Tuesday, June 2, 2009

Tự do báo chí hay tự do bóp ghẹt báo chí (!?) - Trần Việt Trình

Trần Việt Trình

Tuần rồi, liên tiếp trong 3 ngày, nhật báo The Age của Melbourne Úc Châu đã chạy trang nhất phanh phui hợp đồng làm ăn đáng ngờ giữa công ty Securency của Úc mà Ngân Hàng Trung Ương Úc (Australia's Reserve Bank) có một nửa cổ phần với một công ty Việt Nam có liên hệ với con trai của cựu Thống Đốc Ngân Hàng CSVN. Hai nhà báo Nick McKenzie và Richard Baker của báo The Age đã mở loạt bài điều tra cho hay công ty Securency đã trả hàng triệu đôla tiền hoa hồng cho công ty CFTN (Company For Technology and Development) của VN có công ty con Banktech thuộc quyền quản lý của Lê Đức Minh, con trai của cựu Thống Đốc Ngân Hàng CSVN Lê Đức Thuý. Đọc báo người mà nghĩ đến báo ta. À không, đọc báo người mà nghĩ đến báo VC, mà ngán ngẩm. Nếu như ở VN, hai nhà báo này đã bị bắt giữ, bị thâu thẻ hành nghề, bị buộc tội lạm dụng quyền hạn và "thông tin sai lạc".

Năm 2005, báo chí trong nước bắt đầu phanh phui một vụ tham nhũng trong đơn vị hạ tầng cơ sở có tên là PMU18 của Bộ Giao Thông Vận Tải, cáo buộc các viên chức hữu trách đã biển thủ ngân quỹ và dùng những món tiền này để cá độ bóng đá. Vụ tai tiếng tham nhũng này đã khiến Bộ Trưởng Giao Thông Vận Tải phải từ chức. Tháng 8 năm rồi, chính phủ VN cho hay 4 nhà báo bị tịch thu thẻ hành nghề vì đã viết và duyệt đăng những tin tức "thất thiệt" về một vụ chống tham nhũng và vì đã bênh vực cho các đồng nghiệp bị bắt giữ vì các bài tường thuật của họ trong vụ này. Ba tháng trước đó, hai nhà báo Nguyễn Việt Chiến và Nguyễn Văn Hải, đã bị bị cơ quan an ninh điều tra, khởi tố và bắt giam vì tội "lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm đến lợi ích của Nhà Nước". Nhật báo Thanh Niên đòi trả tự do cho các nhà báo lương thiện. Nhật báo Tuổi Trẻ cũng lên tiếng cho rằng nhà báo của họ đã phải trả một cái giá quá đắt cho việc đưa tin. Hai ngày sau, các báo này đã phải ngưng ngay những lời phản kháng sau khi nhận được một lời cảnh cáo của chính phủ. Đúng là “TỰ DO BÁO CHÍ” ở một nước "TỰ DO"!!!

Ấy thế mà Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, người đứng đầu nhà nước, trả lời phỏng vấn nhân chuyến thăm Anh quốc tháng 3 năm rồi tuyên bố “Việt Nam có tự do báo chí rất tốt, rất cởi mở, rất thông thoáng”. Nỗi uất ức của công luận chưa kịp nguôi ngoai trước sự kiện 2 nhà báo của Thanh Niên và Tuổi Trẻ bị bắt giam cùng với 7 nhà báo khác đồng loạt bị tước thẻ hành nghề vì những bài viết phanh phui vụ tham nhũng PMU18, thì đầu tháng 8 năm 2008, Ban Bí Thư Trung Ương Đảng ban hành Chỉ Thị số 25 khẳng định Việt Nam sẽ tiếp tục “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng” đối với báo chí.

Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền năm 1948 điều 19 đã ghi: “Ai cũng có quyền tự do bày tỏ quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia”.

Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được biểu quyết năm 1966, mà CSVN đã xin được tham gia năm 1982, điều 19 cũng đã ghi:

1. Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp vào.

2. Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ”.

Hiến pháp Nước Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1992, điều 69 có ghi “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”.

Nhà cầm quyền CSVN đã sử dụng cụm từ “theo qui định của pháp luật” để xảo trá phủ nhận tất cả các quyền về Tự do, Thông tin và Ngôn luận được Hiến pháp qui định. Do đó, trên thực tế, CSVN hoàn toàn độc quyền định hướng và khống chế thông tin, độc quyền sở hữu các phương tiện thông tin. Tất cả đều nhằm mục đích bảo vệ đảng và chế độ. Vì thế truyền thông và thông tin trong chế độ CSVN luôn mang tính một chiều, bưng bít, và dối trá.

Trái với những gì CSVN xảo trá rêu rao, quyền thông tin ngôn luận như được xác định trên đây vẫn luôn bị bóp nghẹt trầm trọng như từ bao nhiêu năm qua, bản chất tuyệt nhiên không thay đổi. Không cấm mở các đài truyền thanh từ nước ngoài được và không bịt được tai của dân thì đảng lại tìm mọi cách khóa con mắt của dân. Nhà cầm quyền VN kiểm soát gắt gao Internet, không nhằm mục đích bảo vệ thuần phong mỹ tục mà hòng ngăn chận mọi thông tin trái với lập trường và quan điểm của đảng CS. Nghe lén điện thoại, đọc lén email, phá hủy bưu thư, kiểm soát điện thư, ngăn chặn văn bản, ấn phẩm là những thủ thuật thường dùng của CS. Ngoài ra, CSVN còn dựng lên vô số bức tường lửa để ngăn chận các trang web có nội dung vạch trần sự thật, tố cáo bất công, đòi hỏi tự do chính trị hay tự do tôn giáo ở trong nước cũng như ngoài nước của người Việt lẫn ngoại quốc; khủng bố và bắt bớ những công dân sử dụng diễn đàn thông tin điện tử "trái phép". Cụ thể nhất là việc phạt tù các nhà đấu tranh Nguyễn Vũ Bình và Phạm Hồng Sơn vì họ đã sử dụng Internet để bày tỏ chính kiến; là việc phá huỷ trang Web mới thành lập của Phong trào Dân chủ Việt Nam, và việc phạt tiền Nhà đấu tranh Đỗ Nam Hải.

Tháng 11 năm ngoái, tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới RSF (Reporters Sans Frontières) phổ biến bảng xếp hạng các nước trên thế giới về việc tôn trọng tự do báo chí. Theo bảng xếp hạng này, VN đứng gần chót, chung nhóm với các nước độc tài, quân phiệt và cuồng tín. Trong số 173 quốc gia mà RSF khảo sát và đánh giá, VN được xếp hạng thứ 168, còn thua cả Trung Quốc. Trung Quốc đứng hàng thứ 167. Bảng xếp hạng căn cứ vào các tài liệu, khảo sát và đánh giá trên 49 tiêu chuẩn liên quan tới tự do báo chí cho thời điểm từ 1/9/2007 đến 1/9/2008 tại từng quốc gia. RSF chỉ thuần tuý căn cứ vào căn cứ những vi phạm hay mức độ tôn trọng quyền tự do diễn đạt, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí của người dân tại mỗi nước. Một số các tiêu chuẩn được RSF xét đến chẳng hạn như: giết người bịt miệng, bỏ tù, hành hung, đe dọa các tổ chức và cá nhân người cầm bút. RSF xét đến cả những hành động sử dụng những tổ chức bí mật, những thế lực đen để đàn áp giới cầm bút. Ðối với các tổ chức thông tin thì đó là việc khủng bố, kiểm duyệt, tịch thu hoặc cấm xuất bản.

Tưởng cũng cần nhắc lại, trong những bảng xếp hạng trước đây, VN thường xuyên nằm trong nhóm cuối bảng. Năm 2002, RSF gọi tổng bí thư đảng CSVN Nông Ðức Mạnh là “con dã thú sát hại báo chí” (“a predator of press freedom”). Trên trang web của RSF (http://www.rsf.org/article.php3?id_article=1087) có đăng hình 40 "con dã thú” trên khắp thế giới. Những con dã thú này có quyền lực kiểm duyệt, bắt bớ, bắt cóc, tra tấn và tệ hại hơn nữa là có thể cả thủ tiêu nhà báo (“these predators of press freedom have the power to censor, imprison, kidnap, torture and, in the worst cases, murder journalists”). Trong 40 tay sát thủ của các nhà báo đó Nông Đức Mạnh đứng đầu, được đặc biệt chiếu cố và được đăng to nhất. Nông Ðức Mạnh đã quyết liệt dùng mọi cách để làm tắt tiếng những tiếng nói dân chủ tại VN (“Nong Duc Manh has decided to use every means possible to silence the human rights and pro-democracy activists who got together to form Bloc 8406 and who have defied the government by launching two underground magazines that are distributed abroad and clandestinely within Vietnam”). Cả Nông Ðức Mạnh lẫn Nguyễn Tấn Dũng, bất chấp hiến pháp Việt Nam, đã nhiều lần tuyên bố thẳng thừng là VN không chấp nhận báo chí tư nhân.

Đầu năm nay, một tổ chức khác gọi là Ủy ban Bảo vệ Ký giả CPJ (Committee to protect Jounalists) trụ sở tại New York, Hoa Kỳ, cũng công bố một bản phúc trình lên án nhà cầm quyền VN trong năm qua đã đàn áp nhiều ký giả, nhiều người viết blogs, cùng các nhà dân chủ, khiến họ bị tù tội và trù dập. Theo CPJ thì VN là một trong những nước kiểm soát Internet nghiêm ngặt nhất tại Á Châu và Hà Nội tổ chức ngăn chận mọi web sites cùng những tài liệu trên internet mà họ xem là đe dọa đến chính thể của họ. Bản phúc trình của CPJ nhắc đến trường hợp nhà báo tự do Nguyễn Văn Hải, nổi tiếng dưới cái tên quen thuộc là blogger Điếu Cày, bị Hà Nội kết án 30 tháng tù với tội trốn thuế, một hành động mà CPJ cho là trả thù của Hà Nội, sau khi blogger Điếu Cày tường thuật về những vụ biểu tình chống TQ xâm chiếm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đã vậy, CSVN không chỉ giới hạn việc kiểm soát giới truyền thông trong nước mà thôi. Bản phúc trình cũng nêu lên hành động đàn áp một nhà báo ngọai quốc vào tháng 9 năm ngoái khi công an VN hành hung và giam giữ phóng viên Ben Stocking của hãng thông tấn AP, khi ông đến tận nơi để tường thuật vụ biểu tình của giáo dân ở Thái Hà. CPJ trích dẫn nguồn tin của hãng thông tấn AP mô tả công an VN đấm, đá ký giả Stocking khi ông yêu cầu trả lại máy ảnh. Theo các quy định chính thức tại VN, số ký giả ngoại quốc (vốn chẳng bao nhiêu người) phải làm việc trong phạm vi Hà Nội, đồng thời phải xin phép nếu muốn đi ra ngoài khu vực ấn định để tường thuật. Cần lưu ý là đôi khi phép này vẫn bị nhà cầm quyền từ khước. Hầu hết các ký giả Tây Phương làm việc tại VN đều ngầm hiểu rằng mọi cuộc điện đàm qua điện thoại và mọi trao đổi qua Email cùng các hoạt động của họ đều bị chính phủ Việt Nam theo dõi.

Hiện nay, CSVN đang bị thế giới chỉ trích và lên án nặng nề về vi phạm nhân quyền, đặc biệt về quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí nên họ tìm cách tạo ra một thứ tự do ngôn luận và tự do báo chí giả tạo để đánh lừa dư luận trong nước và quốc tế. Trong hoàn cảnh tự do lập lờ và giả tạo này, các nhà báo được quyền nói gần như bất cứ điều gì miễn là không gây nguy hiểm cho chế độ là được. Hiện nay một số báo chí rất ít ỏi đang khôn khéo tìm cách xé rào chút ít nhưng chưa đáng kể. Báo chí ngày càng được đăng tải những loại bài giật gân, những bài về "người xấu việc xấu" như trộm cấp, cướp giựt, hãm hiếp và tội ác kiểu báo lá cải để lôi kéo độc giả. Họ có quyền chống tham nhũng “trong giới hạn”, ví dụ như chỉ trích hoặc đưa tin về sự tham nhũng hay ăn cướp của những cán bộ cấp thấp, được phép chỉ trích chính sách của nhà nước về kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế ở “mức độ cho phép”. Dựa theo đó chính phủ VN khôn ngoan chộp lấy những bài tường thuật của báo chí trong nước về những vụ tham nhũng ở các cơ quan của nhà nước làm bằng cớ để rêu rao rằng VN có tự do báo chí.

