Monday, March 17, 2014

Tội Ác Cộng sản - Đỗ Ngọc Uyển

Tội Ác Cộng sản:
Thủ Tiêu Mất Tích 165,000 Quân Dân Cán Chính VNCH
 
Đỗ Ngọc Uyển


Mang Kẻ Phạm Tội Ra Trước Công Lý và Mang Công Lý Tới Nạn Nhân.

Trong tháng 4/1975, cộng sản Bắc Việt - với sự yểm trợ và tiếp vận của khối cộng sản quốc tế - đã mở một cuộc tấn công ào ạt bằng quân sự với chiến xa và trọng pháo vượt qua biên giới, chiếm đóng lãnh thổ VNCH một cách phi pháp. Đây là một cuộc xâm lăng của khối Đệ Tam Quốc Tế được uỷ nhiệm cho bọn tay sai Việt Cộng. Theo công pháp quốc tế, VNCH hội đủ tám tiêu chuẩn của một quốc gia độc lập, có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Do đó, khi xâm lăng VNCH, Việt Cộng đã phạm tội ác xâm lược (the crime of aggression). Đây là một trong bốn nhóm tội ác được dự liệu tại Đạo Luật Rome (The Rome Statute) và thuộc quyền xét xử của Toà Án Hình Sự Quốc Tế(The International Criminal Court, viết tắt là ICC).
Ngày Thứ Hai, 23/7/07, trên trang mạng của tờ The Wall Street Journal, nhà báo James Taranto đã trích dẫn cuộc điều tra quy mô của nhật báo Orange County Register được phổ biến trong năm 2001 về “học tập cải tạo” tại Việt Nam và đã kết luận rằng ngay sau khi xâm chiếm VNCH, cộng sản đã đưa một triệu quân dân cán chính VNCH vào tù vô thời hạn - dưới cái nguỵ danh học tập cải tạo – trong ít nhất là 150 trại tù được thiết lập trong toàn cõi Việt Nam tại những nơi rừng thiêng nước độc với khí hậu khắc nghiệt. Theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đại đa số những người này đã bị giam cầm từ 3 tới 10 năm và có một số người đã bị giam giữ tới 17 năm. Nếu lấy con số trung bình là bẩy năm tù cho mỗi người, số năm tù của một triệu người là 7,000,000 năm. Đây là một tội ác hình sự mang tính lịch sử vô tiền khoáng hậu của lũ Việt gian cộng sản mà ngàn đời sau phải ghi nhớ.
Cũng theo cuộc điều tra nói trên, cứ mỗi ba gia đình tại Miền Nam, có một gia đình có người phải đi tù cải tạo. Và trong số một triệu người tù kể trên, đã có 165,000 người chết vì bị hành hạ, tra tấn, đánh đập, bỏ đói, lao động kiệt sức, chết vì bệnh không được chữa trị, bị hành quyết…  Cho tới nay, hài cốt của 165,000 nạn nhân này vẫn còn bị Việt Cộng chôn giấu trong rừng núi, không trả lại cho gia đình họ. Hiện nay chỉ có Việt Cộng mới biết rõ tên tuổi các nạn nhân cùng nơi chôn giấu hài cốt của họ. Đây là tội ác thủ tiêu mất tích người, một tội ác chống loài người đã và đang diễn ra tại Việt Nam suốt 35 năm nay mà chánh phạm là tên Lê Duẩn… và những tên đồng phạm hiện nay là  Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng...

Điều 7 của Đạo Luật Rome đã định nghĩa tội Thủ Tiêu Mất Tích Người “Enforced Disappearance of Persons” như sau:

Thủ tiêu mất tích người có nghĩa là bắt giữ, giam giữ hay bắt cóc người ta với sự cho phép, sự hỗ trợ hoặc sự chấp thuận của một quốc gia hoặc một tổ chức chính trị, sau đó không nhìn nhận sự tước đoạt tự do của người ta và cũng không thông báo tin tức về số phận hoặc nơi giam giữ với chủ tâm tước đi quyền được luật pháp bảo vệ của những người này trong một thời gian lâu dài. “Enforced disappearance of persons means the arrest, detention or abduction of persons by, or with the authorization, support or acquiescence of a State or a political organization, followed by a refusal to acknowledge that deprivation of freedom or to give information on the fate or whereabouts of those persons, with the intention of removing them from the protection of the law for a prolonged period of time.”

Theo định nghĩa trên đây, Việt Cộng đã phạm tội ác thủ tiêu mất tích người khi chúng lạm danh chính quyền của quốc gia để đưa ra những thông cáo lừa gạt để bắt và giam giữ một cách phi pháp - dưới cái ngụy danh “học tập cải tạo” – và hành hạ cho tới chết bằng những đòn thù của chúng, và tiếp tục chôn giấu hài cốt của 165,000 quân dân cán chính VNCH trong vùng rừng núi với chủ tâm thủ tiêu mất tích. Đây là một tội ác chống loài người (a crime against humanity). Tội ác này thuộc quyền xét xử của Toà Án Hình Sự Quốc Tế. 

Ngoài tội ác đối với những người đã chết, cộng sản còn phạm thêm một tội ác chống loài người nữa đối với thân nhân của những người đã chết. Đó là hành động độc ác (inhumane act) với chủ tâm gây đau khổ tinh thần triền miên suốt đời cho thân nhân các nạn nhân. Hãy tự đặt mình vào hoàn cảnh của những người mẹ, người vợ, người con… đã có con, có chồng, có cha…bị giam cầm hành hạ cho tới chết và thân xác bị chôn giấu tại một xó thâm sơn cùng cốc nào đó và tuyệt vô âm tín suốt 35 năm nay mới thấu được nỗi thống khổ trong tâm can họ!

Điều 7 của Đạo Luật Rome đã định nghĩa những hành động độc ác của tội ác chống loài người này như sau:

Những hành động độc ác có cùng một tính cách với chủ tâm gây thống khổ hay thương tích nghiêm trọng cho thân xác hay cho sức khoẻ về thể chất và tinh thần. “Other inhumane acts of a similar character intentionally causing great suffering or serious injury to body or to mental or to physical health.”

Theo định nghĩa trên đây, cộng sản đã phạm tội ác chống loài người khi chúng chôn giấu trong rừng sâu 165,000 bộ hài cốt của quân dân cán chính VNCH đã chết dưới đòn thù của chúng với chủ tâm gây thống khổ “intentionally causing great suffering” suốt đời cho thân nhân của họ. Đây là cung cách trả thù phi pháp (extrajudicial retribution) của quân thảo khấu sống ngoài vòng pháp luật. Tội ác này cũng thuộc quyền xét xử của ICC.

Bổn phận của chúng ta, những người tù còn sống sót sau cơn đại hồng thủy là phải cất tiếng nói công chính, nêu rõ tội ác của chúng để mang bọn tội phạm này ra trước công lý và mang công lý đến cho những nạn nhân của chúng. Đây là bổn phận phải làm để trả lại danh dự cho 165,000 quân dân cán chính VNCH đã bị sát hại vì đòn thù của Việt Cộng trong những cái gọi là trại cải tạo và để xoa dịu một phần nỗi đau thương của thân nhân những nạn nhân. 

Hai tội ác chống loài người trên đây của Việt Cộng là những tội ác hình sự có tính quốc tế và. được dự liệu tại Đạo Luật Rome. Trước khi đưa bọn tội phạm ra xét xử trước công lý, xin trình bày tóm lược về Đạo Luật Rome của Toà Án Hình Sự Quốc Tế.

Đạo Luật Rome của Toà Án Hình Sự Quốc Tế (The Rome Statute of the International Criminal Court)

Sau một thời gian dài cố gắng thành lập một Toà Án Hình Sự Quốc Tế để xét xử và trừng phạt các cá nhân phạm bốn loại tội ác nghiêm trọng được cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm gồm:
    1. tội ác diệt chủng (the crime of genocide), 2. tội ác chống nhân loại (crimes against humanity, 3. tội ác xâm lược (the crime of aggression), 4. và tội ác chiến tranh (war crimes),
cuối cùng thì một hội nghị đã được Liên Hiệp Quốc triệu tập tại Rome, Italy trong thời gian từ ngày 15/6/1989 đến ngày 17/7/1989 với 160 quốc gia tham dự. Sau năm tuần lễ thảo luận và điều đình căng thẳng, 120 quốc gia đã bỏ phiếu chấp thuận Đạo Luật Rome của Toà Án Hình Sự Quốc Tế cùng với bẩy quốc gia bỏ phiếu chống (Hoa Kỳ, Do Thái, Trung Cộng, Iraq, Qatar…) và 21 quốc gia bỏ phiếu trắng. Đạo Luật Rome gồm có – ngoài Lời Mở Đầu (Preamble) – 13 Phần (Part) với 28 Điều (Article). Các Điều 6, 7 và 8 liệt kê và định nghĩa các tội ác diệt chủng, tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh. Các Điều còn lại nói về quyền hạn, tổ chức và điều hành… của Toà Án.

Theo quy định, Đạo Luật Rome sẽ có hiệu lực sau khi được 60 quốc gia phê chuẩn. Senegal là quốc gia phê chuẩn đầu tiên và quốc gia thứ 66 đã phê chuẩn vào ngày 11 tháng 4 năm 2002. Đạo Luật Rome có hiệu lực kể từ ngày 1-7-2002. Toà Án Hình Sự Quốc Tế cũng được mở ra trong năm đó tại The Hague, Netherlands. Hiện nay đã có 110 quốc gia phê chuẩn Đạo Luật Rome và trở thành quốc gia hội viên (State party) của đạo luật này. Quốc hội Hoa Kỳ đã không phê chuẩn đạo luật này, nên Hoa Kỳ không phải là quốc gia hội viên của Đạo Luật Rome.

Toà Án Hình Sự Quốc Tế là một tổ chức quốc tế độc lập, không trực thuộc Liên Hiệp Quốc. Điều này có nghĩa là Toà Án Hình Sự Quốc Tế độc lập về quyền tài phán, xét xử. Kể từ ngày 1-7-2002 trở đi, các quốc gia hội viên của Đạo Luật Rome phải chấp nhận quyền xét xử (jurisdiction) của Toà Án Hình Sự Quốc Tế về những tội ác được dự liệu tại Đạo Luật Rome khi những tội ác đó diễn ra tại các nước hội viên. Công dân của các quốc gia không phải hội viên (non State party) gây tội ác trên lãnh thổ của các quốc gia hội viên cũng phải chịu sự xét xử của Toà Án Hình Sự Quốc Tế.
Công Tố Viên Trưởng của Toà Án Hình Sự Quốc Tế (The ICC’s Chief Prosecutor) bắt đầu thụ lý và mở một cuộc điều tra về một vụ án khi nhận được tin tức về tội ác đang diễn ra do các quốc gia hội viên hoặc Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc chuyển tới. Ngoài hai nơi cung cấp tin tức nói trên, Công Tố Viên còn có thể nhận tin tức từ các nguồn cung cấp khác như các cá nhân hay các tổ chức ngoài chính phủ (non-governmental organizations).

Khi tội ác diễn ra trên lãnh thổ của một quốc gia không phải hội viên, chỉ có Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc mới có quyền chuyển thông tin về những tội ác đó cho Toà Án Hình Sự Quốc Tế để thụ lý. Đây là trường hợp đã được áp dụng đối với Sudan, một quốc gia không phải hội viên. Bằng Nghị Quyết; số 1593 năm 2005, Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đã chuyển tới Toà Án Hình Sự Quốc Tế tình trạng tội ác đã và đang diễn ra tại Darfur. Phòng công tố đã mở các cuộc điều tra, và ngày 14-7-2008, Toà Án đã ban hành trát bắt giữ Ahmad Muhammed Harun (Ahmed Haroun), Bộ Trưởng Nội Vụ của Sudan và Ali Muhammed Ali Abd-Al-Rahman (a.k.a Ali Kushayb), một tư lệnh dân sự. Hai người này bị quy trách nhiệm về các tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh đã và đang diễn ra tại Darfur. Chính quyền Sudan đã từ chối bắt giữ và giải giao hai nhân vật nói trên cho Toà Án Hình Sự Quốc Tế.

Ngày 14-7-2008, Công Tố Viên Luis Mereno-Ocampo đã trình bày những chứng cứ chứng minh rằng Tổng Thống Sudan phải chịu trách nhiệm về các tội ác diệt chủng, tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại đã và đang diễn ra tại Darfur. Ngày 4-3-2009, Toà Án Hình Sự Quốc Tế đã ban hành trát bắt giữ Tổng Thống Omar Hassan Al-Bashir của Sudan để trả lời trước công lý về năm tội ác chống nhân loại được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome:
    1.Tội giết người (Murder), 2. Tội huỷ diệt chủng tộc (Extermination), 3. Tội cưỡng bức chuyển vùng cư trú (Forcible transfer), 4. Tội hành hạ (Torture), 5. Tội hiếp dâm (Rape),
    và hai tội ác chiến tranh được dự liệu tại Điều 8 của Đạo Luật Rome: 1. Tội cướp bóc (Pillaging), 2.Tội trực tiếp tấn công có chủ tâm vào cư dân hay những cá nhân không đứng vào phe nào trong cuộc tranh chấp thù địch.
Cùng với việc ban hành trát bắt giữ Tổng Thống Bashir, Toà Án Hình Sự Quốc Tế cũng gửi một công văn yêu cầu nhà cầm quyền Sudan giải giao Tổng Thống Bashir cho Toà Án. Theo Nghị Quyết số 1593 năm 2005 của Hội Đồng Bảo An LHQ đã nói ở trên, chính quyền Sudan có bổn phận phải hợp tác với Toà Án. Tuy nhiên, không có hy vọng chính quyền Sudan sẽ bắt  và giải giao Tổng Thống Sudan cho Toà Án. Chính quyền này đã nhiều lần tuyên bố rằng họ không nhìn nhận thẩm quyền của Toà Án Hình Sự Quốc Tế.

Nếu Tổng Thống Bashir không ra trình diện hoặc chính quyền Sudan không giải giao ông này cho Toà Án Hình Sự Quốc Tế, ông ta sẽ bị coi như một kẻ đang đào tẩu, trốn tránh công lý (a fugitive from justice). Và kể từ nay, khi nào ông Bashir bước chân ra khỏi Sudan, đến một quốc gia hội viên của Đạo Luật Rome và ngay cả những quốc gia không phải hội viên nhưng sẵn sàng hợp tác với Toà Án, ông ta sẽ bị bắt và giải giao cho Toà Án để trả lời trước công lý về những tội ác mà ông ta phải chịu trách nhiệm.

