Monday, June 29, 2009

Ô NHỤC ẢI NAM QUAN! - Chân Mây

Chân Mây

Ven trời góc biển buồn chim cá
Dạn gió dày sương tủi nước non


Thượng Tân Thị

Bi thương thay cho lịch sử Việt Nam!

Từng cây số trên quê hương là từng giòng máu lệ, máu của cha ông ngăn thù và máu của hai miền huynh đệ chan hòa vào nhau trong hoan lạc dành cho Quốc tế Cộng Sản. Và đang trở về đây là những bước chân âm thầm của ngàn năm nô lệ. Kết quả từ công cuộc nhuộm đỏ mạo danh “độc lập, tự do, hạnh phúc” theo tư tưởng Hồ Chí Minh và đồng bọn.

Hãy tiếp tục nhìn những gì mà CSVN đang ra sức thực hiện: “Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan không thuộc lãnh thổ Việt Nam!”. Họ cố chối bỏ lịch sử Việt Nam và ra sức tranh cãi, biện luận với dân Việt thay cho Trung Cộng. Ô nhục! Từ quan đến quân, CSVN chỉ là một lũ tôi mọi dâng đất, dâng biển của tổ tiên cho ngoại bang bằng văn tự công hàm, hiện rõ hình hài là một bọn quái thai chưa từng có trong lịch sử nhân loại!

Chấp bút cho đề tài “Ải Nam Quan”, thay vì tranh luận bằng văn chương, tôi sẽ sử dụng giá trị của những tư liệu bằng hình ảnh. Bởi vì, đã có rất nhiều nghiên cứu công phu của các tác giả yêu nước Việt nồng nàn đã là qúa đủ để khẳng định “Ải Nam Quan là của Việt Nam! Ải Nam Quan thuộc về Trung Cộng là do sự hiến dâng của Đảng CSVN!”. Những hình ảnh sẽ lưu lại đây để cho con cháu chúng ta hiểu rõ hơn niềm bi thương của đất nước, chỉ cho các em bọn bán nước hiện đại là ai. Để rồi không còn ngày phải tôn thờ hỉnh Hồ-Mao và màu cờ máu chỉ còn là một kỷ niệm buồn. Rất buồn!

Hãy xác tin rằng: “Nước Việt của em từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau” là mãi mãi!

Chương I

NHỮNG HÌNH ẢNH LỊCH SỬ

Trong chương này, việc sắp đặt hình ảnh về Ải Nam Quan sẽ dựa theo sự thay đổi của lối kiến trúc v.v. mà phân chia thành các nhóm hình theo ký tự A,B,C… Để sự diễn tả rõ ràng hơn, những hình ảnh bên phía Trung Cộng (hoặc Trung Quốc theo thời đại) sẽ gọi là “Trấn Nam Quan” “Mục Nam Quan” v.v…; ngược lại, những hình ảnh bên phía Việt Nam sẽ gọi là Ải Nam Quan hoặc cổng Nam Quan theo đúng tinh thần lịch sử. Phân chia như sau:

- Nhóm A: họa đồ “Trấn Nam Quan” của Trung Quốc (đánh số A1 đến A4)
- Nhóm B: có chung kiến trúc (đánh số B1 đến B4)
- Nhóm C: có chung kiến trúc (đánh số C1 đến C4)
- Nhóm D: có chung kiến trúc (đánh số D1 đến D2)
- Nhóm E: không xác định (E1 đến E3)
- Nhóm F: hình quân sự và bản đồ (đánh số F1 đến F6)
- Nhóm Phụ ảnh: Một số phụ ảnh bất định sẽ đưa trực tiếp vào nơi hình cần thêm minh họa.

Diễn tả

1. Nhóm hình A:

Trước hết, ta có hai bức họa theo lối sơn thủy về hình ảnh “Trấn Nam Quan” trong đời nhà Thanh (Trung Quốc). Niên đại của cả hai được cho rằng họa vào đời vua Ung Chính khi xảy ra cuộc chiến Trung-Pháp (1884-1885)

A1. “Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ” (1)

Còn gọi là “Thanh Quân Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ” (Họa đồ bố trí phòng thủ Trấn Nam Quan của quân Thanh). Đây là bức họa các vị trí đóng quân của nhà Thanh nơi Trấn Nam Quan bên trong nội địa Trung Quốc. Địa hình đồi núi khái lược. Cổng ra vào với Ải Nam Quan của Việt Nam nằm tại cạnh phải của bức họa (có đóng khung).

A1.jpg picture by baivietnam

A2. “Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ” (2)

Các vị trí đóng quân của nhà Thanh nhìn từ hướng Việt Nam. Không hiểu tại sao bố cục của bức họa này lại rất giống với bố cục trên bưu ảnh (tham khảo hình B1) do người Pháp chụp vào đầu TK20 (hoặc cuối TK19?) . Có thể bức họa này dựa theo tài liệu của người Pháp mà vẽ ra. Giá trị của bức họa này so với bưu ảnh (B1) là do sự quan sát của người Trung Quốc vào thời đại cũ nên ta thấy được kiến trúc nguyên thủy của Ải Nam Quan bên phía Việt Nam. Ta thấy có một cổng lớn, hai bên cổng là hai dãy tường thành dâng cao nhưng bị cắt ở hai bên lưng núi. Một khoảng sau cổng mới đến phần cổng có mái ngói. Từ phần cổng mái ngói này có dãy tường thành chạy dài lên đỉnh núi. Đó là phần Trung Quốc. Các điểm này tương xứng với bưu ảnh (B1).

A2.jpg picture by baivietnam


A3. “Trấn Nam Quan Đại Chiến”

Minh họa cảnh giao chiến giữa quân Pháp và quân Thanh tại cổng Nam Quan vào năm 1885. Niên đại của bức họa không rõ nhưng ta thấy tường thành có kiến trúc giống cổng Ải Nam Quan của hình A2.

A3.jpg picture by baivietnam

A4. “Trấn Nam Quan Đại Lâu Đồ”

Mô tả cảnh quân Pháp rút quân và binh lực quân Thanh tại Trấn Nam Quan. Hãy quan sát vị trí cổng theo khung hướng dẫn trong hình.

A4.jpg picture by baivietnam

2. Nhóm hình B:

Bưu thiếp (Carte Postale) phong cảnh Ải Nam Quan do người Pháp thực hiện vào đầu thế kỷ 20. Các nhật ấn sưu tầm được trên bưu thiếp sử dụng từ năm 1908-1912.

B1. Ải Nam Quan nhìn từ độ cao ở Đồng Đăng

Vẫn dựa theo tường thành phía Việt Nam là hai đoạn ngắn nhưng phần cổng đã thay đổi thành cổng nhỏ. Phía Trung Quốc là cổng lớn và cao hơn, thiết kế hai mái ngói và tường thành chạy dài lên núi giống các bức họa đã nêu trên. Có lẽ sau giao tranh vào năm 1885. Cổng phía Việt Nam đã bị phá hủy nên được xây lại không còn qui mô như xưa.

Khoảng trống đến phần cổng phía Trung Quốc là vùng cảnh giới của hai bên vì dựa theo hình phía bên Trung Quốc ta sẽ thấy có sự đối xứng (tham khảo nhóm hình C).

B1.jpg picture by baivietnam

Phụ ảnh:(B1) Ảnh màu để xác nhận hai phần mái ngói đỏ.

B1-2.jpg picture by baivietnam

B2. Ải Nam Quan nhìn từ hướng Đồng Đăng

Ta nhận thấy sự cao thấp của hai phía cổng và cánh phải của tường thành phía Việt nam cũng dừng ở ngang núi theo như họa đồ Trung Quốc (A1). Ở góc phải phía dưới hình là một ụ trắng phủ cỏ xanh, dấu tích lô cốt của quân đội Pháp (tham khảo hình F1 sẽ thấy rõ vị trí lô cốt nhìn từ bên Trung Quốc).

B2.jpg picture by baivietnam

B3. Bang giao tại Ải Nam Quan

Quan sát các nhân vật trong hình, ta thấy ở cạnh trái có binh lính Việt Nam đứng thành hàng dài. Giữa cổng đi ra là hàng phu khiêng kiệu đội nón vải rộng vành của quân nhà Thanh (chở quan viên?). Ở cạnh phải của hình có những người nhà Thanh đội nón và kết tóc đuôi sam. Có lẽ đang diễn ra một sự kiện nào đó trong lịch sử bang giao tại Ải Nam Quan.

B3.jpg picture by baivietnam

B4. Cổng Ải Nam Quan

Cổng đóng then gài, cỏ mọc cao ngất ngưỡng. Hoang tạnh. Trong lời nhắn trên bưu thiếp cho ta biết cổng được tu phục vào năm 1908. Nhật ấn “Lạng Sơn”. Xác nhận bờ tường thành chỉ còn dấu thang bậc đi lên để so sánh với tường thành phía bên Trung Quốc (nhóm hình C).

B4.jpg picture by baivietnam

Phụ ảnh: Đường lên Ải Nam Quan từ Đồng Đăng

B4-2.jpg picture by baivietnam

3. Nhóm hình C

C1. Trấn Nam Quan (1)

Nhìn từ bên Trung Quốc. Kiến trúc ở đây đã khác. Phần mái ngói lớn phía dưới đã mất, chỉ còn lại phần mái ngói bên trên và cấu trúc mái cũng khác. Chỉ có dãy tường thành là vẫn chạy dài lên trên. Cạnh trái trên đỉnh núi có doanh trại. Phía dưới trước mặt cổng có cụm nhà ngói. Kiến trúc thay đổi có lẽ do sự phá hủy trong cuộc “Khởi nghĩa Trấn Nam Quan” do Tôn Trung Sơn lãnh đạo vào năm 1907. Để dễ phân biệt với nhóm hình chụp từ phía Việt Nam ta sẽ quan sát thêm sự khác nhau của địa hình đồi núi.

C1.jpg picture by baivietnam

C2. Trấn Nam Quan (2)

Mặt bằng của Trấn Nam Quan. Bờ tường thành chia theo lô khác với hình thang bậc bên phía Việt Nam. Ta thấy rõ bên phía Trung Quốc cũng có khoảng cách so với cổng lớn (Quan). Một án tường trắng đối diện cổng là theo lối phong thủy ngày xưa tránh sự dòm ngó thẳng vào nhà mình từ phía bên ngoài (ngay trong các kiến trúc cổ của Việt Nam từ đình làng đến lăng miếu ta sẽ nhận ra điểm này). Theo sử liệu Trung Cộng, cụm nhà nhỏ phía trước cổng lớn (nơi có hai nhân vật áo trắng đang đứng) là miếu thờ Quan Công gọi là Quan Đế Miếu và Đền Chiêu Trung. Sau đó vào năm 1896 trong chương trình khảo sát biên giới giữa Trung-Pháp đã xây trên nền này một văn phòng quản lý cùng với 9 điểm khác trên biên giới Trung-Việt. Năm 1914 xây lại lần hai thành kiến trúc nhà lầu kiểu Pháp nên còn gọi là “Pháp Lầu” hoặc “Pháp Quốc Lầu” vẫn còn tồn tại cho đến nay.

C2.jpg picture by baivietnam

C3. Toàn cảnh Trấn Nam Quan

Có một khu trại và hai dãy nhà mái lá cách xa với cổng lớn ở cạnh tâm phải của hình. “Trấn Nam Quan” là đây! Khởi nghĩa Tôn Trung Sơn là đây! Khu di tích này giờ chỉ còn là ruộng nước, gọi là “khu di chỉ Trấn Nam Quan Khởi Nghĩa”. Các khung trong hình dùng để xác định vị trí so với hình C4.

C3.jpg picture by baivietnam

C4. Trấn Nam Quan (3)

Trên bưu thiếp có tiêu đề “NAM QUAN (Chine) – Le Village” rõ ràng đây là khu làng mạc (Trấn) trong đất Trung Quốc. So sánh các khung vị trí với hình C3:
Dãy nhà lá và con đường đất ở giữa, trước mặt là cụm nhà ngói và tán cây. Ngang ở tâm trái của hình là bờ tường thành. Phía góc phải là vách núi đá (đá vôi?) trắng.