“Tự do báo chí” của VN không được tự do ở chỗ các nhà báo không được phép phê bình chỉ trích đảng và nhà nước về chính trị, nhất là không được phê bình tính độc tài, độc đảng; tuyệt đối không được nói nguyên nhân của những tệ nạn xã hội là do cơ chế độc tài độc đảng của chế độ. Chính phủ VN vẫn thường xuyên lập luận rằng "báo chí Việt Nam có quyền đề cập tất cả các vấn đề mà pháp luật không cấm. Pháp luật chỉ cấm báo chí tuyên truyền kích động bạo lực, kích dục, tuyên truyền cho chiến tranh, gây chia rẽ đoàn kết dân tộc". Việc chống tham nhũng của đảng và nhà nước cũng chỉ là chống giả tạo hầu làm thuyên giảm sự bất mãn của dân chúng, đồng thời để tỏ thiện chí đối với dư luận trong và ngoài nước. Nhà báo nào dám tố cáo những cán bộ CS cao cấp tham nhũng, cướp đất đai tài sản của dân hay tham ô của công thì đều bị đều bị xem là có tội, là “vi phạm pháp luật”, là đụng chạm đến an ninh của nhà nước. Mọi hành vi tham nhũng, ăn cướp của các cán bộ cao cấp đều được CSVN xem là “bí mật nhà nước”. Tham nhũng hay ăn cướp càng lớn thì càng được xem là “tối mật”. Tiết lộ “bí mật nhà nước” là “vi phạm pháp luật”.

Việt Nam hiện có một hãng thông tấn quốc gia, hàng trăm cơ quan báo chí, ấn phẩm báo chí, gần cả trăm đài phát thanh truyền hình, hàng chục báo điện tử, hàng trăm trang thông tin điện tử, và hàng vạn nhà báo; tất cả đều do đảng và nhà nước cấp thẻ hoạt động thì làm gì có tự do được. Tự do dân chủ không bao giờ xin mà được, phải đấu tranh mới có. Nhìn những gì CSVN đã làm, dùng luật pháp và toà án để trừng trị những nhà báo đã dám "bứng cây động rừng" cho thấy cường quyền, bạo lực tuy có ảnh hưởng nhất thời nhưng về lâu về dài chẳng những không diệt được tự do báo chí, mà còn tạo môi trường cho mầm tự do nảy sinh, tạo ra sức bật mới cho những nhà báo có lý tưởng, lương tâm, trách nhiệm và có đức nghiệp.

Hai ba thập niên trước không ai có thể tưởng tượng ra được mầm tự do, dân chủ và nhân quyền có thể sinh sôi nẩy nở ở VN như bây giờ. Thực sự mầm mống ấy đã nảy sinh dù môi trường CS vô cùng khắc nghiệt. Cũng thể như trong hệ thống chính trị độc tài toàn diện mà CS Hà Nội kềm kẹp nhân dân chặt chẻ như gọng kềm, vẫn có những người bất chấp ngục tù CS, vì đạo pháp và dân tộc dấn thân đấu tranh cho tôn giáo, cho tự do, dân chủ, và nhân quyền VN. Chúng ta đã có những nhà dân chủ như Lm Nguyễn Văn Lý, Ls Nguyễn Văn Đài, và Ls Lê Thị Công Nhân dám hành động mà không sợ tù tội. Chúng ta cũng sẽ có những Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn Đài, và Lê Thị Công Nhân trong lãnh vực báo chí, dám hành động và cũng không sợ tù tội, đem lại sinh khí cho phong trào tự do, dân chủ, và nhân quyền cho Việt Nam.

Trần Việt Trình
2 tháng 6, 2009
***

Nguồn: http://www.rsf.org/article.php3?id_article=1087

Vietnam: Nong Duc Manh

Secretary-general of the ruling Communist Party

He is one of the architects of the relentless crackdown on opposition groups and dissident publications in Vietnam. Two journalists and around 15 cyber-dissidents have been sentenced to long prison sentences since January 2007. They include Catholic priest Nguyen Van Ly, who was given an eight-year term on a charge of “propaganda against the Socialist Republic of Vietnam” for launching an underground magazine called Tu do Ngôn luan (Free Expression) in the central city of Hue. When one of those who helped him, Nguyen Phong, was given a six-year sentence, he told the judge: “I will continue to fight for the values of freedom and democracy.”
Nong Duc Manh has decided to use every means possible to silence the human rights and pro-democracy activists who got together to form Bloc 8406 and who have defied the government by launching two underground magazines that are distributed abroad and clandestinely within Vietnam. Regarded as an economic reformer, he also distrusts the Internet and had several people arrested in 2007 for demanding more democracy on online forums.


Nghị Quyết "Cấm Cờ Đỏ" Trên các trường Đại Học tại Tiểu Bang Texas

  • Nghị Quyết HCR258 Khuyến Cáo Trường Đại Học Houston và các trường Đại Học tại Tiểu Bang Texas trong việc cấm treo Cờ Đỏ tại trường Đã Được Thông qua.

  • Thay Mặt Cộng Đồng Việt Nam Tại Hoa kỳ VAC-USA, Ủy Ban Hạ Cờ Đỏ tại UH và Đại Diện gia đình phụ huynh con em đang theo học tại University of Houston xin chân thành cảm ơn Dân Biểu Hubert Võ đã sốt sắng hỗ trợ mạnh mẽ và cương quyết cho Ủy Ban Hạ Cờ Đỏ của VC tại UH trong những ngày tháng qua trên quyết tâm Hạ Cờ Đỏ của VC tại UH.

    Vào lúc 3 giờ 15 ngày thứ năm 22 tháng 5 năm 2009, Dân biểu Hubert Võ đã cho chúng tôi biết là Đại diện của UH hứa sẽ hạ cờ đỏ tại UH vào ngày thứ ba 26 tháng 5 năm năm 2009 với điều kiện là Dân Biểu Hubert Võ hãy thu hồi lại nghị quyết cấm treo cờ đỏ tại các trường Đại Học. Dân Biểu Hubert Võ đã trả lời cho ông Đại diện UH rằng nghị quyết này sẽ áp dụng trên toàn trường Đại Học tại Texas chứ không riêng gì tại UH.

    Khi chúng tôi xuống UH Center vào ngày thứ ba thì cờ đỏ vẫn chưa hạ nhưng lại có cờ Vàng treo lên. Chúng tôi đã thấy ngay âm mưu cuả bọn CS nằm vùng quyết ăn thua đủ trong việc Hạ Cờ Đỏ tại UH. Tôi gọi ngay cho Bân Biểu Hubert Võ và sau khi Dân Biểu Hubert Võ gọi cho trường UH thì Ban Giám Đốc cho biết đã có chỉ thị hạ cờ đỏ nhưng chưa biết schedule ngày nào.

    Hôm nay qua nghị quyết HCR258 cuả Dân Biểu Hubert Võ đệ trình và với trong một thời gian kỷ lục 7 ngày nghị quyết HCR258 đã được thông qua cả thượng viện và hạ viện.

    HCR258 là nghị quyết luật pháp khuyến cáo các trường Đại Học Houston (University of Houston) và tất cả các trường đại học tại tiểu bang Texas phải treo cờ Vàng là biểu tượng của người Việt Quốc gia đại diện cho Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn CS tại Texas chứ KHÔNG ĐƯỢC TREO CỜ ĐỎ CỦA VC nữa.

    Được biết nghị quyết HCR258 của dân biểu Hubert Võ đã được thông qua vào lúc 8 giờ 05 phút tối hôm qua ngày 30 tháng 5 năm 2009.

    Theo Dân biểu Hubert Võ Cộng Đồng VN tại Austin hiện giờ (Tối chủ nhật) đã đem thức ăn vào cảm ơn các nghị sĩ dân biểu cuả TB Texas vừa passed nghị quyết HCR258.

    Sự đấu tranh và sự quyết tâm của người Việt tỵ nạn CS tại Houston trong việc Hạ Cờ Đỏ tại Đại Học Houston là một bài học cho những ai chưa tin vào sự phẫn nộ đồng loạt của đồng hương trước những âm mưu đen tối trong những sự việc đi ngược lại nguyện vọng cuả người dân. Đây cũng lại là một bài học đích đáng cho những tên Việt gian đang làm tay sai cho CS tại thành phố này.

    Một lần nữa chúng tôi xin thay mặt Ủy Ban Hạ Cờ Đỏ tại UH, Gia Đình Phụ Huynh Con em đang theo học tại UH và Cộng Đồng VN tại Hoa Kỳ xin ca ngợi Tinh Thần Phục Vụ của Dân Biểu Hubert Võ trên quyết tâm không chấp nhận Cờ Đỏ treo chung với cờ Vàng cũng như xin thành kính tri ân Dân Biểu Hubert Võ đã thực sự đáp ứng được nguyện Vọng của người Dân.

    Thay Mặt Ủy Ban Hạ Cờ Đỏ:
    Ông Nguyễn Toàn Vẹn Chủ Tịch
    Ông Đỗ Quãng Cố Vấn
    Cựu Đại Tá Nguyễn văn Nam Yễm Trợ
    Ông Lưu Quý Tùng Vận động.
    Bà Tôn Nữ Hoàng Hoa Ngoại giao

    Thay mặt Cộng Đồng VN tại Hoa Kỳ VACUSA
    Tôn Nữ Hoàng Hoa
    Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành

    * Mời quý vị vào xem ở Link này về HCR258 của dân Biểu Hubert Võ: http://www.legis.state.tx.us/BillLookup/History.aspx?LegSess=81R&Bill=HCR258#vote65


    Bill: HCR 258
    Legislative Session: 81(R) Council Document: 81R 36084 CBE-D
    Add to Bill List | Add to Alert List
    Last Action:06/01/2009 H Signed in the House

    Caption Version:Introduced
    Caption Text:Urging the University of Houston and other institutions of higher education to cease displaying the flag of the Socialist Republic of Vietnam and to replace it with the Freedom and Heritage Flag.

    Author:Vo | Hilderbran | Pitts | Dunnam | Taylor

    Coauthor:Alonzo | Alvarado | Bohac | Bolton | Brown, Fred | Button | Chisum | Davis, Yvonne | Driver | Dutton | Edwards | Frost | Gallego | Geren | Gonzalez Toureilles | Guillen | Gutierrez | Harper-Brown | Hernandez | Herrero | Hochberg | Hodge | Hopson | Hughes | Hunter | Isett | Jones | Keffer | Kent | Kolkhorst | Laubenberg | Legler | Lewis | Maldonado | Mallory Caraway | Marquez | Martinez, "Mando" | McClendon | Merritt | Miller, Doug | Orr | Ortiz, Jr. | Otto | Paxton | Phillips | Quintanilla | Rios Ybarra | Rose | Sheffield | Shelton | Smith, Wayne | Thibaut | Vaught

    Sponsor:Hinojosa

    Subjects:VIETNAM, SOCIALIST REPUBLIC OF (G0441)
    Resolutions--Legislative Policy (I0685)
    FLAGS (S0254)
    UNIVERSITY OF HOUSTON (U0033)

    House Committee:Higher Education
    Status:Out of committee
    Vote:Ayes=0 Nays=0 Present Not Voting=0 Absent=0

    Actions: (descending date order)
    Viewing Votes: Most Recent House Vote | Most Recent Senate Vote
    Description Comment Date Time Journal Page
    H Signed in the House
    06/01/2009

    H Reported enrolled
    06/01/2009 07:50 AM
    H Senate passage reported
    05/30/2009

    S Record vote
    05/30/2009

    S Adopted
    05/30/2009

    S Read
    05/30/2009

    S Laid before the Senate
    05/30/2009

    S Rules suspended-Regular order of business
    05/30/2009

    S Received from the House
    05/25/2009
    2893
    H Record vote RV#1128 05/25/2009
    4668
    H Adopted
    05/25/2009

    H Rules suspended
    05/25/2009

    H Referred to Higher Education
    05/21/2009
    4301
    H Adopted
    05/21/2009
    4668
    H Rules suspended
    05/21/2009
    4668
    H Filed
    05/21/2009

    Monday, June 1, 2009

    Bài học giữ Đất & Nước của Tổ Quốc - Nguyễn Văn Minh


    Nguyễn Văn Minh


    Độc Lập Hoàn Toàn và Toàn Vẹn Lãnh Thổ là lập trường tranh đấu bất di bất dịch của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Chính vì lập trưởng này mà ông đã nhiều lần từ chối lời mời của Pháp, của Quốc Trưởng Bảo Đại, đứng ra thành lập Chính phủ. Giữ vững lập trường này, ông đã từ chối đề nghị của Thủ Tướng Chu Ấn Lai, sau khi Hiệp định Geneva được ký kết: Trung Quốc sẵn sàng nhìn nhận Chính phủ Miền Nam Việt Nam; hai bên sẽ thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia độc lập. Khi cầm quyền, ông đã rất cứng rắn và khôn khéo giữ gìn, không chịu để mất một tấc đất của Tổ Quốc. Cuối cùng thì ông đã chấp nhận cái chết, không để cho cường lực xâm phạm đến Chủ quyền Quốc gia, tức là nền độc lập hoàn toàn của Tổ quốc.

