Monday, May 5, 2008

Xô Viết Úc Châu

Bảo quốc Kiếm

Sáng hôm nay cảm thấy rất mỏi mệt, nhưng phải thức dậy đi cày. Tôi thẫn thờ vác cái thân già leo lên xe. Ngồi nhắm nghiền đôi mắt lại trong phút chốc cho dễ chịu, vì suốt đêm rồi nghĩ ngợi một chuyện không mấy vui. Vào chỗ làm, tôi vẫn mơ màng, lê đôi chân một cách nặng nề. Hai tay cứ theo thói quen hành động, còn cái đầu lại chạy lung tung. Bỗng đâu, Cụ tam nguyên Yên đỗ hiện về:

    “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
    Một chiếc thuyền con bé tẻo teo.
    Sóng nước theo làm hơi gợn tí,
    Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo...”

Rồi thì, trời đất ơi, răng mà ngu rứa chơ ? Nghĩ mãi không ra bốn câu kế tiếp. Gãi tai, bực mình. Thì ra, mình chỉ là nông dân thứ thiệt; chứ đâu phải cái dổm sỹ con mẹ gì mà biết cho nhiều chứ. Một làn hơi nóng từ mái nhà tuôn xuống, cơn lạnh trôi qua. Thế mới biết, mình đang:

    “Ngậm một mối căm hơn trong cũi sắt,
    Ta nằm dài trông ngày dần trôi
    Khinh lũ người kia ngạo mạn dễ ngươi,
    Dương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm
    Nay sa cơ bị nhục nhằn tù hãm
    Để làm trò lạ mắt thứ đồ chơi...”(tl)

Bỗng đâu đó, tai nghe như có lời trách móc. Mi mô có phải Hổ mà nhớ rừng mi ơi. “Oai linh rừng thẳm” tổ mẹ thằng nhóc. Cu li đấy con ạ. Thôi, cày đi kẻo đói bỏ mẹ con ơi ! Tôi nghẹn ngào tiếc nuối. À ha, Cu li mà sao cứ nghĩ chuyện tùm lum. Thiệt khổ cho cái thân TỴ NẠN CỘNG SẢN. Tôi muốn quên đi tất cả; bỏ lại đằng sau tất cả, để kiếm sống qua ngày. Thế nhưng không làm được. Mặc dù tôi có học lóm thơ Hoà thượng Thích quảng Độ mấy câu:

    “Đêm ngày tôi dạy cái thằng tôi,
    Đạo pháp suy vi bởi lẽ trời.
    Thấy kẻ phá chùa: khoanh tay đứng
    Nhìn người đập tượng: nhắm mắt ngồi...”

Mỉa mai thay !!! Nếu làm được như thế, thì khỏe khoắn, không chừng còn có tiền đưa vô nhà băng Thụy sĩ như ngài Trí tịnh, ông Võ đình Cường....hay ngôi cao chức cả như Lê mạnh Thát, hoặc “thiền sướng” như sư ông Nhất hạnh, “thiền vô thiền” như ông Ất giác nhiên ... thì hay biết mấy. Nhưng hỡi ơi, câu mẹ dặn: “nợ nước, thù nhà”, không sao quên được. Do vậy, không thể cầm súng, thì mình cầm bút, dù chỉ lớp năm trường làng. Bỗng chốc, nhớ một câu của anh chàng họ Mao, mà cười trối chết. À ha !!! Lại nhớ:

    “Thớt có tanh tao ruồi mới đỗ,
    Gang không mật mỡ kiến bò chi ....(NBK)

Vâng, đã khoa thì phải bảng, muốn bảng phải có tiền; muốn tiền phải làm MỌI, phải chùm hum ... ống cống, cầu tiêu đâu cũng là tiền bạc, cũng là SỸ đấy mà. Nhân sắp đến “ngày đau không chờ đợi” 30-4-1975, lòng lại nghẹn ngào nhớ tưởng những người chiến sỹ VNCH, nhớ anh em đồng đội đã chết trong tù, nhớ những anh hùng có tên, không tên sau 30-4 ấy, nhớ đồng bào .... Ôi nỗi nhớ vô bờ !!! Nhưng có lẽ niềm nhớ tái tê nhất vẫn là:

    Đường kinh hoàng những xác chết không chôn !
    Con bú mẹ- thân mất đầu nằm đó

Đây là một cảnh tượng mà chính tôi chứng kiến trên con đường Quảng trị -Huế mùa hè 1972. Khi những loạt đạn 122 ly của cộng sản bắn xối xả vào dân chúng, thì một thiếu phụ, còn ôm con cho bú đã phải cho cái đầu lìa khỏi cổ. Đứa nhỏ vẫn nằm gọn trong tay chị, nó sùng sục tìm những giọt sữa trên tấm thân nhầy nhụa máu me của Mẹ. Chúng tôi phải giựt mạnh mới có thể kéo cháu nhỏ ra khỏi bàn tay mẹ nó. Tiếng khóc càng lớn, lòng chúng tôi càng não nề. Không ai hẹn ai, mà nước mắt cùng trào tuôn một lúc. Khi đưa được lên xe, chị cứu thương lấy bình sữa cho cháu bú, nhưng nó nhất định không chịu. Mới hay rằng, mẫu tử tình thâm không gì thay thế được. Một người thứ hai là ông chú ruột của tôi. Khi tìm thấy ông, thì thân thể ông đã bị thương nhiều chỗ. Tất cả gia sản đã vất bỏ hết rồi. Nhưng trên tay đầy máu me, ông vẫn ôm giữ một chiếc hòm nho nhỏ. Xem lại, tôi mới biết rằng, đó là chiếc hòm gia phả của tông tộc chúng tôi. Ông nói trong nghẹn ngào, nếu chú chết, thì con phải có bổn phận giữ lấy. Ông ngất xỉu. Tất cả hiện về như thật, và một niềm đau chảy xuống tận đáy lòng. Những người cùng làm nhìn tôi ngơ ngác, vì nước mắt chảy xuống tự bao giờ.

Nhưng, niềm đau ấy dù có đau bao nhiêu, muốn hay không nó cũng phải chạy về theo quá khứ; nó chỉ còn là một kỷ niệm chôn vùi không thể xóa trong ký ức. Còn niềm đau hôm nay ? Chiều hôm qua, tình cờ đọc được hai bài viết, mà nghe lòng càng xót xa, tê lạnh. Chuyện thứ nhất, nói về việc nhà cầm quyền Cộng sản cướp chùa, đuổi thầy GHPGVNTN, bắt bớ Huynh trưởng GĐPT một cách tàn bạo. Chuyện thứ hai là là lá thư sư Úc Quảng Ba ra lệnh cho ngài Hoà thượng Thích như Huệ tổ chức Xô viết tại Úc châu. Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu chuyện cuối này.

I. Văn nghĩa của lá thư:

Lá thư thiếu văn hoá:

Như đã trình bày trước đây, chữ Việt có 6 thanh: không, sắc, huyền, nặng, hỏi, ngã. Nếu trình như thế này, thì có khi lầm lẫn chết mẹ luôn. Xin thí dụ trong đó có câu:
“TU TU CHOI CAI THUC THE DAO”. Vậy nên đọc làm sao ? Các ngài lại già nua, bệnh hoạn, làm sao hiểu nỗi ý ông ấy muốn gì ? Xin tạm đọc thử:

    1. tự tử chơi, cải thực thể đạo.
    2. từ từ chơi, cài thúc thế đao
    3. tự từ chối cái thực thể đạo

E rằng có quá nhiều kiểu đoán. Câu thứ nhất ra lệnh giả vờ tự tử chơi vui để chuyển hoá cái thế thực có của đạo. Câu thứ hai bảo hãy chơi từ từ, nếu không bị con dao đã nằm sẵn bên hông rồi đấy. Dễ sợ !!! Câu thứ ba lại dạy phải TỰ MÌNH từ chối cái thế thực tiễn, chính nghĩa của đạo Phật.....

Một câu thứ hai cũng quan trọng không kém: “DANH LE TAM HUYET”. Đoán làm sao ?

1. Đánh lẽ tám huyệt.

Chỉ một lời dịch này, thì ngài Hội chủ cũng khiếp vía rồi. Nếu quả thật Quảng Ba đánh vào Bá hội, Đại chùy, Thận du, Mạng môn, Trường cường, Dũng tuyền, Giáp xa, Thái dương, thì ngài e hết .... nổi. Ông Ba lại không đánh một lúc, mà đánh lẻ từng cái, thì chao ôi, ghê gớm lắm. Tiếp sau còn mấy chữ “đao tính, tán thân”, lại còn ghê rợn hơn nữa.

2. dành lệ tam huyệt.

Cái này cũng khủng khiếp không kém; nghĩa là chúng sẽ chôn rồi đào lên ba lần như thế. Không biết trong trường hợp này, Hoà thượng Hội chủ sẽ phải làm sao ? Tôi lo cho ngài quá !

II. Dạng thức của lá thư:

Thực tình, tôi không biết “viên ngọc, đệ nhất luận sư, bác thông Phật pháp, cao tăng chi nhơn” là ai và cái gì, và viết kiểu gì ? Nếu nói là một trình thư thì không đúng, một lá thư cũng trật luôn ..., bởi vì cái gì ra cái đó, nó có kiểu cách của người Việt kia mà. Không lẽ những đại đại ... lại hoá ra tiểu tiểu ... rồi tè tè hay răng chơ ?

Cách trình bày lá thư cho chúng ta thấy một đe doạ ớn lạnh; bởi vì trong Thiền môn, tất cả văn thư đều mở đầu bằng câu “Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni Phật”, nhưng thư này phá lệ. Ông sư Quảng Ba lại viết “Nam mô A di đà Phật”. Phải chăng ông nhắn với Hoà thượng Hội chủ là, nếu không tuân hành mệnh lệnh thì “tiêu diêu” ngay ? Chuyện lạ đời hơn nữa là là cuối cùng ông ghi: “Thích Quảng Ba - Phó Hội chủ GHPGVNTN hải ngoại tại UĐL-TTL”.(tôi tạm bỏ dấu) Nhưng khổ nỗi, trên đầu thì ông:

“Kinh bach HT Hoi chu, HT Pho hoi chu Dieu hanh”. Thế thì, ông HT Phó Hội chủ lo việc điều hành, nhưng nay sao do ông Phó khác sai làm ? Suy đi nghĩ lại cả ngày, mới nhớ ra rằng, “trong chế độ ta nà thế đấy” !!! Phó, nhưng là Bí thư, Chính ủy, có quyền ra lệnh và “xử lý ngay tại chỗ” nếu anh trưởng không theo ! Khiếp thiệt.

III. Nội dung bức thư (tạm gọi như thế)

Đây mới là vấn đề quan trọng, và tự tôi đoán định bỏ dấu vào. Mở đầu, ông viết
“Nhân ngày Tu viện Quảng đức tổ chức lễ đặt đá 25-5-08, nghe tin sẽ có khá đông đủ chư tôn đức GH đến tham dự, chúng tôi xin nhắc lại ý kiến của HT Bảo Lạc là GH chúng ta (do Tăng Ni Phật tử tự thành lập lại từ 1999) cần ngồi lại qua một phiên họp nhỏ, để ổn định tinh thần cho toàn thể thành viên GH trong việc phụng sự GH chung và GH tại Úc, không để những “bão táp Internet” như lâu nay tác động”.

Qua câu trong ngoặc đơn, chúng ta nhận ra ngay một “nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai”. GH Úc châu chắc chắn là do tăng Ni Phật tử Úc châu lập ra, chứ không lẽ do Việt cộng lập ra ??? Đó là đứng về phương diện tình lý bình thường mà nói; nhưng trong sâu thẳm, thì tôi không biết đó nghen.

Nhưng vấn đề quan yếu là, ông ta viết như vậy để làm gì, khi ông thưa thỉnh với HT Hội chủ ?

Lẽ nào HT Hội chủ biết rằng đó là tổ chức do Việt cộng lập nên, và điều khiển, nên Quảng Ba chận đầu nói trước ? Điều thứ hai là, ông ta “chỉ nghe”, chứ không biết thực sự như thế nào, sao lại bốc đồng ra lệnh ngược ? Thái độ ấy, là thái độ kẻ chỉ huy, chứ không phải ngang hàng hay thuộc cấp. Trong tổ chức GH Úc châu, theo ông ấy thì, đã có vị Phó Hội chủ Điều hành, thế thì sao Phó Hội chủ Quảng ba lại ra lệnh cho cả hai vị trên mình ? Rõ ràng, vai trò chỉ huy của Quảng ba quá lố bịch. Hèn chi ông ta nói: ”Úc đang vào mùa thu cũng khá lạnh”. Vì chỗ này, từ đầu tôi nhắc đến thơ của Cụ Nguyễn Khuyến. Quảng Ba chỉ biết doạ người ta về việc lạnh, nhưng anh Ba không biết rằng “lá vàng trước sẽ đưa vèo”, và cũng không biết được rằng “sóng nước theo làn hơi gợn tí”. Lá vàng sẽ bay đi, sóng sẽ nổi dậy, nếu có ngọn gió thổi lên. Gió từ đâu ra ? Từ chỗ thiếu không khí, tạo ra chỗ hổng trong không gian. Hiện nay, Việt nam đang thiếu không khí Tự do, Dân chủ, nhân quyền .... đó chính là ngòi nổ đang chực chờ đấy. Do nhầm lẫn dùng sức mạnh đè bẹp quần chúng, và dùng tiền bạc khống chế hải ngoại, CSVN sẽ phải chết thê thảm, nếu không chịu hối cải. Kéo theo bè lũ ấy, chính là bọn tham ăn, ác độc núp dưới hình thức đảng phái quốc gia, tôn giáo.

Chuyện thứ hai là “bão táp Internet” làm Quảng Ba lo ngại. Nhưng câu hỏi đặt ra là ai tạo nên bão táp ? Phải chăng là do bọn côn đồ Việt gian, giáo gian theo cộng sản ? Và để tìm sự minh chứng, chúng ta lần lượt xem nó nằm ở đâu ? Quảng Ba viết:

“Việc quý ngài Như Huệ, Bảo lạc và Tâm minh không e ngại mích lòng HT Viện trưởng, và không ngại dư luận dèm siểm, đã công khai từ chức không nhận trách vụ của cái cơ cấu GH mới, mà VHĐ muốn thành lập thêm tại Úc, theo quyết định 38, là quyết định riêng của quý ngài, hoàn toàn không có ai trong GH góp ý như vậy. GH quê nhà không có thẩm quyền giải tán GH của chúng ta”

Qua vài câu như thế, chúng ta thấy ngay cái thái độ thiếu giáo dục của tác giả. Thứ nhất, khi nói đến hai vị cấp trên trực tiếp của mình, Quảng Ba không cần viết giáo phẩm của các ngài. Đây là sự coi thường ra mặt. Thứ hai, việc ca ngợi một hành động “chống lại GH” đã chứng tỏ Quảng Ba chống GHPGVNTN. Thứ ba, khi viết “không ngại mích lòng HT Viện trưởng”, Quảng Ba đã tự chứng minh ông ta là một con người nhỏ mọn, chỉ đặt quyền lợi cá nhân lên trên GH. Ở đây, không có chuyện mích lòng hay không mích lòng, mà phải đặt danh dự, trách nhiệm với tổ chức GH mới đúng. Thứ tư, “không ngại dư luận dèm siểm” là một câu rất xuẩn động. Người mà “vô tàm vô quý”, thì không còn xứng đáng làm người, chứ nói chi tu sỹ Phật giáo:

“Thập triền, thập sử tích thành hữu lậu chi nhân; lục căn, lục trần vọng tác vô biên chi tội”; và từ đó sẽ bị :”mê luân khổ hải, thâm nịch tà đồ”. Người như thế, thì đâu cứu mình được, mà đòi độ ai chứ ? Huống chi còn lừa gạt đàn na tín thí để ăn ngon, làm bậy, phục vụ thế quyền gian ác.