C4.jpg picture by baivietnam

Chữ “Trấn” trong văn tự trung Quốc có rất nhiều nghĩa, như “trấn giữ”, “trấn áp”, “trấn tĩnh”, “trấn địa”…v.v. đều là chỉ việc gìn giữ, ổn định. “Trấn” còn là một đơn vị hành chính sau cấp huyện có từ thời xưa tại Trung Quốc (đơn vị hành chính Việt Nam thời xưa cũng thường sử dụng). Trong một số sử sách Việt Nam có nói “Trấn Nam Quan” nằm trong nội địa Trung Quốc. Thì đây, “Trấn Nam Quan” đã xác định là những hình này! Khối nhà lợp mái ngói ta sẽ hiểu là khu nhà quan binh, hai dãy nhà lá là khu dân cư dựa theo binh đội để có cuộc sinh hoạt yên bình. “Trấn” là khu phố nhỏ, làng mạc. Đừng làm lệch lạc lịch sử và đừng theo luận điệu của bọn bán nước mà cho rằng “Ải Nam Quan phải gọi là Bắc Quan”. Chữ “Nam Quan” là do Trung Quốc kiêng kỵ Việt Nam nên không muốn gọi là “Đại Nam Quan” mà thôi. Chữ “Quan” là chiếc cổng qua lại. “Đại Nam Quan” hay “Nam Quan” là cửa ngõ giao thiệp với nước Việt Nam. Hai bên đã thủ lễ với nhau bằng khoảng trống ở hai bên cổng lớn. Theo sử liệu, sau chiến tranh Trung-Pháp thì nhà Thanh đã chiếm giữ cổng lớn và buộc phía Việt nam phải cách xa cổng là 100 thước. Việc này ta thấy tương đương với khoảng cách của hai cổng trong nhóm hình B.

4. Nhóm hình D

D1. Cổng Nam Quan (1)

Đây là một kiến trúc khác hẳn so với các nhóm hình trên. Có vẻ sơ sài vì đã mất hẳn phần kiến trúc phía trên trong cuộc nội chiến tại Trung Cộng vào năm 1949. Ta thấy có dáng một nhân vật đang cầm súng. Tiêu đề trên bưu thiếp “NAM QUAN (Tonkin)…” đây là bên phía Việt Nam khi qua cổng nhỏ để đứng sát với cổng lớn (vào lúc này có lẽ kiến trúc cổng nhỏ cũng đã mất). Theo sử liệu Trung Cộng, trong cuộc giao tranh vào năm 1949 thì toàn bộ phần trên cổng đã bị phá hoại hoàn toàn (tham khảo hình E2).

D1.jpg picture by baivietnam

D2. Cổng Nam Quan (2)

Hình đăng trên tạp chí “National Geographic” do GS Nguyễn Văn Canh đưa lên mạng và không rõ niên đại. Một số bạn nghi ngờ bức ảnh này không chính xác với hình ảnh của Ải Nam Quan. Tuy nhiên so sánh với hình D1, ta đã thấy kiến trúc cùng kiểu của hai hình. Tại đây, dãy tường thành chạy lên cao đến vách núi trắng tương ứng với hình C3-C4, có thể xác định là hình được chụp từ cao điểm bên phía Việt Nam.

D2.jpg picture by baivietnam

5. Nhóm hình E

E1. Không xác định (1)

Một hình ngôi chùa trên đường đi Long Châu nơi có cổng giao thiệp với Việt Nam là Bình Nhi Quan. Cùng với Nam Quan và Bình Nhi Quan còn có Thủy Khẩu Quan là 3 cổng quan yếu để vào đất Việt Nam nên gọi chung là “Tam Quan”, có khi cổng Nam Quan còn gọi là riêng là “Tam Quan” do ở vị trí quan trọng hàng đầu so với hai cổng Bình Nhi-Thủy Khẩu. Nơi hình này có tiêu đề “Chine - NAM QUAN – Loc Hang Thiap”. Chưa rõ chữ “Loc Hang Thiap” là gì nhưng hình xác định là Nam Quan trên đất Trung Quốc, có phải là một ngôi chùa trong “Trấn Nam Quan” hay không? Hay là thuộc Trấn Bình Nhi Quan?

E1.jpg picture by baivietnam

E2. Không xác định (2)

Quân đội Trung Cộng đứng trên tường thành giương cờ trong cuộc chiến thắng quân Tưởng Giới Thạch vào ngày 11.12.1949 tuyên bố giải phóng Quảng Tây. Thế tường thấp với cổng và trên mặt tường cổng có chữ “Trấn Nam Quan”.

E2.gif picture by baivietnam

Phụ ảnh: Hình chụp chính diện của Trấn Nam Quan trong ngày giải phóng Quảng Tây tháng 12.1949. Trên mặt tường cổng thành ta thấy rõ chữ “Trấn Nam Quan”. (phòng trưng bầy lịch sử Hữu Nghị Quan)

E2-2.jpg picture by baivietnam

E3. Không xác định (3)

Quân đội Trung Cộng đứng trước cổng nhỏ có khắc chữ “Trấn Nam Quan”. Không rõ niên đại của hình. Chung với hình E2, có lẽ đây là “Trấn Nam Quan” mà tôi đã giải thích (mục 3, nhóm hình C).

E3.jpg picture by baivietnam

6. Nhóm hình F

F1. Toàn cảnh Ải Nam Quan

Do trinh sát quân Nhật Bản chụp vào tháng 6 năm 1940 trước khi tiến hành “cuộc chiến 3 ngày” nhằm đạt mục đích đưa quân vào lãnh thổ Đông Dương. Hình được mô tả:

“…thấy được đường xe lửa Lao Cai-Côn Minh. Lại có đường xe ô-tô từ Đồng Đăng lên tận Trấn Nam Quan. Bờ tường thành này bên trong là đất Trung Quốc, ngay bên ngoài là Bắc bộ Đông Dương”.

Từ cao điểm như trong hình ta thấy rõ vị trí lô cốt như đã xem qua hình B2. Có khả năng lô cốt đã xây dựng trên một nền kiến trúc cổ xưa của Việt Nam . Và còn “Suối Phi Khanh” nơi thấm lệ của Nguyễn Trãi, có ai nhận ra chưa?…Nước mắt!

F1.jpg picture by baivietnam

Phụ ảnh: Liên quân Pháp-Việt (trường Sĩ quan Đồng Đăng)
Những người bảo vệ Ải Nam Quan thất thủ trước quân Nhật (25.09.1940)

F1-2.jpg picture by baivietnam

F2. Cột Mốc Số 18

Do quân đội Nhật Bản chụp tháng 7 năm 1940 ngay tại tường thành Trấn Nam Quan. Cột mốc số 18 lịch sử xác định biên giới Trung-Việt vào năm 1887. Xác định lãnh thổ bảo hộ của thực dân Pháp tại Đông Dương và cũng là khởi điểm Nam tiến của quân đội Thiên Hoàng giao tranh với các nước Châu Âu.

Trên Cột mốc số 18 ta đọc được: “Trung Việt Quốc Giới, Trấn Nam Quan Ngoại, Đệ Thập Bát Hiệu - No.18 FRONTIERE

F2.jpg picture by baivietnam

F3. Bản đồ vị trí Trấn Nam Quan và cột mốc số 18

Do chính quyền Tưởng Giới Thạch họa vào năm Dân Quốc 13 (1925). Khu vực Trấn Nam Quan và cột mốc số 18 (có đóng khung)

F3.jpg picture by baivietnam

F4. Hữu Nghị Quan (tên gọi cổng Nam Quan do Trung Cộng đặt ra vào năm 1965)

Đây là một bằng chứng sống động nhất cho kết qủa “bác cháu ta cùng giữ nước” trong thời cộng sản cầm quyền tại Việt Nam. Ảnh do cựu chiến binh Trung Cộng (tham gia chiến tranh biên giới Trung-Việt 1979) chụp vào năm 2005. Các vạch và khung đánh dẩu trên ảnh là của tác giả ảnh và được giải thích như sau.

F4.jpg picture by baivietnam

Hình trên là từ trên núi Kim Kê chụp xuống. Bên trái là Hữu Nghị Quan, vòng tròn màu vàng là cao điểm tranh chấp Trung-Việt, hiện thời do quân ta khống chế; Vùng màu xanh lá cây hình tam giác là khu vực gài địa lôi. Vạch dài màu tím là con đường sắt qua lại với Đồng Đăng. Vùng trắng giữa hình có hai cửa đường hầm là điểm cuối của cao tốc Nam Ninh đến Bằng Tường

Nguyên văn:

上图]这是在金鸡山上往下拍的。左侧是友谊关,黄圈部分为中越有争议的高地,目前为我军控制;草绿色的三角为雷区 ,蓝线是通往同登的铁路。图片中间灰白处有两个遂道洞口为南宁至凭祥高速公路的终点站。

Tham khảo tại đây: http://military. china.com/ zh_cn/hist. ..2461442_ 1.html

Tôi xin thuyết minh thêm. Núi Kim Kê là cao điểm chiến lược nằm ở cánh trái cổng Nam Quan, ngay vị trí chụp ảnh của tên cựu chiến binh này chính là đất Việt Nam. Khu vực tam giác trong hình chính là khu vực của cột cây số Km0 của Việt Nam là nơi mà vào đầu tháng 7.2007, phía Trung Cộng đã tuyên bố hoàn tất gỡ bỏ tấm đạn địa lôi (mìn) cuối cùng, bảo đảm thông thương an toàn cho “vùng Hữu Nghị, Hòa bình vạn tuế!”. Trong các hình ảnh của chương tiếp theo ta sẽ rõ hơn về vị trí này. Ở đây ta đã có khái niệm về việc Ải Nam Quan đã mất trong cự ly ra sao! Việc mất lãnh thổ qủa là nghiêm trọng! không phải là 100m, 150m, hoặc 200m. Cự ly trong hình có thể tính bằng Km! Hai lỗ đen gần giữa tâm hình là đường ra vào của cao tốc Nam-Hữu (Nam Ninh-Hữu Nghị Quan với chiều dài 179.2 Km. Nam Hữu khởi công vào ngày 28.04.2003 và chính thức khai thông vào ngày 28.12.2005, cũng là đường quốc lộ số 322 của Trung Cộng với điểm tận cùng giáp với Km0 của QL1 Việt Nam. Một âm mưu mới hơn đang hình thành!).

Như ta thấy, cả một vùng đồi núi của Việt Nam đã bị Trung Cộng ngang nhiên san bằng và xây dựng công trình trong nhiều năm, vẫn không hề có một chút phản ứng nào của bọn cầm quyền CSVN. Hay nói đúng hơn là đã có một sự thỏa thuận nhượng Ải Nam Quan từ hàng chục năm trước?

F5. Ảnh chụp vệ tinh vị trí của Hữu Nghị Quan

Khu vực Hữu Nghị Quan (đóng khung) so với đường biên giới Trung-Việt màu vàng. Ảnh do cựu chiến binh Trung Cộng thiết kế để mô tả lại chiến trận biên giới Trung-việt năm 1979. Lúc này, Hữu Nghị Quan đã nằm sâu trong đất Trung Cộng từ đời…Hồ Chí Minh!

F5.jpg picture by baivietnam


“Con đê đầu khấn lạy Chư Phật mười phương…”
Ải Nam Quan đã mất, Đất thiêng đã mất! Có ai còn nhớ Phi Khanh-Nguyễn Trãi?


Chương II: “Kẻ Bán Ải Nam Quan và Km Zéro ô nhục!”
Chương II

KẺ BÁN ẢI NAM QUAN VÀ KM ZÉRO Ô NHỤC!

Kẻ bán Ải Nam Quan là ai?

Kẻ bán Ải Nam Quan và bán luôn cả cơ đồ dân tộc Việt Nam cho Trung Cộng chính là Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng. Máu bán nước ăn sâu vào từng đời của bọn lãnh đạo CSVN. Để chứng minh rõ ràng những tội lỗi của bọn bán nước buôn dân này vẫn còn những hình ảnh làm tang chứng. Hãy tiếp tục xem …

Giai đoạn 1938-1945, Hồ Chí Minh hoạt động “cách mạng” tại Quảng Tây.

Năm 1945 thực hiện cướp chính quyền tại Việt Nam.

001.jpg picture by baivietnam

Năm 1950 tiếp tục sang Trung Cộng mưu cầu viện trợ vũ khí lương thực kháng Pháp.

(HCM bí mật sang Quảng Tây ngày 16.01.1950. HCM là người trùm khăn đứng thứ hai bên phải hình)

002.jpg picture by baivietnam

Việc qua lại giữa hai Đảng CS Trung-Việt liên tục diễn ra tại cổng Nam Quan. Tháng 10 năm 1953, Chánh Vụ Viện Trung Cộng đổi tên cổng Nam Quan thành “Mục Nam Quan” (chữ “Mục” có nghĩa là: hòa thuận, hòa hợp, thân mật, thân thiết…), đồng thời cả hai chính phủ Trung-Việt thành lập Ủy Ban Cửa Khẩu Mục Nam Quan. Cùng năm, thỏa thuận theo Chánh Vụ Viện Trung Cộng, Việt Nam mở cửa tự do cho hai cửa khẩu Bình Nhi – Nam Quan. Năm 1953 đã có 276.000 lượt qua lại cổng Nam Quan giữa hai bên.

(HCM bang giao với TC tại cổng Nam Quan trong những năm 1950)
003.jpg picture by baivietnam

004.jpg picture by baivietnam

Tháng 2 năm 1954, hai bên chính phủ Hà Nội-Bắc Kinh soạn ra “Hiệp Định Mậu Dịch Biên Giới”.