    Ngày nay, trước nỗi đau đất nước đang bị bọn “Thái Thú” của Tàu cộng, mang tên Việt, ăn cơm từ lúa gạo của đồng ruộng Việt, uống nước từ sông, suối Việt, cắt đầu này, xén đầu kia dâng cho quan thầy. Thiết tưởng chúng ta nên ôn lại bài học này. Dĩ nhiên với một sự kiện đã xảy ra cách nay hơn nửa thế kỷ, nếu cần, điều chỉnh cho hợp tình hợp cảnh hầu có thể thực hiện tinh thần ấy cho phù hợp với thời thế ngày nay.

    1. Tại Biên giới phía Tây.

    Tháng 5-1958, bắt đầu có những rắc rối xảy ra trên đường biên giới phía Tây, quân đội Cam Bốt ngang nhiên dời cột mốc biên giới sang đất Việt Nam 3 cây số ở vùng Pleiku và một số vùng khác như Tây Ninh, Hà Tiên, Kiến Tường v.v... Tiếp theo là những vụ cướp phá xảy ra tại các làng trong những vùng này. Được báo cáo về tình hình này, Tổng Thống Diệm liền yêu cầu Bộ Tổng Tham Mưu biệt phái về Phủ Tổng Thống một sĩ quan Pháo binh có khả năng. Sĩ quan được biệt phái là Đại úy Lê Châu Lộc, đang là huấn luyện viên tại trường Đại Học Quân Sự. Ông được Tổng Thống đích thân giao nhiệm vụ đi cắm lại các cột mốc suốt dọc đường biên giới Việt Nam-Cambodia, theo bản đồ từ thời Pháp thiết lập, và quan sát đất đai, sinh hoạt của dân chúng sống hai bên đường biên giới. Với một xe jeep, một hạ sĩ quan truyền tin và hai hộ vệ, khởi sự từ tháng 6-1958, ông đi kiểm tra lại các cột mốc phân ranh suốt từ Hà Tiên đến Pleiku, cắm lại tất cả những cột đã bị di dời. Nhưng nhiệm vụ ông được giao, không dễ dàng được hoàn thành, vì sự ngoan cố của phía Cam Bốt. Những cột mốc bị dời sai đường ranh theo bản đồ, lấn sang đất của ta, được di đến đúng đường ranh. Nhưng khi trở lui kiểm soát, thì thấy chúng lại đã bị dời về địa điểm cũ, trên phần đất bị lấn chiếm, và dĩ nhiên, chúng lại được di về đúng trên đường ranh. Hai bên cứ giằng co di đi, dời lại như thế hai ba lần. Cuối cùng ông được phép dùng biện pháp mạnh, gài lựu đạn dưới những cột mốc đã được cắm lại. Kết quả là người của quân đội Cam Bốt đến dời cột mốc về lại đia điểm lấn chiếm, đã bị thương hoặc tử vong.

    Vì lập trường chính trị không đồng nhất, sự giao hảo giữa Việt Nam và Cam Bốt vốn không được tốt đẹp lắm, dù hai nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao đến cấp Đại sứ. Nay thêm hậu quả của vụ tranh chấp biên giới này, phong trào chống người Việt Nam được thổi bùng lên tại Camb Bốt. Nam Vang ồ ạt biểu tình đả kích Việt Nam, hành hung Việt kiều, chính phủ Cam Bốt hạn chế giờ dạy tiếng Việt trong các trường Việt Nam trên đất Cam Bốt chỉ còn 2 giờ một tuần v.v…

    Nhằm ngăn chặn tình hình trở nên xấu thêm và để tỏ thiện chí, Tổng Thồng Ngô Đình Diệm gửi lời mời Quốc Trưởng Sihanouk qua Sài Gòn hội đàm, và gửi Cố vấn Ngô Đình Nhu sang Nam Vang thảo luận về chương trình đàm phán giữa đôi bên. Ông Sihanouk nhận lời mời sang Việt Nam, nhưng họ đã nạp đơn khiếu nại tại Tòa án quốc tế La Haye về đường biên giới giữa Việt Nam và Cam Bốt. Kết quả họ bị thua kiện.

    Về nhiệm vụ quan sát đất đai và sinh hoạt của dân chúng sống hai bên đường biên giới. Đại úy Lộc đã báo cáo với Tổng Thống về một vùng đất rộng mênh mông dọc theo con đường nhỏ thường được gọi là Piste Kinda chạy ra đường 13, đi về Banmêthuột, đất đỏ rất mầu mỡ. Vùng đất này trước kia là mật khu của Việt cộng, chúng vẫn còn có người khai thác trồng hoa màu bắp (ngô), khoai, sắn (khoai mì) rất tốt. Sau khi cho nghiên cứu, Tổng Thống Diệm đã thành lập tại khu này một tỉnh mới: Tỉnh Phước Long. Chính phủ khuyến khích, kêu gọi dân chúng, và có chính sách giúp đỡ cho những người đến đây lập nghiệp. Về sau, tại tỉnh Phước Long, dân chúng làm ăn rất phát đạt, ngoài hoa mầu còn có những đồn điền cao su rất thành công.

    2. Qua biên giới phía Đông.

    Ở phía Đông, nước Việt Nam ta tuy nhỏ, nhưng thiên nhiên ưu đãi dành cho một biên giới phía Đông dải cả ngàn cây số với vùng biển Thái Bình Dương tương đối hiền hòa, bao la nước, trời. Tài nguyên biển chúng ta giầu có, lại được hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, của chìm (dầu lửa, khí đốt), của nổi (cát trắng, phân chim), kích thích sự thèm muốn của nhiều nước xung quanh, gây nên nhiều tranh chấp, nhất là từ khi các mỏ dầu được tìm thấy, như chúng ta chứng kiến hiện nay.

    Từ thời xa xưa, người Anh và các nước Âu Châu đã sớm nhìn ra ưu điểm nước, trời, của biển cả, đã dốc hết tâm trí khai thác, xử dụng sức mạnh này, nhờ vậy mà họ đã chinh phục gần trọn cả thế giới. Với Việt Nam chúng ta, tiếc rằng, người xưa chưa ý thức được để khai thác, xử dụng sức mạnh trời cho: Trên một ngàn cây số bờ biển thênh thang với hai pháo đài ngoài khơi và một vịnh Cam Ranh tuyệt đẹp và an toàn nhất thế giới!

    Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa I, mỏ dầu chưa được phát hiện, nhưng ta đã khai thác mỏ cát trắng, loại cát dùng để chế biến thành thủy tinh, pha lê. Công ty Catraco được thành lập để khai thác nguồn tài nguyên này. Tuy rằng, vì kỹ thuật và phương tiện khai thác còn thô sơ, thiêu thốn, số lượng cát được khai thác chưa được nhiều, nhưng ta cũng đã xuất cảng khá đều đặn loại cát này sang thị trưởng Nhật Bản. Cùng trong thời gian này, công việc nghiên cứu giá trị kinh tế của mỏ phân chim trong khu vực hai quần đảo đang được tiến hành tốt đẹp.

    Từ đó cả Trung Hoa Dân Quốc và Trung Cộng đều nhảy vào tranh chấp, bên nào cũng tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của họ. Riêng với Trung Hoa Dân Quốc, đang có mối quan hệ rất tốt đẹp với Việt Nam, cá nhân hai vị Tổng Thống cũng quý mến và kính trọng nhau đặc biệt đến nỗi, khi hay tin Tổng Thống Diệm bị sát hại, Tổng Thống Tưởng Giới Thạch đã nói: “Một trăm năm nữa Việt Nam chưa có được một người như Ngô Đình Diệm”.

    Chính phủ Việt Nam sau nhiều lần chính thức công bố xác nhận chủ quyền của mình trên hai quần đảo này, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã có một cử chỉ bày tỏ chủ quyền của Việt Nam một cách rất đặc biệt: Ông mặc Quốc Phục ra kinh lý đảo Lý Sơn, thường được gọi là cù lao Ré, nơi có miếu Hoàng Sa. Trong suốt chín năm cầm quyền, đây là lần duy nhất ông mặc quốc phục khi đi kinh lý. Đến năm 1961, Tổng thống Ngô Ðình Diệm ban hành sắc lệnh số 174 NV, thành lập một xã mới với tên gọi là là xã Ðịnh Hải, bao gồm trọn quần đảo Hoàng Sa, trực thuộc quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam, do một phái viên hành chánh trông coi.

    Và từ đó cho đến hết thời Việt Nam Cộng Hòa I, không thấy có những tuyên bố nhận chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ các nước chung quanh nữa.

    Đất nước Việt Nam tuy nhỏ, dân không đông, nhưng tinh thần hào hùng bất khuất thì không thiếu. Nhờ có tinh thần hào hùng, bất khuất mà từ ngày lập quốc, cha ông ta, tuy phải triều cống người láng giềng khổng lồ phương Bắc, nhưng lời chỉ dạy của các bậc Minh Vương như vua Trần Nhân Tôn dưới đây, luôn được con cháu muôn đời ghi tâm khắc cốt và thực hiện chu toàn:
      "Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo.

      Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa.

      Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải. Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới quy ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn:

      "Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác.

      Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu."
    Nguyễn Văn Minh

    Cáo Phó Của Gia Đình Cựu Thiếu tướng QLVNCH Bùi Đình Đạm

    CÁO PHÓ

    Gia đình chúng tôi đau buồn báo tin cùng thân bằng quyến thuộcvà bạn hữu xa gần:

    Chồng, Cha, Ông của chúng tôi là:

    GIUSE BÙI ÐÌNH ÐẠM

    Cựu Thiếu tướng QLVNCH
    Tốt nghiệp Khoá 1 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam


    Sanh ngày 26 tháng 6 năm 1926 tại Hà Đông, Việt Nam
    Ðã qua đời lúc 01 giờ sáng ngày 30 tháng 5 năm 2009,
    tại San Jose, California, Hoa Kỳ.

    HƯỞNG THỌ 83 TUỔI

    Linh cửu được quàn tại DARLING & FISCHER GARDEN CHAPEL
    Số 471 E Santa Clara Street, San Jose, CA 95112.
    Ðiện thoại: 408-998-2226

    Chương trình tang lễ sẽ được thông báo sau:.


    TANG GIA ÐỒNG KHẤP BÁO
    Vợ: Bà Quả phụ Bùi Ðình Ðạm
    Các Con và Các Cháu.

    CÁO PHÓ NÀY THAY THẾ THIỆP TANG
    XIN MIỄN PHÚNG ÐIẾU



    Một nền giáo dục thời bình - Phạm Đình Viễn


    Phạm Đình Viễn

    Làm thế nào để con em chúng ta, thế hệ tương lai của đất nước, có được những phẩm chất của một nhân cách lớn? Câu hỏi này quá tham vọng, nhưng nó đáng để chúng ta suy nghĩ. Hẳn chúng ta mong muốn những cá thể của thế hệ tương lai có một đời sống tinh thần phong phú và lành mạnh, giàu lòng nhân ái, có tinh thần khách quan và độ lượng, và tự tin ở các phẩm chất của cá nhân mình. Vậy thì đó cũng chính là những yêu cầu trong đơn đặt hàng của chúng ta cho nền giáo dục đương thời.

    Sự phát triển tâm lý tự nhiên ở trẻ em

    Khi các em còn bé, cha mẹ mua về những món đồ chơi. Không phải ngẫu nhiên mà những món đồ chơi này mô phỏng sự vật thường ngày. Chiếc ô tô, tàu thuỷ, búp bê, những món đồ hàng, đều là sự mô phỏng các hình ảnh cuộc sống thường ngày quanh ta. Khi chơi đùa với chúng, bề ngoài ta đơn giản chỉ thấy các em vui vẻ. Còn thực chất bên trong là một sự phát triển hài hoà về tâm lý. Đó là cảm giác kiểm soát được cuộc sống, yên tâm về cuộc sống, và xây dựng, sáng tạo trên nền tảng của sự yên tâm ấy.

