Wednesday, May 20, 2009

ÐI TÌM NHÂN CHỨNG - Giao Chỉ, San Jose

Giao Chỉ, San Jose

NHỮNG CON SỐ ... LỊCH SỬ

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 , tất cả quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa đều trở thành đối tượng của “chế độ lao động cải tạo”, một chính sách do cộng sản Việt Nam du nhập từ Trung cộng và được tôi luyện từ miền Tây Bá Lợi Á của thiên đường Sô viết.

Tài liệu của Viện Bảo Tàng Việt Nam tại San Jose ghi nhận số lượng tù cải tạo như sau:

- Năm 1975 QLVNCH có 980.000 quân nhân gồm 1/10 cấp Tá và cấp Tướng tổng cộng 9.600, cấp úy là 80.000, còn lại là hạ sỹ quan và binh sĩ.

- Cấp Tướng tại ngũ đến 30 tháng 4 năm 75 là 112; bị tù cải tạo: 32 vị, 80 tướng lãnh di tản và 1 số nhỏ không bị bắt giam.

- Ðại tá có 600, bị tù 366.

- Trung tá có 2.500, bị tù 1.700.

- Thiếu tá có 6.500, bị tù 5.500.

- Cấp úy có 80.000, bị tù 72.000. Trong số này bao gồm cả nữ quân nhân cũng như thành viên đảng phái và các cấp chính quyền.

Ðây là con số ghi nhận được từ phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa, không có tài liệu của các trại giam phía cộng sản để đối chiếu; và không có con số chính xác tù cải tạo bị chết trong khi giam cầm.

Ghi chú: Tất cả danh từ “cải tạo” thực sự đều là tù chính trị.

NHỮNG NGƯỜI TÙ KHÔNG ÁN

Không kể thành phần bị bắt trước 1975 nhưng không được trao trả tù binh sau 1973, thì thời gian tù “cải tạo” kéo dài từ 1 năm đến 17 năm. Từ 1975 đến 1992.

Năm 1988 gần như là năm cuối cùng, hầu hết tù được trả tự do.

Suốt 4 năm tiếp theo chỉ còn lại 120 tù bị giam tại Z30D gọi là Trại Thủ Ðức tại Hàm tân. Trong số này có 9 vị tướng lãnh. Ðại tá Phạm Duy Khang khóa 6 Võ bị, làm thư ký Trại còn nhớ tên từng người. 4 Thiếu tướng: Lê Minh Ðảo, Ðỗ kế Giai, Trần Bá Di, Nguyễn Ngọc Sang, và 5 Chuẩn Tướng: Lê Văn Thân, Hoàng Lạc, Mạch Văn Trường, Trần Quang Khôi, Phạm Duy Tất.

Cấp Ðại tá có 22 người, 20 thiếu tá và các thành viên cảnh sát, đảng phái.

Thiếu tướng Ðỗ Kế Giai tả lại quang cảnh khi tất cả mọi người được thả hết chỉ còn mấy ông Tướng. Trại Hàm Tân hoàn toàn vắng lặng. Cộng sản cho xe chở 5 ông tướng về chuyến cuối cùng. Vì đường đi thuận tiện, xe về Saigon đến nhà các vị Tướng khác hết 1 vòng, Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai là người về sau cùng. Ông bước xuống xe, tâm trạng thực băn khoăn khó tả. Tù vừa tròn 17 năm. Những ông tướng khác về trước ông chừng nửa giờ nên tướng Giai là người sau cùng, theo ý nghĩa tiêu biểu của lịch sử.

Hỏi chuyện ngục tù, ông Giai nhắc lại câu danh ngôn của người xưa: “Bại binh chi tướng, bất khả ngôn dũng“ (Tướng quân thua trận, không thể nói mạnh).

Lại hỏi rằng, suốt thời kỳ 17 năm có thấy cộng sản hay thế giới tự do vào quay phim hay chụp hình để bây giờ có thể đi tìm dấu tích của những năm dài “cải tạo”; vị chỉ huy trưởng binh chủng Biệt động quân cho biết, dường như chẳng thấy gì.

NHỮNG NĂM THÁNG KHÔNG QUÊN:

1975: Hàng trăm ngàn quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa bị cộng sản tập trung “cải tạo”.

1980: Sau 5 năm tranh đấu, dư luận Mỹ và thế giới áp lực Hà Nội phải thả tù .

1982: Tại Pháp, Phạm văn Ðồng, Thủ tướng Hà Nội thách thức sẽ trả tự do nếu Mỹ nhận hết tù cải tạo.

1982: Ngoại trưỡng Mỹ điều trần tại Quốc hội cho biết sẽ nhận 10.000 tù chính trị Việt Nam và gia đình.

1985: Lần đầu tiên , cơ quan IRCC,Inc. tại San Jose nhận được 1 video tape do phóng viên tự do Hoa Kỳ quay tại Việt Nam. Trong đó có ba đoạn hết sức đặc biệt:
    1) Phi công Việt Nam Cộng Hòa, vừa được tự do

    2) Vợ con tù thăm nuôi tại Hàm tân;

    3) Ban văn nghệ của Trại Hàm Tân;

    4) Phỏng vấn 1 người tù cụt chân cấp Thiếu tá.
1985: Hoa Kỳ và Việt Nam gặp nhau tại New York bàn về việc thả tù cải tạo.

1987: Lần đầu tiên nhà báo Thụy Ðiển được vào làm phóng sự tại Trại Nam Hà, tiếp theo Hà Nội bắt đầu chuyển thêm tù cải tạo vào Nam và trả tự do từng đợt .

Tháng 7 năm 1988: Phái đoàn Funseth đi Hà nội họp về việc nhận tù cải tạo.

Tháng 8 năm 1988: Hà Nội đơn phương loan báo đình chỉ việc thảo luận.

Tháng 1 năm 1989: Lần đầu tiên Hồng thập tự Hoa Kỳ được phép gửi quà cho tù “cải tạo”.

Một chiến dịch gửi quà được phát động tại hải ngoại .

Tháng 4 năm1989: Phái đoàn Quốc hội Cali về Việt Nam thảo luận về đề tài xã hội và tù “cải tạo”. Có các thành phần tỵ nạn Việt Nam cùng đi. Ðại diện IRCC trách nhiệm tiểu

ban tù chính trị. Phái đoàn yêu cầu trả tự do cho Võ Ðại Tôn. Phỏng vấn thu thanh Phan Nhật Nam vừa được tự do tại Saigon.

Tháng 6 tháng 1989: Thượng viện Mỹ tuyên bố yêu cầu Hà Nội trả tự do cho tù “cải tạo” và Hoa Kỳ sẽ đón nhận .

Tháng 7 năm 1989: Phái đoàn Hoa kỳ về Việt Nam ký thỏa ước nhận định cư tù “cải tạo”

Tháng 8 tháng 1989: Báo San Jose Mercury News gửi phóng viên về Saigon làm một loạt bài phỏng vấn “tù cải tạo” sắp ra đi có gia đình chờ đợi tại San Jose.

Tháng 1 tháng 1990: 15 gia đình H.01 đi chuyến đầu tiên đến phi trường San Francisco, có 4 gia đình về Bắc Cali. 11 gia đình chuyển tiếp đến các tiểu bang khác và Quận Cam

Tháng 8 năm1993: Ðại tá Phạm Duy Khang, sau 17 năm tù đã trở về đợt sau cùng với 120 người. Ông đến San Jose và dự lễ thượng kỳ ngày 8/8/1993 .

Sau đó các đợt HO bổ túc và chương trình đoàn tụ gia đình HO lần lượt tiếp diễn suốt 15 năm từ 1994 đến 2009. Cho đến tháng 4 năm 2009 vẫn còn gia đình thuộc diện “tù cải tạo” đến Hoa Kỳ.


NHỮNG THIÊN ANH HÙNG CA

Trước năm 75, miền Nam xây dựng hai nền cộng hòa đã tồn tại hết sức hào hùng qua hai chiến dịch tấn công của địch. Chúng ta đã đứng vững trong trận Mậu Thân 68 và vượt qua trận mùa hè 72.

Sau 1975 miền Nam thất thủ nhưng vẫn còn ghi thêm hai thiên anh hùng ca bất tử. Người chiến sĩ sống còn sau trận “cải tạo” và toàn dân miền Nam thành công với những chuyến đi của thuyền nhân tỵ nạn. Chúng tôi đã có bài viết về thuyền nhân và riêng bài này xin dành cho câu chuyện tù “cải tạo”. Lần lượt đã kể ra những con số lịch sử, những người tù không án, những ngày tháng không quên, những dữ kiện tuy khô khan cằn cỗi nhưng chính là máu xương của một đạo quân, của một thể chế dân chủ không còn nữa.

Từ những con số này chúng ta hãy đi tìm nhân chứng và thu hồi di sản dành cho trang sử gửi thế hệ tương lai.

ÐI TÌM NHÂN CHỨNG

Trong số muôn vàn lãnh vực, xin đưa ra một vài thí dụ để chứng minh về câu chuyện tù “cải tạo.” Trong hơn 10 năm tù đày, người tù miền Nam đã sáng tạo biết bao di vật để dùng và để làm quà kỷ niệm gởi cho mẹ, cho vợ, cho con. Chúng tôi cần những di vật đó. Chúng tôi đã có, nhưng chưa đủ.

Thư từ là những liều thuốc thần diệu để người tù nhờ đó mà sống trong hy vọng. Chúng tôi cần giữ lại những lá thư của tình yêu, bằng hữu và gia đình. Chúng tôi đã có, nhưng chưa đủ.

Chúng tôi thường nghe nói khi người cha đi tù, thì mẹ đi bán thuốc lá bên lề đường. Khi cha về phải đi đạp cyclo. Trong suốt 20 năm, chúng tôi đi tìm những tấm hình như thế nhưng không có. Cho đến năm 2008 mới tình cờ có được các hình ảnh quý giá. Nhưng vẫn còn đón chờ thêm các tài liệu tương tự.

Chúng tôi được biết có nhiều gia đình cả hai vợ chồng đều đi tù cải tạo. Cả cha con đều bị tù và nhiều anh em một nhà cùng chung số phận. Chúng tồi còn cần thêm những sử liệu như thế.

CAN TRƯỜNG TRONG CHIẾN BẠI

Vị tướng hải quân vùng một, phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại có xuất bản một tác phẩm hồi ký. Ông lấy câu chuyện đứt phim 1975 để đặt tựa cho cuốn sách. Tình cờ chúng tôi có được tấm hình chụp hai chiến binh của sư đoàn 3 bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa bị bắt làm tù binh tại Quảng Trị khi Cộng quân tấn công 1972. Hình này nằm trong bộ sưu tầm độc đáo của một phóng viên Anh quốc.

A wounded ARVN in pain beside another prisoner at fire base QuangTri overrun by NVN, March 1972 (Another VietNam, Tim Page Colection).

Hai chiến binh Cộng Hòa bị địch quân giải về khu tập trung tù binh bên kia biên giới và một phóng viên của cộng sản Hà Nội đã chụp được tấm hình chân dung bất hủ xứng đáng gọi là “Can trường trong chiến bại”. Khuôn mặt người lính số 2 dựa vào người chiến binh số 1., Anh số 1 có thể là sĩ quan. Anh sỹ quan trẻ này bị thương ở tay còn băng bó, mặt còn mang dấu của các mảnh trái pháo, ánh mắt buồn bã nhưng vẫn đầy vẻ bất khuất.

Suốt đời tôi, chưa bao giờ nhìn thấy một gương mặt đầy ẩn dụ như vậy.

Bài viết sẽ đăng kèm tấm hình độc đáo này. Giờ này anh ở đâu?

Trên tài liệu DVD do IRCC, Dân Sinh và Viện Bảo Tàng San Jose sẽ phát hành ngày quân lực 2009, chúng tôi phổ biến rộng rãi để nhắn tin đến bốn phương trời ngõ hầu tìm cho được người lính chiến bại có nét mặt can trường của sư đoàn 3 bộ binh.

THIẾU TÁ ÐỘC CƯỚC LÊ HỮU CƯƠNG

Câu chuyện sau cùng xin nói về người tù cải tạo Lê Hữu Cương, khóa 16 võ bị Ðà Lạt, quận trưởng Củ Chi. Số là ngay từ đầu năm 1985 tình cờ chúng tôi gặp được một anh phóng viên Hoa Kỳ tặng cho video tape quay phóng sự Saigon từ 1984, trong đó có những đoạn hết sức đặc biệt. Câu chuyện một phi công cựu tù, mới được tự do có mở tiệm bán đồ nhậu tại Saigon. Ðối thoại bằng Anh ngữ. Xin hãy tưởng tượng lúc đó là năm 1985, chúng tôi coi phim mà lòng dạ nôn nao. Xúc động dâng lên khóe mắt. Anh em cùng ngồi xem mà mặt mũi ai nấy hết sức căng thẳng. Cho đến nay chúng tôi vẫn không biết anh phi công này là ai.

Một đoạn khác, quay tại trại tù Z30D tại Hàm Tân. Trại tù khang trang sạch sẽ và rất ít người. Ai mà chẳng biết là cộng sản đã cho dọn dẹp và lùa tù đi làm, chỉ còn lại cả trại trống vắng. Phóng viên quay phim và anh chàng làm phóng sự đi cùng một thông dịch viên. Ban văn nghệ của trại được giới thiệu hát một bài. Khán giả duy nhất là anh phóng viên Mỹ. Nhạc trưởng là ca sĩ chính nét mặt hết sức đau khổ và cam chịu. Ông trả lời cấp bậc là thiếu tá, đã ở trại này nhiều năm. Dường như cũng từ Nam Hà chuyển về.

Một đoạn khác là cảnh tù “cải tạo” được vợ con lên thăm. Xin lưu ý đây là thời điểm của năm 1984 ở trại tù miền Nam và cảnh này được trình diễn cho báo Mỹ quay phim. Tuy nhiên nếu lưu ý vẫn nhìn ra được những nỗi đoạn trường.

Sau cùng, chúng tôi được xem đoạn phim đặc biệt. Một tù cải tạo cụt chân ngồi cầm cặp mắt kiếng. Mắt anh rất sáng và dáng ngồi bình thản.

Gần như bất chợt, anh phóng viên hỏi bằng anh ngữ và người tù trả lời trực tiếp cũng bằng anh ngữ. Anh cấp bậc gì? -Thiếu tá. Anh có đủ ăn không? -Có được ăn, nhưng biết thế nào là đủ. Người tù hỏi ngược lại? Phóng viên Mỹ nói: Có phải người công an này đứng đây nên anh không trả lời? (Ðến đây phóng viên ra hiệu yêu cầu quản giáo đi ra). Không đủ ăn phải không ? Not enough? Trả lời, - Yes, not enough. Anh có điều gì nhắn gởi với tổng thống Reagan không? - Tôi muốn được tự do. Tôi muốn rằng thế giới tự do cứu chúng tôi. Cho chúng tôi được tự do càng sớm càng tốt.

Máy quay phim chiếu xuống bàn tay cầm mắt kiếng. Rồi chiếu lên khuôn mặt người tù với ánh mắt ngời sáng như ánh thép trong ngục tù.

Chúng tôi bị ánh mắt này theo đuổi trong nhiều năm. Suốt 20 năm, từ 1985 đến 2005 đã có ý hỏi thăm về người thiếu tá cụt chân này là ai, còn sống hay đã chết.