Ngày 26.09.1954, Hồ Chí Minh dẫn đầu đoàn đại biểu CSVN xuất phát từ cổng Nam Quan tham dự hội nghị tại Nam Ninh.

Ngày 10.11.1954, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao VN là Phạm Văn Đồng đi từ cổng Nam Quan sang Bằng Tường tiếp tục đi Bắc Kinh ra mắt Chu Ân Lai.

005.jpg picture by baivietnam

Ngày 26.02.1955, khánh thành tuyến đường sắt Hà Nội-Trấn Nam Quan. Hồ Chí Minh đọc diễn văn chúc mừng tại cổng Nam Quan.

(HCM và Chu Ân Lai yến tiệc xa hoa tại Bắc Kinh tháng 06.1955)

006.jpg picture by baivietnam

Tháng 12.1958, hai huyện Ninh Minh, Long Tân kết hợp với Bằng Tường (Trấn Bằng Tường) thành lập huyện Mục Nam.

CSVN phản ứng! Ngày 27.04 đến 02.05.1959, Trung-Việt hội nghị vấn đề biên giới tại Bằng Tường. Ngày 10.05.1959, chính phủ Trung Cộng quyết định xóa bỏ đơn vị “huyện Mục Nam”. Ninh Minh, Long Tân , Bằng Tường trở về đơn vị hành chính cũ.

Ngày 04.09.1959, Chu Ân Lai đáp máy bay đến Bằng Tường hội đàm cùng Hồ Chí Minh vấn đề biên giới Trung-Việt.

Năm 1960, Phạm Văn Đồng trồng cây si để làm mốc cho Km0 của Việt Nam.

(Cây si do PVĐ trồng (?) nhìn từ bên phía VN. Vị trí tương ứng với khoảng cách của tường thành cổng Nam Quan cũ bên VN)

007.jpg picture by baivietnam

(Cây si PVĐ nhìn từ bên cổng Hữu Nghị Quan của TC)

008.jpg picture by baivietnam

(Cây si PVĐ nhìn từ trên lầu thành Hữu Nghị Quan. Cụm nhà trắng là Hải Quan TC xây lại trên nền "nhà tròn". Xa thẳm bên kia là cột Km0 hiện tại)

009.jpg picture by baivietnam

Ngày 09.04.1961, Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh “hội đàm” tại lầu 2 của cổ thành Mục Nam Quan. “Hội đàm” về nội dung gì thì cả hai bên đều không công bố. Chỉ biết rằng cuộc “hội đàm” mờ ám tại Mục Nam Quan của hai lãnh đạo cộng sản Trung-Việt được viết trong sách giáo khoa của bọn Trung Cộng là “mở ra một trang sử mới cho quan hệ Trung-Việt”.

(Lầu 2 tại Mục Nam Quan với nguyên trạng cuộc "hội đàm" giữa CÂL và HCM)

010.jpg picture by baivietnam

(Hình ảnh HCM và các lãnh đạo CSTC trưng bầy)

011.jpg picture by  baivietnam

(Bảng vàng ghi lại sự kiện)

012.jpg picture by baivietnam

Ngày 05.03.1965, Quốc Vụ Viện Trung Cộng và chính phủ CSVN cử hành lễ đổi tên “Mục Nam Quan” thành “Hữu Nghị Quan”. Tham dự phía bên Việt Nam có Tổng lãnh sự VN trú tại Nam Ninh và đoàn chính phủ VN đến từ Lạng Sơn.

… Và kể từ sau đó, chính phủ CSVN đã dâng trọn Ải Nam Quan cho Trung Cộng để tiếp nhận viện trợ vũ khí tiến đánh miền Nam-Việt Nam Cộng Hòa.

(Hữu Nghị Quan năm 1965. Biểu ngữ của TC và hình Mao Trạch Đông phơi vào phần lãnh thổ VN)

013.jpg picture by baivietnam

(So sánh với hình ảnh Mục Nam Quan năm 1959. Đoàn đại biểu CSTC lễ phép chụp ảnh tại cổng Nam Quan bên phía VN)

014.jpg picture by baivietnam

(Năm 1966. Công binh xây dựng đường sắt Trung-Việt tại Hữu Nghị Quan tuyên thệ trước khi vào VN làm nhiệm vụ)

015.jpg picture by baivietnam

(Thiết đạo binh: công binh đường sắt TC giả dạng bộ đội VN)

016.jpg picture by baivietnam

(Năm 1966. Quân chính qui TC giả dạng bộ đội VN tuyên thệ tại Hữu Nghị Quan. Hướng về TC đồng thanh hô lớn: "Quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Nguyện mang vinh quang trở về!". Trong ảnh là Sư đoàn 62 Cao Xạ TC)

017.jpg picture by baivietnam

(Tham gia tra tấn tù binh Mỹ tại VN)

018.jpg picture by baivietnam

(Tham gia bắt sống phi công Mỹ tại VN. Người cầm ảnh là cựu chiến binh TC tham chiến tại VN )

019.jpg picture by baivietnam

(Huy chương "Đoàn Kết Chiến Thắng Giặc Mỹ" do chính HCM ký tặng)

020.jpg picture by baivietnam

(Hoặc do PVĐ ban thưởng)

021.jpg picture by baivietnam

(Năm 1968, hai bác Hồ - Mao đi từ Ải Nam Quan cùng mang vũ khí vào gây tang tóc cho dân miền Nam VN)

022.jpg picture by baivietnam

Ngày 18.10.2005, Việt cộng TT Nguyễn Tấn Dũng ra đón khách Trung Cộng ngay tại Km0. Ôi, tư cách của một TT? Hai tay xun xoe chào đón quan thầy Trung Cộng. Không ai trong đám cộng sản thời đại này còn "bản lĩnh" đi qua lại Cổng Nam Quan để đón khách như Hồ Chí Minh của những năm 1950. Vẫn cười đấy! Hèn mọn, bé nhỏ là thế!

040.jpg picture by baivietnam

Ngày 28.12.2005, cao tốc Nam Hữu chính thức khai thông nối vào khởi điểm Quốc lộ 1A của Việt Nam

041.jpg picture by baivietnam
042.jpg picture by baivietnam

Những người dân quê Đồng Đăng bị bắt đứng ra chụp hình ngay tại giao giới biên cảnh Trung-Việt. Họ đứng trên khởi điểm của QL 1A như làm nhân chứng cho lịch sử bán nước của Đảng CSVN. Những khuôn mặt muộn phiền, ngơ ngác.

043.jpg picture by baivietnam

Ngay cả những đứa bé Trung Cộng mù lòa cũng được nắm tay cho sờ vào thành tích của cha ông chúng!

Còn người Việt Nam? Có ai dám cảm tử cầm máy ảnh ra chụp tại khu vực này hay không? Thi nhân Bùi Minh Quốc bị cấm cố vì tấm hình ôm cột mốc Trung-Viêt. Nhà báo Điếu Cày có mấy tấm chụp tại Thác Bản Giốc mà giờ còn nằm trong Chí Hòa. Và tôi cũng từng bị biên phòng VN hành hung khi tay lăm le chiếc máy ảnh nơi vùng biên cảnh "Hữu Nghị"!

044.jpg picture by baivietnam

Khách du lịch Trung Cộng thảnh thơi qua lại, nhàn nhã như ở nhà. Chụp hình ư? Chuyện nhỏ! Đố tên biên phòng VN nào dám làm khó dễ!

045.jpg picture by baivietnam

Bước một bước là qua đến VN! Hai con xẩm trong góc có khung là vị trí của Km0 Ô nhục!

046.jpg picture by baivietnam

Đứng hai chân trên biên giới!

047.jpg picture by baivietnam

Chụp các kiểu!

048.jpg picture by baivietnam

Và ngồi lên "Km0" của bọn Nam man! Chúng ta là chủ nhân của lãnh thổ VN!

049.jpg picture by baivietnam

Hải quan hai bên Trung-Việt trao đổi công tác tại Km0 (tháng 04.2007)

050.jpg picture by baivietnam

Những hoạt động của Trung Cộng tại Ải Nam Quan ngày càng rầm rộ, hoành tráng. Từng đợt học sinh trên các miền được đưa về Hữu Nghị Quan để nghe giáo dục về lòng yêu nước!

051.jpg picture by baivietnam

Cựu chiến binh trong chiến trận biên giới Trung-Việt hành hương

052.jpg picture by baivietnam

Thế hệ nào của Việt Nam sẽ được tường tận sự ô nhục này. Việc đòi hỏi Trung Cộng trả lại vùng đất thiêng của tổ quốc Việt Nam không phải dễ dàng! Sẽ lại đổ máu như hàng trăm năm trước!

"Tổ Quốc Tại Ngã Tâm Trung" (Tổ quốc trong tim ta)

053.jpg picture by baivietnam

054.jpg picture by  baivietnam

Tháng 11 năm 2007, kỷ niệm 50 năm thành lập khu tự trị Quảng Tây. Có cả đại biểu VN tham dự, ngồi trên mảnh đất tổ tiên bị ngoại bang xâm chiếm không biết họ nghĩ gi? Hay là họ vẫn cười?

055.jpg picture by baivietnam

056.jpg picture by baivietnam

Vận động trong sạch môi trường biên cảnh Trung-Việt.
Bản đồ VN đã nối vào khu tự trị Quảng Tây!

057.jpg picture by baivietnam


...Và rất nhiều hình ảnh khác nữa nhưng tôi sẽ tiếp tục dành cho "Chương III: Du lịch Hữu Nghị Quan"

Phi Khanh hỡi! Người còn ngồi nói những lời xưa?

"Con yêu hỡi chớ xuôi lòng mềm yếu!..."

Chân Mây


Sunday, June 28, 2009

Một Lũ Khôn Nhà Dại Chợ! - Lê Minh

Lê Minh

Trong những năm gần đây, số lượng công nhân Trung Quốc đến Việt Nam làm việc ngày càng đông. Hệ quả là đã dẫn đến nhiều vụ ẩu đả, đánh người Việt Nam và xem thường công an, chính quyền tại địa phương. Theo bản tin ngày hôm qua trên VietNamNet thì hàng trăm công nhân Trung Quốc đã “quậy tưng” ở khu vực chung quanh công trường dự án dây chuyền 2 Nhà máy xi măng Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Vụ việc mà các phóng viên của VietNamNet tường trình thật ra đã xảy ra từ 6 tháng về trước. Đó là ngày 28/12/2008, hôm đó có trận bóng đá chung kết giải AFF giữa Việt Nam và Thái Lan. Theo vợ chồng anh Nguyễn Văn Len và chị Lê Thị Nghị, là người trực tiếp can dự vào vụ này kể lại thì sau khi tan trận bóng đá hôm đó có 6 công nhân Trung Quốc vào quán mua thuốc lá, bóc ra nhưng không trả tiền, rồi xô xát với chị Nghi là vợ của anh Đen.

Bước vô nhà thấy có một nhóm khách 6 công nhân Trung Quốc bóc gói thuốc ra mà không trả tiền lại còn xô xát với vợ mình nên anh Đen phải đuổi bọn người này ra khỏi quán. Ngay lập tức bọn người này nhảy vào đánh luôn anh Đen. Do đó hai vợ chồng anh buộc phải dùng gậy đuổi bọn người này ra ngoài.

Nhóm người này sau đó đã quay trở lại với một lực lượng lên đến 40 người. Thấy thế anh Đen liền cầu cứu hàng xóm, nhưng bọn người này hung hãn, đánh vợ chồng anh và cả hàng xóm. Chưa dừng ở đó, nhóm công nhân đã tăng cường thêm lực lượng lên đến 200 người, ngăn chận các ngõ ra vào của xóm, đánh đập những người thân trong gia đình anh Đen, cũng như tất cả những ai là người Việt Nam mà chúng bắt gặp. Cửa kính của các nhà dân trong khu vực này đều bị chúng đập vỡ, nhà cửa bị phá phách.

Chi Dương Thị Đào, một hàng xóm của anh Đen thuật lại: “Hễ nhà ai cửa mở hoặc đèn sáng là bọn chúng vào đập phá hết”. Chị Đào Thị Minh cũng cho biết khi ấy vì nhóm công nhân TQ này quá đông, cho nên “ai ra đường thấy chúng đều phải chạy, chứ không dám chống lại,...”.

Đoạn video của VietnamNet cho thấy cảnh hàng trăm công nhân Trung Quốc ùa ra đường, tay cầm gậy gộc cuốc xẻng đập phá mọi thứ. Những cảnh chiếu hiện trường sau khi công nhân Trung Quốc rút đi cũng cho thấy một quang cảnh tang hoang, nhà cửa đồ đạc tan nát.