    Khi các em lớn hơn, trí tưởng tượng mở rộng hơn do sự nghe nhìn phong phú hơn. Những món đồ chơi đơn sơ không còn làm cho các em thoả mãn. Một cách tự nhiên, trẻ em tìm niềm vui theo cách khác. Ở các đô thị phát triển, trẻ em ham mê đọc truyện tranh, hay chơi game điện tử. Đối tượng ưa thích của các em thường là những người hùng, hoặc những nhân vật nổi tiếng. Bằng việc hoá thân vào nội dung truyện tranh, game, vào vai trò người hùng hoặc người nổi tiếng, các em cảm thấy sự yên tâm, tự chủ, và giá trị cá nhân được khẳng định.

    Nhu cầu làm chủ cuộc sống và được khẳng định vị thế là điều tự nhiên trong con người nói chung, trong đó có trẻ em. Sẽ phản tự nhiên nếu người lớn tìm cách kiềm chế, đè nén nhu cầu này của các em. Nhưng chúng ta cũng biết rằng tuổi thơ là khoảng thời gian quan trọng nhất trong việc hình thành cá tính, nhân cách của trẻ, và chuẩn bị cho các em sau này trở thành những con người gánh vác các trách nhiệm thực tế. Những hoạt động giải trí mà chúng ta đề cập ở trên, chỉ mới giúp thoả mãn nhu cầu tâm lý nhất thời, chứ chưa giúp bồi dưỡng nhân cách và rèn luyện khả năng thích nghi với thực tế cuộc sống. Thậm chí những truyện tranh và game điện tử mang tính chất bạo lực thường kích thích tính hiếu thắng, khiến trẻ cảm thấy có thể dễ dàng khẳng định được giá trị cá nhân thông qua việc phá huỷ các chướng ngại, tiêu diệt các đối thủ. Chúng không hề giúp rèn luyện những phẩm chất quan trọng cho nhân cách của trẻ, như tính kiên nhẫn và độ lượng, sự trân trọng các vẻ đẹp, những thành quả được vun đắp, xây dựng bởi tạo hoá hay con người.

    Hệ lụy từ tính bạo lực trong nội dung giáo dục

    Tính bạo lực là sự đối nghịch với lòng nhân ái. Nó phổ biến vì dễ dàng phát sinh từ nhu cầu con người muốn nhanh chóng vượt qua các trở ngại để khẳng định vị thế của mình. Đáng lo ngại là nội dung giáo dục của chúng ta từ vài thập kỷ trở lại đây nhuốm khá nhiều màu sắc bạo lực. Lịch sử dân tộc bị phủ bóng bởi các cuộc xung đột vũ trang. Những tấm gương anh hùng đa số là hình ảnh những người cầm gươm ra trận. Văn, thơ khắc họa chiến tranh vẫn chiếm một tỉ trọng lớn trong văn học Việt Nam hiện đại. Những ấn tượng đó có thể tác động tiêu cực tới sự hình thành lòng nhân ái trong nhân cách của trẻ. Chúng cũng dễ tạo ra suy nghĩ trong trẻ thơ rằng điều quan trọng nhất mà cha ông ta trong lịch sử làm được là việc tiêu diệt kẻ thù.

    Không phủ nhận rằng lịch sử đất nước ta gắn chặt với một quá trình giữ nước và dựng nước có tính bền bỉ liên tục. Rằng chiến tranh chỉ mới xa rời chúng ta được ba, bốn thập kỷ. Nhưng lịch sử của người Việt đáng tự hào không chỉ vì cha ông ta chiến đấu giỏi và luôn cố gắng giữ lấy đất, mà còn vì dân tộc ta đã xây dựng nên được một nền văn hiến sâu sắc, phong phú và có bề dày lâu đời.

    Có lẽ việc chú trọng giảng dạy về chiến tranh vốn xuất phát từ nhu cầu xã hội của một thời kỳ loạn lạc. Nhưng không thể sống trong thời bình mà vẫn giáo dục con người theo cách của thời loạn. Hệ quả tiêu cực ngoài mong muốn là những gì chúng ta đã và đang được thấy hằng ngày. Đạo đức xã hội suy thoái. Môi trường thiên nhiên bị tàn phá, hủy hoại. Những công trình xây dựng kém chất lượng nhanh chóng xuống cấp. Các di sản văn hóa bị xâm phạm. Nguyên nhân của tất cả những hiện tượng trên xuất phát từ con người, cũng là sản phẩm của một đường lối giáo dục tiêu cực kéo dài.

    Xem nhẹ con người cá nhân liệu có là phản giáo dục?

    Làm sao để những sự kiện lịch sử không nhất thiết cứ phải là ta thắng, địch thua, thì mới thu hút trẻ?
    Làm sao để trẻ em tìm thấy hưng phấn, sự đồng cảm khi tiếp thu các giá trị văn hóa nhân bản?

    Làm sao để những tên người, những địa danh, gắn với những ấn tượng sống động thay vì khô khan, tẻ nhạt?

    Sự đồng cảm giữa người học với kiến thức chỉ xảy ra sau một sự đối chiếu giữa nội dung thông tin được học với kinh nghiệm cá nhân của người học.

    Trẻ em là những cá thể đang chập chững học cách vào đời, tìm kiếm một chỗ đứng trong cuộc sống, với nhu cầu được đồng cảm và tôn trọng. Vì vậy mà các em rất dễ hóa thân vào các nhân vật. Thông qua hành xử của nhân vật và thái độ của chúng ta với nhân vật, trẻ em học ứng xử, tư duy. Nếu chúng ta tỏ ra kính trọng nhân vật, trẻ em cũng sẽ kính trọng nhân vật. Nếu chúng ta khắc họa cá nhân nhân vật với những chi tiết mà trẻ có thể hiểu và đồng cảm được, trẻ sẽ yêu nhân vật.

    Nhưng nếu không có sự khắc họa thân phận cá nhân con người thì không có sự đồng cảm với người học. Như vậy thì sẽ không có giá trị văn hóa đáng kể nào được truyền thụ. Và cũng không thể có tấm gương cụ thể để trẻ em rèn luyện noi theo.

    Hơn nữa, nếu chúng ta muốn giáo dục trẻ em về tinh thần trách nhiệm của cá nhân, về ham muốn phát huy sáng tạo cá nhân, vậy thì chính chúng ta phải trân trọng con người cá nhân. Tư duy giáo dục sai lệch trước đây, chỉ khắc họa thành quả của tập thể mà xem nhẹ vai trò cá nhân, đã dẫn đến hệ quả ngoài mong muốn là thói lợi dụng danh nghĩa tập thể và nấp bóng tập thể để lảng tránh trách nhiệm cá nhân.

    Dạy tính khách quan và đại lượng như thế nào?

    Hai phẩm chất cần thiết đầu tiên là tính khách quan và đại lượng. Vậy thì phương pháp giáo dục phải ra sao? Qua hai vấn đề chính mà chúng ta vừa đề cập thì có thể thấy như sau.

    Phải giảm nhẹ tính bạo lực trong nội dung giáo dục. Tinh thần đối kháng gay gắt vốn phần nào xuất phát từ tính tiểu khí. Nó hoàn toàn vô ích khi giáo dục trẻ em.

    Phải tôn trọng cá nhân người học, song song với việc giáo dục sự tôn trọng cá nhân người thầy. Và tất nhiên, người thầy phải tự giáo dục mình sao cho xứng đáng với sự tôn trọng ấy
    .
    Phải nêu cao những tấm gương lớn về nhân cách của những con người có công với xã hội và đất nước. Họ không chỉ là những chiến binh, mà cả các nhà văn hoá, khoa học, nghệ sĩ, ... Thậm chí nên cân nhắc cả những người mà lịch sử trước đây từng có đánh giá lệch lạc. Điển hình như nhà văn hoá Phạm Quỳnh, nhà thơ Trần Dần, hay Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc. Họ đều là những nhân cách lớn, với những đóng góp thầm lặng mà xã hội đang dần công nhận rộng rãi. Việc bảo tồn những tên tuổi này trong sử sách sẽ là minh chứng cho sự tiến bộ của xã hội, theo xu hướng khách quan hơn, đại lượng hơn.

    Phải giảm bớt khối lượng những bài vở nặng về tính kỹ thuật. Thay vào đó mở rộng sự phong phú của những nội dung xã hội và nhân văn, nhằm giúp các em có thêm cơ hội tự do phát huy trí tưởng tượng của mình. Cuộc sống là hành trình để khám phá chứ không đơn thuần là một chuỗi những sự vụ ép buộc phải hoàn thành. Chúng ta cần các em tập dượt để sau này làm chủ cuộc sống chứ không cần những người thợ bị lệ thuộc vào gánh nặng. Một đời sống mang quá nhiều gánh nặng, với những mục tiêu quá cụ thể, sẽ làm thiếu không gian để phát triển nhân cách lớn.

    Nhưng có lẽ mấu chốt quan trọng nhất chính là sự giáo dục từ gia đình. Như đã đề cập, mọi trẻ em đều có nhu cầu tâm lý chính đáng là được trân trọng và làm chủ được cuộc sống. Những bậc phụ huynh có thể do thiếu kinh nghiệm, hoặc thời gian, hoặc cả hai, thường đáp ứng điều này một cách dễ dàng. Nhưng chính những đứa trẻ được nuông chiều lại là những cá thể thường xuyên cảm thấy không được thoả mãn. Sự tôn trọng đến một cách quá dễ dàng cũng gần với sự thiếu được tôn trọng. Các em cần được vượt qua thử thách. Trong bài viết Trên ghế nhà trường (1), tác giả Cao Huy Thuần từng đề cập tới sự quan trọng của việc giáo dục trẻ em tính chuyên cần, làm việc gì cũng tới nơi tới chốn. Tính chuyên cần này không chỉ giúp các em sau này trở thành những người làm việc giỏi trong mọi lĩnh vực. Nó cũng là chìa khoá giúp mọi người có một đời sống tinh thần khoẻ khoắn. Cảm giác trọn vẹn vượt qua một thử thách là điều cần thiết, và không thể thay thế được trong đời sống mọi cá thể. Nó cho phép con người tự tin ở mình. Từ đó mới có được sự độ lượng và khách quan chân thật.

    Lời kết:

    Những yêu cầu đặt ra trong bài viết này thật bình thường. Chúng hiển nhiên phải có trong một xã hội tiến bộ. Nếu chúng ta tin tưởng rằng xã hội mình tất yếu phải đi tới sự tiến bộ, thì nghiễm nhiên ai cũng phải đối diện với câu hỏi của một thế hệ trong tương lai. Rằng chúng ta đã và đang làm gì cho sự tiến bộ mà ai cũng mong muốn này?
    ----------
    (1) Cao Huy Thuần, Trên ghế nhà trường, Tạp chí Tia Sáng, số 2&3 ngày 15/01/2009

    Phạm Đình Viễn



    Sunday, May 31, 2009

    Bản Tin Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ - LHNQVN-TS


    CSVN từ chối nhưng không có quyền phủ quyết và xóa bỏ 46 Khuyến Nghị do 18 nước đưa ra tại cuộc Khảo Sát Nhân Quyền ngày 8 tháng 5 năm 2009

    Bạn đọc đã tiếp nhận Bản Tin "Văn Bút Quốc Tế đã đóng góp gì cho cuộc Khảo Sát Nhân Quyền Việt Nam ?" và Bản Tin "Phúc Trình của Văn Bút Quốc Tế trong hồ sơ Khảo Sát Nhân Quyền Việt Nam" phổ biến trong hai ngày 18 và 22 tháng 5 năm 2009. Hôm nay, Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam gởi đến quý bạn bản dịch tiếng Việt trích Phần Kết Luận của bản Dự thảo Phúc Trình về tình trạng Nhân Quyền dưới chế độ CHXHCNVN của Nhóm Công Tác Khảo Sát Định Kỳ Toàn Cầu được thông qua trong phiên họp ngày 12 tháng 5 năm 2009.

