Saturday, September 6, 2008

Chuyện dài CA SĨ HẢI NGOẠI về Việt Nam hát hò


Phạm Phong Dinh


Gần đây có nhiều thân hữu và độc giả đề nghị chúng tôi viết một vài bài về hiện tượng ca sĩ Việt Nam ở hải ngoại về nước và ca sĩ từ Việt Nam ra hải ngoại trình diễn. Ðây là một vấn đề khá nhạy cảm, vì nó động chạm đến nỗi niềm ấp ủ riêng trong lòng của từng người.

Hầu như bất cứ một người nào trở về Việt Nam đều trang bị sẵn cho mình 1001 lý do chính đáng nhất không chê vào đâu được, để khi có người nào chạm vào thì có cái để mà trưng ra làm bằng cớ và phản ... pháo. Nào là “quê hương là chùm khế ngọt, quê hương là con diều biếc”, “ta” về Việt Nam ăn khế ngọt (bởi khế Mỹ chua thấy bà) và thả diều thì có gì sai? “Ta” về Việt Nam là “ta” thực hiện cái nhân quyền thiêng liêng của nước Mỹ ban bố cho ta, còn ai bẻ vào đâu được. Chính những kẻ nói này nói nọ, phê bình “ta” chuyện về Việt Nam để hoàn thành những hoài bão và tâm nguyện, những kẻ ấy mới là những kẻ không chịu “thực thi” nhân quyền. Ðất nước này, tức ở hải ngoại, là nơi tự do, là những free countries, “ta” muốn làm gì thì ta làm, ai làm gì được nhau thì cứ bảo.

Vấn đề đi đi về về giữa hải ngoại và Việt Nam của ca sĩ xoành xoạch như đi chợ, đã trở thành một cuốn truyện dài với nhiều tình tiết hấp dẫn, đại khái giống như cái mục Xe Cán Chó - Chó Cán Xe, tuy tầm phào bá láp nhưng độc giả rất thích tìm hiểu. Người ta muốn biết những khuôn mặt nào đã xé rào nhảy về Việt Nam kiếm ăn, những người ca sĩ nào vẫn còn nuôi trong tim lý tưởng quốc gia chân chính. Trong thời gian qua chúng tôi có nhặt nhạnh được chút ít tin tức về chuyện dài ca sĩ, xin được viết ra đây mấy hàng cho quý độc giả thân mến, coi như mua vui cũng được một vài trống canh. Nhưng càng viết thì càng thấy buồn, vì những nhân vật trong bài viết này đa số đều là những tai to mặt lớn trong vườn hoa văn nghệ Việt Nam hải ngoại, với những cái tên từ lâu nhận được rất nhiều sự thương mến của người Việt tị nạn lưu vong.

Sự đời nghĩ cũng có nhiều chuyện buồn cười. Ngày xưa, cũng chính rất nhiều trong số này, trong lúc chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa còn đang đổ máu xương chống ngăn làn sóng cộng sản xâm lược cho đến giờ thứ hai lăm, thậm chí sang đến giờ thứ bốn mươi tám, tức vài ngày sau ngày 30.4.1975, chính những con người vô loại này đã xách đít chạy trước rất sớm. Lúc ấy thê thảm lắm, quý độc giả cứ xem lại những cuốn phim tài liệu về di tản thì rõ, nước mắt nước mũi cứ là chàm ngoàm, đu bám trên những sợi dây thừng bên hông tàu trông rất rùng rợn, hay tranh nhau leo lên những bức tường vào tòa đại sứ Mỹ với những hàng dây thép gai nhìn vô cùng lạnh gáy. Ôi, cái tình yêu nước của những con người ấy sao mà nó cao cả và thiêng liêng lắm vậy. Thà chết ở xứ người, thà chịu không có cà pháo mắm tôm ăn, chứ không chịu đội chung bầu trời với vẹm cộng. Giờ đây, sau ba ba năm, những con người này xênh xang áo gấm về làng cũng trước nhất hơn ai hết, sẵn lòng quỵ lụy nâng bi vẹm với bất cứ giá nào để được về chúng ban cho mấy trái khế ngọt mà xơi. Ô là là, bây giờ thì tha hồ xơi cà pháo với mắm tôm chính gốc Việt Nam bằng thích nhé.

Hai trong số những ca sĩ quốc gia hải ngoại về đầu quân cho vẹm cộng sớm nhất là Hương Lan và Elvis Phương hơn một thập niên qua thì ai cũng đã biết hết rồi. Công cuộc làm ăn của Hương Lan và Elvis Phương ở “quê hương” coi bộ rất khấm khá, nên cô cậu phải giữ rịt lấy, như những con thú nhà ôm chặt lấy khúc xương của chủ quẳng cho. Theo Elvis Phương, thì nếu những ca sĩ về Việt Nam chịu chăm chỉ đi hát ở các phòng trà thì sẽ có cuộc sống dư dả. Nguồn tin quốc nội cho biết rằng cứ mỗi một phùa hát ở phòng trà, mỗi ca sĩ bợ nhẹ một ngàn đô la. Nếu hát trên live show, thì cứ hai bản cũng được một nghìn. Bản thân Elvis Phương luôn có một lịch trình đi hát đầy kín, đến nỗi bà vợ của Phương cũng kêu trời, có lẽ sợ chồng đi hát nhiều quá có ngày ngã lăn đùng ra bất đắc kỳ tử chăng, bởi anh ta đã một lần đi mổ tim rồi. Lần này tim vỡ như xác hoa tigone là chết chắc. Elvis Phương đang cư ngụ trong một ngôi biệt thự ở làng “Việt Kiều” trong khu vực An Phú Ðông, thuộc tỉnh Gia Ðịnh ngày trước thì phải. Hàng xóm của Phương có ca sĩ Anh Quý, Hương Lan và Ái Vân.

Hương Lan vừa đi hát vừa trông coi một nhà hàng ở quận Bình Thạnh. Ngoài ra nàng còn mở thêm trại nuôi cá, vườn cây ăn trái ở tỉnh Bình Phước (tức Bình Long và Phước Long). Có tin cho rằng, khi về già, Hương Lan sẽ về sống ở đấy. Trường hợp Ái Vân, ngày xưa, năm 1989 khi bức tường Bá Linh sụp đổ, nàng đang là cán bộ văn nghệ thuộc tầm cỡ nghệ sĩ nhân dân của Hà Nội ở Ðông Ðức, đã chạy sang xin tị nạn chính trị bên Tây Ðức. Ðối với vẹm, đó là cái tội phản đảng, có lẽ sẽ bị tru di tam tộc. Nhưng giờ đây nàng vẫn cứ ung dung sinh sống tại Việt Nam, thế là thế nào. Câu trả lời thì đến một đứa bé cũng biết.

Những ca sĩ hải ngoại chạy về Việt Nam đa số thuộc về thế hệ “già”, cái thế hệ bôn tẩu ra nước ngoài trong những ngày lửa loạn cuối cùng ở Sài Gòn, hay trong những lần vượt biển sóng gió đi tìm tự do. Thời gian trôi qua, những nếp nhăn dần hằn đậm trên mặt, giọng hát đã dần tàn tạ, không nhanh chân về nước kiếm chác chút ít trước khi vĩnh viễn lùi vào bóng tối của sự lãng quên, thì còn đợi lúc nào nữa. Những giọng ca gọi là hàng đầu, những gì gọi là vượt không gian và thời gian như Lệ Thu, Khánh Hà, Tuấn Ngọc, Duy Quang, Lê Uyên, Thái Châu, Julie, Giao Linh, v.v... đều đã có mặt ở quê nhà. Ðó là chưa nói đến ông cụ Phạm Duy, bởi nhiều người đã nói nhiều về cụ rồi. Một trong vài danh ngôn xanh dờn mà cụ để lại cho đời là “Tôi có chống cộng đâu, tôi chỉ chống gậy”. Có lẽ đó là lá bùa hộ mệnh giúp cụ được thung dung về lại Việt Nam và khiến cho Hà Nội hài lòng. Ngoài ra cụ còn cấm những người chống cộng hải ngoại không được hát nhạc của cụ nữa, chắc không muốn vẹm nghe lại những điệu nhạc hùng tráng và những lời lẽ “chống gậy” rất đanh thép của cụ dành cho chúng, làm chúng ngứa ngáy, không khéo chúng tống xuất cha con cụ trở ra ngoại quốc thì khốn cả lũ. Cụ Phạm Duy đi về đã đành, cụ còn kéo theo cả một lô một lốc con cái nhà cụ theo. Nào là Duy Quang, Duy Cường, rồi Duy Minh. Nào Thái Thảo, Thái Hiền. Thậm chí cô cựu dâu nhà họ Phạm là Julie cũng xách gói về. Ôi, người người cùng về, nhà nhà cùng về. Duy Quang đã tìm thấy hạnh phúc với một người vợ trẻ ở quê nhà. Trông tấm hình Duy Quang đứng bên cô dâu, làm gợi nhớ đến kép lão Michael Douglas bên nàng Catherine Zeta-Jones, còn nước nôi gì nữa.

Một nhân vật thuộc dạng quái chiêu không thể không nhắc đến là Chế Linh. Anh ta đã về Việt Nam cùng phái đoàn văn hóa UNICEF trong chương trình văn hóa thế giới và trình diễn ở Hà Nội. Danh chính ngôn thuận như thế, Chế Linh sợ đếch gì vẹm cộng. Thế mà anh ta đã xun xoe nói những lời bợ đỡ chúng, khiến cho những tên nói láo nhất cũng phải đỏ mặt xấu hổ. Lúc mới sang định cư ở Toronto, Gia Nã Ðại, trong dạng tị nạn cộng sản được mấy năm, tình yêu nước còn bồng bột, Chế Linh đã tình nguyện đóng vai một người tù của chế độ nằm trong một cái cũi giam diễn hành trên đường phố Toronto, để tố cáo chế độ tàn bạo của Hà Nội vẹm. Theo phái đoàn UNICEF vào Việt Nam, Chế Linh cứ hát hò cho người dân Hà Nội nghe trong tư cách một sứ giả của Liên Hiệp Quốc, anh không có điều gì phải sợ cộng sản hết. Anh không cần phải nịnh bợ chúng, để chúng quên đi cái cũi tù của anh. Cùng lắm, nếu vẹm có nhốt anh trở vào cũi, thì anh sẽ trở thành anh hùng dân tộc. Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ và cộng đồng người Việt toàn thế giới sẽ tích cực tranh đấu đòi vẹm thả anh ra. Lúc đó, Chế Linh sẽ trở về hải ngoại trong ánh vinh quang. Thật đáng tiếc, Chế Linh không có được tầm vóc đó.

Lê Uyên, cái tên gợi đến cuộc tình thơ mộng và lãng mạn của đôi tài danh Lê Uyên-Phương cũng đã về hát trong chương trình Duyên Dáng Việt Nam. Ngày xưa đôi uyên ương này rất thích trầm mình trong những cõi tình ái rong rêu. Lê Uyên đã cho biết rằng nàng sẽ về nước sinh sống luôn, sẽ mua nhà ở Ðà Lạt, một nơi chốn gợi nhiều kỷ niệm êm đềm của một thời vang bóng. Lê Uyên cũng dự định mở một nhà hàng, là sở trường làm ăn của nàng.

Nói đến nhà hàng ăn với uống thì không thể nhắc đến “nữ hoàng sầu muộn” Giao Linh. Nàng vốn là dân Gia Nã Ðại cư ngụ ở thành phố Toronto, như trường hợp Chế Linh. Chẳng rõ ngày xưa, Giao Linh đã mang cái biệt hiệu kỳ dị này là từ cái chuyện gì, quý độc giả kính mến có biết thì xin nói cho, thật cảm tạ. Nó cũng tương đương với cái danh hiệu “sầu nữ” của bà Út Bạch Lan, bởi giọng ca thê thiết nức nở và cuộc đời tình ái đầy tan vỡ của nàng. Về Việt Nam, Giao Linh thường theo các đoàn lưu diễn hát ở những tỉnh, và cũng có góp mặt trong những chương trình Bước Chân Hoàn Vũ. Hiện nay thì Giao Linh đang làm chủ nhân của một quán cơm tấm kiêm luôn quán phở ở đường Lê Văn Duyệt cũ, công việc làm ăn cũng phát đạt. Có lẽ nên cải danh cho nàng thành “nữ hoàng hớn hở” chăng. Cũng chuyện ăn uống, Duy Quang đang trông coi quán Phở 24, chẳng rõ 24 tượng trưng cho cái gì và hách xì xằng mở luôn phòng trà Tình Ca. Ngoài ra, Duy Quang cũng là một trong những cột trụ của những buổi nhạc hội Duyên Dáng Việt Nam.

Lệ Thu, tiếng hát cùng thời với những Giao Linh, Thanh Thúy, một giọng hát quý còn hơn cả vàng, thường làm chúng ta ngất ngây với những bài nhạc nhắc nhớ về Hà Nội và Miền Bắc thời tiền chiến, thời gian qua nàng đã có mặt trong những nhạc hội Bước Chân Hoàn Vũ ở Việt Nam. Ðức Huy có một phòng thu âm và hài lòng với những show trình diễn người ta mời. Nhạc sĩ kiêm diễn viên điện ảnh Tùng Giang năm, bảy năm trước đây di tản về Việt Nam, anh đã tìm thấy được một tình yêu đích thực với một cô gái rất trẻ. Nàng từng hứa sẽ trọn đời chăm sóc người chồng già nay đau mai ốm. Nhưng gần đây, tình yêu ấy đã vỗ cánh bay xa, Tùng Giang ngậm ngùi trở qua Mỹ với đứa con thơ và căn bệnh ngặt nghèo đang hành hạ thân thể anh. Lúc tình đời đi xuống như thế thì Tùng Giang mới nhận thấy cái tấm lòng của tình người hải ngoại trong một sự ấp ủ và bao dung. Nhiều bạn bè, thân hữu, khán giả ái mộ anh đã tìm đến ân cần giúp đỡ anh, Tùng Giang lại lên tinh thần và nuôi dưỡng một hy vọng để sống.

Những giọng ca hàng đầu vượt vũ trụ như Khánh Hà và Tuấn Ngọc cũng tìm thấy những cơ hội làm ăn ở Việt Nam, nên cũng nhanh chân xách gói chạy hộc tốc về. Kẻo thôi bọn đi trước chúng nó cười vào mũi, rằng trâu chậm uống nước đục. Hai con người thuộc một gia đình dòng dõi văn nghệ gộc này năm 2007 đã xuất hiện trong một đại nhạc hội, mẹ ơi, mang cái tên chỉ nghe thôi đã ớn lạnh, là Nối Vòng Tay Lớn. Những tay ký giả kịch tràng quốc nội đã viết những hàng bốc thơm Khánh Hà như sau: “Không ai nghĩ, sau ngần ấy năm Khánh Hà vẫn còn có nhiều khán giả, đặc biệt là những khán giả trẻ. Sức hút giọng ca đã thực sự chinh phục khán giả bỏ tiền ra mua vé xem cô diễn”.

Trông thấy những con trâu về trước đang nhai cỏ non và húp nước béo tưng bừng, nhộn nhịp không thể tả nổi, những con trâu còn chưa về Việt Nam nôn nao xốn xang quá đi. Có nguồn tin cho rằng, giọng ca vàng Ý Lan cũng có ý định về nước trình diễn, nhưng khổ nỗi lịch trình diễn ở hải ngoại cũng đã bận tối tăm mặt mũi lắm rồi, nên nàng “đành” hoãn việc ấy lại một thời gian. Hiện Ý Lan đang rất tích cực hoạt động trong lĩnh vực giúp phụ nữ phòng căn bệnh ung thư vú, mà nó rất phổ biến trong hạn tuổi từ 50 trở lên. Ðây là một căn bệnh gây khủng khiếp cho toàn thế giới, nó chiếm đến 10% số phụ nữ trong hạn tuổi đó. Có nghĩa là cứ một trong mười người phụ nữ sẽ vướng chứng bệnh này. Ý Lan cũng đã từng trải qua một cơn khủng hoảng tinh thần và đã vượt thoát được căn bệnh. Nàng hiểu rõ tâm trạng lo sợ của người đứng bên bờ vực thẳm, nên muốn san sẻ những thông tin hữu ích giúp người phụ nữ Việt Nam sớm biết trước để thoát khỏi lưỡi hái của tử thần. Hiện nay, có những chương trình giúp người phụ nữ theo dõi được tình trạng sức khỏe của mình. Tại Canada, cứ hai năm một lần, phụ nữ trên 50 tuổi được chụp mammogram miễn phí. Chẳng những thế mà các cơ quan y tế nhiều tỉnh bang còn ân cần gởi thơ đến tận nhà mời đi chụp nữa.

Nguyễn Hưng, một khuôn mặt thuộc thế hệ trước 1975 được bà Thu Dung, giám đốc trung tâm băng nhạc Rạng Ðông ở Việt Nam thực hiện một chương trình live show trong tháng 12.2007 vừa qua. Nguyễn Hưng, một nghệ sĩ thuộc lò Thúy Nga, chỉ chuyên nhảy nhót và hát những bản tình ca vô thưởng vô phạt, nên vẹm cộng chẳng làm khó dễ gì anh, sẵn lòng cho anh về nước nhảy nhót cho công chúng xem. Thuộc dạng nhảy nhót, đôi vợ chồng Linda Trang Ðài-Tommy Ngô đã về nước từ khuya. Nhạc nhảy và gào ở trong nước hiện nay khá nhiều, nên Trang Ðài và Tommy Ngô tha hồ mà nhảy và gào.

Dường như để cảnh cáo những nghệ sĩ xuất hiện trong những chương trình nhạc hội chống cộng, mà những người viết trong nước gọi là “nhạy cảm về chính trị”, bà Rạng Ðộng đã nhắn nhe với những ai đang ôm mộng về ăn khế, thả diều và hát hò, rằng những ca sĩ muốn về Việt Nam, rất đơn giản, là đừng tham gia đến những nhạc hội chống đối lại vẹm cộng. Có phải chăng vẹm cộng muốn dần tách rời nghệ sĩ với những chương trình nhạc hội có tinh thần quốc gia dân tộc và chống cộng cương quyết như của Trung Tâm Asia chẳng hạn. Người nghệ sĩ hải ngoại nên xem đó là những lời đe dọa và khủng bố tinh thần, nó nằm trong chính sách trấn áp tư tưởng của chúng.

