Tuesday, September 9, 2008

Việt Gian Cộng Sản Mở Đường Cho Tàu Phù Banh Trướng Xâm Lược Việt Nam Trong “Hòa Bình và Ổn Định”


Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH

Tập đoàn việt-gian-cộng-sản đang cùng Tàu phù đại-hán-bành-trướng mở chiến dịch lừa đảo nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước. Trong đó, đánh lừa dư luận Cộng đồng người Việt tị nạn việt-gian-cộng-sản là rất quan trọng, bởi đó là cái loa CHÍNH NGHĨA, có khả năng lay động, làm thức tỉnh lòng yêu công lý của nhân dân toàn thế giới, kể cả hơn 80 triệu người Việt Nam trong nước, đang bị bịt mắt, che tai.

Vậy vở kịch lừa đảo này là cái gì? Xin thưa, đó là những tin liên quan đến việc "Tàu phù bành-trướng-đại-hán đang chuẩn bị dùng vũ trang xâm lược VN". Một số cơ quan truyền thông của người Việt ở hải ngoại, cũng như một số cái mồm trong ban Việt ngữ của vài đài phương Tây, cùng nhau rú lên như bị ma bóp cổ, cái luận điệu "Tàu cộng sắp vũ trang xâm lược VN ; có kế hoạch chỉ 31 ngày là THÀNH CÔNG".

Xin lưu ý bạn đọc là, trong khi đó thì "cái việc to tày đình" này lại không được truyền thông nước ngoài quan tâm lắm. Vì sao vậy? Vì họ có lương tâm nghề nghiệp và không NGU. Đơn giản vậy thôi!

Câu truyện Tàu phù đại-hán-bành-trướng vũ trang xâm lược Việt Nam đã có từ ngày Việt Nam lập quốc. Những tên tướng tài ba nhất của chúng, trong tất cả các triều đại, khi đi xâm lược cũng huênh hoang, nhưng số phận của bọn chúng ra sao, thì ngay cả người không phải Việt Nam cũng biết, cho nên chẳng cần nhắc lại.

Cuộc vũ trang gần nhất bắt đầu từ cái gọi là "chiến dịch biên giới (Bắc VN) vào năm 1950", với sự có mặt của Tàu cộng là những tên như: đại tướng Trần Canh, thiếu tướng La quý Ba và bầu đoàn gọi là cố vấn cả chính trị lẫn tổ chức và tác chiến. Trong đó, chính trị là "thống soái" (theo ngôn ngữ và quan điểm của chúng). Cuộc xâm lược đó, cho đến nay rất nhiều người còn ngộ nhận, hoặc không dám nhìn vào sự thật, nên đa phần cả quốc tế lẫn người Việt trong và ngoài VN không lưu ý tới. Bởi vì, các tài liệu, sử liệu đều do những người chịu ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của chủ nghĩa "tô hồng, bôi đen", một kế sách CỰC KỲ THÂM ĐỘC của lũ ma quỷ, có dã tâm kéo lịch sử nhân loại quay lại thời chiếm hữu nô lệ kiểu mới trên phạm vi toàn cầu. Đó chính là sự liên minh ma quỷ của THỰC-DÂN-ĐỎ NGA-XÔ với TÀU PHÙ ĐẠI-HÁN và các chư hầu, cũng như các đảng chính trị quấn mình trong lốt thực thi chủ nghĩa cộng sản! Từ đó, nhân loại đã và đang bị đầu độc bởi biết bao sách báo của lũ trí thức, học giả, sử gia họ "đà điểu". Nghĩa là chúng rúc đầu trong cát để VIẾT LỊCH SỬ, GHI CHÉP TƯ LIỆU!!!

Cuộc chiến tranh năm 1950 thực sự là cuộc chiến giữa một bên là những người Việt Nam lấy việc bảo vệ QUỐC GIA và DÂN TỘC là mục tiêu trước mắt (ở thời điểm đó) và lâu dài vĩnh cửu, có đồng minh giai đoạn trong hoàn cảnh thực tế lúc đó, là quân Pháp; còn phía bên xâm lược là ngụy quân việt-gian-cộng-sản do tập đoàn việt-gian-cộng-sản Hồ chí Minh, hoan hỉ đón mời tướng tá Tàu phù đại hán vào chỉ huy và chiếm lãnh thành quả của cuộc xâm lược VN, tất nhiên là cho Tàu phù đại hán. Nghĩa là tướng tá Tàu phù đại hán chỉ huy cuộc chiến bành trướng đại hán vào VN như những cuộc xâm lược khác của chúng trong lịch sử. Còn lính tráng, đại đa số là những người VN yêu nước, gia nhập quân đội của Chính phủ Liên Hiệp (đa đảng và các nhân sĩ, trí thức yêu nước, đã dại dột "hòa giải, hòa hợp với Hồ chí Minh), có tên là QUÂN ĐỘI QUỐC GIA, và tôn chỉ là "Trung với nước, hiếu với dân", bị tên đại việt-gian Hồ chí Minh, sử dụng tập đoàn việt-gian-cộng-sản với cái mồi câu "bảo vệ nhân dân và Tổ quốc VN; quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" để đoàn ngũ hóa họ lại và theo lệnh của tướng tá Tàu phù đại hán, làm cuộc TẨY NÃO, có tên "Rèn cán, Chỉnh quân"(tức là công tác chính trị). Từ đó xây dựng hệ thống tổ chức việt-gian-cộng-sản ở mọi cấp, mọi đơn vị, và cuối cùng thì Hồ việt-gian và đồng bọn đã cướp được độc quyền quản lý và lãnh đạo lực lượng vũ trang này. Chúng cho đổi tên từ "Quân đội Quốc gia" thành "quân đội nhân dân" hoặc tên thường gọi là "bộ đội cụ hồ; lính cụ hồ". Tôn chỉ mới của cái lực lượng vũ trang BIẾN CHẤT đó là: "Trung với đảng (việt-gian-cộng-sản), Hiếu với dân, Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, Khó khăn nào cũng vượt qua, Kẻ thù nào (tất nhiên là kẻ thù của đảng việt-gian-công-sản) cũng đánh thắng". Vì thế, lực lượng vũ trang đó đã thoái hóa thành những tên lính ngụy, những tên binh nô cho tập đoàn việt-gian-cộng-sản mà kẻ đứng đầu là tên đại-việt-gian Hồ chí Minh.

Tập đoàn việt-gian-cộng-sản là lũ phủ nhận TỔ QUỐC và DÂN TỘC. Chúng là một tổ chức việt-gian, khoác cái áo chính trị, do thực dân đỏ Nga xô tuyển mộ, đào tạo, cung cấp tài chánh, chỉ đạo kế hoạch, kể cả bố trí nhân sự ở những chức vụ chủ chốt. Chúng cũng được sự giúp đỡ này nọ của Tàu phù, khoác áo cộng sản để thực thi lộ trình đại hán bành trướng.

Cho nên, nếu tỉnh táo, đứng trên quan điểm quyền lợi chính đáng của TỔ QUỐC và DÂN TỘC VN, đừng theo lối mòn của những trí thức, học giả, sử gia xuất thân từ xã hội thực dân, đế quốc, bị ảnh hưởng của chủ nghĩa chauvin nước lớn, ngồi trong tháp ngà, đầu óc dư thừa đủ thứ lý luận, nhưng lại quá thiếu vốn sống cũng như hời hợt với thế giới quan của những người bị trị, bao giờ cũng chiếm tuyệt đại đa số trong bất kể quốc gia nào, ở bất kể thời điểm lịch sử nào; thì mới nhận ra Tàu phù đại hán ĐÃ VŨ TRANG XÂM LƯỢC VN từ cái gọi là "Chiến Dịch Biên Giới VN 1950".

Tại sao dám khẳng định như vậy?

Xin thưa rằng: Chúng ta khó nhận ra điều đó, vì hoàn toàn khác với chiến tranh xâm lược, kể cả chiến tranh chiếm thuộc địa, đã diễn ra trong lịch sử trước khi xuất hiện việc CHIẾM HỮU THUỘC ĐỊA THEO KIỂU MỚI của Nga-xô. Nghĩa là tuyển mộ người bản xứ, huấn luyện, tổ chức thành một đảng chính trị, phủ nhận yếu tố Quốc gia và Dân tộc. Cái đảng chính trị đó là một tế bào trong cấu trúc cơ sở của bộ máy chiếm hữu thuộc địa của Nga-xô (Sau này Tàu phù đại hán, trong lốt cộng sản, cũng học lại võ này của Nga-xô, hay rõ hơn là của hai con Quỷ Đỏ: Lê-nin và Xtalin). Chính nó sẽ làm cái việc Cướp Chính Quyền ở nước của nó, để rồi TỰ NGUYỆN biến thành thuộc địa của Nga-xô, hay bóng bẩy hơn là Bolchevitch hóa toàn dân và xây dựng CNXH với thế giới đại đồng, như tên Hồ việt-gian đã hứa làm như vậy với VN, trong thư gửi cho Bộ Thuộc địa Nga-xô (tức quốc tế 3) vào năm 1929!!!

Cuộc chiến "Biên giới VN năm 1950" chính là cuộc chiến mà Tàu phù đại hán cho tướng tá của chúng thông qua tập đoàn việt-gian-cộng-sản Hồ chí Minh, sử dụng xương máu ngụy quân việt-gian-cộng-sản để XÂM LƯỢC VN. Bên chống xâm lược của VN chính là các chiến sĩ quốc gia (tiền thân của Quân lực VNCH sau này), dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại, trong hoàn cảnh "rắc rối, tréo cảnh ngỗng đó" của lịch sử, BẮT BUỘC CHỈ CÓ MỘT LỰA CHỌN là đồng minh với "kẻ thù hôm trước" để chống Sự Xâm Lược của một kẻ thù vừa mang tính "truyền kiếp", vừa Cực kỳ Tham lam Tàn bạo, với dã tâm BIẾN toàn bộ Đất Nước và Dân tộc VN trở thành một bộ phận lãnh thổ và dân tộc Tàu. Nghĩa là sẽ không còn DÂN VIỆT nữa, KHÔNG CÒN NƯỚC VN nữa. Cả DÂN, cả ĐẤT sẽ bị Tẩy trừ trên Trái Đất này.

TỘI ÁC, làm tay sai để GIÚP KẺ THÙ XÂM LƯỢC NƯỚC MÌNH, TIÊU DIỆT DÂN TỘC MÌNH, của tập đoàn việt-gian-cộng-sản, đặc biệt lực lượng NGỤY QUÂN CỘNG SẢN là CỰC KỲ TO LỚN, ĐÃ, ĐANG và SẼ CÒN ĐỂ LẠI HẬU HỌA LÂU DÀI, phải biết bao nhiêu thế hệ VN nữa mới hàn gắn xong???

Ấy thế mà có những kẻ tự xưng đủ thứ nhãn hiệu học vị, học hàm như Nguyễn thanh Giang, Nguyễn xuân Tụ, Lữ Phương…, cho đến các "sử gia" được đề cao như kiểu Phan huy Lê, Hà văn Tấn, Trần quốc Vượng, Dương trung Quốc… cũng nhắm mắt giả MÙ, chấp nhận thân phận SỬ NÔ. Bọn này càng viết nhiều bao nhiêu thì các thế hệ VN sau này càng tốn nước miếng để nhổ không chỉ lên tên tuổi của chúng, mà còn ỉa lên mả của chúng. TỘI của chúng chẳng thua gì lũ ngụy quân. Bởi chúng đã bóp méo sự thật lịch sử làm cho hiện nay còn khá nhiều thanh niên VN trong và ngoài nước bị những nọc độc đó mà mơ hồ, không nhận ra kẻ thù của dân tộc. Vì thế mà cái gọi là "Đấu tranh cho Dân chủ hóa VN" bị giắt đi lòng vòng theo vòng xoay của vỏ ốc, cuối cùng thì chui vào lòng vỏ ốc và chấm hết!

Thật đáng buồn, là ở hải ngoại hiện nay, nhiều người cũng có bằng này bằng nọ về sử học, cũng là nạn nhân của việt-gian-cộng-sản, thế mà không chịu dùng mớ lý luận về sử học đó để soi rọi vào thực tế ở VN, lôi ra ánh sáng, trưng dẫn cho nhân dân thế giới biết về những sự thực của lịch sử VN đã bị tập đoàn việt-gian-cộng-sản, với sự tiếp tay của lũ trí thức và sử gia ngoại quốc, hoặc là nô lệ trực tiếp hoặc là nô lệ về tư tưởng cái gọi là SỬ HỌC của thế giới các nước thực dân đỏ và chư hầu, núp dưới lớp quang dầu bóng bẩy, gọi là "phe xã hội chủ nghĩa", ĐỔI TRẮNG THAY ĐEN như thế nào. Những việc mà Tàu phù đại hán đã và đang thực thi, cũng như những việc làm của Putin (Nga), nhất là vụ xâm lăng Georgia vừa qua, cũng như cam đoan nắm giữ đặc quyền ở các nước bị Nga-xô đô hộ xưa kia, là bằng chứng để thấy rằng Nga vẫn chưa từ bỏ chủ nghĩa thực dân đỏ, nhất là với các nước đã từng bị Nga hóa (tức bolchevitch hóa), mà VN là một trong các nước đó! Chắc chắn hai tên có căn cốt xâm lược là Nga-xô (không có chữ XÔ) và Tàu phù đại hán sẽ hỗ trợ và san sẻ quyền xâm lược với nhau, chia vùng ảnh hưởng.

Cho nên, đáng lẽ từ lâu phải thức tỉnh thanh niên VN trong và ngoài nước thấy được CĂN CỐT VIỆT GIAN của tập đoàn cộng-sản-việt-nam, từ khi Nga-xô tổ chức ra (1930) cho đến nay, và lực lượng vũ trang của chúng, mạo nhận là "quân đội nhân dân" chính là những tên việt-gian trong thân phận ngụy quân. Có hiểu như thế thì thanh niên VN, trong và ngoài nước, mới phân biệt được rạch ròi: BẠN, THÙ và TA. Từ đó mới hiểu LỘ TRÌNH ĐÚNG ĐẮN NHẤT cho TOÀN DÂN VN, cả trong và ngoài nước, là ĐOÀN KẾT TOÀN DIỆN, ĐẤU TRANH TOÀN DIỆN để TIÊU DIỆT QUÂN XÂM LƯỢC và TAY SAI (tay sai chính là tập đoàn việt-gian-cộng-sản).

Bất kể một tổ chức nào, đảng phái không cộng sản nào, hội đoàn nào và cá nhân nào, CÒN CỐ TÌNH NHẮM MẮT TRƯỚC CĂN CỐT VIỆT-GIAN của Tập đoàn cộng sản VN, mị dân, lừa dối bằng các lộ trình dân chủ hóa, có nội dung thừa nhận tập đoàn việt-gian-cộng-sản rằng trong đó vẫn có những người yêu nước; rằng phải chờ một Gorbachev (như ý kiến của Lm Phan văn Lợi), rằng phải ủng hộ "phe cấp tiến???" trong bọn chúng để đổi mới, từ từ đi tới "dân chủ đa nguyên" trong "hòa bình, ổn định và bất bạo động" … Thì có thể KHẲNG ĐỊNH đó là CUỘI hoặc MÙ LÒA CHÍNH TRỊ hoặc CƠ HỘI CON BUÔN.

Cần phải vạch mặt lũ đó ra, nếu không cuộc CHỐNG XÂM LƯỢC CỦA NHÂN DÂN VN sẽ càng bị kéo dài, càng khó khăn và rất có thể BỊ TÀU PHÙ ĐẠI HÁN NUỐT SẠCH TRƠN, hoặc phải ngàn năm sau mới trỗi lên được, như lịch sử VN đã xảy ra!

Cuộc vũ trang xâm lược của Tàu phù đại hán vào VN từ 1950 đã đưa đến những hậu quả còn tác hại cho nhân dân và đất nước VN cho đến tận ngày nay. Đó là:

Thứ nhất: Mở đường cho các quan lại cai trị VN là hỗn hợp nhân sự Nga-Tàu. Truyền thống văn hóa dân tộc của VN bị xóa bỏ (ở phía Bắc VN); các anh hùng dân tộc có công dựng nước và giữ nước bị coi thường hoặc phá bỏ. Điển hình là vụ thằng Hồ chí Minh (tên khai sinh là Nguyễn sinh Cung), dám "tôi tôi, bác bác" với Đức Thánh Trần ở ngay đền thờ của Ngài, trong khi hắn xưng con với thằng Lênin; và thằng Tố Hữu (tên khai sinh là Nguyễn kim Thành) thì "anh anh, tôi tôi" với đại thi hào Nguyễn Du, trong khi hắn xưng cháu và gọi là ông với thằng gốc kẻ cướp, là Xtalin!!! Từ văn hóa y phục dân tộc bị biến thành Tàu hóa và Nga hóa. Áo bông xanh cổ lông, mũ biên phòng, áo đại cán… là điển hình y phục cho từ quan chí dân, chỉ khác nhau ở chất liệu vải may. Từ nhà dân thường cho tới cơ quan, trường học, chợ búa, miếu mạo, đền chùa, nhà thờ, bệnh viên…nghĩa là tất tần tật mọi nơi có bóng người VN là có treo ảnh thờ mấy thằng Nga, như Lênin, Xtalin, Malenkov, Molotov, Bulganin, Vorosilov, Khrutchev, Brezniev… Gorbachev; thờ mấy thằng Tàu phù đại hán là Mao trạch Đông, Lưu thiếu Kỳ, Chu Đức, Chu ân Lai, Lâm Bưu, Đặng tiểu Bình, Bành đức Hoài, Trần Nghị; và mấy thằng việt-gian là Hồ chí Minh, Tôn đức Thắng, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp, Nguyễn chí Thanh, Hoàng quốc Việt. Thậm chí nhiều nơi còn thờ cả lũ sát nhân Bắc Triều tiên là Kim nhật Thành, Kim Nhật và Phác chính Ái (?!).

Thứ hai: Ngay sau cái gọi là chiến dịch biên giới, tập đoàn việt-gian-cộng-sản Hồ chí Minh, đã "khéo léo" DÂNG ĐẤT cho Tàu Mao. Đó là việc không quản lý biên giới phía Bắc. Lợi dụng việc đó, Tàu Mao cho lấn đất ngang nhiên, như di chuyển cọc mốc từ thời Pháp thuộc, ký kết với triều nhà Thanh, vào sâu trong đất VN. Nhiều bản làng mà phân nửa là của VN, phân nửa là Tàu, chúng cũng cho rỉ tai khuyên dân bên phần VN nhập vào với Tàu Mao, đề phòng không bị khủng bố lỡ quân Pháp quay lại. Những nơi mà biên giới tự nhiên như sông, suối, thì chúng cho lấp phân nửa của chúng và đòi chia đôi phân nửa còn lại, mà thực ra là của VN toàn bộ. Thí dụ như suối ở huyện Trùng Khánh (Cao Bằng), hay sông ở Lao Cai.

Thứ ba: Biến cái gọi là "quân đội nhân dân VN", về thực tế là binh nô của Nga-xô và Tàu Mao, để làm chiến tranh chiếm thuộc địa, trước mắt là bán đảo Đông dương, sau đó sẽ là Đông-Nam Á châu.

Thứ tư: Nô lệ hóa toàn thể các tầng lớp nhân dân VN (ở phia Bắc vĩ tuyến 17). Tiêu diệt các tầng lớp rường cột, những cá nhân, đảng phái, hội đoàn, tổ chức tôn giáo yêu nước. Xã hội hầu hết chỉ còn những nô lệ, hoạt động như người máy, vô cảm; không biết suy nghĩ mà cũng không dám suy nghĩ. Từng cá nhân trong gia đình, từng gia đình trong xã hội đều bị tách bạch riêng rẽ, không ai tin ai, kể cả vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh em, bạn bè; cho đến cả cái gọi là "tình đồng chí thiêng liêng" trong nội bộ tổ chức việt-gian-cộng-sản.
Những mầm mống của suy nghĩ độc lập (kể cả trong khoa học tự nhiên, trong kỹ thuật), khát vọng cầu tiến dù là lĩnh vực nào, nhu cầu sáng tạo, thưởng thức nghệ thuật v.v… đều bị bóp chết bởi chính chủ thể từ trong suy nghĩ (vì lý do an toàn). Tất cả được dạy dỗ để tuân theo mọi chỉ dẫn của "các đồng chí Liên-xô" và "các đồng chí Trung quốc".