    Nhắc lại và tóm tắt, chính phủ CSVN đã chấp nhận 93 Khuyến Nghị của các nước sau đây:

    1. Algérie 2. Nam Phi, Azerbaijan và Nigeria 3. Úc, Thụy Điển, Nigeria , Algérie và Chí Lợi 4. Mã Lai Á, Á Căn Đình và Thổ Nhĩ Kỳ 5. Á Căn Đình 6. Azerbaijan 7. Biélorussie 8. Nam Dương 9. Nhựt 10. Mã Lai Á 11. Liên Hiệp Vương Quốc Anh và Úc 12. Burkina Faso 13. Benin và Ba Tư 14. Ai Cập 15. Hàn Cộng và Liên Quốc Nga 16. Algérie 17. Thái Lan và Liên Hiệp Vương Quốc Anh 18. Maroc 19. Ý 20. Ba Tây 21. Palestine 22. Đức và Mễ Tây Cơ 23. Liên Hiệp Vương Quốc Anh 24. Algérie 25. Ai Cập 26. Maroc 27. Liên Hiệp Nga và Thụy Điển 28. Bangladesh 29. Hàn Cộng 30. Cuba 31. Libye 32. Thụy Sĩ 33. Na Uy và Đức 34. Ba Tư 35. Áo 36. Ba Tư 37. Maroc 38. Nam Dương và Ba Tư 39. Côte d’Ivoire , Thổ Nhĩ Kỳ và Pakistan 40. Bangladesh 41. Thổ Nhĩ Kỳ 42. Á Căn 43. Áo 44. Á Căn Đình 45. Ý 46. Gia Nã Đại 47. Thụy Điển 48. Úc và Thụy Sĩ 49. Na Uy 50. Liban 51. Lào Cộng 52. Nam Hàn 53. Cao Miên 54. Ấn Độ 55. Algérie 56. Thổ Nhĩ Kỳ 57. Phi Luật Tân 58. Ba Tây 59. Benin 60. Ai Cập 61. Algérie 62. Thái Lan 63. Zimbabwe 64. Liên Hiệp Nga 65. Liên Hiệp Nga 66. Lào Cộng 67. Trung Cộng 68. Cuba 69. Liban 70. Côte d’Ivoire 71. Cao Miên 72. Thụy Sĩ 73. Tân Gia Ba 74. Azerbaijan 75. Trung Cộng 76. Népal và Ấn Độ 77. Pakistan 78. Phi Luật Tân 79. Maroc 80. Phi Luật Tân 81. Yemen 82. Tunisie 83. Syrie 84. Algérie 85. Cao Miên 86. Miến Điện 87. Hàn Cộng, Népal và Bangladesh 88. Zimbabwe 89. Nepal 90. Lào Cộng 91. Sri Lanka 92. Venezuela và 93. Pakistan.

    Đồng thời, CHXHCNVN hứa sẽ xem xét một số Khuyến Nghị của Mã Lai Á, Biélorussie và Mễ Tây Cơ và kịp thời phản hồi để được ghi thêm vào bản Phúc Trình Kết Quả (cuộc Khảo Sát Nhân Quyền) mà Hội Đồng Nhân Quyền sẽ thông qua trong Khóa họp thứ 12 vào tháng 9 năm nay. CHXHCNVN cũng ghi nhận một số Khuyến Nghị của Gia Nã Đại, Ý, Ba Lan và Thụy Điển nhưng báo ngay rằng các Khuyến Nghị đó đang nằm trong các biện pháp đã hoặc đang được thực thi.

    Sau cùng, nhà cầm quyền CSVN từ chối chấp nhận 46 Khuyến Nghị của 18 nước như trình bày trong Phần Kết Luận của bản Dự thảo Phúc Trình. Đó là những Khuyến Nghị liên quan đến những vấn đề có nội dung ‘’cốt tủy’’ đối với một Nhà nước Pháp trị Dân chủ chính danh (khác hơn “Nhà nước Pháp quyền XHCNVN’’). Kể cả nhiều đề nghị áp dụng những biện pháp thiết yếu và cụ thể để bảo đảm sự tôn trọng và bảo vệ Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền phù hợp với các Công Ước Quốc Tế mà CHXHCNVN đã ký kết nhưng chưa tuân thủ, hoặc chưa chịu phê chuẩn. Những vấn đề đó có tính cách ‘’siêu nhạy cảm’’ hoặc có liên hệ đến những điều mà CHXHCNVN luôn luôn muốn xếp vào loại ‘’quốc cấm’’, thuộc lãnh vực “an ninh nhà nước’’. CSVN từ chối nhưng không có quyền phủ quyết và xóa bỏ 46 Khuyến Nghị mà họ không bao giờ thích nghe nói đến và cũng rất lo sợ nếu phải đem ra thực thi. Điều quan trọng cần và đáng lưu ý hơn nữa: Tất cả những Khuyến Nghị được chấp thuận hay bị từ chối đều đã được ghi chép thành văn bản chính thức của Liên Hiệp Quốc. Đồng bào trong nước từ nay và mãi mãi vẫn có thể vào Trang Thông Tin điện tử của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc đặc trách Nhân Quyền:

    http://lib.ohchr.org/HRBodies/UPR/Documents/Session5VNA_HRC_WG6_5_L10_VNM_E.pdf

    để tham khảo bản Phúc Trình về Nhân Quyền Việt Nam cùng tất cả các tài liệu liên hệ đến cuộc Khảo Sát Định Kỳ Toàn Cầu mà CHXHCNVN vừa trải qua.

    Hơn 150 Khuyến Nghị chỉ riêng cho một nước đối tượng của cuộc Khảo Sát Định Kỳ Toàn Cầu về Nhân Quyền ! Đếm từng con số và đọc từng Khuyến Nghị cho đến chấm hết cũng đủ chóng mặt. Chúng tôi sẽ trở lại với 93 Khuyến Nghị được CHXHCNVN chấp thuận trong một Bản Tin kỳ tới. Tuy nhiên, xin đơn cử vài Khuyến Nghị để làm thí dụ mở đầu:

    - Hãy có những biện pháp tích cực để lấp cái hố (bất công xã hội) giữa giàu và nghèo ... (Libaodong/Trung Cộng);

    - Hãy cải cách tư pháp để tiến đến một hệ thống tư pháp lành mạnh, dân chủ và hữu hiệu. Hãy hợp tác với cộng đồng quốc tế và các nước láng diềng nhứt là trong cuộc chiến chống các tội phạm có tổ chức xuyên biên giới, chống sự buôn bán phụ nữ và trẻ con. Hãy tăng cường các nổ lực chống nạn tham nhũng có tác dụng tệ hại đối với nhân quyền mà mọi người được hưởng (Asadollah Eshragh Jahromi/Ba Tư);

    - Hãy tăng tốc những cải cách về luật lệ và chương trình quản trị công cộng để đào sâu và mở rộng các quy phạm, nguyên tắc và tiêu chuẩn dân chủ. Hãy xem xét việc tiếp cận Công Ước Liên Hiệp Quốc chống Tội phạm có Tổ chức Xuyên Biên giới và Nghị định thư nhằm ngăn ngừa, cấm chỉ và trừng phạt nạn buôn bán người, nhứt là phụ nữ và trẻ con. Hãy xem xét việc tiếp cận Công Ứơc Lao Động chống Cưỡng bức Lao công (Othman Hashim/Mã Lai Á);

    - Hãy thông qua những biện pháp để ngăn ngừa và sớm chẩn đoán những bệnh truyền nhiễm và những dịch truyền nhiễm toàn xứ, nhứt là bệnh HIV/AIDS/SIDA dành ưu tiên cho những từng lớp dân chúng dễ bị tổn thương, đặc biệt là các dân tộc thiểu số, giai cấp bần hàn và những người hành nghề mãi dâm. Hãy tiếp tục cố gắng hơn nữa để phát huy và bảo vệ Nhân Quyền tại Việt Nam (Yao Amoussou/Bénin);

    - Hãy ban hành thêm những biện pháp yểm trợ trẻ em các dân tộc thiểu số được tiếp cận nền giáo dục bằng cách giúp đỡ để duy trì và phát triễn những truyền thống văn hóa và ngôn ngử của các dân tộc đó. Hãy tiếp tục nổ lực quốc gia chống lại nạn lao công cưỡng bức và nạn buôn bán người. Hãy ban hành những biện pháp cấn thiết để ngăn ngừa, cấm chỉ và trừng phạt nạn buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ con (Mohamed Achgalou/Maroc).

    - Ghi nhận Ủy Ban về Quyền Trẻ con CRC hoan nghênh các kế hoạch hành động quốc gia về Trẻ con và nạn buôn bán phụ nữ và trẻ con. Hãy cố gắng hơn nữa để bảo tồn ngôn ngữ và văn hóa của các dân tộc thiểu số (Gopinathan Achamkulangare/Ấn Độ). (Còn tiếp).

    Những người Việt Nam yêu đất nước thương đồng bào, đang tranh đấu cho Chính Nghĩa Dân Tộc - Dân Quyền - Dân Sinh, ngay chính trên quê hương mình đang sống như thể bị "lưu đày", sẽ phải còn chịu đựng nhiều sự trấn áp nghiệt ngã. Bởi vì nhà cầm quyền hiện hữu đã có thể lạnh lùng từ chối tiếp nhận 46 Khuyến Nghị xây dựng trên những cơ sở vững chắc với thiện ý trong sáng của 18 nước có chính thể khác nhau và không có thái độ gì gọi là "thù nghịch" với nhân dân Việt Nam.

    Nhưng những chiến sĩ hiếu hòa nhưng quyết tâm hành động để phục hồi và bảo vệ Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền Việt Nam sẽ không bao giờ cô độc. Chắc chắn tình trạng vi phạm Nhân Quyền Việt Nam tiếp tục là một mối quan tâm của nhiều nước dân chủ, hội viên Liên Hiệp Quốc và thành viên Hội Đồng Nhân Quyền hoặc quan sát viên tại tổ chức này. Chia xẻ mối quan tâm chung đó còn có các tổ chức Phi Chính phủ bênh vực Nhân Quyền cũng như nhiều tổ chức quốc tế và các Quốc hội dân chủ trên thế giới. Tất cả những người bạn tốt của dân tộc Việt Nam sẽ xem xét CHXHCNVN có thực thi hay không và nếu có, thì thực thi đến đâu, gần một trăm Khuyến Nghị mà họ đã chấp thuận trên Văn kiện chính thức trước Hội Đồng Nhân Quyền. Tất cả sẽ tiếp tục đề cập, truy hỏi, chất vấn nhà cầm quyền CSVN và đại diện của họ về những vấn đề nêu ra trong 46 Khuyến Nghị bị họ ngoan cố từ chối trước sự chứng giám của công luận quốc tế.

    Genève ngày 28 tháng 5 năm 2009

    Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ

    Ligue Việtnamienne des Droits de l’Homme en Suisse

    Viet namese Ligue for Human Rights in Switzerland
    ---------------------------------------

    DỰ THẢO PHÚC TRÌNH CỦA NHÓM CÔNG TÁC VỀ KHẢO SÁT ĐỊNH KỲ TOÀN CẦU (UPR) CỦA VIỆT NAM

    A. HRC/WG.6/5/L.10 (Hội Đồng Nhân Quyền/Nhóm Công tác 6/5/L.10)

    Ngày 12 tháng 05 năm 2009

    II. KẾT LUẬN và/hoặc KHUYẾN NGHỊ

    99. Các Khuyến nghị được đưa ra trong cuộc đối thoại đa phương (phiên họp ngày 8 tháng 5 năm 2009) đã được Việt Nam nghiên cứu và các Khuyến nghị đánh số dưới đây nhận được sự ủng hộ của Việt Nam : tất cả Khuyến nghị bao gồm từ 1. đến 93. (từ trang 19 đến 27 của bản Phúc trình). *

    100. Các khuyến nghị sau đây sẽ được Việt Nam nghiên cứu và phản hồi theo thời hạn. Các phản hồi của Việt Nam đối với các Khuyến nghị này sẽ được đưa vào báo cáo kết quả sẽ được Hội đồng Nhân quyền thông qua vào phiên họp thứ 12 :

    1. Xem xét việc gia nhập Công ước chống Lao động Cưỡng bức của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế (Mã Lai Á); tiếp tục qui trình gia nhập các Công ước thích hợp của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế (Biélorussie); xem xét để phê chuẩn Công ước số 169 của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế liên quan đến Dân chúng Bản xứ và Bộ lạc tại các Quốc gia Độc lập (Mễ Tây Cơ).

    2. Xem xét nghiêm chỉnh để đưa ra lời mời Nhóm Công tác về Giam cầm Độc đoán tới thị sát Việt Nam (Mễ Tây Cơ).

    101. Việt Nam đã ghi nhận các Khuyến nghị sau đây và đã bày tỏ các Khuyến nghị đó đang nằm trong các biện pháp đã hoặc đang được thực hiện :

    1. Đảm bảo cho những người bị giam giữ vì các luật liên quan đến an ninh hoặc tuyên truyền được sự bảo vệ cơ bản của luật pháp, bao gồm cả quyền được đại diện bởi luật sư theo yêu cầu của họ trong suốt quá trình tố tụng và xét xử (Gia Nã Đại).

    2. Giảm thời hạn tù cho các tội danh phi bạo lực (Gia Nã Đại).

    3. Thông qua luật cho người tố cáo để bảo vệ người tố giác tham nhũng tránh bị kết tội hoặc sách nhiễu (Gia Nã Đại).

    4. Thúc đẩy nỗ lực để đảm bảo việc tôn trọng đầy đủ quyền tự do tôn giáo, thờ phụng, kể cả việc sửa đổi các luật và qui định ở mọi cấp độ liên quan đến tự do tôn giáo nhằm làm cho luật pháp, qui định phù hợp với Điều 18 của ICCPR (Ý, Ba Lan).

