trái bom nổ chậm dã man,
Hộ mừng phỏng giái vinh quang giặc Hồ.

Tết Mậu Thân dân lành đón tết.
Lén vào thành, Hộ giết thoả thuê.
Tay cầm súng đạn Tầu Nga,
Hộ bắn, Hộ giết không tha một người.

Năm 75 hứa là ngưng bắn,
Quân Quốc Gia đình chiến tay không,
Hộ về phỏng giái non sông,
Hộ bắn, Hộ giết thoả lòng Cộng Nô.

Năm 75 sau ngày mất nước,
Hộ hung hăng vừa cướp vừa khoe:
“Nhà Ngụy ta cướp chẳng tha,”
“Vợ Ngụy ta lấy, con làm nô sai.”


Loài Cộng Phỉ “vắt chanh bỏ vỏ,”
Hộ hết sài, chúng bỏ không dùng.
Hộ đòi “phản tỉnh phản thùng.”
Đuôi Vẹm chưa dứt, phản thùng vào đâu.

Khi Hộ “ngủm” có thằng phúng điếu,
Bọn Việt Gian khóc mếu xót thương,
Việt Gian – Việt Cộng một phường,
Cá mè một lứa lẽ thường giống nhau.

Hộ bán nước cho loài Cộng Phỉ,
Tội đặc công sát hại dân lành.
Giết người, cướp của, bạo hành,
Tội chưa sám hối sao thành Phật đây?

Bọn khiến chán Việt Tân Mặt Trợn,
Chúng rủ nhau truy điệu Cộng Nô.
Cơm Quốc Gia, thờ giặc Hồ,
Việt Tân – Việt Cộng một lò chui ra.


Trần Tú Uyên
(05July2009)
Ghi chú: TTU xin mạn phép mượn đỡ ý thơ “một đàn chuột cống làm show khóc mèo của hai bác Tha Hương và Trần Dân Tiên Tân Thời.

VỊT TIỀM
Thành Kính Phân Ưu Nhà Ái Quốc Nguyễn Hộ


Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng

Xin trân trọng gởi lời Thành Kính Phân Ưu đến

Quý Tang Quyến,
Quý Cựu Thành Viên Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ,
Quý Cựu Cộng Tác Viên Báo Truyền Thống Kháng Chiến,
và Những Vị Chia Xẻ Cùng Lý Tưởng

trong ngày từ giã
Nhà Ái Quốc NGUYỄN HỘ.

Cụ đã không chấp nhận im tiếng để hưởng bổng lộc suốt đời còn lại,
nhưng đã can đảm đứng thẳng theo tiếng lương tâm,
công nhận trước toàn dân sự chọn lựa lầm lẫn của đời mình,
dứt khoát từ bỏ đảng CSVN khi biết rõ bản chất của họ,
dũng cảm cảnh báo dân tộc về tương lai băng hoại dưới chế độ độc tài,
và vì thế, Cụ đã chấp nhận cảnh giam cầm tại gia đến hơi thở cuối cùng.
Đảng Việt Tân xin bày tỏ niềm vinh hạnh đã được chia xẻ những tâm tư và
cộng tác với Cụ Nguyễn Hộ trong công cuộc tranh đấu cho tương lai dân tộc.

*
* *

Tên cán bộ VC hạng gộc NGUYỄN HỘ tuyên bố vào dịp Việt Cộng chiến thắng 30 tháng tư-75:

"Nhà chúng nó ta ở,
Vợ chúng nó ta xài
con chúng nó ta sai"

Thằng Nguyễn Hộ là tên côn đồ cực kỳ gian ác, nó đày ải quân dân cán chính Miền Nam tất cả vào tù, vào rừng thiêng nước độc để giựt nhà, giựt vợ, bắt con cháu VNCH đi làm nô lệ.
    Một thằng chó đẻ như vậy, với bàn tay đầy máu nhân dân Miền Nam.
    Thì nó có công gì với VNCH ?, nó có bao giờ ca tụng chính nghĩa Quốc Gia Miền nam.
    Thằng chó đẻ Nguyễn Hộ nầy là tội phạm của dân tộc Việt Nam.
Những đứa nào tôn thờ nó đều là lũ bất lương, ngu ngốc, Bất cứ cán bộ nào của VC đều là tội phạm của nhân loại vì bàn tay chúng dính đày máu nhân dân Việt Nam vô tội.

Thằng VC nào phản tỉnh thật hay giả như thằng Nguyễn Hộ thì kệ cha nó.

Trân trọng,
Bùi Như Hùng


Phỏng vấn cựu Đại sứ VNCH Bùi Diễm tại Mỹ - BBC

cuu Đai su VNCH Bui Diem 1967_1972
Ông Bùi Diễm, cựu Đại sứ VNCH (1967-72), quan sát viên đặc biệt của VNCH tại Hòa đàm Paris kể về thời kỳ này (phần 2)

Hôm 23 tháng Sáu vừa qua, Thư viện Nixon công bố các cuốn băng ghi âm từ năm 1973 và một đoạn băng trong số 150 giờ thu âm và 30 nghìn trang tài liệu được giải mật cho thấy Tổng thống Nixon muốn đạt được thỏa thuận tại Hòa đàm Paris với Hà Nội bằng mọi giá và đã gây sức ép rất mạnh đối với Sài Gòn.

Mời quý vị nghe tiếp phần hai cuộc phỏng vấn của Ban Việt ngữ với cựu đại sứ VN Cộng hòa tại Mỹ, ông Bùi Diễm, kể về những gì ông chứng kiến liên quan tới việc ký kết Hòa đàm Paris.

Source: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/av/2009/07/090703_buidiem_part2.shtml?bw=bb&mp=wm&news=1&ms3=22&ms_javascript=true&bbcws=2