Ngay hai tiếng "Nga" và "Tàu" cũng coi là húy kị. Phải gọi là "Liên-xô" và "Trung quốc". Không ít người đã bị tù hoặc bị hội nghị nhân dân địa phương phê bình "giáo dục" vì quen mồm gọi "quả táo Tàu" (dùng trong thuốc Nam, thuốc Bắc), phải gọi là TÁO TRUNG QUỐC!!!

Trong lịch sử VN bị xâm lược, chưa có lũ xâm lược nào NÔ LỆ HÓA TRỌN VẸN VN CHO NGOẠI BANG NHƯ TẬP ĐOÀN VIỆT-GIAN-CỘNG-SẢN ĐÃ VÀ ĐANG LÀM. Cứ nhìn vào các thí dụ hiện nay ở hải ngoại thì rõ. Những thằng đặc công đỏ Bùi Tín, Vũ thư Hiên viết và nói những gì? Thằng Nguyễn gia Kiểng viết gì trong "Tổ quốc ăn năn"? Thực sự Chu tất Tiến không còn khả năng tư duy, không còn việc gì làm hay sao mà phải sủa ầm lên bảo vệ "Cụ Hoàng minh Chính" của Tiến. Rất tội nghiệp là CHẮC CHẮN Chu thất Tiến chỉ biết chưa chắc được một phần triệu về cái thằng việt-gian cho Nga-xô đó. Cũng hệt như Nguyễn bá Cẩn và mấy tên già có máu cẩu trệ, cùng Nguyễn tường Bá, Hoàng cơ Định (lãnh tụ Phở Bò)… quỳ mọp khóc lạy "cái ảnh" của tên việt-gian, bị đồng bọn cho nằm chầu rìa bữa cỗ, chờ nhận cục xương!!! Rồi đến Phan nhật Nam, sau khi đi cải tạo về, ra đến hải ngoại hơn chục năm rồi, mà vẫn bị ảnh hưởng sự nô lệ hóa của việt-gian-cộng-sản để năm 2007 này còn KHÓC THƯƠNG những tên ngụy quân việt-gian chết ở Điện Biên. Tại sao không khóc từ trước tháng 4-1975???

Thứ năm: Có thể nói rằng tập đoàn việt-gian cộng-sản là một tổ chức DUY NHẤT SẢN XUẤT THÔNG TIN GIẢ trong suốt chiều dài lịch sử của VN. Việc làm đó cũng chỉ là theo sự huấn luyện của thực dân đỏ Nga-xô và Tàu phù đại hán. Khi một dân tộc bị mất lịch sử hoặc hiểu sai lệch về lịch sử của mình, thì mọi sinh hoạt văn hóa của dân tộc đó sẽ không lai căng thì cũng bị mất phương hướng CHÍNH XÁC. Các chư hầu khác của Nga-xô và Tàu phù đại hán, cũng đã làm như vậy, nhưng không QUYẾT LIỆT và TOÀN DIỆN như việt-gian-cộng-sản.

Ngay từ cái gọi là "cách mạng tháng tám"(1945), các sản phẩm giả do việt-gian-cộng-sản sản xuất đã xuất hiện cùng với sự lộ mặt của thằng chó đẻ Hồ chí Minh. Ngày nào của giả cũng xuất hiện trên hai tờ báo có tên "Cứu quốc" (đúng tên phải là Bán Nước), lúc đó do tên lang băm, quê ở Vĩnh Yên, là Xuân Thủy phụ trách. Còn tờ báo nữa có tên "Độc Lập" (đúng tên phải là Thuộc địa), tuy mang tên là cơ quan ngôn luận của đảng Dân chủ (của Dương đức Hiền), nhưng những ngòi bút chính lại là việt-gian-cộng-sản như Xuân Diệu, Phạm tuấn Khánh, Hoàng Tuấn, Cù huy Cận, Nguyễn thành Lê …Trò hề "anh hùng" Lê văn Tám, "Kim Đồng” là dẫn chứng hiển nhiên.

Đến 1948, khi thằng Hồ chí Minh tự nâng bi mình bằng bút danh Trần dân Tiên, với nghệ thuật làm hàng giả, thì từ đó SẢN XUẤT THÔNG TIN GIẢ là một yếu tố QUAN TRỌNG BẬC NHẤT của tập đoàn việt-gian-cộng-sản trong việc NÔ LỆ HÓA TOÀN DIỆN NGƯỜI VN cho thực dân đỏ Nga-xô và Tàu phù đại hán. Tổ chức quản lý và đào tạo nhân sự cũng như quảng bá những thông tin giả đó đều do cái gọi là Ban tuyên giáo trung ương của việt-gian-cộng-sản nắm giữ. Nhưng cần lưu ý là Màng Lưới của cái tổ chức đó là "toàn đảng, toàn quân, toàn thể cán bộ nhân viên, toàn thể nhân dân mọi tầng lớp, mọi sắc dân và mọi lứa tuổi (kể cả trẻ em đang học nói, đúng như câu thơ nâng bi của việt-gian Tố Hữu rằng: "Tiếng đầu lòng con gọi Xít-ta-lin"!!!). Ngoài báo chí, truyền thông chuyên trách, còn có báo tường, chòi phát thanh, loa phóng thanh… không chuyên nghiệp, là nơi mọi cá nhân trong một tập thể phải viết định kỳ theo tiêu chuẩn thi đua, bảo đảm mỗi tháng hay mỗi tuần ít nhất là một bài. Việc lên lương, lên bậc, lên lớp… có một phần tùy thuộc vào vấn đề này. Nội dung viết “nghiệp dư” đó, chính là ca ngợi thằng Hồ, các tay sai kế cận của nó cũng như cái tổ chức việt-gian của nó, cho dù là sự việc toàn láo khoét hiển nhiên cũng không sao, chỉ cần ca ngợi và tôn vinh cùng thừa nhận chịu ơn sâu nghĩa nặng của chúng là được. Nội dung thứ hai là bới móc cá tội lỗi của nhau theo kiểu: "Không nói thành có. Có ít nói thành nhiều. Cuối cùng quy chụp là do ảnh hưởng xấu của các giai cấp bóc lột, phong kiến và đế quốc". Ngoài ra cũng có thể tự phê bình những tội này nọ, phần lớn là bịa đặt để ra vẻ tự phê bình mạnh và chân thành, chứng tỏ đã "tiến bộ trong nhận thức và tin tưởng ở chính sách cải tạo con người của đảng (việt-gian)" để thành "con người mới xhcn"!!!

Cho nên cái gọi là con người mới xhcn chính là lũ nô lệ về tư tưởng rất trầm trọng, tự theo dõi mình, tự bắt mình phục tùng tuyệt đối Hồ với cái tổ chức việt-gian và các quan thày của chúng là Nga-xô và Tàu phù đại hán. Sự giáo dục đó không ngưng nghỉ từ khi tập nói cho đến ở học đường và tiếp diễn đều đặn tại nơi làm việc, cho đến khi nghỉ hưu thì sinh hoạt trong tổ hưu trí hay tổ dân phố. Chỉ đến chết mới hết bị nhồi sọ, và mới hết kiếp nô lệ.

Làm cho mọi người lúc nào cũng sợ hãi; tự mình đe dọa mình và hù dọa người khác là ĐẶC TRƯNG SINH HOẠT MỌI MẶT TRONG XÃ HỘI DO VIỆT GIAN CỘNG SẢN ĐÔ HỘ.

Với chính sách gây chia rẽ để cai trị của việt-gian-cộng-sản, nên mọi người tự cô lập không ai tin ai, vì thế nên thấy CÔ ĐƠN và YẾU ĐUỐI, nhất là tầng lớp gọi là trí thức và các tầng lớp có cuộc sống tạm ổn định. Đảng việt-gian-cộng-sản vừa coi thường vừa nghi ngờ tầng lớp trí thức. Các tầng lớp nhân dân lao động chân tay cũng coi khinh và không tin trí thức, coi đó là những tên tay sai chuyên viên mọi ngành nghề, đóng góp mưu ma chước quỷ cho việt-gian-cộng-sản giám sát có hiệu quả và bóc lột công sức của họ một cách tàn bạo. Biết điều đó, nên thằng Phạm văn Đồng đã o mị tầng lớp lao động chân tay, bằng buộc tội tầng lớp trí thức là: "Những cán bộ trung gian đều GIAN mà không TRUNG"!

Thứ sáu: Từ 1950 cho đến trận Điện Biên 1954, cho phép Tàu Mao chia sẻ quyền làm chủ với Nga-xô tại VN từ phía Bắc đến vĩ tuyến 17. Về hình thức thì Nga-xô có vẻ nhỉnh hơn trong vai Anh Cả Đỏ. Nhưng về tài lợi thì Tàu Mao lời to. Cương lĩnh chính trị của việt-gian-cộng-sản (1951) đã phải đưa tư tưởng Mao vào như yếu tố chủ đạo mọi hoạt động của việt-gian-cộng-sản, biểu hiện trong thực tế bằng các cuộc tàn phá những yếu tố văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng và sự ràng buộc của cá nhân trong cộng đồng…Đó chính là nền tảng tạo ra sức mạnh như David đã quật ngã những tên khổng lồ xâm lược từ phương Bắc. Cái yếu tố RẤT VIỆT NAM ấy đã bị việt-gian-cộng-sản dùng các đòn gọi là cách mạng: ruộng đất; chỉnh đốn tổ chức; văn hóa tư tưởng và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, để ĐÀO TẬN GỐC, TRỐC TẬN RỄ. Một thành tích của tập đoàn việt-gian-cộng-sản, với sự hỗ trợ tuyệt đối của ngụy quân cộng sản ĐÃ triệt hạ VN mà chưa một thế lực xâm lược nào thực hiện được đến 1%, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của VN.

Tàu Mao nhận viện trợ từ Nga-xô, và biến VN thành bãi rác phế thải, nghĩa là các thứ chổi cùn, lạc xoong mang tống sang VN, cùng một loạt những cán bộ kỹ thuật mới ra trường và công nhân đang luyện tay nghề ĐỂ THỰC TẬP ở VN. Nếu có sai sót gì thì ráng chịu. Nghĩa là coi VN như thú vật trong các phòng thí nghiệm. Thí dụ nhà máy thép Thái Nguyên là nhà máy Nhật cho xây ở Mãn Châu từ thời Mao còn mặc quần thủng đít!

Các nhà máy khác như Dệt kim Đông Xuân, Cao su, Xà-phòng, Thuốc lá, Bóng đèn phích nước…ở Hà nội; khu công nghiệp Việt trì, đều là đồ dzỏm, càng sản xuất giá thành càng cao hơn nhập ngoại nhiều lần. Sau này một chuyên gia người Bulgarie đã chân thật nhận xét: "Các đồng chí nên cám ơn Mỹ đã ném bom phá giùm những thứ này để xây lại mới, chứ xây dựng công nghiệp kiểu này thì LÀM CHẾT CƠ NGHIỆP CẢ NƯỚC!"

Thế mà để đền đáp "cái ơn Trời Biển đó", việt-gian-cộng-sản đã cho Ung văn Khiêm, bộ trưởng ngoại giao ngụy quyền Hồ chí Minh, viết thư cho Tàu Mao (6-1956) dâng đất nộp cống như sau: "Theo các chứng liệu lịch sử của chúng tôi (tức VN) thì các quần đảo Hoàng sa và Trường sa, trong lịch sử là vùng lãnh thổ của quý quốc (tức Tàu Mao)".

Hai năm sau, nhằm nâng sự khẳng định việc nạp cống đất đai đó ở tầm cao nhất, Phạm văn Đồng, theo lệnh Hồ việt-gian, đã nhân danh thủ tướng ngụy quyền việt gian, gửi CÔNG HÀM cho kẻ cầm đầu chính phủ Tàu phù đại hán lúc đó là Chu ân Lai, đề ngày 14-9-1958, KHẲNG ĐỊNH LẠI PHẦN ĐẤT NỘP CỐNG NÓI TRÊN. ( Bất cứ kẻ nào còn chưa thấy căn cốt việt-gian trong hành động này của cái gọi là đảng cộng sản VN, đều là LŨ HÈN và MÙ LỊCH SỬ, và óc chúng rõ ràng có ít nhiều "tế bào việt-gian", không cho thế lực xâm lược này thì thế lực xâm lược khác mà thôi!)

Tuy sau tháng 4-1975, có chút xích mích vũ trang với Tàu Mao của việt-gian cộng sản, nhưng đó không phải là cuộc chiến lấy lại toàn vẹn lãnh thổ, mà đó là vì việt-gian-cộng-sản giữ lời hứa thi hành nhiệm vụ mở rộng thuộc địa cho Nga-xô, từ 1930, khi Nga-xô cho chúng danh xưng mới là "đảng cộng sản Đông Dương". Vì thấy Nga-xô được nộp cống bằng lao nô sang Siberie, bằng các mỏ dầu khí và cảng CamRanh và thái độ liếm chân xun xoe của cả bày Lê Duẩn với Nga-xô (đang là kẻ thù của Tàu Mao), như chó lâu ngày gặp chủ, nên mượn cớ "cho một bài học" để chiếm thêm càng nhiều đất càng tốt, nhất là những điểm cao chiến lược. Và chính nhờ đám vũ trang chiếm đất và làm chủ những điểm cao chiến lược, nên sau này, qua các cái gọi là "Hiệp ước Biên giới Việt-Trung, ký ngày 30-12-1999, việt-gian-cộng-sản lại một lần nữa TÁI XÁC NHẬN CĂN CỐT VIỆT-GIAN bằng TỰ NGUYỆN DÂNG CỐNG thêm một ngàn sáu trăm chín mươi bốn ki-lô-mét vuông đất ở biên giới (1,694Km2), chứ không phải gần chục ki-lô-mét vuông như thằng việt-gian Trần Độ (là 2 lần anh hùng của cuội Nguyễn thang Giang) tuyên bố! Và ngày 25-12-2000, việt-gian-cộng-sản lại tiếp tục hành xử theo kiểu việt-gian là dâng cống cho Tàu phù đại hán thêm 11,000Km2 biển (mười một ngàn) qua cái gọi là "Hiệp ước phân định vịnh Bắc bộ"!!!

Giờ đây Tàu phù đại hán đã có quá đủ bằng chứng CÔNG KHAI với quốc tế, không ai có thể bao che được. Rằng tập đoàn cộng sản VN là một TẬP ĐOÀN VIỆT-GIAN BÁN NƯỚC, TỘI ĐỒ CỦA DÂN TỘC VN, CỦA LỊCH SỬ DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC CỦA CÁC THẾ HỆ VN (theo chuẩn mực quốc tế chứ không phải chỉ chuẩn mực của tổ tiên người VN). Dù sớm hay muộn, dù còn sống và trốn tránh ở bất kể nơi nào (trừ mấy nước bị đô hộ bởi những tên bất lương như chúng, kiểu Nga, Tàu phù đại hán, Cuba, Bắc Hàn hoặc Sudan) hay đã chết, chúng vẫn bị đưa ra xét xử và kết tội đích đáng.

Cho nên những ai còn cho là có "phe cấp tiến" và âm mưu ĐI ĐÊM với chúng đều là lũ NGU HÈN, chúng là lũ việt-gian trong TƯ TƯỞNG, vì chưa có thời cơ để THỰC THI mà thôi. Trâu chó dễ HÒA HỢP với nhau là vậy. Chính chúng đã và đang là Liên Minh mà việt-gian-cộng-sản tìm kiếm và thử thách qua việc đưa ra cái gọi là nghị quyết 36 làm thuốc thử, để biết ai là NGƯỜI, kẻ nào là TRÂU CHÓ mà liên minh.

Vụ rước đuốc Olympic 2008 ở VN vừa qua, cho thấy Tàu phù đại hán nắm được toàn bộ đảng việt-gian trong tay, cùng với cơ quan quản lý (nhà nước và chính phủ) và cơ quan chuyên chính (ngụy quân, công an ngụy, tòa án, hải quan) của chúng. Chỉ có LÒNG DÂN là Tàu phù đại hán còn lo ngại, nhất là với Cộng đồng người Việt tị nạn việt-gian-cộng-sản: cái loa cho toàn thế giới hướng về ủng hộ chính nghĩa và công lý.

Cho nên khi tỏ những thái độ và hành động vũ trang xâm lược, về hai phe "thân Tàu và thân Mỹ" chỉ là ĐỘNG TÁC GIẢ.

Vậy đâu là sự thật? SỰ THẬT ĐÃ và ĐANG diễn tiến là:

Thứ nhất: Tại VN, Tàu phù đại hán bắt việt-gian-cộng-sản phải thiết lập những cá gọi là HÀNH LANG KINH TẾ. Qua cái hành lang này, Tàu phù đại hán sẽ THIẾT LẬP các căn cứ KINH TẾ và ĐỒNG HÓA VỀ VĂN HÓA, DÂN TỘC, sẽ được dần dần nhân rộng ra cả nước VN. Đó là các mô hình CHINA TOWN kiểu mới. Chúng dùng tiền THUÊ ĐẤT, THUÊ NGƯỜI và nghiễm nhiên LÀM CHỦ HỢP PHÁP cả CON NGƯỜI cả ĐẤT ĐAI VN, không cần ĐỔ MÁU, không gieo HẬN THÙ. Chúng dùng hàng hóa rẻ tiền để bóp chết nền công nghiệp và thương nghiệp non trẻ của VN, biến họ thành ĐẠI LÝ, tức là GIAI CẤP TƯ SẢN MẠI BẢN, chân rết kinh tế của Tàu phù đại hán. Chúng cho trai gái của chúng kết hôn với trai gái VN, được hưởng một số ưu đãi. Chúng cho việt-gian-cộng-sản, cả lớn cả nhỏ, cả trung ương cả địa phương cùng ăn ké qua chia cổ phần, qua ăn hoa hồng và v.v… Xin quý bạn đọc hãy thử tính để tìm đáp số xem, với sự tiếp tay của việt-gian-cộng-sản, qua một thí dụ cụ thể là dùng thuế của người dân VN, nuôi lính và công an các loại để bảo vệ cho Tàu phù đại hán tung hoành, như vụ bảo vệ chúng rước đuốc Olympic 2008 vừa xong, thì bao nhiêu năm nữa đất VN sẽ do Tàu phù đại hán làm chủ, và dân số VN sẽ có bao nhiêu là Tàu phù lai, từ đó bao năm nữa sẽ là Tàu phù chính hiệu??? Con cháu những tên việt-gian-cộng-sản có thể chọn nơi cư trú khi tập đoàn việt-gian-cộng-sản bị lật đổ, vì thế giới không cho phép tội đời cha đổ xuống đời con. Nhưng không tha thứ những tên trực tiếp nhúng tay vào tội ác, dù chúng giàu có đến đâu đi nữa và già khú đế cũng vậy.

ĐÓ LÀ LÝ DO CHỦ CHỐT không hề có cái gọi là "thân Mỹ" của những thằng Nguyễn minh Triết, Nguyễn tấn Dũng và "cánh miền Nam", như sự bôi bác của những tên có tế bào việt-gian trong óc nặn ra!!!