Năm 2005 Asia quay video tại Hoa Thịnh Ðốn kỷ niệm 30 năm biệt xứ, chúng tôi có cơ hội giới thiệu dự án viện Bảo Tàng và đồng thời có chiếu đoạn phim này trong phần tài liệu.

Tiếc thay, dù đã có hàng chục ngàn khán giả nhưng vẫn không ai nhận ra người tù bất khuất.

Mãi đến năm 2007 vừa qua, chúng tôi tìm được tin tức thì nhân chứng không còn nữa. Người đó là thiếu tá Lê Hữu Cương, khóa 16 võ bị, mới ra trường đã bị thương với cấp bậc trung úy. Anh bị cưa một chân nhưng tiếp tục tại ngũ. Tốt nghiệp chỉ huy tham mưu và học xong lớp quân chánh thì về làm quận trưởng Củ Chi. Ông là một trong số rất hiếm hoi các sỹ quan cấp tá, mất một chân mà vẫn còn làm chi khu trưởng tại vùng đất dữ nhất của miền Ðông Nam phần.

Sau 1975 ông đã bị tù, giải ra Bắc, rồi đưa về miền Nam và tình cờ gặp phóng viên Mỹ tại Hàm Tân. Thiếu tá Cương H0 đến Hoa Kỳ đúng ngày 4/7/1991 và cư ngụ tại Orange County. Trong suốt thời gian dài trên 10 năm sống tại miền Nam Cali, Lê Hữu Cương đã sinh hoạt với giới văn nghệ, báo chí, nhưng chính ông và anh em cũng chẳng ai được xem đoạn phim quay trong tù mà ông đóng vai chính.

Năm 2000, Lê Hữu Cương viết hồi ký về cuộc đời có kể lại đoạn được hỏi chuyện trong tù bởi phái đoàn Mỹ. Trong cuốn tự chuyện này, chúng tôi mới được đọc qua đã thấy được hai điều phải ghi lại, Lê Hữu Cương sinh trưởng tại Huế và đã gặp thảm kịch đau thương khi mẹ và ba em gái của ông bị cộng sản giết trong kỳ Mậu Thân.

Câu chuyện thứ hai cần phải ghi lại là tinh thần tương trợ hết sức hào hùng của các cựu sinh viên sỹ quan Ðà Lạt khóa 16 thể hiện trong tù đã giúp cho Lê Hữu Cương, dù chỉ có một chân đã sống còn.

Nhưng tiếc thay khi bộ phim Asia phổ biến năm 2005 thì sau đó chúng tôi cũng đã được tin Lê Hữu Cương đã qua đời tại Miền Nam California.

Nhân chứng của một trang sử H0 không còn nữa.

Major Le, Huu Cuong 1970 SaiGon and 1984 Ham Tan, VietNam (Photo from Video).

Ðó là lý do chúng tôi viết bài này phổ biến trên báo, đọc bài này trên các chương trình phát thanh và ghi lại các hình ảnh có được trên DVD phát hành ngày quân lực tháng 6 năm 2009.

Xin hãy đọc báo, xin hãy xem hình, xin hãy nghe radio, xin hãy đón coi DVD để thấy rằng lịch sử đã được gom lại như thế nào? Phải được thu hồi như thế nào? Cần được tập trung như thế nào? Trước khi di sản mai một và nhân chứng không còn nữa.

Xin hãy liên lạc về IRCC, Inc. số 1445 Koll Circle, suite 110, San Jose, CA 95112. Tel: 408-392 9923 để có được đoạn phim đối thoại hào hùng duy nhất trong tù của thiếu tá độc cước Lê Hữu Cương, người nhân chứng không còn nữa. Bộ DVD “Chân dung người lính VNCH” của viện Bảo tàng Việt Nam còn có hình ảnh người phi công ngồi hát bản tình ca trên hè phố Sài Gòn ngay từ 1984. Người vợ thăm chồng “cải tạo”, ông nhạc trưởng của ban văn nghệ Hàm Tân ca vang bản nhạc vui với bộ mặt sầu thảm như dao cắt trong lòng. Và sau cùng là hình ảnh người lính vô danh của sư đoàn 3 bộ binh tiêu biểu cho danh hiệu “Can trường trong chiến bại”.

Xin hãy cùng chúng tôi lên đường đi tìm nhân chứng cho thiên anh hùng ca của QLVNCH sau tháng tư 1975.

Giao Chỉ, San Jose

Kẻ Sĩ - Nguyễn Công Trứ

Nguyễn Công Trứ 1778-1858

    Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc
    Nợ tang bồng vay trả, trả vay
    Chí làm trai nam bắc đông tây
    Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể ...
Đôi dòng tiểu sử:

  • Nguyễn Công Trứ (1778-1858) hiệu là Ngộ Trai, tự là Hy Văn, quê quán tại làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Nghệ Tĩnh.

  • Ông xuất thân trong một gia đình khoa bảng. Cụ thân sinh là Nguyễn Tần, đỗ Hương Cống đời nhà Lê.

  • Buổi thiếu thời, dù sống trong cảnh hàn vi, ông luôn cố công trau dồi kinh sử để mong thi đỗ ra làm quan giúp dân, giúp nước. Sau nhiều lần thi hỏng, ông cuối cùng đậu Tú Tài năm 1813 và đậu Giải Nguyên năm 1819.

  • Hoạn lộ của ông lắm bước thăng trầm: ông làm quan ở nhiều tỉnh, nhiều vùng, có khi lên đến Binh Bộ Thượng Thư, nhưng cũng có lắm lần bị dèm pha giáng chức. Ông giúp triều đình nhà Nguyễn đàn áp nhiều cuộc khởi nghĩa lớn (Lê Duy Lương, Nông Văn Vân, Phan Bá Vành...); làm Doanh Điền Sứ, giúp dân khai khẩn đất hoang (1828)...

  • Ông mất ngày 7 tháng 12 năm 1858 tại chính quán, thọ 81 tuổi, được phong tước Dinh Bình Hầu.

  • Nguyễn Công Trứ để lại nhiều tác phẩm chữ Hán (câu đối, sớ) cũng như chữ Nôm (thơ, hát nói, phú, câu đối, ca trù...). Thơ văn Nguyễn Công Trứ phản ảnh khá trung thực sự biến chuyển tâm lý của một nhà nho cổ điển qua từng giai đoạn đời sống. Phần lớn các tác phẩm hào hùng và ngạo nghễ, biểu lộ một bản lĩnh vững chắc, một chí khí mạnh mẽ, và thái độ cầu tiến, vươn lên. Lúc về già, sáng tác của ông lại tìm về tư tưởng an nhàn, hưởng lạc.

Kẻ Sĩ

Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt,
Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên. (1)
Có giang sơn thì sĩ đã có tên,
Từ Chu Hán, vốn sĩ này là quý.

Miền hương đảng đã khen rằng hiếu nghị,
Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường.
Khí hạo nhiên chí đại, chí cương,
So chính khí đã đầy trong trời đất.

Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất, (2)
Hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn. (3)
Xe bồ luân (4) dầu chưa gặp Thang, Văn,
Phù thế giáo một vài câu thanh nghị.

Cầm chính đạo để tịch tà, cự bí,
Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên. (5)
Rồng mây khi gặp hội ưa duyên
Đem quách cả sở tồn làm sở dụng.

Trong lang miếu, ra tài lương đống,
Ngoài biên thùy rạch mũi can tương.
Làm sao cho bách thế lưu phương,
Trước là sĩ sau là khanh tướng.

Kinh luân khởi tâm thượng,
Binh giáp tàng hung trung.
Vũ trụ chi gian giai phận sự,
Nam nhi đáo thử thị hào hùng. (6)

Nhà nước yên mà sĩ được thung dung,
Bấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch. (7)

Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch,
Tiêu dao nơi hàn cốc, thanh sơn,
Nào thơ, nào rượu, nào địch, nào đờn,
Đồ thích chí chất đầy trong một túi.
Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi tới,
Gẩm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanh,
Này này sĩ mới hoàn danh.

Nguyễn Công Trứ

1. Tước có năm bậc thì sĩ cũng dự vào; dân có bốn nghề thì sĩ đứng đầu tiên.

2. Bồng tất: tên hai loại cỏ; cả câu chỉ chốn thảo dã kẻ sĩ ẩn thân lúc chưa gặp thời.

3. Điếu Vị: tích Lã Vọng xưa ngồi câu bên sông Vị; canh Sằn: tích Y Doãn xưa làm ruộng ở đất Sằn.

4. Bồ luân: xe nhà vua thường dùng để đi rước người hiền về giúp nước.

5. Ngăn sóng dữ để giữ trăm dòng sông.

6. Việc chính trị đã định sẵn trong lòng; Việc giáp binh đã sắp sẵn trong bụng; Việc đời đều coi là phận sự của mình; Làm trai như thế mới đáng mặt hào hùng.

7. Hoàng Thạch: tức Hoàng Thạch Công. Cuối đời nhà Tần, Trương Lương đi chơi ở đất Hạ Bì, đến Dĩ Kiều gặp ông già trao cho quyển Binh Thư Tam Lược mà dặn: "Đọc kỹ sách này sau có thể bình thiên hạ. Sau 13 năm nhà ngươi đến núi Cốc Thành, nếu thấy hòn đá vàng thì biết là ta đấy !" (Vì thế sau này người đời tôn ông lão là Hoàng Thạch Công). Đúng như lời dặn của ông, Trương Lương sau này cố công lớn trong việc giúp Lưu Bang lập nên nhà Hán
*
* *
Chí Làm Trai

Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc.
Nợ tang bồng (1) vay trả, trả vay.
Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh. (2)
Đã chắc rằng ai nhục ai vinh,
Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ.
Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ,
Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong.
Chí những toan xẻ núi lấp sông,
Làm nên tiếng anh hùng đâu đấy tỏ.
Đường mây rộng thênh thênh cử bộ,
Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.

Nguyễn Công Trứ

1.
Tang bồng: từ "tang bồng hồ thỉ" -- cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng. Theo Lễ Kinh: cha mẹ mới sinh con trai, lấy cung tên bằng gỗ dâu và tên bằng cỏ bồng treo ở ngoài cửa, có ý mong cho con mình sau này lấy cung tên làm nên sự nghiệp vang thiên hạ.


2. Hai câu thơ trong bài Quá Linh Đinh Dương của Văn Thiên Tường đời Tống. Người ở đời chẳng ai mà không chết, phải làm sao lưu lại tấm lòng son soi trong sử xanh.

o0o

Phận Sự Làm Trai

Vũ trụ chức phận nội (1)
Đấng trượng phu một túi kinh luân. (2)
Thượng vị đức, hạ vị dân, (3)
Sắp hai chữ "quân, thân" mà gánh vác,
Có trung hiếu nên đứng trong trời đất
Không công danh thà nát với cỏ cây.
Chí tang bồng hồ thỉ (4) dạ nào khuây,
Phải hăm hở ra tài kinh tế (5)
Người thế trả nợ đời là thế
Của đồng lần thiên hạ tiêu chung,
Hơn nhau hai chữ anh hùng.

Nguyễn Công Trứ

1. Chức phận mình ở trong vũ trụ.

2.
Kinh luân: Trong việc kéo tơ, lấy tơ chia ra gọi là kinh, hợp những sợi tơ lại mà se thì gọi là luân (chỉ những người giỏi việc chính trị).

3.
Trên vì người có đức (tức vua), dưới vì dân hưng lợi.

4.
Tang bồng hồ thỉ: cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng. Theo Lễ Kinh: cha mẹ mới sinh con trai, lấy cung tên bằng gỗ dâu và tên bằng cỏ bồng treo ở ngoài cửa, có ý mong cho con mình sau này lấy cung tên làm nên sự nghiệp vang thiên hạ.

5.
Kinh tế: từ cụm từ kinh bang tế thế -- giúp nước cứu đời.

Sau 62 Năm MỞ LẠI VỤ ÁN PHẠM QUỲNH



1. Sau 62 Năm MỞ LẠI VỤ ÁN PHẠM QUỲNH

Không có Công lý, khi kẻ giết một người thì bị trừng phạt, có khi phải đền mạng, còn kẻ giết hàng triệu người lại được đúc tượng, xây lăng, ướp xác.

Theo lời một số nhân chứng và thân nhân ông Phạm Quỳnh, ông đã bị lực lượng vũ trang Việt Minh bắt giữ ngày 23/8/1945 tại Huế và bị giết chết ngày 6/9/1945 tại khu rừng Hắc Thú thuộc tỉnh Quảng Trị, nằm về phía bắc thành phố Huế.

Ông đã bị đập vỡ sọ bằng cuốc và vùi thây dưới một giao thông hào cùng với hai nạn nhân khác là Ngô Đình Khôi, anh cố Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm, và người con trai Ngô Đình Huân.

Mười một năm sau, 1956, do sự chỉ dẫn của một nhân chứng, thân nhân của các nạn nhân mới tìm được nơi chôn xác và cải táng. Theo thân nhân ông Phạm Quỳnh, di cốt của ông đã không còn nguyên vẹn và chỉ được xác nhận nhờ cặp kính cận thị, vật bất ly thân của ông.

Nhưng, Phạm Quỳnh là ai ?


Có thể nói rằng không người Việt Nam có văn hóa nào không biết Phạm Quỳnh, hay không nghe tên ông. Vì học giả Phạm Quỳnh là ngôi Sao Bắc Đẩu của văn hóa Việt Nam tiền bán Thế kỷ 20. Vì nhà báo Phạm Quỳnh là người đã khai đường mở lối cho nền báo chí Việt Nam. Vì nhà cai trị Phạm Quỳnh trong phẩm trật Thượng Thư triều đình Huế là người có lòng yêu nước, có tầm nhìn xa và có đầu óc cách mạng. Viết về sự nghiệp của ông cần nhiều pho sách, và không phải là mục đích của bài viết này, xin hẹn để một dịp khác.

Mục đích của bài viết này là đi tìm thủ phạm đã giết Phạm Quỳnh, những chính phạm đã gây ra tội ác này - không chỉ với bản thân Phạm Quỳnh mà còn với dân tộc Việt Nam, và với nhân loại.

Thật vậy, trong tội ác này các thủ phạm không chỉ giết Phạm Quỳnh mà còn hủy diệt một tinh hoa của đất nước Việt Nam, và loại trừ một thành viên ưu tú trong cộng đồng nhân loại.

Trong vụ án này có chính phạm và những tòng phạm, hay nói cách khác, kẻ ra lệnh và người thi hành. Ngày nay, mọi người đều biết lực lượng vũ trang của Việt Minh tại Huế vào năm 1945 đã bắt và giết Phạm Quỳnh. Nhưng, ai là kẻ ra lệnh?

Việt Minh lúc ấy là tên tổ chức kháng chiến chống Pháp dưới quyền chỉ huy và điều khiển của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Những người theo Việt Minh lúc đầu hầu hết là những người yêu nước đã đáp lời kêu gọi của Hồ Chí Minh để tham gia kháng chiến, đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập cho Việt Nam. Không mấy ai biết “kháng chiến, chống Pháp” chỉ là một chiêu bài được Đảng CSVN dùng để cướp chính quyền, cai trị toàn lãnh thổ Việt Nam dưới thể chế độc tài cộng sản. Vì vậy, CSVN đã thẳng tay diệt trừ những cá nhân và những thành phần có thể là chướng ngại vật trên đường tiến tới quyền lực và củng cố quyền lực của họ, trong đó có những người ở ngoài và cả ở trong hàng ngũ kháng chiến.