    5. Áp dụng nhiều biện pháp hơn để ngăn ngừa bạo hành và phân biệt đối xử với các nhóm dân tộc thiểu số (Thụy Điển).

    102. Các Khuyến nghị trong bản Phúc trình tại các phần :

    35 Gia Nã Đại (a, b, e, g, i); 41 Na Uy (b, d, e), 44 Ba Tây (a, b); 47 Hòa Lan (a, b, c, d); 51 Liên Hiệp Vương Quốc Anh và Bắc Ái Nhĩ Lan (a, b); 55 Mễ Tây Cơ (a); 56 Azerbaijan (c); 59 Tân Tây Lan (a, b, c, d); 60 Áo (b), 61 Thụy Sĩ (d); 63 Phần Lan (a, b, c, d); 64 Đức (b, c, d, e); 66 Hoa Kỳ (a, b, c, d); 83 Á Căn Đình (b, c); 85 Pháp (a, b, c); 87 Ý (b); 89 Chí Lợi (b); 90 Ba Lan (a, c) đã không được Việt Nam ủng hộ (liệt kê với chi tiết dưới đây).
    .......................................................................

    Gia Nã Đại (trang 9)

    35. Gia Nã Đại đã khuyến nghị Việt Nam nên:

    a. Tăng cường tính độc lập của truyền thông nhà nước, kể cả việc cho phát triển truyền thông tư nhân;

    b. Sửa lại luật báo chí phù hợp với Điều 19 của Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR).

    c. Thông qua luật cho người tố cáo để bảo vệ người tố giác tham nhũng tránh bị kết tội, sách nhiễu, và

    d. Thông qua luật tiếp cận thông tin.

    Gia Nã Đại đã ghi nhận luật pháp tại Việt Nam đôi khi đã bị dùng để hạn chế quyền tự do lập hội. Canada khuyến nghị Việt Nam nên:

    e. Giảm việc sử dụng luật an ninh để hạn chế các tranh luận xã hội về dân chủ đa đảng hoặc chỉ trích chính quyền, kể cả việc cải cách các luật an ninh và tuyên truyền cho phù hợp với ICCPR;

    f. Giảm thời hạn tù cho các tội danh phi bạo lực;

    g. Lập danh sách các tù nhân bị kết tội theo các điều luật về an ninh và công khai các thông tin đó; và

    h. Đảm bảo cho những người bị bắt liên quan tới các điều luật về an ninh hay tuyên truyền có sự bảo vệ cơ bản về luật pháp, kể cả việc được đại diện bởi luật sư theo lựa chọn của họ trong suốt quá trình tố tụng và xét xử.

    Gia Nã Đại khuyến nghị Việt Nam nên:

    i. Đưa ra lời mời thường trực tới tất cả các Báo Cáo viên Đặc nhiệm của Hội đồng Nhân quyền.

    Na Uy (trang 9, 10)

    41. Na Uy ghi nhận Việt Nam đang có mục tiêu hạn chế các án tử hình và khuyến nghị Việt Nam nên:

    a. Thực hiện đầy đủ ngay việc đó bằng việc giảm phạm vi các tội danh có án tử hình.

    Na Uy khuyến nghị Việt Nam nên:

    b. Cho phép các cá nhân, nhóm và các tổ chức của xã hội có quyền chính đáng và được thừa nhận có quyền cổ vũ, khuếch trương nhân quyền, cũng như thể hiện quan điểm hay các bất đồng một cách công khai, và

    c. Xây dựng các biện pháp thích hợp để truyền bá rộng rãi và bảo đảm sự quan sát đầy đủ Tuyên Ngôn của Liên Hiệp Quốc về Người Bảo Vệ Nhân Quyền.

    Na Uy khuyến nghị Việt Nam nên:

    d. Đảm bảo cho truyền thông có thể hoạt động tự do và độc lập, và

    e. Đảm bảo Luật Báo chí, khi sửa đổi, phù hợp với ICCPR và có một khung pháp luật cho phép sự tồn tại của báo chí tư nhân.

    Ba Tây (trang 10)

    44. Ba Tây khen ngợi Chính phủ (CHXHCNVN) đang hoàn thiện xã hội dân sự và khuyến nghị Chính phủ nên:

    a. Xây dựng một cơ quan giám sát độc lập và thường trực về nhân quyền;

    b. Xem lại danh mục tội danh có án tử hình, với quan điểm tiến tới bãi bỏ hình phạt tử hình;

    c. Tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ đối với các dịch vụ y tế, đặc biệt là các dịch vụ về giới tính và sinh sản; và

    d. Thực hiện tăng dần từng bước các mục tiêu về nhân quyền đã ghi rõ trong nghị quyết 9/12.

    Hòa-Lan (trang 10)

    47. Hòa-Lan khuyến nghị Chính phủ nên:

    a. Đảm bảo Luật Báo chí phù hợp với điều 19 ICCPR,

    b. Cho phép các báo, tạp chí độc lập và do tư nhân điều hành hoạt động; và

    c. Bãi bỏ các hạn chế về Internet như sàng lọc và theo dõi. Hòa Lan hoan nghênh các bước tiến đến việc phê chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc chống Tham nhũng.

    Hòa-Lan ghi nhận đã có một số lời mời rộng lượng và khuyến nghị Việt Nam nên

    d. Xem xét việc công bố lời mời thường trực đến tất cả các Báo Cáo viên Đặc nhiệm của Liên Hiệp Quốc.

    Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ái Nhĩ Lan (trang 10, 11)

    51. Trong khi khen ngợi Việt Nam cho những tiến bộ gần đây trong lĩnh vực tự do tôn giáo, Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ái Nhĩ Lan vẫn tỏ sự quan ngại về sự thực hiện luật pháp kiểu chắp vá, nhất là ở cấp tỉnh. Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ái Nhĩ Lan khuyến nghị Việt Nam nên:

    a. Hợp tác thực sự với các chuyên gia quốc tế về phát triển luật truyền thông và các công việc làm tăng tính độc lập cho các cơ quan truyền thông của Việt Nam ;

    b. Tiếp tục xây dựng đối thoại về chính sách giữa chính quyền và các tổ chức dân sự độc lập;

    c. Tham dự đối thoại với các chuyên gia quốc tế về phát triển luật pháp, kể cả việc xem xét lại Luật Hình sự để hạn chế sự diễn giải tùy ý của các thẩm phán và tòa án;

    d. Tiếp tục thực hiện các chương trình đào tạo toàn diện cho các quan chức địa phương, kiểm soát tiến trình thực thi luật pháp và

    e. Tham dự trở lại với Báo Cáo viên Đặc nhiệm của Liên Hiệp Quốc về tôn giáo.

    Mễ Tây Cơ (trang 12)

    55. Nhấn mạnh các kết quả xuất sắc của Việt Nam về giảm nghèo, Mễ Tây Cơ khuyến nghị Việt Nam nên:

    a. Thực hiện các biện pháp cần thiết để thiết lập một cơ quan nhân quyền quốc gia phù hợp với các Nguyên tắc Paris ;

    b. Tăng cường hợp tác với các Báo Cáo viên Đặc nhiệm của Liên Hiệp Quốc, đặc biệt là việc chuyển lời mời thị sát quốc gia tới Nhóm Công tác về Giam Cầm Độc Đoán và với quan điểm hoàn thiện các sáng kiến của chính phủ liên quan đến các nhóm dân tộc thiểu số;

    c. Xem xét để phê chuẩn Công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), mục 169 liên quan tới các Dân tộc Bản xứ và Bộ lạc ở các Quốc gia Độc lập.

    Azerbaijan (trang 12)

    56. Azerbaijan ghi nhận luật pháp cơ bản ở Việt Nam bảo vệ và cổ vũ các quyền trẻ em. Azerbaijan khuyến nghị Chính phủ nên:

    a. Tiếp tục các cố gắng trong việc lập hồ sơ chú ý đặc biệt, bên cạnh nhiều vấn đề khác, tới các nhóm dễ tổn thương như trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật và các nhóm dân tộc thiểu số. Azerbaijan đã hỏi Việt Nam về ý định thúc đẩy việc lập một hệ thống quốc gia để tiếp nhận, kiểm soát, và điều tra các tố cáo về xâm hại trẻ em. Azerbaijan ghi nhận rằng ứng xử kiểu gia trưởng và bạo hành gia đình vẫn là thách thức tại Việt Nam . Azerbaijan nêu ra việc nhiều báo cáo của Việt Nam cho các cơ quan kết ước đã bị quá hạn và hỏi về các lý do lỡ hạn đó. Azerbaijan khuyến nghị Việt Nam nên:

    b. Xem xét việc phê chuẩn Công ước Quốc tế về Bảo vệ các Quyền của tất cả các Lao động Di trú và Thành viên gia đình của họ và Công ước về các Quyền của Người khuyết tật; và

    c. Thiết lập một cơ quan quốc gia nhân quyền phù hợp với các Nguyên tắc Paris .

    Tân Tây Lan (trang 13)

    59. Tân Tây Lan hoan nghênh cam kết của Việt Nam tăng cường hợp tác và khuyến nghị Việt Nam nên:

    a. Đưa ra lời mời thường trực đối với tất cả các Báo Cáo viên Đặc nhiệm và, đặc biệt, mời Báo Cáo viên Đặc nhiệm về tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng, tự do phát biểu quan điểm, tình trạng tra tấn và bạo hành phụ nữ.

    Tân Tây Lan khuyến nghị Việt Nam nên:

    b. Cho phép sự độc lập của truyền thông, cải thiện việc thực hiện Điều 19 của ICCPR, và cho phép tiến hành các hoạt động truyền thông tư nhân.

    Tân Tây Lan quan tâm tới các biện pháp của Việt Nam đang thực hiện để chống nạn phân biệt phụ nữ.

    Tân Tây Lan khuyến nghị Việt Nam nên:

    c. Thực hiện các bước đi để xóa bỏ án tử hình và tăng cường sự minh bạch trong việc sử dụng án tử hình; và

    d. Thiết lập một cơ quan quốc gia nhân quyền phù hợp với các nguyên tắc Paris .

    Áo (trang 13)

    60. Áo viện dẫn Điều 120 của Luật Tố tụng Hình sự của Việt Nam và hỏi liệu chính phủ có xem xét việc thay đổi. Áo khuyến nghị Chính phủ nên:

    a. Thực hiện các bước đi cụ thể để đảm bảo hiệu quả cho tất cả những người bị tước đoạt tự do được đưa ra tòa xét xử không chậm trễ.

    Đối với những quan ngại về Nghị định số 89/198, Áo khuyến nghị Chính phủ nên:

    b. Cung cấp cho công chúng biết thông tin về số các trại giam giữ của công an và quân đội và số người đang bị giam giữ trong đó, và

    c. Đảm bảo cho những người bị giam giữ được tiếp cận không bị gây khó dễ với luật sư.

    Áo khuyến nghị không chỉ nên:

    d. Tăng cường nỗ lực trong việc chống mãi dâm trẻ em mà còn phải cung cấp các trợ giúp hiệu quả cho các trẻ em bị xâm hại và tăng cường sự hiểu biết nhạy cảm cho lực lượng công an về vấn đề này qua các hoạt động đào tạo thích hợp.

    Thụy Sĩ (trang 13)

    61. Thụy Sĩ đã theo dõi kỹ lưỡng các biện pháp xử lý tham nhũng ở Việt Nam . Thụy Sĩ ghi nhận rằng truyền thông đại chúng đóng vai trò cốt yếu trong sự chống tham nhũng và khuyến nghị rằng Việt Nam nên :

    a. Đảm bảo việc sửa đổi luật báo chí phải hướng theo các tiêu chuẩn quốc tế về vấn đề này, đặc biệt là tôn trọng việc bảo vệ các nhà báo.

    Thụy Sĩ khuyến nghị Việt Nam nên

    b. Sửa đổi luật về án tử hình cho phù hợp với các tiêu chuẩn hiện hành của quốc tế, đặc biệt liên quan tới tính minh bạch.

    Thụy Sĩ hy vọng rằng :

    c. Luật đất đai đã được thông qua của Việt Nam sẽ được thực hiện đầy đủ và Thụy Sĩ thúc giục Việt Nam :

    d. Công bố lời mời thường trực tới các tất cả các Báo Cáo viên Đặc nhiệm của Liên Hiệp Quốc.