Thứ hai: Còn ở hải ngoại, Tàu phù đại hán đã đưa Cộng đồng tị nạn việt-gian-cộng-sản vào ống ngắm từ khi hình thành cái Cộng đồng đầy sức sống và có truyền thống chống xâm lược này, qua những nhân vật ẩn mình, có gốc Tàu Chợ lớn, Hải phòng, Đà nẵng v.v… để móc nối các cá nhân hám danh, tham tiền, ăn chơi cờ bạc, trai gái…, loại "chỉ biết yêu không biết ghét; chống gậy chứ không chống cộng; loại mau quên quá khứ, như con chồn hôi: khỏi tròng cong đuôi; trí thức ngựa; chính khách xôi thịt; áo gấm về làng và v.v…

Qua câu chuyện "thời sự" hiện nay là vụ tên Tàu có tên Kevin Khánh, đã móc nối những ai để "về nước lật đổ cộng sản" và những ai ca ngợi và chịu ơn nhân vật "007 tân thời" đó. Cũng như tên Tàu (Chợ lớn) nào đã cung cấp tin mật cho "nhà văn" Dương thu Hương, một nữ quái cựu thanh niên xung phong, làm đường "chống Mỹ cứu nước", để Hương có thể chửi trung tướng an ninh (việt-gian-cộng-sản) Dương Thông và thiếu tướng an ninh Quang Phòng (việt-gian-cộng-sản, bố vợ cháu ruột của thành viên sáng lập Tiểu Diên Hồng, Nguyễn chí Thiện) trước mặt Bùi thiện Ngộ (bộ trưởng công an việt-gian-cộng-sản) mà Ngộ phải im, năn nỉ Hương tha cho bọn Thông và Phòng, vì Hương dọa còn giữ trong tay nhiều bí mật hơn thế (đương nhiên là do Tàu cung cấp như Hương khẳng định, chứ ngần ấy tuổi đầu, cuốc đường ở Quảng bình, làm sao mà bới ra tài liệu tuyệt mật???)

Đối với trong nước CHÚNG TA CẦN BÓC TRẦN ÂM MƯU "HÀNH LANG KINH TẾ VIỆT TRUNG" là HÀNH LANG MẤT NƯỚC!!!

Ở hải ngoại cần vạch mặt xem Kevin Khánh là ai? Hắn đã nuôi dưỡng ai? Những kẻ đó đang làm gì, tham vọng gì? Tên Tàu nào cung cấp tin mật cho Dương thu Hương để qua đó Hương được đánh bóng và tự đánh bóng đến mức quên tiếng Việt, phải diễn đạt bằng tiếng Pháp!!! Những tên Tàu nào đang dùng tiền lũng đoạn Cộng đồng chúng ta, "làm gương" về làm ăn tại VN hiện nay? Và những ai đã dư công sức tuyên truyền và bảo vệ chuyện của Pháp luân công "quá mức cần thiết", cũng như tuyên truyền đi theo những đứa như thằng hổ mang Nhất Hạnh, hoặc con "me tây già" Thanh Hải?

Cuối cùng là làm sao để Tập thể chiến sỹ QLVNCH trở lại phong thái và nhiệm vụ của mình. Hãy mạnh dạn vạch mặt những cá nhân, tổ chức CỐ TÌNH giảm vai trò, nhiệm vụ trong mọi hoạt động hiện nay của Tập thể chiến sỹ QLVNCH.

Anh-quốc, ngày 8 tháng 9 năm 2008
Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)

Monday, September 8, 2008

Bốn Tội Phản Quốc Của Đảng Cộng Sản Việt Nam

Luật Sư Nguyễn Hữu Thống

- Năm 1999 Đảng Cộng Sản Việt Nam ký Hiệp Định Biên Giới Việt Trung để nhượng đất biên giới cho Trung Quốc.

- Năm 2000, Đảng Cộng Sản Việt Nam ký Hiệp Định Phân Định Vịnh Bắc Bộ để bán nước Biển Đông cho Trung Quốc.

- Cũng trong năm này Đảng Cộng Sản Việt Nam ký Hiệp Định Hợp Tác Nghề Cá để dâng cá dâng dầu cho Trung Quốc.

- Và năm 1958, bằng văn thư của Phạm Văn Đồng, Đảng Cộng Sản Việt Nam đồng ý chuyển nhượng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.

Những hành vi này cấu thành 4 tội phản bội tổ quốc bằng cách “cấu kết với nước ngoài nhằm xâm phạm chủ quyền của quốc gia, xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc và xâm phạm quyền của quốc dân được sử dụng đầy đủ những tài nguyên và nguồn lợi thiên nhiên của đất nước”.

I. TỘI NHƯỢNG ĐẤT BIÊN GIỚI CHO NƯỚC NGOÀI

Năm 1949, sau khi thôn tính lục địa Trung Hoa, mục tiêu chiến lược của Quốc Tế Cộng Sản là nhuộm đỏ hai bán đảo Đông Dương và Triều Tiên.

Qua năm sau, 1950, với sự yểm trợ của các chiến xa Liên Xô và đại pháoTrung Quốc, Bắc Hàn kéo quân xâm lăng Nam Hàn. Mục đích để giành yếu tố bất ngờ. Tuy nhiên âm mưu thôn tính không thành do sự phản kích của quân lực Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc.

Từ 1951 cuộc chiến bất phân thắng bại đưa đến hòa đàm. Hai năm sau Chiến Tranh Triều Tiên kết thúc bởi Hiệp Định Đình Chiến Bàn Môn Điếm tháng 7, 1953.

Thất bại trong chiến tranh Triều Tiên, Trung Cộng tập trung hỏa lực và kéo các đại pháo từ mặt trận Bắc Hàn xuống mặt trận Bắc Việt.

Để tiếp tế võ khí, quân trang, quân dụng, cung cấp cố vấn và cán bộ huấn luyện cho Bắc Việt, các xe vận tải và xe lửa Trung Cộng đã chạy sâu vào nội địa Việt Nam để lập các căn cứ chỉ huy, trung tâm huấn luyện, tiếp viện và chôn giấu võ khí. Thừa dịp này một số dân công và sắc dân thiểu số Trung Quốc kéo sang Việt Nam định cư lập bản bất hợp pháp để lấn chiếm đất đai.

Trong Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai khởi sự từ 1956, với các chiến dịch Tổng Công Kích, Tổng Khởi Nghĩa Tết Mậu Thân (1968) và Mùa Hè Đỏ Lửa (1972), Bắc Việt huy động toàn bộ các sư đoàn chính quy vào chiến trường Miền Nam. Thời gian này để bảo vệ an ninh quốc ngoại chống sự phản kích của quân lực Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ (như trong Chiến Tranh Triều Tiên), Bắc Việt nhờ 300 ngàn binh sĩ Trung Quốc mặc quân phục Việt Nam đến trú đóng tại 6 tỉnh biên giới Bắc Việt. Trong dịp này các binh sĩ, dân công và sắc dân thiểu số Trung Hoa đã di chuyển những cột ranh mốc về phía nam dọc theo lằn biên giới để lấn chiếm đất đai.

Trong Chiến Tranh Đông Dương Thứ Ba khởi sự từ 1979, để giành giật ngôi vị bá quyền, Trung Quốc đem quân tàn phá 6 tỉnh biên giới Bắc Việt. Và khi rút lui đã gài mìn tại nhiều khu vực rộng tới vài chục cây số vuông để lấn chiếm đất đai.

Ngày nay, dưới áp lực của Bắc Kinh, Hà Nội xin hợp thức hóa tình trạng đã rồi, nói là thể theo lời yêu cầu của các sắc dân thiểu số Trung Hoa đã định cư lập bản tại Việt Nam.

Năm 1999 họ đã ký Hiệp Ước Biên Giới Việt Trung để nhượng cho Trung Quốc khoảng 800 km2 dọc theo lằn biên giới, trong đó có các quặng mỏ và các địa danh như Ải Nam Quan, Suối Phi Khanh tại Lạng Sơn và Thác Bản Giốc tại Cao Bằng...

II. TỘI BÁN NƯỚC BIỂN ĐÔNG CHO NƯỚC NGOÀI

Kinh nghiệm cho biết các quốc gia láng giềng chỉ ký hiệp ước phân định lãnh thổ hay lãnh hải sau khi có chiến tranh võ trang, xung đột biên giới hay tranh chấp hải phận.

Trong cuốn “Biên Thùy Việt Nam“(Les Frontières du Vietnam), sử gia Pierre Bernard Lafont có viết bài “Ranh Giới Hải Phận của Việt Nam” (La Frontière Maritime du Vietnam). Theo tác giả, năm 1887, Việt Nam và Trung Hoa đã ký Hiệp Ước Bắc Kinh để phân chia hải phận Vịnh Bắc Việt theo đường kinh tuyến 108 Đông, chạy từ Trà Cổ Móng Cáy xuống vùng Cửa Vịnh (Quảng Bình, Quảng Trị). Đó là đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Hoa tại Vịnh Bắc Việt. Vì đã có sự phân định Vịnh Bắc Việt theo Hiệp Ước Bắc Kinh, nên “từ đó hai bên không cần ký kết một hiệp ước nào khác.” Do những yếu tố địa lý đặc thù về mật độ dân số, số hải đảo, và chiều dài bờ biểnViệt Nam được 63% và Trung Hoa được 37% hải phận.

Năm 2000, mặc dầu không có chiến tranh võ trang, không có xung đột hải phận, bỗng dưng vô cớ, phe Cộng Sản đã ký Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ để hủy bãi Hiệp Ước Bắc Kinh 1887.

Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ là một hiệp ước bất công, vi phạm pháp lý và vi phạm đạo lý.
Bất công và vi phạm pháp lý vì nó không tuân theo những tiêu chuẩn của Tòa Án Quốc Tế, theo đó sự phân ranh hải phận phải căn cứ vào các yếu tố địa lý, như số các hải đảo, mật độ dân số và chiều dài bờ biển. Ngày nay dân số Bắc Việt đông gấp 6 lần dân số đảo Hải Nam, và bờ biển Bắc Việt dài gấp 3 lần bờ đảo Hải Nam phía đối diện Việt Nam. Ngoài ra Việt Nam có hàng ngàn hòn đảo trong khi Hải Nam chỉ có 5 hay 6 hòn. Tại miền bờ biển hễ đã có đất thì phải có nước; có nhiều đất hơn thì được nhiều nước hơn; có nhiều dân hơn thì cần nhiều nước hơn. Vì vậy hải phận Việt Nam phải lớn hơn hải phận Trung Hoa (63% và 37% theo Hiệp Ước Bắc Kinh). Và cũng vì vậy vùng biển này có tên là Vịnh Bắc Việt.

Ngày nay phe Cộng Sản viện dẫn đường trung tuyến để phân ranh hải phận với tỷ lệ lý thuyết 53% cho Việt Nam. Như vậy Việt Nam đã mất ít nhất 10% hải phận, khoảng 12.000 km2. Tuy nhiên trên thực tế phe Cộng Sản đã không áp dụng nghiêm chỉnh đường trung tuyến. Họ đưa ra 21 điểm tiêu chuẩn phân định Vịnh Bắc Việt theo đó Việt Nam chỉ còn 45% hải phận so với 55% của Trung Quốc. Và Việt Nam đã mất 21.000 km2.

Bất công hơn nữa là vì nó không căn cứ vào những điều kiện đặc thù để phân định Vịnh Bắc Việt. Tại vĩ tuyến 20 (Ninh Bình, Thanh Hóa), biển rộng chừng 170 hải lý, theo đường trung tuyến Việt Nam được 85 hải lý để đánh cá và khai thác dầu khí (thay vì 200 hải lý theo Công Ước về Luật Biển). Trong khi đó, ngoài 85 hải lý về phía tây, đảo Hải Nam còn được thêm 200 hải lý về phía đông thông sang Thái Bình Dương. Theo án lệ của Tòa Án Quốc Tế, hải đảo không thể đồng hóa hay được coi trọng như lục địa. Vậy mà với số dân chừng 7 triệu người, đảo Hải Nam, một tỉnh nhỏ nhất của Trung Quốc, đã được hưởng 285 hải lý để đánh cá và khai thác dầu khí. Trong khi đó 42 triệu dân Bắc Việt chỉ được 85 hải lý. Đây rõ rệt là bất công quá đáng. Bị án ngữ bởi một hải đảo (Hải Nam) người dân Bắc Việt bỗng dưng mất đi 115 hải lý vùng đặc quyền kinh tế để đánh cá và thềm lục địa để khai thác dầu khí.

Hơn nữa, Hiệp Ước này còn vi phạm đạo lý vì nó đi trái với những mục tiêu và tôn chỉ của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền như Công Lý, Bình Đẳng, Hữu Nghị, không cưỡng ép, không thôn tính và không lấn chiếm.

III. TỘI DÂNG CÁC TÀI NGUYÊN VÀ NGUỒN LỢI THIÊN NHIÊN CHO NƯỚC NGOÀI

Cùng ngày với Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ, Đảng Cộng Sản Việt Nam còn ký Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá.

Ngày 15-6-2004, Quốc Hội phê chuẩn Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ. Tuy nhiên, trái với Điều 84 Hiến Pháp, Hiệp Ước Đánh Cá không được Quồc Hội phê chuẩn, chỉ được Chính Phủ “phê duyệt”.

Theo Hiệp Ước sau này, hai bên sẽ thiết lập một vùng đánh cá chung rộng 60 hải lý, mỗi bên 30 hải lý, từ đường trung tuyến biển sâu nhiều cá, khởi sự từ vĩ tuyến 20 (Ninh Bình, Thanh Hóa) đến vùng Cửa Vịnh tại vĩ tuyến 17 (Quảng Bình, Quảng Trị).

Tại Quảng Bình biển rộng chừng 120 hải lý, theo đường trung tuyến Việt Nam được 60 hải lý. Trừ 30 hải lý cho vùng đánh cá chung, ngư dân chỉ còn 30 hải lý gần bờ. Trong khi đó Hải Nam được 290 hải lý để đánh cá.

Tại Ninh Bình, Thanh Hóa, biển rộng chừng 170 hải lý, theo đường trung tuyến, Việt Nam được 85 hải lý. Trừ 30 hải lý cho vùng đánh cá chung, ngư dân chỉ còn 55 hải lý gần bờ. Trong khi đó Hải Nam được 315 hải lý.

Hơn nữa, theo nguyên tắc hùn hiệp, căn cứ vào số vốn, số tầu, số chuyên viên kỹ thuật gia và ngư dân chuyên nghiệp, Trung Quốc sẽ là chủ nhân ông được toàn quyền đánh cá ở cả hai vùng, vùng đánh cá chung và vùng hải phận Trung Hoa.

Ngày nay Trung Quốc là quốc gia ngư nghiệp phát triển nhất thế giới. Trên mặt đại dương, trong số 10 tầu đánh cá xuyên dương trọng tải trên 100 tấn, ít nhất có 4 tầu mang hiệu kỳ Trung Quốc. Như vậy trong cuộc hợp tác đánh cá với Trung Quốc, Việt Nam chỉ là cá rô, cá riếc sánh với cá mập, cá kình:

a) Trong số 17 quốc gia ngư nghiệp phát triển trên thế giới có tầu đánh cá lớn trọng tải trên 100 tấn, một mình Trung Quốc chiếm hơn 40 % số tầu, so với 5% của Hoa Kỳ, 3% của Nhật Bản và 2% của Đại Hàn, (Việt Nam không có mặt trong số 17 quốc gia này).

b) Các tầu đánh cá lớn này có trang bị các lưới cá dài với tầm hoạt động 60 dặm hay 50 hải lý. Do đó đoàn ngư thuyền Trung Quốc không cần ra khỏi khu vực đánh cá chung cũng vẫn có thể chăng lưới về phía tây sát bờ biển Việt Nam để đánh bắt hết tôm cá, hải sản, từ Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh tới Quảng Bình, Quảng Trị. Chăng lưới đánh cá tại khu vực Việt Nam là vi phạm hiệp ước. Tuy nhiên các đội tuần cảnh duyên hải Việt Nam sẽ ngoảnh mặt làm ngơ. Là cơ quan kinh tài của Đảng, họ sẽ triệt để thi hành chính sách thực dụng làm giàu với bất cứ giá nào, kể cả bằng sự cấu kết với ngoại bang vi phạm luật pháp và hiệp ước.
Trong cuộc hùn hiệp hợp tác này không có bình đẳng và đồng đẳng. Việt Nam chỉ là kẻ đánh ké, môi giới mại bản, giúp cho Trung Quốc mặc sức vơ vét tôm cá hải sản Biển Đông, để xin hoa hồng (giỏi lắm là 10%, vì Trung Quốc có 100% tầu, 100% lưới và 95% công nhân viên).

c) Rồi đây Trung Quốc sẽ công nhiên vi phạm Hiệp Ước Hợp Tác Đánh Cá cũng như họ đã thường xuyên vi phạm Công Ước về Luật Biển. Chiếu Công Ước này các quốc gia duyên hải có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý để đánh cá. Nhưng cũng có nghĩa vụ phải bảo toàn và dinh dưỡng ngư sinh để dành hải sản cho biển cả và các thế hệ tương lai. Trung Quốc đã trắng trợn và thường xuyên vi phạm Công Ước về Luật Biển trong chính sách “tận thâu, vét sạch và cạn tầu ráo máng” áp dụng từ thời Đặng Tiểu Bình. Đó là chính sách thực dụng mèo đen mèo trắng, làm giàu là vinh quang, làm giàu với bất cứ giá nào.

Từ hơn 1/4 thế kỷ theo kinh tế thị trường, với sự phát triển công kỹ nghệ, thương mại, đánh cá và khai thác dầu khí, ngày nay tại vùng duyên hải Trung Hoa, các tài nguyên, hải sản và nguồn lợi thiên nhiên như tôm cá, dầu khí đã cạn kiệt. Trong khi đó nhu cầu canh tân kỹ nghệ hóa và nạn nhân mãn (của 1 tỷ 380 triệu người) đòi hỏi Trung Quốc phải mở rộng khu vực đánh cá và khai thác dầu khí xuống Miền Nam.

d) Với hơn 25 năm kinh nghiệm trong nghề cá, Trung Quốc đã huấn luyện được một đội ngũ công nhân viên đông đảo gồm các kỹ thuật gia, chuyên viên điện tử, và ngư dân có tay nghề. Trong khi đó về phía Việt Nam chỉ có một số công nhân không chuyên môn để sai phái trong các công tác tạp dịch hay công tác vệ sinh như rửa cá, rửa tầu v...v... Và rồi đây, bên cạnh các lao động nô lệ xuất khẩu tại Đông Nam Á, chúng ta sẽ có thêm một số lao động nô lệ tại Biển Đông trên các tầu đánh cá xuyên dương Trung Quốc.

IV. TỘI CHUYỂN NHƯỢNG CÁC QUẦN ĐẢO HOÀNG SA TRƯỜNG SA CHO NƯỚC NGOÀI

Với đà này Đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ nhượng nốt các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng. Họ đã nhiều lần công bố ý định này:

1) Ngày 15-6-1956, ngoại trưởng Ung Văn Khiêm minh thị tuyên bố: “Hà Nội nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa”.

2) Ngày 14-9-1958 qua lời Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Đảng, Chủ Tịch Nước, xác nhận chủ quyền hải phận của Trung Quốc tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

3) Để biện minh cho lập trường của Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng, sau khi Trung Cộng tiến chiếm Trường Sa hồi tháng 3-1988, báo Nhân Dân, cơ quan chính thức của Đảng Cộng Sản trong số ra ngày 26-4-1988 đã viết: “Trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược thì Việt Nam phải tranh thủ sự gắn bó của Trung Quốc, và ngăn chặn Hoa Kỳ sử dụng 2 quần đảo nói trên”. Đây chỉ là lời ngụy biện. Vì tại Thái Bình Dương, Hoa Kỳ có Đệ Thất Hạm Đội nên không cần đến các hải đảo Trường Sa và Hoàng Sa để làm căn cứ xuất phát hay địa điểm chỉ huy.