Đó là lý do vì sao Phạm Quỳnh bị giết.

Phạm Quỳnh không phải là người xa lạ với Hồ Chí Minh. Ngoài việc ông là một nhân vật rất nổi tiếng thời bấy giờ, về văn hóa cũng như chính trị, Phạm Quỳnh đã có những giao tiếp cá nhân với Hồ Chí Minh từ thời Pháp thuộc khi phong trào giành độc lập đang nhen nhúm trong giới được gọi là “sĩ phu” thời ấy. Trong cuốn nhật ký do chính tay Phạm Quỳnh ghi chép vào thời gian ông sang Pháp năm 1922, ông có ghi vắn tắt gặp Hồ Chí Minh (lúc đó còn mang bí danh Nguyễn Ái Quốc) hai lần, một lần vào ngày 13/7/1922: “ăn cơm an-nam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường”, một lần vào ngày 16/7/1922: "ở nhà.- Trường, Ái Quốc và Chuyền đến chơi". (Chuyền là Nguyễn Thế Truyền). (Xem phóng ảnh đính kèm do người viết chụp từ nguyên bản Nhật ký hiện do Nhạc sĩ Phạm Tuyên, con trai út của ông lưu giữ).

Trong nhật ký, ông chỉ ghi vắn tắt, không nói rõ chi tiết hay nội dung những câu chuyện trao đổi, có thể vì không muốn là bằng cớ để tự buộc tội mình một khi lọt vào tay mật thám Pháp, nhưng chắc chắn không phải những người này gặp nhau chỉ để đánh chén hay nói chuyện trời mưa trời nắng. Sau này, trong thiên “Hành trình Nhật ký”, ông ghi rõ thêm là có “nói chuyện nước nhà” với “mấy ông chí sĩ”. Qua những câu chuyện ấy, Hồ Chí Minh đã biết tư tưởng và quan điểm chính trị của những người đối thoại, trong đó có Phạm Quỳnh.

Hai mươi mốt năm sau, tình hình Việt Nam chuyển động mạnh do ảnh hưởng của trận Thế Chiến II ở vào giai đoạn chót mà Quân Phiệt Nhật đang làm bá chủ miền Đông Á, trong đó có Việt Nam, hất cẳng Pháp khỏi thuộc địa Đông Dương, nhưng chính Nhật cũng đang trên đường bại trận.

Các đảng phái chính trị, những người Việt Nam yêu nước đều rộn rịp hoạt động để chuẩn bị nắm thời cơ. Khi ấy, Phạm Quỳnh đang là Thượng thư Bộ Lại, một chức chưởng tại triều đình Huế thời ấy có thể xem như thủ tướng, đã có cái nhìn chính xác và thực tế về tương lai nước Việt Nam. Theo nhân chứng Hoàng Tâm V.T., lúc ấy là Tri phủ Quận Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, trong một lần đi kinh lý các tỉnh miền Trung, ngày 22/1/1945, Thượng thư Bộ Lại Phạm Quỳnh đã nói với ông trong phòng riêng như sau: “Này ông phủ, chiến tranh ở Âu Châu đã đến độ chấm dứt và ở Thái Bình Dương chiến tranh cũng đã vào thời kỳ kết thúc. Đây là vận hội tốt cho rất nhiều nước bị trị được trả tự do. Nhưng ta không nên nghĩ rằng tự do ấy sẽ được hiến dâng cho ta trên khay bạc, mâm vàng. Ta phải tranh đấu nhiều, ông hiểu tôi muốn nói tranh đấu nhiều là sao rồi, đó là tranh đấu quyết liệt và toàn diện ...”

Tuy nói vậy, Phạm Quỳnh chỉ làm nhiệm vụ của một nhà cai trị của triều đình Huế dưới quyền Vua Bảo Đại. Không có tài liệu hay nhân chứng nào cho thấy ông có những hoạt động liên hệ đến một đảng phái hay phe nhóm nào.

Những tháng đầu năm 1945 tình hình Việt Nam có những biến chuyển lớn khi Nhật đảo chính Pháp, lật đổ chế độ thuộc địa ở Đông Dương ngày 9/3/1945 và tuyên bố trả độc lập cho ba nước Việt, Miên, Lào trên bán đảo này để gia nhập khối Đại Đông Á do Nhật đứng đầu.

Theo hồi ký “Con Rồng Việt Nam” của Bảo Đại, ngày 11/3/1945 Vua Bảo Đại và Thượng thư Bộ Lại Phạm Quỳnh đã cùng toàn thể thượng thư nội các Nam triều ký vào bản “Tuyên ngôn độc lập” do Phạm Quỳnh soạn thảo, hủy bỏ tất cả các hiệp ước Pháp-Việt trước đó. Một tuần sau, ngày 19/3, nội các Nam triều từ chức. Vua Bảo Đại giao cho Học giả Trần Trọng Kim lập chính phủ Việt Nam độc lập đầu tiên để hợp tác với Nhật sau khi tham khảo ý kiến nhiều người. Phạm Quỳnh không giữ chức vụ gì trong nội các mới và trở về ở tại tư thất Hoa Đường nằm trên bờ sông An Cựu, Huế. Chính tại ngôi biệt thự này, ông đã bị Việt Minh bắt và đưa đi thủ tiêu.

Trước đó, Đảng CSVN do Hồ Chí Minh đứng đầu núp dưới tên Mặt Trận Việt Minh đã lợi dụng khoảng trống quyền lực sau khi Nhật đầu hàng (14/ 8) và chính phủ Trần Trọng Kim tê liệt, cướp chính quyền tại Hà Nội ngày 19/8/1945, và đòi Vua Bảo Đại thoái vị. Tuy đã đầu hàng nhưng quân đội Nhật tại Việt Nam chưa bị giải giới, còn nguyên sức mạnh và có thể dẹp tan cuộc đảo chính của Việt Minh với lực lượng vũ trang thô sơ, nhưng Vua Bảo Đại đã không chấp nhận đề nghị của viên đại sứ Nhật tại Huế vì sợ gây nội chiến. Do đó, nội các Trần Trọng Kim tuyên bố giải tán sau khi họp phiên cuối cùng ngày 23/8/1945. Hai ngày sau, 25/8, Vua Bảo Đại ra chiếu thoái vị và ngày 30/8 trao quốc ấn và bảo kiếm cho phái đoàn đại diện Việt Minh do Trần Huy Liệu cầm đầu tại cửa Ngọ Môn, và tuyên bố: “Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ.”

Câu nói hay đẹp ấy không biết ai mớm cho nhà vua thiếu trách nhiệm với đất nước đã hợp pháp hóa chính quyền Việt Minh do cộng sản cầm đầu chẳng khác nào “giao trứng cho ác”, trong lúc những người quốc gia yêu nước bị ruồng bố và tàn sát. Trong đó có Phạm Quỳnh, cựu Thượng thư Bộ Lại của triều đình Bảo Đại.

Dựa theo những nguồn tin xác thực, nhà viết sử Trần Gia Phụng thuật lại như sau trong bài “Trường hợp Phạm Quỳnh”: “Trong khi đó, lấy cớ tìm kiếm vũ khí còn tàng trữ tại nhà các vị có chức quyền trước đây, Việt Minh cho người lục soát biệt thự ‘Hoa Đường’ ngày 23-8-1945. Tuy không tìm được gì, họ vẫn ‘mời’ Phạm Quỳnh và người con rể là Nguyễn Tiến Lãng đi ‘họp’ với Ủy ban cách mạng Trung Bộ đóng ở tòa Khâm sứ Pháp cũ. Đây là thủ thuật bắt người của chính quyền cộng sản rất mới lạ lúc đó, và rất quen thuộc với người Việt Nam sau này. Có lẽ cần chú ý việc Phạm Quỳnh về trí sĩ mà không phòng thân, hoặc không lo tìm đường mà trốn tránh, ngay cả sau khi Việt Minh đảo chánh, chứng tỏ bản thân Phạm Quỳnh nghĩ rằng ông chẳng phải là tay sai của Pháp để phản dân hại nước, và ông cũng chẳng theo một đảng phái chính trị nào, nên chi có gì phải sợ đề phòng. Nếu quả thật ông là tay sai của Pháp thì ông đã cao bay xa chạy, và Việt Minh không dễ bắt được ông như vậy.

“Nguyễn Tiến Lãng bị giam riêng, không cùng chỗ với nhạc gia. Ông Lãng và gia đình không biết tin tức gì của Phạm Quỳnh, cho đến những ngày Việt Minh sửa soạn đưa ông Lãng ra tòa, nhóm họp tại Điện Thái Hòa vào khoảng đầu năm 1946, thì báo chí Việt Minh công bố rằng ông Phạm Quỳnh, cùng ông Ngô Đình Khôi và con trai trưởng đang làm thông ngôn cho Nhật là Ngô Đình Huân, đã bị xử tử hình, nhưng không cho biết ngày giờ các ông bị giết, cũng như đã chôn các ông ở đâu. Về sau, gia đình mới được biết Phạm Quỳnh đã bị giết ngày 6-9-1945 tại vùng cách Huế khoảng 20 cây số. Có lẽ cần ghi nhận thêm lúc bấy giờ, chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa của phong trào Việt Minh ở Huế là Tố Hữu.”

Tiếp xúc với người viết tại nhà ông ngày 18/7/2007, ông Phạm Tuân xác nhận những điều trên đây và nhấn mạnh di cốt của thân phụ ông không còn đầy đủ, sọ bị nứt một đường dài, và chỉ nhận ra được do cặp kính cận gãy gọng.

Trong cuốn “Hồi ký người lính già”, Đại tá (CSVN) Đặng Văn Việt có nói đến việc ông Phạm Quỳnh đã bị bắt và giết như thế nào, nhưng cũng chỉ nói một nửa sự thật, phần sự thật được cho phép nói.

Nhưng “tòa” nào đã xử và kết tội ông Phạm Quỳnh? Những ai ngồi xử và diễn ra tại đâu? Ngày nào? Hay, ai đã ra lệnh giết Phạm Quỳnh?

Ông Trần Gia Phụng lưu ý người đọc: “Phạm Quỳnh bị bắt ngày 23-8-1945, và bị giết ngày 6-9, nghĩa là ông không bi nhóm Việt Minh địa phương Huế giết liền khi họ nổi dậy. Ông bị giam giữ một thời gian rồi mới bị giết sau khi nhóm Trần Huy Liệu đến Huế dự lễ thoái vị của Vua Bảo Đại. Khi có sự hiện diện của đại diện trung ương, các cán bộ Việt Minh địa phương không dám tự tiện ra tay, mà chắc chắn phải có ý kiến của trung ương. Nhóm Trần Huy Liệu cũng không thể tự quyết định được việc này. Như vậy phải chăng chính nhóm Trần Huy Liệu đã đem lệnh từ Hà Nội vào Huế giết Phạm Quỳnh? Và lệnh đó từ đâu, nếu không phải là từ Hồ Chí Minh?”

Theo hồi ký viết năm 1992 của bà Phạm Thị Thức, người con gái của Phạm Quỳnh, sau khi Phạm Quỳnh bị giết, bà cùng người chị là Phạm Thị Giá đã ra Hà Nội gặp Hồ Chí Minh qua sự giúp đỡ của người cận vệ của ông ta là ông Vũ Đình Huỳnh. Bà Thức cho biết Hồ Chí Minh chối, không nhận đã ra lệnh giết Phạm Quỳnh và đổ tội cho cán bộ địa phương. Họ Hồ bảo: “Hồi ấy tôi chưa về... Và trong thời kỳ khởi nghĩa quá độ và có thể có nhiều sai sót đáng tiếc.”

Sự thật ra sao?

Nếu ngày 6/9/1945 Hồ Chí Minh “chưa về” thì ai đọc “tuyên ngôn độc lập” tại Hà Nội ngày 2/9/1945? Ai ra lệnh cho bộ máy tuyên truyền của nhà nước cộng sản trong nhiều năm trời sau đó vu cáo Phạm Quỳnh là “Việt gian”, tay sai thực dân Pháp, và bôi xóa tên Phạm Quỳnh trong văn học sử Việt Nam?

Nếu Phạm Quỳnh chỉ là nạn nhân của “nhiều sai sót đáng tiếc” thì Tố Hữu, kẻ nắm chức chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa của Việt Minh ở Huế lúc giết Phạm Quỳnh không thể thăng tiến đều đều trên nấc thang đảng CSVN để sau này lên đến phó thủ tướng.

Vì vậy, câu trả lời của Hồ Chí Minh chỉ là một lời nói dối sống sượng. Nó còn cho thấy thái độ coi mạng người như cỏ rác của kẻ cầm đầu Đảng CSVN, xem việc giết người chỉ là “sai sót đáng tiếc”, rồi thôi, không điều tra, không trừng phạt kẻ có tội, không phục hồi danh dự và bồi thường cho nạn nhân. Không khác nào chuyện bắt của dân con gà, con vịt.

Thật ra, Phạm Quỳnh không phải là nạn nhân của “nhiều sai sót đáng tiếc ... trong thời kỳ khởi nghĩa quá độ”. Ông đã là một trong hơn một triệu nạn nhân của chính sách tàn bạo được hoạch định từ cấp cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong bản danh sách đen ấy, có lẽ Phạm Quỳnh đã được xếp hạng “ưu tiên” vì những lý do đặc biệt.

Mặc dù không có hành động nào chống lại Việt Minh lúc ấy, Phạm Quỳnh được coi là mối nguy cho chính quyền non yếu của Hồ Chí Minh trong giai đoạn sơ khai vì ông đang là người có uy tín rất lớn với mọi giới trong xã hội Việt Nam, lại có tài năng lãnh đạo và cai trị mà Hồ Chí Minh biết rõ điều ấy do thành tích của ông và qua sự giao tiếp cá nhân như đã nói ở phần trên. Và điều quan trọng hơn cả, cũng qua giao tiếp cá nhân, Hồ Chí Minh biết rõ Phạm Quỳnh không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản và không thể khuyến dụ.

Khi bị giết, Phạm Quỳnh mới 53 tuổi - cái tuổi chín mùi của tài năng, sung mãn sinh lực và già dặn kinh nghiệm.

Đó là lý do vì sao Hồ Chí Minh không giết Vua Bảo Đại mà lại giết cựu Thượng thư Phạm Quỳnh. Trong cuộc “cách mạng tháng mười” năm 1917 tại Nga, bọn cộng sản Bôn-sê-vích, đàn anh và đồng chí của Hồ Chí Minh, không chỉ giết Sa Hoàng Nicolai II mà còn tàn sát cả gia tộc vua, giết luôn cả tôi tớ của hoàng gia. Dưới mắt Hồ Chí Minh, Bảo Đại là một kẻ vô hại, dù đang làm vua nhưng chỉ ngồi làm vì trên ngai vàng, không có tài năng gì và chỉ thích ăn chơi, nhu nhược, không thể lãnh đạo một lực lượng đối nghịch nào chống lại cộng sản. Nhưng, Phạm Quỳnh thì có thể bất cứ lúc nào trở thành một kẻ thù nguy hiểm. Hồ Chí Minh đã nhận xét không sai về Vua Bảo Đại. Sau khi thoái vị, trao quyền cho Hồ Chí Minh, công dân Vĩnh Thụy vui vẻ nhận chức “cố vấn tối cao” và đi Hong Kong nghỉ mát.