Đêm 28/12/2008: hàng trăm công nhân Trung Quốc tại công trình nhà máy xi măng Nghi Sơn ùa ra đường trang bị gậy gộc đập phá, đánh đập người đi đường ... hò hét, xông vào nhà dân đập phá. Đó chỉ là một trong nhiều vụ việc lộn xộn do công nhân Trung Quốc gây ra tại đây, vì theo lời của Thượng tá Nguyễn Như Thân, Phó phòng an ninh kinh tế Công an tỉnh Thanh Hoá cho biết còn có nhiều vụ việc nghiêm trọng xảy ra trước đó nữa. Ông Thân tiết lộ vào ngày 24/09 năm ngoái, bên trong công trường do nhà thầu Trung Quốc quản lý đã bắt được 2 kẻ trộm là người địa phương. Khi được thông báo sự việc, công an từ đồn Nghi Sơn đã đến để giải giao 2 kẻ trộm về đồn lấy khẩu cung. Tuy nhiên nhà thầu Trung Quốc đã không giao người mà còn đưa ra hơn 50 công nhân để trấn áp lực lượng công an đồn Nghi Sơn, đòi hỏi phía công an phải làm theo yêu cầu của phía công nhân Trung Quốc (không nghe ông Thân cho biết là phía công nhân Trung Quốc đã yêu cầu gì).

Tiếp đến vào tháng 11/2008, có một số người Việt Nam ở địa phương trèo rào vào bên trong công trình để đánh cắp sắt thép, đã bị phát hiện và bị công nhân Trung Quốc vây bắt, đánh đập. Mặc dầu phía công an địa phương có yêu cầu giao người để giải quyết nhưng nhà thầu Trung Quốc đã tự xử bằng cách trói chặt và treo những người này lên cổng, để qua đêm rồi mới thả ra.

Một vụ việc khác được ông Thân kể lại là vào tháng 4 năm nay, trong lúc những công nhân của Tổng Cty Xây dựng Hà Nội đang thao tác lắp đặt ở bên trên dàn giáo, và bên dưới là các công nhân của Cty vật liệu xây dựng CNBM (Trung Quốc) đang thi công lắp đặt thiết bị cơ, điện ở bên dưới thì một công nhân VN lỡ đánh rơi một sợi dây thừng, khiến cho một công nhân Trung Quốc giật mình, ngã người ra phía sau, khiến người công nhân này bị xây sát nhẹ. Ngay sau đó, người công nhân Trung Quốc bị thương nhẹ đã được Tổng Cty Xây dựng Hà Nội đưa đến bệnh viện điều trị, kể cả mọi chi phí khác. Tưởng chỉ dừng ở đó, phía nhà thầu Trung Quốc đã yêu cầu phải bồi thường thêm cho công nhân này $1,200 Tệ nữa nhưng phía Tổng Cty Xây dựng Hà Nội đã từ chối. Ngay lập tức nhà thầu Trung Quốc đã huy động toàn thể công nhân, với ống tuýp sắt trong tay bao vây ban quản lý dự án của Tổng Cty Xây dựng Hà Nội,...

Tình trạng công nhân Trung Quốc ngông nghênh, quậy phá đã diễn ra tại hầu hết các địa phương có nhà thầu Trung Quốc làm việc.

Tại công trường xây dựng nhà máy xi măng Công Thanh huyện Nhơn Trạch cũng liên tiếp xảy ra nhiều vụ lộn xộn. Sau giờ làm việc, các công nhân Trung Quốc ghé vào các quán cafe, quán nhậu ở đây. Từ đó đã xảy ra nhiều vụ ẩu đả huyên náo giữa công nhân Trung Quốc và người Việt Nam. Chủ một cửa hàng tạp hoá và dịch vụ cho thuê xe gắn máy ngay trước nhà máy xi măng Công Thanh kể: “Có bữa mẹ tôi cho một công nhân Trung Quốc thuê xe với giá 50.000 đồng/ngày. Anh ta đi liền 3 ngày mới về nhưng không chịu trả tiền mà còn tính đập phá xe của tôi. Thấy vậy, tôi giảm giá xuống còn 100.000 đồng cho cả 3 ngày nhưng anh ta vẫn không chịu, quay lại đánh cả tôi, đuổi tôi chạy lòng vòng khắp nhà…”. Công nhân Trung Quốc thuê xe máy chở 3 không đội mũ bảo hiểm, đụng vào dân địa phương rồi bỏ chạy. Khi bị chặn lại thì bọn họ lại hùng hổ đuổi đánh dân, gây náo loạn cả khu vực.

Mới đây một nhóm công nhân Trung Quốc đã đem thuốc lắc đến một quán Karaoke ở phường Ninh Xá, TP Bắc Ninh mở nhạc lớn, nhảy nhót giữa đêm khuya, gây náo động cả một khu vực. Tuy Công an TP Bắc Ninh có đến làm việc, đưa nhóm người này về đồn, nhưng sau đó đã thả ra mà không xử lý gì cả.

Hôm 21/6, một nữ lao công VN tại khu đô thị Mỹ Đình 1, khi vừa vào thang máy để làm việc thì bị một tên công nhân Trung Quốc nhảy tới ôm chặt và toan tính dở trò đồi bại. May nhờ lanh trí, bấm nút mở cửa thang máy nên chị đã thoát nạn. Tên dâm tặc này bị bắt sau đó, nhưng không nghe nói công an đã xử phạt tên này như thế nào.

Trên đây chỉ là một số hệ lụy “nhỏ” từ sự hiện diện của hàng ngàn công nhân Trung Quốc tại một số công trình trên đất Việt Nam hiện nay. Thử hỏi, khi dự án Bauxite ở Nhân Cơ, Đắc Nông bắt đầu với khoảng 5-6 ngàn công nhân Trung Quốc hiện diện tại địa phương này thì các tác động xã hội vào môi trường chung quanh sẽ như thế nào. Đó là chưa kể đến mối nguy về an ninh quốc phòng mà các nhân sĩ trong và ngoài nước đang lên tiếng báo động.

Có một điều lạ là chuyện công nhân Trung Quốc đập phá ở Nghi Sơn, Thanh Hóa đã xảy ra từ 6 tháng trước mà cho đến nay mới được đem lên báo la sao? Còn một điều lạ nữa là khi những công nhân Trung Quốc làm những công việc phổ thông này “quậy tưng” tại địa phương nơi họ làm việc thì không mấy khi thấy công an xuất hiện nhanh chóng để “bắt khẩn cấp” cho người dân nhờ. Trong khi đó, đối với người dân trong nước thì công an lại thẳng tay đàn áp dã man, không từ nan bất cứ thủ đoạn gì, cho dù đó là những người trí thức yêu nước nồng nàn.

Thấy những cảnh này mới ngán ngẩm cái nhà nước CSVN và công an đúng là một lũ khôn nhà dại chợ!

Lê Minh

TƯƠNG QUAN GIỮA VĂN HÓA VÀ CHÍNH TRỊ - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh
Nguồn: http://hoivanhoanguoiviettudo.com/

Bài nói chuyện trực tiếp của Đinh Lâm Thanh trên diễn đàn Paltalk ‘ Người Dân Việt Nam Với Hiện Tình Đất Nước’ vào ngày thứ Ba, 23 tháng 6 năm 2009, lúc 18,00 giờ (Paris), 9,00 AM (Californa), 11,00 AM (Houston), 12,00 AM (Washington DC) và 12,00 giờ đêm tại Việt Nam.

Kính thưa Quý Vị,

Trước tiên xin kính chào ban điều hành cũng như thính giả của Diễn Đàn ‘Người Dân Việt Nam Với Hiện Tình Đất Nước’ đang theo dõi chương trình ngày hôm nay. Ban điều hành diễn đàn đã giới thiệu sơ qua về cá nhân tôi, để khỏi mất thời gian, tôi xin phép không lặp lại và hôm nay, lần đầu tiên tôi rất hân hạnh xuất hiện trên diễn đàn nầy.

Kính thưa Quý Vị, đáp lời mời của ban tổ chức, tôi nhận lời cộng tác, bằng cách góp một vài ý kiến thô sơ và hạn hẹp trong khả năng của tôi vào mỗi THỨ BA hàng tuần, giờ giấc giống như ngày hôm nay. Mỗi kỳ tôi xin phép trình bày những đề tài khác nhau, như đề cập đến Chính Trị, Văn Hóa và những chuyện Thời Sự có liên quan đến Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại cũng như ở quê nhà. Đây là những ý kiến của tôi, nếu có gì sai sót thì tôi sẽ chịu trách nhiệm về những gì mà tôi phát biểu. Cũng như tôi đã trình bày ở trên, đây chỉ là những ý kiến thô sơ và nông cạn, tôi kính mời tất cả Quý Vị vào hướng dẫn và giúp đở để cá nhân tôi được thông suốt thêm đồng thời phục vụ thính giả càng ngày càng đắc lực.

Đến với quý vị lần nầy để mở đầu chương trình hàng tuần, tôi hân hạnh trình bày đề tài ngày hôm nay: Tương Quan Giữa Văn Hóa Và Chính Trị.

Sau khi dứt bài, tôi sẽ rất hân hạnh đón tiếp ý kiến của Quý vị.

Kính thưa Quý Vị,

Gần đây nhiều nhà trí thức cũng như một vài tổ chức văn học nghệ thuật đã lên tiếng kêu gọi rằng hoạt động văn hóa phải hoàn toàn tách khỏi môi trường chính trị. Vừa nghe qua thì đúng, là văn hóa phải vượt ra ngoài tất cả xung đột ý thức hệ. Nhưng nếu để ý suy nghĩ, chủ trương nầy xuất phát từ nhà nước Việt Nam, thì đây chính là một âm mưu chính trị được đưa ra để ru ngủ cộng đồng người Việt hải ngoại không ngoài mục đích để phục vụ chế độ mà nhiều diễn đàn, hội văn hóa thường lên tiếng cổ võ. Cộng sản Việt Nam ra lệnh cho các cơ sở thuộc các tổ chức văn hóa của Hà nội ở nước ngoài nhằm thi hành nghị quyết 36. Tuy nhiên trong đó có nhiều nhà trí thức, các hội đoàn văn hóa đã cố ý hoặc vô tình lên tiếng ủng hộ cổ võ và cho âm mưu ru ngủ người Việt tự do ở hải ngoại.

Tôi đồng ý rằng, nền văn hóa của một dân tộc phải vượt lên tất cả những vướng mắc nhất thời, nếu loay hoay vào những biến chuyển chính trị để tìm một hướng đi cho văn hóa, thì có thể chúng ta đã bước ra ngoài mục tiêu tốt đẹp nhằm phục vụ con người. Nhưng đó chỉ là lý thuyết, dù trong thời bình và dưới ảnh hưởng tự do dân chủ của một quốc gia đã có sẵn nền tảng văn minh vững chắc, tôi nghĩ rằng đôi lúc cũng không thể tách chính trị và vănhóa ra làm hai lãnh vực riêng biệt. Huống gì so với hiện tình đặc biệt của chúng ta, một đất nước cai trị bởi Cộng sản và dân tộc bị phân hóa làm hai với hai nền văn hóa chống đối nhau thì vấn đề tách rời chính trị ra khỏi văn hóa không thể xảy ra.

Thật vậy, lãnh vực văn hóa và chính trị của một dân tộc bị phân hóa làm hai bởi một cuộc chiến tranh ý thức hệ không ranh giới - như trường hợp Việt Nam của chúng ta - thì hai lãnh vực nầy cần phải được kết hợp, dung hòa đồng thời bổ túc lẫn nhau để bảo vệ và phát triển nền văn hóa nhân bản hầu đưa đời sống con người đến Chân Thiện Mỹ.

Một câu hỏi: Vậy dựa vào chế độ chính trị để làm nền tảng phát triển văn hóa, hay, cần phải dùng văn hóa để cãi tạo chế độ và xây dựng xã hội ?

Câu hỏi có hai phần:

- Thứ nhất: Cộng sản Việt Nam đã dựa vào chính trị để phát triển nền văn hóa đỏ, nghĩa là cộng sản Việt Nam đã dùng bao tử, kẽm gai, súng đạn và nhà tù để áp đặt lên đầu lên cổ người dân Việt Nam một nền văn hóa phi dân tộc, phi gia đình, phi đạo lý nhằm nhồi sọ và biến con người thành những thiêu thân dốt nát và sa đọa … để còn con đường ngoan ngoãn phục vụ chế độ để được no cái bao tử.

- Thứ hai: Cả dân tộc đã trên 60 năm bị cai trị bởi một chế độ tàn bạo, xã hội đảo lộn, đạo lý không còn, tình người thui chột và dân trí càng ngày càng mất thì cần phải tận dụng văn hóa để cãi tạo chế độ và xây dựng xã hội hay không ?

Và tôi xin trả lời ngay:

Đối với tình trạng đất nước chúng ta hiện nay, ngụy quyền Hà Nội đã dùng thủ đoạn chính trị để phát triển văn hóa đỏ hầu cai trị dân tộc Việt Nam là một âm mưu thâm độc của cộng sản mà tất cả chúng ta đều thấy. Vấn đề thứ hai là chúng ta cần phải xử dụng văn hóa nhân bản để đánh đổ chế độ cộng sản và xây dựng lại xã hội là một điều bắt buộc.