    Phần Lan (trang 13)

    63. Hỏi Việt Nam liệu có chấp nhận thị sát của Báo Cáo viên Đặc nhiệm của Liên Hiệp Quốc về quyền tự do ngôn luận và phát biểu quan điểm không, Phần Lan khuyến nghị:

    a. Cho phép truyền thông thực hiện vai trò giám sát trong xã hội, và

    b) Sửa Luật Báo chí cho phù hợp với các qui định của ICCPR.

    Phần Lan khuyến nghị:

    c. Bải bỏ hoặc sửa Luật Hình sự để đảm bảo không có sự tùy tiện trong việc ngăn cản quyền tự do thể hiện.

    Phần Lan hỏi liệu Việt Nam có chấp nhận thị sát của Báo Cáo viên Đặc nhiệm của Liên Hiệp Quốc về việc thực thi các án tử hình có tính phi pháp, chiếu lệ hay tùy tiện không, Phần Lan khuyến nghị:

    d. Quyết định tạm dừng việc thi hành án tử hình ngay lập tức để tiến tới mục tiêu bãi bỏ hoàn toàn án tử hình.

    Đức (trang 13, 14)

    64. Đức ghi nhận các quan ngại của CRC về mức độ gia tăng mại dâm trẻ em và du lịch tình dục và hỏi Việt Nam về các biện pháp đối phó. Đức khuyến nghị:

    a. Tăng cường hợp tác với các tổ chức, cơ chế hoạt động về quyền con người của Liên Hiệp Quốc và

    b. Mời và tạo điều kiện cho các chuyến thị sát của Báo Cáo viên Đặc nhiệm của Liên Hiệp Quốc về quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng;

    c. Thiết lập một cơ quan quốc gia quyền con người phù hợp với các Nguyên tắc Paris .

    d. Thực hiện các biện pháp cần thiết để chấm dứt các hạn chế về quyền được tự do phát biểu quan điểm và hội họp ôn hòa

    Đức khuyến nghị Việt Nam nên:

    e. Xuất bản mọi thông tin về các án tử hình đã thực hiện, và

    f) Giảm số các tội danh phải chịu án tử hình.

    Hoa Kỳ (Hợp Chủng Quốc Mỹ Châu) (trang 14)

    66. Hoa Kỳ khuyến nghị Việt Nam nên:

    a. Chứng tỏ các cam kết của Việt Nam đối với Điều 68 của Hiến pháp Việt Nam, Điều 19 của ICCPR và Điều 19 của Tuyên ngôn Nhân quyền toàn Thế giới (UDHR) bằng việc đảm bảo quyền tự do thể hiện cho các cơ quan báo chí, phóng viên không phải sợ hãi bị bắt hay bị buộc tội một cách tùy tiện và bảo đảm thông tin được tự do lưu thông trên internet và bãi bỏ các qui định hạn chế đối với nhựt ký điện tử (blog) và truyền thông.

    Hoa Kỳ khuyến nghị Việt Nam nên:

    b. Chứng tỏ các cam kết của Việt Nam đối với Điều 50 và 69 trong Hiến pháp Việt Nam, Điều 19, 21 và 22 của ICCPR và Điều 20 của UDHR bằng việc cho phép các cá nhân được phát biểu về hệ thống chính trị và thả tất cả các tù nhân lương tâm như Linh mục Nguyễn Văn Lý, luật sư Nguyễn Văn Đài và luật sư Lê Thị Công Nhân và xóa bỏ các điều luật mơ hồ về “an ninh quốc gia” như Điều 84, 88 và 258 đã được dùng để kết tội những người có tiếng nói bất đồng với chính quyền và các chính sách của chính quyền.

    Hoa Kỳ khuyến nghị Việt Nam nên:

    c. Theo điều 70 trong Hiến pháp Việt Nam, Chính phủ tăng tốc việc đăng ký tại địa phương cho các nhà thờ, các tổ chức tôn giáo như đã được ghi rõ trong các khung luật về tôn giáo và tạo điều kiện cho cách giải quyết công bằng về các tranh cãi về tài sản như qui định trong Hiến pháp và Chỉ thị của Thủ tướng về tài sản của tôn giáo và

    d. Thừa nhận sự hợp pháp của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và cho phép Giáo Hội này được hoạt động độc lập đối Giáo Hội Phật giáo Việt Nam và cho phép các giáo phái khác nhau của Hòa Hảo và Cao Đài được hoạt động.

    Á Căn Đình (trang 17)

    83. Á Căn Đình khuyến nghị Việt Nam nên:

    a. Thực hiện các bước đi cần thiết để phù hợp với ICCPR, đặc biệt trong việc giảm các trường hợp giam giữ tùy tiện và đảm bảo chắc chắn quyền được xét xử công bằng theo luật pháp được thực hiện; và

    b. Thực hiện các bước đi cần thiết để đảm bảo các công dân có thể tận hưởng đầy đủ các quyền của họ, kể cả việc mời các Báo Cáo viên Đặc nhiệm của Liên Hiệp Quốc về quyền tự do phát biểu quan điểm và tự do tôn giáo tới thị sát quốc gia.

    Á Căn Đình khuyến nghị rằng Việt Nam nên:

    c. Phê chuẩn Nghị định thư tự nguyện thứ hai đối với ICCPR để xóa bỏ án tử hình. Trong khi tiến đến mục tiêu này, Á Căn Đình cũng khen ngợi Việt Nam đã giảm số các tội danh có án tử hình và hy vọng rằng án tử hình sẽ được thực thi phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và được hoàn toàn minh bạch.

    Á Căn Đình khuyến nghị Việt Nam nên:

    d. Phê chuẩn Công ước Quốc tế để Bảo vệ tất cả mọi người trước các âm mưu Thủ tiêu, Luật Rome về Tòa án Hình sự Quốc tế, Nghị định thư Palerma và Công ước về người tỵ nạn và người mất nước.

    Á Can Đình đã hỏi Việt Nam về các kinh nghiệm cải cách tư pháp, tái xây dựng các định chế trong thời kỳ hậu xung đột và các biện pháp giảm đói và đáp ứng các nhu cầu của các nhóm dễ bị tổn thương.

    Pháp (trang 17)

    85. Pháp nhắc đến dự thảo sửa đổi luật hình sự năm 2008 đã giảm số tội danh có hình phạt tử hình và hỏi khi nào dự thảo đó được thông qua. Pháp cũng hỏi Việt Nam liệu có ý muốn đón tiếp các chuyến thị sát của tất cả các Báo Cáo viên Đặc nhiệm của Liên Hiệp Quốc và không chỉ về các vấn đề kinh tế, xã hội và văn hóa không? Pháp cũng hỏi về các biện pháp ngăn ngừa, chống và loại trừ sự phân biệt và bạo hành đối với những người thuộc các nhóm dân tộc thiểu số.

    Pháp khuyến nghị chính phủ nên:

    a. Áp dụng các biện pháp được Ủy ban Nhân quyền ủng hộ để chấm dứt sự hạn chế đối với các quyền tự do phát biểu quan điểm và quan niệm, và đặc biệt, các hạn chế cho việc hình thành các cơ quan truyền thông tư nhân cùng một lúc.

    b. Xây dựng một cơ quan quốc gia về nhân quyền phù hợp với các Nguyên tắc Paris , và

    c. Ký và phê chuẩn Luật Rome về Tòa án Hình sự Quốc tế.

    Ý (trang 18)

    87. Ý khuyến nghị Việt Nam nên:

    a. Đẩy nhanh các nỗ lực để đảm bảo tôn trọng đầy đủ quyền tự do tôn giáo và thờ phụng, kể cả sửa lại các luật và qui định ở mọi cấp độ, liên quan đến quyền tự do tôn giáo, cho phù hợp với Điều 18 của ICCPR;

    b. Phản hồi tích cực đối với đề nghị thị sát quốc gia của Báo Cáo viên Đặc nhiệm của Liên Hiệp Quốc về tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng đã gửi trong năm 2008.

    Ý khuyến nghị Việt Nam nên:

    c. Đảm bảo đầy đủ quyền nhận, tìm kiếm và chia sẻ thông tin và ý tưởng, phù hợp với Điều 19 của ICCPR; và

    d. Triển khai chiến lược quốc gia trong hệ thống trường học ở mọi cấp độ với các biện pháp thích hợp nhằm giáo dục về nhân quyền phù hợp với Kế hoạch Hành động 2005-2009 của Chương trình Thế giới về giáo dục nhân quyền.

    Chí-Lợi (trang 18)

    89. Chi-Lợi hoan nghênh các nỗ lực của Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống cực đói nghèo. Chí-Lợi khuyến nghị Việt Nam nên xem xét:

    a. Phê chuẩn Công ước chống Tra tấn (CAT) và

    b. Nghị định thư Tự nguyện ngay khi có thể.

    Chí-Lợi cũng ghi nhận ý định của Việt Nam đã thể hiện trong việc giảm phạm vi áp dụng hình phạt (tử hình). Chí Lợi đề nghị cho biết các thông tin về các hành động có mục đích nhằm lập lại, trong nhiều việc khác, nhu cầu duy trì ổn định xã hội và chính trị để phát triển, đề nghị Việt Nam nói rõ về quan điểm này và làm cách nào để Việt Nam vẫn đảm bảo ổn định nhưng không áp đặt một mô hình duy nhất đối với xã hội.

    Ba Lan (trang 18)

    90. Ba Lan khuyến nghị Việt Nam nên:

    a. Thiết lập một cơ quan giám sát độc lập và thường trực về nhân quyền, kể cả cơ quan giám sát các quyền

    trẻ em.

    Ba Lan ghi nhận có nhiều báo cáo cho biết các thành viên của các nhóm tôn giáo đặc biệt đang bị hạn chế nặng nề về quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng, Ba Lan khuyến nghị Việt Nam nên:

    Đảm bảo luật pháp và việc thực thi của Nhà nước phải phù hợp hoàn toàn với yêu cầu của Điều 18 trong ICCR.

    Ba Lan cũng khuyến nghị Việt Nam nên:

    c. Bãi bỏ Chỉ thị số 44 về vi phạm hành chính, cho phép giam giữ hành chính, quản thúc tại gia hoặc giam giữ tại các trung tâm đặc biệt, bệnh viện tâm thần trong thời gian 2 năm và có thể tái hồi không cần xét xử.

    ------------------ Dịch từ Anh ngữ sang Việt ngữ: Hà Tản Viên - D.Y. ------------------

    * Vì nguyên văn tiếng Anh của 93 Khuyến Nghị được ghi chép trên hơn 8 trang giấy A 4, chúng tôi rất tiếc không thể phổ biến tất cả trong Bản Tin kỳ này, kể cả bản dịch tiếng Việt chưa hoàn tất.

    DRAFT REPORT OF THE WORKING GROUP ON THE UPR VIET NAM

    A) HRC/WG.6/5/L.10

    12 May 2009 Original: English only

    II. CONCLUSIONS AND/OR RECOMMENDATIONS

    99. The recommendations formulated during the interactive dialogue have been examined by Viet Nam and the recommendations listed below enjoy the support of Viet Nam .

    1) to 93) incluses. (from page 19 to page 27) *

    100. The following recommendations will be examined by Viet Nam which will provide responses in due time. The responses of Viet Nam to these recommendations will be included in the outcome report adopted by the Human Rights Council at its twelfth session.

    1. Consider accession to the ILO Forced Labour Convention (Malaysia); continue the process of acceding to the appropriate ILO conventions (Belarus); favourably consider the ratification of ILO Convention No. 169 concerning Indigenous and Tribal Peoples in Independent Countries. (Mexico)

    2. Consider positively extending an invitation to visit the country to the Working Group on Arbitrary Detention (Mexico).

    101. Viet Nam noted the following recommendations and indicated that they pertain to measures which have been implemented or are currently being implemented.

    Provide people detained under security or propaganda laws with fundamental legal safeguards, including representation by legal counsel of their choice throughout the proceedings and a public trial (Canada)

    Reduce the length of prison sentences for non-violent crimes (Canada)

    Adopt a whistleblower law so that those who identify corruption are protected from prosecution or harassment (Canada)

    Step up efforts to ensure the full respect of freedom of religion and worship, including by reviewing laws and provisions at all levels related to the freedom of religion, in order to align them with Article 18 of the ICCPR ( Italy ) ( Poland )

    Take further measures to prevent violence and discrimination against ethic minorities (Sweden).

    102. The recommendations noted in the report in paragraphs 35 (a, b, e, g, i); 41 (b, d, e), 44 (a, b); 47 (a, b, c, d); 51 (a, b); 55 (a); 56 (c); 59 (a, b, c, d); 60 (b), 61 (d); 63 (a, b, c, d); 64 (b, c, d, e); 66 (a, b, c, d); 83 (b, c); 85 (a, b, c); 87 (b); 89 (b); 90 (a, c) above did not enjoy the support of Viet Nam (below)

    Canada (page 9)

    35. Canada recommended that Viet Nam

    a) increase the independence of media from the State, including by allowing privately-run media;

    b) bring its press laws into compliance with article 19 of the ICCPR;

    c) adopt a whistleblower law so that those who identify corruption are protected from prosecution or harassment; and

    d) adopt access-to-information legislation.