4) Và hồi tháng 5-1976, báo Saigon Giải Phóng trong bài bình luận việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng võ lực đầu năm 1974, đã viết: “Trung Quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí, mà còn là người thầy tin cẩn đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có ngày hôm nay. Vì vậy chủ quyền Hoàng Sa thuộc Việt Nam hay thuộc Trung Quốc cũng vậy thôi”.

Từ 1956, mục tiêu chiến lược của Đảng Cộng Sản Việt Nam là “giải phóng Miền Nam” bằng võ lực. Để chống lại Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Đồng Minh, Hà Nội hoàn toàn trông cậy vào sự cưu mang nhiệt tình của người thầy phương Bắc. Vì sau cái chết của Stalin năm 1953, Lien Xô chủ trương chung sống hòa bình với Tây Phương, trong khi Mao Trạch Đông vẫn tuyên bố “sẽ giải phóng một ngàn triệu con người Á Châu khỏi ách Đế Quốc Tư Bản”.

Mà muốn được cưu mang phải cam kết đền ơn trả nghĩa. Ngày 14-9-1958, qua Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Đảng, Chủ Tịch Nước cam kết chuyển nhượng cho Trung Quốc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Qua năm 1959, Đảng Cộng Sản phát động chiến tranh Giải Phóng Miền Nam.

Có 3 lý do được viện dẫn trong cam kết này:

a) Vì Hoàng Sa, Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến 17-7 (Quảng Trị-Cà Mâu) nên thuộc hải phận Việt Nam Cộng Hòa. Đối với Hà Nội nhượng Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc trong thời điểm này chỉ là bán da gấu! (không phải tài sản của mình).

b) Sau này do những tình cờ lịch sử, nếu Bắc Việt thôn tính được Miền Nam thì mấy hòn đảo san hô tại Biển Đông đâu có ăn nhằm gì so với toàn thể lãnh thổ Việt Nam?

c) Giả sử cuộc “giải phóng Miền Nam” không thành, thì việc Trung Cộng chiếm Hoàng Sa Trường Sa thuộc lãnh hải Việt Nam Cộng Hòa cũng có tác dụng làm suy yếu phe quốc gia về kinh tế, chính trị, chiến lược và an ninh quốc phòng.

KẾ HOẠCH THÔN TÍNH BIỂN ĐÔNG CỦA TRUNG CỘNG

Năm 1982, với tư cách ngũ cường thuộc Hội Đồng Bảo An có quyền phủ quyết, Trung Cộng hoan hỷ ký Công Ước về Luật Biển. Ký xong Công Ước, Bắc Kinh mới thấy lo! Theo Công Ước các quốc gia duyên hải chỉ có 200 hải lý, vừa là vùng đặc quyền kinh tế để đánh cá, vừa là thềm lục địa để khai thác dầu khí. Trong khi đó Hoàng Sa tọa lạc ngoài lục địa Trung Hoa 270 hải lý, và Trường Sa cách Hoa Lục 750 hải lý, nên không thuộc hải phận (thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế đánh cá) của Trung Quốc.

Vì vậy, cuối năm 1982, Bắc Kinh tập hợp 400 học giả Trung Hoa ngày đêm nghiên cứu thảo luận ròng rã trong suốt 10 năm, để kết luận rằng “Nam Hải là Biển Lịch Sử của Trung Quốc từ thời Hán Vũ Đế ”.

Đây là thái độ trịch thượng võ đoán của phe đế quốc, cũng như Đế Quốc La Mã thời xưa coi Địa Trung Hải là “biển lịch sử của chúng tôi!”

Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc nằm sát bờ biển, cách Quảng Ngãi 40 hải lý, cách Nam Dương 30 hải lý, cách Mã Lai và Phi Luật Tân 25 hải lý. Nó bao gồm toàn thể vùng biển Hoàng Sa Trường Sa và chiếm trọn 3 túi dầu khí đang khai thác là Tứ Chính (Vanguard) của Việt Nam, Natuna của Nam Dương và Cỏ Rong (Reed Bank) của Phi Luật Tân.

Tuy nhiên về mặt pháp lý, nếu Ấn Độ Dương không phải là đại dương của Ấn Độ, thì Nam Hải cũng không phải là biển của Trung Hoa về phía Nam.

Vả lại theo Tòa Án Quốc Tế La Haye, biển lịch sử chỉ là nội hải. Hơn nữa Thuyết Biển Lịch Sử của Trung Quốc cũng bị Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển bác bỏ trong Điều 8: “Biển lịch sử hay nội hải của một quốc gia tọa lạc trong lục địa hay đất liền, bên trong bờ biển hay đường căn bản” (đường căn bản là lằn mực thủy triều xuống thấp).

Do đó Biển Nam Hoa hay Nam Hải không phải là Biển Lịch Sử của Trung Quốc vì nó là ngoại hải và cách lục địa Trung Hoa hơn 2000 cây số.

Và công trình 10 năm nghiên cứu của 400 học giả Trung Hoa chỉ là công “dã tràng xe cát Biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”!

Thất bại trong thuyết Biển Lịch Sử, Trung Cộng đề ra kế hoạch 4 bước để xâm chiếm Biển Đông về kinh tế:

1) Ký kết Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ năm 2000 để hủy bãi Hiệp Ước Bắc Kinh 1887 (theo đó Việt Nam được 63% và Trung Hoa được 37%. Nếu theo đường trung tuyến, hai bên được chia đều 50%. Tuy nhiên trên thực tế, Trung Cộng không theo đường trung tuyến và đã đề ra 21 điểm tiêu chuẩn phân định theo đó Việt Nam chỉ còn 45% so với 55% của Trung Hoa.

2) Ký kết Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá năm 2000 để thiết lập Vùng Đánh Cá Chung 60 hải lý. Và Việt Nam chỉ còn 25% tại vĩ tuyến 17, và 32% tại vĩ tuyến 20. Với các tầu đánh cá viễn duyên, với các lưới cá dài 50 hải lý, và nhất là với sự cấu kết đồng lõa của đội tuần cảnh duyên hải Việt Nam, toàn thể Vịnh Bắc Việt sẽ biến thành khu đánh cá tự do cho đội kình ngư Trung Quốc mặc sức tận thu, vét sạch, và cạn tầu ráo máng.

3) Từ đánh cá chung đến hợp tác khai thác dầu khí chỉ còn một bước. Trong Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt có điều khoản quy định rằng, khi dầu khí được phát hiện, hai bên sẽ khởi sự hợp tác khai thác dầu khí. Dầu khí là do các chất hữu cơ kết tụ trong các thủy tra thạch kết tầng dưới đáy biển. Các chất hữu cơ này được nước phù sa Sông Hồng Hà từ Vân Nam và Sông Cửu Long, con sông dài nhất Đông Nam Á, từ cao nguyên Tây Tạng đổ ra Biển Đông từ cả triệu năm nay. Do đó dầu khí nếu có, là do các chất hữu cơ từ lục địa Việt Nam, chứ không phải từ Hoa Lục. Mặc dầu vậy, tại Vịnh Bắc Việt, Trung Quốc đã đề ra nhiều dự án thăm dò và khai thác dầu khí, như “Dự Án Quỳnh Hải” bên bờ đảo Hải Nam và “Dự Án Vịnh Bắc Bộ” phía Bắc vĩ tuyến 20. (Khi dùng danh xưng “Vịnh Bắc Bộ”, Trung Quốc mặc nhiên nhìn nhận rằng đó là Vịnh của Việt Nam về phía Bắc. Vì nếu là củaTrung Hoa thì phải gọi là Vịnh Nam Bộ mới đúng địa lý).

4) Với chính sách vết dầu loang, sau khi thành tựu kế hoạch đánh cá và khai thác dầu khí chung tại Bắc Việt, hai bên sẽ tiến tới việc hợp tác đánh cá và khai thác dầu khí chung tại miền duyên hải Trung và Nam Việt. Điều đáng lưu ý là vùng lãnh hải này thuộc thềm lục địa và khu đặc quyền kinh tế đánh cá 200 hải lý của Việt Nam nên thuộc chủ quyền tuyệt đối của Việt Nam. Ở đây không có sự trùng điệp hay chồng lấn hải phận như trường hợp Vịnh Bắc Việt.

Không ai ngu dại gì cho người nước ngoài đến đánh cá và khai thác dầu khí chung tại thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế riêng của nước mình. Chiếu Điều 77 Luật Biển, thềm lục địa thuộc chủ quyền tuyệt đối của quốc gia duyên hải. Mọi sự chiếm cứ bất cứ từ đâu tới cũng đều vô hiệu, nhất là chiếm cứ võ trang (trường hợp Trung Cộng dùng võ trang chiếm Hoàng Sa năm 1974 và Trường Sa từ năm 1988).

Bằng kế hoạch thôn tính 4 bước, đế quốc Bắc Kinh buộc Hà Nội hiến dâng toàn thể hải phận Việt Nam từ Vịnh Bắc Việt đến vùng biển Hoàng Sa Trường Sa theo lời cam kết của Hồ Chí Minh (Phạm Văn Đồng chỉ là kẻ thừa sai, bất lực, vô quyền, không có cả quyền bổ nhiệm một thứ trưởng theo lời tự thú của đương sự).

Như vậy, Thuyết Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc từng bị Công Ước về Luật Biển và Tòa Án Quốc Tế bác bỏ, nay sẽ trở thành hiện thực do kế hoạch 4 bước thôn tính Biển Đông của Trung Cộng. Vì quyền lợi riêng tư, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã táng tận lương tâm nhượng đất, bán nước, dâng cá dâng dầu và dâng các hải đảo cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc.

Hành động như vậy Đảng Cộng Sản Việt Nam đã 4 lần phản bội Tổ Quốc.

Vì những lý do nêu trên:
Thay mặt đồng bào trong nước không còn quyền được nói

Trước Tòa Án Quốc Dân và Tòa Án Lịch Sử
ỦY BAN LUẬT GIA BẢO VỆ DÂN QUYỀN KẾT ÁN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ 4 TỘI PHẢN BỘI TỔ QUỐC


Luật Sư Nguyễn Hữu Thống

"HỢP LƯU - GIAO LƯU - GIAO ĐIỂM VĂN HÓA" LÀ ĐỈNH CAO "HÒA HỢP HÒA GIẢI"


Trương Minh Hòa

"Cờ gian bạc lận" là câu châm ngôn nhằm cảnh báo những ai có máu bài bạc, tuy nhiên đối với những người ham vui chơi, thích đùa giỡn với đồng tiền, dù biết rằng: "đường vào Đỏ-Đen có trăm lần vui, có vạn lần sầu; đôi khi nóng mũi phải bán đi nhà cửa", thế mà vẫn cứ nhào vô chơi một cách điên cuồng như ma dẫn lối quỷ đưa đường. Cái lý tưởng của dân cờ bạc bám vào là tin vào "số mệnh, hên xui" từ các thầy bói, dị đoan, mộng mị, nên đa số trở thành: "cờ bạc là bác thằng bần" sau thời gian ngắn vui chơi mà không kiềm chế được, gia nhập vào hàng ngũ "vô sản chuyên chính" đúng nghĩa, như những người giàu có ở Việt Nam, chỉ sau cái "lịnh đánh tư sản" của đảng Cộng Sản ban hành, là không còn cái chén ăn cơm. Một số người có máu cờ bạc lỡ thua đậm, nhưng cũng thích đi chùa để cầu xin Trời Phật ban chút phước với mục đích "từ trận thắng lớn bài hôm nay, ta trả nợ lút đầu hôm qua", dù ai cũng biết cờ bạc là "may ít, rủi nhiều"; sau nầy khám phá ra một số ngôi chùa, phần đông là những kẻ: "mượn đạo tạo tiền", khi thấy các thầy, ni cô không làm gì cả mà bỗng chốc trở thành "triệu phú Phật giáo", nhất là các sư "công an cạo đầu, mặc ác cà sa" từ Việt Nam sang rần rộ, lạc quyên, cúng dường, từ thiện .... với trăm thứ "móc túi một cách rất tinh vi" dựa vào "tượng Phật", nên chán ngán, không thích "cúng dường công quả nữa"; có người còn thẳng thắng cho là: "Thà bỏ tiền vô Casino còn hơn cúng chùa".

Lối nói nầy dễ gây hiểu lầm và có thể làm cho các Phật Tử thuần thành, một lòng "kính tăng" mù quáng như Tam Tạng không hài lòng, cho là nói bậy là có tội với Trời Phật. Tuy nhiên những người ham vui giải thích cũng có lý rằng: Cúng chùa, nhiều khi tiền của mình chỉ nằm trong túi của thầy mà thôi, không biết đi đâu; có khi cúng nhằm "dâm tăng" dùng tiền của mình để "hú hý" với một người khác phái và lòn tiền "cúng dường" mua tài sản cho bồ, tệ nhất là lọt vào sư công an, bọn gia sư nầy dùng làm phương tiện để đánh lại mình, hóa qua là nối giáo cho giặc, giúp cho quỷ phá nhà chay, là tạo ra NGHIỆP BÁO chớ nào gieo DUYÊN LÀNH, càng mang tội "đồng lõa" với Trời Phật. Còn mang tiền cúng "không cần đốt nhang" cho các ông thần "Máy kéo", mấy thiên thần "ông Tây, bà Đầm" mà có lợi, vì chủ sòng bạc đóng thuế, tiền đó dùng làm đường, nhà thương, trường học ... và các tiện ích khác, trong đó có người thua bài được hưởng; ngoài ra còn giúp cho nhiều người có công ăn việc làm .... thua bài cũng là Gieo Duyên Lành vậy. Nhưng gieo quá nhiều duyên lành kiểu đó cũng dễ đưa đến nghiệp báo: bán nhà, gia đình tan nát ... mà nhà thơ "dân chơi xứ Bắc Trần Tế Xương" khuyên:

"Khôn nghề cờ bạc là khôn dại.
Dại chốn văn chương ấy dại khôn"


Trò chơi bài bạc cũng tốn lắm đô la, chỉ có 52 con bài Tây mà chứa đựng nhiều biến hóa khôn lường qua nhiều môn chơi như: bài cào, bào xì dách, bài ngu hầm, sập sám chướng, xì phé .... với cách chơi, ăn thua khác nhau, nhưng tất cả đều đồng qui vào một định lý là "cháy túi", người chơi đều thua, chỉ có chủ sòng bài, nhất là các tay tài phiệt Casino là không bao giờ bị thua cả, đó là chân lý, dù sông có thể cạn, núi có thể mòn. Một môn chơi rất ư là "đơn giản" nhưng không "giản đơn" như những người khù khờ tin tưởng khi nhìn thấy "rõ ràng" như vậy, mà lúc đặt tiền thì "tình hình ăn thua thay đổi" bất ngờ như nước lãnh đạo Cộng Sản Liên Sô sụp đổ rất nhanh trong vòng chỉ 3 ngày, so với hơn 70 năm xây dựng "thiên đàng Cộng Sản". Bài ba lá chính là cái môn chơi ấy, từng làm bạt vía kinh hồn, cháy túi nhiều người, nhất là "dân quê lên tỉnh", tình cờ trên chiếc xe đò, tàu đò, có tay "điếm" bày ra cái bàn chơi bài ba lá "mobile" với miếng carton và 3 con bài, kế bên thường có vài tay "cò mồi".

Chiêu bài "hòa hợp hòa giải" của người Cộng Sản đưa ra, như là lá bài tẩy của các tay chơi bài ba lá "nghiệp chuyên" từng bao phen gạt được đủ thành phần "trí, phú, địa, hào" và cả những đảng phái quốc gia; tay chủ sòng "điếm thúi, điếm thúi, đại điếm thúi" Hồ Chí Minh, trải tấm bình phong "kháng chiến đánh Tây giành độc lập" trong cái tổ chức đoàn kết dân tộc là chính phủ liên hiệp, hòa hợp hòa giải và mấy lá bài phụ: yêu nước, giải phóng đất nước, cơm áo tự do .... thế nên hàng triệu người bị lừa đến tán mạng, hết tài sản. Trong thời gian ấy, ở bên Trung Hoa có tay điếm bài ba lá Mao Trạch Đông, cũng bày ra "hòa hợp hòa giải Quốc-Cộng" để chống ngoại xâm, sau cùng là tay chơi bài Tưởng Giới Thạch đành phải bỏ của lấy người, chạy sang đảo Đài Loan đến khi qua đời mà chưa được trở về quê xưa, thưởng thức món vịt quay Bắc Kinh. Con bài tẩy "hòa hợp hòa giải" được áp dụng rất uyển chuyển, khi ẩn khi hiện, khi cương, khi nhu, mờ mờ ảo ảo, tùy theo mỗi giai đoạn, lúc đảng mạnh thì áp dụng khác, lúc yếu biến chiêu; mà những tay điếm Cộng Sản cho là" cao trào hay thoái trào cách mạng.

Tay điếm thúi bài ba lá Hồ Chí Minh cho đàn em dàn những sòng bài rải rác trong thời "đánh Mỹ cứu nước" theo lịnh hai quan thầy Liên Sô-Trung Cộng; nên có những ván bài liên hiệp, hòa hợp hòa giải được tung ra một cách nhịp nhàng. Tuy nhiên, nhiều người có kinh nghiệm về bọn điếm thúi nầy từng cảnh giác: "hòa hợp hòa giải, liên hiệp với Cộng Sản là tự sát", thế mà vẫn còn nhiều người chưa nhìn thấy, cứ thấy sòng bài ba lá là nhào vô như con thiêu thân. Vào những ngày cuối cùng của miền Nam, tay chạy hiệu cho ván bài ba lá của Cộng Sản là tay "hề" Dương Văn Minh, đột nhiên nhảy lên "xào bài" như thứ cò mồi và trấn an trong ngày bàn giao quyền tổng thống từ tay cụ Trần Văn Hương rằng: "thưa thầy, thưa tổng thống, nhiệm vụ của tôi lên đây nhằm thực hiện mục tiêu HÒA HỢP HÒA GIẢI DÂN TỘC ...", và ngày 30 tháng 4 năm 1975, tay cò mồi khác là Nguyễn Hữu Hạnh nhào lên làm một màng" bàn giao trong vòng trật tự"; rồi cái mục tiêu hòa hợp hòa giải dân tộc được một số kẻ "ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản" hồ hởi phấn khởi với "nối vòng ta lớn" của tên "nhạc sĩ quốc gia, cầm ca Cộng Sản" Trịnh Công Sơn trổi lên; khối Phật Giáo Ấn Quang huy động hơn 500 tăng ni ra đón chào "đoàn quân man rợ từ Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây, đồng ruộng, bưng biền, mật khu".... sau đó, hàng ngàn những "anh hùng dân tộc "từng giáng cho giặc Cộng những đòn chí tử trên chiến trường, cũng đã bị "hòa hợp hòa giải" bằng những phát súng, mã tấu, hành hạ dã man để trả thù, trước khi giết chết .... hàng trăm ngàn quân nhân cán chính miền Nam cũng "hòa hợp hòa giải" ở các trại tập trung cải tạo từ" Bắc vô Nam, nhà tù khắp nơi"; ngay cả mồ mả những chiến sĩ quân lực Việt Nam Cộng Hòa cũng được "hòa hợp hòa giải" thành khu nhà, khu kinh tế, những kẻ chiến thắng tha hồ ủ mồ mả, đập phá tượng, mộ bia.