Với Phạm Quỳnh, Hồ Chí Minh còn có một lý do thầm kín khác để cần phải trừ khử. Hồ Chí Minh tự biết thua kém Phạm Quỳnh về mọi mặt, và ngược lại, Phạm Quỳnh cũng biết rõ quá khứ u ám của Hồ Chí Minh, kẻ tự nhận là Nguyễn Ái Quốc. Hồ Chí Minh cùng lứa tuổi với Phạm Quỳnh, khi gặp nhau tại Pháp năm 1922 cả hai cùng khoảng 30. Khi ấy, Phạm Quỳnh đã là một học giả lẫy lừng, một nhà báo nổi tiếng, “hoạn lộ” thênh thang, sang Pháp cùng với Vua Khải Định dự Hội chợ Marseille, và được mời diễn thuyết tại Trường Thuộc địa Paris (École Coloniale) - chính cái trường mà năm 1911, Hồ Chí Minh dưới tên Nguyễn Tất Thành đã viết đơn cho tổng thống Pháp xin đặc ân theo học nhưng bị từ chối (trong đơn này, HCM khai là sinh năm 1892, cùng năm sinh với Phạm Quỳnh). Cho tới lúc gặp Phạm Quỳnh, Hồ Chí Minh không có nghề nghiệp ổn định, không có tên tuổi nhất định, lý lịch mù mờ, và đã gia nhập Đảng Cộng sản Pháp được vài năm, hoàn toàn vô danh trong xã hội Việt Nam.

Là một cán bộ cộng sản, Hồ Chí Minh không thể không biết tài năng và lập trường chính trị của Phạm Quỳnh, nhất là sau mấy lần gặp gỡ ở Paris. Vì vậy, khi cướp được chính quyền năm 1945, Hồ Chí Minh đã ra tay trừ khử Phạm Quỳnh.

Phạm Quỳnh cũng không phải “chỉ là nạn nhân của một chế độ buổi giao thời hỗn loạn” như có người nói. Ông đã là nạn nhân tất yếu của chính sách đẫm máu của người cộng sản được thi hành một cách có kế hoạch, có hệ thống.

Phạm Quỳnh và những nạn nhân khác đã chết vì đứng ở thế đối kháng với cộng sản, dù không, hay chưa có hành động gì tích cực. Họ cần được tôn vinh, chứ không cần được “giải oan” vì họ đã không bi xét xử và kết tội bởi một tòa án nhân danh công lý. Họ đã bị thủ tiêu một cách mờ ám và phi pháp trong bóng tối mà chính kẻ cầm đầu chế độ cũng không dám nhận trách nhiệm. Chế độ bất lương ấy càng không có tư cách để “giải oan” cho những nạn nhân của nó, mà chính chế độ ấy cần phải bị lên án và kết tội.

Trong lễ khánh thành Đài Tưởng Niệm hơn 100 triệu nạn nhân cộng sản trên thế giới tại Washington DC ngày 12/6 vừa qua, Tổng Giám Mục Pietro Sambi nói rằng: “Hàng triệu người đã bị cộng sản giết hại. Chúng ta không biết mặt họ, không biết tên tuổi họ, nhưng Thượng đế biết.” Có lẽ cần thêm: “Và Thượng đế biết những kẻ đã giết họ.”

Những nạn nhân ấy đòi hỏi Công Lý, chứ không xin được giải oan. Công lý không chỉ cần cho người sống, nhưng cũng cần cho những người đã bị giết chết như những con vật không phương thế tự vệ.

Không có Công lý, khi kẻ giết một người thì bị trừng phạt, có khi phải đền mạng, còn kẻ giết hàng triệu người lại được đúc tượng, xây lăng, ướp xác.

ST

Nguồn: http://vietland.net/main/showthread.php?t=6045

Kỷ niệm 50 năm Diễn Hành Truyền Thống Ngày Quân Lực - Phạm Hòa

Kỷ niệm 50 năm Diễn Hành Truyền Thống Ngày Quân Lực
do Bộ Quốc Phòng HK và Thành phố Torrance, Cờ Vàng VNCH tung bay.


Phạm Hòa

LOS ANGELES - Nỗi xúc cảm và kiêu hảnh chan hòa với tiếng nhịp bước quân hành, tiếng vổ tay vang dội, càng lúc càng giòn rã, tiếng hô hào trong gió, rền vang vọng lại, tiếng Việt, tiếng Mỹ, âm thanh vang dội, ấm cúng bao quanh trên đại lộ thật lớn rạp hàng cây cao vút, các vị Tướng lãnh Tư Lệnh Quân Đội, Sĩ Quan Cao Cấp của Quân Lực Hoa Kỳ, những Nghị Sĩ, Dân Biểu, Thị Trưởng, Hội Đồng Thành Phố và Quan Khách trên một khán đài dài, hàng trăm chiếc ghế trắng bao quanh những tấm băng màu xanh, đõ và trắng của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ họ đại diện cho tất cả Quân Binh Chủng và công dân Hoa Kỳ về tham dự Kỹ Niệm 50 năm Diễn Hành truyền thống ngày Quân lực Hoa Kỳ, tất cả đã đứng Nghiêm Chào tay thật uy nghi và đã đứng từ lúc nào, chờ đợi toán Quốc Kỳ của Cựu Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tiến vào khán đài.

Con đường chính của thành phố Torrance thật rộng và hùng vĩ với những hàng cây cổ thụ to, từ xa ngọn cờ Vàng nổi bật trên tất cả màu sắc khác Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa hùng dũng tung bay trong gió tiến vào khu vực khán đài chính, Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ tung bay thật mạnh và ngưòi cựu quân nhân QLVNCH vẫn nắm chặt tay và chân đều bưóc tiến và khuất phục gian khổ như đã từng chiến thắng những chông gai trưóc và sau cuộc chiến.

Năm nay với sự tăng cường hậu duệ QLVNCH trang bị quân phục đơn vị thiện chiến cọp ba đầu rằn Biệt Động Quân, tay cầm M16, balô nón sắt khăn choàng cổ màu tím hoa sim với Huy hiệu Binh Chủng Biệt Động Quân oai hùng, đi phía sau Quốc Kỳ, súng chào tay và sánh bưóc cùng thế hệ cha anh trong vang dội của hoan hô và vổ tay nồng nhiệt, chiếc xe jeep lùn thời chiến tranh ngày nào vẫn lăn bánh hiên ngang hùng dũng, như chứng nhân và sự hiện hữu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và trong kỹ niệm 50 năm diễn hành truyền thống Quân Lực Hoa Kỳ đã gây nhiều chú ý đến các cơ quan Truyền Hình, truyền thông và báo chí đã đề cập và đăng tải sự hiện diện của cựu quân nhân QLVNCH trong diễn hành quân lực Hoa Kỳ, và ngày hôm sau hình ảnh và bài viết về sự xuất hiện cuả Toán Quốc Kỳ VNCH đã được nổi bật trên Trang nhất báo Chủ Nhật báo chí địa phương và trên các truyền hình trên thế giới.

Cảnh Sát địa phương cho biết đã có hơn 60 ngàn người hiện diện trên khoàng đuờng gần 2 cây số, kỷ niệm 50 năm diễn hành truyền thống ngày Quân Lực Hoa Kỳ tại thành phố Torrance, Tiểu bang California từ năm 1949 đến nay.

Tiếng hoan hô và vỗ tay càng lớn những bưóc chân càng oai hùng của những Cựu Quân Nhân QLVNCH càng bưóc mạnh và đều đặn hơn cho dù tuổi đời chồng chất, vẫn đều nhịp bước trong tiếng trống quân hành, gợi nhớ trong ký ức hình ảnh diễn hành ngày Quân Lực 19-6 trong lòng thành phố Sàigòn sau Mùa Hè Đỏ Lửa trở về Thủ đô từ chiến trường rực lửa Trị Thiên, Bình Long, Kontum, An Lộc. Trên nền trời xanh những phản lực cơ gào thét như xé tan bầu khí quyển, tiếng xích và động cơ, những hàng khói đen từ thoát ra từ phía sau những thiết gíáp trở về từ Chiến Trường Iraq và A phú Hãn một âm thanh vang rền hòa lẫn trong bầu trời đến thật nhanh và kéo dài trong tâm tưởng vang rền của mọi ngưòi tham dự.

Cuối buổi diễn hành các Quân Nhân Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa quay quần bên nhau với nhiều hình ảnh lưu niệm và Thượng Sĩ Davidson một quân nhân từng tham chiến tại Việt Nam hiện vẫn còn trong quân ngũ Hoa Kỳ tìm gặp các cựu Quân Nhân QLVNCH và nhắc nhớ nhũng địa danh của Việt nam: Đông Hà, Khe Sanh, Chu Lai, Đà Nẵng, rồi Kontum, Pleiku, Cam Ranh, Long Bình, Tân Sơn Nhất, Tây Ninh, Cần Thơ và Biên Hòa, rồi xin chụp hình kỷ niệm và hẹn gặp lại với nhiều lưu luyến.

Cuối ngày trên bầu trời xanh tự do của Hoa Kỳ ngọn cờ vàng được gắn trên antenna của chiếc M151A2 biểu tượng cho Công Lý và Chính Nghĩa vẫn tung bay làm nền tảng, phía trưóc toán quân nhân Hoa Kỳ và Cựu quân nhân QLVNCH cùng đứng bên nhau với niềm kiêu hảnh, phía sau đoàn phi cơ phản lực và trực thăng phi diễn rền vang ầm ỉ, và động cơ của Quân Xa thiết giáp trên đường nhắc nhở chúng ta đang vẫn còn trong chiến tranh với khủng bố, thù hằn, bất công, áp bức và thế hệ thứ hai của quân lực Việt Nam Cộng Hòa và chiến sĩ Hoa Kỳ vẫn phải tiếp tục hy sinh xương máu mình trên chiến trường Iraq, A Phú Hản và nhiều nơi trên thế giới, như hơn một lần 350,000 quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, 58, 256 Quân nhân Hoa Kỳ và hơn 6,000 quân nhân đồng minh đã anh dũng hy sinh trên chiến trưòng Việt Nam và hàng ngàn quân nhân mất tích trên chiến trường và trong các trại tù.

Văng vẳng đâu đây giọng nói ấm và truyền cảm của người MC nhắc nhở đến mọi người và thế hệ mai sau luôn nhớ ơn và tri ân những anh hùng, đã nằm xuống để gìn giữ tự do và công bình cho nhân loại và như ngọn cờ Vàng mãi tung bay trong gió thách đố cho sự bền vững dài lâu, cho nhân tâm đạo lý, cho no ấm an sinh và trường tồn của chính nhân và đại nghĩa.

Cựu Trưởng Toán 723/Đ72/SCT Nha Kỹ Thuật/Bộ TTM/QLVNCH
Hội Trưởng Hội Ái Hữu Quân Trường Đồng Đế Nha Trang (THSQ-QLVNCH)
Phạm Hòa




Thủ tướng Đức Angela Merkel nói: ''Chủ nghĩa cộng sản đã tạo nên những con người dối trá!''

Bức tường Berlin đã sụp đổ

VietCatholic News
17 May 2009


ĐỨC QUỐC - Năm 2009 Phương Tây sẽ mừng kỷ niệm 20 năm thoát khỏi hiểm họa cộng sản trên toàn cõi Đông Âu, khởi đầu được bắt đầu bằng các phong trào cầu nguyện đòi dân chủ từ Đông Đức. Trong 20 năm vừa qua bao nhiêu tội ác, bất công, tù tội, giết người … do chủ nghĩa cộng sản gây ra tại Đông Âu được lột trần trước ánh sáng và công lý. Những bản án tố cáo sự tàn ác của cs được trực tiếp và gián tiếp, được người trong cuộc lẫn ngoài cuộc ghi lại trong sử sách nhân loại.

Mới đây nhất lời phát biểu của nữ thủ tướng, Dr. Angela Merkel vào ngày 07/5/2009 dịp nước Đức nhớ lại Phong trào nổi dậy đòi dân chủ tại Đông Đức cộng sản vào năm 1989 chống đối cuộc bầu cử gian lận ngày 07/5/1989 tại Đông Đức, là bản kết án hùng hồn nhất về một chủ nghĩa bất nhân, một chủ nghĩa gây bại hoại cho nhân loại: "Chủ nghĩa cộng sản đã tạo thành con người dối trá". Bà Merkel kết án mạnh mẽ: "Đông Đức đã trở thành một hệ thống nhà tù kiểm soát chặt chẽ người dân nhất thế giới". Tuy nhiên điều phá hủy được hệ thống vô luân này chính là niềm khát khao công lý và sự thật của người dân Đức, đó chính là "nền tảng cho nền dân chủ" , chúng ta đang hưởng được tự do và công lý trong 20 năm qua, hôm nay "chúng ta không thể và không muốn quên đi tất cả những bất công đã xảy ra do cộng sản gây ra" , những nhận định sắc bén này bà Merkel muốn nhắc nhở cho người dân Đức và cho thế giới tự do.

Nếu một nhân vật nào đó nói như thế thì chưa chắc có thể dựa trên một nền tảng chứng minh chắc chắn, nhưng với Angela Merkel, một người đã sống trong lòng cs và được đào tạo lớn lên từ đây thì không có lời nào chứng minh hùng hồn hơn được bằng những phát biểu của bà nói về tội ác cộng sản.

Cứ nhìn lại lịch sử trước đây 20 năm tại Đông Âu thì rất rõ ràng, chỗ nào cũng giăng đầy bảng đỏ chữ trắng tuyên truyền như “Chủ nghĩa Mác - Lê Nin muôn năm”, “Chủ nghĩa Mác - Lê Nin bách chiến bách thắng”, “Đảng cộng sản muôn năm”… Muôn năm như thế để cộng sản ác độc tạo ra nhiều thế hệ nhằm ca tụng một chủ nghĩa dối trá phi nhân hơn 70 năm trời. Tội ác cs đã gây ra những con số chết chóc khủng khiếp cho chính dân chúng của họ, có lẽ chỉ có ác thú mới làm được như sử gia Rudolph J. Rummel đã nêu ra trong sách "Death by Government":

Cộng sản đấu tố dã man địa chủ
trong việc cải cách ruộng
- Cộng sản Nga giết 61.911.000 người.
- Cộng sản Trung Hoa giết 35.236.000 người.
- Cộng sản Khmer đỏ giết 2.035.000 người.
- Cộng sản Việt Nam giết 1.670.000 người.
- Cộng sản Ba Lan giết 1.585.000 người.
- Cộng sản Nam Tư giết 1.072.000 người.

Nhìn về VN với một ví dụ rất điển hình của sự khát máu và tàn ác qua tên đồ tể của "Cải cách ruộng đất" Đặng Xuân Khu (1907-1988), tự xưng là Trường Chinh, được sự đồng ý của Hồ Chí Minh cướp đất gây đại họa giết 172.000 người, và hơn 500.000 nạn nhân vô tội khác do chính tên đầu sỏ Trường chinh gây ra. Bao nhiêu cảnh giã man giết người trong cải cách ruộng đất với khẩu hiệu: "Trí, phú, địa, hào đào tận gốc" chẳng khác gì hơn sự diệt chủng rùng rợn của bọn cs Khmer đỏ, thế mà csVN còn dựng lên tượng đài của tên đồ tể Đặng Xuân Khu tại một quảng trường lớn thuộc huyện Xuân Trường để tuyên dương công trạng giết người tàn ác này.