Như vậy, dù nói cách nào thì văn hóa và chính trị là hai hành động lúc nào cũng phải liên quan mật thiết với nhau. Đất lành sinh trái ngọt hoặc nói ngược lại, cây tốt khó mọc từ bùn dơ. Một chế độ chính trị tốt tự nhiên sẽ nẩy sinh một nền văn hóa tự do nhân bản và ngược lại một nền văn hóa nô bộc chắc chắn sẽ đưa chế độ càng ngày càng thêm độc tài thối nát. Do đó không thể kết luận rằng văn hóa phải tách khỏi ảnh hưởng chính trị.

Trước khi đề cập đến hai nền văn hóa riêng biệt cũng như hai khuynh hướng chính trị đối lập của cộng sản Việt Nam tại quốc nội cũng như người Việt Quốc Gia hải ngoại, xin quý vị đừng đơn giản hóa và đóng khung hai danh từ ‘văn hóa’ cũng như ‘chính trị’ trong một nghĩa hạn hẹp, mà đề nghị có một quan niệm bao quát rộng lớn hơn.

Như vậy không thể hạn chế hoạt động văn hóa của một dân tộc hoàn toàn nằm trong phạm vi văn chương, ngôn ngữ và nghệ thuật mà cần phải đề cập đến những vấn đề khác từ tình yêu quê hương, lịch sử lập nước và giữ nước, truyền thống anh hùng, phong tục tập quán đến tôn giáo, y phục, ẩm thực. Cũng vậy, đối với hành động chính trị, không nên gò bó bằng những hình thức bên ngoài như hội họp, xuống đường, biểu tình, hội thảo hay đóng góp tiền bạc giúp quê nhà mà phải nghĩ đến mục đích tối hậu của những hành động trên là phải tạo một tinh thần yêu nước, thương đồng bào, hướng về tổ quốc và lo cho đất nước trong tương lai. Vậy để được khách quan cần nghiên cứu những chi tiết và nhiều lãnh vực khác nhau trong đường hướng phục vụ đời sống tinh thần lẫn vật chất của con người để những người làm chính trị có một lối nhìn bao quát hơn. Đối với hành động văn hóa, nhất là hoàn cảnh chúng ta hiện giờ, cũng cần phải nới rộng phạm vi hoạt động ra, song song với các chương trình tranh đấu, xây dựng, bảo vệ lý tưởng, sự toàn vẹn quê hương và hạnh phúc của nhân dân Việt Nam để những suy nghĩ của người làm văn hóa khỏi bị lệch lạc.

Đề cập đến vấn đề văn hóa và chính trị của Việt Nam trong và ở hải ngoại, trước cũng như sau 1975 thì thật không đơn giản. Từ việc thay đổi chế độ và nền văn hóa đỏ được cộng sản áp đặt trong nước đến môi trường tự do Âu-Mỹ đã ảnh hưởng đến việc bảo vệ văn hóa cổ truyền tại hải ngoại là những ưu tư của những người hằng quan tâm đến vận nước và gia tài văn hóa dân tộc.

Chúng ta không thể khách quan xem việc bảo tồn văn hóa Việt Nam một cách đơn giải như trong thời bình và dưới một chế độ tự do dân chủ, vì nền văn hóa của tổ tiên để lại đã bị đổi chiều trong quốc nội và đang bị phá sản tại hải ngoại. Do đó việc bảo tồn văn hóa của chúng ta không thuận buồm xuôi gió mà phải đương đầu trực diện với trước một cuộc chiến khốc liệt, không ranh giới, không quy ước. Đó là cuộc chiến ý thức hệ giữa Tự Do và Cộng Sản mà văn hóa của hai chế độ chính là vũ khí để đối đầu với nhau.

Nếu xét về lượng, trận chiến hiện nay giữa ta và địch không cân xứng cả chính trị lẫn văn hóa. Cộng sản đã dốc toàn lực của một kẻ liều mạng để ăn thua đủ trong giai đoạn quyết liệt một mất một còn với chúng ta. Hà Nội đã tung hết khả năng, từ vật lực đến nhân lực, đánh một lượt hai mặt chính trị lẫn văn hóa vào cộng đồng người Việt Quốc Gia. Cộng sản đã xử dụng môi trường văn hóa làm bàn đạp cho thế chính trị, hai mặt trận phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ với nhau. Nhưng nói về phẩm thì chúng ta vượt hẳn cộng sản, vì văn hóa chúng ta dựa trên nền tảng chính nghĩa, bắt nguồn từ tính nhân bản của con ngưòi và dùng văn hóa để phục vụ con người từ tinh thần đến vật chất. Nhưng đáng tiếc là cộng đồng chúng ta trong thế bị động và chỉ có chống đở, chắp vá và chỉ ra quân mỗi khi bị đánh thì dù phẩm tốt nhưng không tận dụng sẽ bị mai một. Lượng đã yếu mà còn bị một số ít nhà trí thức, nhiều tổ chức hải ngoại kêu gọi loại bỏ yếu tố chính trị ra ngoài việc phát triển và bảo tồn văn hóa, như vậy là chúng ta đang bị những thành phần đón gió cò mồi lừa vào con đường hỏa mù mà cộng sản đã dương ra. Nếu chúng ta thiếu lý tưởng, không có tinh thần để chống đở để bảo tồn và phát triển văn hóa cổ truyền dân tộc Việt Nam trước mà đợi chuyện xảy ra rồi mới tìm cách chống đở thì xem như chưa đánh đã thua!. Trước một đối thủ dư thừa nhân-vật-lực cộng thêm những thủ đoạn tráo trở gian manh, nếu chúng ta không ít phương tiện, thiếu sáng suốt lại không đề phòng thì chắc chắn chúng ta sẽ đi vào con đường hỏa mù và là kẻ chiến bại trên mặt trận văn hóa.

Hoạt động văn hóa không thể thuần túy và đơn giản như kêu gọi giới trẻ theo lớp học tiếng Việt, nghe một buổi thuyết trình hay đọc vài cuốn sách là xong việc bảo tồn và phát triển văn hóa như chương trình của một vài tổ chức đề ra. Nếu chỉ có thế thì không khác gì chúng ta mời giới trẻ đến xem một cuộc triển lãm, nghe một chương trình ca nhạc xong rồi ai về nhà nấy và như vậy thì làm văn hóa trong tình hình chính trị hiện nay không đi đến đâu. Điều quan trọng là phải biết tạo cho mọi người, nhất là thành phần trẻ có một tinh thần yêu nước, biết đâu là nguồn gốc dân tộc, đâu là lịch sử oai hùng, đâu là di sản của tổ tiên. Phải làm thế nào cho thế hệ trẻ hiểu được nỗi khổ tâm kẻ ra đi cũng như cảm thông thân phận của người ở lại, phải biết đâu là gian tà, đâu là chính nghĩa và đâu là con đường phải chọn để giữ được bản chất của một người Việt Nam lưu vong hầu mai kia còn quay về phục vụ dân tộc.

Vậy, trước các chương trình đầu độc ru ngủ qua văn hóa của Cộng sản, chúng ta cũng phải mượn con đường chính trị để phát huy tính chất nhân bản chống lại văn hóa vô sản, dùng tôn giáo đối đầu văn hóa vô thần và lấy tình người cãi tạo văn hóa loài thú !

Trong lúc địch ru ngủ chúng ta bằng văn hóa đỏ mà những người trong cộng đồng làm văn hóa bằng hình thức thụ động, chống đở hoặc chạy theo chiêu bài ‘loại chính trị ra khỏi văn hóa’, thì chúng ta đã thấy trước mắt, cộng sản đã nắm thế thượng phong và chúng ta chỉ là những người chạy theo phản đối chắp vá những hậu quả đã xảy ra. Một điều thiết yếu là trong hoàn cảnh hiện tại chúng ta không thể tách rời ‘chiến tranh văn hóa’ ra khỏi ‘chiến tranh chính trị’, hai mặt trận phải song song hổ trợ lẫn nhau để đối đầu với âm mưu của Cộng sản. Xin nhớ rằng, chúng ta đang ở trong cuộc chiến của hai nền văn hóa nhân bản và văn hóa vô sản mà kẻ thù với khả năng dư thừa có sẳn đang lấn áp chúng ta trên mọi lãnh vực. Nếu những nhà làm văn hóa không tiếp tay với Cộng đồng Người Việt Quốc Gia thì đừng lên tiếng đòi hỏi loại bỏ yếu tố chính trị ra ngoài vòng chiến, vì thái độ và hành động nầy không khác gì việc nối giáo cho giặc, phá hoại công cuộc tranh đấu chung của toàn thể dân tộc Việt Nam hiện nay.

Xin chân thành cám ơn Quý Vị.

Đinh Lâm Thanh

Nguồn: http://hoivanhoanguoiviettudo.com/

Saturday, June 27, 2009

Ác quỷ của thế kỷ


Ăn Thai Nhi
3000 Nhân Dân Tệ (1 đô la = 8 NDT)

Các thương gia Đài loan ở Quảng đông gần đây loan truyền một trào lưu bồi bổ rợn tóc gáy - Canh thai nhi. Chỉ cần 3-4000 nhân dân tệ là có thể thưởng thức món canh cực bổ làm từ thai nhi 6-7 tháng tuổi, được các thương gia Đài loan ví như "tráng dương thượng phẩm".

Đài thương họ Vương - chủ một nhà máy ở Dong Wan - tự nhận là thường khách của canh thai nhi, cho biết: "Thai nhi độ mấy tháng tuổi, cộng thêm ... (một số vị thuốc Đông y không dịch được), hầm trong 8 tiếng rất có tác dụng bổ khí, dưỡng huyết". Ôm một gái bao 19 tuổi người Hồ Nam, ông Vương dương dương tự đắc nói: "Với độ tuổi 62 như tôi, mỗi tối đều có thể làm một lần (make love), chính là nhờ tác dụng của nó".

Thấy vẻ mặt ký giả đầy hoài nghi, ông ta bèn tự nguyện dẫn ký giả đi "mở mang kiến thức".
Trạm đầu tiên, ông ta dẫn ký giả đến thành phố Fo Shan (Phật Sơn) tỉnh Quảng đông, tìm đến nhà hàng ăn canh thai nhi, không may ông chủ Lý nói: "Xương sườn (ám ngữ chỉ thai nhi) không dễ kiếm, hiện tại không có hàng. Loại này không thể để đông lạnh, phải ăn tươi mới tốt".

Ông chủ Lý cho chúng tôi biết, nếu thực sự muốn ăn, "có một đôi vợ chồng ngoại tỉnh đến làm thuê, hiện đang có bầu 8 tháng, vì đã có 2 con gái nên nếu lần này lại là con gái thì có thể ăn được".

Ký giả vẫn bán tín bán nghi, điều tra phỏng vấn mất mấy tuần mà vẫn chỉ đựơc nghe mà chả được nhìn tận mắt, đã tưởng phải bỏ cuộc, nào ngờ mấy ngày sau ông Vương gọi điện thoại báo: "Tìm được hàng rồi, tiết trời đang chuyển lạnh, có mấy người bạn đang muốn đi bồi bổ".

Ông ta dẫn ký giả đến Đài Sơn, tìm đến nhà hàng, ông chủ họ Cao dẫn cả đoàn chúng tôi xuống bếp "khai nhãn giới".

Nhìn cái xác thai nhi chỉ nhỏ bằng con mèo con nằm trên cái thớt, ông Cao hơi ngượng ngùng nói: "5 tháng tuổi, hơi nhỏ một chút".

Ông Cao nói rằng cái xác thai nhi nữ này do một người bạn kiếm được dưới nông thôn, ông ta không muốn tiết lộ giá mua vào, chỉ nói rằng giá cả phụ thuộc vào tháng tuổi và sống hay chết.

Ông Vương cũng nói thêm, ăn một bữa hết 3500 tệ, các chi tiết khác ông không quan tâm.

Ký giả nghe mọi người nói, thai nhi chết do lưu sản hoặc phá thai được bán cho người môi giới khoảng vài trăm tệ, nếu là thai nhi sống đẻ thiếu tháng thì giá khoảng 2000 tệ, coi như mua làm con nuôi. Khi thai nhi được giao cho nhà hàng thì đều đã chết, còn chuyện trước đó là thai sống hay thai chết thì không quan trọng.

Bữa canh bổ này ký giả không có gan nếm thử, sau khi tham quan nhà bếp xong rất lâu không ăn đựơc gì, bèn giả vờ ốm cáo lui.

Các món ăn đều làm từ thai nhi nữ. Đây phải chăng là tác hại của chính sách một con, hay là do tập tục thích bồi bổ của người Trung Quốc?.