Một số người lầm tưởng là "sau khi bàn giao hòa hợp hòa giải" thì hai bên không còn hận thù, ai giữ cấp bậc gì thì được trọng dụng như xưa như lòi tuyên truyền láo khoét của đám tay sai "Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam" do tay cò mồi gốc luật sư là Nguyễn Hữu Thọ cầm đầu; thế là có một số lính, hạ sĩ quan, hoặc là dân sự bèn khai báo với "chính quyền Việt Cộng, ban quân quản" cái cấp bậc dỏm để làm sĩ quan, nào ngờ bị đưa vô tù, chung với sĩ quan thứ thiệt, rồi hối hận, muốn khai lại để được về sớm mà Việt Cộng nào tin, thà giết lầm hơn tha lầm. Đảng Cộng Sản Việt Nam thời "cao trào cách mạng" nầy, cán bộ miền Bắc, miền Nam tha hồ "hòa hợp hòa giải" nhà lầu xe hơi, vàng, tiền .... như tên Nguyễn Hộ khi mới trở về thành đã tuyên bố với đồng bọn: "nhà chúng ta ở, vợ chúng ta lấy, con chúng ta bắt làm nô lệ". Thế mà sau nầy, khi Nguyễn Hộ bị đồng bọn đẩy ra khỏi những chức vụ quyền lực, thì phản tỉnh với "quan điểm cuộc sống", ở hải ngoại, một số tay "đầu cơ chính trị" vội bắt lấy và biến tên Nguyễn Hộ thành "nhà đối kháng" hay là "nhà dân chủ trong nước", một thời gây ồn ào, chấn động dư luận, nhưng cuối cùng thì Nguyễn Hộ cho biết là ủng hộ Sáu Dân, làm thủ tướng sau nầy.

Hàng triệu người bỏ nước ra đi tìm tự do, cũng "hòa hợp hòa giải" số vàng còn lại cho bọn công an, cán bộ, họ bị lừa bằng những con tàu mong manh, nếu không chết ở biển thì cũng bị "hòa hợp hòa giải" trong các trại tù vì tội vượt biên, số vàng còn lại cũng được "hòa hợp hòa giải sạch sẽ" vào túi cán bộ. Thời đó, chính thủ tướng "không người lái" Phạm Văn Đồng, cũng hòa hợp hoa giải bằng câu nói để đời: "bọn đĩ điếm du côn", sau nầy vì nhu cầu thu nhiều tiền, cứu nguy đảng sụp đổ, nên người Cộng Sản cũng hòa hợp hòa giải: "khúc ruột nghìn dậm nối liền". Lợi dụng lòng yêu nước, sau khi dâng hiến những phần lãnh thổ biên giới Việt-Trung, hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, thì tập đoàn "thái thú quan lại Trung Cộng gốc Việt" lại nhờ những tên cò mồi, tay sai ở hải ngoại hô hào "hòa hợp hòa giải" với những kẻ bán nước ở Bắc bộ Phủ để cùng nhau "chống ngoại xâm"; đầu tiên là chúng muốn treo lá cờ máu ở hải ngoại một cách hợp thức cùng lá cờ vàng trong các cuộc biểu tình "chống bọn lưu manh bành trướng Bắc Kinh với mộng bá quyền" và sau cùng thì dẹp lá cờ vàng, tức là lối "hòa hợp hòa giải" theo kiểu bàn giao của Dương Văn Minh ngày xưa.

Kể sao cho hết những biến hóa khôn lường của những tay điếm thúi chơi bài ba lá Việt Cộng, mà lá bài tẩy "hòa hợp hòa giải" được đưa ra nhiều lần, dù không còn được nhiều người tham gia cuộc chơi như những ngày xưa ấy, thế nhưng cũng có một số con nhạn khù khờ nhào vô chơi. Cái sòng bài ba lá với con bài tẩy "hòa hợp hòa giải" đã bị ế độ từ lâu, nên đảng và nhà nước dựng lên những tay "cò mồi", bu quanh, hò hét, chào hàng, chiêu dụ; đó là những tay cò mồi như làm hề múa rối, hoạt nói vô duyên Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Xuân Ngải, băng đảng Vịt Tiềm, trung tâm nhạc Thúi-Nghe với những "cây đa đầu làng, đường xưa lối cũ, quê hương là chùm khế ngọt, cuộc chiến nầy là tiền kiếp ...", vận động xóa bỏ tội ác của đảng cướp Cộng Sản và tên Việt gian Hồ Chí Minh, hầu chuẩn bị kế hoạch tiếp thu cộng đồng hải ngoại một cách êm thấm "bất chiến tự nhiên thành" như năm 1975 ... nhưng đám cò mồi nầy không thể thuyết phục những người từng là nạn nhân lá bài ba lá bài tẩy "hòa hợp hòa giải" nên đảng đưa ra một số tay "cò mồi nghiệp chuyên" như đại tá Bùi Tín, cho vài tay cò mồi như Hoàng Minh Chính, Đoàn Viết Hoạt ....

Những tay chủ sòng, tay sai, cò mồ bài ba lá với cây bài tẩy "hòa hợp hòa giải" hoàn toàn bị thấy bại, lòi ra một số kẻ cò mồi khác gồm:

- Thành phần gián điệp trà trộn
- Đón gió trở cờ, những kẻ tỵ nạn gian từng về du lịch, du hý, du dâm
-Làm ăn, có xây nhà, dính dáng quyền lợi địa ốc trong nước, nên cần phải "hòa hợp hòa giải" để bảo vệ .... tuy nhiên, những kẻ "ăn cơm tự do, đội mo Cộng Sản" không thể thuyết phục tuyệt đại đa số những người bỏ nước ra đi tìm tự do, để cùng "dắt tay nhau đi theo tấm bản chỉ đường của đảng" trong thiên đàng mù, âm u như địa ngục, qua cái ánh đèn ma trơi "hòa hợp hòa giải". Do đó sòng bài ba lá được chuẩn bị với màn "PHI CHÍNH TRỊ" dù tất cả những ai bỏ nước ra đi theo bất cứ phương cách nào: di tản, vượt biển, bằng đường bộ, H.O, đoàn tụ gia đình .... đều là dân TỴ NẠN CHÍNH TRỊ. Hư chiêu "Phi Chính Trị" bỗng chốc lan rộng như dịch cúm gia cầm, cũng do chính những tay cò mối tung ra, nên thời gian sau nầy, các cộng đồng người Việt tỵ nạn hải ngoại xuất hiện: tôn giáo phi chính trị, từ thiện phi chính trị, hội đồng hương phi chính trị, hội ái hữu trường phi chính trị, tổ chức văn học phi chính trị,.... thế nên những tổ chức phi chính trị đã tự mình hủy đi cái vũ khí "chống Cộng", như chuyện Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Hạnh tước vũ khí của quân lực VNCH ngày 30 tháng 4 năm 1975 để "hòa hợp hòa giải" với Cộng Sản, có nghĩa là: hòa hợp là giải vô hộp, hòa giải là giải vô tù. Những màn cò mồi phi chính trị là "viên gạch" hay đầu cầu để chuẩn bị cho Việt Cộng tiếp thu các cộng đồng hải ngoại lần nữa, nên hảy để cao cảnh giác.

Tay chơi bài ba lá Việt Cộng, dùng nhiều "hư chiêu, ảo chiêu" biến hóa để đưa tập thể người Việt tỵ nạn vào vòng lừa đảo. Một trong những biến chiêu cao cấp và ít người chú ý là VĂN HÓA, theo đúng bài bản: "tư tưởng hướng dẫn hành động", nên khi mà cái TÂM đồng thuận thì việc "hòa hợp hòa giải" sẽ thực hiện sau nầy, chỉ còn chờ thời gian mà thôi. Mặt trận văn hóa thuộc loại "yên tĩnh", nhưng đây là thứ tình hình "yên tĩnh có ý nghĩa" và rất thâm độc. Từ nhiều năm qua, Cộng Sản Việt Nam đã tung ra những "mũi giáp công văn hóa vận" mang tính cách "chiến thuật" qua các đoàn văn công đủ dạng (cải lương, tân nhạc, trình diễn thời trang, múa rối nghệ thuật ...), báo chí, sách vở trong nước lòn vào trường học, thư viện ..... nhưng tất cả đều bị bẻ gãy.

Tuy nhiên, thứ "VĂN HÓA NỘI TUYẾN" mới là đáng ngại và nguy hiểm hơn cả, đó là những "kẻ thù văn hóa dấu mặt", nằm ngay trong hậu phương, núp dưới bình phong "văn hóa, nghệ thuật", âm thầm "xuất khẩu" những từ ngữ "nghiệp chuyên" khủng bố, đấu tố của đảng, dùng làm "chất liệu tuyên truyền", điển hình là một số cơ quan truyền thông hải ngoại đã âm thầm "đầu độc" hàng triệu người tỵ nạn bằng thứ từ ngữ của Cộng Sản. Những tay cò mồi, tay sai nằm sâu, trèo cao trong lãnh vực văn hóa, nghệ thuật, được trang bị bằng thứ vũ khí "bằng cấp" như tiến sĩ, kỹ sư, bác sĩ .... khai thác cái tâm lý "quí trọng văn bằng" của người Việt Nam, nhằm thu hút mọi thành phần đứng chung trong một số "mật khu văn hóa", bọn "văn hóa nội tuyến" tự ý trong tinh thần "tự biên tự diễn" nhằm tước bỏ cái "linh hồn của văn hóa" để thay vào đó là "PHI CHÍNH TRỊ" hầu dễ ra tay sau nầy. Trong lãnh vực văn chương, thi thơ, nhạc, nghệ thuật ... luôn mang ý nghĩa chính trị nhân bản; nhưng nếu bị tước đi cái "iá trị chính trị nhân bản" thì coi như cái xác khôn hồn, mặc tình cho kẻ xấu lèo lái đi theo "con thuyền không bến" và dần dần bị đám tay sai, cò mồi ghé bến "xã hội chủ nghĩa" thì văn hóa trở thành "văn công" phục vụ cho bọn Cộng Sản, thật là thâm độc. Sau khi "hòa hợp hòa giải văn hóa" thỉ bước kế tiếp là "hòa hợp hòa giải' nhiều thứ khác như "cờ, tổ chức, nhân sự, lập trường ..." dễ dàng và từ đó thì người Cộng Sản xâm nhập, khuynh đảo ... bài học "tự sát" được tái diễn.

Gần đây, tại Âu Châu, xuất hiện cái gọi là: VIỆN NHÂN VĂN VÀ NGHỆ THUẬT VIỆT NAM HẢI NGOẠI, rồi dự án thành lập ĐẠI HỌC NHÂN VĂN HẢI NGOẠI qua cái gọi là Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn Trường Tộ, cũng là thứ bài ba lá được dàn dựng, quảng cáo cò mồi "phi chính trị" là bước đầu. Ở hải ngoại, tự do ngôn luận, nhưng không phải vì thế mà ai muốn làm gì cũng được; thế nên không ai dám thành lập ra: TRUNG TÂM VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH HẢI NGOẠI hay là TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA NGUYỄN ÁI QUỐC VIỆT NAM HẢI NGOẠI, vì chưa đến giai đoạn thuận lợi. Bài học thời kháng chiến đánh Tây bị người Cộng Sản lợi dụng, vẫn còn là một kinh nghiệm xương máu cho tất cả mọi người: thời kỳ những năm khi mà cái Ủy Ban Khởi Nghĩa Lâm Thời Nam Bộ từ tháng 8 năm 1945, do tên tay sai cò mồi Trần Văn Giàu làm chủ tịch, chưa khống chế, khuynh đảo toàn bộ các lực lượng kháng chiến tự phát của dân miền Nam đứng lên; đến tháng 10 năm 1950, là coi như người Cộng Sản làm chủ tình hình, thì những tên tuổi của vài người có nổi tiếng gốc miền Nam, hy sinh, được đặt tên cho các trường học như: trường trung học Thái Văn Lung (Luật sư), Nguyễn Văn Tố (học giả), Huỳnh Phan Hộ (cố tư lịnh quân khu 9).... bị dẹp vì bị chụp mũ là thành phần tư sản; từ đó hai chữ "kháng chiến" được thay thế bằng "cách mạng" là coi như người Cộng Sản đã đạt được mục đích yêu cầu.

Do đó, trong tương lai, khi mà tình hình thuận lợi trong "cao trào cách mạng", thì cái gọi là: "Viện Nhân Văn và Nghệ Thuật Hải Ngoại" với "đại Học Văn Nhân Hải Ngoại" cũng có thể thay tên khác cho phù hợp với "hòa hợp hòa giải văn hóa" trong nước. Cho nên, những đám cò mồi lợi dụng tên cả những người được lịch sử ghi nhớ, đồng thời tung hỏa mù phi chính trị để che đậy những "mưu đồ chính trị" bên trong và giúp cho các cán bộ văn hóa vận từ trong nước, các nhóm "khoa bảng" đón gió, tha hồ là "làm chính trị" làm lợi cho đảng Cộng Sản. Sách lược "lấy của người làm của mình" là nghề của đảng Cộng Sản và lũ tay sai, nên có thể chiêu nầy đã được áp dụng hoặc đã "học tập" kỹ, thế là cái Trung Tâm Văn Hóa núp bóng tôn Giáo, cái vỏ bọc tốt nhất là Công Giáo, được nhiều người tin tưởng là nơi chống Cộng; nhưng thực ra thì ngay trong Công Giáo cũng có linh mọp Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phan Khắc Từ .... trước 1975, sau nầy có nhiều linh mọp quốc doanh xuất ngoại móc túi, kẻ cả Hồng y Phạm Minh Mẫn cũng "núp bóng Chúa Trời, làm lợi quỷ đỏ".

"Mượn danh Thiên Chúa trên Trời.
Tuyên truyền cho đảng, cuộc đời giàu sang".

Cái Trung tâm "mượn vỏ tôn giáo" núp dưới chiêu bài "phi chính trị" và dùng "bình phong văn hóa, nghệ thuật" ắt là qui tụ được những kẻ "ngưu tầm ngưu mã tầm mã", dù họ là những người có bằng cấp cao ở hải ngoại. Chuyện bên Tàu về "Tái Ông Thất Mã" cũng có vài trường hợp ứng dụng:

- Sau vụ khủng bố 11 tháng 9 năm 2001 tại Hoa Kỳ, nhờ vậy mà các cơ quan an ninh khám phá ra mạng lưới khủng bố, tài chánh ngay trên đất Mỹ; nếu không thì chúng sẽ gây ra thiêt hại khôn lường như lò nguyên tử, nguồn nước, vũ khí hóa học, vi trùng ... nên sau vụ nầy, đến nay qua hai nhiệm kỳ tổng thống, Hoa Kỳ chưa bị khủng bố lần nữa

- Sau vụ tu sĩ Phật Giáo "VỀ NGUỒN" sau lễ Phật Đản năm 2008 do UNESCO công nhận và được "định hướng theo xã hội chủ nghĩa", Phật Tử nhìn thấy những "ma quái" nằm trong các tự viện với những chức sắc cao.

- Một số tên cán bộ tôn giáo vận như Thích Thanh Từ, Thích Thông Kinh, Thích Nhật Từ .... xuất ngoại, lấy danh nghĩa hoằng pháp, đã bị bại lộ và đồng thời cũng lòi ra những "cơ sở tôn giáo" là các tự viện đứng ra tổ chức.

- Vụ hòa thượng "CAO TU" Thích Phước Huệ ở Úc Châu qua sự tiết lộ của một phụ nữ tên Diệu Đức, và từ đó xì ra nhiều vụ khác, rải rác trong cuộc đời "tu đạo" và "đạo tu" cực kỳ "chất lượng" của vị lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan; theo tin tức góp ý và sự tiết lộ của một người đăng trên trang web Take 2 tango, trong bài "cha ơi! Thầy ơi! Thì hòa thượng Thích Phước Huệ cũng từng có "con đường TU ĐẠO" với một phụ nữ khác, nên Ngài đã mua cho một nhà hàng bán đồ chay ở Cabramatta (bà nầy qua đời) và hiện cái "nghiệp quả" tạo ra từ hai người, tiếp nối làm chủ và quản lý nhà hàng nầy. Từ đó, tại Úc Châu mới biết hai tờ báo ủng hộ thầy là tờ Văn Nghệ với nhà báo Nguyễn Vi Túy, Hồ Ong, tờ Chiêu Dương có Nhất Giang ... tức là những người nầy tự xuất đầu lộ diện "lạy ông con ở bụi nầy".

Đám "khoa bảng phi chính trị" trong vỏ bọc "làm văn hóa" cũng không thể lừa gạt ai, ngay cả họ muốn "gom chất xám" vào cái Đại Học Hàm Thụ trên internet trong tương lai; ai ghi danh, tham gia thuộc các thành phần: - Không hiểu thế nào là văn hóa - Người của đám cò mồi - Thành phần ham danh, thích vui chơi, nhờ tổ chức đi "tham quan" du hý vài nơi ... nên những ai tham gia đều không ra gì, dù có bằng cấp cao.

Những tên chủ sòng bài ba lá Việt Cộng đã bị lúng túng, vì những người khù khờ đã khôn, nhiều người giựt mình khi biết đảng nầy là "trung tâm cờ gian bạc lận", toàn là những tên điếm thúi, dù mặt chay mày đá nhưng cũng khó lừa ai. Những lối lừa đảo phi chính trị, đoàn kết chống quân xâm lược Trung Cộng, đánh động tình yêu quê hương ... đều hoàn toàn vô dụng, nên cái lá bài tẩy "hòa hợp hòa giải" đi vào "Trớt Quớt", trái lại để lộ ra cả những "cơ sở" cò mồi, nằm vùng, đón gió hải ngoại; nên những người Việt tỵ nạn nhìn thấy mà xa lánh, tẩy chay.

Đảng và người Cộng Sản muốn "hòa hợp hòa giải" với người Việt hải ngoại cũng không khó, nếu họ có thành tâm thiện chí. Đầu tiên cũng là sau cùng là đảng Cộng Sản phải làm những việc sau đây:

- Hòa hợp hòa giải với người dân trong nước trước nhất để cho người hải ngoại nhìn thấy hầu làm nền tảng tin cậy: tức là cho dân được tự do ngôn luận, báo chí, lập hội .... mà đảng, nhà nước đã ký cam kết thực thi bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền với tổ chức Liên Hiệp Quốc.

- Hòa hợp hòa giải các tôn giáo bị trù dập hiện nay.

- Hòa hợp hòa giải: trả lại tất cả tài sản của dân, các tôn giáo bị tước đoạt bất hợp pháp từ thời Hồ Chí Minh đến nay.

- Hòa hợp hòa giải với người chết trong cuộc chiến Việt Nam: trùng tu các nghĩa trang của quân nhân Việt Nam Cộng Hòa, tái tạo lại các pho tượng đã bị đập phá ... như dân Hoa Kỳ đã làm đối với các quân lính bại trận trong nội chiến ở nghĩa trang quân đội Arlington. Theo lời Đỗ Hoàng Điềm, chủ tịch băng đảng Việt Tân, trong lần hội thảo tại quốc hội Hoa Kỳ đã lếu láo: "Cộng Sản Việt Nam không còn phân biệt đối xử với quân nhân VNCH tư năm 1991 ..." nói với đầu gối thì không ai phản đối, chứ nói tại Mỹ, mà là quốc hội, thì bị cho là "cò mồi" cũng trúng lắm. Tuy nhiên, lời nói nầy mang tính cách "lịch sử đón gió" cũng có những kẻ cùng tâm trạng như Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Xuân Ngãi, Bùi Tín .... là coi đó là chân lý.

- Hòa hợp hòa giải truyền thông: cho báo chí tự do, các tờ báo nước ngoài được tha hồ phổ biến trong nước, bỏ bức tường lửa để hai bên "giao lưu văn hóa"...

Đó là những điều kiện "cơ bản" để tiến tới "hòa hợp hòa giải" dân tộc đúng nghĩa; nếu không thực hiện được những" bước đầu cơ bản" ắt có nêu trên, thì bất cứ chiêu bài "hòa hợp hòa giải" suông do đảng, cò mồi hải ngoại đưa ra, đều là lừa đảo, đúng là "tự sát" nếu nghe theo. Tuy nhiên cũng nhờ cái lá bài tẩy "hòa hợp hòa giải" tung ra hải ngoại cũng làm lộ hết những "mật khu Việt Cộng ở hải ngoại" và đồng thời cũng lòi ra những "cái chốt văn hóa", những "đặc công, du kích văn hóa", thành phần đón gió trở cờ, thân Cộng, cò , mồi ... nhờ vậy mà người Việt hải ngoại thanh lọc hàng ngũ, phân biệt Địch-Ta rõ ràng, chớ kẻ thù dấu mặt, đâm sau lưng, rất khó trị.