Một điều quan trọng cần ghi nhận rằng lệnh bắt giữ để đưa ra toà án xét xử một tổng thống đang tại chức vì những tội ác chống nhân loại, tội ác chiến ranh…là hồi chuông cảnh báo nghiêm khắc cho những kẻ cầm quyền đang phạm những tội ác chống nhân loại có tổ chức quy mô tại Việt Nam  như những tên Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn sang, Nguyễn Tấn Dũng... rằng chúng sẽ phải đối diện với công lý bất kể quyền lực và cương vị của chúng.

Tội ác thủ tiêu mất tích 165,000 quân dân cán chính VNCH đã hiển nhiên không thể chối cãi. Ngoại trừ một số rất ít hài cốt của họ đã đuợc thân nhân tìm cách chạy chọt cải táng, tuyệt đại đa số 165,000 bộ hài cốt còn lại đã và đang bị cộng sản chôn giấu để thủ tiêu với chủ tâm trả thù. Chánh phạm của tội ác chống loài người này là tên Lê Duẩn và các thủ phạm tiếp theo là những tên Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải… và ba tên tòng phạm hiện nay là Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng. Ngoại trừ những tên đã chết, tất cả những tên còn sống - sớm hay muộn - sẽ phải ra trước vành móng ngựa để trả lời về những tội ác giam cầm phi pháp và thủ tiêu mất tích 165,000 quân dân cán chính VNCH và nhiều tội ác khác mà chúng đã phạm đối với dân tộc Việt Nam trong suốt thời gian kể từ khi chúng cướp được chính quyền bằng khủng bố từ ngày 19/8/1945. Đảng cộng sản VN, một chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế, là một tổ chức tội ác tay sai Cộng sản quốc tế. Sớm hay muộn, tội ác phải bị trừng phạt.

Ngụy quyền Việt Cộng không ký và phê chuẩn Đạo Luật Rome, nên cộng đồng người Việt hải ngoại không thể trực tiếp chuyển các tội ác chống nhân loại của chúng cho Công Tố Viên của Toà Án Hình Sự Quốc Tế để thụ lý. Tuy nhiên, chúng ta có thể tố cáo tội ác của chúng đến Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ (United Nations Human Rights Council) để yêu cầu uỷ ban này mở cuộc điều tra về tội ác thủ tiêu mất tích 165,000 quân dân cán chính VNCH và chuyển thông tin về những tội ác này cho Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc để chuyển tiếp tới Toà Án Sự Hình Sự Quốc Tế để thụ lý. Sự kiện này đã có tiền lệ và chúng ta có thể áp dụng.

Trước dư luận quan tâm đặc biệt của cộng đồng quốc tế về tội ác trong cuộc chiến tại Gaza, ngày 3-4-09, Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ đã mở một cuộc  điều tra về tội ác chiến tranh đã diễn ra tại dải Gaza trong cuộc chiến 22 ngày từ 27-12- 2008 tới 18-1- 2009. Toán điều tra gồm bốn chuyên viên cầm đầu bởi Thẩm Phán Richard Goldstone. Sau năm tháng điều tra, ngày 29-9-2009, Thẩm Phán Richard Goldstone đã trình cho Uỷ Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc tại Geneva báo cáo kết quả điều tra gồm 575 trang và kết luận rằng cả Do Thái và Palestine cùng phạm tội ác chiến tranh mang tính chất tội ác chống loài người. Báo cáo yêu cầu Hội Đồng Bảo An LHQ đòi hỏi cả hai bên trong cuộc chiến - trong thời hạn sáu tháng - phải điều tra và xét xử những kẻ phạm tội. Nếu hai phe không thi hành, tội ác sẽ được chuyển cho Toà Án Hình Sự Quốc Tế để thụ lý.

Ngoài sự kiện kể trên, sau đây là hai trưòng hợp điển hình về pháp lý quốc tế mà người Việt hải ngoại có thể áp dụng đối với những tên đầu sỏ Việt Cộng khi chúng ra khỏi nước.

Ngày 14/12/09, trang mạng của báo Guadian.co.uk đã đưa tin về việc Ông Moshe Yaalon, Phó Thủ Tướng Do Thái, đã quyết định không đến tham dự một buổi lễ gây quỹ tại Luân Đôn trong tháng 11/09, sau khi được cảnh báo rằng ông ta có thể bị bắt giữ vì bị cho là đã phạm tội ác chiến tranh tại Gaza. Quyết định của ông ta được đưa ra trong Tháng 10/09, một tuần lễ sau khi các luật sư của 16 người Palestine đã không thành công trong việc vận động một toà án tại Anh ban hành trát bắt giữ Ông Ehud Barak, Bộ Trưởng Quốc Phòng Do Thái, khi ông này viếng thăm Anh vì bị cho là đã phạm tội ác chiến tranh tại Gaza.

Cũng nguồn tin nói trên cho biết ngày Thứ Bẩy 12/12/09, một toà án tại Luân Đôn đã ban hành trát bắt giữ Bà Tzipi Livni, cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao Do Thái, cũng bị cho là đã phạm tội ác chiến tranh tại Gaza. Lệnh bắt giữ này đã được hủy bỏ vào ngày Thứ Hai 14/12/09 sau khi được biết Bà Tzipi Livni đã hủy bỏ, không tham dự một buổi hội họp tại Luân Đôn vào ngày Chủ Nhật 13/12/09. Toà án đã ban hành trát bắt giữ Bà Tzipi Livni chiếu theo yêu cầu của các luật sư đại diện cho các nạn nhân người Palestine trong cuộc chiến tại Gaza. Bà Tzipi Livni là thành viên của nội các chiến tranh và bộ trưởng ngoại giao của Do Thái khi diễn ra cuộc tấn công vào dải Gaza vào cuối năm 2008.
Khi những người Palestine vận động một toà án của Anh quốc ban hành trát bắt giam Ông Bộ Trưởng Quốc Phòng và Bà cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao Do Thái khi hai người này đến Anh quốc, họ đã dựa trên nguyên tắc pháp lý quốc tế về quyền xét xử phổ biến “universal jurisdiction or universality principle.” Quyền này dựa trên lập luận rằng tội ác đã phạm được coi như một tội ác chống lại tất cả “a crime against all” và bất cứ quốc gia nào cũng có quyền trừng phạt.  Do đó, những nạn nhân và cũng là thân nhân của những người đã bị Việt Cộng thủ tiêu mất tích cũng có thể vận động để áp dụng nguyên tắc pháp lý quốc tế này đối với những tên Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng… khi chúng bước chân ra khỏi nước và đến những quốc gia có áp dụng nguyên tắc pháp lý quốc tế về quyền xét xử phổ biến.

Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam là tổ chức chính danh nhất đại diện cho cộng đồng người Việt hải ngoại để yêu cầu Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ điều tra về tội ác thủ tiêu mất tích 165,000 quân dân cán chính VNCH. Nếu Việt Cộng từ chối không cho Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ vào Việt Nam để mở cuộc điều tra này, điều đó chứng tỏ rằng chúng tìm cách trốn tránh tội ác của chúng.

Nếu chúng ta vận động mà LHQ - một tổ chức giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành Toà Án Hình Sự Quốc Tế - vì một lý do nào đó, không chuyển những tội ác chống loài người của Việt Cộng cho Toà Án Hình Sự Quốc Tế để thụ lý, chúng ta vẫn còn cách đưa bọn tội phạm này ra trước công lý. Sớm hay muộn, chế độ cộng sản vô tổ quốc, phi dân tộc sẽ bị huỷ diệt. Chính những tên đầu sỏ đang tiếm quyền trong nưóc cũng đang thú nhận rằng chế độ của chúng đang tự diễn biến, đang tự chuyển hoá để tự huỷ diệt… Ngày đó không còn xa và một chính quyền chính thống của toàn dân Việt Nam sẽ hợp tác với LHQ để tổ chức một toà án hình sự đặc biệt có tính quốc tế như Toà Án Đặc Biệt tại Cam Bốt có tên Anh ngữ là  Extraordinary  Chamber in the Courts of Cambodia (viết tắt là ECCC) đang xét xử bọn tội phạm cộng sản Khờ Me Đỏ tại Nam Vang vì các tội ác chống loài người, tội ác chiến tranh và tội ác diệt chủng. Đây là một tiền lệ sẽ được thực thi tại Việt Nam sau này để xét xử những tên chánh phạm Việt Cộng đã phạm bốn nhóm tội ác có tính quốc tế được dự liệu tại Đạo Luật Rome trong suốt những năm tiếm quyền của chúng.

Mang Việt Cộng, bọn tội phạm có tính quốc tế, ra trước công lý và mang công lý tới các nạn nhân của chúng là điều cần thiết bởi vì công lý là một thành tố không thể thiếu trong tiến trình hoà giải dân tộc. “Justice is an indispensable ingredient of the process of national reconciliation.” Dân tộc Việt Nam đã bị phân hoá và chia rẽ, xã hội Việt Nam đã bị băng hoại trầm trọng bởi những di sản độc hại mà chế độ phi nhân cộng sản đã để lại cho dân tộc suốt 80 năm nay kể từ khi Hồ Chí Minh lén lút du nhập cái chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam. Mang bọn tội phạm này ra trước công lý là để mang lại hoà bình cho xã hội. “Justice and peace go hand in hand.” Sau hết, mang bọn tội phạm Việt Cộng ra trước công lý là một bài học cho các thế hệ tương lai để tránh những vết xe đổ của lịch sử.

Đi Vào Bất Tử

165,000 quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa đã chết dưới đòn thù của cộng sản trong các trại tù cải tạo phải được tôn vinh là những người đã hy sinh vì chính nghĩa quốc  gia dân tộc. Tổ quốc sẽ ghi ơn họ như đã ghi ơn những người chiến sĩ QLVNCH đã chiến đấu và hy sinh ngoài mặt trận để bảo vệ quê hương. Về phương diện tâm linh, tôi không tin rằng những người này đã chết mà chỉ tan mờ đi như hình ảnh những người lính trong cái điệp khúc của khúc ballad nổi tiếng một thời mà Đại Tướng Douglas MacArthur đã nhắc đến trong phần cuối của bài diễn văn từ biệt đọc tại Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ ngày 19-4-1951. Xin ghi lại nguyên văn và không chuyển ngữ:

“Old soldiers never die; they just faded away.”

Cũng xin ghi lại đây và không chuyển ngữ câu kết của bài diễn văn từ biệt nổi tiếng đã đi vào lịch sử của Đại Tướng MacArthur để những người lính chúng ta chiêm nghiệm.

“And like the old soldier of that ballad, I now close my military career and just fade away, a soldier who tried to do his duty as God gave him the light to see that duty.”
“Good bye,”

Đây cũng chính là hình ảnh của những chiến binh QLVNCH, những người đã đi chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc dưới ánh hào quang dẫn đường của Tổ Tiên Lạc Việt và đi vào bất tử.

Và những hình ảnh hiên ngang đi vào bất tử của người chiến binh QLVNCH khi bị sa cơ trong tay quân thù cũng đã được nhà thơ Cung Trầm Tưởng ghi lại trong bài hành Vạn Vạn Lý được viết tại một trại tù trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn vào năm 1977.

VẠN VẠN LÝ
(Tưởng nhớ những tù hùng tuẫn tử)

Cung Trầm Tưởng

Ngồi trùm lần bóng tối                         Mưa về gióng lê thê
Nhìn mây đi lang thang                        Nai kêu nguồn đâu đó
Mây giăng xám hàng hàng                    Xưa nay tù ngục đỏ
Trời vào đông ảm đạm                        Mấy ai đã trở về

Chấn song đan u ám                           Vỗ vỗ rơi tàn thuốc
Sần sùi nhớp nhúa đen                        Phà khói vào mông lung
Ran ran nhạc dế mèn                          Hư vô đẹp não nùng
Nhởn nhơ cười chẫu chuộc                 Nụ hôn đời khốc liệt

Vỗ vỗ rơi tàn thuốc                            Cõi sầu ta tinh khiết
Phà khói vào hơi sương                      Thép quắc vầng trán cao
Xa xưa trống lên đường                      Phong sương dệt chiến bào
Tiếng quân hô hào sảng                     Với máu xe làm chỉ

Nẻo cồn vàng bãi trắng                      Đã đi trăm hùng vĩ        
Sa trường hề sa trường                       Xông pha lắm đoạn trường
Tiết tháo quắc đao thương                 Về làm đá hoa cương
Chinh nhân ngàn dặm ruổi                  Gửi đời sau tạc tượng

Gió lên như địch thổi                          Uống uốngnguyên hàm lượng
Đưa ai qua trường giang                      Sương trong cất đầy vò
Nay cô liêu bạt ngàn                           Sầu này thước nào đo
Tiễn ta vào bất tử                               Khi đao rơi kiếm gẫy

Đau thương là vinh dự                        Gió về lay lau dậy
Chân đi hất hồng trần                         Sơn khê khói mịt mù
Anh hùng phải gian truân                    Ngà ngà nhấp thiên thu
Hy sinh là tất yếu                                Bay…bay…vạn vạn lý
Ngựa phi dòn nước kiệu…                 Tráng sĩ hề tráng sĩ!

Cung Trầm Tưởng
Hoàng Liên Sơn, 1977

Trong khi viết bài này, tôi luôn luôn nghĩ đến những người bạn tù đã chết vì đòn thù của  cộng sản trong đó có anh bạn tại trại 6, liên trại 2 tại Hoàng Liên Sơn. Chúng tôi cùng thuộc đội “lao động nặng.” Anh nằm cách tôi một người bạn. Vào một tháng cuối năm 1977, cả đội tù chúng tôi khoảng 50 người phải đi phát quang một khu đồi rộng 300 mẫu để trồng khoai mì. Khu đồi này cách trại giam khoảng 15km đường rừng. Ban ngày đi làm khổ sai; đêm đông về, đói và lạnh, chúng tôi phải ngủ trong những túp lều trống gió, mái che bằng những tấm nylon cá nhân, dựng tại chân đồi. Tuy là lính nhưng dáng người anh nho nhã. Trong đầu anh chứa cả một bộ từ điển bách khoa. Năm đó anh chừng 45 tuổi. Sau hai tháng khổ sai tại khu đồi 300, trở lại trại tù ít ngày thì anh chết vì suy dinh dưỡng và kiệt sức nhưng tinh thần anh luôn luôn vững mạnh.  Giờ này, thân xác anh có thể còn đang bị cộng sản chôn giấu tại một góc rừng nào đó trong vùng Hoàng Liên Sơn trong nỗi đau khôn nguôi của vợ con anh. Tên anh là Đặng Vũ Ruyến, Trung Tá, Chánh Sở Địa Hình tại Đà Lạt.