Nhận định của nữ thủ tướng Angela Merkel về cs Đông Đức không những có cơ sở chắc chắn, mà còn được nổi bật khi so sánh với lời tuyên bố của ông Mikhail Gorbachev: "Tôi đã bỏ hơn nửa cuộc đời đấu tranh cho lý tưởng cộng sản, nhưng ngày nay tôi phải đau buồn mà nói rằng "cộng sản chỉ biết tuyên truyền và nói láo".

Tại VN dịp kỷ niệm 55 năm ngày mở đường Trường Sơn cũng như kỷ niệm 55 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã có những bài báo từ Nga hé lộ cho biết công lớn của người Nga ở Điện Biên. Tin mới nhất từ tác giả Sergey Balmasov phê phán cs Bắc Việt đã vô ơn quên hẳn những tình cảm về thời được Nga giúp trong cuộc chiến - theo tác giả, "chiến thắng vang dội (đó) không thể có nếu thiếu sự ủng hộ từ Nga". Lý do được tác giả dẫn chứng rằng "Pháo phòng không của Liên Xô đã tiêu diệt hoàn toàn hệ thống phòng thủ của Pháp" ở cứ điểm 17 nghìn quân tại Điện Biên.

csVN vẫn dấu diếm và dối trá trong sự việc lớn này tại Điện Biên và dành công lớn cho chính mình.

Trong những ngày vừa qua dân cư trên mạng đã khám phá ra một điều rất thú vị có thể chứng minh csVN đang dã tâm dâng hiến đất cho Tàu cộng qua trang website www.vietnamchina.gov.vn. Hiểu nôm na là trang website kết nghĩa anh em với Tàu cộng lấy tên miền gov.vn do chính phủ Việt Nam làm quản lý admin, nhưng nội dung đang phổ biến bằng tiếng Việt cho biết rất nhiều miền đất và hải đảo VN đang thuộc về người Tàu.

Có thể csVN đang dối trá toàn dân trong việc hiến dâng bờ cõi thiêng liêng của tổ quốc cho ngoại bang chăng?

Về dự án bauxite tại Tây Nguyên, đang được toàn dân thuộc mọi tầng lớp, kể cả Võ Nguyên Giáp chú ý nói đến những hiểm họa về môi sinh và bệnh tật, trong khi đó csVN lại kêu gào thế giới về thảm trạng Da Cam trong chiến tranh. Liệu csVN có đảm bảo những thảm trạng dị tật từ bauxite theo thời gian không? Vì sao các quốc gia khác phải đóng cửa các mỏ quặng bauxite của họ? Chắc chắn thảm họa bauxite sẽ to lớn hơn chất độc da cam.

csVN ngu dại hoặc cố tình dối trá dân chúng khi không để ý đến tin tức từ ChinaDaily, Xinhua đưa đi: "Ngày 11.5.2009, hội đồng Nhà nước Trung Quốc thông qua kế hoạch ba năm, hỗ trợ ngành công nghiệp khai thác chế biến kim loại màu (nhôm, đồng …) theo hướng tái cấu trúc và hiện đại. Theo đó, sẽ thành lập 3 – 5 doanh nghiệp chủ đạo trong ngành, và đến năm 2011 có 10 doanh nghiệp hàng đầu nắm đến 90% sản lượng đồng, 70% sản lượng nhôm, 60% kẽm … Các nhà máy nhôm, đồng… ô nhiễm sẽ bị đóng cửa, chính phủ (Tàu) khuyến khích và tài trợ vốn cho các doanh nghiệp đầu tư khai thác mỏ ở nước ngoài, kể cả hình thức liên doanh liên kết". (http://www.sgtt.com.vn/detail30.aspx...009/0512/51324).

Bauxite tại Tây Nguyên đang là ngòi bom nổ chậm đổ xuống dân tộc VN, mà csVN đang giã tâm tiếp tay với Tàu cộng.

Hẳn là không có sự ngẫu nhiên khi các cuộc cầu nguyện đòi Công Lý và Sự Thật được phát xuất từ Thái Hà – Hà Nội và can đảm hơn người dân Thái Hà cùng ghi danh “HÃY CỨU LẤY TÂY NGUYÊN KHỎI THẢM HOẠ BAUXITE ĐỎ”, điều này đúng với nhận định thêm của thủ tướng Angela Merkel vào cuối bài diễn văn: "Hậu quả tàn ác của cs đẩy con người vào đường cùng là dối trá với nhau, tuy nhiên khi sự dối trá được phơi bầy và người dân can đảm moi ra những điều gian lận (trong bầu cử) thì dẫn họ đến các phong trào đòi hỏi công lý. Và cuối cùng người dân Đông Đức biết kết thúc với trò chơi dối trá này. Như thế người dân can đảm tìm đến nhau, tạo dựng các phong trào nói về công lý và sự thật".

Cuối cùng, hy vọng ông Nguyễn Tấn Dũng còn lương tâm và lòng tự trọng nghĩ lại câu nói của chính mình để xứng đáng với chức vụ thủ tướng và nhiều hơn nữa đừng dối trá cướp từng mảnh đất nhỏ của người dân VN để rồi hèn nhát dâng hiến bờ cõi tổ quốc cho giặc Tàu ngàn năm: "Tôi xin nói suy nghĩ riêng của mình. Tôi yêu nhất, quý nhất là sự trung thực, ghét nhất, giận nhất là sự giả dối".

Nguồn: http://www.vietcatholicnews.com/News/Html/67266.htm


Miếng Mồi Ngon Của Việt Cộng Nhưng Khó Nuốt? - Luật sư Lê Duy San

    Người Việt Hải Noại: Miếng Mồi Ngon Của Việt Cộng Nhưng Khó Nuốt?
Luật sư Lê Duy San

- Việt Cộng đánh gía Người Việt Hải Ngoại như thế nào ?
- Những chính sách của Việt Cộng để dụ dỗ Người Việt Hải Ngoại.
- Những trò lưu manh của Việt Cộng để phá hoại sự đoàn kết của Người Việt Hải Ngoại.

Sau khi nuốt trọn được miền Nam Việt Nam vào năm 1975 và áp đặt một chế độ độc tài đảng trị trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam, bọn Cộng Sản Việt Nam đã đưa cả trăm ngàn quân nhân và công chức của chế độ VNCH mà chúng coi là thành phần tối nguy hiểm vào nhà tù mà bọn chúng gọi là trại cải tạo. Chưa đủ, để tịch thu nhà cửa và ăn cướp tài sản của đồng bào, chúng còn đẩy cả triệu đồng bào mà chúng coi là thành phần hút máu mủ nhân dân hoặc ăn bám xã hội lên rừng núi mà chúng gọi là vùng kinh tế mới hoặc ra biển cả làm mồi cho cá.

Nhưng sau một thập niên quản trị đất nước (1975-1985) với chính sách hộ khẩu và hợp tác xã, chúng đã đưa Việt Nam vào danh sách những nước nghèo đói nhất thế giới. Để cứu đói và cũng là để cứu đảng, chúng đã phải cởi trói chính sách kinh tế của chúng phần nào, cho phép dân chúng làm ăn, buôn bán nhỏ, chấp nhận tiền bạc cũng như đồ đạc của người Việt Hải Ngoại gửi về cho thân nhân.

Mặc dù cởi trói đã được 5 năm (1985-1990) tình trạng nghèo đói của đất nước vẫn không khá hơn, vì bọn Việt Cộng vẫn ngoan cố, nên vẫn bị Hoa Kỳ cấm vận. Nhận thấy, tinh thần chống Cộng của người Việt đã giảm sút, không còn cao như lúc Măt Trận Hoàng Cơ Minh mới ra đời, nhất là từ khi ông Hoàng Cơ Minh đã bị Việt Công giết. Việt Cộng không còn lo ngại gì nữa, nên đã xuống nước và chấp nhận bang giao với Hoa Kỳ để được hủy bỏ cấm vận.

Kể tứ năm 1991, sau khi được Hoa Kỳ hủy bỏ cấm vận, các nước ùn ùn vào đầu tư tại Việt Nam. Tuy nhiên ăn được tiền của ngoại quốc cũng không phải là dễ. Người ngoại quốc nào bỏ tiền ra đầu tư ở Việt Nam cũng mong mang được lợi nhuận về nước. Họ đầu tư ở Việt Nam, chẳng qua họ thấy nhân công ở Việt Nam rẻ chứ không phải vì họ yêu nước Việt Nam. Trái lại, bọn Việt Cộng nhận thấy, người Việt Hải Ngoại dù ra đi vì bất cứ lý do gì, cũng không bao giờ ghét bỏ tổ quốc. Ai mà chẳng sinh ra ở Việt Nam ? Ai mà chẳng có họ hàng, thân thích, bạn bè ở Việt Nam ? Chỉ số tiền hàng năm Người Việt Hải Ngoại đem về tiêu ở Việt Nam hoặc gửi về giúp đỡ thân nhân, bạn bè và người nghèo khổ cũng đã lên tới 4 tỷ đô la. Chỉ cần 1% số người này đem tiền về Việt Nam làm ăn, hay đem chất xám về giúp nước, mỗi năm Việt Cộng sẽ kiếm thêm được bao nhiêu tỷ nữa? Đây qủa là một miếng mồi ngon của Việt Cộng.

Chính vì vậy, ngay từ khi Hoa Kỳ vừa hủy bỏ cấm vận, bọn Cộng Sản đã dùng ngay chiêu bài Hoà Hợp, Hòa Gỉai để dụ dỗ những người Việt Hải Ngoại vẫn còn thơ ngây về hợp tác hoặc làm ăn với chúng. Thực ra bọn Việt Cộng có bao giờ thực tâm muốn Hòa Hợp, Hòa Gỉai với ai. Chúng chỉ muốn Hoá Giải những sự chống đối, chúng chỉ muốn lùi một bước để rồi sẽ tiến hai bước. Chỉ tiếc rằng người Việt Quốc Gia, vì ngu dốt, vì ham danh, hám lợi, nên dù đã từng bị lừa bịp nhiều lần rồi mà vẫn bị lừa. Tuy nhiên số người này không phải là nhiều, nên ngày 26/3/04, Bộ Chính Trị của Việt Cộng đã phải ban hành nghị quyết 36 đối phó với người Việt Hải Ngọai.

A. Việt Cộng đánh giá người Việt Hải Ngoại như thế nào?

Sau 15 năm sống còn nhờ vào tiền của người Việt Hải Ngoại gửi về, bọn lãnh đạo Việt Cộng không còn dám coi thường những người mà bọn chúng trước kia gọi là những thành phần đĩ điếm, tay sai đế quốc Mỹ nữa, trái lại chúng “đánh giá” rất cao, coi cộng đồng người Việt Hải Ngoại là “là khúc ruột ngàn dậm, là một bộ phận không thể tách rời khỏi dân tộc”.

Chúng đã phải nhìn nhận 80% những người Việt Hải Ngoại, không những đã ổn đinh được cuộc sống mà còn có vị trí trong đời sống kinh tế, xã hội và chính trị trong nước họ định cư. Nhiều người có tiềm lực kinh tế, có khả năng quan hệ với các doanh nhân bản xứ để làm cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước cũng như cho bọn chúng.

Tuy nhiên, chúng cũng nhận thấy rằng hầu hết người Việt Hải Ngoại không tin vào sự đổi mới của chúng, không tin vào sự Hòa Giải, Hoà Hợp của bọn chúng, không những thế, nhiều người khác vẫn còn chống đối và vạch trần sự lừa phỉnh, bịp bợm của bọn chúng.

B. Những chính sách của Việt Cộng để dụ dỗ người Việt Hải Ngoại.


Nhận thấy tầm quan trọng của người Việt Hải Ngoại cũng như tinh thần chống Cộng của người Việt Hải Ngoại vẫn còn mạnh mẽ, trong nghị quyết 36, bọn Việt Cộng đã phải đưa ra một số chính sách đối phó để đánh phá và lôi cuốn những thành phần ham danh, hám lợi nhưng vẫn chưa rứt khoát tin tưởng ở chúng.

1. Biện pháp I: Chiêu bài Hoà Hợp, Hoà Giải.

Như đã trình bầy ở trên, thực ra bọn Việt Cộng không bao giờ chúng thực tâm muốn Hoà Hợp, Hoà Giải vì bọn chúng đang ăn trên ngồi trốc, đang nắm độc quyền quản trị đất nước, đời nào chúng lại dại dột nhường ghế, chia quyền cho người khác? Chẳng qua đây chỉ là một phương thức để Hoá Gỉai những sự chống đối của những thành phần chống đối nhưng không có lập trường chống Cộng vững chắc, còn ham danh, hám lợi, cũng như để dụ dỗ những thành phần trí thức ngu muội, chỉ biết chủ nghĩa Cộng Sản qua sách vở mà không hề biết trên thực tế, chủ nghĩa Cộng Sản đã được bọn chúng thực thi ra sao.

Biện pháp Hoà Hợp, Hoà Giải đã được bọn chúng đem ra áp dụng từ lâu. Từ năm 1945-1946, chúng cũng đã đem ra áp dụng để thành lập chính phủ Liên Hiệp. Rồi năm 1974-1975, chúng cũng đưa ra để dụ dỗ những người quốc gia nhẹ dạ. Năm 1990-1991 chúng cũng đưa ra và cho đến bây giờ chúng cũng vẫn đưa ra. Tóm lại, bất cứ lúc nào chúng muốn hóa giải việc gì, là chúng lại đem chiêu bài Hòa Hợp, Hòa Giải ra áp dụng. Bởi vì chúng biết lòng căm thù của người Việt Hải Ngoại mỗi ngày một giải đi theo thời gian. Vì vậy chiêu bài Hoà Hợp, Hoài Gỉai của chúng lúc nào đem ra áp dụng cũng vẫn có gía trị.

2. Biện phái II: Chính sách Giao Lưu Văn Hóa.

Nhược điểm của người Việt Hải Ngoại, tức những người xa quê hương nhớ nhà, nhớ quê hương. Càng xa lâu, càng nhớ nhiều. Lợi dụng nhược điểm này, chúng tung ra hải ngoại sách báo, băng nhạc và phim ảnh gọi là Giao Lưu Văn Hóa.

Lúc đầu, chúng còn đưa ra nhưng phim ảnh có mục đích tuyên truyền. Nhưng sau chúng thấy bất lợi vì không nhưng không được đồng bào Hải Ngoại hưởng ứng mà còn chống đối kịch liệt nên sau chúng chỉ đưa ra những phim ảnh vô thưởng, vô phạt, không những hoàn tòan có tính cách giải trí, mà nhiều khi còn cố ý chỉ trích chính quyền, nhưng chỉ về vấn đề tham nhũng, một vấn đề không thể dấu diếm được để tỏ ra ta đây (chính quyèn Cộng Sản) cũng tự do, dân chủ để lừa gạt những người Việt Hải Ngoại nhẹ dạ, dễ tin.

Thực ra có bao giờ chúng chịu Giao Lưu Văn Hóa với người Việt Hải Ngoại? Thử hỏi đã có cuốn sách nào nói về tự do, dân chủ, nói về nhân quyền của ngoại quốc, chứ đừng nói tới của người Việt Hải Ngoại, được chúng cho lưu hành trong nuớc? Ngay người trong nước, chỉ cần dịch một tài liệu của ngoại quốc rồi đăng trên diên đàn điện tử cũng bị coi là phản động và cho đi tù.