Giao lưu, hợp lưu, giao điểm văn hóa là đỉnh cao "hòa hợp hòa giải" mà đảng Cộng Sản Việt Nam luôn nhắm đến, chiêu nầy rất thâm độc và nguy hiểm hơn tất cả các mũi giáp công "văn hóa vận" từ trước đến nay. Những trung tâm văn hóa, nghệ thuật "phi chính trị" không thể lừa được ai, nhưng đồng thời cũng lòi ra những thành phần nào tham gia, vận động. Những người tỵ nạn Cộng Sản, nhất là giới khoa bảng, với lập trường rõ ràng, đương nhiên là không bao giờ đứng chung vào hàng ngũ những tổ chức lập lờ nầy mà bị thân bại danh liệt.

Trương Minh Hòa

Lời Kêu Gọi Của Ban tổ chức Xây Dựng Bia Tưởng Niệm Trần Văn Bá


Lời Kêu Gọi Của Ban tổ chức Xây Dựng Bia Tưởng Niệm Trần Văn Bá
Ngày 7 tháng 9 năm 2008

Chúng tôi hoạt động danh chánh ngôn thuận trên lãnh thổ Pháp, là công dân và thường trú dân của nước Pháp, trong tinh thần hiếu hòa tôn trọng luật pháp và tự do dân chủ của nước Pháp.

Chúng tôi xin được làm bia tưởng niệm Trần Văn Bá, một người đã hy sinh mạng sống của mình cho lý tưởng của tập thể người Việt tỵ nạn cộng sản, cho nguyện vọng của nhân dân Việt Nam bị áp bức, và cho giá trị tự do phổ quát, theo đúng luật lệ của nước Pháp.

Chúng tôi yêu cầu nhà chức trách Pháp và các cơ quan chức năng của lãnh thổ Pháp, thành phố Paris, và quận 13, được trưng cờ Việt Nam Cộng Hòa, tượng trưng cho lý tưởng của chúng tôi, vì chúng tôi không công nhận chính phủ hiện thời của nước Việtnam, và đó là lý do chúng tôi bỏ tổ quốc của cha mẹ ông bà chúng tôi đã xây dựng để xin tỵ nạn chính trị hoặc xin tư cách pháp lý thường trú dân và công dân ở nước Pháp từ trước đến giờ.

Lá cờ và tấm bia là biểu tượng quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do chánh trị và tự do biểu lộ tình cảm của chúng tôi trên lãnh thổ Pháp, với tư cách là công dân và thường trú dân nước Pháp.

Lá thư phản đối quyết định cho dựng Tượng Bia Trần Văn Bá tại Paris của chánh phủ Hà Nội gửi đến bộ ngoại giao Pháp cách đây vài hôm, vi phạm công pháp quốc tế, và trực tiếp can thiệp một cách bất hợp lệ vào đời sống, hoạt động, tư tưởng và niềm tin của công dân và thường trú dân nước Pháp, khi họ biểu lộ tình cảm và nguyện vọng trong tinh thần hiếu hòa trên lãnh thổ nước Pháp.

Luật lệ nào, quốc tế, hay của nuớc Pháp, hay của bất cứ quốc gia nào hay cơ quan giám sát nào trước dư luận quốc tế, cho phép chánh phủ Hà Nội làm điều này ngoài lãnh thổ nước Việt Nam cộng sản, nếu không phải là nhằm mục đích hăm dọa, uy hiếp chúng tôi dù nhà nước cộng sản Việt Nam không có thẩm quyền pháp luật trên chúng tôi hay trên lãnh thổ nước Pháp.

Chúng tôi không đòi hỏi chánh phủ Pháp phải đồng ý với chúng tôi, nhưng chúng tôi có quyền biểu lộ tư do tư tưởng, ngôn luận, chánh tri, biểu lộ niềm tin tôn giáo và tình cảm trên lãnh thổ nước Pháp, trên mãnh đất tự do này, mà không vi phạm luật lệ của nước Pháp hay làm xáo trộn an ninh của nước Pháp.

Tất cả các đảng phái hay tổ chức chánh trị hợp pháp, tất cả các chính quyền địa phương, thành phố, quận hạt đều có khả năng và quyền hạn đáp ứng và yểm trợ nguyện vọng chính đáng của chúng tôi.

Chúng tôi yêu cầu sự bảo vệ an ninh của nhà chức trách Pháp, trong ngày lể tưởng niệm và hội ngộ của cộng đồng người Việt tại Pháp, 27 tháng 9 năm 2008.

Nếu có bạo động, không phải là do chúng tôi gây ra. Điều này triệt để được chúng tôi cam kết. Nếu cuộc họp mặt của chúng tôi bị phá rối, chúng tôi bị hăm dọa, uy hiếp, bạo động, xin được nhà chức trách Pháp che chở, bảo vệ.

Chúng tôi kêu gọi tất cả người Việt tỵ nạn cộng sản trên toàn cầu, ở bất cứ quốc gia nào, hãy lên tiếng hỗ trợ chúng tôi, xin tất cả cùng nhau trong tinh thần hiếu hòa và tôn trọng luật lệ, theo đúng truyền thống của văn hóa Việt Nam để lại từ ngàn xưa, cùng phản đối hành động của nhà cầm quyền Hà Nội đã can thiệp vào nội bộ nước Pháp và đòi hỏi quyền giám sát hành vi của công dân và thường trú dân nước Pháp. Xin tất cả đồng hương cùng hợp lực để tiếng nói của chúng ta, trong tinh thần tôn trọng, tự do, dân chủ, nhân quyền của tất cả các dân tộc, được trường tồn trước mọi thế lực và bạo lực bất chính. Đây là lúc một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao. Đây là lúc bẻ một chiếc đũa thì dễ, bẻ cả bó đũa thì bạo lực cũng phải dừng tay.

Trần Văn Tòng
Trưởng ban Tổ Chức
Xây Dựng Bia Trần Văn Bá tại Paris

Mọi thông điệp hỗ trợ lời kêu gọi nầy xin gửi về:
hopthu@tranvanba.org

hay

Trần Văn Bá Tương Hội
3, rue Michel Peter
75013 Paris - France

Và xin ghi rõ:
Tên, địa chỉ điện thư hay bưu điện,
và nếu có danh xưng của tổ chức hay hội đoàn.

Công sản Việt Nam bày trò cảnh báo và áp lực chính phủ Pháp


Đinh Lâm Thanh

Theo thông cáo ngày 05.9.2008 của ban tổ chức xây dựng bia Trần Văn Bá, Cộng sản Việt Nam đã chính thức gởi công hàm đến chính quyền Pháp và làm áp lực trực tiếp trên quyết định của thành phố Paris cho phép dựng bia tưởng niệm Trần Văn Bá vào ngày 27 tháng 9 năm 2008 trong khu vực Á Châu thuộc quận 13. Ngoài ra thông cáo còn cho biết, trong mấy tuần qua, Hà Nội ra lệnh cho mạng lưới tình báo, phá hoại và kiều vận của chúng cũng như nhóm nằm vùng, cò mồi đón gió trong cộng đồng người Việt tại Paris phải bám sát và phá vỡ kế hoạch dựng bia Trần Văn Bá bằng các hình thức ly gián, gây hoang mang trong giới người Việt Tự Do. Ngoài ra Hà Nội đã lợi dụng đường lối ngoại giao kêu gọi các đồng minh cũng như các tổ chức thiên tả làm áp lực với Pháp, đồng thời bày trò cảnh báo chính phủ phải hủy bỏ chương trình dựng bia Trần Văn Bá tại thành phố Paris và bắn tin hăm dọa rằng chúng sẽ mua chuộc bọn biểu tình chuyên nghiệp và đảng cộng sản Pháp gây rối trong ngày khánh thành bia tưởng niệm. Tuy nhiên thành phố Paris đã xác nhận chương trình buổi lễ hoàn toàn không có gì thay đổi.

Theo thông cáo của ban tổ chức xây dựng bia Trần Văn Bá, Hà Nội đã cảnh báo chính phủ Pháp 3 điểm:
    1. Việt Nam có tất cả thẩm quyền để hành quyết Trần Văn Bá.
    2. Quyết định cho dựng bia Trần Văn Bá là một sự can thiệp vào nội bộ của Việt Nam.
    3. Dựng bia vinh danh Trần Văn Bá là hành động gây hấn với chính phủ Việt Nam.
Đây là những luận điệu hàm hồ, thiếu căn bản pháp lý khi lên tiếng "cảnh báo" chính phủ Pháp như thói quen của đảng cộng sản thường ra lệnh cho đàn em trong nội bộ. Chúng tôi có những nhận xét về ba "cảnh báo" của Hà Nội:

1. Bất chấp quy ước quốc tế về đình chiến cũng như tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của một quốc gia, Hà Nội đã xua quân từ Bắc vào chiếm miền Nam thì bất cứ một công dân nào của Việt Nam Cộng Hòa cũng phải có bổn phận đứng lên chống lại hành động cướp nước của kẻ thù. Trần Văn Bá, một thanh niên nhiệt tình, từ Pháp trở về lãnh đạo phong trào chống lại chế độ cộng sản là một hành động đương nhiên và đáng kính phục của một công dân của Việt Nam Cộng Hòa. Chẳng may Trần Văn Bá đã bị Hà Nội bắt sống rồi vội vàng đưa ra xử trước một tòa án rừng rú. Công sản bất chấp quy ước quốc tế về tổ chức pháp lý cũng như nguyên tắc xét xử tù binh chiến tranh cũng như phạm nhân chính trị. Chỉ sau một thời ngắn Hà Nội đã vội vã xử bắn Trần Văn Bá ngay trong khám Chí Hòa để phi tang hành động tội ác trước phản ứng căm phẫn của quốc tế. Trần Văn Bá là một người yêu chuộng tự do, xả thân hy sinh vì đại cuộc được quốc tế vinh danh. Ngày nay, Trần Văn Bá đã trở thành anh hùng của nhân loại, của quốc tế, của thế giới tự do. Nhưng đến giờ nầy Cộng sản Việt Nam vẫn còn nặc mùi căm thù Trần Văn Bá thì càng lộ rõ bộ mặt khát máu cố hữu của Hà Nội.

2. Trần Văn Bá được Pháp đào tạo trở thành một giảng viên đại học, tương lai và sự nghiệp đầy hứa hẹn trên vùng đất tự do, nhưng với tinh thần yêu nước, anh đã bỏ tất cả để dấn thân cho tổ quốc, hy sinh cho tự do dân chủ, là một gương sáng chẳng những cho thế hệ trẻ của Pháp mà chung cho cả nhân loại. Trần Văn Bá đã trở thành anh hùng của thế giới tự do thì xứng đáng được Pháp đứng ra tổ chức dựng bia vinh danh một người do đã Pháp đào tạo. Đó là điều tất nhiên không thể phủ nhận. Hà Nội không thể tráo trở cho rằng việc dưng bia Trần Văn Bá là một hành động can thiệp vào nội bộ Việt Nam vì Trần Văn Bá không còn là người hùng độc nhất của Việt Nam, không phải là kẻ thù riêng của Hà Nội mà anh đã trở nên một gương sáng của nhân loại. Vậy bất kỳ quốc gia nào, thề chế chính trị nào, thời đại nào dựng bia tưởng niệm Trần Văn Bá thì Hà Nội cũng không thể hàm hồ cho rằng can thiệp vào nội bộ Việt Nam.

3. Người Pháp là một dân tộc đứng hàng đầu trong việc tôn trọng tự do nhân quyền con người thì nước Pháp có quyền dựng tượng tôn vinh bất cứ anh hùng, danh nhân lịch sử của bất cứ quốc gia, thời đại lịch sử, khuynh hướng chính trị hay tôn giáo nào trên lãnh thổ của họ. Hôm nay chính phủ Pháp cho phép tổ chức đựng bia vinh danh Trần Văn Bá là đáp ứng nguyện vọng người Pháp gốc Việt đang định cư trên xứ sở của họ, đây là một vấn đề hợp lý, hợp pháp trong một xứ tự do. Chỉ những thành phần khát máu, ít học mới lên tiếng cảnh báo và hăm dọa nước Pháp (!) một cách nhớ ngẩn và buồn cười như vậy mà thôi !.

Paris, 07.09.2008
T.M. Hội Văn Hóa Người Việt Tự Do
Đinh Lâm Thanh

Sunday, September 7, 2008

Trần Văn Giàu, tên đồ tể chưa đền tội ác


Trương Minh Hòa

Cái gọi là ngày "quốc khánh" được đảng Cộng Sản luôn tự hào là: CƯỚP CHÍNH QUYỀN VÀ CHỚP THỜI CƠ TỔNG KHỞI NGHĨA, nhằm kỷ niệm lúc tên Việt gian Hồ Chí Minh lếu láo tại quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945; từ đó hàng năm, đảng siêu cướp Cộng Sản Việt Nam kỷ niệm, đương nhiên là câu huênh hoang đầy gian trá: "không có gì quý hơn độc lập tự do" được lập lại và người dân hiểu rằng: kể từ ngày ấy, nước Việt Nam không còn độc lập, người thì mất tự do; đảng thì "đập lột", còn dân thì "tự lo" quơ quào bằng mọi cách để sống. Như vậy cái gọi là ngày quốc khánh 2 tháng 9, rõ ràng là đảng cướp Cộng Sản Việt Nam đã thành thật khai báo "cướp chính quyền" chớ không phải là "giành lại chính quyền"; điều nầy cũng nói lên thực lực của đảng cướp Cộng Sản, với thiểu số, nhưng nhờ thủ đoạn, tàn ác mà cướp được chính quyền.

Kẻ cướp hãnh diện về thành quả ăn cướp, nên những thằng lâu la "ăn cướp già" cũng thường hay tự hào cái ngày còn "cỡi lưng heo nái bắn nạn dàn thung" phục vụ dưới trướng tên tướng cướp lãnh đạo Hồ Chí Minh, cứ vào mỗi độ 2 tháng 9 về; đó là trường hợp của tên ác ôn Trần Văn Giàu, là con chó già mù mắt, rụng răng, tai điếc, chân đi không vững, đã từng bị tên chủ của nó là Hồ Chí Minh đài đọa, xuýt vong mạng, thế mà ngày nay vẫn vẫy đuôi nhớ tên chủ khốn nạn ấy với niềm tự hào sau một đời "làm chó săn" cho tên chủ thích dùng chó để săn, giữ nhà và cũng thích ăn thịt chó. Loài chó trung thành, nhưng nó trung thành một cách mù quáng, không phân biệt chánh tà, tốt xấu; chó trung thành giữ nhà, dinh thự cho những tên bất lương, chó được chủ ban bố cơm thừa cá cặn, ngay cả lúc nó "đớp cứt chủ" mà vẫn cảm thấy ngon; kể cả khi chủ sắp giết mà nó vẫn vẫy đuôi, đó là con chó Trần Văn Giàu là tiêu biểu, hay có cả những con chó khác, phản tỉnh chạy ra nước ngoài như Bùi Tín, Nguyễn Ngọc Giao ... vẫn vẫy đuôi và coi chủ Hồ Chí Minh là "người yêu nước, nhà cách mạng lão thành" như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Kỳ Ngoại Hầu ... Loài người khác hơn chó ở chỗ là biết phân biệt minh quân và bạo chúa, chánh và tà, nên lòng trung thành thường đặt đúng chỗ; nếu trung thành với hôn quân, nhà độc tài, kẻ gian manh, thì cũng mù quáng không khác gì chó. Ngày xưa ở bên Trung Hoa, nhân vật tướng quân Hoàng Phi Hổ hành xử đúng theo tinh thần "con người" khi nhìn thấy Trụ Vương tàn ác, ham mê tửu sắc nên sang đầu Châu, tiêu diệt hôn quân; ngày nay một số người đã nhìn thấy vài tổ chức chống Cộng dỏm, từng lợi dụng lòng yêu nước của dân chúng để thu tiền trong Mặt Trận kháng chiến cuội...mà vẫn mù quáng đi theo, phục vụ, kể cả những "nhà khoa bảng chuyên gia" dù có bằng cấp cao, thì những kẻ nầy cũng không khác gì là loài chó.

Báo Lao Động trong nước, số 202, ngày 3 tháng 9 năm 2008 có đăng bài viết tựa là: "Gặp Người Diễn Thuyết Năm Xưa Tại Lễ Độc Lập 2 Tháng 9 Năm 1945 ở Saigon". Và có đăng cả tấm hình chụp của Ban Lãnh Đạo tỉnh Long An chụp chung với "con chó già năm xưa của Hồ Chủ Tịch" gọi là Giáo Sư Trần Văn Giàu, nhằm hồi tưởng lại cái ngày mà tên Hồ Chí Minh đọc diễn văn ở ngoài Bắc, thì trong Nam, đám chó Cộng Sản cũng phải "GÂU-GÂU" nịnh theo chủ; tuy nhiên vì kỹ thuật thời đó không cao, nên lời nói của tên chủ không được truyền vào Nam, thế là con chó Trần Văn Giàu đành phải nhảy lên diễn đàn, cương ẩu, phụ họa với chủ cho trọn lòng trung của loài chó. Thời gọi là "kháng chiến mùa thu" khắp nơi rộn ràng với:" Mùa thua rồi, ngày hai mươi ba, ta đi theo tiếng kêu san hà nguy biến ...". Nhưng không ai ngờ là những hy sinh, đóng góp xương máu, tài sản nầy vô ích nầy trong suốt thời gian 9 năm, lại vô tình giúp cho đảng Cộng Sản đi từ "không đến có", gieo tao họa cho đất nước cho đến ngày nay với hàng chục triệu người chết, cả nước đắm chìm trong lạc hậu, mất tự do, dân chủ, độc lập; những người hiểu biết cảm thấy có tội với đất nước vì đã lầm lẫn đi theo cái gọi là "kháng chiến mùa thu" làm lợi cho giặc, nhưng cũng có một số người mù quáng, tự hào cái khoản thời gian "đi theo đảng cướp Cộng Sản, giết người" ấy là "làm cách mạng" và họ cũng tự nhận là "đi làm cách mạng":

"MÙA THU kháng chiến của MÙ THUA.
MÙ THUA theo đảng Cộng MUA THÙ.
MUA THÙ cách mạng MÙ THUA ấy.
MÙ THUA di hại lắm MÙA THU".

Tên chó săn Trần Văn Giàu, thời "kháng chiến mua thù" là nhân vật nồng cốt, tay sai đắc lực và "năng nổ" của tên tướng cướp, sáng lập đảng cướp Cộng Sản Việt Nam là Hồ Chí Minh, Giàu được chủ nó giao cho những chức vụ như: Bí Thư Xứ Ủy Nam Kỳ, Chủ tịch Ủy Ban Khởi Nghĩa Nam Bộ và nhất là các chức "Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Lâm Thời Nam Bộ" được dân miền Nam thời ấy biết rõ những hoạt động mờ ám, nhất là qua sự phân biệt đối xử giữa những người nào dại dột chịu đi theo làm tay sai, đóng tiền, vàng, lương thực cho tổ chức; còn những thành phần khác thì coi là "phó thường dân Nam Bộ", nhóm chữ nầy ngày nay vẫn còn nhiều người nhớ đến cái thời "khủng bố" khắp nơi. Trần Văn Giàu chính là tên "lừa thầy phản bạn" từng sang Pháp du học, được người thầy là Tạ Thu Thâu hết lòng giúp đở nơi xứ người, nhưng sau đó Giàu đi theo Cộng Sản Đệ Tam, còn Ta Thu Thâu là Đệ Tứ, nên khi về nước, Giàu đã sát hạ thầy, các "đồng chí đệ tứ" một cách tàn bạo. Đây là bài học mà những ai còn tin, nghe theo đảng Cộng Sản, chính những người cùng ý thức hệ Karl Marx, chỉ khác nhau "hệ phái" là làm thịt nhau thật dã man, huống chi là những người không theo Marx. Những ai ở hải ngoại còn mơ mộng "hòa hợp hòa giải, xóa bỏ hận thù, dị biệt chánh kiến, cùng nhau xây dựng đất nước và cùng nhau đoàn kết chống Trung Cộng" thì nên lấy bài học nầy để làm kinh nghiệm, và lấy câu châm ngôn: "hòa hợp hòa giải với Cộng Sản là tự sát".