Kể từ ngày đó đến nay đã hơn 39 năm, mỗi khi nhớ đến Anh, tôi vẫn không tin là Anh đã chết mà Anh đang bay… bay vào Vạn Vạn Lý, và… fade away… vào nơi bất tử.

Đỗ Ngọc Uyển
(Khoá 4 Thủ Đức)
SanJose, California
------------------------------------------------

Tài liệu tham khảo:


Đảng cộng sản Việt Nam đang tiếp tay cho Tàu - Đỗ Ngọc Uyển

Đảng cộng sản Việt Nam đang tiếp tay cho Tàu
cơ hội phát huy chiến dịch đồng hóa dân Việt…

Đỗ Ngọc Uyển

Sau khi chiếm được chính quyền tại Miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, Hồ Chí Minh đã bê nguyên cái mô hình “học tập cải tạo” của Mao Trạch Đông từ Trung Cộng vào Miền Bắc Việt Nam. Đây là một kế hoạch nằm trong chính sách giết người có chủ đích, có tính toán dưới cái chiêu bài giả hiệu là “cải tạo” những người chống đối chủ nghĩa xã hội để trở thành công dân của nước xã hội chủ nghĩa. Với kế hoạch “cải tạo giết người” này, Hồ Chí Minh đã giết và thủ tiêu 850,000 người dân Miền Bắc trong những cái gọi là “trại học tập cải tạo.”

Sau ngày 30-4-1975, lũ Việt gian cộng sản cũng tiếp tục kế hoạch giết người này, và chúng đã giết và thủ tiêu 165,000 quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia trong 150 “trại cải tạo” của chúng trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

“Học Tập Cải Tạo” Bắt Đầu tại Miền Bắc Việt Nam

Để xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Miền Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tiêu diệt tất cả những thành phần chống đối bằng những kế hoạch khủng bố sắt máu như: Rèn Cán Chỉnh Quân, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Cải Cách Ruộng Đất, và đàn áp những phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, Trăm Hoa Đua Nở… Số nạn nhân của những vụ khủng bố này không ai biết là bao nhiêu, nhưng có thể ước tính là trên một triệu người, bởi vì chỉ riêng vụ gọi là Cải Cách Ruộng Đất đã có 700,000 nạn nhân. Nói chung, cho tới đầu năm 1960 toàn thể xã hội Miền Bắc đã bị “cào bằng,” không còn giai cấp (social class). Các giai cấp trí, phú, địa, hào đã bị đào tận gốc, trốc tận rễ. Không ai có quyền tư hữu và mọi người đều nghèo khổ, đói rách như nhau. Mỗi năm, mỗi người được phát 2 thước vải thô Nam Định chỉ có thể may được một cái quần hay một cái áo, và hàng tháng được phát 15kg gạo, 200gr đường… Chưa hết, với chủ trương tuyệt diệt những thành phần chống đối, Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho cái quốc hội bù nhìn “ban hành” một nghị quyết về “học tập cải tạo.” Đây là một mẻ lưới “vĩ đại” cuối cùng nhằm vét hết những thành phần có thể gây cản trở cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của y. Các trại “cải tạo” của Hồ Chí Minh được rập theo đúng khuôn mẫu các trại “lao cải” (laogai hay laojiao) của Mao Trạch Đông. . . Theo lệnh của Hồ, quốc hội cộng sản đã “ban hành” một Nghị Quyết (Resolution) về “học tập cải tạo” mang số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961. Căn cứ vào nghị quyết này, hội đồng chính phủ đã “đẻ” ra cái Thông Tư (General Circular) số 121-CP ngày 8-9-1961 để áp dụng trong toàn nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Những nạn nhân bị chi phối bởi cái nghị quyết trên gồm những thành phần sau đây:

1. Tất cả những gián điệp nguy hiểm, những biệt động; tất cả những quân nhân và viên chức hành chánh của chính quyền quốc gia trước đây.

2. Tất cả những nhân vật nòng cốt của các tổ chức và đảng phái đối lập.

3. Tất cả những thành phần ngoan cố thuộc giai cấp bóc lột và những kẻ chống phá cách mạng.

4. Tất cả những kẻ chống phá cách mạng đã bị tù và hết hạn tù nhưng không chịu cải tạo.

Bốn thành phần trên đây đều có một đặc điểm chung mà cộng sản gọi là “những thành phần ngoan cố, chống phá cách mạng.” (obstinate counter-revolutionary elements). Thời gian “cải tạo” được ấn định là 3 năm, nhưng sau 3 năm mà chưa “tiến bộ” thì “cải tạo” thêm 3 năm nữa và cứ như thế tiếp tục tăng thêm 3 năm nữa… cho đến khi nào “học tập tốt, cải tạo tốt” thì về, thực tế là vô thời hạn. Ngoài Hồ Chí Minh và những tên đồng đảng ra, không ai biết được số nạn nhân bị đưa đi “cải tạo” là bao nhiêu; nhưng có thể ước tính là nhiều triệu người, căn cứ vào con số nạn nhân chết trong các “trại cải tạo” là 850,000 người do Tổ Chức Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (The Victims of Communism Memorial Foundation) đưa ra: (…When Ho Chi Minh sent 850,000 Vietnamese to their graves in education camps …)

“Học Tập Cải Tạo” tại Miền Nam Việt Nam

Cộng sản ước tính rằng tại Miền Nam có 1,300,000 người đã tham gia vào chính quyền Quốc Gia và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, và mỗi gia đình có 5 người; như vậy là có 6,500,000 người có nợ máu với chúng. Những người nào phục vụ trong quân đội hay trong chính quyền thì phải đi “cải tạo” và những thành phần còn lại trong gia đình thì phải đi những “khu kinh tế mới;” cũng là một cách đưa đi đầy ải tại những vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh. Đây là một kế hoạch “tắm máu trắng” đã được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của của tập đoàn Việt gian cộng sản.

Một tháng sau khi xâm chiếm được Miền Nam, lũ bán nước cộng sản áp dụng Nghị Quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 và Thông Tư số 121-CP ngày 8-9-1961 của chúng để đưa một triệu quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia chống cộng đi “học tập cải tạo,” thưc chất là đưa đi tù để trả thù (revenge). Đây là cung cách hành xử man rợ của thời trung cổ. Và bằng lối hành xử dã man, rừng rú này, cộng sản đã phạm 5 trong số 11 Tội Ác chống Nhân Loại [1] (Crimes against Humanity) theo luật pháp quốc tế được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) như sau:

Tội ác thứ 1 – Tội cầm tù hay tước đoạt tự do thân thể một cách nghiêm trọng, vi phạm những điều luật căn bản của luật pháp quốc tế (Imprisonment or other severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental rules of international law)

Những người bị cộng sản cầm tù (imprisonment) sau ngày 30-4-1975 là những người bị cộng sản trả thù vì lý do chống cộng tức lý do chính trị. Cộng sản không thể mang những người này – công dân của một một quốc gia độc lập đã bị Việt gian cộng sản, tay sai của Quốc Tế 3, xâm chiếm bằng vũ lực (aggression) một cách phi pháp – ra toà án để kết tội. Cộng sản nguỵ biện một cách láo xược rằng những người này là những tội phạm chiến tranh (war criminals) theo điều 3 của đạo luật về tội chống phá cách mạng ban hành ngày 30-9-1967 của chúng (article 3 of the 30 October 1967 law on counter-revolutionary crimes) và rằng nếu mang ra tòa án xét xử thì những người này có thể bị kết án từ 20 năm tù đến chung thân hay tử hình; nhưng vì chính sách “khoan hồng” và sự “chiếu cố” của đảng nên những người này được đưa đi “học tập cải tạo” thay vì đưa ra toà án xét xử. Đây là một sự nguỵ biện trơ trẽn và lếu láo. Luật rừng rú của đảng cộng sản không có một chút gì gọi là công lý của thời đại văn minh mà chỉ là một công cụ man rợ của thời trung cổ để khủng bố người dân Miền Bắc dưới sự thống trị của chúng, và không thể mang ra áp dụng cho công dân của một quốc gia văn minh như VNCH được.

Tóm lại, giam cầm người không chính thức kết án, không xét xử (imprisonment without formal charge or trial) là vi phạm nhân quyền và là Tội Ác chống Loài Người.

Tội ác thứ 2 – Tội tra tấn, hành hạ (Torture)

Đối với cộng sản, các quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hoà và những người quốc gia chống cộng là kẻ thù không đội trời chung của chúng. Do đó, một khi đã sa cơ rơi vào tay chúng là dịp để chúng trả thù bằng tra tấn và hành hạ. Mục đích trả thù của chúng là nhằm tiêu diệt hết khả năng chống cự của cả thể chất lẫn tinh thần của người tù. Sau đây là vài đòn thù tiêu biểu:

a. Hành hạ bằng cách bỏ đói – Đây là một đòn thù thâm độc nhằm tiêu diệt ý chí của người tù về lâu về dài. Người tù bị đói triền miên, không còn nghĩ đến chuyện gì khác ngoài miếng ăn. Quanh năm suốt tháng không một bữa được ăn no; càng ăn càng đói và đói cho tới khi chết. Ngay cả trong giấc ngủ cũng chỉ mơ đến miếng ăn. Bát cơm và miếng thịt là một ước mơ xa vời. Trên nguyên tắc, mỗi người tù được cấp mỗi tháng 12kg gạo. Nhưng thực tế, người tù chỉ được cấp ngô, khoai, sắn, bo bo… tương đương với 12kg gạo mà chúng gọi là “quy ra gạo.” Ngô, khoai, sắn và bo bo mà chúng cho tù ăn là những thứ được cất giữ lâu ngày trong những kho ẩm thấp, bị mục nát, hư hỏng và đầy sâu bọ. Với số lượng và phẩm chất lương thực như thế, tính ra chỉ cung cấp đươc khoảng từ 600 đến 800 calories một ngày, không đủ để sống cầm hơi, lại phải làm công việc khổ sai nặng nhọc cho nên đã có rất nhiều tù nhân chết vì đói, vì suy dinh dưỡng. Sau đây là một ví dụ: vào cuối năm 1978, tại trại 2 thuộc liên trại 1 Hoàng Liên Sơn có một anh bạn tù vì “lao động” nặng nhọc và suy dinh dưỡng đang nằm chờ chết. Anh em bạn tù thấy vậy bèn hỏi xem anh ta có muốn nhắn gì về cho vợ con hay người thân không? Anh bạn tù sắp chết nói rằng anh ta chỉ muốn được ăn no một bữa khoai mì luộc! Nghe vậy, có một anh tù, vì thương bạn, đã mạo hiểm chui qua hàng rào, đào trộm vài củ khoai mì do chính tù trồng, mang về luộc, rồi mang lên cho bạn thì anh bạn đã chết. Thỉnh thoảng tù cũng được cho ăn cơm nhưng lại độn hai phần sắn hay khoai với một phần gạo, và mỗi bữa ăn, mỗi người được phân phát một chén nhỏ với nước muối. Đến mùa “thu hoạch” ngô và khoai mì do tù trồng, anh em tù cũng được cấp phát ngô và khoai mì luộc. Mỗi bữa ăn được phân phát hai cái bắp ngô, chỉ đếm được chừng 1000 hạt, và khoai mì thì được cấp phát hai khúc, mỗi khúc ngắn độ một gang tay. Còn thịt thì chỉ được cấp phát vào những dịp đặc biệt như ngày tết Nguyên Đán, ngày lễ độc lập của chúng, ngày sinh nhật “Bác”của chúng; mỗi phần ăn được khoảng 100gr thịt heo hay thịt trâu.

Bỏ đói tù là một thủ đoạn tra tấn/hành hạ (torture) đê tiện, có tính toán của cộng sản. Ngoài việc huỷ diệt ý chí của người tù, sự bỏ đói còn nhằm huỷ hoại thể chất của người tù để không còn sức đề kháng chống lại bệnh tật. Do đó, đã có rất nhiều anh em mắc những chứng bệnh do suy dinh dưỡng như lao phổi, kiệt sức, phù thũng, kiết lỵ, ghẻ lở…, và có rất nhiều cái chết rất đau lòng chỉ vì đói, vì suy dinh dưỡng, vì thiếu thuốc men và không được chữa trị…

b. Hành hạ thể xác – Cộng sản vẽ ra khẩu hiệu “lao động là vinh quang.” Chúng bắt người tù phải làm công việc khổ sai nặng nhọc như cuồc đất, đào đất, làm đường, đào ao, chặt cây, đốn gỗ, cưa xẻ, làm gạch…Người tù đã thiếu ăn, kiệt sức; chúng lại đặt ra những chỉ tiêu cao để người tù không thể đạt được, và chúng kiếm cớ để hành hạ thể xác:

• Cắt tiêu chuẩn lương thực từ 12kg xuống còn 9kg và nhốt vào conex, khoá chặt. Người tù bị nhốt như vậy có khi hàng tháng. Với sức nóng mùa Hè và khí lạnh mùa Đông không thể chịu đựng nổi, người tù bị chết vì sức nóng và chết vì rét.

• Cắt tiêu chuẩn lương thực xuống còn 9kg; nhốt trong sà lim; hai chân bị cùm siết chặt đến chảy máu; da thịt bị nhiễm trùng, lở loét; người tù bị nhốt như vậy trong nhiều tháng trời và khi được thả ra chỉ còn da bọc xương, đi không nổi phải bò.

• Chúng cột người tù vào một cây cột và bắt người tù phải đứng thẳng hoặc nằm hay ngồi cả tuần lễ có khi lâu hơn.

• Chúng trói người tù theo kiểu cánh bướm “butterfly style or contorted position” bằng cách bắt một cánh tay bắt chéo qua vai và cánh tay kia bắt qua sau lưng và cột chặt hai ngón tay cái với nhau.

Chúng cột người tù trong tư thế bị trói như vậy vào một cái cột và bắt đứng trong nhiều tiếng đồng hồ. Người tù chịu không nổi, bị ngất xỉu.