Thai nhi trước khi bị mổ, xẻ, chặt, cắt để làm thành món ăn
Thai nhi đang bị mổ, xẻ, chặt, cắt để đem nấu thành món ăn

Thai nhi đang bị mổ, xẻ, chặt, cắt để đem nấu thành món ăn

Thai nhi đang nằm trên thớt để chuẩn bị mổ, xẻ, chặt, cắt để đem nấu thành món ăn

Thai nhi đươc rửa bằng rượu cho khỏi tanh mùi máu
trước khi bị mổ, xẻ, chặt, cắt để đem nấu thành món ăn


Thai nhi trong chậu rửa cùng cái nhau chưa được cắt bỏ


Thai nhi được nấu với thuốc bắc, những thằng mọi rợ chinese
cho rằng món ăn nầy sẽ giúp chúng có nhiều sinh lực trong việc làm tình
(strong sexual ability)


Thai nhi đang được con ác quỷ cho vào nồi để nấu

Đây là món soup thai nhi sau khi được nấu chín và chuẩn bị đem ra phục vụ cho khách
(những con ác quỷ của thế kỷ)

Thai nhi sau khi nấu chín và được cắt ra từng miếng trong dĩa

Con ác quỷ của thế kỷ đang thưởng thức món thai nhi tuyệt vời



Hồi ký của Mai Thy

Vào thời thập niên 60-70, ở Saigon, những rạp hát như Rex, Eden thường hay trình chiếu những cuốn phim Ngoại Quốc như: Ben Hur, Samson Dalida v.v... Những nam minh tinh màn bạc có thân hình như tượng đồng những bắp tay cuồn cuộn, vòng vai, vòng ngực nở rộng, bắp thịt bụng rắn chắc hiện thành 6 múi.. có thể che chở và chống lại những bão táp phong ba đến với họ, đã làm cho tôi ngưỡng mộ những người hùng trong những cuốn phim đó. Không biết có phải tôi bị lậm phim ảnh quá không?

Có lẽ ước mộng của tôi về người yêu của mình cũng giống như bao cô gái khác, ở vào tuổi mới lớn. Nhưng sự mơ ước của mỗi người đều khác nhau về đối tượng của mình. Ước mộng của tôi tuy rất bình thường, nhưng hơi khó thực hiện.

Một hôm, tôi đi vào nhà sách Khai Trí để tìm mua vài cuốn sách Văn Phạm Anh Ngữ để trau dồi thêm cho phần Anh Văn, tôi rất say mê đọc sách đủ loại truyện và mê học Sinh Ngữ từ nhỏ, nên tôi đã ghi tên đi học thêm ở Hội Việt Mỹ và London School, mong là sau khi tốt nghiệp Văn Khoa môn Sinh Ngữ tôi sẽ có cơ hội đi du học Mỹ Quốc.

Trong thời gian này tôi cũng có ghi tên học Trường Quốc Gia Âm Nhạc với nhiều bộ môn: Ca Kịch Cổ Nhạc, Tân Nhạc, và Chèo Cổ Bắc Phần. Ba tôi thì rất mê nghe tôi hát chèo lắm, vì ông là người Bắc.

Tôi lướt qua kệ sách của những nhà văn Việt Nam, tôi thấy tên của một nhà văn nghe hơi lạ: Võ Hà Anh & Dung Saigon, tôi bèn cầm lên, đọc thử xem họ viết gì nào. Ồ! Ông ta đang nói về sự huấn luyện gian khổ của Người Nhái. Nhưng mà Người Nhái là ai vậy? Họ như thế nào? Lúc đó tôi chưa thể mường tượng được Người Nhái, sao không giống như những sự tập luyện của những binh chủng khác mà chúng ta thường thấy ở những Quân Trường? Tôi đang đọc say sưa, quên cả việc vào tìm mua những cuốn sách Anh Văn mà tôi đã dự tính lúc ban đầu, thì có tiếng cô bán hàng hỏi:

- Cô có thích cuốn đó không? Cô có mua không?

Tôi vội gật đầu và nói:

- Dạ! Mua chứ!

Chắc cô ta để ý thấy tôi đứng đọc lâu quá! Chắc sợ tôi coi chùa. Tôi tìm mua thêm vài cuốn sách Văn Phạm và vội về nhà ngay để đọc tiếp đoạn hấp dẫn của cuốn sách vừa rồi…!!

Năm 1966, tôi đã được xem diễn hành Ngày Quân Lực 19 tháng 6 của tất cả các Quân Binh Chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Tôi cũng có ý muốn chờ xem Người Nhái ra sao, và tôi đã thấy đoàn diễn hành của Liên đội Người Nhái, trang phục rất lạ ngồi trên chiếc xuồng cao su, còn chiếc xuồng khác thì các anh thân hình trần không áo, màu da sạm nắng, hàng đứng bốn thanh niên với thân hình lực sĩ giống như tôi thường thấy trong những cuốn phim mà tôi đã kể ở trên, mình trần, quần short vàng, da sạm nằng bóng như những tượng đồng đen, tay cầm khẩu Tiểu Liên trông thật oai hùng.

Kể từ đó, tôi bắt đầu mơ màng về Người Nhái, nhưng làm sao mình có thể quen và được tiếp xúc với họ. Nhưng rồi thòi gian đi qua tôi không còn ở tuổi mơ mộng đó nữa, nhưng vẫn cứ mộng mẫu người trong mơ!

Tôi đang cố gắng hoàn tất chương trình Văn Khoa và song song trong thời gian nầy tôi cũng vẫn tiếp tục học Anh Văn để thực hiện ước mộng của mình.

Nhưng, ước vọng của tôi không thể thực hiện được! Vì Ba tôi đã mất trong khoảng thời gian nầy, nên ước vọng của tôi cũng tan theo, tôi phải nghỉ học để đi làm, nhưng không dám thi vào làm trong Tòa Đại Sứ Mỹ, (vì lúc còn sống, Ba tôi sợ tôi sẽ lập gia đình với người Mỹ nếu vào làm việc trong đó).

Vì tình trạng gia đình đang gặp khó khăn sau khi Ba tôi là cột trụ của gia đình đã về miền vĩnh cửu, tôi bắt đầu bước vào ngành ca hát. Tôi xin vào hát những Phòng Trà ở Saigòn vào mỗi tối, và vừa đi làm việc trong Đoàn Văn Nghệ Hoa Tình Thương. Trong Đoàn công việc cũng nhàn nhã, mỗi tháng chỉ đi công tác xa một lần. Đoàn văn nghệ chúng tôi đi viếng thăm, trình diễn văn nghệ giúp vui cho các anh quân nhân trên bốn vùng chiến thuật, đến những nơi tiền đồn hẻo lánh và những vùng duyên hải xa xôi…

Có những vùng mà chúng ta nghe địa danh cũng đã thấy não nuột rồi, đó là Dãy Phố Buồn Thiu. Trực thăng chở chúng tôi lướt qua vùng miền Trung nghèo nàn nầy, trên một vùng rộng mênh mông cát vàng như sa mạc, giáp cận bờ biển, cây cối không sống nổi với vùng đất cát khô cằn nầy.

Giữa vùng cát vươn lên một dãy phố chợ dài khoảng 10 căn, với vài căn nhà lợp tôle rải rác . Nơi đây bán toàn là hải sản được đem về từ biển cả.. Nhìn cảnh vật đìu hiu đó thật đúng với địa danh Dãy Phố Buồn Thiu ...!

Chuyến viếng thăm trên căn cứ Hỏa Lực An Đô nhìn xung quanh cảnh vật thật hùng vĩ, núi đồi trùng trùng điệp điệp quanh năm sương mù phủ khắp triền núi, triền đồi, vì vị trí căn cứ nằm trên đỉnh núi thật cao, chúng tôi được các anh quân nhân tại căn cứ hướng dẫn và giải thích những điểm đặc biệt về vị trí chiến lược nầy là nhằm bảo vệ cho các ngọn đồi chiến thuật án ngữ con đường mòn Hồ Chí Minh giáp biên hạ Lào, các ngọn đồi chiến thuật đó đều nằm trong vòng bảo vệ tác xạ của xạ biểu đồ Sơn Pháo. Việc di chuyển đều nhờ vào trực thăng. Còn đi đường bộ rất nguy hiểm vì đường cong của các đèo và thung lũng, các anh quân nhân trú đóng nơi đây 3 tháng mới được thay toán khác. Thức ăn thì toàn là lương khô và chúng tôi cũng được khoản đãi một bữa bằng lương khô của quân đội. Tôi còn nhớ chúng tôi đến nhằm vào mùa Hè mà cũng bị lạnh run vì những cơn gió thốc từ bên dưới triền núi. Các anh lính ở đây đều phải mặc áo lạnh quanh năm suốt tháng.

Vào thời điểm này, chiến tranh đang xảy ra thật tàn khốc khắp nơi, những lần đi công tác xa ở những vùng chiến trận thật sôi động như tại Quảng Trị. Vào thời đó miền Nam chúng ta đã bị mất phần đất từ vĩ tuyến 17 đến bờ sông Thạch Hãn. Khi Đoàn Văn Nghệ Hoa Tình Thương chúng tôi đến viếng thăm và tổ chức văn nghệ để ủy lạo các chiến sĩ thuộc đơn vị Thủy Quân Lục Chiến đang trấn đóng tại đây, chúng tôi được các anh quân nhân đưa ra bờ sông Thạch Hãn để được nhìn về phía bên kia, cảnh vật điêu tàn đổ nát sau trận chiến lấn đất dành dân và những cuộc khẩu chiến giữa hai bên vẩn xảy ra hàng ngày. Chúng tôi đến Huế, Đà Nẳng, Pleiku, Kontum, Đà Lạt, Ban Mê Thuột, Bình Long, Củ Chi, Trảng Bàng v.v ...

Ban Mê Thuột, địa danh của vùng đất đỏ mưa mùa gió núi!. Quả thật vậy, chúng tôi đã đến trong một buổi sáng khi đặt chân xuống phi trường giữa cơn mưa gió lạnh của mùa Đông. Nhìn xa xa những hạt mưa rơi xuống phản chiếu ánh sáng mù mờ của buổi ban mai như những sợi tơ dài phất phơ theo chiều gió lộng mang theo luồng giá buốt. Chúng tôi vào câu lạc bộ tại phi trường uống cà phê đặc sản của vùng nầy. Chúng tôi ngồi thu mình ở một góc phòng tránh gió cho đỡ lạnh, mặc dầu có đem theo sẵn áo len ấm. Vì là phi trường vùng đồi núi cao nguyên không có hành khách bao nhiêu, thường thường là cho quân sự sử dụng. Chúng tôi ngồi chờ xe của Tiểu khu ra đón.

Đêm nay chúng tôi trình diễn cho các anh được đổi phiên từ các đỉnh đồi chiến thuật về chung vui. Họ bước vào hội trường với gương mặt tái lạnh vì giá buốt. Họ xúc động với tình người hậu phương mang tình thương an ủi sưởi ấm đến cho họ trong đôi giờ giải trí ... giữa vùng đồi núi hoang vu sương mù đất đỏ??

Sau khi đi thăm viếng các nơi. Tôi cảm thấy thương những người lính, những người đã đem xương máu và mồ hôi tưới lên khắp chiến trường để cho người dân có được sự yên ấm, an lành. Những buổi chúng tôi trình diễn cho các anh chiến sĩ trở về từ mặt trận, những gương mặt còn vương mùi khói súng, những bộ đồ trận còn dính đầy sình, rách tả tơi, và những anh thương binh nằm dưỡng thương nơi hậu cứ, đang nằm trên những băng ca xem chúng tôi hát, ôi! thương làm sao, những người đả góp máu giữ quê hương. !!

Trong một buổi thu thanh thơ cho Ban Thi Văn Mây Tần của chú Thi Sĩ Kiên Giang Hà Huy Hà, tôi có dịp gặp chú Nhạc sĩ Lê Dinh đang làm Chủ Sự phòng điều hợp của Đài, sau khi nghe tôi đọc lời giới thiệu của Ban Thi Văn, chú Lê Dinh cho tôi biết là tôi có khả năng làm xướng ngôn viên, chú mời tôi qua phòng thi. Và sau khi thi đọc qua nhiều thể loại, tôi được tuyển chọn vào ngành. Và cũng từ đó tôi nghỉ việc trong Đoàn Văn Nghệ Hoa Tình Thương.

Một buổi trình diễn quan trọng tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc của Bộ Văn Hóa Giáo Dục do Quốc vụ Khanh- ông Mai Thọ Truyền tổ chức để trình diễn bộ môn Văn Nghệ Cổ Truyền của Dân Tộc cho các phái đoàn Ngoại Giao đến tham dự. Chủ tọa buổi lễ hôm nay là Thống Thống Nguyễn Văn Thiệu và Phu Nhân.