    Canada noted that laws are sometimes applied to restrict the freedom of association. It recommended that Viet Nam

    e) reduce the use of security laws that limit public discussion about multi-party democracy or criticism of the government, including by bringing security and propaganda laws into compliance with the ICCPR;

    f) reduce the length of prison sentences for non-violent crimes;

    g) register all individuals detained under security laws, and make this information publicly available; and

    h) provide people detained under security or propaganda laws with fundamental legal safeguards, including representation by legal counsel of their choice throughout the proceedings and a public trial.

    Canada recommended that Viet Nam

    i) issue a standing invitation to all special procedures of the Human Rights Council.

    Norway (pages 9, 10)

    41. Norway noted aims to limit the use of capital punishment and recommended that Viet Nam

    a) complete it promptly by reducing the scope of crimes subject to the death penalty.

    Norway recommended that Viet Nam

    b) give individuals, groups and organs of society the legitimacy and recognition to promote human rights as well as to express their opinions or dissent publicly, and

    c) adopt appropriate measures to disseminate widely and ensure full observation of the United Nations Declaration on Human Rights Defenders.

    Norway recommended that Viet Nam

    d) ensures that the media can operate freely and independently, and

    e) ensures that the Press Law, in amending it, complies with the ICCPR and that the legal framework allows the existence of privately owned media.

    Brazil (page 10)

    44. Brazil commended the Government for encompassing civil society in efforts and recommended that the Government

    a) establish a permanent independent human rights monitoring body;

    b) review the list the list of crimes for which death penalty is imposed, with a view to abolishing capital punishing;

    c) enhance women’s access to health care, in particular to sexual and reproductive health services; and

    d) accomplish progressively human rights goals as set up in resolution 9/12.

    Netherlands (page 10)

    47. Netherlands recommended that the Government

    a) ensures that press laws are in compliance with article 19 of the ICCPR,

    b) authorise independent and privately-run newspapers and magazines; and

    c) lift restrictions on internet usage such as filtering and surveillance. It welcomed steps towards the ratification of the United Nations Convention against Corruption.

    The Netherlands noted the generous number of invitations, and recommended that Viet Nam

    d) considers issuing a standing invitation to all United Nations special procedures.

    The United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland (pages 10, 11)

    51. Whilst commending Viet Nam for its recent progress in the area of freedom of religion, the United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland remained concerned that implementation of legislation remains patchy, particularly at the provincial level. It recommended Viet Nam

    a) to engage substantively with international experts on the development of its media law, and works to increase the independence of Vietnamese media institutions;

    b) to continue to built policy dialogue between government and independent civil society organisations;

    c) to engage in dialogue with international experts on legal developments, including on the review of its Penal Code to allow less scope for open interpretation of these provisions by judges and courts; and

    d) to continue to undertake comprehensive training programmes for local officials, monitor progress on implementation of legislation and

    e) re-engage with the UN Special Rapporteur on religion.

    Mexico (page 12)

    56. Highlighting Viet Nam ’s excellent results in, inter alia, poverty reduction, Mexico recommended

    a) taking necessary measures to establish a national human rights institution in accordance with the Paris Principles;

    b) enhancing its cooperation with the United Nations Special Procedures, particularly extending an invitation to visit the country for the Working Group on Arbitrary Detention, and with a view to complementing the initiatives taken by the Government concerning ethnic minorities;

    c) favourably considering the ratification of the ILO Convention No. 169 concerning Indigenous and Tribal Peoples in Independent Countries.

    Azerbaijan (page 12)

    56. Azerbaijan noted the legal basis existing in Viet Nam to protect and promote children rights. It recommended that the Government

    a) continue its efforts in the files paying inter alia particular attention to the vulnerable groups such as children, women, persons with disabilities and ethnic minorities. It asked whether Vietnam envisaged establishing a national system to receive, monitor and investigate complaints on child abuse. It noted that patriarchal attitudes and domestic violence still remains a challenge. It referred to that a number of reports of Viet Nam to the treaty bodies are overdue, and asked about the reasons. Azerbaijan recommended that Viet Nam

    b) consider ratifying the International Convention on the Protection of the Rights of All Migrants Workers and Members of Their Families and Convention on the Rights of Persons with Disabilities; and

    c) establish a national human rights institution in compliance with the Paris Principles.

    New Zealand (page 13)

    59. New Zealand welcomed the commitment to strengthen cooperation and recommended that Viet Nam

    a) issue a standing invitation to all Special Procedures and, in particular, that it seeks visits by the Special Rapporteurs on freedom of religion or belief, freedom of expression, torture and violence against women.

    It recommended that Viet Nam

    b) permits independence of the media, improves its implementation Article 19 of ICCPR, and allows the establishment of privately-run media organisations.

    New Zealand was interested to hear what steps Viet Nam is undertaking to combat discrimination against women.

    It recommended that Viet Nam

    c) take steps to abolish the death penalty and increase transparency around its use; and

    d) establish a national human rights institution, in accordance with the Paris principles.

    Austria (page 13)

    60. Austria referred to Article 120 of the Criminal Procedure code and asked if the Government is considering any changes. Austria recommended that the Government

    a) take concrete steps to effectively ensure that all persons deprived of their liberty are brought before a judge without delay.

    Referring to concerns about Decree No. 89/198, it recommended that the Government

    b) provide public information on how many detention camps by the police and military have in fact been set up and how many persons are detained therein, and

    c) ensure unhindered access to legal representation by persons detained in such facilities.

    Austria recommended to not only

    d) intensify its efforts in combating child prostitution, and also provide effective support to the children affected and sensitive its police forces to this problem in particular through adequate training courses.

    Switzerland (page 13)

    61. Switzerland was carefully monitoring measures to deal with corruption. It noted that mass media play a crucial role and recommended that Viet Nam

    a) ensure that the review of the press law follows the international standards on this subject, particularly with respect of the protection of journalists.

    It recommended that Viet Nam

    b) revises its legislation on the death penalty to bring it into line with existing international standards on the subject, especially concerning transparency.

    Switzerland hoped that

    c) the land law passed by Viet Nam will be fully implemented, and urged Viet Nam

    d) to issue a standing invitation to all Special Procedures.

    Finland (page 13)

    63. Asking whether Viet Nam would accept a visit by the Special Rapporteur on the right to freedom of opinion and expression, Finland recommended

    a) allowing media to take its watchdog role in society and

    b) amending its Press Law to comply with the ICCPR provisions.

    Finland recommended

    c) repealing or amending its Penal Code to ensure that it cannot be applied in an arbitrary manner to prevent the freedom of expression.

    Asking whether Viet Nam would accept a visit by the Special Rapporteur on extrajudicial, summary or arbitrary executions, Finland recommended

    d) imposing a moratorium on execution immediately with the ultimate foal of abolishing the death penalty altogether.

    Germany (page 13 and 14)

    64. Germany noted the concerns of the CRC about the increasing level of child prostitution and sex tourism and asked about measures. Germany recommended

    a) strengthening cooperation with UN human rights mechanisms and

    b) inviting and facilitating the visit of the SR on freedom of religion and belief;

    c) establishing a national human rights institution in accordance with the Paris Principles

    d) taking all necessary measure to end restrictions on the rights to freedom of expression and peaceful assembly.

    It also recommended

    e) publishing all information on executions carried out and

    f) reducing the number of offences liable for the death penalty.

    United States of America (page 14)

    66. United States of America recommended that Viet Nam

    a) demonstrate its commitment to Article 68 of the Vietnamese Constitution, Article 19 of the ICCPR and Article 19 of UDHR by ensuring freedom of expression for members of the press without fear of arbitrary arrest or prosecution, and provide for the free flow of information on the internet and abolish restrictive regulations on blogging and the media.

    It recommended Viet Nam

    b) demonstrate its commitment to Article 50 and 69 of the Vietnamese Constitution, Articles 19, 21 and 22 of the ICCPR, and Article 20 of the UDHR by allowing individuals to speak out on the political system and by releasing all prisoners of conscience, such as Father Nguyen Van Ly, Nguyen Van Dai and Le Thi Cong Nhan, and abolish vague ‘’national security’’ provisions such as Articles 84, 84 and 258 used to convict those who voice dissent against the governement or its policies.

    It recommended that

    c) in accordance with Article 70 of the Vietnamese Constitution, the Government speed the process for the local registration of churches and religious organisations as mandated under the framework on religion and allow for an equitable resolution of property disputes as required under the Constitution and the Prime Minister’s decree on religious property and

    d) recognize the UBCV and allow it to function independently of the Vietnamese Buddhist Sangha as well as allow multiple branches of the Hoa Hao and Cao Dai faiths.

    Argentina (page 17)

    83. Argentina recommended that Viet Nam

    a) take the necessary steps to comply with ICCPR, Particularly to reduce the cases of arbitrary detention and to make sure the right to a fair trial based in law is guaranteed; and

    b) take the necessary steps to ensure that citizens can fully enjoy these rights including the possibility of inviting the Special Rapporteurs on freedom of expression and freedom of religion to visit the country.

    Argentina recommended the

    c) ratification of the second Optional Protocol to ICCPR to abolish the death penalty, until this happens it also commend the reduction of the number of crimes to which this penalty is applicable and hoped that this will be done in accordance with international standards and in full transparency.

    Argentina recommended that Viet Nam

    d) ratify the International Convention fro the Protection of All Persons from Enforced Disappearance, the Rome Statute on the International Criminal Court, the Palerma Protocol and the Convention on refugees and stateless persons.

    It asked about experiences on reforming the judicial system, rebuilding institutions in a post conflict situation, and on measures to reduce hunger and meet the needs of vulnerable groups.

    France (page 17)

    85. France referred to a draft bill in 2008 to revise the criminal code to reduce the number of crimes to which the capital punishment is applicable, and asked when this is likely approved. It asked if Viet Nam would be willing to host visits by all requesting special rapporteurs and not only those working on economic, social and cultural rights. It asked about measures to prevent, combat and eradicate discrimination and violence against persons belonging to ethnic minorities.

    France recommended that the Government

    a) take measures advocated by the Human Rights Committee to bring to an end restrictions to freedom of expression and opinion, and to end, notably, restrictions on the creation of private media at the same time;

    b) set up a national human rights institution in accordance with the Paris Principles, and

    c) sign and ratify the Rome Statute on the International Criminal Court.

    Italy (page 18)

    87. Italy recommended

    a) stepping up efforts to ensure the full respect of freedom of religion and worship, including by reviewing laws and provisions at all levels, related to the freedom of religion, in order to align them with Article 18 of the ICCPR;

    b) giving a positive reply to the request to visit the country made by the UN Special Rapporteur on freedom of religion or belief in 2008.

    Italy recommended

    c) fully guaranteeing the right to receive, seek and impart information and ideas in compliance with Article 19 of the ICCPR; and

    d) developing a national strategy to include in the school system at all levels appropriate measures in the field of human rights education in accordance with the Plan of Action 2005-2009 of the World Programme for human rights education.

    Chile (page 18)

    89. Chile appreciated the efforts to fight extreme poverty. Chile recommended to Viet Nam that it considers

    a) ratifying the CAT and

    b) the Optional Protocol thereto as soon as possible.

    Chile also noted the intention expressed to reduce the scope of the application of this punishment. Chile asked for more information about actions intended to redress, inter alia, the need to maintain social and political stability in order to achieve development, what Viet Nam understands by this concept, and how Viet Nam is going to ensure stability without imposing a single model to the society.

    Poland (page 18)

    90. Poland recommended

    a) establishing a permanent independent human rights monitoring body, including child rights monitoring body.

    Noting reports that members of particular religious groups are facing serious limitation in the exercise of their right to freedom of religion and belief, Poland recommended

    b) ensuring its legislation and practice of the State is full compliance with the requirement of Article 18 of the ICCPR.

    It recommended

    c) repealing Ordinance 44 on regulating administrative justice, which authorizes administrative detention, house arrest, or detention in special protection centre and psychiatric facilities for two year renewable period without trial.
    ..........................................................................

    * Vì nguyên văn tiếng Anh của 93 Khuyến Nghị được ghi chép trên hơn 8 trang giấy A 4, chúng tôi rất tiếc không thể phổ biến tất cả trong Bản Tin kỳ này, kể cả bản dịch tiếng Việt chưa hoàn tất.

    LHNQVN-TS