3. Biện pháp 3: Cho hưởng một vài quyền lợi.


Để dụ dỗ người Việt Hải Ngoại về nước du lịch hay làm ăn, hợp tác nhiều hơn, Việt Cộng đề ra nhiều chính sách, chủ trương nhằm tạo điều kiện dễ dàng như về gía cả, không còn phân biệt người trong nước với người nước ngoài. Chấp thuận cho người Việt Hải Ngoại mua nhà đất trong nước với một vài điều kiện nào đó. Quy chế miễn visa, miễn thị thực chữ ký. Cho phép người Việt Hải Ngoại được phép kinh doanh hoặc mở một vài công ty cũng như hợp tác vào vài hoạt động khoa học, văn hóa v.v…Vinh danh một số trí thức và thương gia về nước phục vụ cho chúng.

Cả ba biện pháp trên đều thất bại bởi vì chúng không có thực tâm mà chỉ là để dụ dỗ, tuyên truyền. Hơn nữa, tình trạng tham nhũng ở Việt Nam bây gìơ đã hết thuốc chữa. Tham nhũng từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, không ai bảo được ai, nên số người Việt Hải Ngoại về nước làm ăn hay kinh doanh mỗi ngày một ít. Tuy nhiên bọn chúng vẫn giả ngây, giả ngô và tổ chức một cuộc hội thảo tại thành phố Saigon ngày 28/12/08 giữa bọn chúng và một số Việt Gian Hải Ngọai trong số đó có Giáo Sư Tạ Văn Tài để tìm hiểu nguyên nhân dưới đề tài “Làm sao để phát huy nguồn lực trí thức Việt Kiều đóng góp vào công cuộc phát triển đất nước ?...”

Gần 30 bài tham luận từ nước ngoài đã được gửi về đóng góp ý kiến và 16 tham luận viên đã tới để trực tiếp trình bày. Nhưng những lý do, những nguyên nhân thực sự như: vì chế độ hiện tại của Việt Nam là một chế độ độc tài chuyên chế, một chế độ trị nước không phải bằng luật pháp mà là một chế độ công an trị, vì chế độ hiện tại của Vịệt Nam là một chế độ không tôn trọng nhân quyền , không đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết v.v… nên không ai muốn về nước giúp cho một chế độ như vậy. Các tham luận viên chỉ nói tới những lý do vớ vẩn như vì quen sống ở những nước văn minh, có đủ tiện nghi vật chất, không được đãi ngộ xứng đáng, môi trường làm việc không được đầy đủ phương tiện kỹ thuật, còn nghi ngờ về cách đối xử “giở giăng, giở đèn” của nhà cầm quyền VN v.v…

C. Những chiến thuật của Việt Cộng để phá hoại Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại.

Không chiêu dụ được, không dụ dỗ được, bọn Việt Cộng đã dùng những chiến thuật sau để phá hoại Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại.

1. Chiến thuật “Tầm ăn dâu”.

Phần lớn các Hội Đoàn lập ra đều có mục đích xã hội và vô vị lợi. Vì thế chúng thường dùng chiêu bài làm việc xã hội, từ thiện để dễ dàng được các Hội Đoàn hỗ trợ. Rồi từ đó, chúng dần dần để lộ ra bộ mặt thật của chúng để làm cho Hội Đoàn đã hỗ trợ chúng bị chia rẽ để chúng dễ dàng xâm nhập và quậy phá.

Các Hội Đoàn, lúc đầu thường do các người có lập trường chống Cộng, có nhiệt huyết lập ra, nên lúc đầu sự hoạt động rất hăng say và có quy củ. Nhưng sau một thời gian hoạt đông bắt đầu mệt mỏi, nên sự hoạt động cũng lỏng lẻo. Bọn Việt Cộng bắt đầu xâm nhập hoặc cho tay sai vào nằm vùng, chờ cơ hội hoạt động. Lúc đầu có thề chúng chỉ già vờ vô tình đưa ra một vài lời tuyên bố có lợi cho Cộng Sản, rồi sau đó, chờ cơ hội thuận tiện, chúng có thể đưa ra cả một bài tuyên truyền cho Cộng Sản. Thế là Hội đoàn đó có thể tách ra làm hai hoặc tan rã hoặc ở trong tình trạng tê liệt.

Trên các diễn đàn điện tử, báo chí cũng vậy, chúng cũng luôn luôn tim cách xâm nhập để gây chia rẽ và xáo trộn.

2. Chiến thuật “Cá mè một lứa”

Sau ngày 30/4/1975, bọn chúng đã ăn cướp được của đồng bào miền Nam không biết bao nhiêu tiền của nhờ vào chính sách đổi tiền, đánh tư sản mại bản, cải tạo công thương nghiệp, vùng kinh tế mới và sau này, ăn cướp đất đai của đồng bào, chúng trở thành bọn tư bản đõ. Nhưng để dân chúng nửa tin, nửa ngờ, chúng tung ra một danh sách có cả tên của những người đã từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa cũ mà nhiều người biết chắc không thể nào giầu có được.

Đối với những người Việt Hải Ngoại chống Cộng cũng vậy. Chúng luôn luôn tìm cách ly gián và gây sự nghi ngờ lẫn nhau.

Thực vậy, số người Việt Hải Ngoại chống Cộng đã hiếm, mà số người có khả năng chống Cộng bằng ngòi bút lại càng hiếm hơn. Vì vậy, một người chống Cộng, khi đọc bài của một người khác thấy họ có tinh thần chống Cộng rất cao thì rất mừng, săn sang kết nạp, mời mọc tham gia, công tác. Nhưng sau một vài bài chống Cộng, họ viết một bài cũng chống Cộng, nhưng trong đó có lồng vào một vài câu hay một vài đọan họ đả kích một người quốc gia có uy tín hay có lập trường chống Cộng cao. Nếu ta vì quá tin tưởng họ, không đọc kỹ mà phổ biến thì sự việc sẽ ra sao?

Những người chống Cộng thực sự và họ biết ta, không bao giờ họ lại ngây thơ mà chỉ trích ta, cùng lắm họ chỉ lưu ý ta mà thôi hoặc nếu cần, họ sẽ viết một bài để vạch mặt thẳng tên Việt Công nằm vùng đã viết bài kia. Nhưng những người chống Cộng khác, họ không biết ta, tính lại nóng nẩy sẽ chụp ngay lấy để mạt sát, để chụp mũ. Cho nên chúng ta đừng lấy làm ngạc nhiên khi thấy người chống Cộng thì ít mà kẻ chống người chống Cộng lại nhiều. Vì thế, bọn Việt Cộng đã khai thác triệt đề khía cạnh này để đưa Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại tới chỗ “Cá Mè Một Lứa”, chẳng còn biết ai là người chống Cộng, ai là Việt Gian Cộng Sản nữa.

Mong rằng tất cả những người Việt Hải Ngoai có tinh thần chống Cộng cao, hãy đề cao cảnh giác và luôn luôn phải bình tĩnh, đừng để xa vào cái bẫy của Việt Cộng.

Luật sư Lê Duy San


Tuesday, May 19, 2009

ĐẠN MÃ TỬ - Đỗ Thái Nhiên

Đỗ Thái Nhiên

Đạn mã tử là đạn giả. Khi bị kích hỏa, đạn mã tử gây tiếng nổ như đạn thật nhưng “người bị bắn” không hề bị thương. Lý do: đạn mã tử chỉ có thuốc súng chứ không có đầu đạn.

Trong quân đội, người ta trang bị cho tân binh đạn mã tử để “tiếng nổ mã tử” giúp chàng lính mới cảm thấy hồi hộp và ly-kỳ-như-thật trong trường hợp thực tập đánh trận giả. Như vậy, đạn mã tử là một sản phẩm quân sự. Nó chỉ đắc dụng đối với giờ học tập chiến thuật của chương trình huấn luyện quân sự. Thế nhưng thời gian gần đây, chế độ Hà Nội đã mang đạn mã tử đi vào thế giới của kịch nghệ chính trị. Bên ni là quân Hà Nội. Bên nớ là quân Bắc Kinh. Đôi bên giao tranh kịch liệt. Tiếng đạn mã tử nghe đinh tai nhức óc. Một số người Việt thiếu kinh nghiệm trận mạc. Họ không phân biệt được sự khác nhau giữa đạn mã tử và đạn thật. Vài người,do sự hối thúc của lòng yêu nước, toan tính trở về Việt Nam để gia nhập đội quân "mã tử" của Hà Nội. Câu chuyện “Đạn Mã Tử Và Sân Khấu Chính Trị” được trình bày như sau:

Ông Đặng Công Ngữ hiên là giám đốc sở Nội Vụ Đà Nẵng. Ngày thứ bảy 25/04/2009, chế độ Hà Nội đã bổ nhiệm ông Đặng Công Ngữ kiêm nhiệm chức vụ chủ tịch huyện đảo Hoàng sa. Nhân dịp này, ông Đặng Công Ngữ tuyên bố trước báo chí: “Đây là mãnh đất thiêng liêng của tổ quốc, là máu thịt của tôi. Chúng tôi sẽ tiếp tục đấu tranh để bảo vệ toàn ven chủ quyền lãnh thổ biển đảo.” Khi được báo chí hỏi về những công tác dự tính trong tương lai, ông Đặng Công Ngữ trả lời: “Chúng tôi đã có sẳn những kề hoạch, nhưng làm đến đâu sẽ nói đến đấy vậy.”

Trước đó, ngày 24/04/2009, tại Đà Nẵng, ông Nguyễn Duy Nhất, phó giám đốc sở Nội vụ Đà Nẳng đã giới thiệu viện bảo tàng Hoàng sa với báo chí. Viện bảo tàng này có mục đích sưu tìm tài liệu và đang có “Hơn 500 hiện vật, thư tịch hiện có ở bảo tàng Hoàng sa, những câu chuyện từ các nhân chứng, sách báo, kỷ yếu…về Hoàng Sa sẽ giúp chúng tôi giới thiệu với du khách.” (Lời Nguyễn Công Ngữ, trích báo Lao Động của CSVN 24/04/09).

Chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa làm việc theo kiểu “Làm tới đâu nói tới đấy”. Nói đúng hơn, CSVN không có chương trình làm việc dành cho Hoàng Sa Ông chủ tich này chỉ hứa bâng quơ rằng sẽ “Đấu tranh để bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ biển đảo”, thay vì mạnh mẽ cam kết “Quyết tâm đánh Tàu, lấy lại Hoàng Trường Sa đã bị Trung Quốc cưởng chiếm.” Bên cạnh cái gọi là “Nhà cầm quyền” Hoàng Sa là viện bảo tàng Hoang Sa. Bảo tàng này lập ra chỉ để giới thiệu Hoang Sa với du khách. Thế nhưng nếu du khách yêu cầu hướng dẫn họ di thăm Hoàng Sa thì Hà Nội bó tay. Nhìn chung, chức chủ tịch huyện đảo Hoang Sa và viên bảo tàng Hoàng Sa hiển nhiên chỉ là hai viên đạn mã tử. Có tiếng nổ nhưng phe địch không hề bị tổn thất.

Hai viên đạn mã tử vừa kể làm dư luận liên tưởng đến vụ án báo xuân Du Lịch. Được biết, nhân dịp Tết Nguyên Đán 2009, báo Xuân Du Lịch thuộc bộ Văn Hóa-Thể Thao-Du Lịch đã đến tay người đọc. Thay vì tập trung vào nội dung vui Xuân như mọi báo xuân quốc doanh khác, Xuân Du Lịch đã bất ngờ nêu cao ý chí chống Trung Quốc xâm lươc. Nổi bật là bài viết “Tản Mạn Cho Đảo Xa”. Tính chất độc đáo của bài viết này nằm ở chỗ Trung Bảo (Tác giả của bài viết) đã diễn tả lòng yêu nước bằng thái độ trang trọng của Trung Bảo khi nhặt được tờ truyền đơn chống Tàu do một đồng bào Việt Nam nào đó bỏ lại trên lề đường đối diện với lãnh sự quán Trung Quốc tại Saigon. Trung Bảo viết:

“Một năm sau, tờ giấy khổ A4 với dòng chữ vi tính: “Hoàng Sa-Trường Sa thân yêu là của Việt Nam” cùng vài chữ viết tay nguệch ngoạc: “09/12 ngày lịch sử” giờ đây đã ngã màu. Tờ giấy nầy của một bạn trẻ nào đó, tôi nhặt được trên lề đường Nguyễn Thị Minh Khai, đối diện với lãnh sự quán Trung Quốc trong những ngày đẹp trời cuối năm 2007. Tôi đem nó về dán lên tường nhà mình như một kỷ niệm đẹp. Cái ngày 09/12/2007 có lẽ chẳng bao giờ tôi quên được. Quên sao được cái không khí bừng bừng khí thế. Quên sao được khi tình cờ tôi được dứng lẩn vào cùng những người tạo nên những ngày lịch sử.”

Thế nhưng những đồng bào yêu nước mà Trung Bảo tôn kính lại bị đảng CSVN gọi là “kẻ xấu”. Xấu chỉ vì không chấp nhận cùng với CSVN. Chứng kiến tình huống nghịch lý đến điên đảo kia, Trung Bảo bực dọc lý luận:

“Nếu có “kẻ xấu” nào đó “kích động” người ta đi biểu tình vì yêu nước, ta nên tôn trọng những kẻ xấu này. Ngược lại khi “người tốt” tìm cách ngăn cản sự biểu lộ đầy phẩn uất một cách chính đáng của người dân vì chứng kiến đất mẹ bị xâm phạm thì hẳn những kẻ vẫn mạo xưng là “người tốt” nầy cần phải được xem lại”.

Do các sự kiện trinh bày ở trên, ngày 14/04/2009, ông Lê Doãn Hợp, bộ trưởng bộ Thông Tin – Truyền Thông của CSVN đã ký lệnh tạm đóng cửa báo Du Lịch ba tháng. Trước vụ Xuân Du Lịch CSVN đã không nương tay trong việc đánh đập, bắt bớ giam cầm những người Việt chống bành trướng Bắc Kinh. Điển hình là các vị: nhà giáo Vũ Hùng, Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, Blogger Điếu Cày… Bài viết này nhắc lại vụ báo Xuân Du lịch như môt nhấn mạnh rằng: Chỉ 10 ngày sau khi trừng phạt Xuân Du Lịch về “Tội chống Tàu xâm lược”, CSVN lại quay ra trình diễn vỡ tuồng chống Tàu theo kiểu: Bổ nhiệm chức vụ chủ tịch Hoàng Sa và bảo tàng viện Hoàng Sa. Tại sao CSVN lai phải giả vờ chống Tàu? Sau đây là bốn lý do:

Một là giả vờ chống Tàu vì không dám chống thật. Nói đúng hơn, CSVN đã dứt khoát chọn con đường thà mất nước còn hơn mất đảng.

Hai là giả vờ chống Tàu nhằm làm dịu đi lòng căm phẩn của nhân dân Việt Nam trước thái độ xâm lăng hống hách của người Tàu.

Ba là chống giả vờ chống Tàu với hy vọng dư luận quốc nội và quốc tế tưởng lầm rằng CSVN thực sự chống Tàu. Nhận định lầm lẩn kia là cơ hội giúp CSVN rửa mặt, rửa đi phần nào những vết nhơ đang hằn trên trán của những kẻ bán nước cầu vinh.

Bốn là giả vờ chống Tàu để độc chiếm sân khấu “Chống Tàu Cứu Nước”. Từ vị trí độc chiếm vừa kể, CSVN thực hiện hai gian mưu. Gian mưu thứ nhất: nhân danh nhà cầm quyền chống Tàu, CSVN sẽ tận tụy bảo vệ quân xâm lược Tàu bằng cách thẳng tay đàn áp những người Việt yêu nước với lý do những người này chống Tàu nhưng sai đường lối và chánh sách chống Tàu của đảng. Gian mưu thứ hai: thực hiện gian mưu thứ nhất tức là CSVN đã lập được công lớn đối với người Tàu. Từ đó, để thưởng công cho các quan thái thú thế kỷ 21, Trung Quốc sẽ bảo vệ vị trí thống trị của CSVN đối với xã hội Việt Nam ngày càng tích cực hơn.

Nhìn vào lịch sử của đảng CSVN, người khảo sát lịch sử nhận ra rằng do nhu cầu làm tay sai cho ngoại bang đây là lần thứ hai đảng CSVN ra tay giết hại đồng bào Việt Nam. Lần thứ nhất: năm 1945, CSVN thành lập Mặt Trận Việt Minh, kêu gọi toàn dân hợp lực chống thực dân Pháp. Nhưng sau đó chẳng bao lâu CSVN lại tiêu diệt người Việt yêu nước để có độc quyền đẩy Việt Nam đi vào con đường quốc gia vệ tinh của Nga và của Tàu. Lần thứ hai: năm 2009 CSVN đã lộ nguyên hình họ là chế độ độc tài phi chánh thống đang cai trị Việt Nam với tư cách là những quan thái thú của Tàu. Giới thái thú này ngày càng hiểm ác trong nổ lực thủ tiêu tất cả người Việt Nam nào dám chống lại ý đồ bành trướng của Bắc Kinh.

Dư luận thường cho rằng CSVN ngày nay quả thực một đảng xã hội đen. CS xem hoạt động chính trị chỉ là phương tiện để CS cưởng đoạt tài sản của toàn xã hội. Thực ra suy nghĩ như vừa kể là có phần khoan hồng đối với CSVN. Băng đảng độc ác hàng đầu là Mafia. Ngay cả Mafia, họ chỉ kiếm tiền trong các lãnh vực buôn lậu ma túy, rượu mạnh, cờ bạc, nhà đất … Những gì Mafia làm, CSVN đều đã làm. Riêng trong trong môi trường buôn dân, bán nước, Mafia chưa đáng là học trò của CSVN. Chưa có chế độ nào trên thế giới, ngoại trừ chế độ Hà Nội, người ta một mặt mở cửa biên giới mời gọi quân xâm lăng tràn ngập lãnh thổ. Mặt khác vừa giả vờ dùng đạn mã tử chống xâm lăng, vừa thẳng tay sát hại những người yêu nước.

Đỗ Thái Nhiên


CỨU NƯỚC - Đỗ Thái Nhiên


Đỗ Thái Nhiên

Ngày 09/03/2009, báo Lao Động của CSVN loan tin: Ngày 04/03/09, tại Hà Nội Ban Thường Trực Ủy Ban Trung Ương MTTQVN và quân chủng Hải Quân đã thống nhất các biện pháp tuyên truyền về biển, đảo tới các tầng lóp quần chúng nhân dân. Bản tin này kết luận bằng cách nhắc lại một câu nói của tiền nhân: “Ta phải giữ cho cẩn thận, đừng để cho ai lấy một phân núi, một tấc sông của tổ tiên.”

Ngày 17/03/2009, Chương trình Nghiên Cứu Biển Đông cùng với Học Viện Ngoại Giao đã tổ chức tại Hà Nội, một cuộc hội thảo với đề tài: “Tranh Chấp Chủ Quyền Tại Biển Đông: lịch sử, địa chính trị, và luật pháp quốc tế”. Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Diện, Phó Giám Đốc Thư Viện Hán Nôm viết về cuộc hội thảo này như sau: “Hội thảo đã diễn ra trong một ngày (Kết thúc lúc 5giờ 30 chiều) với một tinh thần khẩn trương. Các trao đổi bên lề và các thảo luận tại hội trường thực sự sôi nổi, chất lượng và khoa học. Đây là cuộc hội ngộ của những tấm lòng yêu nước nhiệt thành và quyết tâm dấn thân vào mọi nỗ lực giữ bằng được biển Đông”.

Các tin tức nêu trên làm một số người nức lòng. Có người không ngần ngại cho rằng Hà Nội đã bật đèn xanh cho một phong trào dân tộc thượng tôn, toàn dân cứu nước. Tại hải ngoại có vài cá nhân/tổ chức công khai, hoặc kín đáo kêu gọi mọi người Việt Nam hãy kết hợp với CSVN để quyết liệt chống Tàu. Vài người còn nêu bật phương châm: “Cứu nước trước. Chống Cộng sau”

Câu hỏi cần đặt ra là: Liệu chừng lần này CSVN có thực sự muốn cùng với toàn dân cứu nước hay không? Câu trả lời nằm trong các bản tin sau đây:

1. Tin về việc CSVN bảo vệ “lưỡi bò Trung Quốc” trên biển Đông.

a. Tuy chưa bao giờ chính thức công bố, nhưng bằng nhiều hình thức truyền thông khác nhau, Trung Quốc đã cho toàn thế giới biết Trung Quốc khẳng định trọn bộ biển Đông là biển của Trung Quốc. Lãnh hải của Trung Quốc trên biển Đông do Trung Quốc đơn phương vẽ ra chiếm 75% biển Đông và có hình dạng giống cái lưỡi bò. Trên lưỡi bò kia có Hoàng Sa, Trường Sa và vô số các đảo khác. Ngày 10/03/2009 Philippines ban hành đạo luật Cộng Hòa 9522 xác định chủ quyền đối với hơn 7100 đảo, bao gồm một phần của Trường Sa. Trọng tâm của đạo luật 9522 là quyết tâm xé bỏ lưỡi bò Trung Quốc chứ không là một phần Trường Sa. Vì vậy, sự việc CSVN cùng Trung Quốc phản đối đạo luật 9522 của Philippines cần được hiểu là CSVN đã tích cực bảo vệ lưỡi bò giùm cho Trung Quốc.

b. Công ước của Liên Hiệp Quốc về luật biển ra đời ngày 10/12/1982. Ngày 25/07/1994, CSVN phê chuẩn công ước biển 1982. Công ước này qui định: các quốc gia ven biển được hưởng một vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa mở rộng bên ngoài 200 hải lý. Vẫn theo luật biển 1982: Muốn thềm lục địa được quốc tế bảo vệ, Việt Nam phải nộp hồ sơ thông báo cho Ủy-Ban-Ranh-Giới-Thềm-Lục-Địa của Liên Hiệp Quốc để cơ quan này ghi nhận thế nào là địa hình và diện tích của thềm lục địa Việt Nam. Hạn chót để Việt Nam đệ nạp hồ sơ kia là ngày 13/05/2009. Sở dĩ mãi cho tới bây giờ, CSVN vẫn chưa tiến hành thủ tục xác nhân thềm lục địa như vừa kể là vì thềm lục địa Việt Nam đương nhiên phủ nhận lưỡi bò của Trung Quốc. Nói rõ ra: CSVN không xác nhận lãnh hải Việt Nam chỉ vì muốn bảo vệ sự nguyên vẹn lưỡi bò Trung Quốc.

2. Tin về việc CSVN “giải phóng” Trung Quốc ra khỏi cơn túng thiếu bauxite-nhôm:

Mặc dầu cả nước ngăn cản, cả thế giới ngăn cản, CSVN vẫn một lòng trung thành với Trung Quốc đến độ mở cửa đón công nhân Trung Quốc lũ lượt vào Tây Nguyên khai thác bauxite. Công việc khai thác này để lộ ba nghịch lý lớn:

a. Trên lãnh thổ Trung Quốc, bauxite đã tàn phá môi sinh quá nặng nề. Đó là lý do khiến Trung Quốc quyết dịnh đóng cửa 100 mỏ bauxite ở Hà Nam trước khi kéo công nhân và máy móc qua Việt Nam khai thác bauxite.

b. Công ty ngoại quốc vào Việt Nam kinh doanh, phải thuê mướn công nhân Việt Nam. Đặc biệt, Trung Quốc vào Việt Nam kinh doanh lại ngang nhiên mang theo nhiều ngàn công nhân Tàu cho mỗi đơn vị kinh doanh.

c. Ngày 04/02/2009, tại Hà Nội, Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng CSVN mạnh mẽ cam kết: “An ninh Việt Nam vẫn được bảo đảm” trước sự kiện Trung Quốc kéo vào Tây Nguyên. Kinh nghiệm sống với CS đã dạy người Việt Nam rằng CS bao giờ cũng làm ngược lại những gì họ cam kết.

Ba nghịch lý kể trên cho thấy CSVN quyết tâm lấy đất đai của Tổ Tiên Việt Nam làm bãi rác cho người Tàu nhằm cứu Trung Quốc thoát khỏi nạn khan hiếm chất nhôm tinh luyện từ bauxite.

3. Tin về việc CSVN ra tay cứu nguy nạn thất nghiệp đang bành trướng ở Trung Quốc:

Theo tin Báo Tuổi Trẻ: Ngày 27/03/2009 Tổng Hội Xây Dựng Việt Nam có tổ chức một cuộc hội thảo chung quanh chủ đề Hoạt Động Xây Dựng Tại Việt Nam. Nhân cuộc hội thảo này, ông Trần Ngọc Hùng, Chủ tịch Tổng Hội Xây Dựng Việt Nam đã thông báo cho toàn thể tham dự viên biết các sự kiện sau đây:

a. Doanh nghiệp Trung Quốc được hỗ trợ của nhà nước Việt Nam như giảm thuế, nên giá bỏ thầu thường thấp hơn các công ty nước ngoài khác. Vì vậy, nhiều công trình trọng điểm về điện, xi măng, hóa chất đều về tay nhà thầu Trung Quốc.

b. Nhà thầu Trung Quốc thường đem theo hàng ngàn công nhân vào Việt Nam với đầy dủ trang thiết bị. Trong khi những trang thiết bị Việt Nam có thể sản xuất để bán cho Trung Quốc. Mặt khác, mỗi công trình Trung Quốc mang vào Việt Nam tối thiểu hai ngàn công nhân.

c. Trang thiết bị Tàu và công nhân Tàu đổ vào Việt Nam như kể trên đang làm “triệt tiêu nội lực” (chữ dùng trong cuộc hội thảo) kinh tế Việt Nam.

d. Năm 2007 Trung Quốc đẩy vào Phi Châu 750 ngàn công nhân hoạt động trong các lãnh vực: xây dựng, nông nghiệp, khoáng sản. Tháng 02 năm 2009 Bộ Trưởng Thương Mãi Trung Quốc nói với đài BBC rằng: Thất nghiệp là “thách thức lớn nhất” mà Trung Quốc đang đối diện.

Trong khi đó trong một báo cáo của Bộ Lao Động Thương Binh Xã Hội CSVN cho biết chỉ ba tháng đầu năm 2009 Việt Nam đã có tới 700.000 người thất nghiệp.

Sự việc CSVN tạo điều kiện để nhà thầu Tàu, công nhân Tàu với vô số nhóm 2000 người (chưa kể vợ con) tự do tung hoành trên toàn lãnh thổ Viêt cho thấy CSVN quyết tâm cứu nguy nạn thất nghiệp tại Trung Quốc. Do mải mê cứu nguy Tàu, CSVN lờ đi thảm cảnh kinh tế Việt Nam tiêu tan nội lực, dân Việt Nam đói, thợ Việt Nam thất nghiệp.

Tóm lại, bài viết này có mục tiêu nêu bật hai thái độ ứng xử của CSVN:

Thứ nhất là ứng xử đối với đồng bào Việt Nam: CSVN ban phát cho đồng bào Việt Nam hai quyền tự do không có trong nhân quyền. Đó là tự do đói và tự do thất nghiệp. Nhằm che đậy phần nào cung cách ứng xử tệ hại kia, CSVN ra lệnh cho Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam cùng với binh chủng hải quân kéo cao ngọn cờ dân tộc nay đã tả tơi. Bên dưới ngọn cờ tả tơi là tấm biểu ngữ với hàng chữ: “Quyết tâm bảo vệ từng thước núi tấc sông của tổ tiên bằng nước bọt”.

Thứ hai là ứng xử với Trung Quốc: CSVN nỗ lực tỏ lòng trung thành với Trung Quốc bằng kịch bản ba cứu: Một là cứu “Lưỡi bò” Trung Quốc không bị xé rách. Hai là cứu Trung Quốc thoát cơn khan hiếm bauxite-nhôm. Ba là cứu Trung Quốc giảm thiểu đại họa thất nghiệp.

Mang hai kiểu ứng xử kể trên đặt cạnh nhau, không ai là không nhận biết: Quả thực, chế độ Hà Nội đã và đang cực kỳ mẫn cán trong công việc cứu nước. Tuy nhiên, xin được nhấn mạnh rằng nước ở đây là nước Tàu chứ không là nước Việt Nam. CSVN chỉ biết cứu nước Tàu. Nước Việt Nam là nơi CSVN ngày càng tăng cao cường độ bóc lột và hành hạ đồng bào khốn khổ của chính họ. Mặt khác trong kịch bản ba cứu có kịch bản cứu thất nghiệp Trung Quốc là đáng chú ý nhất. Lá cờ bauxite chỉ cho phép Trung Quốc “đóng quân” ở những nơi nào có quặng bauxite. Ngọn cờ “Nhà thầu Trung Quốc trúng thầu xây dựng” mở đường cho Trung Quốc tung hoành trên khắp lãnh thổ Việt Nam.Với ngọn cờ xây dựng, Trung Quốc chia “quân” ra làm nhiều đơn vị khác nhau. Mỗi đơn vị tối thiểu 2000 người, chưa kể vợ con, tùy tiện “tiếp thu” những phần lãnh thổ trọng yếu của Việt Nam. Mỗi tiếp thu kia là một đòn chí tử làm tiêu tán nội lực của dân tộc Việt Nam. Mỗi tiếp thu kia chẳng khác nào một bọc ung thư đang nhảy cóc trên cơ thể Mẹ Việt Nam. Chừng nào những bọc ung thư quái ác vừa kể nhảy đúng vào tim, vào gan hay vào óc của Mẹ Việt Nam, Chừng đó MẸ SẼ QUA ĐỜI. Đó là tội ác, quỷ phải khóc, thần phải sầu của chế độ Hà Nội.

Đỗ Thái Nhiên



gương thành công của Quốc Gia Nghĩa Tử Nguyễn Thị Bích Yến - Đỗ Văn Phúc

    Để cho sự hy sinh của Cha Anh mình có đưọc ý nghĩa

    Giới thiệu gương thành công của Quốc Gia Nghĩa Tử Nguyễn Thị Bích Yến
Kỷ niệm 55 năm ngày mãn khoá, khoá 10 Trần Bình Trọng, Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam (01/06/1954 – 01/06/2009)

Đỗ Văn Phúc

Đại Uý Nguyễn Khắc Thi, sinh trưởng tại huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, nơi có bà mẹ có con trai bị giặc cắt đầu đêm trước, để tở mờ sáng hôm sau đã “không nói một câu, đem khăn gói đi lấy đầu”. Trước ngày nhập ngũ, Nguyễn Khắc Thi phục vụ trong nghành công an của chính phủ Quốc Gia Việt Nam. Anh bị Việt Minh phục kích giết hụt nhiều lần. Lần nghiêm trọng nhất là anh bị chúng dùng mã tấu chặt phía sau ót tưởng đã mất mạng, để lại một vết sẹo sâu và dài. Sau khi hồi phục, anh liền tình nguyện vào khoá 10 trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt (tiền thân của trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam). Ra trường vào ngày 1 tháng 6 năm 1954, với một vạch kim tuyến vàng trên vai áo, Thiếu Úy Thi được thuyên chuyển phục vụ nhiều đơn vị trước khi về làm Đại đội trưởng Đại đội Trọng pháo 44 đóng tại Dục Mỹ khoảng năm 1960 (có lẽ là tiền thân của Tiểu đoàn Pháo Binh thuộc Sư Đoàn 23 Bộ Binh, vì lúc đó, Đại Tá Hoàng Xuân Lãm đang là Tư Lịnh Sư Đoàn 23 BB tại Ban Mê Thuột).

Đường binh nghiệp của anh Thi không được suôn sẻ lắm, nên cho đến gần cuối năm 1964, anh vẫn còn mang cấp Trung Úy, dù đã chuyển qua binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt ưu tú, đầy hào hùng. Anh làm Trưởng một trại LLĐB cấp A tại vùng biên giới thuộc Quân Khu 4.

Trong một trận đánh và bị địch phục kích, Trung Úy Thi bị đạn vào đùi trên, nơi có các động mạch lớn và khó thể cầm máu. Trong khi chờ đợi tải thương, do máu ra nhiều, Trung Úy Nguyễn Khắc Thi đã trút hơi thở cuối cùng, hy sinh đền nợ nước.

Anh để lại một vợ trẻ, và một bầy con bảy cháu mà cháu lớn tuổi chỉ mười ba; cháu út vừa sinh chưa thấy mặt cha.

Người goá phụ, Đỗ Thị Bích Nhạn, tuổi chưa đến 30, bao năm vò võ thay chồng chăm sóc đàn con. Vì anh đi chiến trận nay đây mai đó, chị phải thuê căn nhà xập xệ trong một hẻm nhỏ lầy lội trên đường Trương Minh Giảng, Sài Gòn để ở. Lương nhà binh không đủ cho bản thân, nói chi đến gia đình đông đúc. Vì thế, chị phải xuôi ngược, mở quán, làm thêm thức ăn bỏ mối để lo cho các con.

Sau khi anh hy sinh, gia đình hoàn toàn lâm vào cảnh cùng khốn. Nhưng chị quyết không để sự hy sinh của anh thành uổng phí. Chị đã tiếp tục làm ăn khổ cực, quyết cho các con tiếp tục ăn học. Được Quân Đội cung cấp một chiếc C-47 đưa thi hài anh về quê quán tại làng Lễ Môn, quận Gio Linh chôn cất chu đáo xong, chị lăn xả ngay vào cuộc sống mới. Vừa lo sinh kế, vừa để khuây khoả nỗi mất mát lớn lao.

Năm 1965, chị được Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt giúp đỡ cho thầu Câu Lạc Bộ tại Trung Tâm Huấn Luyện Động Ba Thìn (dưới quyền Thiếu Tá Phạm Duy Tất, sau này là Đại tá Chỉ Huy Trưởng C2, rồi BĐQ vùng 2). Gia đình được cấp một căn trong Cư Xá Lê Văn Duyệt gần Bộ Tư Lệnh LLĐB tại Nha Trang. Căn bên cạnh dành cho các chị Nữ Trợ Tá Xã Hội LLĐB. Vì thế, các cháu phần nào cũng được sự săn sóc của các chị Trung Uý Nguyễn Hồng Đào, các Trung Sĩ Phan Thị Liên, Nguyễn Thị Nương, chị Thạch … Chị làm đủ nghề, ngay cả việc nhận giặt áo quần cho binh sĩ Hoa Kỳ thuộc Liên Đoàn 5 LLĐB.

Cháu đầu lòng, Nguyễn Thị Bích Yến, từ đây thay mẹ chăm sóc đàn em nheo nhóc. Có nhiều ngày, bảy chị em chỉ lót lòng chén cơm nguội chan nước mắm để đi học. Nhưng sớm ý thức hoàn cảnh của mình, nên các cháu đều chăm lo học hành.

Ba chị em đầu được nhận vào trường Trung Học Quốc Gia Nghĩa Tử tại Sài Gòn. Dù trong thời kỳ chiến tranh tàn khốc, khó khăn về kinh viện, sự săn sóc của chính phủ và Quân đội VNCH có thể nói là rất chu đáo để đến đáp lại sự hy sinh cao quý của người quân nhân.

Năm 1972, người goá phụ đảm đang đã cố gắng làm thêm việc kiếm thêm tiền, hy sinh hạnh phúc của mình để lo cho Bích Yến đi du học tại Hoa Kỳ.

Bích Yến tốt nghiệp truờng Đại Học Texas tại Austin, là một trong 10 trường đại học công lập nổi tiếng nhất tại Mỹ. Cô nhận văn bằng Kỹ sư Hoá Học năm 1977 và khởi nghiệp là công chức của City of Austin. Sau đó, cô được hãng Motorola thu dụng và làm việc tại đây cho đến ngày nay.

Ngay từ năm 1980, Bích Yến đã được công nhận về những phát minh trong kỹ thuật bán dẫn CMOS (complementary metal oxide semiconductor) cho các sản phẩm IC (integrated circuit) tiên tiến. Cô có nhiều công lớn trong việc chuyển các phát minh ra ứng dụng trong sản xuất, mà đã tạo cho Motorola một thế đứng rất cao trong việc cạnh tranh về kỹ thuật với các hãng lớn khác. Từ những năm cuối thế kỷ 20, Bích Yến đã là một trong những chuyên gia thượng thặng của hãng. Cô lãnh đạo một nhóm chuyên gia của bốn phòng nghiên cứu thí nghệm để phát triển các thành phẫm mới trong lãnh vực áp dụng kỹ thuật cấp nano (tức 1 phần ngàn của micro). Tổng cộng, Bích yến có trên 100 bằng sáng chế, va nhiều bằng sáng chế đang được cứu xét. Bích yến cũng được mời di thuyết trình về kỹ thuật bán dẫn CMOS hiện tại và trong tương lai tại các trường dạ-học và các hội nghị tại nhiều quốc gia.

Với những thành tựu đó, Bích Yến được các vinh danh và phần thưởng như sau:
    • Được đề nghị là Nữ Kỹ sư xuất sắc trong hai năm 1987 và 1989 (Nominations for the Woman Engineer of the Year)
    • Là nữ chuyên gia đầu tiên của Motorola/Freescale nhận giải Sáng Chế Xuất Sắc (Distinguished Innovation award in 1991 and Master of Innovation in 1993)
    • Được bầu vào Hội Đồng Cố Vấn Khoa Học từ năm 1992. (Motorola Science Advisory Board Associate (SABA)
    • Recipient of the High Impact Technology Award in 1997
Năm 2001, cô được trao giải cao nhất của hãng. Đó là giải Dan Noble Fellow.

Qua năm 2004, cô được chọn để trao giải Woman of Color Technology Award.

Nhưng trên tất cả những thành tựu trong nghề nghiệp, Nguyễn Bích Yến đã thành công trong việc lo cho me, các em gái và em trai vừa vượt biển, vừa theo chương trình đoàn tụ để cùng nhau đến bến bờ tự do cũng như tạo mọi điều kiện vật chất, khích lệ tinh thần cho các em tiếp tục học hành thành đạt.

Đối với Cộng Đồng, Bích Yến cùng chồng là Kỹ sư Trần Ziệp có nhiều đóng góp cho các chương trình trợ giúp những người Việt mới định cư. Cô rất sốt sắng tham gia vào nhiều công tác của các hội đoàn, nhất là các hội đoàn thiện nguyện của Phụ Nữ. Năm 1999, Ban Chấp Hành Cộng Đồng Austin đã ghi công của cô qua việc trao tặng bằng tuyên dương cá nhân xuất sắc. Vừa qua, Bích yến đã được Tạp Chí Phụ Nữ Cali phỏng vấn, giới thiệu.

Bích Yến là một tấm gương rất tốt cho các em thế hệ 1.5 và thế hệ 2; nhất là đối với các con em của các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà đã hy sinh. Vì chắc chắn, nơi suối vàng, vong linh các anh hùng tử sĩ cũng hãnh diện và an lòng rằng sự hy sinh của họ cũng có nhiều ý nghĩa.

Nhân ngày Father Day năm nay, chúng tôi xin giới thiệu gương thành công của Nguyễn Thị Bích Yến làm quà kính tặng các bậc làm cha, nói chung; và các chiến sĩ VNCH nói riêng và ước mong các em, các cháu thế hệ 1.5, thế hệ 2 sẽ nghĩ đến cha anh mình mà luôn thăng tiến, thành đạt để góp sức trong cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ sớm vãn hồi trên quê hương.

Và cũng xin dành kính tặng các cựu SVSQ Khoá 10 Trần Bình Trọng, nhân kỷ niệm 55 năm ngày quý anh mãn khoá (01/06/1954 – 01/06/2009) để tưởng nhớ đến một đồng môn của quý anh: cố Đại Úy Nguyễn Khắc Thi.

Đỗ Văn Phúc


Từ Công An Nhân Dân Đến Điện Báo Tin Paris - Kim Dung


Kim Dung

Thiên hạ kháo với nhau rằng đòn thù của những người thù với ta không đau bằng những đòn thù của những người trước đây là bạn của ta … quả không sai một chút nào. Ít nhất là không sai trong trường hợp tờ điện báo Tin Paris của ông Hứa Vạng Thọ.

Nói theo một cách khác, điện báo Tin Paris đã chứng minh câu nói đó rất ư là hùng hồn qua bài viết “phong trào kháng chiến chống giặc Tàu tại gia” - nguyên văn - cố tình đả kích thầy Quảng Độ không thương tiếc. Đau thay, qua văn phong đến cách lý luận của bài đả kích này, nếu có thể gọi đó là văn phong và lý luận, chúng ta chỉ thấy được những làn hơi đứt khoảng, những ý tưởng vụn vặt, những tâm tư thù hận.

Bài viết không mạch lạc đã đành mà cũng không trôi chảy để tải được ý. Cố hiểu lắm cũng không thể hiểu tại sao tác giả lại đả kích Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, và đả kích vì lý do gì.

Chỉ biết tác giả cố tình đả kích và đả kích rất thù hận, hỗn xược. Thế thôi!

Ước gì đọc giả hiểu rõ tại sao họ phang … ngang như vậy. Đồng ý hay không lại là chuyện khác, nhưng ít ra khi cho đăng một bài đả kích, nhất là đả kích hận thù như vậy, nhóm chủ trương nên giữ lấy lề, và kính trọng đọc giả, họ không thể làm rộng đường dư luận rất ư là trái mùa qua một bài viết hoàn toàn bất chấp cú pháp. Nói nào ngay văn phong của bài đả kích này thua xa bài báo được đăng trên trang Công An Việt Cộng, vô tình hay cố ý, cũng được tung ra trong cùng một thời gian để đả kích ngài Thích Quảng Độ. Như họ!

Điện báo Tin Paris và báo Công An Nhân Dân cùng một thời điểm mạ lỵ Đại Lão Thích Quảng Độ không tiếc lời.

Và nói nào ngay, bài báo của Công An Việt Cộng đã nêu lý do, họ phân định rõ ràng đâu là bạn, đâu là thù, lằn ranh Quốc và Cộng với họ bao giờ cũng đậm nét. Còn nhóm chủ trương Tin Paris thì ngược lại. Họ chỉ đả kích và đả kích, ngoài ra không có gì là rõ ràng, kể cả lằn ranh Quốc và Cộng. Tất cả chỉ mờ mờ nhân ảo.

Việt Cộng phân định chúng ta rất là rõ ràng, còn nhóm chủ trương Tin Paris đã phân biệt ai là bạn, ai là thù sau 34 năm làm người mất nước, mất quê hương?

Với lối chống Cộng của họ, xin hỏi, đã giúp gì trong công cuộc chung qua do sự phân biệt đục ngầu, qua lập trường cứ thay đổi với tốc độ chóng mặt hơn cả mức lên xuống của nền chứng khoán ở Mỹ.

Khi bênh, khi chống, hay gặp ai cũng chống, làm gì cũng đả kích là cách chống Cộng hữu hiệu nhất mà họ chọn hay sao?

Đại Lão Hòa Thượng Quảng Độ đã chống đối mãnh liệt, can đảm ngay trong lòng của địch, từ lúc nhóm chủ trương Tin Paris mới co giò bỏ chạy, đang cố an thân, hoàn hồn trong bối cảnh đầy dẫy thịt và rượu bên kia phương trời Tây. Ngài đòi hỏi Tự Do Dân Chủ - Tự Do Tôn Giáo cho một nước Việt Nam lạc hậu thụt lùi so với các nước Á Châu trong vùng.

Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ vì dân tộc, vì quê hương. Ngày nào Việt Nam còn quốc nạn và pháp nạn, ngày ấy ngài Quảng Độ còn tiếp tục đấu tranh, không thay đổi. Và chúng ta, những con dân nước Việt may mắn được tạm cư trên những bến bờ tự do, trong đó có nhóm chủ trương Tin Paris, sau khi hoàn hồn, có quyền thay đổi, ngay cả phản bội để quay qua chống luôn những người đã và đang bỏ thân ra để đấu tranh cho quê hương, cho dân tộc.

Dù đồng ý hay không với phương cách của Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, chúng ta cũng phải công nhận rằng ngài chống nhà cầm quyền trực diện, suốt hơn 30 năm qua. Bởi vậy, với tư cách của một con dân nước Việt, nếu còn chút liêm sĩ và tự trọng, chúng ta phải kính trọng ngài. Nhóm chủ trương Tin Paris ở bên này trời với chăn êm nệm ấm, quấn thêm vào người cả trăm thứ bảo đảm thêm cho tự do, nhân quyền nơi họ đang sinh sống, họ có quyền gì đả kích ngài, hỗn xược với ngài?

Nhóm chủ trương Tin Paris khoan cho là họ hay vì người tài nước chúng ta không thiếu. Hãy chứng minh với mọi người rằng họ có lòng, và can đảm đủ để làm 1/1000 những gì ngài đã làm, và làm rất âm thầm trước khi chúng ta ở hải ngoại biết về ngài, sửng sốt, kinh ngạc, và thán phục về sự quả cảm, coi thường cái chết của ngài.

Và cuối cùng, nhóm chủ trương Tin Paris khoan cho là họ hay trong khi họ đã không đưa ra một phương cách gì để bổ sung vào, hay thay thế phương cách của ngài Thích Quảng Độ.

Tin Paris đừng làm người cứ đi bên cạnh cuộc đời và cứ chỏ miệng chưởi bới, đả kích thiếu xây dựng. Hãy chứng minh với mọi người rằng họ có ý thức tập thể để đoàn kết, ý thức chính trị để hợp quần, trong một cuộc chiến mà phe Quốc gia đã có lắm điều thua thiệt.

Đấu tranh chỉ có thắng hay bại, chứ đấu tranh tự nó không khó. Có điều, đấu tranh chung với nhóm người cứ ra vẻ đấu tranh để mượn thế gây chia rẽ, đả kích 10 phương 8 hướng, từ Quốc cho đến Cộng, như nhóm chủ trương Tin Paris, mới khó.

Kim Dung