Chúng tôi đang tập dượt ca hát trước khi trình diễn màn hợp xướng ba nhạc phẩm Hòn Vọng Phu của Nhạc Sĩ Lê Thương. Tình cờ, tôi thấy một số người đi ngang qua cửa sổ phòng nhạc của chúng tôi, trong số đó có một người gương mặt hơi ngâm đen sạm nắng, tóc anh dợn quăn nhẹ. Có vẻ giống như cầu thủ của đội bóng tròn, gợi cho tôi sự chú ý đặc biệt. Tôi có cảm giác hình như tôi đã gặp ở đâu rồi nhỉ! Họ đang nhìn vào và cười với chúng tôi, như là muốn làm quen thì phải. Và sau cùng các anh ngỏ ý muốn mời chúng tôi qua Câu Lạc Bộ của Phủ Tổng Thống, tôi cũng đánh bạo đi theo các cô bạn, nhưng trong lòng hồi hộp … và cũng hơi run.

Lúc đó, chúng tôi mới được biết các anh cùng làm việc trong Khối Cận Vệ của Phủ Tổng Thống đang kiểm soát lại vấn đề an ninh, bảo đảm an toàn cho các vị yếu nhân trong đêm nay. Nhưng anh chàng có nét đen sạm rắn rỏi đó, theo sát và nói chuyện riêng với tôi mãi, làm cho tôi thật là hồi hộp và cảm thấy ngượng ngùng. Tôi tự hỏi “Không biết có phải anh là người mà tôi mong được gặp gở hay không? Nhưng sao trong lòng nghe rung động chi lạ!”. Đang say sưa với ý nghĩ lạ lùng đó, tôi … giật mình … khi nghe các anh đề nghị mời chúng tôi đi Cát Lái chơi ski nautique (trượt nước), mọi người đều đồng ý. Trên đường đi, anh có kể chuyện cho tôi biết, trước khi ở trong ngành này (Sĩ Quan Cận Vệ) anh đã xuất thân từ đơn vị Người Nhái. Tôi bỗng giật mình ... nghe xao xuyến ... nhớ lại ... mộng ước … và đối tượng của tôi từ hồi còn thơ ngây ….

Khi đến nơi, bạn của anh là anh Trương Nghĩa Thành ra đón chúng tôi vào chơi Ski. Trong lúc anh đang lái chiếc ca-nô, để cho anh Thành chạy Ski, thì trong đầu tôi đang xáo trộn dấy lên với nhiều ý nghĩ …

Bỗng chiếc ca-nô chao mạnh nghiêng qua như muốn lật, tôi giật mình … chụp ngay cánh tay của anh … cánh tay của anh thật rắn chắc như sắt thép. Luồng hơi nóng ấm từ anh chuyển sang tôi như mang theo cả sức mạnh lan truyền. Trong lúc đó anh đang giữ vững tay lái để giữ thăng bằng chiếc ca-nô. Tôi đỏ mặt, ngượng quá! vội buông tay anh ra, và không dám nhìn anh. Anh Thành đổi tay lái với anh, đến phiên anh chạy Ski ….

Và sau buổi gặp gỡ đó, chúng tôi cảm thấy như có tiền duyên và chúng tôi bắt đầu yêu nhau với những buổi hẹn hò tiếp nối. Chúng tôi đã làm lễ thành hôn tại Câu Lạc Bộ Sĩ Quan An Đông, vào thời Mùa Hè Đỏ Lửa nên chỉ diễn ra trong vòng thân mật giữa gia đình, các bạn học và những bạn nghệ sĩ rất thân mà thôi.

Đến ngày 30-4-75 Miền Nam mất vào tay bọn Cộng Sản khát máu. Những tên VC nằm vùng lộ mặt theo dõi chúng tôi từng giây từng phút. Tôi còn nhớ rõ anh như con cọp lìa rừng bị loài lang sói giỡn mặt nhiều lúc tôi thấy mặt anh như đanh lại đôi mắt anh như rực lửa căm hờn …

Rồi anh cũng phải vào tù như những Sĩ Quan khác … ”học tập” để biết đường lối mới của Đảng. Còn tôi cũng bị đi “học tập” trong ngành Truyền Thông tại Đài Phát Thanh Saigon. Họ bảo, tôi là Xướng Ngôn Viên, tôi đã gián tiếp có tội ác với nhân dân vì bản tin viết ra tôi đã đọc cho thính giả nghe đó cũng là có tội. Nói chung, đối với Cộng Sản thì tất cả đều có tội, chỉ ngoại trừ Đảng Cộng Sản của họ.

Sau tháng tư, 75. Tôi là một người vợ của ngụy quân hay là tù cải tạo. Tôi chỉ biết nhớ thương chồng qua hình bóng của con (vì nó giống anh như đúc) Tôi thường thầm nhủ: Cảm ơn anh đã cho em đứa con, nó như là sức mạnh nung đúc nghị lực cho em. Có nhiều lúc em nhớ anh nhưng không dám nghĩ đến những gì có thể xảy ra ..! . Tôi lo sợ vì biết tánh của anh rất cang cường.

Lúc đó, con trai tôi được 6 tháng, không biết lấy gì để nuôi con? Tôi đã gom hết những áo dài cũ, mới và tất cả đồ trang sức luôn cả những vật gì trong nhà có thể bán được, đưa cho một người bạn đem bán ở chợ trời để có tiền mua sữa cho con, nhưng rồi cuối cùng tôi không còn vật gì để bán, tôi đành dứt sữa cho con, và tập cho nó ăn cơm gạo mục và mốc (lúc đó dân sắp hàng dài chờ đợi để được mua gạo như vậy đó, nên khi vo gạo phải vo nhẹ nhẹ nếu không sẽ bị nát). Tôi cố gắng nuôi con bằng đủ mọi cách để chờ chồng.

Hoàn cảnh của tôi thật không còn con đường nào để tính, vì không biết buôn bán như các chị em khác, bao nhiêu nhọc nhằn, cay đắng tôi nhận lãnh thật bất ngờ sau tháng tư đen-75. Đã hơn ba tháng rồi mà tôi không nhận được tin tức gì của anh, chớ đừng nói đến thăm nuôi, lúc đó bên ngoài gia đình và dân chúng đã hoang mang than oán. Đến tháng thứ tư, tôi nhận được thư anh gởi về từ Trại cải tạo tôi vui mừng biết rằng anh vẫn còn yên lành. Nhưng … chỉ có 2 ngày sau tôi nhận được tin anh đã trốn thoát trại tù Thành Ông Năm và đang ở tạm nhà người Dì của tôi. Anh không về nhà vì biết bọn Việt Cộng đang theo dõi.

Tôi vừa mừng vừa lo sợ, buồn vui lẫn lộn. Nhưng anh không thể ở đâu được lâu, vì bọn Việt Cộng thường hay lùng xét để bắt phản động, Việt Cộng thường dùng “bọn 30″ theo dõi hành động của dân. Anh cho biết anh muốn đi tìm những đường dây kháng chiến để sát nhập với anh em cùng chống lại bọn Việt Cộng cho nên anh tìm cách trốn ra. Anh phải sống như những người dân du mục nay Saigon, mai Miền Tây, mốt Miền Đông mà trong người thì không tiền. Với chiếc xe đạp mượn của một người bạn, anh đạp cả ngày từ Chợ lớn ra Saigon hay ngược lại, anh phải sống nhiều ngày với nải chuối trên xe, vì nếu ngừng lại thì sẽ bị công an khám xét. Vì anh không muốn liên lụy đến những người bạn nên có nhiều đêm không có chỗ ngủ, anh phải mướn chiếu để ngủ ở Nhà Ga Xe Lửa Saigon hay Xa Cảng Miền Tây. Có những lúc mang con, gặp lén anh ở những quán Café vỉa hè và các quán ăn, anh cho biết đêm nay anh không biết trú ngụ ở đâu. Trời ơ ới! Lòng tôi thật đau đớn vô cùng, tôi cố nén lòng, mà như ai bóp nát tim tôi, cố dằn nhưng nước mắt cứ đoanh tròng …, tôi không biết làm sao để giúp được cho anh.

May mắn tôi được sự giúp đỡ của một người bạn thân của anh tôi trở về từ Thụy Điển giúp cho vào làm việc cho một công ty của ông ta với số tiền lương nhỏ.

Tai ách lại đến với anh.

Một hôm, anh hẹn tôi gặp anh ở một điểm hẹn gần Sở làm của tôi để giao lại cho tôi chiếc xe đã gắn cái yên nhỏ để chở con phía trước thay vì phía sau sợ con bị kẹt chân. Khi đến điểm hẹn, anh giao chiếc xe cho tôi rồi bảo: “Chạy gấp đi vì anh đang bị theo dõi”, tôi không dám đứng lâu vội lên xe chạy đi. Anh nói vói theo như một lời trối trăn: "... Cố gắng nuôi con nghe em …!!"

Trên đường về nhà tôi thật lo lắng ! vì anh chỉ có giấy giả., mà lại mang tên giả! Người tôi như chùn xuống không còn sức chịu đựng nữa, đêm đó tôi bồn chồn thao thức, hình như đả xảy ra chuyện không may đến anh, tôi buồn rầu vật vã mải cho đến sáng.

Sáng hôm sau, vào Sở làm, tôi vẫn còn nhiều câu hỏi trong đầu về anh, thì anh bạn gọi tôi vào văn phòng và cho tôi biết, chồng tôi đã bị bắt tối hôm qua và hiện đang bị giam trong phường Công An Huyện Sĩ, họ mời tôi qua gặp họ, để điều tra. Tôi vừa nghe, nước mắt tôi đang chực để trào ra, tôi ngồi phệt xuống ghế, và không biết tôi đang làm gì!. Tâm trí tôi lúc đó đang quay cuồng, lo sợ họ sẽ xử tử anh vì biết anh đã vượt tù. Phần thì lo sợ nếu tôi bị mất việc sẽ không có tiền nuôi con. Đang miên man suy nghĩ thì hình như anh bạn của anh tôi cũng hiểu sơ ý tôi nên anh nói: “Cô đừng lo! qua thăm anh ấy đi, có cần gì anh sẽ giúp cho, rồi trở lại làm việc sau”. Tôi vội qua Phường Công An thăm anh, tôi gặp tên công an trưởng, và hắn cho biết:

- Chồng chị, đã trốn trại học tập, về Saigon, sao chị không báo cáo cho Chính Phủ Cách Mạng? Dám đánh Công An để chạy trốn nhé!

(Lúc đó, tôi nổi nóng nên không sợ gì cả) - Xin lỗi! Tôi không thể báo cáo được, vì các anh đã hứa học tập chỉ có 10 ngày, nhưng không đúng như lời hứa, nên chồng tôi phải trốn ra.

Thì vừa lúc đó chúng dẫn chồng tôi ra, anh đi không nổi, tên lính công an dìu anh ra. Nhìn anh với thân hình tiều tụy và gương mặt trỏm lơ vì thiếu ngủ, lòng tôi se thắt lại, tôi không cầm được nước mắt (sau này anh kể lại đêm đó sau khi bắt được anh, chúng treo anh lên hổng mặt đất và 2 tên Công An thay phiên nhau đánh đấm vào ngực, bụng anh túi bụi, sau khi chúng thả anh xuống, hai tay anh không dở lên được.). Tôi đau xót vô cùng, nhưng anh sợ tôi khai không giống như lời khai của anh, sợ liên lụy đến anh em cùng hoạt động trong thành phố, nên anh vội nói khi gặp tôi:

- Em nói cho mấy anh này biết là anh nhớ Mẹ con em nên anh trốn trại về và ngủ ở nhà ga xe lửa.

Sau khi được anh nhắc, tôi cũng lập lại lời anh nói với bọn công an. Thấy không khai thác gì được ở tôi, nên tên công an trưởng bảo dẫn chồng tôi vào và cho tôi về. Ngày hôm sau tôi đến đó hỏi thăm, thì họ cho biết, đang chuyển anh qua trại tù Quận Nhì Saigon. Chúng không trả anh trở về trại học tập cũ, có lẽ bọn chúng sợ anh sẽ trốn nữa. Tôi vội chạy đi mua một số thức ăn đi thăm anh, nhưng bọn chúng không cho gặp mặt , chỉ cho gởi thức ăn vào thôi! Cũng cùng lúc đó, thì chiếc xe chở tù cũng vừa ngừng lại trước cổng Quận Nhì, tôi vội chạy theo đưa thức ăn cho anh và chỉ kịp nhìn bóng anh khuất sau cánh cửa trại tù. Ôi! Cánh cửa oan nghiệt đó đã đóng kín chia cắt tôi và anh, tưởng như là vĩnh viễn …. không gặp lại anh. Anh ơi!

Kể từ đó, tôi bặt tin tức của anh, buồn bã, thất vọng, tôi không biết tâm sự cùng ai! Nhưng, trong nỗi thất vọng đó, tôi cũng rất tin tưởng ở anh, và hãnh diện ở anh, Người hùng của tôi.