Bản thân Trần Văn Giàu, thời thanh niên, nổi tiếng là người thông minh, nhưng cái trí thông minh ấy lại được xử dụng trong những mục tiêu bất chánh, là đem tài trí phục vụ cho đảng cướp Cộng Sản, trở thành đại họa cho dân tộc, chính hắn gây biết bao nợ máu với dân thời Việt Minh, với xác người trôi sông, bị chặt đầu, mổ bụng, xỏ xâu ... trên cánh đồng thì ngập xác người, mồ chôn tập thể và nhất là đám Cộng Sản nầy tàn sát biết bao tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, ngay cả đức thầy Huỳnh Phú Sổ, cũng từng bị mưu sát và sau cùng bị ám hại tại Đốc Vàng Hạ, làng Tân Phú, trong lần Việt Minh do đại diện là tên Bửu Vinh, đồng bọn của Trần Văn Giàu, dàn cảnh mời hợp lúc 7.30 tối ngày 16 tháng 4 năm 1947.

Cũng giống như hầu hết những tên ác ôn như Hồ Chí Minh, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong ... Trần Văn Giàu từng được thụ huấn phương cách tuyên truyền, khủng bố, gian manh tại trường Công-Nông Phương Đông tại Mạc Tư Khoa, hắn học sau Hồ vài năm, là người học giỏi, cuối khóa, các học viên phải làm luận án, trong số 3 luận án hay thì Trần Văn Giàu đứng nhất, người thứ nhì là Tito (sau làm tổng bí thư đảng Cộng Sản Nam Tư) và hạng ba là Thereze (sau là tổng bí thư đảng Cộng Sản Pháp). Để tưởng thưởng, nhà độc tài Staline tặng mỗi người một tấm ảnh, có chữ ký tên phía sau. Chính điều nầy mà Hồ Chí Minh ghét Trần Văn Giàu, cộng thêm cái tinh thần kỳ thị, nghi kỵ Bắc Nam của Hồ. Sau thời kỳ giết người như rạ, sợ uy tín của đám cán bộ gốc miền Nam lên cao, nên lần lượt Hồ triệt hạ hầu hết những: "mầm móng" nầy. Nổi bật là vụ giết trung tướng Nguyễn Bình (Nguyễn Phương Thảo), Trần Bạch Đằng khôn hơn, đôi ba lần được Hồ triệu về bắc mà không đi nên thoát chết. Trần Văn Giàu cùng với một tên đồng bọn sát thủ khác là Dương Bạch Mai, ra bắc và bị đì tối đa: Dương Bạch Mai bị Hồ ra lịnh cho Mai Chí Thọ cho người đầu độc bằng ly nước trà trong kỳ hội thảo đảng bộ; còn Trần Văn Giàu thì bị cho ngồi chơi xơi nước, quản chế, ngồi viết "tự kiểm" dài dài, giảng dạy những lý thuyết vể chủ nghĩa Marx Lenin trường đại học ở miền Bắc, thay vì hắn được làm những chức vụ tương xứng với khả năng (hầu hết những chức vụ nầy dành cho cán bộ gốc Bắc, nhất là cùng quê quán với Hồ Chí Minh). Ung Văn Khiêm ra Bắc, bị xài một thời gian, kể cả lúc làm thứ trưởng ngoại giao, vâng lịnh Hồ, cút cung tận tụy, với công hàm công nhận quần đảo Hoàng Sa thuộc Trung Cộng vào năm 1956, làm nền tảng cho bức công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng 1958; Tôn Đức Thắng cũng không được Hồ sử dụng, dù Thắng là một trong những người hiếm hoi nhận được huy chương Lenin, được coi là cao quý nhất của khối Cộng Sản. Sau 1954, nhiều người miền Nam đã lầm tập kết ra bắc, nên vụ trung đoàn 99 của trung đoàn trưởng Đồng Văn Cống (cai tổng Cống), vào năm 1955, từ huyện Lương Sơn, tỉnh Thanh Hóa, giả vờ tập trận, với phân nữa quân số, lấy quân xa thẳng vào Nam, Hồ cho Đồng Văn Cống rượt theo, hai bên đụng độ, mới chết, mớ vượt sông vào Nam, về quê sinh sống.

Thời kháng chiến đánh Tây, đảng Cộng Sản không có thế lực, cũng không có quân số, chỉ lừa bịp lập ra các cơ chế "Ủy Ban Hành Chánh Lâm Thời Nam Bộ" do Trần Văn Giàu làm chủ tịch, từ đó đưa người vào nắm những đơn vị quân dân tự võ trang miền Nam và dần dần dùng thủ đoạn khống chế, khuynh đảo, biến những đơn vị quân sự thành công cụ cho Cộng Sản. Những đơn vị kháng chiến tự phát dần dần rơi vào tay các tên Cộng Sản, trong ba trường hợp:

- Vì lầm tưởng chống ngoại xâm, đánh Tây giành độc lập nên chấp nhận sự chỉ huy của những tên Cộng Sản lồng vào qua sự tiến cử của Ủy Ban Khởi Nghĩa, Kháng Chiến Nam Bộ, nhưng sau đó cũng bị thanh toán, thủ tiêu để không ai có mưu đồ bất phục tùng, diệt trừ hậu hoạn.
- Những ai biết rỏ tâm địa gian ác, thì bị thủ tiêu, ám sát.
- Những ai âm thầm chịu đựng, rồi sau đó tìm cách bỏ trốn, bị chụp mũ là" phản bội" đầu hàng giặc.

Theo tài liệu của Hứa Hoành, thì lúc đó, thời " nam bộ kháng chiến", ở nhiều tỉnh miền Nam đã có tới 25 chi đội chiến đấu, mỗi chi đội có quân số từ vài trăm đến một ngàn quân, vũ khí tự lực, tinh thần chiến đấu rất cao, tiêu biểu:

- Chi đội do Huỳnh Kim Trương, tức là cò Trương chỉ huy-Chi đội do nhóm Bình Xuyên thành lập từ 1945 do Hai Soái, Ba Dương chỉ huy, cuối năm 1946, Việt Minh cho tên Từ Văn Ry (Henry Từ) vào, rồi ám sát Ba Dương trong trận độ với Tây, âm mưu bị lộ nên chúng giết tên Henry Từ để bịt đầu mối.-Chi đội cũng của Bình Xuyên, do Bảy Môn chỉ huy, theo cánh Bảy Viễn.

- Chi đội do Mười Trí tức là Huỳnh Minh Trí chỉ huy. Sau khi ám sát Ba Dương, rồi âm mưu thanh toán Bảy Viễn thất bại, Việt Minh mua chuộc được Mười Trí, đầu tiên tự phong là "sư thức Hòa Hảo" để lôi kéo tín đồ, sau đó bí mật ám sát đức thầy Huỳnh Phú Sổ nhưng bất thành; từ đó tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo biết rõ tên Mười Trí nên tẩy chay.

- Chi đội Tư Đức, do Phạm Hữu Đức chỉ huy-Chi đội cũng do Bình Xuyên, do Huỳnh Văn Thảo (Giáo Thảo), thuộc Cao Đài chỉ huy

- Chi đội Bảy Viễn ..v...v....

Tóm lại, ở miền Nam, cái gọi là "kháng chiến mùa thu" chỉ là trò bịp, vì Việt Minh không có quân, chỉ dùng cái vỏ bọc "Ủy Ban Khởi Nghĩa Nam Bộ" với một số tên cán bộ nòng cốt, lòn người, xâm nhập, khuynh đảo; đây là cuộc kháng chiến "ốc mượn hồn". Với những thủ đoạn có bài bản mà Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai và đồng bọn áp dụng, nên tất cả 25 chi đội võ trang miền Nam lần lượt lọt vào tay của Cộng Sản, họ chiếm các chức chính trị viên nên trở thành công cụ cho đảng Cộng Sản Việt Nam. Biết bao xương máu của người dân miền Nam bị lợi dụng qua tay trung gian Trần Văn Giàu cho tên chủ Hồ Chí Minh, tội ác của hắn dẫy đầy, chỉ riêng thành phần "có học" cũng lên đến hàng ngàn người bị thủ tiêu, giết hại, ném xác trôi sông, vất trên cánh đồng. Chính bọn Trần Văn Giàu đã hạ lịnh tàn sát hàng ngàn tín đồ Phật giáo Hòa Hảo.

Theo tài liệu của Hoàng Quốc Kỳ, trong quyển "Ma Đầu Hồ Chí Minh" cho biết: số là đầu tháng 9 năm 1945, đồng bào Phật Giáo Hòa Hảo với tay không, kéo về Cần Thơ biểu tình, bị Việt Minh chụp mũ vào tội "chống đối", nên ra lịnh cho Vệ Quốc Đoàn bắn vào đám đông, tàn sát không gớm tay; tên sát thủ Nguyễn Văn Nghệ, là tay súng tiểu liên trong đội quân nầy đã thuật là: "tụi Hòa Hảo gan cùng mình, lớp nầy ngã xuống, lớp khác tiến lên, cả đàn bà, con nít cũng vậy. Bóp cò đền run cả tay, máu loang đỏ cả mặt đường mà chúng vẫn nhào vô họng súng. Chiến sĩ ta đã tản thần, nhưng lịnh bắt là phải bắn tiếp ...". So với các lực lượng kháng chiến khác, thì Hòa Hảo là đáng quan ngại nyất, nên Hồ Chí Minh tìm đủ mọi cách để triệt hạ Phật Giáo Hòa Hảo, cái Ủy Ban Hành Chánh Lâm Thời Nam Bộ của Trần Văn Giàu lãnh đạo, chỉ là vỏ bọc, bên trong là nơi quy tụ thành phần "đầu trộm đuôi cướp, du thủ du thực" được tuyển chọn và phong chức, sẵn sàng ra tay giết người theo lịnh đám đầu lãnh, chúng từng giết ông Huỳnh Thạnh Mậu là anh ruột của Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, bắt cóc Hai Ngoán (tức là thiếu tướng Lâm Thành Nguyên) bỏ vào bao bố, quăng xuống sông cho đi "mò tôm" (đây cũng là một trong nhiều cách giết người man rợ của đám Việt Minh do Trần Văn Giàu chỉ huy), nhờ võ nghệ cao, nên Hai Ngoán tự giải thoát.

Cuộc kháng chiến "mù thua" coi như tạm thời lắng đọng khi miền Bắc là chiến trường chánh, với sự chuẩn bị cho Điện Biên Phủ, nên vào cuối năm 1953, nhiều trung đoàn chủ lực bị giải thể và miền Bắc thành lập các sư đoàn 304, 308, 416, 320 ... đó cũng là lý do mà Hồ Chí Minh và đồng đảng lo ngại miền Nam có khả tăng tách rời, tự trị theo kiểu Nam Kỳ Quốc, nên giải tán các đơn vị miền Nam, chia thành hai phân khu "miền Đông và miền Tây, mỗi nơi chỉ còn một tiểu đoàn chủ lực; giai đoạn Lê Duẫn thay Hà Huy Giáp chức bí thư thứ nhất miền Bắc, ở miền Nam thì Phạm Hùng thay Ba Diệp chức gián đốc công An nam bộ ...

Ngày 2 tháng 9 gọi là "quốc khánh" được hâm nóng như loại "microwave" và con chó già mờ mắt, rụng răng Trần Văn Giàu lại như sống lại chuỗi ngày theo đảng cướp, nhớ lại cái thời quyền hành sanh sát trong tay như vua chúa, bàn tay hắn nhuốm máu biết bao người dân oan vô tội, bị giết một cách dã man, chụp mũ là "Việt gian" nhưng do chính những tên Việt gian đội lớp kháng chiến dưới sự chỉ huy của Trần Văn Giàu. Một tên gây quá nhiều nợ máu với đồng bào, thế mà vẫn nằm ngoài vòng pháp luật, tòa án quốc tế, nhi nhô nói về cái ngày mà tên chủ của hắn lếu láo tại Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945, như muốn "tìm lại chút mặt trời trong ly nước lạnh".

Trương Minh Hòa

Những kỹ sư thổi ống đu đủ


Trần Thanh

Nếu có người nào nêu thắc mắc: - Ai là ông tổ của nghề "thổi ống đu đủ và thổi kèn" thì tôi sẽ trả lời ngay không một chút suy nghĩ: - "bác Hồ" tức Hồ-Chó-Minh! (Xin xem hình A)
Hình A.
Khi nghe tôi trả lời như vậy, chắc bạn ấy sẽ kêu lên kinh ngạc:

- Lại bác Hồ! Sao bác Hồ biết nhiều nghề quá vậy? Hồi trước, ông Trần Thanh đã viết một bài cho rằng bác Hồ là ông tổ của nghề làm đĩ, tức bác là thần bạch mi, bây giờ lại thêm những tiết lộ mới về những "nghề" của bác!!!

Nếu bạn đòi tôi phải chứng minh thì tôi rất sẵn sàng. Tuy nhiên, trước khi chứng minh thì tôi cần giải thích rõ về hai cái "nghề" này:

- Nghề thổi ống đu đủ là nghề dùng ống đu đủ, cắm vào đít của người mình muốn thổi, rồi thổi thật mạnh và liên tục cho đến khi nào đối tượng được phình lớn lên như ý họ muốn. Ví dụ, một con nhái muốn to bằng con bò thì ta phải thổi như thế nào cho nó "to lớn" bằng con bò thật, còn sau đó nếu nó có bị nổ tung thì lại là chuyện khác!

- Nghề thổi kèn là nghề ngậm con .... cu của đối tượng rồi thổi liên tục cho đến khi nào "kèn" bị .... xẹp! Tiếng Việt bình dân người ta gọi là .... "bú cu"!

Đó là phần giải thích về nghĩa đen, còn về nghĩa bóng thì đây là "nghề" của hạng người chuyên luồn cúi, nịnh bợ rất hèn hạ, sẵn sàng bán rẻ lương tâm, nhân cách của mình để đổi lấy những ân huệ hoặc những quyền lợi về vật chất. Nói là "bán rẻ lương tâm, nhân cách" chớ thật ra bọn này làm gì có lương tâm, nhân cách mà bán! Bọn này còn hèn hơn những con chó, vì loài chó do trời sinh vốn trung thành với chủ, ăn cây nào rào cây nấy. Còn bọn này tuy cũng đi bằng hai chân nhưng bản chất của chúng là loài thú với tâm địa phản trắc!

NHỮNG BẰNG CHỨNG VỀ "BÁC" HỒ LÀ ÔNG TỔ CỦA NGHỀ THỔI ỐNG ĐU ĐỦ VÀ THỔI KÈN:
Hình B

1. "Bác" Hồ đã thổi kèn cho "bác" ..... Trần Dân Tiên! (Xin xem hình B) Chưa hết, "bác" Hồ còn thổi ống đu đủ cho bác T. Lan nữa! Nếu có ai thắc mắc hai "bác" Trần Dân Tiên hoặc T. Lan là ai thì xin đọc lại bài cũ "Nguyễn Chí Thiện, "đuốc sống" Lê Văn Tám và "Đóa Hồng Gai" Nguyễn Thị Nga" đã đăng trên Tin Paris.

2. "Bác" Hồ đã thổi kèn cho "bác" Xít-Ta-Lin và "bác" Mao qua câu nói "nổi tiếng": - Ai sai thì sai chớ hai ông Xít-Ta-Lin với ông Mao thì không thể sai!
Mỗi khi cần thề thốt điều gì thì người ta thường hay chỉ tay lên trời mà thề: - Tôi thề có trời cao chứng kiến ..... Còn cái kiểu "thề" của "bác" Hồ thì lạ lắm: bác chỉ tay xuống dưới đất! Chẳng hạn như hồi thập niên 1950, lúc sang Trung Quốc gặp Mao Trạch Đông, "bác" Hồ đã chỉ tay xuống dưới đất mà thề rằng:
Hình C.
- Dạ, em xin thề với ngài Mao rằng cho tới khi chết xuống dưới địa ngục A Tỳ, em sẽ mãi mãi trung thành với ngài, ăn cứt cho ngài đời đời kiếp kiếp! (Xin xem hình C)

Trong suốt thời gian cầm quyền, Hồ đã truyền lại nghề "thổi kèn" và "thổi ống đu đủ" cho tên đệ tử Tố Hữu. Không phụ lòng thương của chủ, tên khuyển tặc Tố Hữu đã thổi Lê Nin, Xít-Ta-Lin và Hồ Chí Minh lên tới trời xanh! (nhưng sau đó đã bị nổ đánh bốp rồi lao thẳng xuống dưới địa ngục!) Sinh nghề tử nghiệp, kẻ nào đùa giỡn với ống đu đủ thì sẽ chết vì ống đu đủ, câu châm ngôn này thật là chí lý: tên Tố Hữu đã bị chết thê thảm vì bệnh ung thư cuống họng!!!

Kể từ sau năm 1945, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã có đại học mang tên là Trần Dân Tiên, chuyên đào tạo các văn nô, nhạc nô, thi nô để thổi kèn và thổi ống đu đủ cho "boác" Hồ! Tố hữu đã được Hồ Chó Minh bổ nhiệm làm tên chủ trường (hiệu trưởng) đầu tiên. Nói chung, toàn bộ nền giáo dục của bọn việt gian cộng sản là nền giáo dục "trần dân tiên", tức là đào tạo ra những con người để làm .... nô lệ! Toàn bộ đầu óc của người dân đều bị mã hóa "trần dân tiên", tức là thường xuyên bị nhồi nhét cái tư tưởng sau đây vào tâm thức:

- Tôi là nô lệ cho đảng và bác Hồ. Tôi sinh ra là để làm nô lệ và sẵn sàng chết cho bác và đảng!

Cái tư tưởng này đã được nhồi nhét vào đầu một đứa bé khi nó còn nằm trong bụng mẹ, và khi ra đời, lớn lên, tư tưởng đó liên tục được nhồi nhét 24 trên 24 cho đến khi người nô lệ đó chết! Sở dĩ tôi nói nhồi nhét 24 trên 24 vì trong mọi mối quan hệ và sinh hoạt trong xã hội, cái tư tưởng đó luôn luôn hiện hữu để chui sâu vào đầu, thấm thêm sâu vào máu, bám chặt vào từng tế bào của từng con người. Khi một người về nhà thì cái tư tưởng "trần dân tiên" nó đi theo người đó vào trong nhà qua ngã truyền thanh, truyền hình, điện thoại, e-mail, internet, sách báo, truyện!!! ..v..v... Thật là dễ sợ và kinh khủng!

Đó là một trong những biện pháp mà bọn việt gian cộng sản đã áp dụng để củng cố ách cai trị của bọn chúng trong suốt 60 năm qua!