Hà Nội, thông qua bọn nô bút và cai thầu văn nghệ đã coi thường trình độ chính trị của nghệ sĩ hải ngoại quá đi. Chỉ mới có hơn một tá lớp nghệ sĩ già xun xoe về nước, mà chúng cứ tưởng giới nghệ sĩ hải ngoại sẽ sẵn sàng chạy theo và chịu quy hàng. Tình hình hoạt động nghệ thuật ở hải ngoại đang có chiều hướng khả quan, các nghệ sĩ bận rộn đi trình diễn ở khắp tiểu bang, sang đến Canada, Úc, Nhật, châu Âu, thậm chí có trường hợp “xù show” vì nhiều lý do. Nhiều phòng trà lớn vẫn là nơi đón nhận những tài năng ca nhạc. Ca sĩ hải ngoại muốn hát nhạc gì thì hát, phần nhiều là những bài nhạc tình, nhạc lính cũ của ngày xưa. Sự thắng thế của nhạc Miền Nam ở toàn cõi Việt Nam ngày nay đang là một vấn đề xốn nhức của ngành văn hóa cộng sản. Công chúng thích nghe nhạc Miền Nam, thường được biết là Nhạc Vàng, thậm chí thế hệ trẻ ở Miền Bắc cũng nghe và nghêu ngao hát Nhạc Vàng. Những người về nước cho biết, hiện nay ở bất cứ đâu, ở những nơi công cộng, hàng quán, tiệm cà phê, trên xe đò liên tỉnh, người ta mở nhạc Miền Nam công khai, luôn cả nhạc lính của Trần Thiện Thanh. Thời gian là một sàng lọc và là một bằng chứng hùng hồn nhất trả lời cho câu hỏi Ai Thắng Ai trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật và cả trong nhiều lĩnh vực khác nữa. Anh khoe anh giỏi anh tài, thì anh cứ bảo bọn nhạc nô đặt nhạc cho nó hay hay lên, âm điệu bổng trầm du dương nhiều vào, lời nhạc trau chuốt lên như những vầng thơ, như những áng văn thêu hoa dệt gấm đi, thì công chúng sẽ lắng nghe nhạc của các anh. Anh mà làm được như thế thì chúng tôi xin tình nguyện đi bằng hai tay cho anh coi.

Trong chiều hướng gọi là phi chính trị đó, những nghệ sĩ không hay ít có những hoạt động ca hát chống cộng như Kim Anh, Carol Kim được cho về nước. Kim Anh đi vào lòng khán giả hải ngoại với những bản tình ca lãng mạn Trung Hoa, đặc biệt tên nàng gắn liền với Mùa Thu Lá Bay. Carol Kim, một ca sĩ nhạc tình cảm kiêm nhạc kích động quen thuộc của thập niên 1960, 1970, một cái tên cùng thời với những Phương Tâm, Mai Lệ Huyền trong thể loại nhạc vui và kích động. Liệu nàng có sánh nổi với những ca sĩ trẻ hơ hớ trong cùng dạng nhạc này ở trong nước hay không, hoặc nàng sẽ chỉ tìm về với những bài tình ca nhẹ nhàng? Những cái tên quen thuộc như Phương Dung, Trang Thanh Lan, Phương Hồng Ngọc và cả nhạc sĩ Từ Công Phụng đang chờ đợi sự “duyệt xét” của những tòa đại sứ Việt cộng ở Hoa Kỳ và đang xin giấy phép hoạt động từ Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn ở Việt Nam. Ðây là một nguồn tin do các thợ viết vẹm tung ra trên các diễn đàn internet trong bản tin nhạc Việt, mức độ khả tín còn đang trong vòng được nghiên cứu và phối... kiểm. Tuy nhiên, đối với Phương Dung nếu quả đúng như thế thì có phiền phức đấy, vì nàng chuyên hát nhạc lính Việt Nam Cộng Hòa, nàng rất hãnh diện khoe cái thành tích ấy mỗi lần lên sân khấu. Cho về bên nớ, có lẽ vẹm nên buộc nàng hát những nhạc “bộ đội”, đại khái như Cô Gái Sài Gòn Ði Tải Ðạn, Tiếng Chày Trên Sóc Bombo bụp bùm bum, ô hô, nên chăng. Các ông bà bầu show ở Việt Nam đang khuyên những nghệ sĩ lỡ vướng vào chuyện chính trị hãy sớm làm đơn giải trình cho ngành văn hóa, thì vẫn được vẹm cứu xét cho về Việt Nam theo nguyện vọng. Nói giải trình cho nhẹ một chút, chứ tình thực nó ở dạng những tờ tự thú trước bình minh, rằng chúng em lỡ dại, mong quý anh tha cho, chúng em xin cắn cỏ ngậm vành.

Thế hệ nghệ sĩ sau thời điểm 1975 mà đã thành danh ở hải ngoại nhờ vào lòng thương mến của công chúng như Hoài Linh, Mạnh Ðình, Gia Huy, Phi Nhung, Thành Lễ, Nhật Hạ cũng đã về Việt Nam trong nhiều năm qua. Rồi đây, có lẽ cái danh sách những con vẹt về nước hót sẽ được bổ sung thêm, tuy không nhiều. Với những người nghệ sĩ đã quay lưng lại với chính cái nhãn hiệu tị nạn chính trị của mình để khoác lên chiếc mặt nạ che giấu cảm xúc thật của họ trước cặp mắt cú diều của vẹm cộng, từ giây phút ấy tiếng hát của họ đã trở nên những âm thanh vô hồn. Cứ mỗi lần nhìn tất cả những con người đó hát trên sân khấu, dẫu là loại nhạc gì, tình ca hay tình lính, hẳn công chúng sẽ không còn tìm thấy được cảm xúc thật của mình hòa theo cùng được nữa. Bởi những tiếng hát ấy không xuất phát từ con tim thổn thức của mình mà chỉ là những chiếc máy hát, những chiếc máy có những cái khe để người ta bỏ những đồng tiền vào.

Ðối với những người nghệ sĩ Việt Nam chân chính ở hải ngoại mà cho đến thời điểm này vẫn còn khẳng khái ấp ủ tấm lòng son với chính nghĩa quốc gia, gìn giữ những giá trị nhân bản và truyền thống văn hóa của dân tộc, vẫn giữ lòng cương cường không chịu khuất phục trước bạo quyền Hà Nội, chúng ta xin được nghiêng mình cúi đầu giở nón trân trọng bày tỏ sự kính phục và yêu mến. Những tiếng hát này mới là những sợi dây tơ rung lên những cảm xúc thực sự, và chính là những giọng hát vượt không gian và thời gian.

Phạm Phong Dinh

Nhân Quyền Và Độc Tài Toàn Trị Không Thể Cùng Tồn Tại


Lý Đại Nguyên

Giáo dân cầu nguyện tại Thái Hà
Cuộc tranh đòi lại nhà đất thuộc Dòng Chúa Cứu Thế của Giáo Dân xứ Thái Hà với nhà cầm quyền Hà nội mỗi lúc một thêm trầm trọng, mà không lối thoát. Bên giáo dân thì căn cứ vào số nhà đất của Dòng Chúa Cứu Thế vốn thuộc quyền Tư Hữu hợp pháp, mà mình đã thủ đắc trước khi có cái chế độ Việt cộng độc tài tham nhũng hiện nay. Nên việc đòi lại đất bị mất là hợp tình, hợp lý. Còn Việt cộng thì nhân danh chế độ Công Hữu, do đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, dân làm chủ (hờ) để tịch thu nhà đất của nhà thờ, nhà chùa, hay bất cứ của công dân nào, rồi tùy tiện phân phối cho những đối tượng mà đảng cho là được quyền xử dụng, hay bán cho ngoại nhân, hoặc chia nhau hưởng lợi thì cũng là hợp pháp đối với họ. Vì đảng quyết định là luật rồi. Cũng giống như thời Phong Kiến "ý Vua là ý Trời". Lệnh Vua là công lý. Chính vì vậy, mới có cảnh Dân Oan đi khiếu kiện suốt cả đời mà không được giải quyết. Trường hợp của giáo xứ Thái Hà cũng không ngoại lệ.

Thế nhưng với cuộc đấu tranh quyết liệt đòi công lý hiện nay của Giáo Dân Thiên Chúa trong Giáo Phận ở ngay Thủ Đô Hà nội, trước sự chứng kiến của con mắt quốc tế, nhất là dư luận Hoa kỳ và thế giới đang đòi Việt cộng phải Tôn Trọng Nhân Quyền, Tự Do Tôn Giáo, Dân Chủ Hoá chế độ để đưa kinh tế Việt Nam thoát khỏi cảnh suy thoái trầm trọng, do di lụy của thứ kinh tế Thị Trường theo Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa chết tiệt hiện nay tạo ra. Đây không còn là cảnh Dân Oan khiếu kiện bình thường nữa, mà là một tập thể Tôn Giáo có tổ chức, quyết liệt đấu tranh, chỉ cần Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, tự thắng được chính mình, nhận trách nhiệm, cùng với Dân Oan, cùng với các Giáo Hội đòi thay đổi Chế Độ Công Hữu thành Chế Độ Tư Hữu, thì mới mở được lối thoát cho Việt Nam. Như Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã theo đuổi suốt 33 năm nay.

Sau ngày chính thức tiếp nhận quyền lãnh đạo tối cao Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống, kiêm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN đã công bố Bản Tuyên Cáo của Hội Đồng Lưỡng Viện về Nhân Quyền cho Người Sống, Linh Quyền cho Người Chết và Dân Chủ cho Xã Hội. Với nhận định:

"Ngày nay, tổ quốc đang lâm nguy vì nạn xâm lấn đất và biển cùa ngoại bang, mà 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là nỗi đau nhức nhối. Trong khi ấy chính quyền tại vị nhu nhược nếu không nói là đồng lõa. Nên GHPGVNTN kêu gọi toàn dân trong và ngoài nước mau chóng kết thành một khối để bảo vệ non sông và nòi giống ...".

Đòi nhà nước Việt cộng phải:

"1. Thay đổi chính sách thù nghịch tôn giáo đối với các tôn giáo tại Việt Nam, thể hiện bằng sự công nhận sinh hoạt độc lập và phi chính trị của các tôn giáo, phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo Hôi Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và các tôn giáo chưa được thừa nhận...";

"2. Áp dụng triệt để Công Ước Quốc Tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị, mà Việt Nam tham gia ký kết tại LHQ năm 1982, và tiêu chuẩn hóa pháp luật Việt Nam theo Công Ước Quốc Tế về Nhân Quyên, Tự Do, Dân Chủ của LHQ";

"3. Loại bỏ điều 4 Hiến Pháp tạo điều kiện cho sự tham gia cứu quốc và kiến quốc của toàn dân, của mọi thành phần dân tộc, mọi gia đình, tôn giáo và chính trị";

"4. Triệu tập Hội Nghị Toàn Dân, bao gồm các tôn giáo và đảng phái dân tộc ra đời từ đầu thế kỷ XX cho đến nay, khai mở cuộc hóa giải các tranh chấp, hận thù nẩy sinh từ những ý thức hệ ngoại lai gây nên tấm thảm kịch bản địa suốt sáu mươi năm chưa dứt, hầu đặt cơ sở cho việc trao quyền lãnh đạo cho toàn dân trong một thể chế dân chủ tam quyền phân lập và đa đảng ..."

Bản Tuyên Cáo của Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN nói lên ý nguyện thiết tha của toàn dân Việt Nam, ở trong và ngoài nước. Đúng với nhu cầu Dân Chủ Hóa chế độ, đòi Cộng đảng phải trả lại quyền tự chủ xây dựng, phát triền xã hội, kinh tế, và tham gia chính trị cho toàn dân. Nhằm giành lại chủ quyền cho Dân Tộc trên trường quốc tế, để Quốc Dân Việt Nam chủ động hội nhập với tiến trình Toàn Cầu Hóa, mà vẫn duy trì được bản sắc Văn Hóa Dân Tộc trong thời đại Nhân Chủ Nhân Văn Toàn Thế Giới. Cụ thể bước đầu là Việt Nam phải bỏ điều 4 Hiến Pháp của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, mà Cộng đảng đã ngang nhiên cướp quyền lãnh đạo của toàn dân, để đứng trên Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp, mà tùy tiện điều hành quốc gia. Từ đó đại biểu chính thức của toàn dân viết ra bản Hiến Pháp Dân Chủ thực sự làm "mẹ" cho luật pháp quốc gia để đưa ra Trưng Cầu Dân Ý. Thay cho bản Hiến Pháp lạc hậu phi dân chủ hiện hành, cho phép dùng luật tùy tiện của Cộng đảng, để giới hạn quyền tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do lập hội hiến định của người dân. Cộng đảng đã biến hiến pháp và luật pháp của chúng thành công cụ thiết lập chế độ độc đảng, độc tài, toàn trị tại Việt Nam. Thế nên trong chế độ độc đảng, độc tài toàn trị này không có chỗ đứng của Nhân Quyền, cho dù toàn dân, cả thế giới và người bạn lớn mới của Việt cộng là chính phủ Hoa kỳ có đòi hỏi cách mấy thì Việt cộng vẫn cứ ì ra đó.

Nhưng cũng may, Hoa kỳ là nước Dân Chủ trọng pháp. Để cụ thể hóa vấn đề Nhân Quyền, nhất là đối với những nước hậu Cộng sản vô tôn giáo. Quốc Hội Hoa kỳ 1998 đã biểu quyết thành Đạo Luật Tự Do Tôn Giáo Thế Giới. Từ đó chính phủ Mỹ lấy vấn đề Tự Do Tôn Giáo làm chính sách ngoại giao của mình. Quốc Hội Mỹ cho thành lập Ủy Ban Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế, để theo rõi chính sách ngoại giao tôn giáo của chính phủ. Việc chính phủ Mỹ đã đặt Việt Nam vào trong danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt - CPC - theo các khoản đề ra trong đạo luật về tự do tôn giáo quốc tế. Nhưng vì nhu cầu nhập nội Việt Nam, năm 2006, Chính quyền Bush đã rút tên Việt Nam ra khỏi danh sách "phong ác thần" đó, để Mỹ giúp cho Việt Nam được gia nhập WTO, với hy vọng Việt cộng biết điều hơn về Tự Do Tôn Giáo ở Việt Nam. Nhưng chứng nào tật ấy. Sau khi được vào WTO, và tiếp TT Bush tại Hà nội, Việt cộng lại thẳng tay đàn áp tôn giáo và tiêu diệt nhân quyền. Nên "Ủy Ban Hoa Kỳ đặc trách vấn đề Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế - USCIRF - hôm thứ Hai, 25-08-2008 đã công bố một phúc trình có tựa đề "Trọng Điểm Chính Sách về Việt Nam", ghi nhận những sự kiện Ủy Ban tìm hiểu được trong chuyến đi thăm Việt Nam năm 2007, đồng thời nêu rõ những hành động gây phiền nhiễu, bắt giữ và tù đầy được chính phủ (VN) bảo trợ, nhằm vào cá nhân và lãnh tụ các cộng đồng tôn giáo khác biệt trong nước". Nên, "Ủy Ban kêu gọi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đặt Việt Nam trở lại vào danh sách các quốc gia đáng quan tâm đặt biệt" - CPC - Trong khi đó Dự Luật Nhân Quyền cho Việt Nam hy vọng sẽ được Thượng Viện Hoa Kỳ thông qua thành Luật vào đầu tháng 09-2008 này. Đạo luật này là một áp lực mạnh đối với Việt cộng. Theo ông Đại Sứ Mỹ tại Hà nội, Michael Michalak thì:"Hoa kỳ cũng sẵn sàng giúp đỡ kỹ thuật cho Quốc Hội Việt Nam, và sẽ tiếp tục các cuộc đối thoại và tham khảo ý kiến công khai với Việt Nam để bảo đảm quyền tự do phát biểu tư tưởng, tự do tôn giáo và tự do báo chí, đồng thời cải thiện tình trạng trong sáng, để có thể chống tệ nạn tham nhũng trong nước một cách tốt đẹp hơn". Xem thế Hoa kỳ cả Lập Pháp lẫn Hành Pháp cũng nhìn rõ chế độ độc tài tham nhũng toàn trị của Việt cộng không thể cùng tồn tại trước nhu cầu nhân quyền của toàn dân và toàn cầu.

Lý Đại Nguyên

Friday, September 5, 2008

Đóm lửa quê hương


Phan Thiết Phạm Đình Thừa

Nửa đời trước, tôi là lính - một mẫu lính đúng nghĩa gian lao và khổ hạnh. Hầu như suốt hành trình 13 năm, đôi chân bé nhỏ chỉ xử dụng để đo từng tấc đất quê hương. Cũng chính ân sủng này đã cho tôi cơ hội thấy rõ quê hương mình. Hoàng hôn khuất bóng, rút quân về muộn, giữa cánh đồng ngập nước bao la vùng đồng bằng sông Cửu Long, ánh đèn lưa thưa nhạt nhòa trong màn mưa trên Quốc lộ 4 đã trở thành tín hiệu của niềm hạnh phúc hồi sinh -qua hết một ngày chưa ngã xuống. Nửa khuya di quân, sâu trong thôn bản dọc đường 14, giữa núi rừng Cao Nguyên, đóm lửa mờ tỏ của căn nhà sàn tít mù thăm thẳm phía trước như mục tiêu của sự sống giữa trùng trùng nỗi chết không rời. Trên dãy Trường Sơn bạt ngàn cây rừng Lâm Đồng, hàng đèn Sông Mao phía Đông, nơi có biển xanh và chốn chào đời, đã trở thành động lực tự tồn Đóm lửa quê hương, một nhiệm mầu trong niềm hạnh phúc nhỏ nhoi.

Nửa đời sau, lái xe xuyên bang nước Mỹ, đêm vượt đèo, dãy núi hùng vĩ đen thẩm, sừng sửng nổi bật giữa bầu trời trong vắt đầy ánh sao và thấp thoáng ánh đèn xa xa, tưởng như đang đi vào vùng giông bão quê hương ngày cũ. Nghe như có tiếng quân reo, có tiếng đạn bay và trong một thoáng, ánh đèn khuya đất khách bỗng trở thành trìu mến như đóm lửa quê nhà!

Đã hơn 31 năm biệt xứ, chưa một lần thấy lại đóm lửa quê xưa! Đây là bi kịch của đời sống (cá nhân tôi) và trên phương diện «luật người», đó là bản án do chính tòa án lương tâm tôi phán quyết. Bởi vì, không tòa án nào của bất kỳ một thể chế cai trị nào áp đặt được nó lên thân phận người lính còn cố giữ lại điểm liêm sỉ cuối đời. Thời gian với khả năng bồi đắp và đào thải cao độ đã nung nấu ý chí bao người nhưng cùng lúc, cũng thiêu rụi hết nhiệt tình nóng bỏng thuở ra đi -đóm lửa quê hương tắt lịm tự bao giờ, chỉ hằn đọng trong mắt «đóm lửa quê người»!

«Đèn nhà ai hay đóm lửa quê người»

Câu hát này, tôi bất chợt đọc được từ bài viết của nhà văn Giao Chỉ, quan sáu Vũ Văn Lộc: «Này em, anh sẽ về bên kia biên giới. Đèn nhà ai hay đóm lửa quê người.» Bài viết với tựa «Đóm Lửa Quê Người» (ĐLQN) giới thiệu quyển hồi ký «Hành Trình Người Đi Cứu Nước» (HTNĐCN) của tác giả, kháng chiến quân Phạm Hoàng Tùng trong đoàn quân Đông Tiến của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh (MT). Tôi cũng đã có mặt ở cuối gian phòng ra mắt sách tại San José ngày 30 tháng 9 năm 2006 để nhận ra có cái gì đó thiêu thiếu trong lời giới thiệu người và sách của nhà văn Giao Chỉ, trước con số khoảng hai trăm người tham dự. Lời giới thiệu quá ngắn (và có vẻ như hết dầu, thiếu lửa?) so với bài viết được phổ biến trước đó:

«Với tấm lòng chân thành muốn tìm hiểu lịch sử trong đời sống hiện tại, tôi xin giới thiệu tác phẩm giá trị này đến qúy độc giả.»

Và:

«Anh đã dâng hiến tất cả tương lai, hy vọng và tuổi thanh niên cho lý tưởng. Anh đã tìm thấy ở Kháng Chiến cả mộng lẫn thực. Bình tĩnh và công bình, tác giả ghi lại những đau thương dằn vặt của từng chiến binh và người lãnh đạo không phải bằng lời nói mà bằng các hành động.» (trích từ bài viết ĐLQN của Giao Chỉ)

Những câu tán tụng vừa nêu đã mất dấu trong lời phát biểu trước người tham dự. Chỉ có lời cảnh báo cử tọa, đại khái: «Tác phẩm là một loại dầu thô chưa gạn lọc, độc gỉả phải đóng vai chiếc máy lọc dầu». Nếu đã bình tĩnh viết lại (như ông Vũ Văn Lộc trong bài viết) và trung thực (theo ông Đỗ Thông Minh trong buổi ra mắt sách) thì người đọc không phải vất vả -hao dầu, tốn xăng- làm công việc của một «máy lọc». Tôi đã đọc HTNĐCN và đã là lính đánh giặc, tôi xin được nói lên lời cảm thông sâu xa với tác giả. Tuy nhiên, bài viết này không mang tính chất phê bình tác phẩm, cũng không mang tham vọng thêm vào mớ nhận định về Mặt Trận vốn đã quá dài và cũng quá lâu từ phía đồng bào ta tại hải ngoại. Đối với một số quý vị mà tâm tình còn trĩu nặng với nước non, Mặt Trận đã trở thành vết thương lòng lâu lâu rỉ máu. Người viết xin được nghiêng mình chia xẻ và chỉ muốn nói lên đôi điều suy nghĩ với người «lính» Vũ Văn Lộc và nhà văn Giao Chỉ.

Qua bài viết ĐLQN, với những đoạn tổng kết về các chiến dịch Đông Tiến của Mặt Trận, người đọc thấy được điều ông Vũ Văn Lộc muốn nêu lên: Thất Bại! -"Một lần Đông Tiến là một lần thương vong.", cùng với nhận định hành quân của một sĩ quan cao cấp thuộc QLVNCH:

«Trận chiến hoàn toàn không cân xứng. Đi vào đất địch với quân số ít ỏi. Không có phương tiện liên lạc. Địch không đánh quân ta cũng chết đói, chết khát. Địch tấn công với quân số gấp 10 lần. Quân ta chết là may mắn, bị thương là không có phương tiện cứu chữa.»

Và:

«Đi như thế không bị địch đánh thì cũng chết. Dù về đến đất Kontum thì cũng không thể mở được đầu cầu. Cho dù mở được đầu cầu thì làm gì có đại binh theo sau.»

Kết quả thất bại của những lần Đông Tiến nói lên một điều nghịch lý trong suy luận chiến thuật và đã đặt ra câu hỏi không những cho quan sáu Lộc mà còn cho nhiều người từ nhiều năm nay. Câu hỏi đã được trả lời theo lập luận và góc nhìn khác nhau. Riêng ông Vũ Văn Lộc đã tự vấn rồi đưa ra câu trả lời: «Những cuộc hành quân gian khổ, điên cuồng như thế mang ý nghĩa gì? Ông Minh rõ ràng chỉ muốn tìm về chết tại quê hương.»

Trên phương diện «người lính», đây là điều người viết muốn đề cập. Ông Hoàng Cơ Minh có thể «chỉ muốn tìm về chết tại quê hương» như ông Vũ Văn Lộc cho là vậy; thế nhưng, ngoài ông Hoàng Cơ Minh, trong đoàn quân Động Tiến, còn có những cấp chỉ huy dạn dày chiến trận, những người không chỉ cúi đầu nhận lệnh và dĩ nhiên họ không bao giờ mang ước vọng của Bàng Hồng (đời Tam Quốc mang hòm ra trận) để chỉ được chết trên quê hương. Vả chăng, bảng hiệu của phong trào Hoàng Cơ Minh là «Mặt Trận Giải Phóng Quốc Gia» chứ không phải «Mặt Trận Tìm Chết Trên Quê Hương». Vậy thì, phải chăng đã có một thỏa ước, một đầu cầu bảo đảm khả dĩ an toàn cho một quân số ít ỏi kia?

Sự bảo đảm cho các hoạt động trên đất Thái nhằm vào mục tiêu giải phóng quê hương của cá nhân, tổ chức người Việt vào thập niên 80, tất cả đều đặt vào các thỏa ước bằng mồm với những lãnh chúa Thái (tư lệnh quân khu) thời bấy giờ. Các thỏa ước này chỉ được thực hiện sau khi một khoản tiền thuê đất hằng năm đã nạp đủ. Lãnh cứ to, nhỏ tùy theo mức độ dày mỏng của đô la. Trong các căn cứ «phục quốc» tại biên thùy Thái-Lào-Miên, căn cứ của Mặt Trận được xem là bề thế và to rộng hơn tất cả các căn cứ khác. Điều này không lạ vì quỹ của Mặt Trận trong thời gian này đã rất dồi dào. Sứ mệnh thiêng liêng và cao cả, «quang phục quê hương» (nếu may mắn được quan niệm như vậy), rõ ràng đã đặt căn bản trên những thỏa ước thuê muớn không bảo chứng và vào tay bọn tướng tá đầy tham vọng tiền bạc của vương quốc Thái! Sinh mệnh của những người trẻ muốn quay về nhìn thấy lại đóm lửa quê hương tự do bùng cháy trong an bình như ông Phạm Hoàng Tùng (thời ấy) dĩ nhiên như ngọn đèn trước gió, được đặt vào canh phé tẩy xấc sắp tàn. Vào những năm của thập niên 80, lo sợ trước thực tế bị xâm lăng như Kampuchia, Thái Lan đã cố gắng bằng mọi phương cách ngăn chận bước Tây tiến của đoàn quân viễn chinh cộng sản Việt Nam. Chính vì vậy, chính quyền Thái đã làm ngơ trước thủ đoạn hối lộ của các tư lệnh vùng, bởi vì các căn cứ biên thùy của người Việt đã trở thành những con chốt, những tiền đồn, điểm báo động, một loại «nhất kiếm trấn ải» mà Thái lan không phải tốn tiền bạc và công sức xây dựng! Trên phương diện ngoại giao, sự hiện diện của các tổ chức «phục quốc» người Việt đã trở thành món hàng mặc cả đáng giá. Trong cuộc mặc cả, ai ngã giá cao hơn, kẻ ấy sẽ mua được món hàng. Dù tiền bạc của người hải ngoại đổ vào công cuộc «giải phóng» của Mặt Trận dồi dào đến đâu, chắc chắn cũng không qua được số ngân lượng mà cộng sản Việt nam chi ra, Thêm vào đó, cũng không thể bỏ qua yếu tố về một cam kết tôn trọng chủ quyền lãnh thổ giữaThái Lan và Việt cộng. Hậu quả bi thảm đã đến qua các cuộc «tế thần» bằng xương máu của người mang ước vọng giải phóng quê hương khỏi xiềng xích đỏ. Việc gì phải đến đã đến cho những cuộc hành quân Động Tiến. Khi sự an toàn củaThái Lan được bảo đảm thì những tiền đồn «phục quốc» không còn lý do tồn tại. Giữa thập niên 90, các căn cứ lớn nhỏ của người Việt trên đất Thái đã biến dạng trong âm thầm, không kèn, không trống, không truyền thanh, truyền hình như lúc khai trương!

Ngoài tác động ngoại tại cũng phải kể đến những chuyển biến nội tại (trên phương diện điều hành, quản trị, và quan niệm) trong tổ chức của Mặt Trận. Hiện tại, chiến trường khét lẹt mùi thuốc súng của các năm Đông Tiến đã được thay bằng «khẩu» trường đầy tranh cãi sôi sục nước bọt với một tên mới: Việt Tân.

Đưa ra những nhận xét thô thiển vừa nêu, người viết muốn nói đến sự bào chữa tiêu cực của một sĩ quan đã từng đảm trách những vai trò quan trọng cỡ «pathfinder»:

«Hơn 20 năm trước, Giao Chỉ đã bày tỏ sự ngưỡng mộ với Võ Đại Tôn, Trân Văn Bá và Hoàng Cơ Minh. Thân hữu nói rằng, ông quá cả tin nên dễ bị lừa. Đã xin thưa rằng, tôi muốn ngày nào cũng có người đến lừa tôi về chuyện xây dựng lại non sông.

Hai mươi năm sau, thân hữu lại nói rằng, ông đã yêu lầm tướng cướp. Bèn trả lời rằng: Tình yêu vốn mù quáng. Bây giờ đã già rồi, không thể thay đổi được nữa. Đành xin chịu mù loà để giữ lấy tình yêu.»
(ĐLQN)

Tôi không nghĩ rằng khả năng và suy luận quân sự của quan sáu Vũ Văn Lộc đã cạn láng sau cuộc đổi đời bi thảm. Cũng không tin, kiến thức và chữ nghĩa ông Vũ Văn Lộc đã trả lại cho thầy, cho những lớp Tham mưu Trung cấp và Cao cấp để không còn có thể gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh thân hữu mình, đồng đội và đồng bào mình về thủ đoạn bịp bợm của đám con buôn trên mồ hôi, nước mắt và máu xương, thậm chí ngay cả ước vọng thiêng liêng của người khác?

Nếu không đúng vậy, trên phương diện là người lính cấp cao, ông Vũ Văn Lộc đã phạm vào tội đồng lõa (vô tình hay cố ý) qua mớ ngôn từ kêu-gọi-nước-mắt xót thương nêu trên. Niềm tin (rất) mãnh liệt của đồng bào hải ngoại về một ngày quang phục quê hương, sau khi bỏ nước ra đi vào tháng 4 năm 75, đã bị phá sản vì tổ chức của ông Hoàng Cơ Minh - một hệ lụy thê thảm mà bất cứ ai cũng nhận rõ. Nhóm từ «giải phóng đất nước», «quang phục quê hương» có lúc được người ta đem ra chế diễu, nguyền rủa - bởi vì đâu?! Đành rằng, bất cứ hy sinh nào trên lối về quê hương để mưu tìm sự giải thoát dân tộc khỏi móng vuốt bầy quỷ đỏ cũng đều phải được tôn kính và ngưỡng mộ như trường hợp của vị tướng can đảm, ông Hoàng Cơ Minh. Thế nhưng điều cần nói lên là nguyên nhân sâu xa dẫn đến cái chết này vẫn là sự sai lầm nghiêm trọng về chiến lược từ tổ chức do chính ông tạo ra. Đây là sự kiện cần được những người lính có tầm cỡ như ông Vũ Văn Lộc phân tích để cảnh báo cùng đồng bào hải ngoại. Chẳng những đã không làm vậy, ông Lộc lại bước xuống, đóng vai người lính đa đoan, đóng đồn xa «nếu mai không nở, anh không biết Xuân về hay chưa» qua mớ mỵ ngữ tình cảm! «Non sông dễ đổi, bản tính khó chừa», 20 năm trước hay 20 năm sau, người lính Vũ Văn Lộc vẫn không bao giờ thay đổi trong niềm hãnh diện mãnh liệt về công tác hiếm hoi «pathfinder» vào những ngày gần cuối cuộc chiến.

Điểm quan trọng nhất của toàn bài viết nằm trong quan niệm về đấu tranh của ông Vũ Văn Lộc:

«Trong công cuộc đấu tranh cho Việt nam bây giờ và sau này. Dù bằng chính trị hay bằng những phương thức khác. Dù giải phóng rồi canh tân hay dù canh tân rồi giải phóng. Dù đúng hướng chính thống hay chệch hướng hòa giải thì điều quan trọng là phải tồn tại. Bất cứ với giải pháp nào ta không thể cứu nước nếu ta không tồn tại và tiếp tục hoạt động.» (ĐLQN)

Đoạn văn vừa trích gợi cho người viết nhớ lại câu nói của cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: Làm chính trị là phải lì. Qua chủ từ «ta», ông Vũ Văn Lộc nêu lên lời nhắn nhủ và dạy dỗ những phong trào, tổ chức đấu tranh với cộng sản Việt Nam: phải lì, phải bất chấp mọi thủ đoạn, gạt qua một bên ước nguyện của những người mà mình vỗ ngực đại diện -phải tồn tại dù bị nguyền rủa, tẩy chay! Phải chăng để giải phóng cái giải rút, mớ gia sản cuối cùng còn sót lại của người đàn bà cùng đinh đói lạnh nằm co ro qua đêm Đông miền Bắc, trong công viên Mai Xuân Thưởng? Một tổ chức gọi là đấu tranh chống cộng lại đi ngược chủ trương khởi xướng ban đầu, bất chấp nguyện vọng của bao người thì sự tồn tại có còn cần thiết không và phải được hình dung như thế nào đây? Đó chẳng qua chỉ là tập họp một đám sơn đông mãi võ, trưng đầu Dê bán thịt Chó. Một tổ chức đấu tranh, với trường hợp Việt Nam hiện tại, lại đi bắt tay với cộng sản để canh tân, rồi giải phóng thì giải phóng kí gì đây Đại tá Vũ Văn Lộc?«Chệch hướng hòa giải» -đã mặc nhiên thừa nhận việc hòa giải với khỉ là chệch hướng thì tại sao không điều chỉnh để đi vào «hướng chính thống» trước khi nghĩ đến việc cố bám để tồn tại? Đây lại là một điểm nghịch lý mà chỉ có những kẻ muối mặt, khư khư với quyền lợi và tham vọng cá nhân mới đủ can đảm thực hiện. Bài học hòa giải với cộng sản dẫy đầy trong lịch sử đấu tranh Quốc, Cộng và hiển hiện trước mắt là hậu quả thê thảm đến với một số người, vì tham lam mà trở thành cô bé choàng khăn đỏ, ngây thơ đi vào miệng sói, trong những năm qua. Phải chăng Đại tá Vũ Văn Lộc đã đánh giá quá thấp trình độ hiểu biết của người Việt hải ngoại khi lên giọng «quân sư» kêu gọi kéo dài sự lường gạt?

Trong lãnh vực báo chí, truyền thông Mỹ có câu: We Report, You Decide - Chúng tôi tường trình, Quý vị quyết định (kết luận). Đây cũng là câu nói cần được xét lại. Bởi vì, chúng tôi «report» nhưng chỉ «report» những điều chúng tôi muốn «report». Những điều chúng tôi không muốn «report» dầu là sự thật sờ sờ trước mắt đi nữa, chúng tôi vẫn không «report». Trường hợp này đã xảy ra trong chiến tranh Việt Nam với đạo quân báo chí hùng hậu của thế giới. Điển hình nhất là bức ảnh Tướng Nguyễn Ngọc Loan xử quyết thằng du kích sát nhân. Tướng Loan nửa đời, nửa đoạn vì bức hình này. Tên nhiếp ảnh viên Adams, đến phút cuối đời, mới thốt lên lời xám hối muộn màng: hình ảnh chỉ là một phần của sự thật. Một phần sự thật không phải là sự thật!

Trên phương diện văn học, xã hội Việt Nam, từ rất lâu, đã dành cho người cầm viết một vị trí thật tôn quý vì họ được quan niệm như lớp người góp phần vào sứ nhiệm khai phóng trí tuệ quần chúng - (Văn Dĩ Tải Đạo). Đáp lại, người cầm viết phải có dũng khí để nói lên sự thật và cùng lúc hướng dẫn dư luận bước đi trong dòng «chính thống» về nẻo Chân, Thiện, Mỹ - cứu cánh của văn chương và nghệ thuật. Dĩ nhiên đòi hỏi này trở thành quá khó khăn đối với kẻ dùng chữ nghĩa để đat ïtham vọng bất chính hay chỉ để thỏa mãn cái hứng khởi nhất thời của chính mình.

Hai điểm vừa nêu, người viết chỉ muốn ghi lại như một nhắc nhở cho nhà văn Giao Chỉ trong buổi hoàng hôn của cuộc đời như ông đã tự thán: «Bây giờ đã già rồi, không thể thay đổi được nữa.»

Không biết nhà văn có thành thật khi đặt bút viết: «Đã xin thưa rằng, tôi muốn ngày nào cũng có người đến lừa tôi về chuyện xây dựng lại non sông.» Bởi vì, mong ngày nào cũng có người đến nhà lừa gạt thì còn làm ăn được gì? Đọc giữa mớ chữ, câu hỏi dấy lên, tại sao không là «tôi muốn ngày nào cũng bị lừa về chuyện xây dựng lại non sông» mà phải là «cũng có người đến lừa tôi về chuyện xây dựng lại non sông»? Tôi lại lan man nhớ đến câu chuyện cá nhân gần hai thập niên trước. Tôi đến gõ cửa nhà người bạn để xin yểm trợ cho các hoạt động tại một quốc gia ngoài Hoa Kỳ (và cũng trong ước vọng quang phục quê hương) của một tổ chức mà tôi và bạn đã xuất thân đi vào cuộc chiến. Bạn đưa tôi 5 tì, trong một bữa nhậu có rượu ngon và đồ nhắm tốt. Hôm sau gặp người bạn khác, ông này cho hay người bạn «bị» quyên góp đã dùng Đức Mã để than phiền rằng, bỏ ra 5 tì cho lương tâm khỏi cắn rứt! Không biết trường hợp này có gần xa trùng hợp với câu văn của nhà văn Giao Chỉ không nhỉ?

Cũng xin được lưu ý, ông Giao Chỉ chỉ muốn bị lừa hằng ngày «về việc xây dựng lại non sông» chứ không phải để đánh bật 3 thằng Việt cộng thổi ống đu đủ ra khỏi quê hương. Trộm chưa bị rượt khỏi nhà, giặc chưa bị đuổi khỏi nước thì việc «xây dựng lại non sông» là hành động đầu hàng nhục nhã mà bất kỳ người nào đã từng cầm súng và còn liêm sĩ không bao giờ có thể chấp nhận. Phải chăng vì vậy mà Chú Nguyễn Hữu Chánh không «lừa» được Đại tá Vũ Văn Lộc? Chú Chánh -ghê bỏ mẹ- cứ ồn ào loa những vụ đặt chất nổ tùm lum tại Việt Nam, không cách chi chiếm được tình yêu (dầu mù lòa) của nhà văn Giao Chỉ: Đành chịu mù lòa để giữ lấy tình yêu.

Với cách nhìn và lối suy luận như vậy của một nhà văn, một cựu sĩ quan cao cấp của quân lực miền Nam, ước vọng nhìn lại đóm lửa quê hương thân yêu của tôi chắc còn khá lâu mới trở thành hiện thực. Vậy thì, chỉ còn nhìn đèn nhà ai để thi vị hóa thành đóm lửa quê mình.

Phan Thiết Phạm Đình Thừa

"Độc Hại" của Đại Học Nhân Văn Hải Ngoại


Trương Minh Hòa

"LỜ-LẬP trung tâm, chuyện LẬP LỜ.
ĐẠI HỌC Nhân Văn ĐỘC HẠI cơ!
HỌC ĐÀNG cảnh giác do HÀNG ĐỘC.
DẠNG Ứ bao năm, DỰ ÁN chờ.
HOA VẮNG trong vườn VĂN HÓA tạp.
VƯƠNG CHĂNG đối thoại, VĂN CHƯƠNG mơ.
AN BÀY giáo án, AI BÀI lập?
DẠO THỬ thăm dò DỰ THẢO sơ ..."

Đảng Cộng Sản Việt Nam do Hồ Chí Minh thành lập, lãnh đạo, lúc đầu những tên nầy chỉ có khả năng qui tụ toàn là đám chăn trâu, du thủ du thực, đầu trộm đuôi cướp thành một băng đảng bất lương với "nghiệp chuyên" ám sát, bắt cóc, khủng bố, gây kinh sợ trong dân chúng, nhưng không thể nào "tâm phục" được nhiều người dân đi theo để làm nên chuyện lớn; vì tuyệt đại đa số thành phần nồng cốt toàn là ít hay không học hành gì cả, nên chúng nói ra những mục tiêu cơm áo, mị dân, giải thực bài phong thì chắc chắn là không ai nghe cả. Nhưng với thủ đoạn gian manh, lợi dụng uy tín của giới có học, nhất là giới trí thức được Pháp đào tạo để làm bình phong kêu gọi dân chúng đứng lên "đánh Tây", được nhiều người dân tin tưởng, hưởng ứng, đứng chung trong hàng ngũ Việt Minh; nhưng họ không ngờ là bị lừa, vì đàng sau những người có học, là đám dốt điều khiển, quyết định tất cả. Sau khi thành công thì đám dốt trở mặt, họ không muốn những người có học cao, đáng bậc thầy đứng chung và có thể thay thế điều hành đất nước, đó là chánh sách "vắt chanh bỏ vỏ" nên đảng và Hồ Chí Minh phát động chiến dịch cải cách ruộng đất, tận diệt thành phần "trí, phú, địa, hào", nhiều người từng đóng góp công, của với Cộng Sản cũng bị thanh toán một cách dã man.Nhiều người trí thức khi biết được sự thật thì coi như đã quá trễ.

Sau năm 1954, màn "kịch" cũ lập lại, tại miền Nam Việt Nam, ngoài thành phần đảng viên Cộng Sản dốt cài lại sau hiệp định Geneve, đám chăn trâu, dốt nát ở nông thôn ... dù có đủ "thể lực" để khủng bố, chịu đựng gian khổ trong rừng, nhưng không thể thu phục được nhiều người khác thuộc các giới khoa bảng miền Nam, nên đảng Cộng Sản Bắc Việt dùng những "con hạc gỗ" là đám Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam với luật sư Nguyễn Hữu Thọ, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, luật sư Trương Như Tảng, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa ... sau khi chiếm miền Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, đám tay sai bị giải thể và những kẻ có học lại một lần nữa ôn hận cho đến mãn đời; những bài học xương máu nầy vẫn chưa làm sáng mắt một số khoa bảng hải ngoại, nên có vài kẻ trở về hợp tác theo lời mời gọi của đảng siêu cướp Cộng Sản khi chúng đang lâm vào "thoái trào".

Một điều buồn khôi hài khác là cũng có vài tên trí thức, dù bị gạt, sau đó bỏ cái thiên đàng sang sống ở hải ngoại, nhưng vẫn còn u mê ám chướng cho là: "Hồ Chí Minh yêu nước, làm cách mạng ...", điều nầy chẳng khác nào cho đảng cướp là tàn ác nhưng tên tướng cướp thành lập và lãnh đạo là người tốt vậy. Do đó, ở mọi thời đại, những thằng dốt nát, ít học Cộng Sản thường lợi dụng thành phần "khoa bảng" để trang trí và thu phục nhân tâm, sau khi xong là thanh toán không thương tiếc. Trong một quyển sách có tên là "Thế Nào Là Thi Đua" dịch từ tiếng Nga, do nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, phát hành trước 1975 ở miền Bắc và đem vào phổ biến rộng rải ở miền nam sau 1975, sách ghi những lời nói, hoạt động của Lenin sau cái gọi là "cuộc cách mạng tháng 10 năm 1917" tại nước Nga, trong đó có một câu nói của hắn: "đối với bọn trí thức như bác sĩ, cho chúng đi lau cầu xí, nếu cần bắn bỏ một vài tên làm gương". Đây là bài học mà những người có bằng cấp cao, tốt nghiệp ở hải ngoại, vì nhẹ dạ, ngây thơ, nghe lời đảng Cộng Sản lúc suy yếu, cần lợi dụng uy tín để thu hút tập thể người Việt hải ngoại nhằm giúp đảng giải quyết tình trạng thiếu hụt tài năng, thu thêm tiền và thôn tín luôn một thế lực luôn gây khó khăn cho đảng và nhà nước trên bình diện ngoại giao.

Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam do phó đề đốc Hoàng Cơ Minh phát động, kháng chiến cuội chiến khu dỏm, mục đích tối hậu chỉ thu tiền và lừa đảo lòng yêu nước mọi người dân. Tổ chức nầy đẻ ra một số hội đoàn tay chân như Liên Minh Việt Nam Tự Do, Hội Chuyên Gia … sau nầy giải tán Mặt Trận, thu gọn thành đảng Việt Tân, một số tổ chức giải thể, nhưng cái Hội Chuyên Gia Việt Nam thì vẫn giữ và phát triển, vì đây là một tổ chức nồng cốt, qui tụ những thành phần "khoa bảng" uy tín, đầu tiên thuộc lớp lớn, rồi thu phục trung niên và ngày nay đang " dắt đám khoa bảng trẻ, hậu duệ đi theo tấm bản chỉ đường của Việt Tân"; người Việt hay có thói quen coi những lời nói của những tiến sĩ, bác sĩ, kỷ sư, dược sĩ, nha sĩ ... là có giá trị, có khả năng thu phục, hướng dẫn quần chúng; ngay cả những sư Phật Giáo, khi đậu bằng cấp cao ở Ấn Độ, cũng hay đề học vị như Đại Đức Tiến Sĩ Thích Nhật Từ, nhằm thu hút giới Phật tử hải ngoại qua những bài thuyết pháp, mở đường cho sách lược tôn giáo vận. Chính lý do tâm lý ấy, nên ngày nay đảng Cộng Sản Việt Nam "trí thức hóa" hàng ngũ đảng viên, cán bộ để thu phục lòng tin nhân dân, nên nhiều thằng gốc chăn trâu, du kích, du thủ du thực ... có bằng cử nhân, phó tiến sĩ, tiến sĩ, treo đầy cả nơi làm việc, bằng cấp lạm phát" không người lái" như đồng tiền Hồ, với hàng chục ngàn "tiến sĩ Cầu Muối".

Đảng Cộng Sản thù ghét trí thức, nhưng lại lợi dụng trí thức để xây dựng, phát triển, là điều mà những người có học nên lưu ý, nếu không muốn thân bại danh liệt sau nầy, khi lỡ dại đi theo tập đoàn ăn cướp. Tên quốc tặc Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản hiểu rất rõ tầm vóc quan trọng của sự GIÁO DỤC, nên họ biết cách dùng giáo dục để bảo vệ đảng qua câu nói của Hồ: "Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người" được học ở trường lớp huấn luyện ở Nga từ năm 1923; tuy nhiên lối giáo dục của đảng Cộng Sản khác xa với nền giáo dục các nước dân chủ, kể cả miền Nam Việt Nam trước 1975 nhằm đào tạo nhân tài với mục đích rõ ràng: "ngày nay học tập, ngày mai giúp đời"; trong khi đó, chủ yếu nền giáo dục của người Cộng Sản là nhồi sọ, chớ không phải nâng cao trình độ, mục đích đào tạo ra" thế hệ con vẹt", nói như lãnh tụ, hành động như người máy, đó là những cái loa tuyên truyền cho đảng từ ngoài xã hội đến trong gia đình.

Trong đảng, từ chi bộ đến trung ương, có lối sinh học gọi là "học tập chính trị" được tổ chức thường xuyên với các bài học do trung ương đưa xuống, nghị quyết, học tập những bài tham luận của các tay lãnh đạo đề ra. Những bài học nầy được "thảo luận" và góp ý theo "định hướng xã hội chủ nghĩa" từng nhóm, tổ chức, dưới sự giám sát và "chủ trì" của các tay cán bộ lãnh đạo cấp ủy; đó là con đường một chiều, ai có ý kiến khác thì bị lưu ý và bị trù dập, nên cán bộ từ cấp cơ sơ đến trung ương đều "nói năng như nhau, dùng cùng thứ ngôn ngữ"; cho nên cán bộ Cộng Sản từ Mường Tè đến Mũi Cà Mau đều nói năng như khuôn đút: "đồng thanh tương ứng, đồng khi tương cầu-đồng minh tương ý, đồng chí tương ngôn".

Dùng giáo dục như phương tiện, làm công cụ phục vụ đảng, nên trên đường trốn chui trốn nhủi, Hồ Chí Minh cũng lợi dụng để hoạt động, câu chuyện Hồ trốn sang Thái Lan vào năm 1929, nhờ Hoàng Văn Hoan (tức là HOẠN), lúc đó Hồ lấy tên là Nam Sơn, vì sợ Hồ vớt luôn vợ mình nên Hoan tìm cách đưa Hồ ở nhà một người góa phụ là bà Ky, rồi vớt luôn bà nầy; để che mắt mật thám Pháp và cảnh sát Thái, Hồ Chí Minh bèn bày ra cái chuyện" dạy tiếng Việt" cho dân nhằm bảo tồn văn hóa dân tộc. Nhờ uy tín của người đàn bà có nhan sắc là bà Tình, Hồ mở lớp học tiếng Việt lén ở sau vườn và thừa thời cơ hiếp dâm con gái bà Tình mới 15 tuổi đến mang bầu; sau đó bà biết được, đánh Hồ, hắn đành phải chạy, nhưng vẫn còn mê người con gái Việt lai chà và đẹp, sau nầy hắn lấy bút hiệu là Tuyết Lan hay T.Lan trong quyển "vừa đi vừa kể chuyện". Thái Lan là nơi mà người Cộng Sản từng đặt chân tới sớm, gieo mầm đỏ, nên Việt kiều ở nơi nầy thường có đầu óc khuynh tả, thân Cộng, có thời gian đảng cử đại tá Hà Văn Lâu sang cấy mầm. Cho nên trong thời đánh Tây cũng như thời "ánh Mỹ" một số kiều dân Việt nghe lời đường mật trở về mang theo tài sản, vừa đến Việt Nam là bị cướp sạch, rồi họ bị gởi đến các nông trường sản xuất, các cô gái đẹp bị buộc làm vợ nhỏ cho những tên cán ngố.

Ở hải ngoại, sau nhiều lần thất bại trong mũi giáp công văn hóa vận; các đoàn văn công, sách báo, tài liệu, nhạc ... không thu hút được những người từng bỏ nước ra đi tìm tự do, có quá nhiều kinh nghiệm với Cộng Sản; ngay cả cái tổ chức Hội Chuyên Gia Việt Nam của đảng Việt Tân cũng không thu hút được dân tỵ nạn, ngày nay dân trí tiến bộ, không phải bất cứ ai có bằng cấp cao như: bác sĩ, tiến sĩ, kỹ sư, dược sĩ, luật sư... nói là nhiều người nghe như trước đây; bằng cấp cao ở các trường đại học danh tiếng, sĩ quan, công chức Việt Nam Cộng Hòa cũng chưa đủ để thuyết phục quần chúng tin, vì ngày nay, cái chuẩn để tin là "lập trường chính trị và những hoạt động tại hại ngoại". Do đó Khoa bảng không còn là cái "chuẩn" để cho mọi người theo, nên Cộng Sản, những tổ chức dỏm khó lợi dụng được.

Từ năm 1975 đến nay, ở hải ngoại rất cần "phát huy và bảo vệ tiếng Việt" nên các tờ báo tiếng Việt, trường dạy Việt ngữ xuất hiện khá sớm, tiếng Việt được duy trì, dù bị ảnh hưởng của thứ từ ngữ "nghiệp chuyên" Cộng Sản, do chính những người tỵ nạn mang theo hành trang, do bọn nằm vùng chủ trương; đáng lẽ ra thì trường hay trung tâm tiếng Việt "qui mô" được lập ra từ lâu, nhưng ngày nay bỗng nhiên có trung tâm gọi "Viện Nhân Văn Và Nghệ Thuật Việt Nam Hải Ngoại" với "Đại Học Nhân Văn Hải Ngoại" manh nha thành lập là dư thừa, vì tiếng Việt đã được bảo tồn một cách chu đáo do nhiều người Việt tha hương, có tấm lòng thực hiện từ lâu.

Cái tổ chức mang tính cách hiền từ "văn hóa, nghệ thuật" nầy xuất hiện vào thời điểm sau nghị quyết 36, không cần thiết, cũng có những lý do thầm kín bên trong, có thể bị nghi ngờ là nào có "thực tâm về bảo tồn văn hóa, nghệ thuật"; đảng Cộng Sản nhắm mục tiêu vào văn hóa, nên thành phần khoa bảng được chú ý đặc biệt và cần lợi dụng, thời điểm mà đảng Cộng Sản rất cần để "gom chất xám" vào một tổ chức, như Mặt Trận gom hội chuyên gia vậy. Sự thất bại của nền giáo dục "Hồng hơn chuyên, học tài thi lý lịch" và ngày nay là "tiên học phí, hậu học văn" làm mai một nhiều mầm non, nhân tài đất nước; do đó, đảng Cộng Sản lại muốn "ăn cướp chất xám" lần nữa, ăn cướp ngay tại hải ngoại, chúng là những kẻ không bao giờ trồng cây, tưới nước mà muốn dùng thủ đoạn để hưởng quả. Mục đích yêu cầu là khối lượng chất xám đủ các ngành nghề, nhưng làm cách nào để lừa, gom vào bẩy sập, thì coi như đại thắng lợi. Cho nên cái bẩy gom chất xám dưới nhãn hiệu "văn hóa" cũng nên đề cao cảnh giác, nhất là cái trung tâm nầy ra đời vào lúc đang kịch chiến trong mặt trận văn hóa vận.

Theo những tin tức phổ biến xa gần, Đại Học Nhân Văn Hải Ngoại được thai nghén, vận động từ tháng 8 năm 2000 đến tháng 10 năm 2003. Ban vận động thành hình từ tháng 11 năm 2003 đến tháng 1 năm 2004 và sang hè xuân 2004 thì tiến hành thành lập. Dự án phổ biến vào tháng 1 năm 2008 và tháng 8 năm 2008 sẽ tiến hành dự án; nếu thành công thì tiến hành ra trung tâm và thu nhận "sinh viên ghi danh". Cũng giống như hầu hết các tổ chức, khi mới còn nằm trong dự án, thì cũng có dành nhiều mục hấp dẫn như: góp phần phát triển, sinh hoạt văn hóa cộng đồng dân tộc Việt Nam cũng như ngoài nước ... (các trường Việt ngữ đã làm từ lâu rồi, khỏi cần đợi đến cái tổ chức nầy làm). Rồi nào là gặp gở, đối thoại ( không loại trừ giới văn hóa trong nước?). Phần nghiên cứu cũng không có gì mới mẻ như: văn minh, tôn giáo, triết, tư tưởng Việt Nam, sử ký, địa lý, ngôn ngữ, văn minh ... với những dự án, mục đích có nhiều mơ hồ, hình như những người chủ trương lập lờ, núp bóng dưới "bình phong văn hóa nghệ thuật" với những mục tiêu "giao lưu văn hóa" sẽ xuất hiện trong tương lai; như các nhà sư Phật Giáo, tu hành tự do ở hải ngoại mà lòng luôn "về nguồn" luồn trôn hang Pác Pó vậy.

Cái gọi là Đại Học Nhân Văn Hải Ngoại thuộc trung tâm văn hóa Nguyễn Trường Tộ đang có dự án với các ý nghĩa, mục đích nêu trên được coi là "vụ lúa Hè-Thu" ở Việt Nam dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, không biết cái trung tâm văn hóa nầy có những điểm mà bất cứ người tỵ nạn, học viên hàm thụ trên internet luôn đặt lên hàng đầu "tiên lập trường, hậu ghi danh" là:

- Trường có treo cờ vàng ba sọc đỏ, hay cờ đỏ sao vàng hoặc là hai thứ cờ hầm bà lằn, lập lờ đánh lận con đen như nhóm Tập Nhạp Dân Chủ Điên-Ngoa. Chơi bài ba lá, đánh lừa mọi người qua chiêu bài văn hóa, văn chương ... ở hải ngoại, thỉnh thoảng có vài trường có con em tỵ nạn học, thế mà Cộng Sản tìm cách treo cờ đỏ, mang sách vở vào đầu độc, nên việc xác nhận màu cờ là điểm tối quan trọng, như là những "điều khoản lập qui" trong bất cứ bản hiến pháp một quốc gia, cương lĩnh chính trị của một tổ chức.

- Chương trình giảng dạy có "hòa hợp hòa giải" trong "giao lưu văn hóa, dùng nhiều từ ngữ của khủng bố, đấu tố ... hay những từ ngữ "nghiệp chuyên" trong nước. Sách vở, tài liệu từ đâu? Do ai cung cấp? Nhất là việc "đối thoại" thì liệu cái Đại Học Nhân Văn nầy có mời những nhà văn, nhà báo, kinh tế gia, học giả ... thuộc "các đỉnh cao trí tệ loài người", nhất là các "đại trí thức" tốt nghiệp bằng phó hay tiến sĩ trường Nguyễn Ái Quốc làm "quản giáo văn hóa" để giáo dục những "sinh viên" hải ngoại muốn trau dồi, tìm hiểu "trong sáng trong tiếng Việt.?

- Thành phần giáo sư, hướng dẫn gồm những ai? Nếu từ trong nước, Hội Chuyên Gia của băng đảng Việt Tân, hay mời các tiến sĩ, giáo sư thuộc nhóm Giao Điểm thì coi như là trung tâm văn hóa của đảng thành lập nhằm thu hút hết chất xám, đánh lừa người quốc gia, cũng là cá mè một lứa. Được biết tại hải ngoại, đã có mặt của Hội Chuyên Gia Việt Nam, nên thành phần giảng dạy, cũng không tránh khỏi thành phần nầy được Viện Đại Học Nhân Văn mời. Đây là điểm mà những "sinh viên" nào muốn hàm thụ cũng cần lưu ý.

- Chương trình học ra sao? sử học thì phải khách quan, ghi công những anh hùng dân tộc như Hai bà Trưng Lê Lợi, Quang Trung ... còn Hồ Chí Minh là tên Việt gian bán nước, hại dân, đảng Cộng Sản là tay sai ngoại bang; nếu chương trình giảng dạy đề cao tên Hồ Chí Minh, đảng Cộng Sản, văn hóa thì dùng văn thơ của Tố Hữu, Nguyễn Tuân, Trần Huy Liệu ... thì cũng ghi nhận là trung tâm văn hóa "xanh vỏ đỏ lòng".

- Học để làm gì, khi mà khắp nơi đều có trường Việt ngữ, báo, đài, truyền hình tiếng Việt?

- Viện Nhân Văn Và Nghệ Thuật Việt Nam Hải Ngoại và Đại Học Nhân Văn có đủ tư cách để cấp văn bằng cho học viên sau khi tốt nghiệp bằng hàm thụ trên internet? Hay là những mãnh giấy lộn nầy có giá trị với giai cấp "tiến sĩ Cầu Muối" ở Việt Nam, mà ngày nay thì: "học trên Computer, thi bằng điện thư" không khác nào lối học ở Việt Nam: "dốt như chuyên tu, ngu như tại chức".

Người ta có câu: "ở đời không thể tránh khỏi hai cái: chết và đóng thuế". Nhưng chính trị là bao trùm tất cả, không ai thoát khỏi CHÍNH TRỊ, cho nên những ai tuyên bố phi chính trị là có hai con đường: một là nằm trong quan tài, hai là lên rừng sống một mình như anh chàng Tarzan. Chứ sống ở bất cứ xã hội nào, ngay cả thời bộ lạc cũng bị ảnh hưởng chính trị. Tôn giáo, văn hóa, xã hội ... cái gì cũng có chính trị cả; thí dụ cụ thể như một người đi cầu tiêu, nhấn cái nút dội cầu, đó cũng là "làm chính trị" cụ thể, vì số nước dội ra ống cống có quan hệ đến những công nhân sở nước, tài chánh, chính sách bảo vệ nguồn nước, thuế má ... ngay cả người không nhà (homeless) ở các nước Tây phương, cũng là đề tài chính trị mà các chính khách bàn cãi để giúp đỡ, giải quyết vấn nạn, là đề tài cho các ứng cử viên hứa hẹn. Văn hóa cũng không thoát khỏi vòng "chính trị", ai cho văn hóa phi chính trị thì họ chính là kẻ "phi văn hóa". Trong nước các cơ quan truyền thông làm văn hóa, không bao giờ phi chính trị, dung "văn hóa tải đảng", công cụ cho chế độ độc tài Cộng Sản. Tại các quốc gia dân chủ, văn hóa cũng phải làm chính trị, nhưng là thứ chính trị nhân bản, cổ động nhân quyền, tự do. Ai cho văn hóa là phi chính trị, thì thử viết sách ca tụng Hitler, Polpot ... mở trường dạy học với những sách giáo khoa, lập đài phát thanh, truyền hình cổ động cho Al Qaeda, bảo Osama Bin Laden là vĩ nhân ... là không thể tiếp tục làm văn hóa.

Cho nên cái gọi là Đại Học Nhân Văn Hải Ngoại có coi Văn Hóa là phi chính trị không? Nếu có chủ trương chính trị, thì nên xác định rõ lập trường "Cộng Sản hay Quốc Gia" còn lập lờ "nửa vàng nửa đỏ" để đánh lừa quần chúng, người ghi danh là không thể nhận được sự hưởng ứng, dù thành phần giảng viên toàn là các tay "khoa bảng gạo cội". Mặt khác thì liệu cái trường đại học nầy có thành tâm như nhiều người Việt tình nguyện, vô vụ lợi duy trì văn hóa dân tộc mà không giao lưu, không chấp nhận chế độ Cộng Sản bất cứ hình thúc nào; họ đã âm thầm làm nhữn "chiến sĩ văn hóa thầm lặng", không vỗ ngực xưng tên, phô trương danh hiệu "đại học".

Tuy nhiên nếu cái ĐẠI HỌC Nhân Văn Hải Ngoại ra đời, không phải vì thiện chí mà vì những mưu đồ thầm kín, phù hợp với giao lưu văn hóa, để làm những cái bật cho sách lược hòa hợp hòa giải, đầu cầu giao liên, nhằm dọn đường cho giặc vào, thì đây là ĐỘC HẠI văn hóa, cần phải đề cao cảnh giác, tẩy chay ngay từ trong trứng nước, mới trừ được cái họa lâu dài. Người Việt hải ngoại đã lầm cái họa Mặt Trận kháng chiến cuội và nay cái nọc đọc vẫn làm nhức nhói cả cộng đồng từ năm 1980 đến nay, bài học nầy cần nên ôn lại để không bị lầm nữa.

Ngày nay, kỹ thuật thông tin cao, nên các nguồn thông tin dồi dào trên các trang web trung thực của người Việt tự do thực hiện nhằm bảo tồn văn hóa, thì việc thành lập tủ sách đại học là thừa. Việc thành lập trang website cũng dễ dàng như "mở một hộp thơ" ở ty bưu điện, nên bất cứ ai cũng có thể mở một "Viện Đại Học Nhân Văn và Nghệ Thuật Việt Nam Hải Ngoại", vẽ vời ra những "dự án" thoải mái. Trên mạng lưới thông tin điện tử toàn cầu, là thứ "ta bà thế giới" có nhiều thứ thật, giả lẫn lộn, nên việc tìm hiểu, lựa chọn nơi để đọc, nghiên cứu là điều cần thiết, để không bị lọt vào bẩy tuyên truyền, văn hóa vận của Cộng Sản hay những kẻ xấu khác.

Trương Minh Hòa

Thursday, September 4, 2008

Phái đoàn Hoa Kỳ đến vấn an Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ

BUREAU INTERNATIONAL D'INFORMATION BOUDDHISTE l INTERNATIONAL BUDDHIST INFORMATION BUREAU
PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo,
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
B.P. 63 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France)
Tel: Paris (331) 45 98 30 85
Fax: Paris (331) 45 98 32 61
E-mail:
ubcv.ibib@buddhist.comWeb
Web:
http://www.queme.net/




THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 04.09.2008

Phái đoàn Hoa Kỳ đến vấn an Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ -
Ông Võ Văn Ái bình luận Phúc trình của Ủy hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do tôn giáo trên thế giới
– TT. Thích Viên Định tường thuật buổi làm việc với Công an

PARIS, ngày 4.9.2008 (PTTPGQT) - Chiều thứ tư ngày 3.9.2008 Phái đoàn Hoa Kỳ đã đến Thanh Minh Thiền viện vấn an Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ. Phái đoàn do Bà Katia Bennett, Viên chức Chính trị Tòa Tổng lãnh sự Hoa Kỳ ở Saigon, và Bà Laura Carey thuộc Văn phòng Dân chủ, Nhân quyền và Lao động Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ dẫn đầu.

Cuộc tiếp xúc, thăm viếng từ 14 giờ đến 15 giờ 15. Phái đoàn Hoa Kỳ tỏ vẻ quan tâm và hỏi han tình hình Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Đặc biệt là tình hình tang lễ của Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang vừa qua ở Bình Định, cũng như những vụ sách nhiễu đối với các Ban Đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) ở miền Trung và Cao nguyên trung phần.

Sau cuộc gặp gỡ và qua cuộc điện đàm với Đạo hữu Võ Văn Ái, Giám đốc Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ cho biết cuộc gặp gỡ thân tình và thông cảm. Hòa thượng đã cho Phái đòan biết tình hình khó khăn, bị bức hiếp của Giáo hội trong thời gian nhà cầm quyền Cộng sản tổ chức Đại lễ Phật Đản LHQ cho đến nay. Hà Nội chưa có một sự thay đổi nào trong chính sách tôn giáo. Cái gọi là « tự do tôn giáo » chỉ là những hình ảnh thiết kế để xuất cảnh tuyên truyền quốc tế, chứ tín đồ trong nước chưa bao giờ được hưởng. Hòa thượng cũng cho phái đoàn biết sự khó khăn, ngăn cản vừa qua trong việc tổ chức lễ Chung thất Đức cố Tăng thống. Nhà cầm quyền đã ngăn cản chư Tăng, Phật tử thuộc GHPGVNTN về Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định, dự lễ. Và ngay cả Đại lễ Vu Lan cũng bị ngăn cấm, quấy nhiễu tại các chùa thuộc GHPGVNTN, điển hình ở Quảng Nam – Đà Nẵng và Huế. (Xem chi tiết trong Thông cáo Báo chí phát hành ngày 2.9.2008 hoặc vào xem Trang Nhà Quê Mẹ: http://www.queme.net/

Cuối tháng 8 vừa qua, Ủy hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới (US Commission on International Religious Freedom) cũng cho công bố Phúc trình về Tiêu điểm của chính sách Việt Nam (Vietnam Policy Focus). Qua đó tình hình đàn áp tôn giáo và các nhà bất đồng chính kiến trầm trọng đến nổi Ủy hội Hoa Kỳ đề nghị Chính phủ Hoa Kỳ đặt Việt Nam trở lại trong danh sách CPI (Country of Particular Concern, danh sách quốc gia đàn áp tôn giáo cần đặc biệt quan tâm, mà trước đây Việt Nam đã bị đưa vào trong 3 năm 2004 – 2006). Phúc trình này kể lại các cuộc tiếp xúc, điều tra tại Việt Nam qua chuyến đi hồi tháng 10.2007. Bìa của Phúc trình in bức hình Phái đoàn Ủy hội Hoa Kỳ gồm có các ông Eid, Leo, Cromatie và bà Gaer chụp chung với Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ tại Thanh Minh Thiền Viện.

Nhân việc Ủy hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới phát hành bản Phúc trình 32 trang về tình hình đàn áp tôn giáo và nhân quyền tại Việt Nam hôm 25.8, ông Võ Văn Ái đã có lời bình luận với báo chí như sau:

« Bản Phúc trình của Ủy hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới không những phát hiện các vi phạm nhân quyền trầm trọng và quy mô tại Việt Nam, mà còn cho thấy hậu quả thảm hại của chính sách đàn áp của nhà nước Việt Nam trên toàn khối quần chúng. Ở vào giai đoạn khủng hoảng kinh tế trầm trọng ngày nay, các cộng đồng tôn giáo - đặc biệt là Phật giáo, một xã hội dân sự rộng lớn tại Việt Nam - có thể là liên minh quý hiếm để giải quyết vấn đề nghèo đói, thoa dịu những khổ đau của quần chúng bần hàn tại các tỉnh thành hay nông thôn. Ngược lại, nhà cầm quyền Cộng sản xem GHPGVNTN như kẻ thù, sách nhiễu, cô lập, bắt giam những thành viên của Giáo hội.

« Bản Phúc trình đến rất đúng lúc, nhất là trước khi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho công bố bản « Phúc trình thường niên về Tự do tôn giáo trên Thế giới ». Ông John Hanford, Đại sứ đặc mệnh về Tự do Tôn giáo trên Thế giới, tuy đến Việt Nam theo dõi và làm việc nhiều năm nhưng chưa bao giờ gặp gỡ giới bất đồng chính kiến như Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ là một. Vì vậy mà sự đánh giá về tình trạng Phật giáo của ông Đại sứ, đại quan chỉ dựa vào những thông tin do nhà cầm quyền Hà Nội cung cấp. Cho nên bản Phúc trình của ông năm ngoái chỉ phản ảnh quan điểm của Hà Nội nại cớ GHPGVNTN bị đàn áp là vì Giáo hội « làm chính trị ». Hy vọng năm nay, với những thông tin đầu tay của Ủy hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới ghi nhận trong bản Phúc trình về Tiêu điểm của chính sách Việt Nam sẽ cung cấp cho Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về một viễn cảnh mới về tình trạng tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng tại Việt Nam ».


Thượng tọa Thích Viên Định tường thuật cuộc làm việc với Công an tỉnh Bình Định.
Trong bản Thông cáo Báo chí phát hành hôm 2.9.2008 chúng tôi có thông tin về việc nhà cầm quyền cộng sản sách nhiễu, ngăn cấm GHPGVNTN tổ chức Lễ Chung thất Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang và Đại lễ Vu Lan tại các tỉnh miền Trung. Đặc biệt mời Thượng tọa Thích Viên Định đi làm việc khi Thượng tọa vừa về đến Bình Định tham dự lễ Chung thất tại Tu viện Nguyên Thiều. Bản thông cáo trước, chúng tôi chỉ mới trình bày Biên bản Làm việc của Ủy ban Nhân dân huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định, tố cáo Thượng tọa. Hôm nay, Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin đăng tải bản Tường thuật buổi làm việc cùng những lời phát biểu của Thượng tọa Thích Viên Định, Phó Viện trưởng kiêm Tổng Thư ký Viện Hóa Đạo, mà Ủy ban Nhân dân không chịu ghi vào biên bản như pháp luật quy định:

Bản tường thuật buổi làm việc tại Ủy ban Nhân dân Huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định

Cũng như mọi lần trước, từ bao năm nay, không lần nào bỏ sót, mỗi lần tôi về thăm quê, đều bị mời lên trụ sở làm việc, lần này cũng vậy, khi tôi vừa đặt chân về đến Tổ Đình Thập Tháp lúc 8 giờ sáng, ngày 19.8.2008, thì chỉ nửa tiếng đồng hồ sau, lúc 8.30, đã có mặt bốn cán bộ Xã gồm các ông: Trưởng công an, Phó Chủ tịch Ủy ban, Chủ tịch Mặt trận, Ban Tôn giáo, vào đưa thư mời. Thư họ đề ngày hôm trước, 18.8.2008, khi tôi còn ở Sài gòn, mời 2 giờ chiều ngày 19.8.08 đến Ủy ban Nhân dân Huyện làm việc.

Thấy nội dung thư chỉ mời làm việc, không nêu rõ lý do, nên tôi nói với họ rằng: “Tôi không có quan hệ gì với nhà cầm quyền cộng sản cả, không là Hội đồng nhân dân, Dân biểu, Mặt trận, hay Giáo hội Phật Giáo Việt Nam thuộc nhà nước nên tôi không đi dự các cuộc họp của nhà cầm quyền, nếu tôi có mặt, họ bàn thảo những việc không có lợi cho dân, cho nước, mà lại có mặt tôi, họ bắt tôi chịu trách nhiệm hay sao? Tôi xin hoàn trả lại thư này”

Buổi chiều, bốn người cán bộ Xã lại đem thư khác đến. Thư này ghi: « Mời đến bàn về việc tôn giáo có liên quan đến ông”. Tôi cũng trả lời: “Thư này nội dung cũng không rõ ràng, tôn giáo nào, bàn về phương diện nào?”. Nên tôi cũng xin hoàn trả.

Tối hôm sau, họ vào đưa thư nữa, nhưng vì đã tối, các chú trong chùa nói rằng quí thầy đã nghỉ, nên không cho vào. Sáng hôm sau, họ vào đưa thư mời lần 3, có nội dung rõ ràng, với lý do: « Ông đã có hành vi nói xấu chế độ nước CHXHCNVN ». Tôi trả lời với họ rằng lần này thì nội dung rõ ràng, nên tôi đi, nhưng có trễ giờ không? Thì các cán bộ xã trả lời rằng: “Các ảnh sẽ chờ, thầy cứ đi”

Khi tôi vào đến Ủy ban Nhân dân huyện An Nhơn, như thường lệ là phần giới thiệu, phía nhà cầm quyền gồm có một vị tên là Thắng (tôi quên họ) đại diện cho Tỉnh, trước kia ông này làm Ban Tôn giáo tỉnh, nay đổi lại chức gì nghe mới lạ, tôi không nhớ, còn lại là các vị thuộc Huyện An nhơn gồm Chủ Tịch Ủy ban Nhân dân, ông Chủ tịch này cũng mới, buổi làm việc còn có các ông Phó Chủ Tich Ủy ban Nhân dân, đại diện Ban Tôn giáo, Mặt trận Tổ quốc, và vài vị không thấy nêu tên, có lẽ là công an an ninh với vài người quay phim.

Ba ông, Chủ Tịch, Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân Huyện và ông Thắng đại diện Tỉnh thay nhau nói, nội dung như trong thư mời. Họ nêu ngày tháng những bài viết của tôi trước đây đăng trên mạng internet, những lần trả lời phỏng vấn trên Đài Á Châu Tự Do, cho rằng có nội dung nói xấu chế độ nước CHXHCNVN. Tiếp đến, họ đã chịu khó đọc từng đoạn các bài viết chống phá Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) của các nhóm : Thân hữu Già Lam, Tăng Ni Hải ngoại, Bát đại Hòa thượng, Về nguồn, Tâm thư Đạo Tình của Hòa thượng Tâm Châu, v.v... để lên án GHPGVNTN. Rồi họ ca tụng chế độ Cộng sản Việt Nam có tự do tôn giáo, nào là cho cúng giỗ đông người, cho xây chùa, đúc tượng to lớn, tổ chức lễ Phật đản Vesak, có các sư thuộc Gíao hội Nhà nước ra nước ngoài tuyên truyền tự do tôn giáo của Việt nam. Sau cùng, họ mới vào vấn đề chính là ngày hôm sau, 22.8, là Lễ Chung thất Đức Tăng Thống, GHPGVNTN có tổ chức gì khác không? Họ thay nhau nói rất nhiều.

Phần tôi phát biểu:

“Tôi nhận thấy quí vị nói đã nhiều, bây giờ cũng đã trưa, và đây chỉ là Ủy ban Nhân dân địa phương Huyện An nhơn, quí vị không có thẩm quyền giải quyết vấn đề tự do tôn giáo, nêú quí vị cần ý kiến của tôi, thì tôi chỉ xin nêu lên vài vấn đề để quí vị hiểu thêm thế nào là Tự do tôn giáo thôi.

- Vấn đề gọi là nói xấu chế độ:

Các bài viết của tôi, quí vị không nêu rõ bài nào, và vì viết đã lâu, tôi quên rồi, nay tôi không đề cập đến, ở đây, tôi chỉ nói về việc trả lời phỏng vấn trên đài Á Châu Tự Do trong thời gian tang lễ mà thôi.

Tôi chỉ nói lên những sự thật đã xãy ra ở Việt nam và trong tang lễ Đức Tăng Thống, không hề thêm bớt, và chỉ mới nói được một phần nhỏ, vì trong thời gian tang lễ, nhà cầm quyền đã cắt internet, phá sóng điện thọai, nên tin tức không đến được đầy đủ. Sau nầy, khi về đến Sài gòn, tôi nghe chư tăng và Phật tử than phiền rất nhiều, nhà cầm quyền các tỉnh đã tìm mọi cách ngăn chặn chư tăng, Phật tử về tham dự tang lễ Đức Tăng Thống còn nhiều gấp mấy lần những gì tôi đã nói trên đài Á Châu Tự Do. Những gì tôi nói, không phải là nói xấu, mà tôi chỉ nói sự thật xãy ra tại Việt Nam.

- Về việc nhà cầm quyền tuyên truyền có Tự Do Tôn Giáo tại Việt nam:

Tôi thấy quí vị cho rằng, cho xây chùa, mà thật ra chỉ là trùng tu chùa cũ, tự do cúng giỗ, là có tự do tôn giáo, thì chưa đủ nghĩa Tự do Tôn Giáo, mà đó mới chỉ là tự do cúng kiến, tự do thờ phượng mà thôi, chứ chưa phải là tự do Tôn Giáo đúng nghĩa.

Tự Do Tôn giáo phải có nhiều sinh hoạt truyền bá:

- Về Giáo dục: các trường Bồ đề nay còn đâu? Lấy gì dạy giáo lý cho con em Phật tử?

- Về Văn hóa: các nhà in, sách báo nay còn cơ sở nào đâu?

- Về Tổ chức Giáo Hội, các Khuôn hội, Vức hội nay thế nào? GHPGVNTN có mặt trên khắp thế giới, cả thế giới đều biết, ở ngay trên đất quê hương Việt nam thì bị nhà cầm quyền ngăn cấm.

Họ chống chế, cho rằng, Giáo dục chỉ tập trung để nhà nước lo. Báo chí thì có tờ Giác Ngộ. Trường thì có các trường Phật học. Gíao hội chỉ có Gíao hội thuộc Mặt trận là hợp pháp.

Tôi nói rằng trường Phật học chỉ lo cho chư tăng, tôi chưa nói do ai kiểm soát. Còn Phật tử thì việc truyền bá giáo lý ở trường nào? ở đâu? Báo chí thì Việt Nam chưa có tự do, 85 triệu dân mà không có một tờ báo, còn thua cả thời Pháp thuộc, khoảng năm 1930, mỗi miền, Phật giáo đã có 1 tờ báo. Còn tờ báo Giác ngộ là của Đảng cộng sản chứ không phải của Phật giáo, vì ở Việt nam không có báo tư nhân, không lẽ tờ báo Giác ngộ là tờ báo chui ?

Vừa rồi, tôi nghe nói nhà nước có đặt vấn đề xã hội hóa giáo dục và từ thiện. Bên Thiên chúa có nêu vấn đề cho mở trường tư, cho mở cô ký nhi viên. Riêng bên Phật giáo, GHPGVNTN, thì nhà cầm quyền không công nhận, còn Giáo hội Phật giáo Việt Nam thuộc Mặt trận Tổ Quốc thì như người câm, vì nằm trong tổ chức Mặt trận Tổ Quốc, tiếng nói phải thông qua Mặt trận Tổ Quốc, nên không bao giờ có tiếng nói, Phật giáo không có tiếng nói, tôi buồn vô cùng.

Vấn đề tổ chức lễ Chung thất thế nào, xin quí vị đến Tu Viện Nguyên Thiều để hỏi, tôi không biết.

Lời sau cùng tôi xin thưa với quí vị rằng: Chắc quí vị ai cũng biết ông cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt, khi về già, mới tỉnh ngộ, nói rằng, “Trước kia, tôi nghĩ rằng yêu nước là phải yêu Xã hội chủ nghĩa, nhưng nay, nghĩ lại, tôi thấy rằng, yêu nước cũng còn có nhiều đường”.

Bây giờ đã 11 giờ trưa, nên họ lập biên bản, nhưng chỉ ghi phần họ nói, không ghi chép phần tôi nói câu nào cả, tuy vậy, họ có quay phim, và tôi thấy cũng không có gì đáng ngại, nên tôi ký tên rồi ra về.

Giác Hoa ngày 3.9.2008
Thích Viên Định

Wednesday, September 3, 2008

TƯƠNG QUAN GIỮA VĂN HÓA VÀ CHÍNH TRỊ


Đinh Lâm Thanh

Nhà văn Đinh Lâm Thanh
Kính thưa quý vị,

Từ sáng đến giờ các vị lãnh đạo tinh thần, các triết gia, quý vị tiến sĩ, quý giáo sư đại học cũng như những nhà nghiên cứu khoa học đã đề cập thật chi tiết nhiều khía cạnh chung quanh vấn đề văn hóa. Đến lượt tôi, tôi hân hạnh được ban tổ chức dành thời giờ để kết thúc ngày thuyết trình hôm nay bằng một bài tham luận.

Với tư cách một người cầm bút, một tù nhân chính trị cũng như một người tranh đấu tôi xin chân thành cám ơn ban tổ chức và xin trình bày đề tài ‘Tương Quan Giữa Chính Trị Và Văn Hóa’ mà tôi nghĩ rằng nh ững ý nghĩ tôi đưa ra có thể mang lại một vài điều cần thiết đối với việc bảo tồn và phát triển gia sản của chúng ta trong trận chiến văn hóa ngày hôm nay.

Kính thưa qúy vị,

Gần đây, một vài tổ chức văn học nghệ thuật thường đưa ra chủ trương rằng hoạt động văn hóa phải hoàn toàn tách khỏi môi trường chính trị. Vừa nghe qua thì đúng là văn hóa phải vượt ra ngoài tất cả xung đột ý thức hệ. Nhưng để ý suy nghĩ, nếu chủ trương nầy xuất phát từ nhà nước Việt Nam, thì đây chính là một kế hoạch chính trị được lồng vào không ngoài mục đích để phục vụ chế độ.

Tôi đồng ý rằng, nền văn hóa nhân loại phải vượt lên tất cả những vướng mắc nhất thời, nếu loay hoay vào những biến chuyển chính trị để tìm một hướng đi cho văn hóa thì có thể chúng ta đã đi ra ngoài mục tiêu tốt đẹp nhằm phục vụ con người. Nhưng đó chỉ là lý thuyết dù trong thời bình và dưới ảnh hưởng tự do dân chủ của một quốc gia đã có sẵn nền tảng văn minh vững chắc, đôi lúc cũng không thể tách chính trị và văn hóa ra làm hai lãnh vực riêng biệt. Huống gì so với hiện tình đặc biệt của chúng ta, một đất nước cai trị bởi Cộng sản và dân tộc bị phân hóa làm hai với hai nền văn hóa chống đối nhau thì vấn đề tách rời chính trị ra khỏi văn hóa không thể xảy ra.

Thật vậy, lãnh vực văn hóa và chính trị của một dân tộc bị phân hóa làm hai bởi một cuộc chiến tranh ý thức hệ không ranh giới thì hai lãnh vực nầy cần phải được kết hợp, dung hòa đồng thời bổ túc lẫn nhau để bảo vệ và phát triển nền văn hóa nhân bản đưa đời sống con người đến Chân Thiện Mỹ.

Một câu hỏi xin đưa ra : Vậy đối với Việt Nam chúng ta, dựa vào chế độ chính trị để làm nền tảng phát triển văn hóa, hay, phải dùng văn hóa để cãi tạo và xây dựng chế độ ?

Dù hiểu theo chiều nào thì văn hóa và chính trị là hai hành động lúc nào cũng phải liên quan mật thiết với nhau. Đất lành sinh trái ngọt hoặc nói ngược lại, cây tốt khó mọc từ bùn dơ. Vậy có thể kết luận, chế độ chính trị tốt tự nhiên sẽ nẩy sinh một nền văn hóa tự do nhân bản và ngược lại một nền văn hóa nô bộc là công cụ giúp cho chế độ càng ngày càng thêm độc tài thối nát.

Trước khi đề cập đến hai nền văn hóa riêng biệt cũng như hai khuynh hướng chính trị đối nghịch của Việt Nam tại quốc nội cũng như người Việt Quốc Gia hải ngoại, xin quý vị đừng đơn giản hóa và đóng khung hai danh từ ‘văn hóa’ cũng như ‘chính trị’ trong một nghĩa hạn hẹp, mà đề nghị có một hướng nhìn bao quát rộng lớn hơn.

Không thể hạn chế nền văn hóa của một dân tộc chỉ vỏn vẹn nằm trong phạm vi văn chương, ngôn ngữ và nghệ thuật mà cần phải đề cập đến truyền thống, phong tục cổ truyền, tập quán nhân gian, tôn giáo, y phục, ẩm thực … Cũng vậy, đối với hành động chính trị, không nên gò bó bằng những hình thức bên ngoài như hội họp xuống đường hô hào đá đảo mà phải nghĩ đến mục đích tối hậu của các hành động để tạo một tinh thần yêu nước, thương đồng bào, hướng về đất tổ. Vậy để được khách quan, cần nghiên cứu nhiều chi tiết dưới nh ững lãnh vực khác nhau trong chiều hướng phục vụ đời sống tinh thần lẫn vật chất của con người để người làm chính trị có một lối nhìn bao quát hơn. Đối với hành động văn hóa, nhất là hoàn cảnh chúng ta hiện giờ, cũng cần nới rộng phạm vi hoạt động ra, song song với các chương trình tranh đấu, xây dựng, bảo vệ lý tưởng, sự toàn vẹn quê hương và hạnh phúc của nhân dân Việt Nam để những suy nghĩ của người làm văn hóa khỏi bị lệch lạc.

Nói đến văn hóa và chính trị của Việt Nam trước và sau 1975 cũng như trong và ngoài nước thì thật không đơn giản. Từ việc thay đổi chế độ trong nước rồi nền văn hóa đỏ ra đời, đến môi trường tự do với các phong trào cách mạng đời sống Âu-Mỹ và việc bảo vệ văn hóa cổ truyền ở hải ngoại, là những ưu tư của những người hằng quan tâm đến vận nước và gia tài văn hóa dân tộc.

Chúng ta không thể khách quan xem việc bảo tồn văn hóa Việt Nam một cách đơn giải như dưới thời bình và trong một chế độ tự do dân chủ, vì nền văn hóa của tổ tiên để lại đã bị đổi chiều trong quốc nội và đang bị phá sản tại hải ngoại. Việc bảo tồn văn hóa của chúng ta không thuận buồm xuôi gió mà phải đương đầu trực diện trước một cuộc chiến khốc liệt, không ranh giới, không quy ước. Đó là cuộc chiến ý thức hệ giữa Tự Do và Cộng Sản mà văn hóa chính là vũ khí của chiến trường để đối đầu với nhau.

Nếu xét về lượng, trận chiến hiện nay giữa ta và địch không cân xứng cả chính trị lẫn văn hóa. Cộng sản đã dốc toàn lực để ăn thua đủ trong giai đoạn quyết liệt một mất một còn với chúng ta. Hà Nội đã tung hết khả năng, từ vật lực đến nhân lực, đánh một lượt hai mặt chính trị lẫn văn hóa vào cộng đồng người Việt Quốc Gia. Chúng đã xử dụng môi trường văn hóa làm bàn đạp cho thế chính trị, hai mặt trận phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ với nhau. Cộng đồng chúng ta trong thế bị động và chỉ có chống đở. Lượng đã yếu mà còn bị một số tổ chức hải ngoại kêu gọi loại bỏ yếu tố chính trị ra ngoài chương trình phát triển và bảo tồn văn hóa là một điều bất lợi cho công cuộc tranh đấu hiện nay. Nếu chúng ta thiếu lý tưởng không có tinh thần để chống đở, bảo tồn và phát triển văn hóa cổ truyền dân tộc Việt Nam thì xem như chưa đánh đã thua ! Trước một đối thủ dư thừa nhân-vật-lực cộng thêm những thủ đoạn tráo trở gian manh, nếu chúng ta không sức, thiếu khả năng và sáng suốt thì chắc chắn chúng ta sẽ đi vào con đường hỏa mù mà kẻ thù đã giăng ra.

Không thể thuần túy và đơn giản kêu gọi giới trẻ theo học tiếng Việt, nghe một buổi thuyềt trình hay đọc vài cuốn sách là xong việc bảo tồn và phát triển văn hóa như chương trình của một vài tổ chức đề ra. Nếu chỉ có thế thì không khác gì chúng ta mời giới trẻ đến xem một cuộc triển lãm, nghe một chương trình ca nhạc xong rồi ai về nhà nấy. Như vậy làm văn hóa trong tình hình chính trị hiện nay thì chẳng đi đến đâu mà còn đem lại một kết quả ngược chiều. Điều quan trọng là phải biết tạo cho mọi người, nhất là thành phần trẻ có một tinh thần yêu nước, biết đâu là nguồn gốc dân tộc, đâu là lịch sử oai hùng, đâu là di sản của tổ tiên. Phải làm thế nào cho thế hệ trẻ hiểu được nỗi khổ tâm kẻ ra đi cũng như cảm thông thân phận của người ở lại, phải biết đâu là chính nghĩa, đâu là con đường phải tiến tới để mai kia còn quay về phục vụ quê hương.

Trước các chương trình đầu độc ru ngủ qua văn hóa của Cộng sản, chúng ta cũng phải dựa theo con đường chính trị để phát huy tính chất nhân bản để chống lại văn hóa vô sản, dùng tôn giáo đối đầu văn hóa vô thần, lấy tình người cãi tạo văn hóa loài thú !

Trong lúc địch ru ngủ chúng ta bằng văn hóa đỏ mà những người trong cộng đồng làm văn hóa bằng hình thức thụ động, chống đở hoặc chạy theo chiêu bài ‘loại chính trị ra khỏi văn hóa’, thì không khác gì chưa ra trận chúng ta đã đầu hàng vô điều kiện. Tóm lại trong hoàn cảnh hiện tại chúng ta không thể tách rời ‘chiến tranh văn hóa’ ra khỏi ‘chiến tranh chính trị’. Hai mặt trận phải song song hổ trợ cho nhau để đối đầu với Cộng sản khi chúng dùng văn hóa để phục vụ mưu đồ chính trị bất chánh. Nếu chúng ta muốn bảo tồn văn hóa nhân bản mà loại hẳn vấn đề chính trị ra ngoài thì lấy gì làm căn bản cho trận chiến không biên giới ngày nay ?

Xin ghi nhớ, chúng ta là những chiến sĩ trong cuộc chiến giữa hai nền văn hóa nhân bản và văn hóa vô sản. Kẻ thù với khả năng dư thừa sẵn có, chúng đang lấn áp chúng ta trên mọi lãnh vực. Nếu những nhà làm văn hóa không tiếp tay với Cộng đồng Người Việt Quốc Gia thì xin cứ làm văn hóa theo đường lối thuần túy, đừng hô hào lên tiếng đòi hỏi loại bỏ yếu tố chính trị ra ngoài vòng chiến. Thái độ và hành động nầy không khác gì việc tiếp sức cho kẻ thù, phá hoại công cuộc tranh đấu chung của toàn thể dân tộc Việt Nam hiện nay.

Xin chân thành cám ơn Quý Vị.

Đinh Lâm Thanh
Bruxelles, 20.8.2008

Những cạm bẫy của việt gian cộng sản


Trần Thanh

Khi đánh phá chúng ta, bọn việt gian cộng sản đã giăng ra rất nhiều cạm bẫy, những cạm bẫy mà thoạt nghe có vẻ như "hợp lý" nhưng nếu suy nghĩ kỹ, ta sẽ thấy đó là những đòn hiểm độc nhằm lái cuộc đấu tranh chống cộng của chúng ta đi xuống hố. Sau đây chúng ta thử điểm lại những cạm bẫy của bọn chúng và xác định thái độ của chúng ta trước những cạm bẫy đó phải nên như thế nào?

Cạm bẫy một:

Việt cộng và bọn tay sai thường nói rằng:

- Phương pháp chống cộng duy nhất và hay nhất là BẤT BẠO ĐỘNG.
- Người Mỹ rất ghét bạo động, những người chủ trương dùng bạo động để lật đổ cộng sản sẽ bị người Mỹ coi như bọn khủng bố! Người Mỹ là "thầy" của Việt Nam Cộng Hòa; họ mà ghét mình là nguy lắm!

Nhận xét:

Đây là một sự ngu dốt, một liều thuốc độc bọc đường mà bọn việt gian cộng sản và bọn chó săn tay sai cố tình nhồi nhét vào đầu chúng ta ba chữ "bất bạo động". Chúng ta phải linh hoạt tùy trường hợp mà có những sách lược đấu tranh cho phù hợp với thời thế. Sự đấu tranh có thể là: bạo động, bất bạo động hoặc kết hợp cả hai. Khi cần bạo động để giành lấy thắng lợi thì chúng ta phải hành động chớ không lẽ ngồi đó mà chờ sự thắng lợi nó ở trên trời rớt xuống cho mình hưởng? Nên nhớ: Chúng ta đấu tranh là để LÀM CÁCH MẠNG chớ không phải là để CANH TÂN hay sửa chữa cho cái chế độ cộng sản được tốt đẹp hơn!

Nếu nói một cách ví von, những chế độ chính trị ví như những phương tiện di chuyển thì chúng ta thấy cả thế giới hiện nay người ta đều đi xe gắn máy hoặc xe hơi, trong khi đó chỉ còn có bốn nước là Bắc Hàn, Trung Cộng, Việt Nam và Cu Ba là đi xe đạp. Chúng ta phải mạnh dạn vất bỏ chiếc xe đạp vào thùng rác lịch sử để tiến lên đi xe gắn máy. Chiếc xe đạp dù có được "CANH TÂN" tới cỡ nào cũng không bao giờ chạy nhanh bằng xe gắn máy hoặc xe hơi! Quý vị có đồng ý với chúng tôi không?

CÁCH MẠNG LÀ GÌ?

Về phương diện chính trị, cách mạng là xóa bỏ toàn bộ cái chế độ cũ thối nát để thành lập nên một cái chế độ mới, tiến bộ hơn, tốt đẹp hơn. Sự xóa bỏ được thực hiện bằng các biện pháp đấu tranh, có thể là bất bạo động, CÓ THỂ LÀ BẠO ĐỘNG, hoặc có thể là kết hợp cả hai.

Những người chủ trương theo khuynh hướng này phải được gọi là những "NHÀ CÁCH MẠNG", tựa như những nhà cách mạng Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh ..v..v... Những từ ngữ như : - nhà dân chủ, nhà bất đồng chính kiến không nói lên được hết vấn đề. Nó chỉ gói gọn trong phạm vi đòi lại những vật như chổi cùn, rế rách, hoặc đòi "canh tân" lại căn nhà chớ không phải là đòi lại toàn bộ căn nhà đã bị cướp!

Đã đến lúc chúng ta phải xác định lại danh xưng cho đúng. Khẩu hiệu đấu tranh của chúng ta là "ĐẤU TRANH ĐÒI TỰ DO" Có tự do thì chúng ta sẽ có tất cả! Không cần phải nói: đấu tranh đòi dân chủ, nhân quyền, đòi được tự do báo chí, tôn giáo, đòi lại nhà, đòi lại đất ..v..v.. Tất cả những thứ đó chỉ là những tiểu mục, tựa như những ngăn kéo trong một cái tủ lớn, mang tên là TỰ DO! Thằng Hồ Chí Minh nó biết tuyên bố "Không có gì quý hơn độc lập tự do" Nó đòi cái lớn nhất là cái nhà chớ nó đâu có thèm đòi những thứ tủn mủn, vụn vặt như chổi cùn, rế rách? Mục đích của nó là chiếm hết miền Nam chớ nó đâu có thèm những thứ vụn vặt như trao đổi tù binh, hiệp thương hai miền Nam Bắc! Khi nó đã chiếm được miền Nam thì nó tha hồ cướp bóc và vơ vét!!!

Điều rất nguy hiểm là những tên tay sai của việt cộng ở hải ngoại đã giải thích ba chữ "bất bạo động" nên được thể hiện trong những tình huống đấu tranh như sau:

1. Thảo luận với việt cộng và ngồi chờ nhà nước việt cộng giải quyết! Cái gọi là "Hội nghị Tiểu Diên Hồng" của tên ma đầu chính trị Hoàng Minh Chính là một ví dụ! Bọn việt gian cộng sản rất thích cái kiểu "đấu tranh" này. Bọn chúng sẵn sàng cung cấp cho những con chó đói những tiện nghi vật chất đầy đủ trong các khách sạn năm sao để ngồi thảo luận tới .... vài chục năm cũng được! Đôi bên cùng có lợi!

2. Xin-Cho: cứ gởi thỉnh nguyện thư, thơ ngỏ, đơn xin cứu xét rồi trước sau gì cũng .... được CHO!

3. Quỳ lạy: Nếu xin-cho không được thì nên quỳ lạy! Cứ quỳ lạy mãi, chừng vài chục năm thì sẽ được!

"Bất bạo động", hiểu theo ý việt cộng mong muốn, nó là như vậy! Đảng Việt Tân đi đâu cũng trương lên cái bảng hiệu "bất bạo động". Khi ra mắt đồng bào, họ thường đeo cái bảng hiệu to tổ bố đó ở trước ngực! Họ tự nhận là "bất bạo động" mà dư luận quần chúng lại xầm xì rằng họ chính là thủ phạm đã bắn chết vợ chồng ký giả Lê Triết và một vài người nữa, cách đây hơn 15 năm!

Bây giờ ta đề cập đến chính quyền Mỹ. Chúng ta mang ơn nhân dân Mỹ, mang ơn ba trăm triệu dân Mỹ đã đóng thuế để chính phủ có ngân quỹ giúp cho hàng triệu người Việt được định cư và làm lại cuộc đời tại nước Mỹ. Nhân dân Mỹ là những người rộng lượng. Trong hơn nửa thế kỷ qua, họ đã cưu mang khá nhiều dân tộc khác trên thế giới bằng số tiền thuế mà họ đã đóng cho chính phủ. Còn những chính quyền của Mỹ thì họ có những chiến lược khác nhau, có lúc có lợi cho chúng ta, có lúc bất lợi. Hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa thay phiên nhau lãnh đạo. Các nhà lập pháp của Mỹ cũng làm việc theo nhiệm kỳ được bầu, không có ai làm việc "muôn năm" như cái đảng cướp của bọn việt gian cộng sản!

Chúng ta cần chính quyền Mỹ yểm trợ công cuộc đấu tranh của chúng ta, và tất nhiên chúng ta cần kiên nhẫn để có kế hoạch vận động và "lóp bi" (vận động quốc hội) Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng trong cuộc đấu tranh này, YẾU TỐ QUAN TRỌNG NHẤT, QUYẾT ĐỊNH SỰ THÀNH BẠI CHÍNH LÀ TOÀN DÂN chớ không phải là nhờ những thế lực trên thế giới tác động vào. Sự yểm trợ của chính quyền Mỹ và thế giới chỉ là những yếu tố phụ. Vì vậy kế hoạch và chiến lược đấu tranh của chúng ta là phải căn cứ vào sức mạnh của toàn dân trong nước chớ không phải là căn cứ vào sự THƯƠNG GHÉT CỦA NGƯỜI MỸ! Nước nâng thuyền lên, đưa thuyền đi nhưng cũng chính nước sẽ lật thuyền!

Bọn việt gian cộng sản và đám tay sai thường xuyên cố ý đem "người Mỹ" (có nhà bình loạn còn gọi là"anh Hai"!) ra để hù dọa chúng ta. Người Mỹ ghét "bạo động"??? Ai mà không ghét bạo động? Chính chúng ta cũng ghét bạo động. Tuy nhiên, có một số trường hợp phải cần có bạo động để giải quyết bạo động, tựa như dĩ độc trị độc. Đấu tranh với bọn đại gian ác mà cứ đem cái "NHÂN BẢN" ra để nói chuyện thì đúng là diễn trò hề! Nhiều tên bưng bô ngu dốt cứ viện dẫn cái câu nói của vị đại thần Nguyễn Trãi: "Lấy chí nhân để thay cường bạo, đem đại nghĩa để thắng hung tàn" Bọn chúng lý luận: Vị đại thần Nguyễn Trãi đã đem "NHÂN BẢN" ra để đối xử với giặc Tàu thì bây giờ người quốc gia cũng phải noi gương như vậy! Phải tha thứ hết mọi tội lỗi cho những người cộng sản để cùng nhau hòa hợp hòa giải, cùng xây dựng đất nước!

Những tên bưng bô cho việt cộng đã quên rằng Nguyễn Trãi viết Bình Ngô Đại Cáo năm 1428, lúc ông được 48 tuổi và lúc đó cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh đã kết thúc (1418-1427) nghĩa là sau khi vua Lê Lợi chiến thắng giặc Tàu rồi thì mới dùng nhân đức để thu phục nhân tâm, những tên giặc Tàu bị bắt làm tù binh được đối xử tử tế và tha cho về nước. Còn bây giờ chúng ta đang chiến đấu chống cộng và đánh cộng, sự nghiệp chưa thành công mà đã muốn học đòi đem Bình Ngô Đại Cáo ra để áp dụng! Thằng ăn cướp nó đang trói tay mình, chỉa súng vào đầu của mình mà mình lại mở miệng nói" tao sẽ lấy cái CHÍ NHÂN ra để tha thứ cho mày!" Hề quá!!!

Học sử mà không biết vận dụng vào cuộc sống, lý luận một cách ngu xuẩn, hèn chi những tên đó chỉ có nước đi bưng bô cho việt cộng cũng là đúng!

Bạo động hiểu theo nghĩa hẹp là dùng vũ lực để giải quyết một chuyện gì đó, tất nhiên là phải có đổ máu và chết chóc. Cảnh sát của Mỹ được trang bị súng ống và nhiều phương tiện tối tân để chống lại bọn cướp. Ví dụ có một băng cướp đang cướp một nhà băng và bọn chúng đang bắt giữ một số con tin. Cảnh sát Mỹ sẽ bao vây nhà băng đó. Đầu tiên là họ sẽ thương lượng với những tên cướp nhưng nếu thương lượng không được thì họ phải dùng bạo lực để giải quyết, chớ không thể để sự việc kéo dài trong nhiều ngày, gây rối loạn xã hội.

Có ai trông thấy một người cảnh sát Mỹ trong khi đi thi hành nhiệm vụ mà chỉ mặc có một bộ đồng phục cảnh sát và $Ghoàn toàn không có trang bị súng, áo giáp, còng số 8 và máy truyền tin? Và nếu gặp một tên cướp có súng đang gây tội ác thì người cảnh sát đó sẽ tà tà tiến tới, dùng lời nói để thuyết phục tên cướp nên đầu hàng? Phải chăng đó là lấy chí nhân để thay cường bạo được áp dụng một cách đúng lúc?

Chính phủ Mỹ đã đầu tư hàng ngàn tỷ đô la để chế tạo những vũ khí tối tân để dùng trong lãnh vực quân sự, sẵn sàng đè bẹp đối phương để bảo vệ tổ quốc của họ. Như vậy tức là họ luôn luôn chuẩn bị bạo lực để đối phó với bạo lực. Nếu họ bị tụi khủng bố Osama Bin Laden tấn công thì họ sẵn sàng dùng những phương tiện quân sự tối tân nhất để đánh trả kẻ thù.

Vậy thì câu nói: -Người Mỹ rất ghét bạo động, những người chủ trương dùng bạo động để lật đổ cộng sản sẽ bị người Mỹ coi như bọn khủng bố! Người Mỹ là "thầy" của Việt Nam Cộng Hòa; họ mà ghét mình là nguy lắm!

Đây là lý luận ngu của những tên tay sai của cộng sản, cố ý nhồi nhét những cái ngu này vào đầu óc của chúng ta. Làm cách mạng là phải có đổ máu và hy sinh và những người hy sinh là những người dân Việt Nam, chớ không phải là dân Mỹ, khiến cho chính quyền Mỹ phải lo ngại. Bọn việt gian cộng sản muốn biến chúng ta thành những con chó có mối liên hệ với ông chủ là người Mỹ. Con chó mỗi lần nó muốn làm một điều gì, nó đều nhìn xem nét mặt của ông chủ của nó có hài lòng hay không! Bọn tay sai của cộng sản đã cố ý phao tin:

- Người Mỹ đã, đang và sẽ giúp việt gian cộng sản xuống cọp được an toàn!
- Người Mỹ đã, đang và sẽ giúp việt gian cộng sản được hạ cánh an toàn!

Những người bị nhiễm nọc độc tuyên truyền của bọn này, khi nghe những luận điệu này, sẽ trở nên hoang mang, giao động tinh thần đấu tranh. Ờ nhỉ, "ông chủ" của mình đã quyết định tha thứ cho việt cộng rồi thì mình còn đấu tranh cái gì nữa! Tụi nó được xuống cọp AN TOÀN, có nghĩa là nếu chế độ cộng sản bị sụp đổ thì tụi nó sẽ vẫn tiếp tục được sống một cách sung sướng như những hoàng đế trong những tòa lâu đài tại Việt Nam với hàng trăm nô lệ và chó bẹc giê phục vụ, canh giữ!!!

Tóm lại, cái cạm bẫy "BẤT BẠO ĐỘNG THÌ ĐƯỢC MỸ THƯƠNG", "BẠO ĐỘNG THÌ BỊ MỸ GHÉT" là do việt cộng và cái đám tay sai ở hải ngoại cố ý thổi phồng lên, biến nó thành một mốt thời trang chính trị, tựa như cây kim chỉ nam cho bất cứ những ai đang hoạt động chính trị, cũng đều phải rập theo cái khuôn đó để cho đảng việt cộng còn tiếp tục tồn tại lâu dài!!!

Thái độ xác quyết của chúng ta là: - Chúng ta chống cộng và diệt cộng là CHO ĐỒNG BÀO CỦA CHÚNG TA chớ không phải chống cộng giùm người Mỹ và cũng không phải là chống cộng để được chính quyền Mỹ thương!

Cạm bẫy hai.


Việt cộng và bọn tay sai thường nói rằng: - Nên đấu tranh bất bạo động và đòi dần từng phần. Ví dụ như năm nay ta đòi được tự do tôn giáo, rồi khoảng .... mười năm sau ta đòi được tự do hội họp; mười lăm năm sau, ta đòi được tự do ngôn luận; cứ thế, dần dần, ta sẽ đòi được tất cả. Đâu cần phải đấu tranh lật đổ chế độ cộng sản làm chi, sớm muộn gì mình cũng đòi được hết!

Nhận xét:

Giả sử có cả thảy mười quyền tự do căn bản cho con người và cứ MƯỜI NĂM thì chúng ta mới đòi được một quyền thì có phải là MỘT TRĂM NĂM SAU ta mới đòi được hết!!! Xin đừng quên, khoảng vài chục năm nữa có thể nhân loại sẽ bị tận thế, trái đất này sẽ tiêu tùng vì bị bọn Tàu phù phá nát! Chúng ta đã đòi những quyền tự do căn bản từ năm 1946 nhưng cho đến nay đã HƠN 60 năm, bọn việt gian cộng sản hoàn toàn không trả lại bất cứ một cái tự do nào hết! Đây là điều để mọi người cần suy nghĩ!!!

Tất cả những quyền căn bản của con người phải được công nhận cùng một lúc và được áp dụng trong một cái chế độ thực sự dân chủ thì mới có giá trị. Giả sử việt cộng chỉ trả lại cho chúng ta có một quyền, đó là quyền tự do tôn giáo mà chín cái quyền còn lại, bọn chúng vẫn cấm thì cái quyền "tự do tôn giáo" sẽ trở thành vô dụng! Ví dụ bọn chúng cho đi chùa và nhà thờ mà bọn chúng lại để tượng của thằng Hồ Chí Minh ngang với tượng Phật và Chúa thì chúng ta đi quỳ lạy cái thằng ác quỷ đó hay sao? Trong lãnh vực tôn giáo, chúng ta phải có toàn quyền được tự do tổ chức và điều hành tôn giáo của mình chớ không thể để cho bọn cầm quyền xía vào và bôi nhọ tôn giáo một cách thô bạo như vậy được! Được "tự do tôn giáo" mà bọn chúng lại cấm không được tụ họp quá năm người ở ngoài đường, như vậy thì những tín đồ đứng ở ngoài lề đường, đọc kinh cầu nguyện có thể bị bắt! Vào những dịp lễ lớn, các chùa và nhà thờ không thể đủ chỗ để chứa hết các tín đồ. Người ta phải đứng tràn ra ngoài các lề đường để đọc kinh. Nếu muốn gây khó khăn thì bọn chúng có thể tới bắt bớ các tín đồ vì tụ họp quá năm người ở ngoài đường!!!

Trước đây tôi có kể câu chuyện tiếu lâm về Trạng Quỳnh: - chúa Trịnh sai quân lính tới vườn rau nhà của quan Trạng để ỉa. Trạng Quỳnh "chấp hành" lệnh của vua không dám cãi nhưng ông ta tuốt gươm ra và nói:

- Tuân hành lệnh vua, tau cho bọn mi cứ tự do ỉa nhưng cấm đái, thằng mô mà đái thì tau chém đầu!

Bọn lính nghe nói vậy liền đồng loạt rút lui vì ĐÁI và ỈA LÀ CẶP BÀI TRÙNG phải đi đôi với nhau! Cho phép ỉa mà cấm đái thì việc được phép ỉa cũng vô dụng!!!

Xin đưa thêm một ví dụ khác: một số người đang đấu tranh đòi đa nguyên đa đảng. GIẢ SỬ bọn việt cộng nhượng bộ, cho phép đa đảng thì cũng vô dụng! Vì sao?

Bởi vì:

- Một chính đảng chính trị chỉ thực sự phát huy hết vai trò đối lập và xây dựng của mình trong một cơ chế chính trị thực sự là dân chủ. Một chính đảng đối lập phải được quyền có một tờ báo riêng, có đài phát thanh riêng, có chương trình phát hình trên đài truyền hình, được quyền tổ chức những buổi hội họp công khai để quảng bá chương trình và chính sách hoạt động của đảng mình đến với quần chúng.

- Ngoài ra, một yếu tố khác hết sức quan trọng là chính đảng đó phải đang hoạt động trong quốc hội và CÁI QUỐC HỘI ĐÓ PHẢI CÓ THỰC QUYỀN, có quyền giám sát và chế tài hai cơ quan hành pháp và tư pháp. Quốc hội là đại diện cho dân cho nên phải có thực quyền mới đúng với cái nghĩa NGƯỜI DÂN LÀM CHỦ ĐẤT NƯỚC! Chúng ta có thể thấy rất rõ những điều này trong những quốc gia dân chủ, ví dụ như Mỹ, Canada, Anh, Pháp ..v..v.. Còn Việt Nam dưới sự cai trị của bọn cướp thì sao? Ôi thôi, nói ra thêm buồn!!!

- Một điểm nữa, cũng rất quan trọng, đó là: đệ tứ quyền, tức là giới truyền thông báo chí, truyền thanh, truyền hình. Sở dĩ người ta gọi là đệ tứ quyền vì ảnh hưởng của nó rất mạnh, có thể làm một tổng thống phải từ chức hoặc toàn bộ nội các của ông ta bị sụp đổ!!! Đệ tứ quyền tồn tại song song với hành pháp, lập pháp và tư pháp, tuy nó không được ghi rõ trong hiến pháp. Người dân, thông qua đệ tứ quyền có quyền nêu ý kiến và chỉ trích chính quyền một cách trực tiếp. Hành pháp bị người dân thường xuyên giám sát, có khi khen có khi chê, cho nên buộc lòng họ phải làm việc rất cẩn thận, chớ không phải như bọn việt gian cộng sản, làm chết hàng triệu dân, bọn chúng cũng không hề bận tâm! Tất nhiên chỉ có những quốc gia DÂN CHỦ, TỰ DO mới có đệ tứ quyền, còn Việt Nam dưới chế độ cộng sản thì người dân chỉ có mỗi một "quyền" duy nhất, đó là "quyền" được làm nô lệ!!!

Xin đưa ra một chứng minh khác:

- Trong một bộ máy của chiếc xe hơi, tất cả các bộ phận đều có liên quan với nhau, hổ trợ cho nhau. Không bao giờ có một bộ phận nào hoạt động hoàn toàn độc lập mà không có sự liên hệ với những bộ phận khác. Tương tự như vậy: - một con người đã sinh sống và lớn lên trong một xã hội thì ít nhất phải có mối liên hệ với gia đình, bạn bè hoặc các tổ chức trong xã hội. Khi ta thay thế một bộ phận bị hư trong chiếc xe hơi, đôi khi chúng ta phải thay luôn những bộ phận có liên quan dù rằng những bộ phận đó chưa bị hư. Ví dụ như một piston của xe hơi bị hư thì người thợ máy sẽ đề nghị khách hàng nên thay luôn cả 6 CÁI PISTON dù rằng những piston khác chưa bị hư. Vì sao?

Vì sự hoạt động ĐỒNG BỘ. Tất cả đều phải tương đương với nhau và ăn khớp. Nếu một người sắm được một đôi giày thật đẹp và sang trọng thì phải sắm luôn một bộ veston, cà vạt, đồng hồ và nhẫn cho nó đủ bộ sang trọng!

Vậy thì nếu việt cộng cho tự do đa đảng mà các quyền tự do khác nó vẫn cấm thì được tự do đa đảng cũng vô ích! Được tự do đa đảng mà không được tự do đi lại thì cũng bằng thừa! Ví dụ như một đảng viên của đảng ABC gì đó muốn đi từ Sài Gòn ra Hà Nội mà xin giấy phép tạm trú không được, công an nơi đi và nơi đến nó gây khó khăn thì làm sao đi hoạt động cho đảng được? Cái HỘ KHẨU vẫn là một sự cản trở rất lớn cho bước đường tự do dân chủ. Hơn 60 năm rồi nó vẫn còn dai dẳng bám vào người dân!

Các loại tự do dân chủ, dân chủ và nhân quyền là những đồ phụ tùng của một hệ thống (system) cao cấp, ví dụ như của xe Honda, xe hơi hoặc máy bay. Nếu chúng ta đang đi xe đạp mà chúng ta đòi được một cái bu gi (tự do tôn giáo) của xe Honda thì chúng ta không thể gắn cái bu gi đó vào cái xe đạp được! Tôi đã nêu ra ví dụ này trong bài viết, tựa đề là "Tâm sự của cựu đại tá việt cộng". Để cụ thể hơn nữa cho dễ hiểu, chúng ta tạm ví như thế này:

- bu gi xe Honda = tự do tôn giáo
- bình điện xe Honda = tự do hội họp
- hai bánh xe của chiếc Honda = tự do báo chí
- bộ phận lọc gió của xe Honda = đa nguyên đa đảng
- piston của xe Honda = dân chủ, nhân quyền

* CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN = XE ĐẠP
* Tổng thống chế, bán-tổng-chế, đại nghị chế = xe hơi hoặc máy bay

Đại khái là như vậy và nên NHỚ RẰNG CHÚNG TA ĐANG ĐI XE ĐẠP (đang sống trong chế độ cộng sản)

Giả sử chúng ta đấu tranh đòi được hai cái bánh xe của xe Honda (tự do báo chí) thì liệu chúng ta có lắp vào chiếc xe đạp để đi được hay không??? Chúng ta không thể ngồi chờ MỘT TRĂM NĂM NỮA để đòi được từng bộ phận để ráp nó thành một chiếc xe Honda mà cái sườn xe vẫn là sườn xe đạp!!! (đảng lãnh đạo, đảng quản lý, đảng làm chủ!)

Cho nên biện pháp tốt nhất là PHẢI LÀM CÁCH MẠNG, ném bỏ chiếc xe đạp vào sọt rác lịch sử để sắm một chiếc xe Honda, làm mới lại hoàn toàn từ đầu.

Đây là cái mà bọn việt gian cộng sản hết sức lo sợ (người dân làm cách mạng) cho nên bọn chúng đã vung tiền ra để thuê mướn bọn chó săn ở hải ngoại tìm đủ mọi cách để đánh lạc hướng cuộc đấu tranh của chúng ta! Ví dụ như cái tổ chức Cao Trào Nhân Bản của ông Nguyễn Đan Quế. Cái lộ trình 9 điểm của ông ta chỉ là đi đòi những cái chổi cùn, rế rách, đòi cái nồi đất, cái cối xay lúa chớ không đòi lại cả căn nhà đã bị cướp! Nói rõ hơn, chủ trương của ông ta là CANH TÂN chế độ cộng sản, giống y hệt như chủ trương của cái đảng cuội của ông "thánh" dưa hấu Hoàng Minh Chính và của cái đảng Việt Nam Canh Tân Phở Bò!!!

Mới đây ông Quế có viết một bài tựa đề là "Mưu Sinh Thoát Hiểm" đăng trên báo điện tử VietNam Exodus ngày 22 tháng 8, 2008. Nội dung bài viết này, mới nhìn thoáng qua có vẻ như là "tiến bộ", "chửi" việt cộng mà thật ra là NÂNG BI, thổi ống đu đủ cho việt cộng! Ví dụ như ông ta nêu ra:

- Chỉ riêng 6 tháng đầu năm nay, việt cộng đã thu hút được một số đầu tư nước ngoài là 31 tỷ đô la. Đây là một con số kỷ lục! Rồi sau đó ông ta lên tiếng chê bai rằng thu hút được nhiều đầu tư nhưng không có nhân tài vì GIÁO DỤC QUÁ LẠC HẬU!!!

Ông ta muốn lái cuộc đấu tranh của chúng ta nhắm vào mục tiêu giáo dục!!! Ông ta kêu gọi phải làm .... "CÁCH MẠNG GIÁO DỤC"!!! (tại sao không làm cách mạng lật đổ bọn cộng sản?)

Như vậy có khác gì van xin thằng ăn cướp để nó nới lỏng cái sợi giây thừng đang siết cổ toàn dân cho dễ thở hơn một chút, mà không dám nghĩ đến việc chặt đứt sợi giây thừng và đâm chết thằng ăn cướp để giải quyết dứt điểm vấn đề!

Xin nói với ông Quế rằng: - việt cộng nó thu hút được 31 tỷ đô la đầu tư, đó không phải là công trạng gì của bọn chúng đối với toàn dân. Giả sử bọn chúng có thu hút được BA NGÀN TỶ ĐÔ LA đi chăng nữa thì người dân đen cũng vẫn nghèo đói, cùng đinh mạt hạng, còn hơn cả thời tên bạo chúa Lê Duẩn! Vì sao? Bởi vì ngày nào vẫn còn cái chế độ cộng sản hung tàn bạo ngược cai trị trên nguyên lý đảng lãnh đạo, đảng quản lý, đảng làm chủ thì ngày đó người dân còn phải làm nô lệ, sống không thấy ánh sáng mặt trời!

Ăn mày CHÓ trong chế độ Việt Gian Cộng Sản
Nếu đi theo cái lộ trình 9 điểm của ông Nguyễn Đan quế thì ngay cả con chó cũng phải đi ăn mày! Lý do vì những thứ cơm thừa canh cặn nơi các thùng rác đã bị những kẻ ăn mày tranh cướp hết rồi. Con chó hoang đi bới rác không có gì ăn thì nó phải đi ăn mày! Trước năm 1975, chúng ta thường nói đùa với nhau rằng " ... điệu này là ăn mày chó!", ý nói một tình huống sẽ xảy ra rất là tồi tệ. Vậy mà không ngờ bây giờ chuyện đó lại có thật, đang xảy ra trên quê hương Việt Nam! (xin xem hình đính kèm)

Nước ngoài càng đầu tư vào nhiều thì sẽ có thêm nhiều dân oan bị cướp đất. Lý do vì bọn cướp lấy cớ "quy hoạch đất" để xây dựng nhà máy và khu du lịch, bọn chúng sẽ cướp đất và cướp nhà của dân. Số tiền thu được nhờ đầu tư sẽ chui vào túi bọn cướp, người dân đen sẽ không hưởng được một đồng xu nào hết! Cũng tương tự như một người bị mắc bệnh sán sơ mít, lúc nào cũng rất đói, người ốm nhom, xanh xao, vàng vọt nhưng càng ăn vào thì càng ốm đói, bởi vì bao nhiêu chất bổ đều đã bị những con sán sơ mít hấp thụ hết rồi! Một người bị bệnh tiểu đường lúc nào cũng cảm thấy rất khát nước nhưng càng uống nước vào thì càng khát vì toàn bộ nước đều đi theo nước tiểu tuôn ra ngoài hết!!!

Trước đây ông Quế có viết một bài làm thầy dùi trong việc lật đổ chế độ cộng sản. Kế hoạch của ông như sau: ông kêu gọi việt kiều ở hải ngoại hãy đổ tiền về Việt Nam thật nhiều để dùng hệ thống kinh tế tư nhân đánh bại hệ thống kinh tế quốc doanh của việt cộng. Người dân trong nước thấy được sự ưu việt của kinh tế tư nhân, họ sẽ tẩy chay kinh tế quốc doanh, bọn cộng sản sẽ chết, chế độ cộng sản sẽ sụp đổ!!!

Đây là cái lý luận lưu manh và bịp bợm. Vấn đề chúng ta thấy là: chế độ việt gian cộng sản ví như con chó sói đang khát máu và bản chất của loài chó sói là sống nhờ máu tươi. Nó đang khát máu tưởng sắp chết, vậy mà bỗng dưng có người tiếp thêm máu cho nó thì nó sẽ sống hùng mạnh mãi mãi!!!

Ông Quế còn viết một số bài, viết bằng tiếng Anh, đăng trên các báo của Singapore nhưng tôi ngờ rằng một người nào khác viết giùm ông chớ ông không có đủ trình độ để viết những bài lý luận kinh tế chính trị bằng tiếng Anh như vậy! Kể cả những bài viết bằng tiếng Việt của ông, có thể là do một tên việt gian cộng sản răng đen mã tấu nào đó viết giùm ông chớ trình độ của ông tuy là bác sĩ nhưng về mặt chính trị thì rất kém, chỉ giỏi thổi ống đu đủ! Chỉ có những con người rất ngu xuẩn mới kêu gọi việt kiều đổ tiền về để đầu tư, để "cứu nước", để làm sụp đổ chế độ cộng sản theo kiểu lý luận của ông Quế!!!

Trước đây, năm 2005?, nhân ngày lễ Quốc Khánh của Mỹ, tòa tổng lãnh sự của Mỹ đã mời các "nhà dân chủ" đến dự buổi tiệc họp mặt. Ông Quế đã hồ hởi phấn khởi đến dự, trên ngực ông có đeo một tấm huy hiệu có in hình lá cờ đỏ sao vàng! Nói một cách ngắn gọn, ông Nguyễn Đan quế và các ông khác như Trần Khuê và Hoàng Minh Chính, Đỗ Nam Hải cũng chỉ là những tên cò mồi chính trị rất rẻ tiền, đối lập dỏm, cá mè một lứa, chuyên đi lừa bịp đồng bào! Cái tổ chức gọi là Cao Trào Nhân Bản của ông Quế cũng không khác gì cái đảng Dân Chủ 21 của ông Hoàng Minh Chính.

Đáng tiếc rằng ở bên Mỹ có một số tên cò mồi chính trị đã tích cực quảng cáo cho cái Cao Trào Nhân Bản và Lộ Trình 9 điểm của ông Quế. Hiện giờ cái lộ trình 9 điểm đó nó vẫn còn đang nằm trong .... thùng rác của thượng viện Mỹ!!! Người Mỹ họ đâu có ngu?

Trong Lộ Trình 9 điểm của ông Quế, ông ta đòi "phải tách rời đảng ra khỏi chính quyền". Đây là sự đòi hỏi không cần thiết và đòi hỏi ... ngu! Ông ta nêu ra tới 9 điểm cho có vẻ rậm đám nhưng chỉ toàn là đòi chổi cùn và rế rách. Tổng thống Mỹ vừa nắm chính quyền vừa là đảng viên của đảng Dân Chủ hoặc Cộng Hòa. Hầu hết tất cả các vị lãnh đạo của hành pháp Mỹ đều như vậy. Trong quốc hội cũng như vậy, các thượng nghị sĩ và dân biểu vừa là nhà lập pháp kiêm luôn là đảng viên của một đảng nào đó.

Vấn đề không phải là tách rời đảng và chính quyền mà tự nhiên sẽ có dân chủ. Chính đảng giúp cho những chính trị gia hoạt động hữu hiệu hơn, như cá với nước, tại sao lại tách rời họ ra khỏi môi trường xúc tác? Vấn đề là phải có một quốc hội có thực quyền để giám sát, chế tài và giúp đỡ hành pháp hoạt động hữu hiệu. Ngoài ra, hệ thống tư pháp và đệ tứ quyền của người dân cũng là yếu tố rất quan trọng, góp phần xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ.

Trong khi đó, chế độ của bọn việt gian cộng sản được điều hành trên nguyên lý độc đảng, độc tài toàn trị. Yêu cầu nó tách rời đảng và chính quyền thì có khác gì nói con chó sói hãy ăn rau và trái cây, đừng có ăn thịt sống và máu tươi nữa!!! Như vậy thì tại sao không bắn bỏ con chó sói cho rồi mà cứ tìm cách CANH TÂN để biến nó thành con chim bồ câu???

KẾT LUẬN:

Cạm bẫy của việt gian cộng sản còn rất nhiều. Trong bất cứ tình huống nào, chúng ta phải dùng cái TRÍ để tự soi xét, nhận định và đánh giá vấn đề. Đặc biệt, không nên bị chi phối bởi bất cứ người nào, cho dù đó là một nhân vật rất nổi tiếng, hoặc cho dù đó là một sự trích dẫn một lời nói của một vị "thần thánh" nào đó! (Ai mà kiểm chứng được những lời nói cách đây mấy ngàn năm!!!) Nếu người đó nói sai thì chúng ta phải phản đối. Việt cộng và bọn tay sai thường dùng chiến thuật "cáo mượn oai hùm" để đưa chúng ta vào thế kẹt. Chúng thường mua chuộc hoặc mượn danh của một nhân vật nào đó rồi núp đằng sau người đó để bắn chúng ta!

Có những tên viết những bài bình luận lếu láo, phá thối cộng đồng rồi ký tên, dán kèm theo một lá bùa "linh mục", hoặc "đại đức" gì gì đó. Người đọc thấy bài viết rõ ràng là tuyên truyền cho cộng sản nhưng không ai dám lên tiếng vì sợ động chạm đến tôn giáo! Hoặc nếu có ai lên tiếng phản đối thì bọn việt cộng và tay sai sẽ làm ầm ỹ lên:

- À, thằng kia, mày dám nói xấu, dám xúc phạm đến tôn giáo của tao thì tao phải giết mày! Tao phải mổ bụng, moi tim, moi ruột gan của mày ra để dâng lên thần thánh, tạ tội với thần thánh!!!

Chính vì vậy mà con đường đấu tranh của chúng ta còn nhiều gian nan lắm!

Trần Thanh
Ngày 2 tháng 9 năm 2008