Lần vượt tù thứ nhất anh đã vượt qua những hàng rào kẽm gai kiên cố bao quanh trại học tập. Được biết theo lời Ban Quản Giáo của bọn Việt Cộng mỗi khi bắt lại được những Sĩ Quan nào trốn trại chúng đem ra sân cờ xử bắn để hăm dọa những người còn lại: “Các anh đừng hòng trốn thoát khỏi nơi đây, cho dù một con kiến cũng không lọt được”. Nhưng chúng đã lầm! Sau bốn tháng, tại Thành Ông Năm, Hốc Môn, bất chấp lời hăm dọa của bọn chúng, đã có một Người Nhái vượt được khỏi vùng kiểm soát của lính canh và mười mấy lớp kẽm gai bao bọc. Anh đã cho chúng thấy sự gan lì của một Sĩ Quan QLVNCH đã không e ngại vì những lời hăm dọa đó anh đã ra khỏi trại mà chúng cũng không hay biết.

Tôi luôn nghĩ, anh vẫn còn sống và anh sẽ tranh đấu để sống còn, để còn có một ngày….Anh thường suy nghĩ rất nhiều về thế hệ tương lai con cháu sau này.

Sáu tháng sau khi bị bắt lại, chúng giam anh ở Quận Nhì tôi nhận được thư anh là bọn chúng cho phép lên thăm nuôi, nhưng không phải ở Quận Nhì mà lại là trại Phản Động K3, ở Gia Rây, tỉnh Long Khánh. Tôi vội vàng làm những món ăn để anh có thể giữ ăn được lâu và mang con theo lên thăm anh. Trong thư anh dặn mang theo Café và vài đòn bánh tét.

Sáng sớm ngày Chúa Nhật, tôi và con tôi đi xe lửa từ Saigon đến Gia Rây, Long Khánh thăm anh. Trưa thì đến nơi, trại tù này nằm trên một ngọn đồi cao, chung quanh có nhiều hàng rào kẽm gai bao bọc thật kiên cố. Tôi phải chờ đợi đến gần chiều tối tôi mới được thăm anh, Trông anh sức khỏe khá hơn lúc gặp ở trại tù Quận Nhì, chúng tôi được gặp nhau trong vòng 15 phút, thằng bé lâu quá không gặp mặt Ba nên lạ, cứ nhìn Ba mà khóc hoài, tôi thật xót xa. Anh hỏi qua loa về những chuyện nhà, khi thấy tên Công An lơ đãng anh ghé vào tai tôi nói thì thầm:

- Khi nào trời có mưa, em nhớ cầu nguyện cho anh!

Tôi giật mình tôi hỏi nhỏ giọng lo lắng:

- Anh … anh định ... trốn nữa hả!

Anh không trả lời, nhưng tôi thấy ánh mắt sáng ngời của anh hiện lên nét cương quyết. Tôi gật đầu nhẹ vì tôi rất hiểu ý của chồng tôi khi mà anh quyết định việc gì thì có thể nói là không có gì lay chuyển anh được!…

Anh chỉ lấy cà phê với mấy đòn bánh tét nhỏ, còn lại bao nhiêu đều để lại cho tôi đem về, vì anh biết khi đi thăm nuôi là tôi phải bán đi một vật kỷ niệm nào đó của chúng tôi. Tôi nghẹn ngào.

Tôi đứng lên từ biệt anh mà lòng đau như dao cắt. Trời đã bắt đầu tối, tôi bồng con đứng nhìn theo anh đang lầm lũi theo đoàn tù cải tạo hướng về trại giam mà dòng nước mắt tuôn tràn. Anh ơi !!

Tôi bồng con vội vã ra nhà ga xe lửa cho kịp giờ khi đến nhà ga thì cũng vừa kịp chuyến xe lửa từ Nha Trang tới, khi lên được xe lửa thì trời tối đen như mực, đưa bàn tay lên không nhìn thấy gì cả, vì xe lửa không có đèn.

Tôi rấtt lo lắng cho anh lòng tôi đang rối loạn vì không biết lúc nào thì anh sẽ vượt tù?. Và anh vượt ra có an toàn không?

Vì tôi cũng có nghe vài người vượt tù bị bắn chết bọn chúng đem thây người chết mà vùi dập tại chỗ. Tôi miên man với nhiều ý nghĩ lo buồn bỗng giật mình vì nghe tiếng mưa rơi. Trời ơi …

Anh ... Anh ơi! Em đang thầm cầu nguyện cho anh …

Vì tối quá, con tôi nó khóc mãi cho đến khi về tới Saigon. Tôi về đến nhà thì đã 12 khuya dưới cơn mưa tầm tã.

12 giờ trưa hôm sau, tôi được một người em bà con cho hay anh đã trốn thoát một lần nữa và đang có mặt tại Saigon. Anh đến tìm người em của tôi nhờ cho tôi hay.!

Đêm qua tôi về đến Saigon cũng là lúc anh trốn trại vượt qua bao hàng rào kẽm gai kiên cố và nhất là Bãi Mìn đầy nguy hiểm để tìm tự do. Anh chạy bộ 35 cây số dọc theo đường rầy xe lửa từ Gia Rây về Long Khánh với một anh Trung Úy Bộ Binh, cả hai cùng ôm vai nhau làm thành khoảng cách như giữa 2 bánh xe lửa, rồi cùng chạy trên đường rầy. Khi về đến Long Khánh, hai anh đáp xe lửa về Saigon vào trưa hôm sau.

Tôi thầm nghĩ “Người Nhái Hải Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã làm cho bọn Cộng Sản thấy rõ ý chí can cường bất khuất của một người lính thiện chiến VNCH.

Sau đó, anh lẩn trốn rất nhiều nơi và cũng suýt bị bắt mấy lần, trước khi được một người bạn giúp đỡ tìm cách rời khỏi Việt Nam để tìm thuốc “chữa bệnh”.

Cuộc vượt biên đầy nguy hiểm

Một đêm hồi hộp phập phồng, vì mấy tên công an đi dòm ngó vòng quanh, vì tất cả những người vượt biên đều ngủ tạm tại bến xe đò Cần Thơ để chờ sáng, khoảng 4 giờ sáng được người liên lạc của trong tổ chức tại địa phương hướng dẫn xuống bến Ninh Kiều và tất cả đều xuống đò đưa ra trên hai chiếc ghe chài đậu ở giữa sông, sau khi kiểm soát người đủ chiếc ghe chài trực chỉ ra cửa biển Tranh Đề, trên đường đi tất cả đều chun xuống khoang ghe, còn trên thì được ngụy trang đồ đạc chất đầy. Ghe chạy gần tới biển thì gặp chiếc ghe đánh cá Kiên Giang cập vào, tất cả leo qua ghe đánh cá nầy để vượt biên, khi qua chiếc ghe nầy mọi người cũng phải trốn dưới khoang chứa cá. Khi ra đến cửa biển thì trời đã tối, tất cả mọi đều vui mừng vì được ló đầu ra khỏi khoang ghe để thở không khí trong lành. Nhưng ghe chạy chưa được bao lâu thì lại vướng lên cồn cát, tất cả mọi người đểu xôn xao lo sợ vì có nhiều người đi trên ghe nầy đã bị bắt nhiều lần, có người bị bắt lại 9 – 10 lần, nên họ đã mất hết tài sản rồi, nếu bây giờ mà bị lần nữa thì hết mong vượt biên.. Còn về phần chúng tôi được người bạn thân gởi đi nhờ nên anh không phải là tài công.

Vì cùng đi chung một chiếc thuyền nên phải tự cứu mình, anh đứng ra kêu ggọi tất cả trên ghe phải nghe theo anh sắp xếp tất cả đàn ông và thanh niên. Chỉ định cứ hai người làm thành một tổ, anh nói:

- Bắt đầu các anh xuống nước lấy chiếc ghe làm chuẩn, mỗi tổ chia ra đều xung quanh ghe, hướng mặt ra ngoài và đi ra khỏi ghe khi nào các anh gặp chỗ sâu ngang cổ thì la lên.

Tất cả đểu làm theo, trong lúc đó tiếng cầu kinh của các bà thì thầm khấn vái trong gió biển dạt dào.

Khoảng độ 15 phút sau nghe có tiếng la to: “chỗ nầy nước sâu lắm bà con ơi ...!” Tất cả vui mừng cùng đẩy chiếc ghe đến chỗ nước sâu rồi anh tài công mở máy chạy thẳng ra biển. Nhưng chỉ chạy được vài trăm thước thì máy bơm nước trong ghe ra bị bể, mọi người lại lo sợ nữa. Anh liền lựa ra ba người lớn tuổi làm trưởng Toán rồi chia thanh niên ra làm ba toán thay phiên nhau tát nước trong ghe ra ngoài.

Kể từ giờ phút đó anh trách nhiệm lái chiếc ghe vì anh có hỏi qua tài công không rành đường đi trên biển? (hay có ý riêng tư?!). Anh vào phòng lái mà lái ghe đi theo hướng anh đã định.

Đến sáng hôm sau trời còn lờ mờ nhưng mọi người vì lo lắng nên đã thức dậy. Anh chỉ cho mọi người thấy hòn đảo Côn Sơn phía bên trái của chiếc ghe và nói:

- Mình đã đi đúng đường rồi !! ghe sẽ đi thêm ba tiếng đồng hồ nữa thì đến hải phận quốc tế …

Mọi người trên ghe đều vui mừng.

Giữa cảnh trời nước bao la tôi cảm thấy mình như quá nhỏ bé so với mặt đại dương mênh mông, nhưng tôi đã có anh bên cạnh nên những hãi hùng lo sợ đã nhường lại cho bóng mát của niềm tin yêu …

Tôi ôm con ngồi dựa cột cờ nhìn anh làm việc mà lòng xúc động. Anh vẫn hiên ngang trước mọi biến cố. Rất cương quyết bất chấp hiểm nguy nhận lãnh trách nhiệm và anh đã hoàn thành. Đưa tất cả là 59 người đến bến bờ Tự Do. Trên một chiếc ghe hư hại nặng mang số KG 0660 không được sửa chữa, chai trét ghe đã bị sóng biển vỗ tróc ra nên nước biển vào rất nhiều, ba toán thanh niên phải vất vả tát nước suốt hải trình từ Việt Nam đến Mã Lai hai ngày hai đêm rưỡi, trên ghe độc nhất chỉ có la bàn ….

Khi anh lái ghe theo lộ trình của Hải Tiêu vừa vào đến bờ chiếc ghe ủi lên cồn cát thì ghe rã ra và chìm xuống nước. Tất cả mọi người đều nhảy xuống biển, mặt nước ngập sâu đến ngang cổ mọi người đều bồng bế nhau và lội vào bờ của đất nước Mã Lai.

Chúng tôi đứng nhìn chiếc ghe tan rã chìm vào lòng biển cả, cảm nghĩ đó như thân hình bệnh hoạn yếu đuối của Mẹ Việt Nam nhưng vẩn cố gắng đưa đàn con thân yêu thoát khỏi vòng tù ngục cộng sản và đã trút hơi tàn để vĩnh viễn trở về với lòng biển lạnh ngàn đời ..!! Hỡi ơi ! Mẹ Việt Nam ..!!

Chồng tôi đã sống lại từ cõi chết của ngục tù Cộng Sản, tôi nghĩ mình còn được may mắn hơn những chị em đã phải nhận xác chồng qua trận chiến tranh tàn khốc, hoặc tìm xác chồng trong các trại cải tạo xa xôi qua cuộc trả thù người đồng chủng của bọn Cộng Sản vừa qua.

Tôi ngậm ngùi thương cho thân phận người Việt Nam chúng ta. Tôi rất hãnh diện và tự hào về anh nói riêng và nói chung cho tất cả các anh chiến sĩ Quân Lực VNCH, những người vợ lính đã chịu đựng những sự nhọc nhằn, ngược đãi của chế độ phi nhân.

Trong cuộc đời nầy và mãi mãi chúng ta vẩn hãnh diện là người vợ lính VNCH. Chúng ta đã khổ sở, phải chịu nhục nhã và vợ chồng phải sống cách xa nhau. Những cảnh phân ly chồng vợ do bọn Cộng Sản gây nên, chúng ta may mắn vì đã được đoàn tụ. Vậy thì chúng ta phải quý mến những chuỗi ngày còn lại cho đến ngày tàn của cuộc đời chúng ta, phải không các chị? Đó là câu tâm niệm của tôi.

Chúng ta đã vượt qua mọi trở ngại mọi khó khăn mới có được ngày hôm nay thì xin hãy quý trọng giữ gìn hạnh phúc và lo cho con cháu chúng ta sau nầy và nếu hoàn cảnh đã không cho phép để thực hiện những gì mà chúng ta muốn, thì hãy cố gắng gầy dựng cho thế hệ mai sau nối tiếp con đường mà cuộc đời của chúng ta phải bỏ dở dang …

Mẹ Việt Nam ơi! Chúng con cầu mong sẽ có một ngày trở về Việt Nam trong quang đãng,thanh bình, ấm no hạnh phúc và Tự Do ..Nghĩa là trên toàn cõi đất nước Việt Nam không còn bóng dáng ác quỷ Cộng Sản dã man ...!

Mai Thy - 2004