Một điều ngược ngạo là, tất cả phe nhóm về nguồn đều cao rao rằng: ”Giáo hội Mẹ không có quyền giải tán”. Chúng ta không cần bàn sâu làm gì, mà chỉ hỏi mấy ông này là, Tại sao GH Mẹ không có quyền gì hết, mà các ông phải xin PHÊ CHUẨN ??? Phải chăng, các ông chỉ muốn VHĐ hợp thức hoá những hành vi chống trả GH, chống lại Tổ quốc của các ông ? Thêm vào đó, dù cho các ông TỰ ĐẺ, nhưng ngay từ đầu, các ông đã tự xin làm con nuôi, thì các ông cũng phải biết “TAM PHỤ THẤT MẪU”, chứ ? Cha mẹ đẻ ra không nuôi, không dạy, thì người cha nuôi là tất cả. Các ông có thấy, người Mỹ như Bill Clinton hay không ? Do cảm niệm ơn sâu dày của “dưỡng phụ”, mà ông ta vẫn để cái họ Clinton cho đến lúc này. Vậy, các ông là ai, là thứ gì mà vong ơn, bội nghĩa đến thế ? Thử nghĩ rằng, nếu không núp dưới bức màn GHPGVNTN, thì đồng bào tỵ nạn đã đạp các ông rồi, còn đâu mà khua mỏ, xỏ xiên ?

Câu chuyện em bé trên đường Kinh hoàng là một bài học cho các ông đấy. Hãy nghiền ngẫm xem sao ? Nó là “đứa trẻ ngây thơ vô trí”, mà còn biết cái vú nhựa không phải vú của mẹ mình. VẬY KHÔNG LẼ CAO SIÊU NHƯ CÁC ÔNG THÌ CHỖ NÀO CŨNG BÚ, MIỄN CÓ SỮA LÀ ĐƯỢC ???

Lại nữa, câu chuyện ông chú tôi chỉ ôm chiếc hòm Gia phả, dù vất bỏ cả gia tài, cũng dạy cho các ông một bài học đích đáng. Người nông dân nhỏ bé không chịu bỏ gia phả mình, còn “cao nhân”, thì cái gì cũng bỏ để tìm chỗ liếm láp nuôi thân được sao ???
Chúng ta phải đọc tiếp, mới biết:

“Nay, GH tại Úc châu đã gần đến ngày Phật đản chung. Kính xin quý ngài hữu trách Hội đồng Điều hành lưu tâm làm sao cho kịp thời:

- HT Hội chủ ra Thông bạch Phật đản, để nhắc nhở tinh thần tu học và phụng sự đạo pháp, đến tất cả Tăng Ni Phật tử.
- HT Hội chủ có thể ủy nhiệm TTK ra văn thư mời HĐĐH họp ở Quảng đức chiều thứ bảy 24/5 để bàn lại và sắp xếp các Phật sự sắp tới: Khóa an cư 3-13-/7/08 và khoá tu học PP Úc châu kỳ 8 3-9/1/2009, cả hai đều đã được HT Bảo lạc xác nhận là vẫn cứ tiếp tục tổ chức
- TT Tịnh đạo, TV phó TV Hoằng pháp gấp gấp liên lạc với SBS để xác nhận giờ phát thanh Phật đản của GH....

Đọc chừng nấy lời, hẳn mọi người đều thấy rằng Quảng Ba là tất cà, là trên hết, nói một cách hay ho là “chính ủy” Úc châu !!! Và như thế, Hoà thượng Thích như Huệ chỉ là bù nhìn cho chúng. Tất cả ngày giờ, địa điểm, công tác .... thậm chí Thông bạch đều do anh Ba quyết định. Cái chế độ “Cộng sản không Cộng sản” này, làm sao mà Phật tử Úc châu chịu được, kể cũng hay quá nhỉ ???

Cuối cùng, chúng con muốn thưa với Hoà thượng Hội chủ Thích như Huệ là, chúng con vẫn tôn trọng ngài, và thông cảm với ngài về sự bức bách của Quảng Ba để ngài phải đang tâm từ chối sự tín nhiệm của GHPGVNTN. Trước tình thế này, quả nhiên gây cho ngài khó xử. Tuy nhiên, để không thẹn với non sông, đồng bào, Phật tử, xin ngài hãy vận dụng tất cả can đảm để không hành động theo MỆNH LỆNH này của Quảng Ba. Ngài hoan hỷ nhớ cho rằng, chính ngài đã từ chức. Trong trường hợp ngài “xuôi theo chiều gió”, thì chúng con vì phải bảo vệ chính nghĩa Dân tộc, GHPGVNTN; kiên quyết đánh trả mọi sự lừa gạt, phản bội. Xin ngài hiểu cho rằng “chiến trường bất câu phụ tử”, và “đao kiếm vô tình” lắm đấy.



CHÚNG TÔI CỰC LỰC LÊN ÁN HÀNH ĐỘNG LẠM QUYỀN, NGANG NGƯỢC, PHẢN BỘI CỦA NGƯỜI MANG TÊN Quảng Ba TẠI GIÁO HỘI ÚC CHÂU


V. Thực hiện Xô viết

Con đường của nhóm Thân hữu Già lam, và tiến đến Tăng Ni Về nguồn, là một con đường “trăm hoa đua nở”, trong đó có nhiều hoa dại rừng hoang; vẽ thành một hình rắn đặc biệt. Lý thuyết của nhóm này không phải tân thời, mà là một bắt chước khủng khiếp theo Constantine IV của đế quốc La mã thời 325 sau tây lịch. Những ai có tìm hiểu lịch sử Do thái- La mã mới biết. Ở đây, chỉ nói ngang chỗ đó thôi, còn vị nào muốn hiểu tận tường thì làm một cuộc so sánh những nhân vật, những hành vi, những ngôn ngữ của hai bên, thì sẽ sáng.

Khi quay đầu nhìn lại, chúng ta thấy, vụ án Trí siêu-Tuệ sỹ đã được sắp đặt rất kỹ lưỡng. Cùng một lúc, chúng diệt hết tất cả những nhân vật then chốt của Phật giáo miền Nam. Bằng cách nào đó, chúng dẫn Hoà thượng Thích trí Thủ vào tròng, và sau khi dùng xong, chúng diệt khẩu. Trước đó, chúng giết ngay Hoà thượng Thích thiện Minh; rồi sau gài ngài Hoà thượng Thích đức Nhuận vào tổ chức kháng chiến vũ trang. Từ đó, Tuệ sỹ, Trí siêu trở thành thánh sống. Trên quan điểm nhân quả thực tại, ngài Thích trí Thủ phải gánh vác trách nhiệm, nhưng xét cho cùng, tôi nghĩ rằng ngài mất tự chủ ngay từ bản đàn Sonata 14. Bọn chúng đã sắp đặt mọi việc một cách bí mật, người tu hành không sao hiểu nỗi. Vì vậy, theo tôi, có lẽ ngài chết vì sau khi đọc lá thư của Hoà thượng Chánh thư ký Viện tăng thống đương thời là ngài Thích đôn Hậu, ngài Trí thủ đã hối hận muốn quay lại với GHPGVNTN. Sợ tan vỡ kế hoạch tiêu diệt Phật giáo, chúng đã sai gia nhân hạ độc thủ ngay tức khắc. Đó chỉ là những suy luận, và dựa trên những tin tức mà tôi có. Cũng theo dư luận ấy, thì có những tên đồ đệ ác ôn kia vẫn thong dong hưởng thụ tại hải ngoại.

Nhắc lại như thế, không phải tôi biện hộ cho ngài Trí thủ, mà để thấy những âm mưu ghê gớm của CSVN đã được thực hiện bởi những bàn tay bí mật cài đặt bên cạnh ngài. Vì vậy, theo tôi, thiếu cái DŨNG, là một tai hại khó cứu chữa. Ngày nay, tại Úc châu, các ngài Thích huyền tôn, Thích như Huệ ... liệu có đủ đức DŨNG để khỏi di hoạ về sau hay không, là do tự các ngài, chứ chúng tôi không thể nào giúp nỗi.

Qua phần trình bày trước, lúc này, ông Quảng Ba đã khống chế toàn bộ GHPGVNTN tại Úc châu, nhưng miệng ông vẫn oang oang nói ông phù GHTN. Chúng ta cần xét xem vài ngôn ngữ hay hành vi, hoặc lý luận của ông xem sao.

a)Lý luận chàng hảng.

Trong thư từ chối Debate, Quảng Ba và người tự tạo ra chuyện ấy, đã tìm cách hạ nhục tôi, và bảo rằng tôi vu khống. Cái trò chơi đá banh này, tôi đã chơi hồi còn bé, họ không dễ qua mặt đâu. Có điều, thằng nhỏ quê đi hay không biết rằng, ngay cả trong hai cuốn sách MÚA NỮA ĐI CƯNG, NGƯỜI VIỆT NÊN CHỐI BỎ ???, và tất cả bài viết, tôi ghi rõ rằng, tôi chỉ là một nông dân thấp kém, thiếu học; tự nguyện “tay cày, tay kiếm”, chẳng màng danh lợi chi cả, góp phần vào việc “trừ gian, khử bạo, tồi tà phụ chính”, mà thôi. Đã là nông dân, thì làm sao mơ danh, ước lợi chứ ??? Không có và cũng không thể.

Sư cụ Quảng Ba viết:

“Chúng tôi trong đạo Phật không bao giờ coi GH mình là một chính phủ, một đảng phái, một công ty, mỗi tỳ kheo trong GH có quyền hành đạo theo hiểu biết của riêng mình, có thể ở trong hay ở ngoài bất cứ GH nào, cũng có thể tham gia nhiều giáo hội cùng một lúc, có thể nhận chức vụ hay không nhận chức vụ nào cả vẫn tu hành được”.

Mới nghe qua, hay thiệt là hay; bởi vì Phật giáo là một tôn giáo rất tự do. Ai tu nấy chứng. Do vậy, ông thầy không ép nài chi người học trò cả; chỉ y pháp mà truyền dạy cho môn đồ. Đây là một điểm mà không tôn giáo nào có. Thế nhưng, người học trò đã được dạy:

”Thượng tự chư Phật, Thánh nhân, sư tăng, phụ mẫu; hạ chí quyên phi nhuyễn động vi tế côn trùng, đản hữu mạng giả bất đắc cố sát. Hoặc tự sát, hoặc giáo tha sát, hoặc kiến sát tuỳ hỷ”.

Vậy, ông ta có thể nói rằng, tôi không xem thầy tôi là tối thượng, không phải là ông chủ .... nên tôi có quyền xem thường, bất tuân, hãm hại ...? Giả như, ông học trò ấy, thấy người ta giết thầy mình, hại thầy mình, thì ông ấy có thể ngồi nhìn và nói rằng, Phật dạy: sống chết là nhân quả; do thầy gây nghiệp, nên chịu quả báo hay không ? Đó là chưa nói tự mình giết thầy hay kêu người khác giết thầy mình. Câu nói “mỗi tỳ kheo trong giáo hội có quyền hành đạo theo hiểu biết riêng mình”, là câu nói mang ý nghĩa gì ? Đã tự gọi “trong Giáo hội”; nghĩa là ông đã nhận Giáo hội là của mình; thầy là thầy mình, thế sao lại có thể đi ra ngoài cái mình tự chọn ? Hoá ra, ông ấy tự phản bội chính mình ? Theo luật Phật, mỗi học trò bậc Sa di sẽ được thầy xem xét kỹ lưỡng, trắc nghiệm trình độ, rồi cho thọ Tỳ kheo khi đúng tuổi. Vị tỳ kheo ấy phải ở bên thầy 5 năm để học hỏi, thực nghiệm thiền quán ... Nếu người học trò không tu hành nghiêm túc thì thầy có thể đuổi ra khỏi thiền môn. Như thế, ông học trò ấy có thể nói rằng thầy đừng chơi kiểu chính phủ, công ty ... với tui hay không ? Ngày xưa thì không có, còn bây giờ e hết 90% như thế. Vậy sư cụ Quảng Ba cũng có mặt trong số này chăng ?

Khi ông Quảng Ba nói rằng: ”Cũng có thể tham gia nhiều GH cùng một lúc”, thì tự ông đã phơi bày toàn bộ trí não thượng thừa của ông rồi ! Tiếc thay cho “hòn ngọc, đệ nhất luận sư, quảng thông Phật pháp ...”!!! Cái mớ lý luận này, dân cày tôi nghe sao ngượng quá. Xin hỏi “đệ nhất luận sư”, cái luận này thuộc vào loại gì ? Phải chăng là “chàng hảng”. Nhưng “chàng hảng” thì trước sau cũng “toạc háng”. Trước đây tôi đã có trình bày tổng quát, nay đi thẳng vào vấn đề chính. Hiện nay, thực tế tại Việt nam có hai Giáo hội; đó là GHPGVNTN và GHPGVN quốc doanh. Nhưng, khổ nỗi GH quốc doanh đang tâm giết GHTN, vậy ông Quảng Ba theo GH nào, hay theo cả hai ? Câu trả lời, ông đã xác nhận: ”Cũng có thể tham gia nhiều GH cùng một lúc”. Vậy vấn đề thế nào ?

a) GH quốc doanh giết GHTN. Bằng chứng:

    - HT Trí thủ, Minh châu, Trí tịnh, Từ nhơn ... đi riêng để lập GH quốc doanh, phụng sự cho CNCS dưới biển đề Dân tộc, đạo pháp, XHCN
    - Ông Minh châu viết thư buộc tội HT Quảng độ, HT Huyền quang.
    - Ông Trí tịnh, Từ nhơn đốt hết hồ sơ GHTN.
    - Ông Trí quảng hạ bảng hiệu GHTN, cướp chùa Ấn quang
    - GH quốc doanh không công nhận GĐPT

b) GH quốc doanh phục vụ thế quyền CSVN. Bằng chứng:

    - HT Trí thủ đứng hầu quan tài Tôn đức Thắng.
    - Ông Trí tịnh ngồi trên khán đài duyệt binh mừng “giải phóng” ngay từ đầu.
    - Ông Minh châu đem dạy chủ nghĩa Mác Lê - Hồ trong các trường Phật giáo
    - GH quốc doanh đem thân làm thành viên MTTQ, một cơ cấu chính trị CS.
    - Các ông trong GH quốc doanh đều tham gia chính trị, như dân biểu, Mặt trận Tổ quốc như HT Trí thủ, Thiện siêu, Minh châu, Mật hiển ....
    - GH quốc doanh nhận huy chương, bằng khen ....của ngụy quyền CS
    - GH quốc doanh đều mặc áo vét đỏ, huy hiệu cờ đỏ sao vàng để phản đối NQ 427 của Mỹ, và NQ châu Âu
    - Đưa cán bộ công an giả làm sư để tiêu diệt PG.
    - GH quốc doanh chịu sự giám sát giới trường Phật giáo của CSVN.
    - GH quốc doanh chịu sự điều động trực tiếp của Đảng CS trong mọi vấn đề, từ cơ cấu tổ chức, đến giáo dục Tăng Ni, mọi hoạt động chính trị đối nội cũng như đối ngoại.
    - GH quốc doanh chấp nhận Tăng dâm ô như Hạnh Phượng, Tăng tại tục như Lê mạnh Thát, Tăng cán bộ như nhóm Nguyễn thành Đạt (MĐQ)....

Vô số chuyện. Vậy, khi “có thể tham gia nhiều giáo hội cùng một lúc”, thì ông Quảng Ba cũng làm tất cả việc trên này sao ? Từ đó, cho chúng ta thấy, trong tất cả những chuyện gian ác của GH quốc doanh, Quảng Ba đều có tham gia cả. Thế thì, giết GHPGVNTN cũng có anh Ba, cứu GHTN cũng có anh Ba. Về theo tên tóc bờm Thát làm IOC cũng có anh Ba. Kêu gọi mời GHTN cũng có anh Ba .... Lạ thiệt đó nghen. Ai nghe được thì cứ nghe, còn tớ đây xin phủi .... vì cái mớ lý cùn này. Hiện nay, hai GH này đang chiến cự ác liệt, VẬY, CHIẾN SỸ Quảng Ba SẼ BẮN CẢ HAI BÊN CHO CHẾT HẾT, để thu lợi về cho đảng CS chăng ??? Và điều ấy đang từ từ ló dạng. Kiếm khách này chỉ đứng một phe, PHE CỦA DÂN TỘC, ĐẠO PHÁP VÀ TỪ BI CỨU KHỔ, cho nên sẽ tự nguyện chém bất cứ kẻ gian ác nào hãm hại Tổ quốc, Dân tộc và Đồng bào Việt, trong đó có GHPGVNTN, Phật tử Việt nam. Với tôi, tất cả những lý luận “chàng hảng” là gián điệp của địch, nhứt định phải tiêu diệt. Bọn gian manh đang học bài học của gần 20 thế kỷ trước để làm cho “con chống cha mẹ, dâu chống bà gia, và người nhà sẽ là kẻ thù của nhau”. Thật khủng khiếp !!!

Còn câu này nữa:

“có thể nhận chức vụ hay không nhận chức vụ nào cả vẫn tu hành được”.

Vậy thì, xin hỏi ông Ba rằng, không chạy về hợp tác với Lê mạnh Thát, làm tay sai cho CS cũng tu hành được; GH không phê chuẩn cho ông làm phó hội chủ cũng tu hành được; không lên Internet cũng tu hành được, không lên Paltalk cũng tu hành được; không làm Thân hữu Già lam cũng tu hành được, không tổ chức Tăng Ni hải ngoại Về nguồn cũng tu hành được; không chống GHPGVNTN cũng tu hành được; không bảo lãnh cán bộ Tăng Ni từ Việt nam sang cũng tu hành được .... Vậy sao ông không làm, mà cứ chạy tứ tung bát giác ? Thậm chí, nay cả lũ phải chui vô lông nách cán bộ Giác nhiên Nguyễn văn Ất ??? Nếu quả thật, ông tự làm theo lý thuyết của ông, thì sao không ngồi tu, mà la làng, la xóm, quậy phá tùm lum ? Như thế, thì rõ ràng ông đã lừa thiên hạ rồi !!!

Khi nói đến sự tôn trọng tự do của Phật giáo, thì cũng phải biết đến mấy chữ TỰ TÁC TỰ THỌ, là nhân quả rất tự nhiên. Nếu ông không theo Lê mạnh Thát, nếu ông không chống lại GHTN, nếu ông không lập cái Về nguồn ... thì chắc không ai nói đến ông. Sự tự do không có nghĩa là ông muốn gì làm chuyện đó, mà phải tôn trọng sự tự do của kẻ khác. Ông ăn xin của chúng sanh, thì ông phải lo tu hành để cứu độ chúng sanh; nếu không, thì phải làm trâu cày trả nợ sau này. Vậy thì, ông ăn cơm mặc áo của người TỴ NẠN CỘNG SẢN, sao lại có thể “tham gia bất cứ GH nào”; trong khi GH quốc doanh tàn hại GHTN, là GH mà chính ông công nhận là từ đó ông được trưởng thành. GH quốc doanh là GH tay sai cho CS không ai có thể chối cải; vậy thì, khi ông nói như thế, cũng rõ ràng ông đã tham gia vào đó; chính ông phản bội đồng bào Tỵ nạn cộng sản, phản bội GHTN, phản bội Phật tử. Xin nhắc cho ông biết rằng, kẻ “chàng hảng” là kẻ sẽ bị chết giữa hai lằn đạn. Thê thảm lắm ông ơi !

Trong bức “mật thư” chỉ thị cho hai vị Hội chủ và Phó hội chúc GH Úc châu, sư cụ Quảng Ba viết:

“Tuy nhiên vì GH đã yêu cầu có 4 ngài lấy tư cách cá nhân viết thư về Việt nam yêu cầu GH bên nhà chấp nhận cả GH chúng ta (kết quả phiên họp 5/1/08) để hai bên dễ làm việc hơn, bây giờ GH bên nhà không chấp thuận ý kiến của quý ngài, nên qúy ngài vì kính trọng sự nguyên vẹn của GH tại Úc nên đã quyết định từ chức để giữ yên GH tại Úc lâu nay, chứng tỏ quý ngài đã trân trọng tình đạo, và nắm vững thực tế, không hoang tưởng như những vị ở Paris, Saigon hay Denver”.

Việc thứ nhất, “GH đã yêu cầu có 4 ngài lấy tư cách cá nhân viết thư về Việt nam yêu cầu GH bên nhà chấp nhận cả GH chúng ta”, là một điều không thể chấp nhận. Văn thư xin chuẩn y phải do GH Úc gởi về Viện hoá đạo, chứ không thể nào nhân danh các nhân để yêu cầu chấp nhận. Lời lẽ này chứng tỏ Quảng Ba không tôn trọng GHTN. Đã nói rằng “GH quê nhà không có quyền”, thì tại sao phải xin phê chuẩn, phải xin từ chức ? Sao có chuyện XIN và TỪ CHỨC, với những kẻ không có quyền ? Thứ hai, khi đã cúi mình xin phê chuẩn, thì cơ quan ấy có quyền PHÊ và CHUẨN; chứ không phải chỉ theo đuôi kẻ đề nghị. Như vậy, không phải là yêu cầu điên đảo hay sao ? Lẽ nào bầy con yêu cầu cha chúng bán cả từ đường, gia phả họ mình, rồi bắt cha chúng phải chuẩn y được sao ? Như thế, hóa ra chúng chỉ vì mục đích bán tổ tông kiếm lợi; cha chúng không cho, không thuận, chúng lại “tập hợp đa số” để chửi lại cha mình ??? Thứ ba, khi viết “để hai bên dễ làm việc hơn”, Quảng Ba đã coi mình ngang hàng với cha mẹ; coi thường hệ thống pháp phái, tông môn, Giáo hội. Thế thì, một kẻ không còn biết thượng hạ, quy củ ... có xứng đáng để người ta tôn trọng, hay phải bị búa rìu công luận, khinh dễ của người đời ?

Khi viết, “bây giờ GH bên nhà không chấp thuận ý kiến của quý ngài, nên qúy ngài vì kính trọng sự nguyên vẹn của GH tại Úc nên đã quyết định từ chức để giữ yên GH tại Úc lâu nay, chứng tỏ quý ngài đã trân trọng tình đạo, và nắm vững thực tế, không hoang tưởng như những vị ở Paris, Saigon hay Denver” thì chính Quảng Ba đã xúi dục nổi loạn thiền môn; nghĩa là thực hiện kiểu Xô viết.

Không có chuyện “không chấp thuận ý kiến cá nhân” là từ chức. Như thế, những vị này đã vì cá nhân mà quên GH, lấy nhỏ bỏ lớn; lìa con đường cao rộng của Phật pháp để tiến vào vị kỷ nhỏ hẹp, tồi tàn. Chính họ đã xem GH là của riêng, là chỗ để lợi dụng, là nơi hợp thức hoá cho tham tâm, cuồng vọng cá nhân. Và đến đây, chúng ta hiểu ngay rằng, những cá nhân ấy đã tự mình phơi bày dã tâm lợi dụng GH Úc; và đó là lý do tại sao Viện hoá đạo không phê chuẩn tòa bộ GH Úc châu.

Có ngược ngạo lắm không khi mà “GH quê nhà không có thẩm quyền giải tán GH của chúng ta”; và “đã quyết định từ chức để giữ yên GH tại Úc” ? Khi GHPGVNTN trong nước, tức GH mà xưa nay được gọi là GH Mẹ không có quyền giải tán, thì ai có quyền gì để xoá bỏ GH Úc mà phải GIỮ YÊN ? Chỉ có điên khùng mới xin Phê chuẩn, và xin Từ chức với một cơ quan không có quyền gì với mình cả, phải vậy không ??? Vậy thì, mục đích của sư Quảng Ba là cái gì ? Là gạt GHPGVNTN ra ngoài sự liên hệ với GH Úc châu; nói cách khác, ông đã đưa đẩy GH Úc châu chống lại HĐLV ở trong nước; nghĩa là ngang nhiên TỪ CHỐI MẸ CHA để bước vào con đường phiêu du độc lập !!! Mấy chữ “quý ngài trân trọng tình đạo”, nghe mà xót xa làm sao ấy ! Thương ôi, ngày nay lại có nhà đạo đức ca ngợi những đứa con hoang bỏ nhà, coi thường cha mẹ chúng, là có tình, có nghĩa. Sao người có “tình đạo”, mà không có tình thầy tổ, tông môn ? Phải chăng, tình đạo ấy là tình xì ke, ma túy; tình cô hồn, du thử, du thực; tình của những con quỷ đói chỉ biết kiếm ăn không còn lưu tâm đến lương tri, đạo đức ?

Để hiẻu rõ hơn về thái độ của sư cụ Quảng Ba, chúng ta nên lưu tâm sự liên hệ hai câu này: “ô nhục cho 40,000 Tăng Ni của GH này”, và câu :”Tôi lên án CSVN, mà không lên án các đồng đạo đáng thương của chúng tôi. Họ đáng thương hơn đáng trách”.

Do quan điểm “từ bi vô lượng” này, sư không ngại đưa GIÁO GIAN ra nước ngoài để khống chế GHPGVNTN; lấy sư đánh sư chơi; lấy GHTN chơi GHTN. Tuyệt chiêu CPV !!!

Dù “ngu xuẩn hết cỡ” như tôi, tôi cũng phải đặt câu hỏi tại sao trong một chế độ chống lại tôn giáo lại có nhiều người tu như thế ? Nếu không biết hỏi câu này thì chỉ được gọi là “trần truồng và đần độn”mà thôi. Lẽ nào sư cụ QB không biết ??? Dzui dzẻ nhỉ ? Cái buồn nôn là “chống CS” mà không chống “sư công an CS”; ngược lại còn gọi là “đồng đạo” ! Theo GHTN mà cũng theo GH quốc doanh ! Nghĩa là sư cụ tung hoả mù tứ chiến nan y; vừa chém, vừa xoa thuốc, băng bó. Ôi, thiên địa quỷ thần uơi, vị lương y giết người đấy.

Xin đồng bào nhớ cho rằng, hãy xé bỏ những băng bó của kẻ thù như cụ Phan thanh Giản đã làm; nếu không, thì nó băng xong, nó ngồi đó để xem cái chết đày đoạ từ từ của nó đối với chúng ta mà thôi. Một trò chơi nham hiểm, độc địa.

XIN HÃY CÙNG NHAU VẠCH MẶT BỌN ĐẦU HÀNG CỘNG SẢN DƯỚI NHỮNG MỸ TỪ ĐẠO ĐỨC, NHÂN ÁI.

Bảo Quốc Kiếm 04-5-08

Saturday, May 3, 2008

Chừng Nào ở Việt Nam, có Thiên An Môn đây ?: 04.05.1989

Anh Nguyễn Tiến Trung đâu, và các Sinh Viên chống Đuốc OLYMPIC BẮC KINH đâu ?. Chúng tôi, Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại, đang trông chờ Thế Hệ Rường Cột của Nước Nhà đứng dậy đòi hỏi Dân Chủ và Nhân Quyền cho Đồng Bào.

Kẻ thù của nhân dân Việt Nam chính là Đảng CSVN vì Đảng áp bức "dân oan", "cướp đất của dân", tham nhũng nên làm cho Dân nghèo, xuất cảng phụ nữ đi bán dâm, bắt người vô cớ không có luật lệ chi cả , không chăm lo giáo dục cho con trẻ , y tế cho dân chúng, đàn áp tôn giáo, v.v... Tương lai thế hệ trẻ không có, thất nghiệp dẫy đầy.

Các anh chị em sinh viên thanh niên trong nước, các anh chị em còn chờ gì nữa ? Tương lai của Đất Nước đang ở trong tay của các anh chị em!

Và riêng đối với các anh gọi là "Dân Chủ Đối Kháng cuội" ăn nhậu ở nhà hàng và chụp hình gởi ra Hải Ngoại , rồi nói là Công An CSVN làm khó dễ.

Các anh hãy nhìn tấm hình dưới đây để biết rằng Cộng Đồng Hải Ngoại chúng tôi không phải "ngu" như các anh đâu . Chúng tôi đang thưởng thức "tuồng hề dỏm" của các anh đang diễn với sự chỉ dạy của bọn cầm quyền CSVN và bọn tay sai lưu manh ở Hải Ngoại nầy đấy !


Trích từ tinparis.net

Friday, May 2, 2008

Dinh Độc Lập 30 Tháng Tư 1975

Kể lại vài việc diễn ra trong Dinh Độc Lập

Thanh Thương Hoàng



Hàng năm cứ tới ngày 30 tháng Tư đa số người Việt nơi hải ngoại chúng ta lại không khỏi bâng khuâng xao xuyến, không khỏi thở ngắn than dài, không khỏi ăn năn hối tiếc, và nhất là không khỏi oán hờn (cả bạn lẫn thù).

Mặc dầu đã hơn 30 năm trời trôi qua, thời gian đã phôi pha, biết bao vật đổi sao rời, mà lòng người Việt vẫn “đá mòn nhưng dạ chẳng mòn”. Tới ngày này là dư luận lại như nổi sóng và mọi việc người ta nói tới khiến có cảm tưởng như mới xẩy ra ngày hôm qua. Chuyện thật, chuyện giả, tuyên truyền, bênh vực, xuyên tạc, khiến cho lớp hậu sinh (thuộc các thế hệ sau) sinh ra và lớn lên ở đất nước người này sẽ chẳng biết đâu mà lần. Và tất nhiên dù muốn dù không rồi người ta cũng sẽ tin vào lời nói và sách viết của những kẻ tự coi là thắng trận vì mấy ai chịu tin kẻ bị thua (?). Do đó sẽ rất thiệt thòi cho chúng ta, những người quốc gia. Chúng ta sẽ bị mang tiếng và sẽ “mất mặt”, vì theo luận cứ của kẻ (tự coi là) chiến thắng, thì chúng ta là người có “tội” với đất nước.

Vậy theo tôi, trong khi chúng ta, những người quốc gia cuối cùng còn lại (của cuộc chiến) nên nói, nên viết ra hết những gì mình tai nghe mắt thấy, dù lớn dù nhỏ, trong cơn biến động long trời lở đất của non sông đất nước để may ra góp được phần nào trong muôn một của sự thật, ngõ hầu con cháu chúng ta mai sau có thể “nhìn” thấy để biết sự thật (lịch sử) một cách vô tư trong sáng.

Tôi may mắn được quen biết một ông bạn già nhà binh từ khá lâu và được ông cho biết ông có một người bạn từng chứng kiến nhiều sự việc xẩy ra trong và quanh Dinh Độc lập, vì ông giữ một vai trò khá quan trọng (trong Dinh) những ngày Saigon hấp hối – 30 tháng Tư 1975. Ông vốn là người khiêm tốn, kín tiếng, không muốn “lời qua tiếng lại ồn ào”, thầm lặng sống những ngày tháng còn lại nơi xứ người. Tôi nghe cũng để biết vậy mà thôi.

Một buổi tối tôi “coi” truyền hình thấy một ông nhà thơ phỏng vấn một cựu sĩ quan VNCH về những vấn đề có tính cách “ngoại sử” nhưng lại rất hữu ích cho những người còn ôm mối hận lưu vong. Tôi chợt nhớ tới “ông bạn của ông bạn tôi”, một nhân vật từng một thời “trấn nhậm” trong Dinh Độc lập. Tôi nghĩ ông phải biết nhiều sự việc xẩy ra trong mấy ngày Dinh đổi chủ, biết đâu chẳng giúp giải đáp cho mình nhiều nghi vấn. Tôi nhờ ông bạn nhà binh già dàn xếp cho một cuộc phỏng vấn. Lúc đầu ông (người tôi muốn phỏng vấn) tỏ ý ngại ngùng vì “không muốn dư luận bàn tán đàm tiếu”. Nhưng rồi nể lời ông “bạn đồng cấp” của ông, ông bằng lòng với sự dè dặt thường lệ: “Biết gì, thấy gì tôi nói, thế thôi, vì tôi không phải là yếu nhân, chỉ là kẻ thừa hành của người trong cuộc. ”Chuyện ông cho tôi biết, dù nếu chẳng có gì to tát hay quan trọng, tôi nghĩ đó cũng là những sự việc mà chúng ta nên ghi nhận để (nếu đúng là vậy) trả lại sự thật cho những sự việc mà bấy lâu nay chúng ta vẫn cứ đinh ninh là như vậỵ Hơn nữa, một vài viên gạch của ngôi nhà sụp đổ biết đâu lại chẳng giúp chúng ta khi cần có thêm vật liệu để xây lại một bức tường!

Ông không muốn tôi kể tên ông trong bài viết. Tôi nói nếu vậy bài viết sẽ khó tạo được niềm tin nơi người đọc và giá trị sự thật giảm đi nhiều (vì có thể người ta cho là tôi bịa). Vậy thì tôi cứ xin phép kể tên và chức vụ ông ra đâỵ Ông có trách tôi xin chịụ Nhưng dù sao, nể lời ông, tôi xin ghi tắt tên họ ông. Đó là (nguyên) đại tá VQC, chánh võ phòng Dinh Độc lập dưới “trào” Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho tới ngày 30.4.1975.

Cuộc chuyện trò diễn ra dưới hình thức phỏng vấn, hỏi đáp.

Được hỏi về những việc xẩy ra trong ngày 30.4.1975 trong và quanh Dinh Độc lập (mà ông tai nghe mắt thấy) ông VQC cho biết: hai cánh cổng chính (mặt tiền) Dinh Độc lập ngày 30.4 được mở từ buổi sáng. Khi đó trong Dinh mọi người vẫn qua lại tuy với một cung cách không bình thường. Ông Nguyễn Văn Hảo (nguyên phó Thủ tướng) thấy ông vẫn mặc bộ đồ nhà binh nói ông và các nhân viên quân đội làm việc trong Dinh nên thay đồ dân sự là hơn. Thế là từ lúc đó trong Dinh chỉ còn một người duy nhất bận đồ nhà binh, cổ áo mang ngôi sao: đó là cựu chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh vừa được “phong” quyền Tổng tham mưu trưởng.


Xe tăng Bắc Việt húc đổ cổng chính Dinh Độc Lập trưa ngày 30 tháng 04 năm 1975. Photo AFP/Getty Images.


Vào lúc 10 giờ 30 có một xe bọc sắt (hình như là loại V10) của Lôi Hổ (lực lượng đặc biệt) chở mấy sĩ quan mặc đồ rằn ri tới. Họ vào trong Dinh mời ông Nguyễn Hữu Hạnh ra trước cửa Dinh đứng trước chỗ xe bọc sắt đậu và lớn tiếng chất vấn: “Chưa có gì sao đã bắt (chúng tôi) buông súng?” Sau một hồi nói qua nói lại, không biết ông Hạnh nói gì đó, mấy sĩ quan này bỏ ra xe bọc sắt phóng đi. Ông Hạnh vào trong Dinh nói với ông VQC muốn có một xe díp để đến Bộ Tổng tham mưu. Ông VQC kiếm cớ từ chối là tài xế đã bỏ đi mất.

Tới khi bị nhốt chung trong phòng, ông Hạnh nói với ông VQC: “Tôi cám ơn anh lắm. Sự việc mà anh không giúp tôi (cái xe) để trở về Bộ Tổng Tham Mưu đã cứu sống tôi. ”Ý ông ta nói là nếu lúc đó ông trở về Bộ Tổng tham mưu thì có thể đã bị (quân ta) giết chết.

Vẫn theo lời kể của ông VQC mãi tới 12 giờ 30 trưa mới có hai xe tăng, một xe nơi cần “ăng ten” có treo cờ Mặt trận giải phóng miền Nam xanh đỏ, lao qua cổng chính vào trong Dinh.

Sau khi hạ cờ VNCH trên nóc Dinh Độc lập và treo cờ Giải phóng miền Nam xong (chính là lá cờ trên xe tăng), binh lính Việt cộng trên hai xe tăng đậu trước sân Dinh đồng loạt nổ súng chỉ thiên để mừng chiến thắng.

Tôi hỏi: “Lúc ấy các ông ở đâu?”
Ông VQC: “Ở trong Dinh”.

“Nghĩa là vẫn chưa bị họ nhốt?”

Ông đáp: “Anh em chúng tôi vẫn chưa bị nhốt, lúc họ mới vào thì họ chưa có hành động gì hung hăng cả.”

Và ông cho biết thêm: “Khi đó rất đông dân chúng tụ tập ngoài hàng rào sắt của Dinh Độc Lập, có lẽ vì hiếu kỳ, thấy hai bên không có bắn nhau họ bèn tràn vào trong sân rồi cả trong Dinh để coi cho biết.

Kể từ lúc hai cái xe tăng vào trong Dinh cho đến khoảng 1 giờ sau, trong Dinh coi như ai muốn đi ra ngoài hay ở lại cũng được, chưa có sự kiềm chế nào. Các viên chức trong Nội các mới đều ở lại trong Dinh. Hai ông Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu ở trên lầu. Lúc đó vào khoảng 2 giờ chiều, một lính VC đứng ở ngay gần cầu thang đi lên lầu dùng tay đưa lên miệng làm loa và nói lớn: “Ai có phận sự trong Dinh thì vào làm việc với chúng tôi trong phòng họp này (chỉ vào phòng lớn mà trước đây vẫn dùng làm phòng họp nội các), phòng này nằm ở tầng dưới, phía bên cánh trái dinh Độc Lập. Còn không thì ra về.”

Lúc ấy dân chúng lục tục ra về hết. Vào khoảng 3 giờ chiều chúng tôi bị họ đưa xuống nhốt trong một phòng dưới tầng hầm là chỗ làm việc dành cho Tổng thống khi có biến cố đảo chánh xảy ra, (phòng này ở liền bên cạnh có phòng đặt máy móc truyền tin). Buổi tối họ chuyển chúng tôi lên phòng họp nội các trước đây, là ngay tầng trên của căn phòng dưới hầm, tức là căn phòng mà họ đã chỉ định cho chúng tôi vào trong đó không được đi ra ngoài, bên ngoài cửa thì có một binh sĩ VC mang súng AK đứng gác. Có tất cả 23 người bị nhốt hai ngày tại phòng đó.

Trong số này tôi nhận thấy có các ông Bùi Tường Huân, Bùi Thế Dung, chủ tịch Giám sát viện Bùi Hòe Thực, hai đại tá giữ chức vụ Giám sát viên, cựu chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, một số anh em sĩ quan cấp úy và binh sĩ, có cả anh lính lái xe cho tôi. Nhìn ra ngoài phòng (qua cửa kính) tôi thấy ông Nguyễn Văn Hảo đi qua lại thong thả và chuyện trò với binh lính Việt cộng. (Lời ghi thêm của người viết: ông Nguyễn Văn Hảo khi đó không giữ một chức vụ nào trong Nội các Vũ Văn Mẫu. Ông tự động vào trong Dinh Độc lập với những ý đồ riêng).

Chúng tôi bị giữ từ chiều ngày 30 mãi tới sáng ngày 2 tháng 5 thì tôi được tha về. Tôi không hiểu sao họ chỉ gọi mình tôi. Trước khi thả, một người xưng là Đại tá phó chính uỷ quân đoàn (chiếm Dinh Độc lập) trao tôi một tờ giấy nhỏ bằng bàn tay đánh máy, do ông ta ký tên chứng nhận cho tôi về nhà chờ lệnh sau. Và ông ta cũng thông báo với tôi là “ngày mai sẽ cho các anh về hết”. Trước khi về tôi lên lầu chào tướng Dương Văn Minh. Tôi nhớ mãi câu ông nói với tôi khi chia tay một cách rất chân tình và cảm động: “Anh C. à! Tôi nghĩ việc tôi làm không có gì ân hận cả. Vì việc làm của tôi đã cứu rất nhiều người giúp cho Saigòn không bị đổ máu”. Kể tới đây ông VQC nhớ lại buổi tối 29 tháng tư, lúc 11 giờ đêm, ông cùng Trung tá Võ Ngọc Lân (chỉ huy trưởng Liên đoàn phòng vệ phủ Tổng thống) thấy ông Dương Văn Minh đang đi qua lại trước cửa Dinh, ông hỏi ông Dương Văn Minh cốt ý để cho ông Trung Tá Võ Ngọc Lân cùng nghe thấy lệnh: “Thưa Trung Tướng nếu ngay đêm nay các đơn vị của quân đội ở bên ngoài không còn chiến đấu, để bỏ trống rồi Việt Cộng vào tới đây, bọn họ tấn công thẳng vô Dinh, mình có chiến đấu đến cùng để giữ không?” Ông Minh sau một lúc có vẻ khó trả lời rồi chỉ nói vắn tắt: “Thôi anh à!”

Sau khi được cái lệnh đó của ông Dương Văn Minh, ông VQC nói cho Trung Tá Võ Ngọc Lân thi hành ở trong Dinh rồi dùng xe đi ra ngoài cổng Dinh Độc Lập, qua phía bộ Ngoại giao, nơi có một tiểu đoàn Nhẩy Dù trấn đóng. Ông gặp Thiếu tá chỉ huy tiểu đoàn Dù nói lại lệnh của tổng thống Dương Văn Minh. Ông Thiếu tá Dù đòi ông VQC viết giấy làm bằng. Ông VQC đã viết mấy chữ trên tờ giấy nhỏ rồi ký tên. Sau đó ông trở vào Dinh và khoảng 12 giờ đêm thì ông cùng ông Dương Văn Minh và một số người trong Nội các mới ra về Dinh Hoa Lan, ngủ lại đó tới sáng hôm sau (30.4) thì tất cả đến Dinh Độc lập. Ông VQC nói là cả ngày 30 tháng Tư, bọn ông bị bỏ đói cả ngày, và khát thì uống nước máy. Buổi tối ông được một người lính dưới quyền kiếm cho ít cơm cháy chia nhau ăn và rồi tất cả 23 người đều phải ngủ ngồi trong phòng. Tối đó ông thấy bộ đội kéo vào trong Dinh rất đông. Họ tấp nập nấu nướng ăn uống tắm rửa giặt dũ.

Tôi hỏi: “Có sự chống đối nào trong Dinh không?”
Đáp: “Vì bị nhốt trong phòng nên tôi không biết những việc xẩy ra bên ngoàị Sau này tôi có nghe nói một trung úy trong đội cận vê bị bắn chết, không hiểu rõ nguyên do”.

Tôi muốn biết về việc các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Hạnh được “họ” cho về khi nào, ông VQC cho biết buổi sáng ông về thì buổi chiều được tin các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Hạnh và những người khác cũng được về ngay buổi chiều hôm đó. Câu chuyện “Dinh Độc lập” tới đây coi như chấm dứt. Trước khi chia tay ra về, ông VQC như chợt nhớ ra nói: “Còn một chuyện này nữa, ngày 6 tháng Tư (1975) anh Võ Văn Cầm, (đại tá chánh văn phòng phủ Tổng thống, người trực tiếp nhận lệnh Tổng thống rồi truyền lại cho các viên chức hữu trách trong Dinh) nói với tôi: “Kể từ hôm nay và trong 3 ngày sắp tới, nếu có biến cố gì xảy ra, anh ráng điều động lực lượng phòng vệ Dinh cố thủ cho bằng được từ cổng Dinh vào tới trong Dinh độ nửa giờ. Sau đó tôi có người lo”.

Tôi thắc mắc: “Tại sao có chuyện đó? Anh Cầm nói có thể có đảo chánh và sẽ có lực lượng nhẩy dù và thiết giáp tiếp cứu”

(Không thấy có đảo chánh xẩy ra như chúng ta biết nhưng sáng ngày 8 tháng Tư viên phi công Nguyễn Thành Trung lái F5 thả bom Dinh Độc lập).

Trên đây là cuộc phỏng vấn cựu đại tá VQC, nguyên chánh võ phòng phủ Tổng thống thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Người viết nghe sao ghi lại vậy, không hề thêm bớt hay bình luận. Mong rằng bài viết này sẽ giúp ích phần nào cho các nhà viết sử và nghiên cứu sử về một ngày tháng đen tối bi thảm của Việt Nam Cộng Hòa.



Thanh Thương Hoàng


Thursday, May 1, 2008

Trịnh Công Sơn và cho những ai còn “trong cơn mê”)

Một bài viết về một người đã "đâm sau lưng chiến sĩ" QLVNCH trong cuộc chiến bảo vệ tự-do và cũng để góp phần vào việc "đem nghèo đói, đau khổ" cho dân Việt từ ngày 30-4-1975 đến nay.
          "Lạy Trời, xin đừng biết
          Tôi chết vì tay anh"
(Trịnh Công Sơn và cho những ai còn “trong cơn mê”)

Trần Anh Lan



Sự ra đi của Trịnh-Công-Sơn tạo khá nhiều bất đồng ý kiến. Kẻ thì bảo Trịnh Công Sơn là nhạc-sĩ có tài, yêu nước. Người thì nói “nó là tên Cộng-sản nằm vùng”. Rồi những bài viết về Trịnh Công Sơn có thể là của cô em tinh-thần “một thuở đi về có nhau”, hay của một vài bạn-bè chếnh-choáng hơi men đêm nào nơi quán cóc ven đô. Một chút đam-mê thời xa xưa đó lại hiện về khi “ghế đá công-viên dời ra đường phố”. Hãy bình tâm mà xét, xin một phút nghĩ về đêm kinh-hoàng của người dân miền Nam nhất là những người dân như “đàn chim đã một lần bị tên”. Xin hãy lắng nghe tiếng tức-tưởi của hàng ngàn người đã ngã xuống, quằn-quại, rên-xiết ... Và rồi, át cả tiếng kêu than là tiếng của Trịnh Công Sơn trên đài phát-thanh Sài-Gòn “Rừng núi dang tay nối lại biển xa, ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn-hà. Từ Bắc vô Nam nối liền nắm tay”.

Rồi từ sau ngày 30-4-1975 là giai-đoạn “ánh-sáng” trong đời TCS. Ánh lửa kinh-hoàng của 30-4-1975 là ánh bình-minh mà TCS hằng mong đợi. Ta hãy nghe TCS chia cuộc đời mình làm 2 giai-đoạn: trước 1975 là “bóng tối”, sau 30-4-1975 là “ánh-sáng”. Trong bài viết “Tiếng hát về ánh-sáng” của TCS trên báo Đất Việt số ra ngày 20-01-1979.

- “Lúc bấy giờ nếu nói về núi thì tôi sẽ không nói gì về cái vóc dáng hùng-vĩ của nó mà tôi chỉ nhìn thấy cái vẻ im-lìm, cam chịu của núi. Nhìn dòng sông thì tôi chỉ thấy cái hình-ảnh của thời-gian mang đi hết tuổi thơ của mình. Tôi cũng không nói về cái nắng rực-rỡ của bình-minh mà chỉ bằng lòng cái màu vàng-vọt cùa nắng quái buổi chiều. Nói đến con người, tôi không bao giờ nói đến nó đã sống oanh-liệt như thế nào mà chỉ nhắc đến cái buổi chia lìa của nó với mặt đất”.

Tóm lại tôi đã đứng về phía bóng tối tiêu-cực như một thế-giới-quan bệnh hoạn mà từ đó tôi đã khai-thác làm thành cách biểu-hiện của riêng mình đối với cuộc đời. Trong quá-khứ tôi đã hát về bóng tốị Tôi đã quen-thuộc với bóng tối đến độ tôi đi trong đó mà không phải thắp đèn. Tôi đã sống với bóng tối như một kẻ đã được sinh ra mà định-mệnh của nó là niềm tin tuyệt-vọng”.

Thật tội nghiệp cho TCS đã mang niềm tuyệt-vọng từ ngày còn là một cậu giáo sinh trường sư-phạm Qui-Nhơn (1962). Một TCS thông-minh, mưu trí như một tay gián-điệp quốc-tế “đi trong bóng tối không cần dọ-dẫm”. Thật sự thì cần gì phải dò-dẫm, kế-hoạch nào, phòng-thủ ra sao TCS đã thuộc lòng. Lợi dụng lòng tin, tình-cảm vào những đêm ngồi cùng hát cho nhau nghe chến-choáng hơi men. Những tình-cảm chân-thực được tỏ bày qua những kẻ đàn anh đã dang tay che chở cho Sơn vào thời điểm Sơn phải vào lính. Thà rằng TCS làm như Hoàng-Phủ Ngọc-Tường, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê văn Nuôi để bè bạn đỡ phần ân-hận.

Dòng đời là tiếp nối những thăng-trầm. Sự chết nào rồi cũng khơi nguồn cho mạch sống mới. Nếu không có cái chết của Phạm-Phú-Quốc thì ta đâu được nghe dòng nhạc bồng-bềnh như len-lỏi trong mây “Huyền sử ca một người mang tên Quốc” của Phạm-Duy. Động-cơ nào đã đưa nhạc TCS lên đến đỉnh cao được nhiều người mến-mộ? Trước 30-4-1975 TCS đã hát về bóng tối, đứng về phía bóng tối tiêu-cực như một thế-giới-quan bệnh-hoạn (theo lời TCS).

Đọc lại sử Việt-Nam qua những chiện-thắng hào-hùng của tiền nhân, từ cuộc chiến chống bọn phong-kiến phương Bắc đến bọn đế-quốc xâm-lược đều là “tự-vệ”. Những năm tháng ấy, ông cha chúng ta còn phải đương-đầu với Chiêm-Thành ở phía Nam. Rồi những rạn-nứt, phân-chia qua các cuộc phân-tranh Trịnh - Nguyễn, Gia Long - Quang Trung, hình-ảnh chiến-tranh, chết chóc kéo dài từ thế hệ nầy qua thế hệ khác đã phát ra tiếng kêu trầm-thống âm-ỉ trong lòng người dân Việt. Rồi cuộc chiến-tranh xâm-lược của Cộng-sản miền Bắc được sự hỗ-trợ của Nga Tàu, từ sau ngày đất nước được tạm chia để chờ ngày thống-nhất. Dân miền Nam chống cuộc xâm-lược đó chỉ là bảo-tồn sự sống còn của nền tự-do và tín-ngưỡng mà tiền nhân đã truyền lại từ ngày lập quốc.

Ta nghe lại “Một ngàn năm đô-hộ giặc Tàu, một trăm năm đô-hộ giặc Tây, ba mươi năm nội chiến từng ngày...”, cuộc nội chiến đó ai gây, điều đó chắc TCS phải hiểu bởi vì ở vào lứa tuổi “bắt buộc phải hiểu”. Hình-ảnh của chết-chóc bất-ngờ quá, chua-xót quá. Vừa mới đó, mới còn thấy đó phút chốc đã mất mẹ mất cha, mất người yêu, mất bạn bè. Ai giết? Ai gây? “Người anh em”, người vừa mới cùng mình chén tạc chén thù, người mới vừa thề thốt đã bội phản. Nhìn cái chết tức-tưởi, phi lý, không còn một lựa chọn nào khác hơn. Cảnh đau lòng đó hỏi ai không xót thương, không oán hận. Phải thừa-nhận rằng TCS là nghệ-sĩ có tài đã nói lên được cảnh tận cùng bi-đát, đã đưa vào lòng người cảnh-tượng hãi-hùng đó. Và chính nhờ cái “gia-tài của Mẹ để lại cho con” mà nhạc TCS được nhiều người hậm-mộ là đã nói lên một sự-thật dân miền Nam đang gánh chịụ Nhưng nói lên sự thật mà không nói đến nguyên-nhân tạo nên cảnh tương-tàn đó, chỉ ru ngủ rằng:
    “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
    Để một mai tôi về làm cát bụi”
Người đọc nghe, cảm-nhận điều đó đúng hoàn-toàn. “Sinh, lão, bệnh, tử” có từ nghìn xưa nhưng nơi đây chưa đến lúc phải về với cát bụi mà đã vội đi về hỏi ai không nghĩ đến. Dù biết rằng sớm muộn gì cũng về nhưng chưa chắc có một ai lựa chọn cõi về như một nỗi hân-hoan bình-thản. Tôi không dám nói đến cõi về của các “thánh tử đạo” nhưng chẳng biết quí vị thánh đó có đầu-tư cho “linh-hồn mình ở kiếp sau không” chỉ có Trời biết.

Năm tháng TCS đã sống và chính TCS đã gọi đó là “bóng tối”, chính nhờ cái bóng tối đó mà TCS được nhiều người biết, ca-tụng, hâm-mộ và họ đã bị phản bộị Bóng tối đã tạo nên hào-quang cho TCS, dùng hào-quang để ngụy tạo rồi vong ơn. Từ ngày TCS được gọi là trở về với nhân-dân, TCS sáng-tác có đến 150 bản nhạc, có bản nào được ca-tụng như thời TCS bị ở trong bóng tối?.

TCS ơi! anh đã làm gì với thời đó, anh có thấy người nông-dân miền Nam vừa mờ sáng vác cuốc đi thăm ruộng đã phải dẫm mìn VC tan xác bên bờ ruộng mình? Một người mẹ bởi gắng cắt nốt luống lúa vừa chín tới kẻo tối đến du-kích về gặt trộm mất. Nhễ-nhại mồ-hôi, vừa xong việc trời đã chập-choạng tối, vội-vàng đầu đội bó lúa, tay nách đứa con vừa thôi nôi đã bị du-kích bắn trả. Quá khuya người nhà đi tìm thì hỡi ơi, dòng sữa nào đã cạn chỉ còn dòng máu đang rỉ thấm vào miệng đứa con thơ ...

Đó là những người làm nên hạt cơm nuôi sống anh, hạt gạo của những bà mẹ quê nơi miền Nam trước năm 1975. Và rồi, chúng ta được nghe “Đại-bác đêm đêm dội về thành-phố, người phu quét đường dừng chổi đứng nghe”. Đại-bác, hỏa-tiễn từng đêm về thành-phố, từ đâu về và do ai chỉ-điểm? Giả vờ xót thương, hòa mình vào cái đau khổ, câm lặng chịu đầu hàng số-phận để rồi đâm sau lưng một cách hèn-hạ.

Ta hãy nghe TCS trả lời phỏng-vấn báo Đảng như sau:

- “Năm 1963 tôi lên Đà-Lạt trốn lính và tình-cờ nghe Khánh-Ly hát ỏ đâỵ Khi về Sài-Gòn, Khánh-Ly bỏ phòng trà và đi hát với tôi trong phong-trào sinh-viên. Đến sự-kiện nổ súng ở trường Đại-học Văn-Khoa 1968, tôi không hát trước đám đông nữa”.

Nhớ vào ngày lễ Giáng-sinh 1968, đêm văn-nghệ có TCS hát, khi hát được nửa buổi, một thanh-niên lên máy vi-âm tuyên-bố: “Buổi sinh-hoạt văn-nghệ hôm nay là để kỷ-niệm ngày thành-lập MTGPMN”. Nghe tới đó, Ngô Vương Toại (xin đừng lầm với tên VC Đoàn Văn Toại) chạy lên giằng lấy micrọ Thanh-niên kia rút súng nổ vào bụng Toại rồi mở đường tẩu thoát. Ngô Vương Toại được đưa vào bệnh-viện, rất may chỉ mất một đoạn ruột (từ đó Toại được gọi là Toại ruột). TCS biến đi lúc nào không ai hay (1). Có lẽ TCS vào bóng tối vì ông đi trong bóng tối không cần đèn. Trên tờ Đất Việt do hội Việt kiều Đoàn-Kết (báo VC xuất-bản), TCS viết: “Tôi (tức TCS) đã trở về với nhân-dân năm 1968”.

Chiến-tranh dai-dẳng trên đất-nước, ai không mong một ngày hòa-bình? Dòng nhạc TCS đã khơi đúng nỗi ước mơ “khi đất-nước tôi không còn chiến-tranh, mẹ già lên núi tìm xương con mình”. Ước mơ đã thành sự thật, đất-nước hết chiến-tranh (sau 30-4-1975) hàng vạn bà mẹ lên núi với áo vải chân trần ngược dòng đến tận nơi đèo heo-hút gió, thâm-sơn cùng-cốc để không phải “tìm xương con mình” mà để “nhìn xương con mình”. Đó là những bộ xương người lỡ đất trồng khoai trên các ngọn đồi cháy nắng hay bì-bõm kéo cày thay trâu nơi sình lầy nơi các trại tù. Những bà mẹ đó đã năm lần bảy lượt đút lót cho bọn Công-an sau những tháng ngày tần-tảo buôn-bán kiếm tiền để xin được giấy phép thăm con; những người vợ phải bán máu nơi cổng bệnh-viện và những đứa trẻ thơ phải đi bán từng tấm vé-số góp đủ tiền mua ký đường để má nó đi thăm chồng tận trại giam đất Bắc. Những bà mẹ đó đâu được cái vinh-hạnh như TCS trên chuyến xe lửa xuyên Việt đầu tiên năm 1975 khi đi “tham-quan” miền Bắc. Trong tờ “Đứng Dậy” TCS viết:

- “Khi tàu dừng ở Vinh để phái-đoàn đi ăn trưa, tôi và anh em ngồi quán chờ nhà hàng dọn cơm. Bầy trẻ bu quanh nhìn tôi, một đứa giơ tay trỏ vào tôi kêu lên “Ui chao, cái tóc”. Tóc tôi dài quá. Quả đúng! Sau bao nhiêu ngày sống với cách-mạng, tới ngày giờ nầy cái tàn dư của Mỹ Ngụy vẫn còn rơi rớt lại trên đầu trên cổ tôi. Thế là tôi bỏ bữa ăn trưa để đi hớt tóc”.

Đọc đến đây tôi sững-sờ, đau xót; có lẽ cái đau xót hơn cả một cô gái nhà lành lỡ trao thân nhằm tướng cướp. Đứng thật nghiêm như một lần thú tội.

    “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi . . . mọi đàng”

và vẵng đâu đây tiếng mõ cầu kinh:
    “Thiện tại, thiện tai . . . Nam Mô A Di đà Phật.
Trả lời phỏng-vấn báo Đất Việt năm 1986, TCS cho biết:

- “Khi giải-phóng tôi ở Huế, được thư và điện của bạn bè ở cục R (trung-ương cục miền Nam) và miền Bắc như các anh Hoàng-Phủ Ngọc-Tường, Nguyễn Khoa Điềm; cùng các anh em đó tôi lập hội văn-nghệ ở Huế. Năm 1979, tôi xin chuyển về thành-phố HCM sinh-hoạt hội văn-nghệ thành-phố”.

Sau 1975, TCS là ủy-viên biên-chế, quyền sinh sát với các tác-phẩm của hàng trăm văn nghệ-sĩ khác. Đời TCS từ sau 1975 đã lên tột đỉnh vinh-quang, ta hãy đọc lại đoạn TCS viết khi “bóng tối” khép lại:

- “Rất may, là cái giai-đoạn nầy đã khép lại kịp thời, khép lại vĩnh-viễn với một đất-nước đã được giải-phóng hoàn-toàn, giành lại độc-lập, thống-nhất và hòa-bình. Bóng tối trong tôi cũng từ đó khép lại và mất hút trước một ánh-sáng mới-mẻ của bình-minh”.

“Buổi bình-minh đã được khôi-phục bằng máu xương của cả dân-tộc, bằng những hy-sinh lớn-lao không có gì so-sánh nổi”. Sau 3 năm từ ngày miền Nam mất, TCS đã sáng-tác đâu lối 10 bản nhạc. Nghĩ về mình chưa làm hết sức mình để dâng công cho Đảng, TCS viết:

- “Ba năm với khoảng 10 ca khúc phục-vụ các phong-trào, vài ba cái bút ký ghi chép những thực-tế nóng bỏng của các công-trương, nông-trường, chúng tôi tự thấy có bổn-phận phải giữ một cái nhìn nghiêm-khắc hơn về phía lương-tâm mình. Chúng tôi có phần giống một người nông-dân tồi, bất-lực trước cánh dồng chưa hoàn-thành nổi một vụ mùa nào dù nhỏ. Đời-sống thì cứ mỗi ngày phơi mở ra dưới những dạng linh-động phong-phú mà tiếng nói biểu-hiện cuộc đời dường như muốn lẫn tránh chúng tôi. Tuy-nhiên chúng tôi không vội nản lòng vì anh em bằng-hữu chung-quanh chúng tôi và qua những anh em đó, chính là sự có mặt của Đảng, vẫn luôn luôn đủ kiên-nhẫn để duy-trì một tình-cảm đôn-hậu và nồng-nhiệt, cứ sẵn-sàng chờ đợi ở tôi cũng như ở các bạn tôi một tiếng nói mới.

Điều may-mắn cho riêng tôi là tôi vẫn chưa quá già để không thể trả nổi cái ân-tình nồng-hậu của các anh, các bạn và nhất là cuộc sống hôm nay bằng một “Tiếng hát về ánh-sáng”. Đó phải là tiếng hát của hạnh-phúc và của niềm hy-vọng”.

Gần 30 năm về trước, tôi cũng đã lãng đãng trong niềm vẩn-vơ cho cuộc đời, thân-phận khi dòng nhạc TCS qua các bản: Lời buồn thánh, Diễm xưa, Tuổi đá buồn. Chính vì nỗi đam-mê đó, ngày là lính tôi đã tổ-chức mỗi cuối tuần: “Mỗi tuần một ngày cho người nằm xuống”.

Vào ngày cuối tuần đó, đơn-vị tôi sửa-soạn những thức ăn thật ngon (cá tươi mua từ bãi biển Sa-Huỳnh khi ghe vừa vào bến) thịt lấy từ chuồng nuôi của đơn-vị, khoảng 20 chiếc GMC đưa binh-sĩ hậu-cứ đến rừng đốn củi mang ra thị-xã bán. Số tiền thu được mua gạo phát cho gia-đình tử sĩ, thương phế binh và những anh em trong đơn-vị có đông con. Tôi, chúng tôi đã khóc, khóc nhiều lần khi tiếng hát vang ra từ những chiếc loa phóng thanh nơi ven rừng: “Bạn-bè còn đó, anh biết không anh? người tình còn đây anh nhớ không anh? ... bạn-bè rồi quên, người tình rồi xa”

Dòng nhạc và tâm-tình đó đã thấm dần vào từng tế-bào của da thịt, từng “van” máu về tim. Đó là một loại rượu “bồ-đào” xa xưa của người tráng-sĩ lên lựng ngựa túy-lúy say:
    “Túy ngọa sa-trường quân mạc tiếu
    Cổ-lai chinh-chiến kỷ nhân hồi”.
    (Lương Châu Từ, Vương-Hàn)
Rồi như một chất men âm-ỉ trong tim sau một ngày chếnh-choáng hay một cuộc hành-quân trở về phố thị, chúng tôi: Nghĩa, Minh (Phan Như Thức), Vương Thanh, Luân-Hoán, Minh Đường, Việt, ... quanh chiếc bàn, gác đầu vào vai nhau hát nhạc TCS mặc cho sương thấm lạnh chiếc áo trận bạc màu.

Và sau hôm ấy, Nghĩa (Đ/U) mất tích ở Quế-Sơn, Việt (Đ/U) bị mìn cụt hai chân hiện giờ lưu-lạc, biệt mất hay còn ở quê nhà. Vương Thanh bị bệnh mất sau gần 10 năm tù. Minh Đường mất sau những ngày bệnh tật đói khát; Phan Nhự Thức sau gần 10 năm tù được giấy cho về, mừng quá không kịp xem đến ngày có tin đi Mỹ, nhìn lại giấy ra tù đề ngày 30-2-1982. Vay mượn và được bạn bè giúp-đỡ đủ lộ-phí ra vô Quảng-Ngãi, Hà-Nội để điều-chỉnh ngày 30-2 lại (vì tháng 2 không có ngày 30). Tiền mất tật mang, kết quả đã mất vì bệnh-hoạn. Riêng Luân Hoán, “Ngày trở về có anh thương binh KHÔNG chống nạng cày bừa bởi vì CS đâu có cấp đất cho thương phế binh “Ngụy”. Luân Hoán hiện ở Canada gác nạng, ngồi viết gởi bài cho tờ Khởi-Hành Nam California.

Trước năm 1975 nhìn cuộc chiến tương-tàn trên đất Việt hỏi ai không đau xót, nhất là những tâm-hồn nghệ-sĩ, tâm-hồn dễ xúc-cảm. Đêm thật buồn trên quê-hương, đèn mờ nơi phòng trà nước mắt nào không nhỏ xuống khi nghe dòng nhạc TCS trong bài “Em hãy ngủ đi”: “Đời mãi đêm và ngày mãi buồn, em hãy ngủ đi”. Tưởng chừng như bàn tay của một nàng tiên đang xoa nhẹ trên khuôn mặt của cô bé mang nỗi buồn vô tận khi sự chết-chóc vừa cướp đi những người thân trong gia-đình. Dòng nhạc đó người nghe có cảm-tưởng như tiếng ru bềnh bồng mang đến cõi về mà chính mình hằng mong ước. Nỗi khổ đau tận cùng trên quê-hương không lối thoát đó ai không mong đợi một ngày, một ngày mà: “Việt-Nam ơi! còn bao lâu những con người ngồi nhớ thương nhau” hoặc “Huế, Sài-Gòn, Hà-Nội, 20 năm tiếng khóc lầm-than” và rồi “ngày mai đây những con đường Nam Bắc nở hoa” (trong bài Huế, Sài-Gòn, Hà-Nội của TCS). Đó là một sự thật người dân Việt hằng mong ước, nỗi buồn chỉ còn rượu để tìm quên, song rượu vào, trái sầu vẫn không rụng.

    "Dục phá thành sầu, duy dụng tửu
    Túy tự, túy đảo sầu vẫn sầu”.
Nỗi buồn bất tận thì còn gì biết phải về đâu, thiên-đàng hay địa-ngục cũng là một:

    Sầu đã chín xin người thôi hãy hái
    Nhận tôi đi dù địa-ngục thiên-đàng”
Giữa những suy-tư đó có một kẻ thật tỉnh-táo, vờ say, vờ phóng-khoáng trong tính-toán khôn lường. Đánh đúng vào yếu điểm để xem mình như kẻ đồng-hội đồng-thuyền rồi mưu-đồ cho cá-nhân là một điều sỉ-nhục không thể tha-thứ.

Đọc Kim-Dung qua “Tiếu ngạo giang-hồ” ta thấy nơi Lệnh Hồ Xung, một tửu đồ hào-phóng dường như không có chính hay tà mà chỉ có rượu ngon hay dở và kẻ đối ẩm có đáng để giao tình. Trên Tích Tiên tửu lầu năm xưa, LHX đã dùng mưu trí lừa được tên dâm tặc Điền Bá Quang để cứu Nghi-Lâm rồi nhân đó khơi lên chút thiện tâm, hùng tâm để Điền Bá Quang lẻn vào hầm rượu Tích Tiên tửu đập bể gần 200 vò rượu quý trên thế-gian chỉ giữ lại có 2 vò mang lên đỉnh Hoa-Sơn cùng với LHX đối ẩm. Với TCS là một tên tửu đồ khơi vào lòng những kẻ cầm súng tự-vệ nỗi buồn chán chiến-tranh mau buông súng đầu hàng để chực cướp thời-cơ dâng công cho Bác Đảng.

Rồi 30-4-1975 đến, TCS dang tay đón nhận ánh hồng bình-minh mà từ lâu TCS hằng mong đợi, trong khi đó nó là nỗi kinh-hoàng nhất của nhân-dân miền Nam. Trên những con lộ về Sài-Gòn nhầy-nhụa, lênh-láng xác và máu người dân vô tịi. Hàng vạn bè bạn những người đã ngưỡng-mộ TCS lần lượt vào các trại tù từ Nam ra Bắc. Hàng nửa triệu người bỏ xác trên biển Đông hoặc làm mồi cho thú rừng, cho hiếp-đáp, cướp-bóc dọc biên-giới,...TCS không một giọt nước mắt tiếc thương. Ngay từ năm 1968 hàng ngàn xác người được đào lên từ những mồ chôn tập-thể, nơi quê-hương TCS (Huế). Cuộc tàn-sát nhẫn-tâm trong Tết Mậu-Thân, TCS có một tiếng nói nào cho sự tiếc thương? Nghệ-sĩ là những người đa-cảm và bất-khuất, nhất là nghệ-sĩ tương-đối có tài như TCS. Hãy nghe lời thơ của Trần-Dần và Phùng-Quán trong Nhân Văn Giai-phẩm, thời mà CS sẵn-sàng thanh-toán bất cứ một ai chỉ cần một chút hé môi giọng bất-mãn:

    "Tôi bước đi
    không thấy phố
    không thấy nhà
    Chỉ thấy mưa sa
    trên màu cờ đỏ
    (Nhất định thắng- Trần Dần)
hoặc:
    "Yêu ai cứ bảo là yêu
    Ghét ai cứ bảo là ghét
    Dù ai ngon ngọt nuông chiều
    Cũng khôn nói yêu thành ghét
    Dù ai cầm dao dọa giết
    Cũng không nói ghét thành yêu”
    (Lời mẹ dặn- Phùng Quán).
Anh Sơn ơi! là một nhạc-sĩ khá tiếng tăm, chắc anh nghe nỗi hoài-vọng của hàng vạn người đã trốn chạy chế-độ Cộng-sản từ 1954. Anh có nghe thoảng trong gió tiếng hát ngút-ngàn lảng-đảng đâu đây: “Hà-Nội ơi, tóc thề thả gió lê-thê ... biết đâu ngày ấy anh về”. Trong khi đó lại vang lên nỗi chờ của anh, của lời anh đang kêu gọi: “Nơi đây tôi chờ, trong căn nhà nhỏ, mẹ cũng ngồi chờ. Anh lính ngồi chờ trên đồi hoang-vu, người tù ngồi chờ bóng tối mịt-mù. Chờ đã bao năm, Chờ đã bao năm”. Chờ gì hở anh? Chắc anh chờ ánh bình-minh để rồi anh hả-hê cười trong thỏa-mãn “Ta đã thấy gì trong đêm nay, cờ bay muôn vạn cờ bay”. Cờ đỏ sao vàng anh mong đợi đã về đó! Anh tiếp-tục lừa phỉnh người em gái tinh-thần một thời cùng anh được mệnh-danh “nữ-hoàng đi chân không” đi rao giảng tin “cờ nối gió, đêm vui nối ngàỵ Dòng máu nối con tim đồng-loại”. Tôi không bàn đến người cùng anh rao giảng có chủ-đích gì không nhưng bằng tất cả rung-cảm tột cùng đã lôi-cuốn người nghe như âm-điệu của loài ma quái ru người và tên tuổi anh được sáng-chói phải nói một phần là ở công-lao của trái tim nhiệt-tình nầỵ Bấy giờ anh sẵn rượu ngon, gái đẹp trong tay cô ca-sĩ trẻ có khuôn mặt khả-ái với đôi răng khểnh ngày đêm bên anh “khi tựa gối khi cúi đầu” chưa đủ sao anh? anh lại bảo “Em ra đi nơi nầy vẫn thế”.

Anh đã tạm thời vờ quên bữa cơm trưa nơi quán hàng bến xe đò tại Vinh (Quảng-Bình) để cắt đứt, không còn dính-líu vào cái tàn dư Mỹ-Ngụỵ Và rồi anh tiếp-tục hát ca-khúc “Bài ca đường tàu Thống-nhất”:

    "Xóa hết những ngày tối tăm
    Bóng dáng sao vàng lồng lộng
    Đoàn tàu đi thống-nhất hai miền”.

Trước năm 1975 chắc anh đã chứng-kiến những đứa trẻ 15, 17 chết không toàn thây trên đường mòn Hồ Chí Minh hoặc quanh các tiền đồn miền Nam với 4 chữ trên cánh tay “sinh Bắc tử Nam”, anh không cảm-nhận lời nhu nhắn gọi của người bộ-đội qua lời thơ nơi đáy chiếc ba-lô trước khi chết nơi ven rừng không ai vuốt mắt:

    "Những chiều Trường-sơn núi rừng cô-quạnh
    Mẹ hiền ơi con chợt nhớ quê mình”.

Anh còn tiếp tục thăng-hoa cho những bà mẹ, bà chị, em nhỏ trĩu nặng vai trong mỗi phiên chợ buồn:

    "Gánh gánh gánh gánh mau ra chợ
    Có tiếng líu-lo trẻ nhỏ
    Quê-hương ta thống-nhất thật rồi”.

Anh không thấy đoàn nữ vận-chuyển Trường-sơn tuổi 15, 17 đã bỏ cả quãng đời con gái làm thân lạc-đà nơi núi rừng. Ngày hòa-bình, về lại quê xưa cày cấy thì không được chia đất, lấy chồng thì trai làng không còn chỉ còn những đứa bé trai lên 5 lên 3, đi làm gái điếm để mưu cầu cuộc sống thì không khách nào đủ can-đảm để hứng gọi mờị Anh tiếp tục cổ-võ họ ra nông-trường, biên-giới:

    “Trên nông-trường không xa lắm
    Có đôi chân đi không ngại ngần
    Em bây giờ quên mùa nắng
    Tóc trên vai vấn-vương bụi hồng
    Qua bao mùa em bỗng lớn
    Đời cho em trái tim nồng-nàn
    Yêu người nên lo-lắng
    Muốn nghiêng vai gánh thêm nhọc-nhằn”

Trước 30-4-1975, anh đã nói lên được sự-thật, sự-thật không thể chối cãi:

    “Khi đất nước tôi không còn chiến-tranh
    Mẹ già lên núi tìm xương con mình”

Bây giờ thì thật sự những bà mẹ từ miền Bắc đi tìm xương con mình trên núi đồi Trường Sơn. TCS ôi! anh có thấy bóng-dáng bà mẹ được đứa con mình nhắn gọi qua lời thơ đang lang-thang trên đồi không anh?

Năm 1979 nữ danh ca Mỹ Joan Baez (người đã cùng Jane Fonda) được Việt Cộng ca-ngợi là đã hát cho hòa-bình Việt-nam trước năm 1975, Người đã nhân-danh tổ-chức Humanitas in bích-chương với chữ ký của giới trí-thức phản chiến quốc-tế dán khắp thành-phố lớn trên thế-giới để cảnh-tỉnh lương-tâm nhân-loại về nhân-quyền tại Việt-Nam.

Hai tên Việt Cộng Nguyễn Khắc Viện, Lưu Quý Kỳ đã gọi Joan Baez thay-đổi lập-trường làm tay-sai cho CIA. Riêng TCS đã viết cho Joan Baez một lá thư lên án bảo bà ta là: “Tiếp tay cho tư-bản thọc sâu lưỡi dao vào vết-thương của dân-tộc Việt-Nam chưa được hàn-gắn, do đế-quốc Mỹ và bè lũ tay sai” (theo tờ Đất Việt của VC, Canada 14-10-79 (2).

Những người may-mắn thoát chết hiện lưu-lạc xứ người, tuổi đã về già, nợ gia-đình phải lo nhất là sợ con cháu mình lỡ có một người như anh. Sự thật thì không đủ thì giờ xem báo, hiểu thêm về anh sau 1975 hoặc đọc đôi lời anh tâm-sự. Một thoáng hiện về với âm vang thời xa xưa đó nghe lòng nhức-nhối quặn đaụ Bạn bè, những người cùng dựa lưng nhau trong nỗi chết gần kề đâu còn mấy aị Tôi đốt nén hương cho bè bạn tôi, những người đã nằm xuống có bàn tay anh góp sức và xin được tiễn những người đã ra đi trong số đó có anh bằng tiếng ca trong “Lời nguyền” của Phạm Thế Mỹ:

    “Lạy Trời, xin đừng biết
    Tôi chết vì tay anh”.

Kết những dòng nầy tôi nhớ chuyện xưa; một trong số con cháu nhà Lê, “Lê Báo” vì mưu-đồ phục-hưng sự-nghiệp tiên chúa nên núp bóng chùa Tiêu-Sơn để hoạt-động. Nhưng nhà Lê đã đến thời mạt vận, nghiệp lớn không thành; bấy giờ ông ở tuổi 43, đang quét lá nơi sân chùạ Một đứa cháu hỏi:

- “Thưa Chú, bây giờ nghiệp lớn không thành, chú định làm gì?”.

Ông nhìn trời, một phút lặng yên rồi trả lời:

- “Từ lâu vì mưu-đồ việc phục-hưng để khỏi phụ lòng tiên chúa nhưng nghiệp nhà Lê đã hết, đó là ý Trời. Núp bóng, lợi-dụng danh-nghĩa chốn từ-bi, kẻ tu-hành mưu-đồ sự-nghiệp cho cá-nhân, dòng họ là một điều không nên dù là việc nước nhà. Vong ân là một điều vô liêm của con người nhất là kẻ sĩ. Chú nguyện với lòng là cạo đầu ở dưới mái chùa quét lá đa là vậy”.

Bây giờ anh đã nằm xuống. Chết là hết nhưng nơi anh nào đã hết. Người ta nhắc tên anh, đưa anh về nơi an nghỉ với: ngưỡng-mộ, thương-hại, nguyền-rủa, khinh-bỉ và nhất là tính hiếu-kỳ. Cõi nào anh về? Niết-bàn hay thiên-đàng, theo tôi vẫn là một. Thoảng nghe dòng nhạc anh “Người nằm xuống để thấy thiên-đàng cuối trời thênh-thang”. Cửa thiên-đàng vốn rộng mở, lòng Chúa vốn bao-dung; lừa lọc gian ngoa càng dễ vào, không sao đâu anh.

Trần Anh Lan

(1) Tạp-chí Phương Đông số 35 tháng 8-2001.
(2) Điếu văn của loài ve.

Monday, April 28, 2008

Báo New York Times Đăng Lời Kêu Gọi Tẩy Chay Thế Vận Hội Bắc Kinh



Ngày 28 tháng 4, 2008 – "Cùng với việc làm ngơ trước tình trạng diệt chủng tại Daphur, tiếp tục ủng hộ chế độ độc tài quân phiệt tại Miến Điện, và nhất là ngang nhiên tước đoạt nhân quyền cuả chính dân chúng nước mình, vv..., hành động xâm chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam cũng như chiếm cứ và đàn áp dã man nhân dân Tây Tạng hiện nay đã chứng tỏ rõ ràng CS Trung Quốc không xứng đáng để tổ chức Thế Vân Hội 2008." Đó là chủ điểm của Lời Kêu Gọi Tẩy Chay Thế Vận Hội Bắc Kinh của Cộng đồng Người Việt Hải ngoại đăng trên báo New York Times, số ra ngày 28 tháng Tư, 2008, đúng thời điểm đang diễn ra những hành động phản đối cuộc rước đuốc Thế Vận tại Sài Gòn (ngày 29 tháng Tư năm 2008 tại Việt Nam).

Lời Kêu Gọi (LKG), đăng trên nửa trang báo, trang A19 trong phần Thế Giới của tờ Times, có hình thức một thư ngỏ gửi ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, các vị nguyên thủ quốc gia, và dân chúng toàn thế giới. Sau khi trình bày diễn tiến việc Trung Cộng lấn chiếm Hoàng Sa và Trường Sa, và trích dẫn các điều khoản của Hiến chương của Liên Hiệp Quốc để chứng minh Trung Cộng đã vi phạm nghiêm trọng, LKG đã "Cực lực tố cáo chủ nghĩa bá quyền của Trung Quốc, thể hiện cụ thể và thô bạo qua việc dùng vũ lực cưỡng chiếm lãnh thổ và lãnh hải các nước lân bang" và khẳng định "Hoàn toàn phủ nhận chủ quyền Trung Hoa trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa". Về trách nhiệm của Hà Nội, LKG vạch rõ "nhà cầm quyền CSVN đã khiếp nhược không giám công bố rộng rãi và phản kháng đúng mức các hành động xâm lăng ngang ngược kể trên của nước CS đàn anh!".

Trong phần cuối, viện dẫn lý do "Bắc kinh đã thiếu hẳn tinh thần hiếu hoà, ý chí đoàn kết, thái độ ngay thẳng, và tinh thần tôn trọng công lý, những yếu tố căn bản của các kỳ Thế Vận Hội" LKG kết thúc bằng câu "Vì vậy, chúng tôi long trọng kêu gọi dân chúng toàn thế giới hãy TẨY CHAY THẾ VẬN HỘI BẮC KINH 2008".

Được biết, New York Times, ấn hành hơn 1 triệu số mỗi ngày ngay tại New York, nơi đặt trụ sở LHQ, là nhật báo có ảnh hưởng hàng đầu đối với giới ngoại giao quốc tế.

Theo BAN VẬN ĐỘNG LỜI KÊU GỌI DÂN CHỦ (BVĐ/LKGDC http://www.acallfordemocracy.org/ ), nhóm gây quĩ để đăng LKG trên báo New York Times, công cuộc vận động này được chuẩn bị từ tháng 12 năm 2007, ngay sau khi Trung Cộng công bố viện thành lập huyện Tam Sa để cai quản Hoàng Sa và Trường Sa. Sau nhiều lần thương lượng New York Times đồng ý tính giá 30,000 mỹ kim (thay vì hơn 50,000). Đồng hương và các đoàn thể đã đóng góp đuợc gần 23 nghìn MK. BVĐ/LKGDC khẩn thiết kêu gọi đồng hương tiếp tục ủng hộ để thanh toán 7 ngìn MK còn thiếu. Chi phiếu đóng góp xin đề “A Call For Democracy” hoặc “Lời Kêu Gọi Dân Chủ”, gửi về địa chỉ P.O. Box 25601, San Mateo, CA 94402, USA. Danh sách cá nhân và đoàn thể đóng góp cùng chi tiết chi, thu tài chính được liệt kê đày đủ, rõ ràng trong các websites ACallForDemocracy.org và LoiKeuGoiDanChu.org (mục "Kêu gọi thế giới tẩy chay Thế Vận Hội Bắc Kinh 2008" phần "Kết Qủa Đóng Góp")

Trước đây, BAN VẬN ĐỘNG LỜI KÊU GỌI DÂN CHỦ đã thực hiện 2 lần đăng Thư Ngỏ vận động dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam trên nhật báo Washington Post, ngày 21 tháng 6 năm 2005, khi Thủ tướng CS Phan Văn Khải thăm Hoa Kỳ, và ngày 14 tháng 11 năm 2006, khi TT Hoa Kỳ George W. Bush đến Việt Nam tham dự Hội Nghị APEC. BVĐ/LKGDC cũng thực hiện nhiều posters và postcards hình LM Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng. Muốn nhận các ấn phẩm này, xin liên lạc địa chỉ ghi trên, hoặc gửi email về ACFD@ACallForDemocracy.org hoặc BVD@LoiKeugoiDanChu.org.

Dưới đây là nguyên văn Lời Kêu Gọi bằng Anh ngữ và Việt ngữ.

Let's Boycott the Beijing 2008 Olympics

A Call by the Vietnamese Community
to:
- The Secretary-General of the United Nations
- Heads of States
- Peoples of the world

On 2 December 2007, the government of Communist China formalized its occupation of Vietnamese sovereign territory the Paracel and Spratly Archipelagos when it unilaterally announced the establishment of the district of Tam Sa, as part of the Province of Hainan.

This decision is the culmination of a succession of brazen acts leading to the occupation of sovereign Vietnamese territory, including:
  • The use of naval power to occupy all the Paracel islands on 19 January 1974
  • The continued use of naval power to invade some of the Spratly islands on 14 March 1988
  • The declared intention to annex the Paracel and Spratly Archipelagos on 14 April 1988.
Together with the repression of the people of Tibet who are fighting for freedom, these acts have unmasked the hegemonic nature of the Beijing regime, their readiness to use force to violate the territorial integrity of neighboring nations, regardless of historical evidence.

The Spratly and Paracel archipelagos have belonged to Vietnam for more than 300 years. China’s acts of aggression and territorial occupation violated Article 2, Sub-Article 4, of the Charter of the United Nations which states:

    “The Organization and its Members, in pursuit of the Purposes stated in Article 1, shall act in accordance with the following Principles:

    4. All Members shall refrain in their international relations from the threat or use of force against the territorial integrity or political independence of any state, or in any other manner inconsistent with the Purposes of the United Nations.”
Pursuant to such article, a member nation shall not use force, in any circumstances, to violate the independence and territorial integrity of another nation.

China’s illegal occupation of the Spratly and Paracel archipelagos will certainly create instability in East and South East Asia.

More deserving of condemnation is the fact that the government of the Socialist Republic of Vietnam lacks the courage and fortitude to denounce publicly, and protest vigorously enough in the international forum, this flagrant invasion by their Communist mentor.

Considering the circumstances, we, Vietnamese all over the world:
  • Earnestly denounce Chinese hegemony which has been evidenced by its brazen use of force to occupy territory and sea areas of neighbouring nations;
  • Strongly condemn the occupation of Tibet and the barbarous repression of its people;
  • Refute Chinese sovereignty over the Paracel and Spratly Archipelagos;
  • Call on the United Nations and other peace-loving and justice-holding nations to use all means in their possession to pressure China to return these archipelagos to Vietnam.
Together with her disregard for the massacre in Darfur, her continued support for the military Junta in Burma, her violation of the human rights of her own citizens, her occupation of the Paracel and Spratly Archipelagos, and her invasion of Tibet and her repression of its people, are evidence that China does not deserve the right to host the 2008 Olympics. Communist China lacks the spirit of peace, unity, fortitude and respect for justice which are the essential underlying elements of successive Olympic Games.

For the above reasons, we solemnly call on the peoples of the world to:

Boycott the Beijing 2008 Olympics

Overseas Vietnamese Community
The list of supporting organizations and individuals can be found at website: http://www.acallfordemocracy.org/


Cộng Đồng Người Việt Kêu Gọi
Tẩy Chay Thế Vận Hội Bắc Kinh 2008

    Thư Ngỏ
    Kính gửi:
    - Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc
    - Quí vị Nguyên Thủ Các Quốc Gia
    - Dân chúng toàn thế giới
Ngày 2 tháng 12 năm 2007, nhà cầm quyền CS Trung Quốc đã tự hợp thức hóa việc lấn chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam khi tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam để quản trị các quần đảo này. Quyết định này là điểm kết của một chuỗi các hành động ngang ngược trong việc chiếm cứ các hải đảo của Việt Nam, gồm:

  • Ngày 19 tháng Giêng năm 1974, dùng hải quân cưỡng chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa;
  • Ngày 14 tháng Ba năm 1988, tiếp tục dùng hải quân đánh chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa;
  • Ngày 14 tháng Tư năm 1988, tuyên bố sát nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào tỉnh Hải Nam.
Cùng với việc đàn áp dã man những người Tây Tạng đòi tự do, các hành động xâm lăng trắng trợn trên đã làm lộ rõ bộ mặt bá quyền của nhà cầm quyền Bắc Kinh, dùng vũ lực xâm chiếm đất đai của nước lân bang, bất chấp đến các chứng tích lịch sử qua đó, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam từ hơn 300 năm nay. Các hành động bạo ngược này cũng đã vi phạm trắng trợn điều 2 đoạn 4 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, theo đó một thành viên của Liên Hiệp Quốc không được quyền dùng vũ lực hay bất cứ một hình thức nào khác, xâm phạm độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của nước khác. Và việc lấn chiếm phi pháp này chắc chắn tạo ra bất ổn trong khu vực Đông và Đông Nam Á Châu.

Đáng lên án hơn nữa là việc nhà cầm quyền CSVN đã khiếp nhược không giám công bố rộng rãi và phản kháng đúng mức các hành động xâm lăng ngang ngược kể trên của nước CS đàn anh!

Trước những sự kiện trên, chúng tôi, những người Việt khắp nơi trên thế giới:
  • Cực lực tố cáo chủ nghĩa bá quyền của Trung Quốc, thể hiện cụ thể và thô bạo qua việc dùng vũ lực cưỡng chiếm lãnh thổ và lãnh hải các nước lân bang;
  • Mạnh mẽ lên án Trung Cộng chiếm cứ và đang đàn áp dã man nhân dân Tây Tạng;
  • Hoàn toàn phủ nhận chủ quyền Trung Hoa trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa;
  • Long trọng kêu gọi Liên Hiệp Quốc và các quốc gia yêu chuộng hoà bình và công lý làm mọi cách để Trung Quốc hoàn trả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lại cho Việt Nam.
Cùng với việc làm ngơ trước tình trạng diệt chủng tại Daphur, tiếp tục ủng hộ chế độ độc tài quân phiệt tại Miến Điện, và nhất là ngang nhiên tước đoạt nhân quyền cuả chính dân chúng nước mình, vv..., hành động xâm chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam cũng như chiếm cứ và đàn áp dã man nhân dân Tây Tạng hiện nay đã chứng tỏ rõ ràng CS Trung Quốc không xứng đáng để tổ chức Thế Vân Hội 2008. Bắc kinh đã thiếu hẳn tinh thần hiếu hoà, ý chí đoàn kết, thái độ ngay thẳng, và tinh thần tôn trọng công lý, những yếu tố căn bản của các kỳ Thế Vận Hội.

Vì vậy, chúng tôi long trọng kêu gọi dân chúng toàn thế giới hãy TẨY CHAY THẾ VẬN HỘI BẮC KINH 2008

CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI
Danh sách các đoàn thể và cá nhân hỗ trợ liệt kê trong website: http://www.acallfordemocracy.org/

Một vài cảm nghĩ nhân ngày 30 tháng 4

Trần Thanh

Thấm thoát đã 33 năm kể từ ngày bọn cướp việt gian cộng sản chiếm được miền Nam. Hàng năm chúng ta làm lễ tưởng niệm ngày Quốc Hận 30 tháng tư, cũng như chúng ta làm lễ tưởng niệm tết Mậu Thân năm 1968. Chúng ta gọi là TƯỞNG NIỆM chớ không ai gọi là làm lễ KỶ NIỆM. Chỉ có ông Nguyễn Ngọc Ngạn, trong Paris By Night 91, chủ đề Huế-Sài Gòn-Hà Nội, dùng hai chữ "kỷ niệm" để nói về vụ thảm sát hồi tết Mậu Thân ở Huế!

Ai gây ra vụ tàn sát giết người hết sức ghê rợn đó thì không thấy ông đề cập đến. Ông chỉ nói đó là những đau thương của đồng bào! THỦ PHẠM gây ra tội ác không bao giờ bị các MC nêu đích danh. Họ tránh né không dám nói đụng chạm đến các "ông cố nội"! Hay vì lý do gì đó bị ngọng miệng không nói được? Đã dám nêu ra những thảm cảnh dân đói, dân nghèo, những vụ Mậu Thân, Trường Sa Hoàng Sa mà KHÔNG DÁM NÊU ĐÍCH DANH THỦ PHẠM thì việc đấu tranh trở nên vô ý nghĩa! Điều rất quan trọng hiện nay là ta phải giáo dục cho thế hệ trẻ hiểu rõ lý do tại sao ba triệu người Việt phải bỏ nước ra đi, tại sao phải tưởng niệm ngày 30 tháng 4 và tưởng niệm vụ thảm sát ở Huế hồi tết Mậu Thân, và quan trọng nhất: AI LÀ THỦ PHẠM? Phải nói rõ cho thế hệ trẻ biết rằng đó chính là tên đầu sỏ Hồ Chí Minh và cái đảng việt gian cộng sản của hắn đã gây ra những tội ác tày trời, cho tới bây giờ những tội ác đó vẫn còn đang tiếp diễn. Thủ phạm đó có những tên gọi như "việt cộng, việt minh, việt gian cộng sản" và những tiếng lóng khác dùng để chỉ bọn chúng như "răng đen mã tấu, nón cối dép râu, mafia đỏ, vẹm, bọn cướp ..v..v.." Giới trẻ phải được biết để chúng tiếp tục ngọn lửa đấu tranh. Tre già măng mọc. Phải chuẩn bị thế hệ trẻ tiếp bước thế hệ cha anh. Điều đáng tiếc là những trung tâm băng nhạc chỉ nêu những chủ đề "chống cộng" như là một cái nhãn hiệu để lấy lòng khán giả, để dễ bán băng chớ họ KHÔNG DÁM CHỐNG CỘNG ĐẾN NƠI ĐẾN CHỐN! Có những chương trình rất dài, chủ đề là "chống cộng" mà trong suốt cuộn băng, khán giả không bao giờ nghe các MC nhắc tới hai chữ "cộng sản". Còn mấy chữ đại húy kỵ (như kỵ nói động tới tên ông cố nội) như "việt cộng" thì tuyệt đối không dám nói. Nếu có MC nào dám dùng nhóm chữ "việt gian cộng sản" để nói về bọn mafia đỏ thì có lẽ thế giới này đã có hòa bình rồi!!!

Tôi đã chứng kiến cảnh đoàn quân việt cộng tiến vào Sài Gòn vào ngày 30 tháng 4. Lúc khoảng 10 giờ sáng, lính nhảy dù vẫn còn kháng cự quyết liệt với việt cộng tại Bà Quẹo và ngã tư Bảy Hiền. Sau đó một toán lính dù kéo một khẩu pháo 155 ly rút lui về ngã sáu Hiền Vương, hạ nòng xuống, hướng về phía ngã tư Bảy Hiền, dự trù bắn trực xạ. Sau đó toán lính dù giải tán và một anh đã tử thương tại chỗ, xác của anh bị chương sình lên tới mấy ngày hôm sau mới được đem đi. Đến khoảng ba giờ chiều thì việt cộng bắt đầu tiến vào Sài Gòn. Xe tăng cùng đủ loại quân xa của chúng xếp hàng dài, di chuyển chậm chạp trên đường Lê Văn Duyệt (đường Cách Mạng Tháng Tám) Hai bên đường là những tên việt cộng xếp hàng dọc, đi bộ vào thành phố. Dân chúng ùa ra ngoài đường để xem. Lần đầu tiên trong đời họ trông thấy những cán binh việt cộng. Những tên việt cộng đứng trên xe vẫy tay, cố nở những nụ cười làm quen với đồng bào. Nhưng tuyệt nhiên không có ai tỏ thái độ đón chào những vị khách không mời mà đến. Người ta ra đường xem việt cộng là vì tò mò chớ không phải ra để đón chào những anh chiến sĩ "giải phóng". Thỉnh thoảng có một vài chiếc xe Jeep có cắm cờ của mặt trận giải phóng, trên xe đầy nhóc những tên sinh viên nằm vùng, chạy ngoài đường, bóp còi inh ỏi. Bọn chúng cầm loa pin hô to những khẩu hiệu tung hô bọn cướp.

Nhìn thấy những tên việt cộng, người dân Sài Gòn có cảm tưởng khinh ghét xen lẫn thương hại. Tên nào tên nấy ốm nhom như những con khỉ, mặc những bộ quân phục rộng thùng thình, áo bỏ ngoài quần, dài tới đầu gối. Đa số đều mang dép râu, thỉnh thoảng có vài tên mang dày ba ta của Trung Cộng. Hầu hết bọn chúng đều mang súng AK, có một số tên dùng súng M16 hoặc carbin. Có tên, có lẽ là anh nuôi, quàng cái ruột tượng gạo trên cổ, trên vai mang đòn gánh, xỏ đầy nồi niêu xoong chảo, trông không khác gì anh "bộ đội cụ Hồ" hồi năm 1945 tiến về Hà Nội! Đa số bọn chúng đều môi thâm vì sốt rét. Từ sĩ quan đến lính, không có một tên nào đeo quân hàm. Bọn chúng được lệnh tháo bỏ quân hàm vì sợ bị ám sát! Người dân chỉ đoán tên nào đeo súng ngắn, có lẽ đó là sĩ quan.

Vài ngày sau, bọn lính việt cộng nhanh chóng biến thành trò cười cho những người dân trong thành phố. Tên nào tên nấy ngố quá, ngáo quá. Bọn chúng là những con khỉ ở trên rừng mới về thành phố. Sự dốt nát và nhà quê của bọn chúng có thể thông cảm được vì bọn chúng bị cưỡng bức "sinh bắc tử nam", làm gì được ăn học tới nơi tới chốn như những người dân miền Nam bị Mỹ ngụy "kềm kẹp"! Nhưng người dân ghét bọn chúng ở chỗ: dốt mà không chịu nhận là mình dốt, vẫn cứ tỏ ra mình là "đỉnh cao trí tuệ"! Cái tội của bọn chúng là ở chỗ đó. Vì vậy mà mới có hàng trăm câu chuyện tiếu lâm về những tên khỉ rừng xâm lược này: - nào là bọn chúng thấy băng vệ sinh của phụ nữ thì tưởng là khẩu trang, lấy bịt ngang mồm để quét dọn; nào là thấy bồn cầu tiêu thì đổ rau muống vào để rửa, khi giật nước thì rau trôi đi mất; nào là khi dùng những bồn cầu thì bọn chúng vẫn phải trèo lên ngồi xổm như đi ỉa ở trên rừng; nào là bọn chúng kháo với nhau rằng mông đít của con gái miền Nam có nổi gân! Bọn lính việt cộng vào ở trong các tòa building của các công sở mà người Mỹ bỏ lại. Bọn chúng tiếp tục chở cây ở trên rừng về, đem vào trong building để làm bếp "đại táo", nấu những chảo cơm cho khoảng vài chục người ăn. Quần áo chúng giặt đem phơi tràn lan ra ngoài hành lang. Toàn bộ máy giặt máy sấy trong building đều bị phế bỏ. Những tòa building sang trọng, sạch sẽ, chỉ trong một thời gian ngắn đã biến thành những cái sở thú cho đám khỉ rừng cư ngụ. Một vài ngày sau bắt đầu có những cuộc "giao lưu" giữa những người dân Sài Gòn và những tên bộ đội xâm lược. Những câu chuyện diễn ra đại để như thế này:

    - Ở ngoài bắc có cà phê không anh?
    - Ối dào, thiếu gì!
    - Còn cà chua?
    - Thiếu gì! Chỗ nào cũng có. Ăn không hết phải đổ bỏ!
    - Còn cà pháo?
    - Ối dào, thiếu gì! Món ăn truyền thống của bọn tớ mà!
    - Còn cà chớn?
    - Ối dào thiếu gì! Chỗ nào cũng có! Bọn tớ có thiếu gì cà chớn!!!

"Cà chớn" là hai chữ tiếng lóng của người dân miền Nam, đồng nghĩa với chữ "lưu manh, đểu giả". Mấy tên bộ đội cứ tưởng đó là một loại trái cây như cà chua, cà pháo nên cương sảng là "bọn tớ có thiếu gì cà chớn"! Làm những người dân Sài Gòn được một trận cười vỡ bụng! Đến ngày 19 tháng 5 thì bọn bộ đội làm lễ mừng sinh nhật bác Hồ. Những người dân ở ngã ba ông Tạ thấy mấy tên bộ đội đi mua chó, trói mõm, trói gô bốn cẳng con chó rồi xỏ vào đòn gánh, khiêng đi ngoài đường. Người dân tìm hiểu thì được biết bọn chúng không dám vào các quán thịt chó ở đây vì sợ bị bỏ .... thuốc độc! Nhưng sau này khi quen nước quen cái thì những tên bộ đội cũng vào nhậu thịt chó ở ngã ba ông Tạ như điên. Và nhất là khi đã hơi ngà ngà xỉn thì cái tật nói phét bẩm sinh do "bác" Hồ truyền lại, được dịp tuôn ra từ những cửa miệng của những tên bộ đội:

- Ở ngoài bắc bậc trung học chỉ cần học đến lớp 10 là đủ rồi. Ở trong Nam học đến lớp 12 là phí phạm thời gian quá!

Thật ra, đa số các tên việt cộng đều chỉ học đến lớp 6, lớp 7, tên nào may lắm là được học đến hết lớp 10. Bọn chúng mong được đi bộ đội "sinh bắc tử nam" để nếu có chết thì cũng được "chết no" với tiêu chuẩn 21 ký gạo! Tôi đã gặp một tên bộ đội ở ngã ba ông Tạ, nghe hắn kể về bác Hồ như sau:

- Bác tuy chết nhưng vẫn còn .... sống!? Tóc, râu và móng tay của bác vẫn mọc dài ra. Hàng tuần vẫn phải có các đồng chí chuyên gia của Niên Xô vào cắt móng tay cho bác. Hàng tháng các đồng chí bảo vệ lăng vẫn phải vào để hớt tóc cho bác!!!

Tên bộ đội là dân nhà quê chính cống, nói giọng bắc đặc sệt. Vẻ mặt và tác phong của hắn rất ngờ nghệch. Nhìn thấy sự cuồng tín, tôn thờ "bác" của hắn đến mù quáng, tôi bỗng thấy thương hại. Những người dân miền bắc đã bị bọn việt gian cộng sản nhồi sọ tối đa để biến họ thành những con thiêu thân, phục vụ cho những tham vọng điên cuồng của bọn đầu gấu bắc bộ phủ. Bọn giặc cộng đã bị nhồi sọ tới mức tin tưởng rằng "bác" của bọn chúng vẫn còn sống thì thử hỏi miền Nam không mất sao được? Trong khi đó thì những người dân miền Nam không có ai gọi các người lãnh đạo của mình là "bác Diệm" hay "bác Thiệu"!

Có một điều mà bất cứ tên việt cộng nào cũng bị choáng ngợp nhưng không dám nói ra khi bọn chúng, từ rừng núi, bước chân vào thành phố Sài Gòn để "giải phóng": đó là sự phồn vinh của xã hội miền Nam vượt ngoài sức tưởng tượng của bọn chúng! Và đây là sự phồn vinh thật sự chớ không phải "phồn vinh giả tạo" như bọn chúng thường bị tuyên truyền. Hầu như gia đình nào, dù nghèo, cũng có ti vi, tủ lạnh và xe gắn máy. Xe đạp là đồ bỏ. Thời điểm năm 1975, đối với bọn việt cộng, phải là cán bộ từ trung-cao trở lên mới có đủ tiêu chuẩn sắm được một chiếc xe đạp Phượng Hoàng và một cái đổng (đồng hồ), cái đài (radio). Tên nào hội đủ ba tiêu chuẩn đạp-đổng-đài thì muốn tán gái đẹp cỡ nào cũng được! Đối với những tên biết suy nghĩ thì bọn chúng đã nhận ra được một sự thật hết sức phũ phàng: bọn chúng đã bị bác và đảng lừa bịp quá trắng trợn, lãng phí biết bao nhiêu xương máu và cuộc đời để đi "giải phóng" một xã hội mà cái xã hội đó lại văn minh hơn gấp ngàn lần xã hội miền bắc!!! Biết là như vậy nhưng tên nào cũng ngậm câm không dám nói ra, lơ mơ là toi mạng! Đó là lý do vì sao "chiến sĩ gái" Dương Thu Hương, khi vào đến Sài Gòn thì đã ngồi bệt ngay bên lề đường và khóc!

Tôi đã chứng kiến một gia đình người bắc di cư 1954 ở ngã ba ông Tạ, có bà con họ hàng ở ngoài bắc khá đông. Sau ngày "giải phóng" thì "người Nam nhận họ, người Bắc nhận hàng" Người bà con ngoài bắc vào thăm, sau khi anh em ruột thịt gặp nhau, mừng tủi tuôn trào nước mắt thì người em miền bắc đã khuyên: - Em khuyên anh chị nên vượt biên. Các anh chị không thể nào sống được với bọn cộng sản đâu. Chúng em đã sống với bọn chúng trên 20 năm rồi, chúng em biết rất rõ tâm địa của bọn chúng. Toàn thể người dân miền bắc đều bị bọn chúng lừa. Chúng em cứ tưởng các anh chị bị Mỹ ngụy kềm kẹp, rất nghèo khổ không có bát đũa, phải ăn cơm bằng gáo dừa. Do đó chúng em đã cất công đem một chục bát quý bằng sành ở Hà Nội vào đây để biếu các anh chị .... thế nhưng, vào đây thì chúng em mới ngã ngửa ra ....

Người em đáng thương đó, vốn là một giáo sư đại học, đã bật khóc. Ông ta là người trí thức, ông ta nhanh chóng nhận ra sự lừa bịp trắng trợn của tập đoàn việt gian cộng sản.

Sau biến cố 30 tháng 4, hàng triệu người đã vượt biên, sang nước ngoài để làm lại cuộc đời. Ba mươi ba năm đã trôi qua, cộng đồng người Việt tại hải ngoại đã trưởng thành và lại tiếp tục "phồn vinh giả tạo" như cái xã hội miền Nam lúc trước, và cũng đúng như cái giọng điệu tuyên truyền của bọn cộng sản. Hai mươi năm sau 1975-1995, bọn đầu gấu lại mò sang nước Mỹ xem thử bọn Việt kiều "phản quốc" sinh sống như thế nào, có phải là "phồn vinh giả tạo" như hồi năm 1975 mà bọn chúng đã từng chứng kiến không. Và một lần nữa, bọn chúng lại choáng ngợp bởi vẻ giàu sang của các khu phố người Việt bên nước Mỹ. Sau 20 năm chịu khó làm việc, đa số người Việt đều đã mua được nhà và xe hơi. Người nào cũng da dẻ hồng hào, béo tốt, nhất là thế hệ trẻ sinh ra và trưởng thành tại Mỹ. Thành công rất lớn của cộng đồng người Việt tại hải ngoại là trong lãnh vực giáo dục. Tỷ lệ những người tốt nghiệp đại học khá nhiều, vượt hơn những sắc dân khác. Tốt nghiệp lớp 12 và cao đẳng là chuyện rất bình thường. Thế hệ trẻ nói tiếng Mỹ như gió, người nào cũng đỏ da thắm thịt và xinh đẹp, có lẽ do bị tư bản Mỹ "đầu độc" bằng nhiều món ăn độc hại!

Bọn đầu gấu nhìn những cộng đồng người Việt tại hải ngoại bằng những con mắt hết sức thèm thuồng, tựa như con chó sói nhìn thấy những con cừu, con nai béo tốt. Ái chà, những con nai mập mạp, những con bò đầy ắp sữa như thế này mà không làm thịt thì uổng lắm! Nghĩ cho cùng, đất đai, tài nguyên và con người đều là "tài sản" của bác Hồ mà! Bác chết đi thì đảng cộng sản việt gian đương nhiên được kế thừa những tài sản đó! Thế là bọn chúng lại ra sức, cố chiêu dụ và "giải phóng" cho bằng được những con bò sữa! Bọn chúng đã bỏ ra hàng tỷ đô la quyết tâm khống chế cho bằng được cộng đồng người Việt tại hải ngoại nhưng bọn chúng đã thất bại. Cờ vàng ngày càng phát triển khắp nơi trên thế giới, bất cứ nơi nào có cộng đồng người Việt sinh sống. Những tên đầu gấu việt cộng mỗi khi sang Mỹ đều phải đi lén lút và trốn chui trốn nhũi như những con chó. Hơn hai mươi lăm năm dụ dỗ những con bò sữa Việt kiều nhưng tính cho đến thời điểm năm 2008, số Việt kiều đem tiền về Việt Nam để đầu tư chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Số trí thức về bưng bô cho việt cộng cũng rất ít so với lượng trí thức rất đông đảo tại hải ngoại.

Trước đây tôi có đọc một bài viết trên internet ký tên ông Nguyễn Đan Quế, một nhà đấu tranh cho dân chủ tại quốc nội. Nội dung bài viết này hiến kế: muốn xóa bỏ chế độ độc tài của cộng sản một cách nhanh chóng thì Việt kiều ở hải ngoại phải đem tiền về nước để đầu tư càng nhiều càng tốt. Người dân trong nước sẽ có dịp để so sánh giữa hai hệ thống kinh tế tư doanh và quốc doanh. Họ sẽ thấy tư doanh là nổi bật hơn thì họ không ủng hộ quốc doanh nữa, thế là chế độ cộng sản tự dưng bị sụp đổ, không tốn một viên đạn!!! Tôi ngờ rằng bài viết này là do bọn việt gian cộng sản viết rồi mạo nhận ký tên ông Quế chớ không có ai lại LÝ LUẬN RẤT NGU XUẨN và hết sức có lợi cho việt cộng như vậy! Cũng như có mấy bài viết bằng tiếng Anh và bài "WTO mồ chôn đảng cộng sản", tôi ngờ rằng không phải do ông Quế viết!

Năm nay nhân dịp tưởng niệm ngày Quốc Hận, cùng nhau ôn cố tri tân, từ những bài học đau đớn trong quá khứ, chúng ta rút ra những kinh nghiệm để quyết tâm đấu tranh tiêu diệt bọn cộng phỉ, đem lại tự do, thanh bình cho đất nước. Bọn cộng sản nói một đằng làm một nẻo. Cứ nhìn kỹ tên nhạc nô Trịnh Công Sơn thì chúng ta thấy:

      - Trong bản nhạc "Khi đất nước tôi thanh bình" hắn đã viết:
      .... khi đất nước tôi thanh bình, trẻ em đi hát đồng dao ngoài đường.
      .... khi đất nước tôi thanh bình, mọi người ra ngõ chào nhau nụ cười .....

    Thực tế đã khác hẳn. Khi được thanh bình, dưới sự cai trị của bọn cướp, trẻ em Việt Nam đã bị mang bán ra nước ngoài để làm nô lệ tình dục. Nhiều em bé đã bị bán cho các tổ chức buôn trẻ em. Bọn người ác thú đã bẻ tay, bẻ chân các em, biến các em thành những người tàn tật để đi ăn xin, dễ gợi lòng thương, dễ kiếm được tiền!!! Nếu các em có hát "đồng dao" như tên tội đồ Trịnh Công Sơn mô tả thì đó là bài đồng dao: - lạy ông đi qua lạy bà đi lại, xin hãy bố thí cho con một đồng để húp cháo!

    Sau năm 1975, mọi người dân miền Nam có ra ngõ mời chào nhau nụ cười không thì thực tế đã chứng minh. Hàng triệu gia đình tan nát, tù đày, chết trên biển cả, bị cướp đất cướp nhà,bị đuổi đi vùng kinh tế mới, còn sung sướng gì mà "mời nhau nụ cười"!

    Trong bản nhạc Huế-Sài Gòn-Hà-Nội, tên nhạc nô họ Trịnh đã viết:

    - ..... đường đi đến những nơi lao tù, ngày mai sẽ xây trường hay họp chợ, dân ta về cày bừa đủ áo cơm no!

    Thực tế thì như thế nào? Các nhà tù của "Mỹ ngụy" vẫn được việt cộng tiếp tục dùng để giam nhốt người. Không những thế, bọn chúng còn xây thêm hàng chục ngàn nhà tù khác để nhốt cho đủ chỉ tiêu "nhốt nhốt nữa nhốt mãi". Người dân trong nước đang bị giam cầm trong hai ba lớp nhà tù, đất đai nhà cửa thì bị cướp trắng, làm gì có vụ "dân ta về cày bừa đủ áo cơm no"!!! Láo khoét!

    Trong một bài hát khác của tên phản tặc Trịnh Công Sơn, bài hát "Em ra nông trường", có những lời như sau:

    - Em ở nông trường về thăm lại thành phố. Gặp nhau không bày tỏ đâu ai biết em đi xa. Em đi trồng lúa em đi trồng cà. Tay em cầm cuốc tay em cầm dao pha ....

    Bài hát này đã được những người dân trong nước sửa lời lại để diễn tả cho đúng tâm trạng những cô gái Việt bị bán ra nước ngoài để làm điếm hoặc làm vợ những tên chồng già Đài Loan:

    - ... Em ở bên Tàu về thăm lại làng xóm. Gặp nhau không bày tỏ đâu ai biết em đi xa. Em đi làm gái, em đi làm tiền. Tay em bồng bế tay em cầm ly bia!!!

    Tất cả những gì tên việt gian họ Trịnh viết đều còn sờ sờ ngay ra đó. Vậy mà một số kẻ ngu ngốc vẫn không tỉnh ngộ, còn làm lễ tưởng niệm, tổ chức ca nhạc để vinh danh một thằng giặc điếm đàng, phét lác, đi bưng bô cho việt cộng! Băng nhạc Thúy Nga 91 vẫn cố đưa bản nhạc "Bài ca dành cho những xác người" của Trịnh Công Sơn do Khánh Ly hát. Theo ý của hắn, những người chết tại Huế năm Mậu Thân là do bom đạn của Mỹ ngụy gây ra. Trong tất cả những bài hát của hắn, luôn luôn hắn lên án phía Việt Nam Cộng Hòa và ca ngợi phía cộng sản. Hắn là tên việt cộng từ trong máu tủy việt cộng ra. Từ bài học Trịnh Công Sơn ta nên rút ra bài học về SỰ PHẢN BỘI và quyết liệt vạch mặt, tẩy chay bọn đi hàng hai, vừa khoác áo "người quốc gia" vừa đi lòn cửa sau để xin bưng bô cho việt cộng.

    Để kết thúc bài viết này, xin mượn mấy câu thơ sau đây của thi sĩ Nguyễn Hữu Nhật:
      Đời anh gắn liền đám đông
      Tự do hoặc chết chứ không cúi đầu
      Làm người chẳng khác ngựa trâu
      Hỏi em mơ ước sống lâu làm gì .....
    Nếu sống như ngựa trâu thì chẳng thà chết đi cho rồi. Còn nếu muốn sống cho ra con người thì phải chọn một trong hai con đường: Tự Do hoặc Chết. Đó chính là ý nghĩa của ngày 30 tháng tư. Chúng ta không được quyền từ bỏ ý chí chiến đấu để sinh tồn. Những con chó sói việt gian cộng sản nó đã giàn trận sẵn, dày đặc ở hải ngoại. Bọn chúng đang đứng chờ sẵn ngay tại cửa nhà, chỉ cần thời cơ đến là bọn chúng xông vào ăn thịt chúng ta. Lúc đó có ân hận thì đã quá muộn!

    Trần Thanh
    Ngày 29 tháng 4 năm 2008