Trên đây chỉ là vài cách hành hạ (torture) thể xác tiêu biểu. Cộng sản còn nhiêu kiểu hành hạ độc ác khác như nhốt người tù vào chuồng cọp hay bỏ xuống những giếng nước khô cạn, bỏ hoang lâu ngày, đầy những ổ rắn rết…

c. Tra tấn tinh thần – Mục đích của cộng sản là làm cho tinh thần người tù luôn luôn bị căng thẳng để gây tổn thương trầm trọng cho sức khoẻ thể chất và tinh thần (causing serious injury to physical and mental health) bằng hai phương pháp sau đây:

- Nhồi sọ chính trị (Political indoctrination) – Để mở đầu kế hoạch “cải tạo,” cộng sản bắt người tù phải học 9 bài chính trị. Mỗi bài phải học từ một tuần lễ đến 10 ngày gồm: lên lớp, thảo luận trong tổ, trong đội… Cuối mỗi bài học, người tù phải viết một bản gọi là “thâu hoạch” để nộp cho chúng. Nội dung những bài học gọi là chính trị này chỉ là những bài tuyên truyền rẻ tiền như: Mỹ là tên đầu sỏ đế quốc, là con bạch tuộc có hai vòi: một vòi hút máu nhân dân Mỹ và một vòi hút máu nhân dân nước ngoài. Ta đánh Mỹ cũng là giải phóng cho nhân dân Mỹ thoát khỏi sự bóc lột của đế quốc Mỹ. Đế quốc Mỹ là con hổ giấy. Mỹ giầu nhưng không mạnh. Ta nghèo nhưng ta mạnh.

Dưới sự lãnh đạo của đảng quang vinh, ta đã đánh thắng tên đế quốc sừng sỏ nhất thời đại. Nguỵ quân, nguỵ quyền là tay sai của đế quốc Mỹ, có nợ máu với nhân dân và là tội phạm chiến tranh…Bài học cuối cùng là bài “lao động là vinh quang” để chuẩn bị bắt người tù làm những việc khổ sai nặng nhọc.

Những bài tuyên truyền rẻ tiền và ấu trĩ trên đây chỉ có thể áp dụng cho người dân bị bưng bít và thiếu học ở Miền Bắc đã bị cộng sản u mê hoá chứ không có tác dụng gì đối với những người đã sống dưới chính thể tự do tại Miền Nam. Tuy nhiên, cái không khí khủng bố của trại tù đã làm cho một số anh em hoang mang và căng thẳng tinh thần. Do đó, đã có một số người tự sát và trốn trại. Những người trốn trại chẳng may bị bắt lại đã bị chúng mang ra toà án nhân dân của chúng kết tội và bắn chết ngay tại chỗ. Đây là đòn khủng bố tinh thần phủ đầu của cộng sản theo kiểu “sát nhất nhân, vạn nhân cụ.”

- Tự phê (Confession) – Tiếp theo phần “học tập chính trị” là phần “tự phê.” Người tù phải viết một bản tiểu sử kể từ khi còn nhỏ cho tới khi vào tù; phải kê khai thành phần giai cấp của dòng họ từ ba đời trước cho đến con cháu sau này; phải kê khai những việc làm trong quá khứ và phải kết tội những việc làm đó là gian ác cũng như phải tự kết tội mình có nợ máu với nhân dân. Người phát thư cũng bị kết tội là đã chuyển thư tín giúp cho bộ máy kìm kẹp của nguỵ quân, nguỵ quyền. Các vị tuyên uý trong quân đội bị kết tội là đã nâng cao tinh thần chiến đấu của nguỵ quân. Các bác sĩ quân y thì bị kết tội là đã chữa trị cho các thương, bệnh binh để mau chóng phục hồi sức chiến đấu của nguỵ quân…Tóm lại, tất cả nguỵ quân, nguỵ quyền đều là những thành phần ác ôn, có nợ máu với nhân dân và phải thành khẩn khai báo những tội ác cũng như phải thành khẩn lao động sản xuất để sớm được đảng cứu xét cho về đứng “trong lòng dân tộc.” Trong suốt thòi gian bị tù, người tù phải liên tiếp viết những bản tự phê; phải moi óc tìm và “phịa” ra những “tội ác” để tự gán và kết tội mình, và nếu bản viết lần sau thiếu vài “tội ác” so với bản viết lần trước, anh sẽ bị kết tội là vẫn còn ngoan cố và thời gian học tập sẽ còn lâu dài.

“Tự phê” một đòn tra tấn tinh thần rất ác ôn. Nó làm cho người tù bị căng thẳng tinh thần triền miên kể cả trong giấc ngủ và đã có một số anh em gần như phát điên, la hét, nói năng lảm nhảm và có người đã tự vẫn…

Tội ác thứ 3 – Tội giết người (Murder)

Những anh em trốn trại bị bắt lại đã bị cộng sản mang ra xử tại toà án nhân dân của chúng và bị bắn chết ngay tại chỗ. Đây là tội ác giết người (murder) bởi vì trên danh nghĩa cũng như theo pháp lý thì những người này chỉ là những người đi học tập. Và khi một người đi học tập mà trốn trại học tập là chuyện rất thường tình, không có tội lỗi gì đối với pháp luật. Nhưng đối với bọn vô nhân tính cộng sản thì không thể nói chuyện lý lẽ với chúng được. Vào một ngày cuối năm 1975, tại trại giam Suối Máu, Biên Hoà, chúng mang hai anh sĩ quan cấp uý trốn trại bị bắt lại ra xử tại toà án nhân dân rừng rú của chúng được thiết lập ngay trong trại giam. Trước khi mang ra xử, chúng đã tra tấn hai anh này đến mềm người, rũ rượi, xụi lơ, không còn biết gì nữa. Ngồi trên ghế xử, tên “chánh án” cùng ba tên đồng đảng giết người mặt sắt đen sì, răng đen mã tấu, dép râu, nón cối, ngập ngọng giọng Bắc Kỳ 75 đọc xong “bản án giết người” đã viết sẵn và ngay lập tức chúng mang hai anh ra bắn chết cạnh hai cái hố đã đào sẵn. Buổi trưa hôm đó bầu trời Biên Hoà có nắng đẹp, nhưng khi tiếng súng giết người nổ vang lên, mây đen bỗng kéo đến phủ tối cả bầu trời và đổ xuống những hạt mưa nặng hạt. Tất cả anh em trong trại giam lặng lẽ cúi đầu tiễn đưa hai đồng đội sa cơ, thất thế.

Ngoài cách giết người rừng rú trên đây, cộng sản còn chủ tâm giết người bằng nhiều cách khác như cho ăn đói và bắt làm khổ sai nặng nhọc để chết dần chết mòn; để cho chết bệnh, không cung cấp thuốc men, không chữa trị; bắt làm những việc nguy hiểm chết người như gỡ mìn bằng tay không…

Tội ác thứ 4 – Tội bắt làm nô lệ (Enslavement)

Người tù phải sản xuất lương thực như trồng sắn, trồng ngô, trồng khoai, trồng rau…để tự nuôi mình; ngoài ra, còn phải sản xuất hàng hoá, sản phẩm để bán ra ngoài thị trường. Tại các trại tù trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn, người tù phải đốn gỗ, cưa xẻ, chặt giang, chặt nứa, chặt vầu… để trại tù mang đi bán. Tai trại tù Hà Sơn Bình có những đội cưa xẻ, đội mộc, đội gạch để sản xuất bàn, ghế, giường, tủ và gạch để bán. Tại trại tù Z30D, Hàm Tân, người tù phải trồng mía, sản xuất đường; mỗi tháng bán hàng tấn đường ra ngoài thị trường… Cộng sản bắt người tù phải làm công việc như người nô lệ thời trung cổ khi phe thắng trận bắt người bên phe thua trận phải làm nô lệ lao động (slave labour) thay vì mang đi giết. Đây là sự vi phạm nhân quyền một cách man rợ của thời trung cổ và là một Tội Ác chống Loài Người.

Tội ác thứ 5- Tội thủ tiêu mất tích người (Enforced disappearance of persons)

Theo các tài liệu nghiên cứu có giá trị hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu thì số nạn nhân chết trong các “trại cải tạo” là 165,000 người. Hiện nay, ngoài cộng sản ra, không ai biết nơi chôn cất các nạn nhân này. Suốt 33 năm nay, chúng không cho thân nhân cải táng để mang hài cốt về quê quán. Đây là đòn thù vô nhân đạo đối với những nạn nhân đã nằm xuống, và là hành vi độc ác (inhumane act) gây đau khổ tinh thần triền miên, suốt đời cho thân nhân các nạn nhân. Chỉ có một số rất ít, không đáng kể, thân nhân các nạn nhân đã chạy chọt, tìm được cách cải táng người thân của họ; còn tuyệt đại đa số 165,000 người tù chính trị được coi như đã bị thủ tiêu mất tích. Đây là chủ tâm trả thù dã man của cộng sản và là một Tội Ác chống Nhân Loại.

Mới đây nhất, trong cuộc họp với tổng thống George W. Bush tai Bạch Cung ngày 24-6-2008, Việt cộng Nguyễn Tấn Dũng hứa sẽ tiếp tục tìm kiếm và trao cho Hoa Kỳ hài cốt những quân nhân Mỹ mất tích (MIA) trong cuộc chiến VN. Trong khi đó quân cộng sản giết người đang chôn giấu để thủ tiêu mất tích hài cốt của 165,000 quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia đã bị chúng sát hại, sau ngày 30-4-1975, trong 150 “trại tù cải tạo” của chúng trên toàn cõi VN. Điều này chứng tỏ rằng lũ Việt gian cộng sản tiếp tục nuôi dưỡng hận thù đối với người Việt quốc gia, ngay cả đối với những người đã nằm xuống, trong khi miệng chúng luôn luôn hô hào hoà hợp hoà giải. “Đừng nghe những gì cộng sản nói; hãy nhìn kỹ những gì chúng làm.”

Ngoài 5 tội ác chống loài người kể trên, vào năm 1980, cộng sản đã có kế hoạch đưa gia đình những người tù từ Miền Nam để cùng với những thân nhân của họ đang bị tù tại Miền Bắc đi “định cư” tại những “khu kinh tế mới” ở Miền Bắc mà thí điểm đầu tiên là khu Thanh Phong/Thanh Cầm, một khu rừng thiêng nước độc tại Miền Bắc, nơi đang có những “trại cải tạo.” Ý đồ của âm mưu thâm hiểm này là đưa đi đầy chung thân, khổ sai, biệt xứ để giết dần, giết mòn tất cả những người tù cùng với gia đình họ. Đây là một kế hoạch diệt chủng (genocide) được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của tập đoàn Việt gian cộng sản. Nhưng trời bất dung gian, chúng không thực hiện được âm mưu diệt chủng này vì cục diện thế giới thay đổi dẫn đến sự phá sản của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới, và chúng đã phải thả những nạn nhân của chúng ra để họ đi định cư tại Hoa Kỳ với tư cách là những người tỵ nạn chính trị (political refugees).

Cái nghị quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 của tên đại Việt gian bán nước Hồ Chí Minh – cho tới ngày hôm nay vẫn còn hiệu lực – là một dụng cụ đàn áp thâm hiểm nhất để chống lại nhân quyền (the most repressive tool against human rights). Suốt nửa thế kỷ vừa qua, bằng cái nghị quyết phản động này, lũ bán nước cộng sản đã và đang tiếp tục đưa hàng triệu, triệu người Việt Nam đi “học tập cải tạo” mà không qua một thủ tục pháp lý nào cả. Với 5 Tội Ác chống Nhân Loại (Crimes against Humanity) như đã trình bày trên đây, bọn Việt gian cộng sản phải bị mang ra xét xử tại Toà Án Hình Sự Quốc Tế [2] (International Criminal Court).

Số Nạn Nhân Bị Giam Cầm, Số Nạn Nhân Chết và Số “Trại Tù Cải Tạo”

Theo sự ước tính của các tài liệu nghiên cứu có tính hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu đã được phổ biến “…According to the published academic studies in the United States and Europe…” thì số nạn nhân và số các “trại tù cải tạo” được ước tính như sau:

• 1 triệu nạn nhân đã bị giam giữ không bị chính thức kết tội hay xét xử (without formal charge or trial).

• 165,000 nạn nhân chết tại các “trại tù cải tạo.”

• Có ít nhất 150 “trại tù cải tạo” sau khi Sàigòn sụp đổ.

Thời Gian “Cải tạo”

Có những nạn nhân đã bị giam giữ tới 17 năm, và theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì đại đa số nạn nhân bị giam giữ từ 3 tới 10 năm, và tính trung bình mỗi người phải trải qua 5 trại giam. “…according to the U.S. Department of State, most term ranging from three to 10 years…” Nếu lấy con số trung bình là 7 năm tù cho mỗi người thì số năm tù của một triệu nạn nhân là 7 triệu năm. Đây là một tội ác lịch sử không tiền khoáng hậu của bọn Việt gian cộng sản; vượt xa cả tội ác một ngàn năm của bọn giặc Tầu và một trăm năm bon giặc Tây cộng lại.

Món Nợ của Hoa Kỳ Đối Với Đồng Minh.

Chính phủ Hoa Kỳ công nhận những người bị giam cầm (imprisonment) này là những ngưòi tù chính trị, và đã điều đình với phỉ quyền cộng sản để cho những người này được thả ra để cùng với gia đình đi đinh cư tỵ nạn tại Mỹ ưu tiên theo Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program) đối với những người bị giam cầm từ 3 năm trở lên. “…The U.S. government considers reeducation detainees to be political prisoners. In 1989 the Reagan administration entered into an agreement with the Vietnamese government, pursuant to which Vietnam would free all former AVN soldiers and officials held in reeducation camps and allow them to immigrate to the United States… that gives priority to those who spent at least three years in reeducation…”

Hoa Kỳ coi việc đưa những người tù chính trị này sang định cư tỵ nạn tại Mỹ là để trả một món nợ quốc gia đối với đồng minh trong thời chiến. Những người này đã bị giam cầm vì đã cộng tác mật thiết với Hoa Kỳ trong cuộc chiến. “… Resettling this group will be a step toward closing out this nation’s debt to its Indochina wartime allies. “These people have been detained because of their closed association with us during the war,” said Robert Funseth, the senior deputy assistance secretary of state for refugee affairs who spent most of this decade negotiating their resettlement…”

Phải nói môt cách chính sác rằng những người tù chính trị Việt Nam đi định cư tỵ nạn tại Mỹ theo một chương trình ra đi đặc biệt (a special program) nằm trong khuôn khổ của Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program) chứ không phải theo chương trình HO (Humanitarian Operation) tưởng tượng nào cả. Cái gọi là chương trình HO chỉ là sự suy diễn từ các con số thứ tự của các danh sách những người tù chính trị đã được cộng sản trao cho Hoa Kỳ để phỏng vấn đi tỵ nạn tại Mỹ theo thứ tự: H.01, H.02…. H.10, H.11, H.12…

Cộng sản và tay sai có thể lợi dụng cái danh xưng “HO” không Chính không Thực và Lập Lờ này cho những âm mưu đen tối của chúng. Chúng có thể tuyên truyền lếu láo rằng: “Không những đảng đã tha chết cho bọn tội phạm chiến tranh này, mà còn tổ chức cả một “Chiến Dịch Nhân Đạo/HO” để cho đi định cư tại ngoại quốc. Ra đến ngoại quốc đã không biết ơn lại còn đi đấu tranh, biểu tình chống lại đảng…” Sự kiện tù chính trị là một sự kiện có tính chính trị và lịch sử; phải xử dụng Danh cho Chính. Không thể Lộng Giả Thành Chân cái nguỵ danh “HO” để xuyên tạc sự thật lịch.

Học tập cải tạo” là một nguỵ danh để che đậy 5 Tội Ác chống Loài Người (Crimes against Humanity) được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) của bè lũ Việt gian cộng sản đối với quân, dân, cán, chính VNCH đã bị chúng giam cầm (imprisonment) một cách phi pháp sau ngày 30-4-1975. Đây cũng là một tội ác có tính lịch sử của lũ Việt gian cộng sản. Cái nguỵ danh “tù cải tạo/HO” phải được Chính Danh là: Tù Nhân Chính Trị và Nạn Nhân của Tội Ác chống Loài Người của Hồ Chí Minh và bè lũ cộng sản. Cũng cần phải nói thêm rằng khi dùng cái danh từ “cải tạo” của cộng sản là mắc mưu chúng bởi vì chúng tuyên bố lếu láo rằng vì các anh có “nợ máu” với nhân dân nên các anh phải đi “cải tạo,” và khi tự gọi mình là “tù cải tạo” tức là tự nhận mình có tội. Cũng như khi tự gọi mình là một “HO”- một cái nguỵ danh đã bị lộng giả thành chân để chỉ một người “tù cải tạo” – là tự từ bỏ cái căn cước người tù chính trị của mình. Cho nên, Chính Danh là vấn đề rất quan trọng cả về chính trị và lịch sử. Dùng Nguỵ Danh để che đậy và bóp méo một sự kiện lịch sử là tội đại gian và có tội đối với lịch sử.

Tài liệu tham khảo:

- http://untreaty.un.org/cod/icc/STATU...r/cstatute.htm (Rome Statute of International Criminal Court)
- http://www.optionaljournal.com/best/?id=110010372″ (The Wall Street Journal, Monday, July 23, 2007 – Best of The Web Today by James Tananto)
- http://query.nytimes.com/gst/fullpag...96F948260&sec= &spon=…(The New York Times, October 15, 1989
- THE NATION; The Next Wave From Vietnam: A new Disability by Seth Mydans)
- U.S Department of State – Fact sheet – Bureau of Population, Refugee and Migration – Washington DC – January 16, 2004

Chú thích:

[1] 11 tội ác chống nhân loại được dự liệu trong Điều 7 của Đạo Luật Rome gồm có:

1- Murder;
2- Extermination ;
3- Enslavement;
4- Deportation or forcible transfer of population;
5- Imprisonment or other severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental rules of international law;
6- Torture;
7- Rape, sexual slavery, enforced prostitution, forced pregnancy, enforced sterilization or other form of sexual violence of comparable gravity;
8- Persecution against any identifiable group or collectivity on political, racial, national, ethnic, cultural, religious, gender as defined in paragraph 3, or other grounds that are universally recognized as impermissible under international law in connection with any crime within the jurisdiction of the court;
9- Enforced disappearance of persons;
10- The crime of apartheid;
11- Other inhumane acts of a similar character causing great suffering, or serious injury to body or to mental or physical health;

[2] Toà Án Hình Sự Quốc Tế (International Criminal Court) là toà án độc lập và thường trực được thành lập theo Đạo Luật Rome (The Rome Statute) để điều tra và xét xử 4 loại tội ác sau đây:

1- Crimes against humanity (Tội ác chống nhân loại);
2- The crime of genocide (Tội ác diệt chủng);
3- Crimes of war (Tội ác chiến tranh); 4- Crimes of aggression (tội ác xâm lược).#

1975 – 1980:

* Cướp tài sản của nhân dân bằng cách đánh tư bản mại sản. Mua nhà của dân, rồi in và đổi tiền nhiều lần.

* Bắt nghĩa vụ quân sự thanh niên miền nam, bắt huấn luyện tượng trưng vài tháng rồi dẫn độ qua Campuchia cho bọn Polpot bắn giết từ phía trước và giặc bộ đội chính quy việt nam bắn từ phía sau…với mục đích tiêu trừ thật nhiều thanh niên miền nam, những người đã lớn lên, sống và hiểu biết về chế độ tàn ác cộng sản. Hàng ngàn thanh thiếu niên đã chết tức tưởi và không được thông báo cho gia đình…Đây là chiến dịch giệt chủng tàn độc của bọn việt cộng “giải phóng…”

* Chuyện một em bé 12 tuổi ăn cắp một con gà… “Chính quyền giải phóng miền nam” bắt em mang ra sân vận động Đạt Đức ở gần Xóm Mới bắn tử hình để dằn mặt người dân miền nam năm 1975… Với khẩu hiệu “Đảng Liêm Chính và Chuyên Chính Vô Sản”.

* Chương trình kinh tế mới nhằm cướp thêm tài sản của dân trong vùng thành phố. Nhất là những tài sản của gia đình quân nhân VNCH. “Chương trình Lao Động Để Được Nhà Nước Khoan Hồng”.

* Người vượt biên, vượt biển thì chúng ghép cho tội: Những loại người phản quốc / bọn đầu trộm đuôi cướp / đĩ điếm v.v… Nay thì lại đổi giọng là Việt Kiều Yêu Nước / Khúc ruột ngàn dặm v.v.. Xin mời người việt hải ngoại trở về giúp xây dựng đất nước!!??

* “Đảng và nhà nước” – một lũ ăn cướp biết bao nhiêu là tài sản của nhân dân, dâng Hoàng Sa Trường sa cho giặc / dẫn giặc Tàu vào Tây Nguyên qua chương trình khai thác Bauxite và những khu đất rừng cho tàu cộng mượn 50 năm không tính toán!!?? Nước việt nam có khu khai mỏ của Tàu (đây là căn cứ của gián điệp tàu cộng do nhóm quân đội trung quốc là những công nhân trá hình đang phát triển những căn cứ / quân khu ngầm ngay trong lòng đất việt!!!, nhạc tàu, gái việt lấy tàu, đẻ con cho Tàu…”Chính quyền” và đảng cộng sản Việt Nam đang tiếp tay cho Tàu cơ hội phát huy chiến dịch đồng hóa dân Việt…

* Phá rừng, khai sông, phá hoại thiên nhiên không tội vạ! ai đã và đang làm những điều này?

* Hàng trăm ngàn tội ác khác mà không lâu nữa những người cộng sản sẽ phải trả lời dưới ánh sáng của mặt trời và trước toàn thể người dân Việt Nam….

Khốn nạn thay…

Sanjose, California
Đỗ Ngọc Uyển


Có nên dùng hai chữ “Việt tanh” của “Việt tanh” Trần Khải Thanh Thủy? - Phan Nhân

    Có nên dùng hai chữ “Việt tanh” của “Việt tanh” Trần Khải Thanh Thủy?
Phan Nhân

Trong suốt thời gian qua, kể từ ngày mợ Trần Khải Thanh Thùy đã từ trong lòng của Việt cộng nhảy sang “đảng” Việt Tân, tức Mặt trận kháng chiến (ma) Hoàng Cơ Minh, và cho đến thời gian gần đây, mợ Thủy lại viết chuyện “ra khỏi đảng Việt Tân”. Trong khi đó, thì “đảng” Việt Tân lại nói đã “khai trừ Trần Khải Thanh Thủy”.

Ba cái chuyện “ra vô” giữa “đảng” Việt Tân và mợ Thủy, thì chẳng có dính dáng gì tới chúng tôi. Tuy nhiên, điều cần phải nói, là Trần Khải Thanh Thủy đã gọi “đảng” Việt Tân là “Việt tanh”, thì chúng tôi thấy không ổn. Không ổn là vì như thế này:

Như mọi người đã biết, khi viết hai chữ Việt cộng, thì Tây, Mỹ…. và cả thế giới này đều biết, vì chính họ cũng gọi đảng Cộng sản Việt Nam hay viết tắt là Việt cộng, là những người Việt Nam theo đảng Cộng sản, chứ viết hay nói khác đi, thì có lẽ đa số người Việt Nam, nhất là những người trẻ tuổi cũng không biết, chứ đừng nói chi đến người ngoại quốc!

Riêng về hai chữ “Việt tanh”, thì khi viết về những chuyện lừa bịp, khủng bố, giết người của Mặt trận Hoàng Cơ Minh từ lúc còn trong “chiến khu”, Thái Lan cho đến khi “lột vỏ” để trở thành “đảng” Việt Tân, thì người đọc sẽ không biết “Việt tanh” là tổ chức nào cả, hay họ nghĩ đó là một tổ chức mới được ra đời, chứ không phải “đảng” Việt Tân. Và “Việt tanh” mới là tổ chúc khủng bố, giết người, chứ không phải là Việt Tân.

Khi muốn vạch tội một tổ chức, một đảng phái nào ra trước ánh sáng, thì tất nhiên, phải gọi ngay cái tên của nó ra mà hài tội, chứ không vì sợ hay “kỵ húy” mà không dám viết thẳng ra cái tên chính lúc mới “đẻ” ra ở “chiến khu” Thái Lan, với người đứng đầu đảng là Hoàng Cơ Minh, rồi cái tên sau khi “lột vỏ” là “đảng Việt Tân”, vì nếu sợ, thì đừng viết, đừng nói.

Ngoài ra, khi viết hai chữ “Việt tanh”, đôi khi có những người trẻ tuổi, hoặc người ngoại quốc có thể sẽ hiểu lầm là “người Việt Nam… tanh”, có nghĩa “người Việt tanh hôi”. Như vậy sẽ làm ảnh hưởng đến danh dự chung của người Việt Nam.

Chúng tôi biết, đã có nhiều người đã gọi “đảng” Việt Tân bằng nhiều cái tên khác nhau, mà khi viết hay nói lên, thì mọi người sẽ hiểu ngay, mà không ảnh hưởng cho những người Việt Nam không dính líu với Mặt trận Việt Tân như:

“Mặt trận Phỏ Bò – Kháng chiến Phở Bò – Kháng chiến Bịp – Mặt trận Hoàng Cơ Minh.

Xin quý vị hãy đọc lại bài: Những sự thật về cái chết của Hoàng Cơ Minh của tác giả Nguyễn Toàn đã đăng trên văn Nghệ Tiền Phong trước đây, hoặc đọc một bài mới: Những món nợ máu gây ra bởi Mặt Trận Việt Tân của tác giả Lữ Giang, tức cựu thẩm phán Nguyễn Cần , để biết rõ những hành vi tàn ác, của Mặt trận Hoàng Cơ Minh. Nên biết, “đảng” Việt Tân ngày nay, luôn luôn tránh né và không dám nhắc tới cái tên Hoàng Cơ Minh và cái “Mặt trận kháng chiến – Đài phát thanh kháng chiến” Bịp với “mười ngàn tay súng kháng chiến quân” và “những trận đánh” ma.

Mặt khác, chẳng lẽ chúng ta, những người đã được giáo dục dưới mái học đường của Việt Nam Cộng Hòa, mà lại không thể có một từ ngữ nào cho “tương xứng” với những tổ chức chuyên môn đi lừa bịp niềm tin của đồng bào, mà phải chờ cho những kẻ từng ở trong cái ổ của Việt cộng, rồi nhảy sang cái ổ của Mặt trận Hoàng Cơ Minh, tức “đảng” Việt Tân, để khi họ “xì” ra những từ ngữ nào, thì cứ vội vàng chộp lấy, hứng lấy, rồi kêu “thơm” ?!

Cũng chính vì những lẽ trên, nên “đảng” Việt Tân đã và đang có những tổ chức và những trang Web ngoại vi, những tổ chức này thường phải núp dưới danh nghĩa là những tổ chức “từ thiện – xã hội…”. Riêng những trang Web ngoại vi của Việt Tân, nếu chịu khó để ý khi “ghé thăm”, thì ai cũng có thể thấy ngay là họ làm theo chỉ thị của Việt Tân, qua những bài viết, những tác giả, những hình ảnh, nói chung là nội dung của trang Web, thì sẽ biết ngay chính hiệu là của Việt Tân, mặc dù họ luôn cố gắng Cào đất để giấu như mèo giấu … vậy.

Về mợ Trần khải Thanh Thủy, đã tuyên bố một câu nghe như “sấm” như sau:

“Nếu ở Việt Nam, mình chấp cả bộ công an thì ở Mỹ mình chấp cả tổng vụ Việt Tân, cứ tu 7 kiếp đi hãy nói chuyện với một người (mentalité) và trình độ như mình...”

Thôi đi mợ Thủy, nếu “chấp cả bộ công an”, thì sao không ở ngay trong nước, để mà chống, mà “chấp”, mà phải “vọt” sang Mỹ, lại được Việt cộng cho con cái đi trước, để chờ mẹ theo sau …

Những sự thật là như vậy, thế nhưng trên đời này, không ít những kẻ từng là sĩ quan QLVNCH, mà cứ luôn bu - đeo - bám những tên Việt cộng, có mấy tên còn được Việt cộng đưa ra hải ngoại cùng cả vợ lớn, vợ bé, cả đôi ba dòng con cháu. Ấy thế, mà hễ bọn chúng “xì” ra một chút “ít”, thì liền hít hà, khen “thơm”, có khi viết bài, thì cứ “sao y bản chính” nữa. Thật tội nghiệp và thảm hại quá!

Trở lại với mợ Thủy, thì mợ cũng đâu có khác với mợ Bùi thị Kim Thành và nhiều “nhà tranh đấu” đang ở Mỹ nữa. Các mợ “tranh đấu” là để đi Mỹ, để “hòa nhập” vào với cái tập thể ngưởi Việt tỵ nạn cộng sản to lớn tại Hòa kỳ. Chúng tôi còn nhớ, trước đây đã có nhiều người ca tụng “bé Phương Uyên” là “đệ nhất anh thư”, đã có mấy giải thưởng gì đó, nhưng chúng tôi thấy cô này đáng tuổi con cháu của mình, nên muốn cho cô cố gắng để làm thêm những điều gì hữu ích cho đất nước. Nhưng bất ngờ, khi thấy “anh thư Phương Uyên” trả lời phỏng vấn của cô Trà Mi trên đài VOA, xin trích lại một đoạn như sau:

Nguyễn Phương Uyên: Uyên cầu cứu những ai có thể và có khả năng, nếu đem được Uyên và gia đình_ đem được ngày nào thì tốt ngày đó_ra khỏi cái ‘nhà tù lớn’ này, thì Uyên rất là cảm ơn.

Trà Mi: Nhìn vào thực tế những nhà dân chủ trước nay tìm lối thoát ra khỏi đất nước Việt Nam. Một là con đường tranh đấu của họ bị mờ nhạt đi. Hai là không mấy ai, nếu không muốn nói là không ai, có thể quay về để tiếp tục tranh đấu được nữa. Uyên thấy thế nào?

Nguyễn Phương Uyên: Nhưng đối với Uyên, một người còn quá trẻ và không đủ năng lực, nếu để Uyên trong tình trạng môi trường ở Việt Nam như thế này thì Uyên cũng không thể đóng góp gì lớn và nhiều cho phong trào đấu tranh dân chủ. Uyên nghĩ mình cần có đủ thực lực và được đào tạo trong môi trường đủ điều kiện để mình phát huy được khả năng. Khi đó trở về, mình sẽ giúp ích được cho nước nhà hơn là để Uyên bị đối xử trong môi trường hiện tại như thế này.

Trà Mi: Tìm được lối thoát đã khó. Ra được bên ngoài rồi, để trở về tiếp tục hoạt động, cống hiến như Uyên mơ ước đó, có khả thi hay không?

Nguyễn Phương Uyên: Uyên cảm thấy việc trở lại từ sau 5-10 năm là khả thi và có thể.

Trà Mi: Và khi có được cơ hội trở về đó, liệu Uyên có làm được những gì như đã làm hay không? Uyên có trăn trở về những điều đó không?

Nguyễn Phương Uyên: Việc trở lại Việt Nam hay không đó không phải là vấn đề quan trọng bởi vì khi có thực lực, mình có rất nhiều cách để giúp ích cho nước nhà.

Trà Mi: Có ý kiến cho rằng Việt Nam bây giờ cần ngay chính những công dân đang sinh sống trong nước lên tiếng và tranh đấu cho lẽ phải. Bởi lẽ bên ngoài dù có ủng hộ hay hoạt động đến đâu cũng không mấy tạo được sự thay đổi bằng chính những người trong nước. Điều này có ngược với suy nghĩ của Uyên không?” (ngưng trích)

Chúng tôi đồng ý với những lời nói của cô Trà Mi rằng:

“Việt Nam bây giờ cần ngay chính những công dân đang sinh sống trong nước lên tiếng và tranh đấu cho lẽ phải. Bởi lẽ bên ngoài dù có ủng hộ hay hoạt động đến đâu cũng không mấy tạo được sự thay đổi bằng chính những người trong nước.”

Nhưng Nguyễn Phương Uyên không muốn thế, mà chỉ muốn “cả gia đình được ra hải ngoại, để tới 5-10 năm nữa, khi có thực lực rồi, trở về giúp ích được nước nhà…”

Trời đất ạ, đồng bào trong nước, cũng như những người thật lòng đấu tranh cho nền tự do, dân chủ của đât nước, họ đều mong đợi cho chế độ cộng sản sụp đổ, càng sớm càng tốt. Đàng này, “anh thư” Nguyễn Phương Uyên lại bảo mọi người hãy để cho đảng Cộng sản cai trị cho cho tới “5-10 năm sau, khi cô có đủ thực lực, sẽ trở về để giúp ích cho nước nhà.”

Chúng ta thử suy nghĩ, theo như lời của chính Phương Uyên nói, thì nếu cả gia đình cô được ra hải ngoại, tới 5-10 năm sau, thì cái “thực lực” đó nó sẽ ở đâu ra??? Câu trả lời thật quá dễ, rằng thì là, “thực lực” đó, gồm hai ông bà bố mẹ của cô “lúc đó đã lên chức lão rồi). Ngoài ra, sẽ có vợ chồng, con cái của Phương Uyên, vợ chồng con cái của các anh chị em của cô nữa. Và đó là “thực thực” của Nguyễn Phương Uyên!

Chúng ta đừng quên, suốt gần 39 năm qua, tại hải ngoại cũng đã từng có những tổ chức “có thực lực”, đã muốn trở về Việt Nam để quang phục đất nước, nhưng không một tổ chức nào làm nổi. Như thế, mà Nguyễn Phương Uyên lại tuyên bố như vậy, thì thử hỏi, có ai dám nghĩ, dám tin tưởng và dám chờ cho tới “5-10 năm sau khi có thực lực” thì Phương Uyên sẽ trở về Việt Nam để “giúp ích cho nước nhà”!!!

Nên nhớ, Phương Uyên chỉ muốn “giúp ích cho nước nhà” mà thôi.

Chúng tôi cũng chờ xem, trong tương lai, thử có tổ chức hay cá nhân nào đó, có thể sẽ đưa cả gia đình của Nguyễn Phương Uyên sang Mỹ hay một nước nào đó, để “5-10 năm sau có thực lực sẽ trở về để giúp ích cho nước nhà”. “ Mà “Thực lực” đây có thể là một “chiến khu” nào đó…

Tuổi trẻ tài cao là như vậy… Những mợ Bùi Kim Thành, mợ Trần Khải Thanh Thủy… rồi trong tương lai có thể sẽ có thêm những mợ khác… cũng thế mà thôi. Khi hô hào “chống Cộng”, thì tưởng như đất nước sẽ sớm thoát họa Cộng sản. Nhưng cuối cùng “Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào”, vì các “anh thư” chỉ đấu tranh, để được sang Mỹ với mấy tổ chức như “Cao Trào Nhân Bản” của anh em Nguyễn Quốc Quân - Nguyễn Đan Quế để “hòa hợp hòa giải” với đảng Cộng sản, như Luật sư Nguyễn Văn Chức đã viết, hoặc với Mặt trận Hoàng Cơ Minh, tức “đảng” Việt Tân”, để một mai trở về để “Canh Tân” đất nước.

Và mợ Trần Khải Thanh Thủy cũng đã nói: “ra khỏi Việt Tân, để trở về với cộng đồng”. Chúng ta hãy chờ xem có “cộng đồng” nào sẽ “dang tay ra” để đón mợ Thủy, một con người không có một chút khiêm nhường, nên đã tự khoe khoang : “một người có trình độ như mình”, và đã được Việt cộng cho đi thẳng sang Mỹ để đoàn tụ với “chồng” là Việt Tân?!

Và còn một điều khác nữa, là mợ Thủy đã so sánh những số tiền “nhuận bút” cao thấp, nhiều ít do Việt Tân và các tờ báo đã trả khi viết bài. Đồng thời, mợ Thủy cũng cho biết mợ đã được Việt Tân gửi tiền về cho mợ từ khi còn ở trong nước, cho đến khi sang Mỹ, thì Việt Tân đã cấp cho mợ hàng tháng từ 400 (bốn trăm Mỹ kim). Nhưng sau đó, đã giảm xuống còn 200 (hai trăm) rồi “khai trừ” mợ luôn.

Do đó, mợ Thủy mới tức tối , nên viết bài gọi Việt Tân là “Việt tanh”. Nói cho cùng, nếu mợ Trần Khải Thanh Thủy quả thực như mợ đã khoe khoang “một người có trình độ như mình”, thì hà cớ phải viết bài chửi rủa Việt Tân làm gì cho nó mệt xác, vì một người “có trình độ”, mà nếu bị Việt tân “khai trừ”, và không chi tiền cho nữa, thì nó cũng giống như một phụ nữ có đầy đủ những cái đẹp, nhưng vì một lý do nào đó, mà bị ông chồng ổng bỏ, thì cứ làm theo như những câu thơ dưới đây của thi sĩ Nguyễn Bính:
Ngạo với nhân gian một nụ cười.”
Còn nếu đã bị “chồng bỏ” và đuổi thẳng tay ra khỏi nhà rồi mà không thể “điểm phấn tô son lại”, không thể “Ngạo với nhân gian một nụ cười”. Nghĩa là không thể tìm cho mình một “ông chồng” bằng hay hơn “ông chồng” trước. Vì thế, nên mới tức tối, uất ức, lồng lộn khiến cho tâm bất an, nên ngày đêm phải nghĩ ra những cách để viết ra những bài chửi để “thả thù” hoặc cho đỡ tức…

Cuối cùng, chúng tôi muốn nói: nếu “đảng” Việt Tân vẫn cứ tiếp tục “trọng dụng”, vẫn chi mỗi tháng 400 (bốn trăm Mỹ kim) như lúc đầu, thì mợ Trần Khải Thanh Thủy có viết bài để chửi “Việt tanh” hay không???

Nên nhớ, nếu “tanh” thì chỉ riêng Mặt trận Hoàng Cơ Minh, tức “đảng” Việt Tân và mợ Trần Khải Thanh Thủy mới “tanh”. Vì thế, chúng tôi phải nói lại là “VỊT TANH”. Nghĩa là cả bầy VỊT đều TANH, vì chúng từng ở cùng trong một chuồng với những đống phân rất Tanh hôi, chứ người Việt Nam không hề có “tanh”.

Nhớ cho kỹ nhé “VỊT TANH” Trần Khải Thanh Thủy!

Nhưng còn nữa quý vị. Cái nhà báo Trần Nhật Phong đã viết trên trang BBC Việt ngữ một bài dài, nên chúng tôi không thể nói hết ở đây. Nhưng có một điều chúng tôi cần phải nói một câu này, Trần Nhật Phong đã viết “đảng Việt Tân không được một thể chế nào công nhận”.

Tại sao phải nói đến các “thể chế” hay chính phủ nào không công nhận Việt Tân, mà hãy nói ngay rằng:

Chính những người Việt Nam tỵ nạn Cộng sản tại hải ngoại; có được bao nhiêu người “công nhận” Việt Tân, hay đa số họ đều nhờm tởm, ghét bỏ Việt Tân, bởi những chiêu thức lừa bịp nhằm triệt tiêu niềm tin của cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng sản tại hải ngoại vào chính nghĩa trong công cuộc đấu tranh chung của cả dân tộc Việt, cùng những hành vi khủng bố tàn ác, dã man ngay trên đất Hoa kỳ cũng như tại “cánh rừng chiến khu” trong quá khứ trên đất Thái Lan.

Xin những người thực lòng đấu tranh cho dân chủ, tự do cho đất nước và đồng bào tại quốc nội: Hãy cố gắng tìm đọc những tài liệu về Mặt trận Hoàng Cơ Minh, tức “đảng” Việt Tân để đừng bao giờ bị rơi vào những chiếc bẫy nguy hiểm, để rồi tự nộp mình vào các nhà tù của đảng Cộng sản Việt Nam!

Phan Nhân

Thursday, March 6, 2014

Tha La xóm đạo - Trần Việt Trình

Tha La xóm đạo
Trần Việt Trình

Trong thơ văn và âm nhạc của Việt Nam có một địa danh mà tên nghe rất dễ thương và lại có nét tôn giáo, đó là 4 chữ “Tha La xóm đạo”. Rất nhiều người đã nghe qua địa danh này nhưng chưa một lần đặt chân đến, không biết nó ở đâu cũng như không biết tại sao địa danh này lại có cái tên lạ tai như vậy.
    Đây Tha La xóm đạo
    Có trái ngọt cây lành,
    Tôi về thăm một lần
    Giữa mùa nắng vàng hanh

    Ngậm ngùi Tha La bảo:
    Đây rừng xanh rừng xanh.
    Bụi đùn quanh ngỏ vắng
    Khói đùn quanh nóc tranh

    Gió đùn quanh mây trắng
    Về lửa loạn xây thành

Trên đây là mấy câu thơ trong bài “Tha La xóm đạo” của Vũ Anh Khanh. Vũ Anh Khanh xúc cảm sáng tác bài thơ vào năm 1950, sau một dịp ông đến thăm Tha La. Đây là một xứ đạo Thiên Chúa đã có từ lâu đời, nay thuộc xã An Hòa, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Bài thơ kể về xóm đạo Tha La trong thời khói lửa chiến tranh. Lời thơ giản dị, gần gũi, nhịp điệu nhẹ nhàng như một lời tâm tình, đã lay động tâm hồn của biết bao người. Những vần thơ ấy đã đi vào lòng người nên Tha La được nhiều người biết đến.

Cảm hứng từ bài thơ trên, nhạc sĩ Dzũng Chinh đã phổ thành nhạc vào năm 1964. Một năm sau, nhạc sĩ Sơn Thảo cũng phổ thành bài hát mang tên “Hận Tha La” và cũng trong năm này nhạc sĩ Anh Tuyền phổ thành ca khúc mang tên “Vĩnh Biệt Tha La”. Ngoài ra, soạn giả cải lương Viễn Châu cũng đã phỏng theo ý tưởng của Vũ Anh Khanh để viết ra ca khúc tân cổ giao duyên có cùng tên.

Cho tới nay, thân thế của Vũ Anh Khanh vẫn chưa được sáng tỏ. Người ta chỉ biết ông tên thật là Võ Văn Khanh, sanh năm 1926 tại Mũi Né, quận Hải Long, tỉnh Bình Thuận. Trước năm 1945, ông vào Sài Gòn làm báo và viết văn. Sau, ông hoạt động cùng với Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang và Thẩm Thệ Hà trong nhóm “Văn học yêu nước” ở Sài Gòn nên ông bị chính quyền miền Nam theo dõi. Năm 1950 ông trốn ra chiến khu. Năm 1954 ông tập kết ra Bắc.

Ngày 20 tháng 7 năm 1954 Hiệp Định Genève được ký kết, chia cắt nước Việt Nam làm hai. Khoảng một triệu người dân miền Bắc ồ ạt di cư vào Nam. Một số ít các cán bộ và binh sĩ của cộng sản ở miền Nam lội ngược ra Bắc, trong số nầy có Vũ Anh Khanh.

Một thời gian ngắn sau ông được cử đi dự Hội Nghị Các Nhà Văn Á Châu ở New Delhi, Ấn Độ. Vũ Anh Khanh có mặt trong phái đoàn của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Phải chăng chim sổ lồng đã “sáng mắt sáng lòng” nhìn ra được điều gì đó nên sau khi dự Hội Nghị về, ông được cử đi công tác ở Vĩnh Yên, một tỉnh nằm ở phía Bắc của Hà Nội nhưng ông đã sửa lệnh công tác thành Vĩnh Linh, một địa danh gần Sông Bến Hải vì trong đầu ông đã có ý định vượt tuyến về miền Nam tìm lại Tự Do. Vũ Anh Khanh đã đến được Vĩnh Linh và thực hiện cuộc vượt tuyến bằng cách bơi qua sông Bến Hải.

Khi ông sắp đến được bờ Nam thì bị phát giác. Công an gác ở sông Bến Hải dùng nõ và tên tẩm thuốc độc bắn ông chết. Sở dĩ họ phải dùng nõ và tên độc để Ủy ban quốc tế không thể quy trách họ vi phạm Hiệp định ngưng bắn được vì Hiệp Định Genève cấm dùng súng ở Khu Phi Quân Sự.

Vũ Anh Khanh mất tại Bến Hải năm 1956, lúc đó ông chỉ mới được 30 tuổi. Xác của người bạc mệnh được vớt lên và bị vùi dập đâu đó trong khu phi quân sự mà không để lại mồ mả hay vết tích gì.

Vũ Anh Khanh có lẽ là một nhà văn - nhà thơ có cuộc đời ngắn ngủi và số phận hẩm hiu nhất trong các nghệ sĩ cùng thời. Ông không được cả hai chế độ miền Nam và miền Bắc thừa nhận tài năng vì các hoạt động chính trị ngược giòng. Chính quyền miền Nam coi ông là văn sĩ - thi sĩ cộng sản đã đành, chính quyền miền Bắc cũng quay mặt với ông, cố tình gạt bỏ tên ông ra khỏi văn học sử.

Vũ Anh Khanh là một cây bút chuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết. Những tác phẩm của ông phần lớn được in trong năm 1949 tại Sài Gòn. Truyện dài của ông gồm có Cây Ná Trắc, Nửa Bồ Xương Khô và Bạc Xíu Lìn. Truyện ngắn có Sông Máu, Đầm Ô Rô, Bên Kia Sông và Ngũ Tử Tư. Tuy nhiên bài thơ “Tha La xóm đạo” mới làm cho ông được nhiều người biết đến tên tuổi mãi về sau.

Bài thơ đầy cảm hứng tuyệt vời, với ý thơ ngọt ngào, lời thơ bình dị, nồng nàn, nhịp thơ nhẹ nhàng, gần gũi, hồn thơ man mác dễ tác động tâm hồn nhạy cảm của người nghe. Do vậy, nhiều người dầu chưa từng đặt chân đến Tha La, cũng có thể dễ dàng rung động con tim qua màu sắc thiên nhiên hòa quyện trữ tình với:
    Đây Tha La, một xóm đạo ven rừng,
    Có trái ngọt, cây lành, im bóng lá,
    Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ.
    Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ!
Đường đi đến Tha La không khó. Cứ theo Quốc Lộ 1 từ Sài Gòn theo hướng tây bắc chạy đến Hóc Môn rồi qua Củ Chi và đến Trảng Bàng. Từ Trảng Bàng mon men về hướng tây thêm chừng 6 cây số thì sẽ vào đến đất Tha La.

Tha La không có cảnh đẹp nên thơ, Tha La cũng không có lâu đài cổ kính, nhưng có trái ngọt, cây lành, có những con người hiền hoà sống với lũy tre xanh, và đẹp vì tình người. Vì mật độ dân cư không nhiều, chỉ vào khoảng 3000 người trước năm 1975, nên người ta không tìm thấy Tha La trên bản đồ địa lý hay bản đồ hành chánh. Xóm đạo Tha La được tổ chức khá ngăn nắp và qui củ, nhà cửa khang trang, quây quần chung quanh ngôi thánh đường. Trải qua bao thăng trầm của chiến tranh tàn phá, nhà thờ đã được trùng tu lại năm1967. Toàn bộ khu nhà thờ, nhìn chung, với lối kiến trúc đơn giản, không mang nặng nét cổ điển của Tây phương, nhưng lại được bao bọc xung quanh bằng những tàn cây cổ thụ cao to cho bóng mát, mang vẻ u hoài, thanh tịnh.

Khách quan mà nói, Vũ Anh Khanh đã thăng hoa vùng quê nghèo “Bụi đùn quanh ngõ vắng, Khói đùn quanh nóc tranh, Gió đùn quanh mây trắng” thành một xóm đạo nên thơ, nhưng trăn trở trước vận nước lầm than, ly loạn, và cũng không kém phần kiên cường bất khuất giữ vững niềm tin trước những gian nan thử thách.
    Đây rừng xanh rừng xanh
    Bụi đùn quanh ngõ vắng,
    Khói đùn quanh nóc tranh.
    Gió đùn quanh Mây trắng,
    Và lửa loạn xây thành
Rồi
    Em chẳng biết gì ư?
    Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù!
    Người nước Việt ra đi vì nước Việt
    Tha La vắng vì Tha La đã biết,
    Thương giống nòi đau đất nước lầm than.

Trong suốt thời kỳ chiến tranh,Tha La chưa hề có dấu vết của chiến tranh tàn phá nặng nề nhưng Tha La có một niềm tự hào là đã có những “người nước Việt ra đi vì nước Việt”. Đó là hình ảnh đẹp lưu truyền của các chàng trai Tha La anh tuấn năm xưa đã xếp việc bút nghiên hăng hái lên đường theo tiếng gọi của tổ quốc.

Thế rồi, bẳng đi nhiều năm sau một thời gian dài ngủ yên, Tha La lại trở mình thức giấc. Đầu Xuân 1974, tranh chấp chủ quyền lãnh hải ở biển Đông giữa các quốc gia liên quan trong khu vực lúc bấy giờ nỗ ra, cái tên Tha La sống trở lại, vì một người con của Tha La đã ra đi. Tha La đã hiến dâng một người con ưu tú, tài hoa, một vị anh hùng, một chiến sĩ can trường, bất khuất đã hiên ngang xả thân quyết tâm chiến đấu với giặc xâm lăng để bảo vệ non sông trên hải đảo Hoàng-Sa trong một trận thư hùng. Ông đã oanh liệt chiến đấu cho đến giây phút cuối cùng, đã anh dũng hi sinh đền nợ nước, để lại tấm gương mãi mãi nghìn thu bằng những nét son tô đậm được vinh danh ghi tạc ở bia vàng: Ngụy-văn-Thà, cố Trung-Tá Hải-Quân, Hạm Trưởng Nhựt-Tảo HQ10. Ông sinh trưởng tại Tha La và là học sinh trường Cao-Đẳng Trảng-Bàng, Tây-Ninh.
    Tha La hận quốc thù,
    Tha La buồn tiếng kiếm
    Não nùng chưa!
    Tha La nguyện hy sinh
Năm nay là năm kỷ niệm 40 năm trận hải chiến Hoàng Sa. Tháng 1 năm 1974, một lực lượng hải quân của quân lực VNCH đã dũng cảm chiến đấu chống lại một lực lượng hải quân đông và mạnh hơn của Trung Quốc xâm phạm khu vực Hoàng Sa. Đây là một chiến công oanh liệt mang tính cách tinh thần dân tộc.

Năm nay là thời điểm thuận lợi để nhà cầm quyền CSVN nhìn lại lịch sử một cách khách quan và công bằng, đứng trên lập trường dân tộc chống ngoại xâm. Nhìn lại một lần cho cặn kẻ bản chất sự kiện lịch sử này, để đính chính lại những sai lầm và lệch lạc trong nhận thức do lập trường đấu tranh giai cấp, để gạt bỏ đi những nhận định, lập luận và ngôn từ sai trái.

Thời gian vừa qua, ở trong nước đã có những việc làm đầy ý nghĩa, rất đáng được hoan nghênh và hưởng ứng rộng rãi.

Năm ngoái, nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày mất Hoàng Sa, báo Thanh Niên đã đi đầu trong việc gọi nước chiếm quần đảo của Việt Nam là “quân xâm lược Trung Quốc”.

Cũng trong năm ngoái, một số nhân sĩ miền Nam có ý định tổ chức một cuộc hội thảo quy mô tại Sài Gòn để tưởng niệm và vinh danh các chiến sĩ VNCH đã bỏ mình trong trận Hoàng Sa. Họ có ý định mời bà quả phụ hải quân Trung tá Ngụy Văn Thà đến để bày tỏ lòng biết ơn, nhưng cuộc hội thảo có thông báo và gởi giấy mời đó đã không diễn ra vì áp lực của nhà cầm quyền.

Những người trẻ tuổi ở miền Bắc từng tham gia những cuộc biểu tình chống Trung Quốc cũng đã thả 74 ngọn hoa đăng trên sông Hồng với chữ HQ-10 kết bằng hoa hồng để vinh danh hạm trưởng và những binh sĩ VNCH, bày tỏ lòng biết ơn những người đã hy sinh vì tổ quốc.

Đầu năm nay, để chuẩn bị kỷ niệm 40 năm trận Hoàng Sa, một số báo trong nước đã cho đăng khá chi tiết trận hải chiến này. Báo Dân Trí và Petrotimes đã cho đăng nhiều kỳ bài “Vì sao xảy ra Hải chiến Hoàng Sa 1974”. Báo Tuổi Trẻ cũng đăng nhiều kỳ bài “40 năm Hải chiến Hoàng Sa” trong đó có trích đoạn hồi ký của Trung tá hạm trưởng Ngụy Văn Thà và đăng hình của ông. Những bài viết này gọi đúng danh xưng của chế độ miền Nam, từ tên nước (Việt Nam Cộng Hoà), cờ (cờ Vàng ba sọc đỏ) và cấp bậc của quân nhân các cấp.

Báo điện tử Giáo Dục Việt Nam trong 7 ngày kể từ ngày 19 tháng 12 đã liên tiếp đăng 7 bài viết của Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên trưởng ban Biên giới Chính phủ với mục đích “Cung cấp một số thông tin để cho tất cả bạn đọc trong và ngoài nước được tiếp cận thông tin đầy đủ hơn, chính xác hơn và rõ ràng hơn về một sự kiện mà có lẽ không quên được trong quá trình đấu tranh của lịch sử để bảo vệ chủ quyền, sự toàn vẹn của đất nước”.

Người ta thấy bạn đọc viết cám ơn các báo “Vì hành động xâm lược cách đây 40 năm của Trung Quốc không phải người nào cũng biết và cảm thấy niềm kiêu hãnh dân tộc về cuộc chiến oai hùng của các chiến sĩ để bảo vệ biển đảo Việt Nam”. Nói chung, phản ứng của đọc giả là “Hơi chậm nhưng hoan nghênh việc làm này, một ước mơ từ lâu, nay mới toại nguyện”.

Đặc biệt, có những người hay tổ chức còn công khai kêu gọi nhà nước hãy truy phong danh hiệu “liệt sĩ” cho các tử sĩ VNCH trong trận Hoàng Sa.

Nhìn qua những sự kiện trên, ai cũng đặt câu hỏi “Phải chăng gió đã xoay chiều?”, “Phải chăng đảng Cộng Sản Việt Nam đã có cái nhìn mới về Hoàng Sa?” và “Phải chăng đảng CSVN đã bắt đầu ý thức được tình cảm của người dân và lòng yêu nước thì không phân biệt chính kiến hay chế độ?”

Ai cũng lầm, lầm to. Đó chỉ là trò ma mớp của Nguyễn Tấn Dũng và sự hèn hạ của đảng CSVN trước kẻ thù truyền kiếp của dân tộc.

Vào chiều cuối năm, trong dịp đến thăm Hội Khoa học Lịch sử ở Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố rằng Chính phủ đã lên kế hoạch kỷ niệm 40 năm sự kiện Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa của Việt Nam và 30 năm sự kiện tháng 2 năm 1979 (chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc) đồng thời chỉ thị đưa các vấn đề này vào sách giáo khoa. Hai tờ báo điện tử Thanh Niên và VietNamNet nhanh nhẹn đưa bản tin này vào chiều ngày 30 tháng 12 nhưng sau đó đã bị lấy xuống.

Nhà cầm quyền thành phố Đà Nẵng và “Ủy ban Nhân dân Huyện đảo Hoàng Sa” đã quyết định tổ chức một cuộc triển lãm “Quần Đảo Hoàng Sa- chủ quyền của Việt Nam” và đêm “Thắp nến tri ân” vào tối 18 tháng 1 ở công viên Biển Đông, nhưng đến giờ phút chót các sự kiện này đã bị đình chỉ vì lệnh trên.

Tưởng rằng gió đã xoay chiều, xoay theo một chiều hướng tốt đẹp để biến đất nước hiện nay trở thành đất nước của mọi người chứ không phải của con người XHCN hay của đảng CSVN. Nhưng ngọn gió đó đã bị cái chủ nghĩa giáo điều của người CS ngăn chận, làm tiêu tan hy vọng.

Điều này xác định lại một điểm rõ ràng rằng: người CSVN vẫn còn đặt chủ nghĩa và đảng lên trên đất nước và dân tộc. Việc vinh danh 74 tử sĩ VNCH, nếu có và có ở mức độ nào đó, chẳng qua vì áp lực của dư luận, của dân chúng trước tham vọng của Trung Quốc, chứ đánh đổi một phần đất nước như Hoàng Sa xem ra chẳng đáng gì so với sự duy trì đảng CSVN.

Sự kiện 40 năm Hoàng Sa rồi cũng đã chìm xuồng như vụ sửa đổi hiến pháp.

Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, cách giải thích của Trưởng Ban tuyên giáo trung ương Lê Đức Thọ cũng như lối biện bạch của Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch về việc Hoàng Sa đã cho thấy rõ ràng rằng: đảng CSVN hành động vì lợi ích của đảng chứ không phải vì lợi ích của dân tộc.

Trần Việt Trình
oOo

Tha La xóm đạo
Vũ Anh Khanh

Đây Tha La xóm đạo,
Có trái ngọt, cây lành.
Tôi về thăm một dạo,
Giữa mùa nắng vàng hanh,
Ngậm ngùi, Tha La bảo:
- Đây rừng xanh, rừng xanh,
Bụi đùn quanh ngõ vắng,
Khói đùn quanh nóc tranh,
Gió đùn quanh mây trắng,
Và lửa loạn xây thành.

Ca sĩ: Phương Dung

Viễn khách ơi! Hãy dừng chân cho hỏi
Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng

Đây Tha La, một xóm đạo ven rừng.
Có trái ngọt, cây lành im bóng lá,
Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ
Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ!
Về chi đây! Khách hỡi! Có ai chờ?
Ai đưa đón?

Xin thưa, tôi lạc bước!

Không là duyên, không là bèo kiếp trước,
Không có ai chờ, đưa đón tôi đâu!
Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu,
Tìm hoa rụng lạc loài trên vệ cỏ.
Nghìn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió
Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng.
Nhìn hoa rơi, lòng khách bỗng bâng khuâng
Tha La hỏi: - Khách buồn nơi đây vắng?
- Không, tôi buồn vì mây trời đây trắng!

- Và khách buồn vì tiếng gió đang hờn?
Khách nhẹ cười, nghe gió nổi từng cơn.
Gió vun vút, gió rợn rùng, gió rít,
Bỗng đâu đây vẳng véo von tiếng địch:
- Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
Bao người đi thề chẳng trở lại nhà
Nay đã chết giữa chiến trường ly loạn!
Tiếng địch càng cao, não nùng ai oán
Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa
Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa
Lòng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh
Khách rùng mình, ngẩn ngơ người hiu quạnh
- Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
Đây mênh mông xóm đạo với rừng già
Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách.
Khách bước nhẹ theo con đường đỏ quạch.
Gặp cụ già đang ngắm gió bâng khuâng
Đang đón mây xa... Khách bỗng ngại ngần:
- Kính thưa cụ, vì sao Tha La vắng?
Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng,
Nhẹ bảo chàng: "Em chẳng biết gì ư?
Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù!

Người nước Việt ra đi vì nước Việt
Tha La vắng vì Tha La đã biết,
Thương giống nòi, đau đất nước lầm than".

***

Trời xa xanh, mây trắng nghẹn ngàn hàng
Ngày hiu quạnh. ờ...Ơ...Hơ... Tiếng hát,
Buồn như gió lượn, lạnh dài đôi khúc nhạc.
Tiếng hát rằng:
Tha La hận quốc thù,
Tha La buồn tiếng kiếm.
Não nùng chưa! Tha La nguyện hy sinh
ờ... Ơ... Hơ... Có một đám Chiên lành
Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy
Quỳ cạnh chúa, đám Chiên lành run rẩy:
- Lạy đức Thánh Cha!
Lạy đức Thánh Mẹ!
Lạy đức Thánh Thần
Chúng con xin về cõi tục để làm dân...

Rồi... cởi trả áo tu,
Rồi... xếp kinh cầu nguyện
Rồi... nhẹ bước trở về trần...
Viễn khách ơi! Viễn khách ơi!
Người hãy ngừng chân,
Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé!
Đất đã chuyển rung lòng bao thế hệ
Trời Tha La vần vũ đám mây tang,
Vui gì đâu mà tâm sự?
Buồn làm chi cho bẽ bàng!
ờ... Ơ... Hơ...ờ... ơ Hơ... Tiếng hát;
Rung lành lạnh, ngân trầm đôi khúc nhạc,
Buồn tênh tênh, não lòng lắm khách ơi!
Tha La thương người viễn khách quá đi thôi!

***
Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ
Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ.
Lá rừng cao vàng rụng lá rừng bay...
Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này:
- Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé!
Hãy về thăm xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tha La dâng ngàn hoa gạo
Và suối mát rừng xanh
Xem đám Chiên hiền thương áo trắng
Nghe trời đổi gió nhớ quanh quanh...


Vũ Anh Khanh
 
Hận Tha La
Ca sĩ: Thanh Tuyền
 
 
 

Lịch Sử Ngàn Năm Bắc Thuộc Hai Bà Trưng Khởi Nghĩa Dựng Nền Độc Lập - Phạm hy Sơn

Lịch Sử Ngàn Năm Bắc Thuộc Hai Bà Trưng Khởi Nghĩa Dựng Nền Độc Lập

Phạm hy Sơn

Dân tộc Việt Nam bị người Tàu đô hộ hơn một ngàn năm, từ năm 111 trước Tây Lịch đến năm 939 sau TL.. Trong suốt thời gian đen tối ấy, với truyền thống bất khuất, có không biết bao nhiêu cuộc khởi nghĩa của người Việt nhằm đánh đuổi kẻ xâm lăng phương Bắc ở khắp mọi nơi như cuộc nổi dậy của Tây Vu Vương, con cháu An Dương Vương năm 106 trước TL. , tức 5 năm sau khi bị đế quốc Hán cai trị và, trước cũng như sau cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng có rất nhiều cuộc khởi nghĩa khác.

Sử sách phổ thông thường chỉ ghi những biến cố quan trọng như cuộc khởi nghĩa của bà Trưng, bà Triệu, Lý Bí, Phùng Hưng... mà không ghi những cuộc khởi nghĩa hoặc vì bị dập tắt nhanh chóng hoặc xẩy ra ở những vùng xa xôi, như năm 100 sau TL. hơn 2.000 dân huyện Tượng Lâm nổi lên đốt phá trụ sở huyện, năm 136 một cuộc nổi lên nữa làm tất cả quan lại của huyện này bị giết chết và huyện lị bị đốt phá , nhà Hán phải sai 40.000 quân sang đánh dẹp. Tám năm sau, năm 144 bùng lên 1 cuộc chống đối khởi đầu từ Nhật Nam rồi lan tới Cửu Chân và Giao Chỉ, năm 157, 13 năm sau, ở huyện Chu Phong (Thanh Hóa)... cứ năm, mười năm lại có 1 cuộc nổi dậy (xin xem thêm TS. Nguyễn mạnh Hùng, Nhìn Lại Sử Việt - Từ tiền sử đến tự chủ - trg 129, 130, 131, TH Miền Đông xb 2007) liên tục như thế cho đến khi vua Ngô Quyền đánh cho quân nam Hán tan tành ở sông Bạch Đằng (Đằng Giang tự cổ huyết do hồng - Sông Bạch Đằng ngàn xưa đã nhuộm đỏ máu) thì người Tàu mới bớt dòm ngó và dân tộc chúng ta mới có thời giờ xây dựng, củng cố vững chắc nền độc lập, tự chủ của mình.

Từ năm 111 trước TL. Đến năm 40 sau TL., hơn 150 năm dưới sự cai trị của nhà Hán, người dân Việt bị đàn áp và bóc lột tàn tệ đến nỗi trai gái lớn lên không có tiền làm lễ cưới hỏi vì ngoài thuế má nặng nề lại phải lao dịch phục vụ cho quan lại người Tàu như xuống biển mò ngọc trai, lên rừng săn tìm ngà voi, sừng tê giác giao nộp.

Bòn vét đến thế còn chưa đủ, năm giáp ngọ (34 sau TL.) vua Quang Vũ nhà Hán sai Tô Định sang làm thái thú quận Giao Chỉ. Định là 1 kẻ bạo ngược, tàn ác , rất tham lam, “thấy tiền là sáng mắt lên” như lời ghi trong biểu của Mã Viện gửi lên vua nhà Hán. Định dùng bọn gian ác làm tay chân, giết hại những người trung thực dám can ngăn và bóc lột dân bản xứ đến cùng cực.

Vì lòng thương nước thương dân, những người có lòng yêu nước , yêu nòi giống không thể ngồi yên. Gia đình bà Trưng trong đó chủ yếu là bà Thiện, vợ góa 1 Lạc Tướng, con rể là Thi Sách, con gái là Trưng Chắc và Trưng Nhì liên lạc với hào kiệt khắp nơi để tổ chức một cuộc khởi nghĩa đánh đuổi kẻ xâm lăng. Âm mưu bị bại lộ, Tô Định bắt giết ông Thi Sách.

Trước tình thế đó, Bà Trưng Chắc cùng em là Trưng Nhì truyền hịch khởi nghĩa và anh hùng từ các nơi ào ạt đem quân về Mê Linh hưởng ứng. Chỉ một thời gian ngắn, từ vài ngàn nghĩa sĩ, Hai Bà đã có tới 60 ngàn quân.

Thôi thúc bởi lòng dân oán hận , lòng quân sôi sục căm thù, Hai Bà và các tướng lãnh xuất quân đánh thẳng vào Liên Lâu nay là huyện Thuận Thành, Bắc Ninh, trị sở của Tô Định làm quân Hán thua tan. Cùng lúc các quận Cửu Chân, Nhật Nam (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh... ) cũng nổi lên nên chỉ trong vài tháng toàn bộ quân Tàu bị đánh đuổi ra khỏi bờ cõi. Tô Định - thái thú quận Giao Chỉ, Nhâm Diên - thái thú quận Cửu Chân nhanh chân chạy thoát. Thấy quân của Hai Bà đại thắng, các quận Nam Hải, Hợp Phố (Quảng Đông),Thương Ngô, Uất Lâm (Quảng Tây) cũng nổi lên theo Hai Bà và tiến quân lên phía bắc chiếm một số thành trì của nhà Hán tới tận tỉnh Hồ Nam. Hiện nay còn đền thờ Hai Bà Trưng ở tỉnh Hồ Nam.

Dân tộc ta thu hồi lại nền độc lập, một nền độc lập ngắn ngủi chỉ có 3 năm nhưng chứng tỏ tinh thần bất khuất, kiên cường cương quyết không cho kẻ khác tới xâm chiếm đất nước mình.

Không đành lòng với thất bại, năm 42 Quang Vũ cử Mã Viện đem quân thủy bộ sang đánh báo thù. Sau khi quân thủy do Đoàn Chí chỉ huy và quân bộ do Mã Viện cầm đầu hội tại Hợp Phố (Quảng Đông), quân Hán lên đường phục hận. Muốn dùng yếu tố bất ngờ để quân Nam không kịp phòng bị , Mã Viện không thẳng đường băng qua Lạng Sơn vào đất Việt mà âm thầm sai quân chặt rừng xẻ núi , vất vả vượt hơn ngàn dậm trong gần một năm trời mới tiến quân vào được đến Lãng Bạc ở vùng Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Hai Bà sai Thánh Thiên Công Chúa đem quân từ Mê Linh chặn đánh luôn mấy trận rất hăng , giết chết hàng ngàn quân Tàu làm Mã Viện phải lui về vùng Bắc Giang cầm cự.

Phần thì mấy tháng trời bị quân Việt vây đánh, phần thì mùa hè đang tới quân sĩ không quen với khí hậu nóng bức của phương nam nên bị ốm đau, Mã Viện nhiều lúc nản chí sợ bỏ mạng tại sa trường nên cho người ngày đêm về kêu cứu Quang Vũ tiếp viện. Quang Vũ không cho, khuyên Viện nên dùng mưu chước. Viện dùng kế nghi binh : Giả sai một đạo quân từ Cao Bằng đến đóng ở Tuyên Quang và hư truyền tiến đánh vùng thượng du Thái Nguyên, Phú Thọ, Lào Cai, Yên Bái bây giờ. Hai Bà sai Thánh Thiên Công Chúa rút quân lên cứu vùng này.

Mã Viện thừa cơ tấn công vào Mê Linh. Hai bên đánh nhau mấy ngày đêm liên tiếp, quân của Mã Viện kéo về mỗi lúc một đông trong khi quân của Thánh Thiên Công Chúa không kịp về cứu giá. Hai Bà bỏ Mê Linh vượt qua sông Hồng rút về Kim Khê( Cấm Khê) ở vùng rừng núi Ba Vì định dùng nơi hiểm yếu này lập căn cứ kháng cự. Nhưng quân Tàu đuổi theo quá gấp, Hai Bà chạy về đến Hát Môn thì bị đuổi kịp. Hai Bà cùng đoàn nữ binh hộ tống nhảy xuống dòng sông Hát tự vẫn. Ngày buồn thảm đó là ngày mồng 6 tháng 3 năm 43 âm lịch ! (*)

Dân tộc Việt Nam lại đắm chìm trong cảnh lầm than, làm trâu ngựa cho người bóc lột, đàm áp, giết chóc trong gần 900 năm với bao cuộc khởi nghĩa máu xương của Bà Triệu, Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương, Mai Hắc Đế, Bố Cái Đại Vương... cho mãi đến năm 939 khi vua Ngô Quyền diệt quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng mới thu hồi được quyền tự chủ và xây dựng nền độc lập vững vàng truyền lại tới ngày nay :
    Đất nước bao đời được đắp xây
    Bằng xương, bằng máu của xưa nay
    Tấm gương Trưng, Triệu luôn bừng sáng
    Đốt cháy tim này rực lửa đây.
    Đốt cháy tim này rực lửa đây
    Quyết đem tâm trí với tài trai
    Noi gương nối gót người đi trước
    Bảo vệ non sông đất nước này.
Ghi Chú :

- Theo truyền tích của Xã Hát Môn(trước đây là An Hát) thì khi Hai Bà chạy về tới đó là lúc dân làng đã gặt xong lúa chiêm và đang làm bánh trôi bằng nếp chiêm mới gặt ăn mừng mùa vụ. Dân làng bèn chọn mấy cô trinh nữ dâng bánh lên hai vị Vua của họ và đoàn tùy tùng. Chẳng bao lâu quân Tàu đuổi đến, Hai bà nhảy xuống sông Hát tuẫn tiết và các cô trinh nữ dâng bánh cũng nhảy theo. Hiện nay trước cổng đền thờ Hai Bà còn có cái miễu nhỏ (am) thờ các cô trinh nữ dâng bánh và hàng năm vào ngày mồng 6 tháng 3 âm lịch, sau khi vị chủ tế làm lễ tế Hai Bà xong thì ra Miếu Các Cô bái vọng 10 bái. Lễ dâng bánh trôi trong ngày đại lễ tế Hai Bà ( mồng 6 tháng 3) làm bằng gạo nếp chiêm gặt vào tháng 2, tháng 3 âm lịch được duy trì từ thời đó đến bây giờ.

- Bài thơ “Nối Gót Người Xưa”của 1 tác giả vô danh.