Người ta ước lượng rằng ngân sách quốc gia của bọn việt gian cộng sản thường chi:

- 50% cho công tác tuyên truyền, nhồi sọ, áp dụng trong nước lẫn ngoài nước (trong đó có nghị quyết 36)
- 40% cho việc củng cố đảng, phát triển đảng, nuôi âm binh công an và bộ đội, xây thêm nhà tù, mua thêm roi điện, còng số tám và lựu đạn cay.
- 10% trả lương cho giới công nhân viên chức

Bọn chúng sẵn sàng bắt toàn dân phải hy sinh ăn đói, mặc rách, bụng đói cồn cào vì thiếu cháo cầm hơi nhưng cái "món ăn" .... cứt bác Hồ thì không thể thiếu, không muốn ăn cũng phải bị ăn, bị cạy miệng ra mà nhét vào! Tất cả các lãnh vực khác đều phải bị hy sinh, ví dụ như mở mang đường xá, xây dựng bến cảng, phi trường, phát triển khoa học kỹ thuật ..v..v..

Ngày nay, bọn việt cộng có "văn minh" hơn, cho cải biến món "cứt bác Hồ" (hay còn gọi là món ăn "trần dân tiên") thành các món như "hoa hậu", "người mẫu chân dài" nhưng tất cả cũng chỉ là bịp bợm. Thằng dân đen đói vẫn hoàn đói. Một anh cu li xe ba gác ngồi húp một tô cháo độn khoai mì trong khi đó cái truyền hình thì đang chiếu cảnh thi hoa hậu thế giới tại Nha Trang. Vừa ăn vừa nhìn mấy con đĩ ngựa bước đi uốn éo trên sàn diễn, bụng anh ta càng thêm đói chớ không no thêm được chút nào, tâm trạng của anh ta càng thêm tủi thân!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRẦN DÂN TIÊN TẠI QUẬN CAM, TIỂU BANG CA LI PHOÓC NI A, NƯỚC MỸ:

Đọc đến đây chắc có bạn sẽ ngạc nhiên, kêu lên:

- Ủa, đại học "Trần Dân Tiên" cũng có chi nhánh ở nước Mẽo? Nhà lước ta sao mà tài thế, xuất khẩu "boác" Hồ đi khắp nơi!

Có gì lạ đâu mà ủa với à! Hết 50 phần trăm ngân sách quốc gia của việt cộng được dùng vào việc tuyên truyền mà! Bọn chúng còn dự trù xây dựng tượng đài của "boác" ở tại Mễ Tây Cơ nữa đấy!

- Thế thì cái trường đại học đó nó nằm ở chỗ nào, số mấy, đường gì, thành phố nào? Chúng tôi phải đến xem tận mắt mới được. Ai là hiệu trưởng của trường này?

- À, trường này ở số ..... đường ..... thành phố Garden Grove. Trường này do đồng chấy Đỗ Éng làm hiệu trưởng với sự cộng tác của hai nhà cách mạng lão thành là đồng chấy Ngu Như Rận và đồng chấy Buồi Pín!

Từ khi được thành lập cho đến nay, trường đã đào tạo được khoảng 100 kỹ sư thổi ống đu đủ và thổi kèn. Một số sau khi tốt nghiệp đã được gởi về Việt Nam để phục vụ cho bộ chính trị và trung ương đảng. Một số khác đang tiếp tục theo học chương trình cao học và tiến sĩ tại trường đại học gốc Trần Dân Tiên tại Hà Nội.

Thu nhập của các kỹ sư thổi ống đu đủ và thổi kèn rất cao, có thể nói cao gấp ba lần thu nhập của các bác sĩ gia đình! Nếu các đồng chí nào may mắn được phục vụ cho bộ chính trị hoặc trung ương đảng của việt gian cộng sản thì có thể kiếm được một năm trên một triệu đô la! Tuy nhiên, sinh nghề thì tử nghiệp: một số đồng chí, sau một vài năm công tác, đã bị ung thư miệng lưỡi và cuống họng rồi chết rất thê thảm, tiền bạc kiếm được cũng không thể đem theo xuống âm phủ để xài! Những tên đầu gấu trong bộ chính trị chuyên ăn thai nhi và uống rượu "thập tam mạc xử nữ" (13 cái màng trinh của con gái) cho nên .... cứt và tinh khí của bọn chúng hôi thúi và độc vô cùng. Đó là lý do vì sao nhiều "kỹ sư" đã toi mạng!!!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRẦN DÂN TIÊN TẠI PHÁP

Lại có người thắc mắc, ngạc nhiên:

- Ủa, cũng có chi nhánh tại Pháp nữa sao? Bác Hồ sao mà tài quá, ở chỗ nào trên trái đất này cũng có mặt bác! Địa chỉ của trường này ở đâu?

Xin thưa, cái trường này có tên là "Đại học nhân văn hải ngoại" hay còn gọi là Trung tâm văn hóa Nguyễn Trường Tộ. Tên tiếng Tây là Association Convergence (giao điểm)

Ai cũng biết nhóm Giao Điểm là cái ổ rắn độc của việt cộng, cũng tựa như cái diễn đàn Đàn Chim Việt. Cứ nhìn vào danh sách các cây viết "gạo cội" như: Hà Giang, Bùi Kha, Phan Thích Nhật Từ, Trần Chung Ngọc là ta có thể biết họ thuộc dòng họ cây đu đủ hay cây kèn! Những người này là trí thức, có sự hiểu biết vững vàng nhưng họ không có cái gan đứng thẳng lên để làm người mà cam phận đi làm nô lệ cho giặc cộng, luồn trôn, bợ đít, dùng cây kèn và ống đu đủ để kiếm ăn, vinh thân phì gia!

Đại học "nhân văn" chủ trương "giao lưu" văn hóa, hợp tác văn hóa giữa người Việt trong và ngoài nước. Người Việt ở hải ngoại thì có văn hóa. Đồng ý.

Còn ở trong nước?

Ở trong nước làm gì có văn hóa mà trao đổi? Muốn trao đổi một cái gì thì hai bên phải có thực lực. Ông mất chân giò, bà thò chai rượu. Cái gọi là "văn hóa" ở trong nước thật ra chỉ là .... cứt của "bác" Hồ! Toàn là những thứ rác rến, lếu láo do đám bồi bút thổi ống đu đủ viết theo mệnh lệnh của chủ nhân ông việt gian cộng sản!

Bây giờ bọn việt gian cộng sản đem nhuộm màu cứt của bác Hồ, pha chế thêm gia vị, biến nó thành nhiều loại đặc sản "đậm đà hương dzị quê hương", mang nhiều "bản sắc dân tộc" (như giọng đọc của Tú Trinh trong những CD quảng cáo du lịch), đem xuất khẩu hoặc "trao đổi" (giao lưu) với các cộng đồng người Việt ở hải ngoại! Sách truyện ở Việt Nam ồ ạt tràn vào các thư viện cộng đồng ở Mỹ và Canada. Sách cho không biếu không mà! Tuy nhiên, ảnh hưởng của nó không đáng kể vì hầu như thế hệ trẻ không có ai đọc. (có biết tiếng Việt đâu mà đọc!) Còn thế hệ già thì đọc cho vui chớ khả năng để "cải tạo" tư tưởng của họ thì còn khuya! Đấy, bọn đầu gấu hãy căng mắt ra mà nhìn, đã trên 20 năm tuyên truyền, tiêu phí hàng tỷ đô la mà có bao nhiêu việt kiều đem tiền về đầu tư ở Việt Nam? Có bao nhiêu chất xám của việt kiều tình nguyện về Việt Nam giúp dân, giúp nước? Hay chỉ có Thập-bát-đại-lòn-háng việt kiều, 18 cái khuôn mặt khỉ, mặt mốc, mặt trơ trán bóng mà nhà lước ta năm nào cũng vinh danh và ca ngợi?

Đại học nhân văn ai là hiệu trưởng hay chỉ có một anh kỹ sư quèn, chuyên viên thổi ống đu đủ đứng ra làm ông từ quét dọn đền miếu? Các giáo sư giảng dạy có những bằng cấp như thế nào? Phải chăng là bằng "tiến sĩ" chợ Đồng Xuân hay "tiến sĩ" chợ trời Huỳnh Thúc Kháng ở Sài Gòn, xìa ra 200 đô là lấy cái "bằng" tiến sĩ le lói, in màu sáng chói, đem về nhà treo trên tường coi chơi cho dzui và dợt le với bà con lối xóm?

Như trên đã nói, "nghề" thổi ống đu đủ và thổi kèn có thể kiếm được nhiều tiền nhưng không bền. Sau vài năm hành nghề, một "kỹ sư" có thể kiếm được bạc triệu đô la nhưng nguy cơ tử vong rất cao. Đã có nhiều người bị chết vì bị ung thư cuống họng, ung thư miệng, môi và lưỡi! Lý do vì tinh khí của bọn đầu gấu rất độc vì bọn chúng thường xuyên ăn thai nhi. Người "thổi kèn" bắt buộc phải nuốt những chất độc đó vào người chớ không được nhả ra! Còn nghề thổi ống đu đủ cũng phải thường xuyên nuốt những "chất bổ" phun ra từ những hậu môn! Cứt của những kẻ thường xuyên uống máu của đồng bào qua loại rượu "Thập tam mạc xử nữ" chắc chắn phải là rất độc!

Vì vậy nên xin can:

- Những ai đã lỡ tay trót nhúng chàm thì nên từ bỏ "nghề" đi ngay lập tức. Đừng có vì ham tiền mà chết không kịp hối. Khi chết, quý vị có đem theo được bạc triệu đô la xuống dưới âm phủ không?
- Những ai đang ngấp nghé muốn làm thử nghề này thì nên coi tấm gương của tên Hồ Chó Minh và Tố Hữu. Hắn đã chết khô xác rồi mà toàn dân vẫn nguyền rủa hắn mãi mãi không thôi. Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ!

Trần Thanh
Ngày 6 tháng 9 năm 2008

Saturday, September 6, 2008

Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Úc châu hỗ trợ và hiệp thông cung Giao Xứ Thái Hòa

TUYÊN UÝ ĐOÀN CỘNG ĐỒNG CÔNG GIÁO VIÊT NAM ÚC CHÂU
VÀ NGUYỆT SAN DÂN CHÚA ÚC CHÂU
XIN HIỆP THÔNG, CẦU NGUYỆN, VÀ ĐỒNG HÀNH
VỚI GIÁO XỨ THÁI HÀ, TỔNG GIÁO PHẬN HÀ NỘI, VIỆT NAM.

Australia, ngày 1 tháng 9 năm 2008

Kính thưa: Cha Matthêu Vũ Khởi Phụng, Bề Trên, Chính Xứ Thái Hà,
Kính thưa Quý Cha, Quý Tu Sĩ, và Cộng Đồng Dân Chúa Giáo Xứ Thái Hà,
Tổng Giáo Phận Hà Nội, Việt Nam.

Từ tháng 12 năm 2007và nhất là từ tháng 1 năm 2008, khi được biết những khó khăn, phức tạp, với những thách đố và những đàn áp cưỡng bức của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam áp đặt lên toàn thể Cộng Đồng Dân Chúa tại Hà Nội qua sự kiện Toà Khâm Sứ, và nhất là qua sự trấn áp kinh hoàng của công an và nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đối với Giáo Xứ Thái Hà, qua các cơ quan truyền thông Công Giáo nói riêng và các cơ quan truyền thông Quốc Tế nói chung, Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Úc Châu chúng con đã liên tục theo dõi, đồng hành, và cầu nguyện hiệp thông với Quý Cha, Quý Tu Sĩ Nam Nữ, và toàn thể Cộng Đồng Dân Chúa tại Giáo Xứ Thái Hà.

Đặc biệt khi chúng con biết được sự kiện xảy ra việc bạo hành của nhân viên an ninh trấn áp đánh đập đối với những giáo dân Thái Hà vô tội trong buổi chiều ngày 28.8.2008, nhất là sự kiện công an xịt hơi cay vào Linh Mục, giáo dân Thái Hà và đồng bào Việt Nam đang có mặt nơi Linh Địa Đức Bà vào lúc 8.45 tối Chúa Nhật ngày 31.8.2008. Nhìn thấy những giáo dân Giáo Xứ Thái Hà bị thương tích đầy máu me trong đêm đàn áp và khi thấy quý bà và các em thiếu nhi nhỏ bé nhiễm độc hơi cay, lòng chúng con xót xa và thương cảm. Những sự kiện này đang gây nên những phẫn uất và bất bình nơi những người dân Úc Châu nói chung, và đặc biệt nơi những người Úc gốc Việt nói riêng.

Trong tâm tình hiệp thông, cầu nguyện, đồng hành, và hỗ trợ cho Quý Cha, Quý Tu Sĩ, và anh chị em thương mến của Giáo Xứ Thái Hà, Tuyên Uý Đoàn chúng con đã thông tin cho nhau qua các Cộng Đồng và Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Úc Châu, qua các cơ quan truyền thông báo chí, những tin tức, và khuyến khích các Cộng Đồng và Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam hiệp ý cầu nguyện và hiệp thông với Quý Cha, Quý Tu Sĩ, và anh chị em thương mến của Cộng Đồng Dân Chúa Giáo Xứ Thái Hà, Tổng Giáo Phận Hà Nội trong hoàn cảnh khó khăn đặc biệt này. Trong các Thánh Lễ cuối tuần vào Chúa Nhật 31.8 vừa qua, chúng con cũng đã hiệp thông và cầu nguyện nhiều cho Quý Cha, Quý Tu Sĩ, và anh chị em thương mến của Giáo Xứ Thái Hà.

Tuyên Uý Đoàn và Nguyệt San Dân Chúa của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Úc Châu chúng con qua lá thư này, khẳng định sự Hiệp Thông và Đồng Hành hoàn toàn với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam nói chung, đặc biệt với Quý Cha, Quý Tu Sĩ, và anh chị em thương mến của Giáo Xứ Thái Hà nói riêng, trong hoàn cảnh khó khăn, phức tạp, và nhiều thách đố của giai đoạn hiện tại.

Chúng con hoàn toàn tán thành và ủng hộ đường lối đối thoại ôn hòa, trong sự tôn trọng Hiến Pháp và Quyền Tự Do Tôn Giáo, cũng như tôn trọng sự thật và công bằng do Quý Cha, Quý Tu Sĩ, và anh chị em thương mến của Giáo Xứ Thái Hà, dựa vào đường lối chung của Giáo Hội với chủ trương theo đúng Tin Mừng.

Đồng thời, Tuyên Uý Đoàn và Nguyệt San Dân Chúa Úc Châu chúng con cũng tha thiết kêu gọi Quý Cộng Đồng Người Việt Tự Do, Quý Cộng Đồng, Quý Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam, Quý Phong Trào Đoàn Thể, Quý Cơ Quan Nhân Quyền, Quý cơ quan truyền thông báo chí, và toàn thể Quý Đồng Hương Việt Nam tại Úc Châu và trên toàn thế giới, cùng hiệp thông với chúng con, cầu nguyện, đồng hành, và hiệp thông đặc biệt với Giáo Xứ Thái Hà trong lúc khó khăn và đầy thách đố gian nan này. Chúng con mong mỏi và ủng hộ các buổi tổ chức Cầu Nguyện và Thắp Sáng trong các Giáo Xứ, các Cộng Đồng, các Cộng Đoàn địa phương, để cầu nguyện cho Quê Hương Việt Nam chấm dứt những hành vi đàn áp và nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam luôn biết tôn trọng Nhân Quyền cũng như Quyền Tự Do Tôn Giáo.

Trong tâm tình hiệp thông và đồng hành, chúng con cầu nguyện cho tất cả những tranh chấp và những bất hòa, được giải quyết trong công lý hoà bình và yêu thương. Nguyện xin Chúa của Hoà Bình và Mẹ La Vang, Mẹ Quê Hương Việt Nam, ban hoà bình, hạnh phúc, yêu thương trong công lý trên mọi người Dân Việt Nam nói chung, và đặc biệt cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam nói riêng, nhất là cho Quý Cha, Quý Tu Sĩ, và anh chị em của Giáo Xứ Thái Hà thương mến.

Trong Chúa Kitô.

Trân trọng,

LM. Phêrô Nguyễn Minh Thuý, Đại Diện Tuyên Uý Đoàn, CĐCGVN Úc Châu.
LM. Phêrô Bùi Xuân Mỹ, Phó Đại Diện Tuyên Uý Đoàn, CĐCGVN Úc Châu.
LM. Phaolô Chu Văn Chi, Tổng Thư Ký Tuyên Uý Đoàn, CĐCGVN Úc Châu.
LM. Anthony Nguyễn Hữu Quảng, Chủ Nhiệm Nguyệt San Dân Chúa Úc Châu.

BẢN LÊN TIẾNG CỦA PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀI GÒN HỖ TRỢ GIÁO XỨ THÁI HÀ


PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀIGÒN
P.O Box 17-516, Greenlane.
Auckland – NEW ZEALAND
P.O Box 660935, Arcadia, CA 91066 – USA
Website: http://www.saigonforsaigon.org/
Email: s4s@saigonforsaigon.org


Với ý chí cương quyết đòi lại sự công bằng, hàng ngàn tín hữu Công Giáo Giáo xứ Thái Hà thuộc Tổng Giáo Phận Hà Nội thắp nến cầu nguyện để đòi lại phần đất đai cơ sở của Giáo Hội đã bị bạo quyền Cộng sản ngang nhiên cưỡng chiếm dùng vào những việc bất chính từ nhiều năm nay. Làn sóng cầu nguyện trong tinh thần bất bạo động khởi sự từ ngày 18-12-2007 cho đến nay, từ Hà nội tràn vào Sàigòn có lúc số giáo dân lên tới 4, 5 ngàn người và hàng trăm linh mục, tu sĩ, đã cho thấy rõ rệt: tình trạng công lý không có, đời sống tâm linh bị suy thoái, nhân phẩm và nhân quyền của người dân bị chà đạp.

Trong tinh thần hiệp thông:

PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀIGÒN hỗ trợ tinh thần tranh đấu cho sự Công Bằng của quý Giáo Sĩ và Giáo Dân tại Giáo xứ Thái Hà. Một mặt đòi lại cơ sở vật chất của Giáo Hội, nhưng mặt khác còn nhân danh Tin Mừng, nhân danh Tình Thương, nhân danh những thành phần thấp cổ bé miệng trong xã hội trước vấn nạn nhân phẩm và những quyền căn bản của con người bị tước đoạt.

PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀIGÒN hỗ trợ tinh thần dấn thân của quý Giáo Sĩ và Giáo Dân tại Giáo xứ Thái Hà đã mạnh dạn lên tiếng đòi lại sự Công Bằng cho Dân Tộc trước hành vi bạo ngược của một tập đoàn Cộng Sản đã đặt quyền lợi của đảng lên trên Dân Tộc và ngang nhiên cướp đoạt tài sản, chà đạp giá trị tinh thần của Dân Tộc.

Kính thưa Cha Matthêu Vũ Khởi Phụng Bề Trên Chính Xứ Thái Hà và Cộng Đồng Dân Chúa Giáo Xứ Thái Hà thân mến,

Lịch sử Giáo Hội Công Giáo Ba Lan đã chứng minh sức mạnh và ý chí của những buổi cầu nguyện đã trở thành một trong những yếu tố hàng đầu giúp Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan xóa tan tâm trạng sợ hãi trong lòng người dân sau nhiều thập niên bị chủ nghĩa vô thần Cộng sản khống chế, nhờ đó kết quả đã đưa đến sự sụp đổ của chế độ Công sản Liên Sô và hàng loạt các chế độ Cộng sản Đông Âu. Trong bối cảnh hiện nay với ý chí kiên cường của người dân, những buổi cầu nguyện ở Dòng Chúa Cứu Thế, tại Giáo xứ Thái Hà và lan rộng tới các Giáo Phận, cùng với sự phối hợp trong các Cộng đồng tín hữu thuộc các tôn giáo bạn dẫn đến niềm hy vọng biểu chứng hùng hồn cho câu nói “Ý Dân là Ý Trời”.

Nguyện xin Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, ban cho quý Cha và Cộng Đồng Dân Chúa Giáo Xứ Thái Hà nhiều ơn khôn ngoan can đảm và kiên trì.

Ngày 5 tháng 9 năm 2008.
Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ.
Đại Diện PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀIGÒN.