Saturday, July 28, 2012

Gửi đến những người lính đã phản bội.

    LỜI NGƯỜI LÍNH VNCH GỞI CÁC CHIẾN HỮU ĐỔI MÀU
Đỗ Văn Xuân

Tôi rất ngại, không biết phải xưng hô thế nào với các bạn, trước đây tôi và các bạn đứng dưới lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ, nay có một số đã chấp nhận đứng dưới lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ mà trong cuộc chiến bảo vệ tự do, chúng ta không bao giờ chấp nhận và truy lùng trong những cuộc hành quân, cũng như hạ xuống tại những vùng nông thôn kẻo lánh để thay vào bằng lá cờ vàng ba sọc đỏ. Đau lòng là ngày nay, các anh không còn thích chào cờ nầy khi về Việt Nam, phải đứng trước lá cờ đỏ sao vàng và chân dung Hồ chí Minh, thậm chí khi trở sang nước tạm dung, các anh tỏ ra khiếp sợ một cách hèn nhát, ít khi dám tham dự các sinh hoạt có lá cờ vàng, nhất là không dám chụp những tấm ảnh có những thứ mà chế độ cộng sản thù ghét, đã sống tại các nước dân chủ, nhưng các anh vẫn còn sợ hải đảng cộng sản, thì làm sao giải trừ được chế độ phi nhân, mang lại tự do cho đồng bào Việt Nam. Tôi cảm thấy ngượng ngùng khi gọi các anh là chiến hữu, các anh đã thực sự đổi màu, trở thành đồng chí với cán binh cộng sản khi về đây vui chơi hay với nhiều lý do khác.

Nhớ thuở xưa, quân nhân chúng mình đã thề trung thành với tổ quốc, đứng dưới lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ, ngày nay các anh đã quên tất cả và đổi màu chỉ sau lần về Việt Nam và sau đó là những chuyến hồi hương, càng thắt chặt tình đồng chí với cán bộ, công an, bộ đội để kết bạn tâm giao, mua sự an toàn bằng những tiệc tùng do chính các anh xuất tiền chiêu đãi.

Những năm tháng chiến đấu chống lại kẻ thù cộng sản, tay sai của khối cộng sản quốc tế, những năm tù đày tưởng như không sống sót sau khi miền nam thất thủ. Một số các anh may mắn di tản trong giờ phút sau cùng của cuộc chiến và nay một số các anh đã quay về, không còn như bài ca: Người Di Tản Buồn, một thời làm xúc động trái tim của những người xa tổ quốc, khi quê hương lọt vào tay quân thù. Những người di tản buồn ấy tiêu biểu như Nguyễn Cao Kỳ và gia đình với con gái Kỳ Duyên, vợ là Tuyết Mai, đã quay về, sánh vai cùng những kẻ mạt sát mình là bọn phản động nước ngoài, đĩ điếm du côn ... chắc chắn là những người di tản buồn ấy đã mất hết tâm hồn, trở thành công cụ tuyên truyền cho chế độ phi nhân.

Người di tản buồn Nguyễn Phương Hùng, về Việt Nam vài lần và tự xóa bỏ căn cước tị nạn, khóc lóc như là đứa trẻ trước mặt bọn cán bộ cộng sản, thật là nhục nhã, còn đâu phẩm cách con người, chứ chưa nói đến tác phong của người lính Việt Nam Cộng Hòa, với tấm gương Trần Bình Trọng: "thà làm quỷ nước nam, còn hơn làm vương đất bắc". Các anh em quân nhân, nhất là cùng binh chủng Biệt Động Quân, cảm thấy đau lòng khi trong hàng ngũ có Nguyễn Phương Hùng, đổi màu, đón gió, trở thành quân nhân quốc gia, thờ ma cộng sản. Ấy thế mà Nguyễn Phương Hùng cảm thấy hãnh diện, niềm tự hào của tên phản bội đê hèn, là hạng người mà bất cứ xã hội nào cũng khinh khi, sớm đầu tối đánh. Ngay cả những đồng chí mới của Nguyễn Phương Hùng cũng không bao giờ tin được hắn, nhưng trong giai đoạn nầy, đảng cộng sản dùng thân xác của anh lính Biệt Động Quân đón gió để thực hiện mục đích tuyên truyền. Chính cá nhân Nguyễn Phương Hùng cũng có thể là không nhận ra sự thâm độc của đảng cộng sản, như con chó được chủ nó ném khúc xương để ngoan ngoãn nằm gọn trong thòng lọng và sau đó bị đập đầu, xẻ thịt cho một tiệc nhậu, cái băng Youbube mà Người di tản buồn năm nào, Biệt Động Quân Sát như bài ca hành khúc, bị Nguyễn Phương Hùng hạ nhục thành Biệt Động Quân khóc như đứa trẻ lên ba tại một phòng họp ở đảo Song Tử Tây, đưa Nguyễn Phương Hùng thành thân bại danh liệt, xú danh muôn đời, nhất là sau đó trở sang Hoa Kỳ, sống trong vùng đất tự do mà hầu hết mọi người nguyền rủa kẻ phản bội. Đảng cộng sản đã giết Nguyễn Phương Hùng bằng cái youtube ấy, hắn lại hãnh diện và cám ơn kẻ giết mình. Nhưng nếu Nguyễn Phương Hùng trở về Việt Nam, sống trọn vẹn với tấm lòng mê đảng, hiếu với bác như Trần Trường, thì trong tương lai, bị trấn lột, phải bỏ của chạy lấy người, như nhiều kẻ lập công dâng đảng từ trước, trở về và bị vắt chanh bỏ vỏ. Nguyễn Phương Hùng ngây thơ, dù làm báo lâu năm với nghề ký giả tự do ở Hoa Kỳ, hắn không biết hay cố tình không muốn biết con tàu Việt Nam Thương Tín, đã đến bến bờ tự do mà còn quay về và tất cả đã bị đảng tống vào tù. Nếu Nguyễn Phương Hùng về Việt Nam cách đây 35 năm trước, thì hắn không bao giờ nói là hối tiếc là không về sớm để phục vụ chế độ cộng sản. Những nạn nhân Việt Nam Thương Tín vẫn còn hổ thẹn và hối tiếc sau khi trở về quê hương.

Những bạn lính may mắn khác, vượt biển, đi bằng đường bộ thành công, đến bến bờ tự do. Sau bao năm lăn lóc nơi xứ người, thành công trên nhiều lãnh vực, bỗng trở về, mang tiền về giúp đảng cộng sản từ nhiều năm qua, họ trở thành khách cung cấp tiền thường trực hàng năm cho chế độ cộng sản, giúp đảng vượt qua những khó khăn kinh tế, nợ nần lút đầu, nên tránh được sụp đổ từ lâu, khi cạn kiệt tài chánh, là bài toán chung cho sự sụp đổ các chính quyền trên thế giới.

Một số tù cải tạo, sống sót, được Hoa Kỳ cứu vớt theo chương trình O.D.P, sau thời gian định cư, quay về, kết bạn với những kẻ đã từng hành hạ, mạt sát trong các nhà tù, lương tri của con người không nằm trong ấy, ngay cả thú vật cũng không quên sau vài lần đánh đập nó, nhưng các anh quân nhân H.O trở về, kết bạn mới với cán bộ, trở thành đồng chí, kiêm mạnh thường quân trong các tiệc, sáng nhậu với ủy ban nhân dân, chiều công an đãi tiệc ... đó là những đồng tiền hưu dưỡng được chính phủ Mỹ chu cấp để sinh sống, hay những món tiền hưu sau nhiều năm làm việc, thay vì chi cho gia đình, giúp cho các bệnh viện sở tại để chửa trị, trong đó có phúc lợi gia đình và cá nhân mình .... thì các anh lại tiêu xài cho cán bộ cộng sản để mua sự an toàn trong thời gian lưu lại, với nhiều ly do như thăm gia đình, hú hý với gái tơ, du lịch ... Những quân nhân như Phạm Tín An Ninh, sau 9 năm tù, quay về để làm quen với những kẻ hành hạ trước đây, còn viết sách ca tụng quản giáo và giúp đỡ cả con quản giáo nữa.

Một số bạn bè của tôi cho biết ở nước Úc, chính phủ ưu ái dành cho quân nhân đồng minh quyền lợi, được cấp hưu dưỡng từ bộ cựu chiến binh, nhưng đã có nhiều anh đã dùng 11 tháng trong năm số tiền cấp dưỡng để sống tại Việt Nam, đó là tiền đóng thuế của dân Úc, lại được các anh nuôi chế độ cộng sản. Theo nhiều người biết, nhiều quân nhân đã quay về, mua nhà, chỉ sang Úc 1 tháng cho hợp chính sách và trở về sống 11 tháng còn lại trong năm, các anh ấy là đồng chí, chứ không còn là chiến hữu nữa. Tại sao những quân nhân ở đây không báo cho chính phủ Úc biết những người như thế?. Một số quân nhân quay về Việt Nam thường viện lý do là có quan hệ bang giao, các cựu chiến binh đồng minh ở Hoa Kỳ, Úc... trở về Việt Nam du lịch, vì họ có nguồn gốc khác với các quân nhân VNCH, chúng ta ra đi vì chế độ cộng sản, nay không thể viện lý do bang giao, là quốc tịch được ban cấp để trở về nơi mà chúng ta cho là nguy hiểm, không thể quay về .... đó là trường hợp một giàn dây leo, có cây mướp, bầu, khổ qua ... chung một giàn, nhưng khác giống. Những người tỵ nạn cộng sản năm nay, trở về an toàn, thì đã tự mình xé bỏ căn cước tỵ nạn chính trị, chính phủ các nước ban cấp quyền công dân, nhưng họ cũng có quyền thu hồi khi cần và xét thấy những người được cấp vi phạm luật, giống như thu hồi giấy phép thương nghiệp, hành nghề luật sư, bác sĩ ... của những kẻ vi phạm luật.

Kẻ thù cộng sản đã đạt thắng lợi lần nữa sau cuộc chiến Việt Nam, không phải chúng tài giỏi, nhưng là do trong hàng ngũ quốc gia, có một số người đón gió trở cờ, đặt cá nhân trên tổ quốc, trở thành những kẻ phản bội.

Trước năm 1975, chính sách chiêu hồi của chính phủ miền nam đã cải hóa hàng chục ngàn cán binh trở về với chính nghĩa quốc gia. Nhưng phía cộng sản cũng có cái gọi là: trở về với nhân dân và cách mạng, thực tế là con số người giác ngộ cách mạng không nhiều, đa số là những kẻ nằm vùng trong hàng ngũ quân đội, chính quyền bị lộ nên phải bỏ vào bưng để an toàn, hay những tên gây tội phạm hình sự, sợ bị pháp luật chế tài, nên vào rừng để trốn tránh. Vào những ngày gần cuối cuộc chiến, có một số quân nhân phản bội, nằm vùng như Nguyễn Thành Trung, quay súng làm phản, được cộng sản cấp giấy " Tiền Khởi Nghĩa", số người nầy đa số là gia đình cán bộ cộng sản, được móc nối bỏ hàng ngũ để sau nầy được an toàn.

Ngày nay, sau cuộc chiến, các quân nhân may mắn thoát khỏi tay kẻ thù, nay trở thành "tiền khởi nghĩa", trở về làm đồng chí của những kẻ chiến thắng thời cơ, mang tiền về đóng góp cho bọn tư bản đỏ tại Việt Nam và đã thành kẻ phản bội. Đây là những tâm tình của một người lính Việt Nam Cộng Hòa, nhắn gởi những ai còn lương tri và đồng thời xác định lập trường, bảo vệ chính nghĩa quốc gia, từ nay những kẻ phản bội, trở cờ, không còn là chiến hữu nữa.

Đỗ Văn Xuân
(Người lính chưa nhận chứng chỉ giải ngũ)

Saturday, July 14, 2012

Chiến Tranh Việt Nam Trong Toàn Cảnh Chính Trị Thế Giới - Trần Gia Phụng

Trần Gia Phụng

Chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975. Cuộc chiến nầy là cuộc chiến phức tạp nhất trong lịch sử Việt Nam, xen lẫn nhiều yếu tố chính trị quốc tế lồng trong chiến tranh lạnh toàn cầu giữa hai khối tư bản và cộng sản. Vì vậy, để góp phần soi rõ chiến tranh Việt Nam vừa qua, thiết tưởng nên đặt chiến tranh Việt Nam trong toàn cảnh chính trị thế giới.

1. VẬN MỆNH VIỆT NAM TRONG TAY NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

Trong điều 1 hòa ước Pháp Việt ngày 6-6-1884, có đoạn nguyên văn như sau: “… Nước Pháp đại diện cho nước Nam trong các việc giao dịch với nước ngoài…”. Như thế có nghĩa là từ năm 1884 tất cả những vấn đề ngoại giao của Việt Nam đều do Pháp quyết định.

Đến thế chiến thứ hai (1939-1945), đế quốc Nhật Bản thao túng Đông Dương từ năm 1940, nhưng mãi đến ngày 9-3-1945, Nhật Bản mới đảo chánh, lật đổ Pháp. Vua Bảo Đại tuyên bố độc lập ngày 11-3-1945. Tuy nhiên nền độc lập quá mong manh, vì vua Bảo Đại dựa vào Nhật, mà Nhật sắp thất trận.

Sau khi Đức đầu hàng ngày 7-5-1945, nguyên thủ các nước Hoa Kỳ, Anh và Liên Xô họp hội nghị thượng đỉnh tại thị trấn Potsdam (gần Berlin, thủ đô nước Đức), từ ngày 17-7 đến 2-8-1945, có mục đích bàn về các vấn đề hậu chiến tại Đức. Hoa Kỳ thử nghiệm thành công bom nguyên tử ngày 16-7, nên chọn ngày 17-7 để bắt đầu hội nghị Potsdam, nhằm tăng uy lực cho Hoa Kỳ trong các cuộc thương thuyết. Bên cạnh đó, cũng tại Potsdam, đại diện Hoa Kỳ, Anh và Trung Quốc (không họp hội nghị Potsdam, nhưng đồng ý qua truyền thanh) cùng gởi một tối hậu thư cho Nhật Bản ngày 26-7-1945. Lúc đó, Nhật Bản còn tiếp tục chiến đấu ở Á Châu. Liên Xô không tham dự vào tối hậu thư vì Liên Xô chưa tham chiến ở Á Châu và chưa tuyên chiến với Nhật Bản.

Tối hậu thư nầy, thường được gọi là tối hậu thư Potsdam, buộc Nhật Bản phải đầu hàng vô điều kiện, chấp nhận những điều kiện của Đồng minh, như chấm dứt quân phiệt, giải giới quân đội, từ bỏ đế quốc… Cũng theo tối hậu thư Potsdam, tại Đông Dương quân Nhật sẽ bị giải giới do quân Trung Quốc ở bắc và do quân Anh ở nam vĩ tuyến 16. Như thế, qua tối hậu thư Potsdam, các cường quốc tự ý quyết định tương lai chính trị cho Việt Nam mà không có đại diện của Việt Nam.

Tối hậu thư Potsdam không đề cập đến ai sẽ cai trị Đông Dương sau khi quân đội Nhật bị giải giới và rút về nước, nghĩa là không đưa ra một giải pháp chính trị cho tương lai Đông Dương. Phải chăng các cường quốc cố tình tạo ra một khoảng trống hành chánh và chính trị ở Đông Dương, nhằm sử dụng Đông Dương làm chiến lợi phẩm đổi chác với nhau, hay đổi chác với Pháp? Nhân cơ hội nầy, Pháp hết sức vận động với cả hai nước Anh và Trung Quốc để Pháp tái lập quyền bảo hộ Đông Dương.

Ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng ngày 14-8-1945, mặt trận Việt Minh (VM) do Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) điều khiển, nhanh tay cướp chính quyền và lập chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ngày 2-9-1945. Trong khi đó, để giải giới quân đội Nhật, tướng Douglas Gracey chỉ huy quân Anh đến Sài Gòn ngày 13-9-1945 và tướng Lư Hán cầm đầu quân Quốc Dân Đảng Trung Quốc đến Hà Nội ngày 14-9-1945.

Pháp ký với Anh Tạm ước về hành chính và tư pháp tại London ngày 8-10-1945, theo đó Anh giao quyền cho Pháp cai trị phía nam vĩ tuyến 16 ở Việt Nam. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, tập A, tr. 275.) Sau đó, Pháp ký với Quốc Dân Đảng Trung Quốc hiệp ước tại Trùng Khánh (Chongqing) ngày 28-2-1946, nội dung là Trung Quốc chịu cho quân Pháp thay thế ở bắc vĩ tuyến 16, và ngược lại Pháp nhường cho Trung Quốc nhiều quyền lợi kinh tế ở Bắc Kỳ cũng như ở Trung Quốc. (Chính Đạo, sđd. tr. 311.) Như thế các nước Anh, Trung Quốc, Pháp xem Việt Nam như một món hàng trao đổi, buôn bán với nhau.

2. VIỆT NAM TRONG CHIẾN TRANH LẠNH

Sau khi Nhật Bản đầu hàng (14-8-1945), thế chiến thứ hai chấm dứt. Các nước thắng trận chia thành hai khối: một bên là Hoa Kỳ cùng các nước Tây Âu theo chủ nghĩa tư bản, và một bên là Liên Xô cùng các nước Đông Âu do Liên Xô mới chiếm đóng, theo chủ nghĩa cộng sản. Hai khối tư bản và cộng sản tranh chấp quyết liệt trên tất cả các lãnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự; tăng cường sức mạnh cho mình và khối của mình, đồng thời tìm cách làm suy yếu khối đối phương. Tuy nhiên hai bên tránh đụng độ trực tiếp với nhau vì cả hai bên đều thủ đắc võ khí nguyên tử, sợ chiến tranh nguyên tử xảy ra thì cả hai bên đều thiệt hại thảm khốc. Tình trạng tranh chấp căng thẳng nhưng không đánh nhau nầy gọi là chiến tranh lạnh. (Liên Xô thử nghiệm thành công bom nguyên tử ngày 29-8-1949.)

Trong khi đó, sau thế chiến thứ hai, phong trào giải thực chống đế quốc lan tràn khắp nơi. Lợi dụng hoàn cảnh nầy, Liên Xô tiếp tục chủ trương xuất cảng cách mạng, xúi giục và giúp đở các nước nhỏ bị các nước Tây phương đô hộ vào thế kỷ trước, đứng lên giành độc lập, rồi sau đó gia nhập khối Liên Xô. Các cuộc võ trang nổi dậy, hoặc các cuộc nội chiến tranh chấp quyền lực, tạo nên những cuộc chiến cục bộ, là những điểm nóng địa phương trong chiến tranh lạnh toàn cầu.

Ở Á Châu, sau thế chiến hai, các điểm nóng quan trọng là Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam. Khi Nhật Bản đầu hàng năm 1945, chiến tranh Quốc Cộng ở Trung Quốc tái diễn ngày 20-7-1946. Đảng Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ) thành công, lập ra Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc (CHNDTQ) ngày 1-10-1949. Sự ra đời của CHNDTQ tăng cường sức mạnh cho khối CS và gây nhiều ảnh hưởng ở Á Châu.

Trước sự thành công của đảng CSTQ, Hoa Kỳ rất lo ngại sự bành trướng của CS ở Á Châu. Từ tháng 1-1950, thượng nghị sĩ Joseph Raymond McCarthy, thuộc đảng Cộng Hòa, tiểu bang Wisconsin, phát động chiến dịch “tố cộng”, thịnh hành đến nỗi người ta còn gọi là chủ thuyết McCarthy (Carthyism).

Tại Triều Tiên, sau thế chiến thứ hai, Triều Tiên được chia ở vĩ tuyến 38: phía Bắc do Liên Xô tạm chiếm và phía Nam do Hoa Kỳ tạm chiếm. Tại miền Nam, năm 1948 quốc hội được bầu ra và soạn thảo hiến pháp, công bố thành lập Cộng Hòa Triều Tiên (Republic of Korea), thủ đô là Hán Thành (Seoul). Tại miền Bắc, Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên (Democratic People’s Republic of Korea) được thành lập ngày 9-9-1949, thủ đô là Bình Nhưỡng (Pyong-yang). Với sự hỗ trợ của Liên Xô, Trung Quốc giúp Bắc Triều Tiên xâm lăng Nam Triều Tiên ngày 25-6-1950. Nam Triều Tiên được Hoa Kỳ giúp đỡ, vận động đưa quân Liên Hiệp Quốc (LHQ) chống Bắc Triều Tiên. Sau thời gian đánh qua, đánh lại, ngày 27-7-1953, hai bên Nam và Bắc Triều Tiên đình chiến và trở lại vị trí trước chiến tranh ở vĩ tuyến 38 Bắc.

Tại Việt Nam, nhờ sự giúp đỡ của Anh, quân Pháp chiếm Nam Kỳ, rồi tiến ra Trung và Bắc Kỳ, đe dọa chính phủ VNDCCH. Hồ Chí Minh nhượng bộ, ký thỏa ước Sơ bộ ngày 6-3-1946, sẵn sàng tiếp đón quân Pháp đến thay thế quân Trung Quốc để giải giáp quân Nhật (điều 2), trái với lời Hồ Chí Minh thề khi đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” ngày 2-9-1945: “Nếu Pháp đến xâm lăng lần nữa thì chúng tôi xin thề: không đi lính cho Pháp, không làm việc cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không đưa đường cho Pháp.” (Tô Tử Hạ, 60 năm chính phủ Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Thông Tấn, 2005, tr. 26.) Hồ Chí Minh còn ký Tạm ước (Modus Vivendi) tại Paris tối 14-9-1946 với Marius Moutet, bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại, gồm 14 điều khoản, một lần nữa nhượng bộ để cho Pháp tái tục các hoạt động kinh tế, tài chính, giao thông, văn hóa trên toàn quốc Việt Nam.

Sau hai hiệp ước nầy, quân Pháp đến Bắc Kỳ càng ngày càng đông. Tại Hà Nội, tự vệ VM dựng nhiều rào cản, gây trở ngại. Quân Pháp gởi tối hậu thư cho VM ngày 18-12-1946, báo rằng nếu VM không duy trì được an ninh ở Hà Nội, thì Pháp sẽ phụ trách an ninh kể từ 20-12-1946. Nếu quân Pháp giữ gìn an ninh Hà Nội, thì toàn bộ lãnh đạo VM, đảng CSĐD và cả Hồ Chí Minh ở Hà Nội, đều nằm trong tay Pháp. Không thể để bị Pháp bắt và cũng không thể tự nhiên bỏ trốn khỏi Hà Nội, Hồ Chí Minh liền hô hào toàn dân kháng chiến chống Pháp tối 19-12-1946, nhằm tạo cơ hội cho Hồ Chí Minh và lãnh đạo CS thoát thân khỏi Hà Nội mà không bị tai tiếng chạy trốn. Từ đó bùng nổ cuộc kháng chiến chống Pháp.

Vì không biết bị Hồ Chí Minh phỉnh gạt, lúc đầu toàn dân Việt Nam hưởng ứng cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng càng ngày Hồ Chí Minh và mặt trận VM càng để lộ chân tướng cộng sản, nên các thành phần theo chủ nghĩa dân tộc quy tụ chung quanh cựu hoàng Bảo Đại. Bảo Đại thương thuyết với Pháp, đưa đến kết quả là cựu hoàng Bảo Đại ký kết với tổng thống Pháp Vincent Auriol hiệp định Élysée ngày 8-3-1949, thành lập chính thể Quốc Gia Việt Nam (QGVN), chống lại VNDCCH. Từ nay, cuộc kháng chiến chống Pháp biến thành của chiến tranh Quốc Cộng.

Sau sự kiện trên, chiến tranh Việt Nam bước vào một giai đoạn mới khi Trung Quốc (ngày 18-1-1950), rồi Liên Xô (ngày 30-1-1950) thừa nhận VNDCCH; trong khi Hoa Kỳ (ngày 4-2-1950), rồi Anh Quốc (ngày 7-2-1950) thừa nhận QGVN. Các cường quốc càng ngày càng góp lửa vào chiến tranh Việt Nam. Nhờ sự viện trợ về mọi mặt của Liên Xô và nhất là Trung Quốc (nước láng giềng phía bắc), Hồ Chí Minh và đảng CSVN thắng thế, cao điểm là trận Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954.

Trước tình hình mới, các cường quốc lại họp nhau tại Genève từ ngày 8-5-1954, tìm giải pháp cho chiến tranh Việt Nam. Theo giải pháp chia hai Triều Tiên, Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết ngày 20-7-1954 tại Genève, chia hai Việt Nam ở vĩ tuyến 17: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, và Quốc Gia Việt Nam ở phía nam do Bảo Đại làm quốc trưởng. Một lần nữa, số phận Việt Nam do các cường quốc sắp đặt với nhau, và buộc hai phe Việt Nam chấp hành.

Trước khi ký kết hiệp định Genève, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc mời Hồ Chí Minh sang Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây, họp từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954. Tại đây, Chu Ân Lai ép Hồ Chí Minh phải chấp nhận giải pháp chia hai nước Việt Nam do các cường quốc đưa ra, đồng thời Chu Ân Lai đưa kế hoạch cho Hồ Chí Minh rằng trước khi rút ra Bắc, Hồ Chí Minh nên gài cán bộ ở lại miền Nam, đồng thời phân tán và chôn giấu võ khí ở lại miền Nam, chuẩn bị lực lượng tiếp tục chiến tranh.

Sau hội nghị Liễu Châu, và trước khi ký hiệp định Genève, Hồ Chí Minh triệu tập hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng Lao Động ngày 15-7-1954, trình bày mục tiêu chiến đấu mới của CSVN. Hồ Chí Minh tuyên bố: “Mỹ không những là kẻ thù của nhân dân thế giới mà Mỹ đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt Miên Lào… Mũi nhọn của ta cũng như mũi nhọn của thế giới đều chĩa vào Mỹ…” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7: 1953-1955, xuất bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tt. 314-315.) Lúc đó Hoa Kỳ chưa chính thức can thiệp vào Việt Nam, mà Hồ Chí Minh đã chỉa mũi nhọn vào Hoa Kỳ, chẳng qua chỉ vì Hồ Chí Minh theo chân Liên Xô và Trung Quốc, tấn công Hoa Kỳ nhằm lập công với hai nước nầy.

Hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia hai nước Việt Nam ở vĩ tuyến 17. Phía bắc là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH). Phía nam là Quốc Gia Việt Nam và đổi thành Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) năm 1955. Khi Hoa Kỳ viện trợ cho miền Nam Việt Nam tái thiết đất nước, chưa đem quân vào Việt Nam, Hồ Chí Minh tuyên bố ngày 7-1-1959, trên báo Tin Tức (Liên Xô), số đặc biệt về nước VNDCCH, rằng VNDCCH là tiền đồn của QTCS. “Như vậy là ở Đông Nam Á, chúng tôi đã đứng ở tiền đồn của mặt trận dân chủ và hòa bình toàn thế giới chống chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh.” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, 1958-1959, xuất bản lần thứ hai, Hà Nội, Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tr. 309.)

Phát động chiến tranh tấn công miền Nam Việt Nam sau nghị quyết của Hội nghị Trung ương đảng Lao Động ngày 13-5-1959 và sau Đại hội III đảng Lao Động từ ngày 5 đến 10-9-1960, CSVN đưa ra chiêu bài “chống Mỹ cứu nước”. Thực chất, Lê Duẫn, bí thư thứ nhất đảng LĐ cho biết: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc.” (Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, tr. 422.)

Trong khi đó, Hoa Kỳ và khối tư bản cho rằng khi một nước bị cộng sản chiếm quyền, thì các nước lân bang dần dần sẽ bị mất vào tay cộng sản, nghĩa là một quân cờ domino sụp đổ, thì các quân cờ domino khác cũng sụp theo. Đó là nguồn gốc thuyết domino tại các nước Tây phương, nhất là Hoa Kỳ. Vận dụng thuyết địa lý chính trị nầy, Hoa Kỳ can thiệp vào các nước Đông Nam Á, hầu ngăn chận sự bành trướng của cộng sản.

Trước sự bành trướng của CS tại Á Châu, đại diện ba nước Australia (Úc), New Zealand (Tân Tây Lan), United States of America (USA) (Hoa Kỳ) họp tại San Francisco (Hoa Kỳ) ngày 1-9-1951, ký hiệp ước thành lập khối quân sự ANZUS, nhằm hợp tác phòng thủ nếu xảy ra các cuộc tấn công trên Thái Bình Dương được xem là ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh của mỗi nước và các nước khác trong khu vực. Khối ANZUS không lập lực lượng riêng, chỉ họp hằng năm cấp bộ trưởng ngoại giao để duyệt xét tình hình và họp bất thường khi một trong ba nước thành viên yêu cầu vì an ninh bị đe dọa.

Sau hiệp định Genève (20-7-1954), Hoa Kỳ vận động ký kết Hiệp ước Hỗ tương Phòng thủ Đông Nam Á (Southeast Asia Collective Defence Treaty) tại Manila, thủ đô Phi Luật Tân, ngày 8-9-1954. Từ đó ra đời Tổ chức Liên phòng Đông Nam Á (Southeast Asia Treaty Organization, SEATO), gồm các nước (theo thứ tự ABC) Australia, France, New Zealand, Pakistan, Philippines, Thailand, United Kingdom (Anh), và United States of America. Trong phụ bản của hiệp ước, ba nước Cambodia, Laos và Việt Nam được liệt kê trong vùng lãnh thổ được bảo vệ. Hoa Kỳ dựa vào phụ bản hiệp ước nầy để minh chứng sự ủng hộ của họ đối với các chế độ chống cộng ở Đông Nam Á.

3. CHIẾN TRANH GIỚI HẠN TRONG CHIẾN TRANH LẠNH

Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được khối CSQT hậu thuẫn, quyết định tấn công VNCH năm 1960. Việt Nam Cộng Hòa ở thế tự vệ, phải nhờ đến sự giúp sức của Hoa Kỳ và đồng minh chống lại cuộc tấn công của cộng sản. Khi can thiệp vào Việt Nam, Hoa Kỳ nhắm mục đích chính là ngăn chận sự bành trướng của CS, nhất là của CS Trung Quốc, nhằm phòng thủ từ xa để chủ nghĩa CS không thâm nhập vào Hoa Kỳ. Tuy nhiên, các chính phủ Hoa Kỳ bị ám ảnh bởi chiến tranh Triều Tiên, nên chủ trương “chiến tranh giới hạn”. (Mark Moyar, Triumph Forsaken, The Vietnam War, 1954-1965, New York: Cambridge University Press, 2006, tr. 306.)

Nguyên trong chiến tranh Triều Tiên, ngày 25-6-1950, Bắc Tiều Tiên (BTT) xâm lăng Nam Triều Tiên (NTT), chiếm Hán Thành. Ngày 12-9-1950, đại tướng Douglas MacArthur cầm đầu quân đội Liên Hiệp Quốc (LHQ), đẩy lui Bắc quân, tái chiếm Hán Thành. Ông tiếp tục truy đuổi Bắc quân, vượt vĩ tuyến 38, chiếm Bình Nhưỡng và tiến đến sông Áp Lục (Yalu River), vùng biên giới Trung Quốc. Lấy cớ quân LHQ đe dọa biên giới, khoảng 250,000 chí nguyện quân Trung Quốc vượt biên giới, giúp BTT ngày 26-11-1950. Trung Quốc dùng chiến thuật biển người, đẩy lui quân LHQ, chiếm Hán Thành. Matthew Ridgway thay thế tướng MacArthur, cầm quân LHQ, đuổi cộng quân khỏi vĩ tuyến 38 tháng 1-1951, chứ không tiến xa lên phía bắc.

Lần nầy ở Đông Dương, tuy Hoa Kỳ giúp VNCH chống lại CSBV, nhưng vẫn lo lắng Trung Quốc có thể dựa vào lý do Hoa Kỳ hăm dọa vùng biên giới phía nam Trung Quốc để tung quân vào Việt Nam như đã từng làm ở Triều Tiên. Lúc đó, dân số Trung Quốc đông gấp bốn lần dân số Hoa Kỳ. Để tránh trường hợp Trung Quốc can thiệp, Hoa Kỳ chủ trương “chiến tranh giới hạn” (limited war), tức giới hạn mục tiêu tấn công, không đánh ra Bắc, như trước đây Mac Arthur đã từng đánh ra Bắc Triều Tiên, nhất là tránh khu vực biên giới Việt Nam – Trung Quốc.

Trong cuộc chiến từ 1960 đến 1975 tại miền Nam Việt Nam, CSVN vừa dùng khủng bố, vừa dùng chiến thuật du kích, rồi tiến lên chiến tranh quy ước. Du kích là rình mò tấn công lẻ tẻ, làm tiêu hao lực lượng đối phương. Khủng bố nguy hiểm hơn, chẳng những là tấn công hủy diệt, mà khủng bố còn là đòn chiến tranh tâm lý cân não, uy hiếp làm cho dân chúng kinh hoàng và khiếp sợ suốt đời. Quân đội Hoa Kỳ cũng như quân đội VNCH (khi còn được trang bị đầy đủ), đánh trả hữu hiệu những cuộc tấn công lớn của CS, nhưng không có đối sách nào có thể dẹp yên hoàn toàn được khủng bố và du kích CS.

Ai cũng biết khủng bố, du kích và cả chiến tranh quy ước luôn luôn phải có hậu phương yểm trợ. Khủng bố, du kích CS phát xuất từ Bắc Việt Nam. Bắc Việt Nam hay VNDCCH chính là kẻ chủ trương, nuôi dưỡng khủng bố và du kích ở Nam Việt Nam, là hang ổ của khủng bố, du kích và quân đội chính quy CS ở miền Nam, là nguồn tiếp liệu to lớn về tất cả các mặt cho CS miền Nam. Đánh rắn phải đánh đầu. Bứng cây phải đào tận gốc. Muốn dẹp khủng bố, du kích CS tại miền Nam Việt Nam, thì phải tấn công sào huyệt của khủng bố và du kích ở Bắc Việt Nam, chận đứng hậu phương của CS, chận đứng nguồn tiếp liệu liên tục của CS, và buộc Bắc Việt Nam từ bỏ cuộc tấn công Nam Việt Nam. Nếu không đánh Bắc Việt Nam, CS Nam Việt Nam cứ tiếp tục khủng bố và du kích không ngừng nghỉ.

Các tướng lãnh VNCH thấy rõ điều nầy và nhiều lần đề nghị Bắc tiến, đánh ra phía bắc vĩ tuyến 17, lấy thế công làm thế thủ, buộc CSVN phải lui về phòng ngự đất Bắc, ngưng hoặc giảm tiếp liệu cho du kích miền Nam, hoặc dựa vào đó để thương thuyết với CS, buộc CS Bắc Việt chấm dứt tiếp tế du kích miền Nam, như liên quân Liên Hiệp Quốc đã làm ở Triều Tiên.

Tuy nhiên Hoa Kỳ chủ trương chiến tranh giới hạn, không chấp nhận kế hoạch Bắc tiến, không viện trợ phương tiện cho các kế hoạch Bắc tiến và chận đứng ngay các kế hoạch Bắc tiến của quân đội VNCH.

Có thể kể các ví dụ: Ngày 4-5-1964, trung tướng Nguyễn Khánh đề nghị với đại sứ Cabot Lodge mở rộng chiến tranh ra Bắc. (Vietnam Task Force – Office of the Secretary of Defence, United States – Vietnam Relations 1945-1967, Washington D.C.: 2011. Part IV. C. 1., p. a-7.) Trong cuộc mít-tinh ngày 19-7-1964, thủ tướng Nguyễn Khánh công khai hô hào Bắc tiến. (John S. Bowman, The Vietnam War: Day by Day, New York: Mallard Press, 1989, tt. 42.) Kết quả, Nguyễn Khánh bị các tướng trẻ đẩy ra nước ngoài làm đại sứ. Không biết Hoa Kỳ có nhúng tay vào vụ nầy hay không?

Ngày 1-12-1965, trung tướng Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh Vùng I Chiến thuật kiêm tư lệnh Quân đoàn I viết thư cho chính phủ, đưa ra đề nghị Bắc tiến. Tướng Thi cũng công khai đề nghị với người Mỹ. (Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam, một trời tâm sự, California: Nxb. Anh Thư, 1987, tt. 319-334.) Tướng Thi sau đó bị cách chức vào tháng 3-1966, đưa đến vụ Biến động miền Trung.

Khi mở cuộc hành quân Lam Sơn 719, tấn công qua Hạ Lào tháng 1-1971, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đề nghị với Hoa Kỳ là VNCH đưa một sư đoàn tiến qua phía bắc vĩ tuyến 17 như một chiến thuật đánh lạc hướng CSVN, nhưng Hoa Kỳ không chấp thuận. (Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter, Hồ sơ mật dinh Độc Lập, Los Angeles: C & K Promotions, Inc., không đề năm xuất bản, tr. 75 và tr. 116.)

Trong mùa hè đỏ lửa năm 1972, Bắc Việt tràn quân qua vĩ tuyến 17, tấn công VNCH. Viện dẫn lý do nầy, Quân đoàn I đưa ra đề nghị đánh thẳng qua sông Bến Hải, nhằm đe dọa hậu cứ địch, nhưng cố vấn Mỹ không đồng ý. Lo ngại Quân đoàn I có thể tự ý tiến quân ra Bắc, các cố vấn Mỹ giới hạn việc cấp bổng tiếp vận cho Lữ đoàn 1 Kỵ binh 20 gallons xăng mỗi ngày cho một xe, đạn pháo binh chỉ được bắn 5 quả mỗi ngày cho một khẩu và ngưng tiếp tế lương khô cho Lữ đoàn. (Hà Mai Việt, Thép và Máu, Thiết giáp trong chiến tranh, Texas: 2005, tr. 103.) Cuối năm 1972, Hoa Kỳ rút hết quân khỏi Việt Nam.

Về Không quân, ban đầu Hoa Kỳ chỉ cung cấp các chiến đấu cơ loại cánh quạt cho Không quân VNCH. Trong năm 1965, khi mở màn tấn công Bắc Việt, các phi công VNCH lái các loại máy bay AD5 (2 chỗ ngồi) và AD6 (một chỗ ngồi) tức khu trục cơ cánh quạt Skyraider (Thiên kích), bay xa nhất đến Hà Tĩnh lại phải quay về liền. Sau năm 1965, Không quân VNCH không còn bay ra Bắc nữa. Khi cung cấp phản lực cơ chiến đấu cho Không quân VNCH, Hoa Kỳ chỉ cung cấp loại phản lực F-5 và A-37, chứa nhiên liệu ít, nên không ở lâu trên không trung và không bay xa được để khỏi tấn công đất Bắc.

Theo hồi ký của đại tướng Cao Văn Viên, nguyên là tổng tham mưu trưởng quân lực VNCH, thì vào năm 1966, ông đưa ra một chiến lược 7 điểm, trong đó điểm thứ 6 là đổ bộ lên Vinh (tỉnh Nghệ An) hay Hà Tĩnh (tỉnh Quảng Bình), tuy nhiên kế hoạch nầy không được thi hành. (Cao Văn Viên, Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa, tr. 288.)

Cũng trong năm 1966, nhận thấy quân Bắc Việt qua vùng phi quân sự, xâm nhập tỉnh Quảng Trị, tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, tướng William Westmoreland đề nghị với bộ Quốc phòng Hoa Kỳ dùng lực lượng quốc tế lập phòng tuyến KANZUS, chận ngang qua khu phi quân sự, chống sự xâm nhập và bảo vệ miền Nam Việt Nam. KANZUS viết tắt của các chữ Korea, Australia, New Zealand và United States. Đại sứ các nước nầy tại Sài Gòn đều chấp thuận kế hoạch KANZUS, nhưng kế hoạch KANZUS bị Washington DC bác bỏ. (William C. Westmoreland, A Soldier Reports, New York: Da Capo Press, 1989, tr. 197.) Westmoreland không giải thích vì sao chính phủ Hoa Kỳ từ chối. Phải chăng Hoa Kỳ không muốn gây sự hiểu lầm về sự hiện diện của một lực lượng đa quốc tại vùng phi quân sự.

Rõ ràng vì chủ trương “chiến tranh giới hạn”, Hoa Kỳ không chấp nhận tất cả những kế hoạch tấn công Bắc Việt bằng bộ binh như ở Triều Tiên. Nếu không tấn công hậu cứ CSVN ở Bắc Việt Nam để CSVN lui về thế thủ, chấm dứt tiếp liệu cho CS miền Nam, thì không có cách gì có thể chận đứng nạn khủng bố, nạn du kích ở miền Nam và cũng không thể chận đứng nguồn tiếp liệu của CSVN, để CSVN có thể mở những trận đánh lớn trên khắp miền Nam Việt Nam. Các tướng lãnh cầm quân Hoa Kỳ, dù thay đổi chiến thuật, chiến lược, dù được tăng cường tối đa và được trang bị tối tân, có thể thắng chiến tranh quy ước, nhưng cũng không thể chận đứng thủ đoạn khủng bố và chiến tranh du kích của CSVN.

Một ví dụ cụ thể là sau biến cố ngày 11-9-2001 (Tòa Tháp đôi ở New York bị đánh sập, chết 3,000 người), chính phủ Hoa Kỳ với phương tiện lớn lao, hùng hậu, với sự tiếp tay của nhiều nước trên thế giới, mở chiến dịch truy lùng khủng bố ở Hoa Kỳ và khắp toàn cầu, tấn công hậu cứ của khủng bố ở Trung đông, Pakistan, Afghanistan, mà cuối cùng cũng chẳng diệt hết được khủng bố.

Với kinh nghiệm về việc truy diệt khủng bố rất khó khăn sau biến cố 11-9-2001, ngày nay chúng ta mới dễ hiểu được trước năm 1975, Hoa Kỳ và VNCH chỉ hành quân bên trong lãnh thổ Nam Việt Nam, thì làm thế nào có thể tiêu diệt được khủng bố và du kích CS ở miền Nam Việt Nam mà cái đầu vốn ở miền Bắc Việt Nam? Loại khủng bố và du kích nầy còn được sự tiếp tay của toàn khối CS trên thế giới.

Vì chủ trương chiến tranh giới hạn, Hoa Kỳ không thành công về quân sự tại Việt Nam, lại bị phong trào phản chiến trong nước chống đối mạnh mẽ, nên Hoa Kỳ tìm cách ra khỏi chiến tranh Việt Nam và cứu tù binh Hoa Kỳ về nước. Đặc tính nổi bật của nền ngoại giao Hoa Kỳ là rất thực tế và linh hoạt, sẵn sàng thay đổi hay điều chỉnh chính sách để phù hợp với tình hình và quyền lợi của người Hoa Kỳ. Vì vậy, Hoa Kỳ chuyển qua thế cờ mới trong chiến tranh lạnh toàn cầu.

4. THẾ CỜ MỚI TRONG CHIẾN TRANH LẠNH

Trong chiến tranh Triều Tiên từ năm 1951, hai bên Hoa Kỳ và Trung Quốc trực tiếp đánh nhau. Liên Xô đứng ngoài, bảo toàn lực lượng, quan sát hai địch thủ lâm chiến tiêu diệt nhau. Lần nầy, ở Việt Nam, Hoa Kỳ chủ trương “chiến tranh giới hạn”, không tấn công Bắc Việt Nam bằng bộ binh, không tiến đến biên giới Việt-Trung, không thách thức và không trực tiếp đụng độ với Trung Quốc.

Về phía Trung Quốc, ngoài nguồn viện trợ cho Bắc Việt Nam, Trung Quốc chỉ gởi quân qua bảo vệ phía Bắc Việt Nam, chứ không tham gia chiến đấu ở miền Nam. Quân Trung Quốc không đụng độ trực tiếp với quân Hoa Kỳ tại Việt Nam. Vì vậy, về chính trị, lần nầy hai bên Hoa Kỳ và Trung Quốc chẳng trực tiếp thù oán nhau. Hai bên có thể nói chuyện với nhau khi có cơ hội thuận tiện, nhất là từ khi Stalin qua đời năm 1953, những tranh chấp giữa Trung Quốc và Liên Xô càng ngày càng trở nên căng thẳng.

Về địa lý chính trị đối với Trung Quốc, Liên Xô có bom nguyên tử (năm 1949) như Hoa Kỳ, nhưng nguy hiểm hơn Hoa Kỳ vì Liên Xô ở sát biên giới Trung Quốc, và bao vây Trung Quốc dọc theo biên giới dài giữa hai bên. Quân đội Liên Xô có thể tràn qua biên giới Trung Quốc bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào. Thực tế Trung Quốc và Liên Xô đã đánh nhau trên vùng sông biên giới Ussouri năm 1969. Còn Hoa Kỳ ở xa, bên kia bờ biển Thái Bình, muốn đổ bộ vào Trung Quốc cũng khó khăn.

Về phía Hoa Kỳ, từ thập niên 60, những nhà nghiên cứu chiến lược Hoa Kỳ cho rằng: “Bắc Việt không thể tàn phá Hoa Kỳ trong vòng nửa giờ, hoặc tiêu hủy các thành phố, giết một nửa dân số, nhưng với hỏa tiển nguyên tử, Liên Xô có thể làm được việc đó. Trung Quốc tuy chưa ngang tầm của Liên Xô vì ít vũ khí nguyên tử, nhưng lại đe dọa phần còn lại của Á châu vì ý hệ chính trị cứng rắn và vì dân số đông đảo của họ.” (Roger Warner, Shooting at the Moon, Steerforth Press, South Royalton, Vermont, 1996, tr. 333-334.) Vì vậy, Hoa Kỳ bắt đầu chuyển hướng, mở những cuộc vận động ngoại giao thẳng với Trung Quốc.

Sau nhiều cuộc thăm dò và đàm phán bí mật, cả Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc đều tỏ thiện chí nhằm xích lại gần nhau. Tháng 12-1969, Trung Quốc trả tự do cho hai người Mỹ bị bắt vì vi phạm hải phận Trung Quốc trên một du thuyền. Ngày 20-1-1970, Lei Yang [Lôi Dương], một nhà thương thuyết Trung Quốc báo cho Walter Stoessel, đại sứ Hoa Kỳ tại Varsaw (Ba Lan), biết rằng Trung Quốc sẵn sàng chấp nhận đề nghị của Hoa Kỳ gởi một nhà ngoại giao đến Bắc Kinh để bàn luận về những vấn đề liên hệ song phương. Ngày 10-7-1970, Trung Quốc thả giám mục Ky-Tô giáo La Mã, James Walsh, người Hoa Kỳ, thuộc dòng Marydnoll (Hoa Kỳ). Ông bị bắt năm 1958 và bị kêu án 20 năm cấm cố từ năm 1960. (Qiang Zhai, China & Vietnam Wars, 1950-1975, The University of North Carolina Press, 2000, tr. 182.)

Trong cuộc phỏng vấn trên tạp chí Time ngày 5- 10-1970, tổng thống Nixon tuyên bố: “Nếu có điều gì tôi muốn thực hiện trước khi từ trần, thì đó là đi thăm Trung Quốc.” Mao Trạch Đông đáp ứng ngay. Qua cuộc phỏng vấn của Edgar Snow ngày 18-12-1970, Mao Trạch Đông hoan nghênh việc Nixon thăm Trung Quốc dù với tư cách là một tổng thống hay một du khách.

Ngày 14-4-1971, tại Đại sảnh đường Nhân dân Bắc Kinh, thủ tướng Trung Quốc là Chu Ân Lai tiếp đãi và nói chuyện thân mật với đoàn bóng bàn Hoa Kỳ sang đấu giao hữu với đoàn bóng bàn Trung Quốc theo lời mời của Tổng cục Bóng bàn nước nầy.

Ngày 9-7-1971, trong một chuyến công du Pakistan, cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ là Henry Kissinger bí mật đến Bắc Kinh và được Chu Ân Lai tiếp kiến. Ngoài những vấn đề song phương và thế giới, Kissinger còn thảo luận với Chu Ân Lai về vấn đề Việt Nam và cho Chu Ân Lai biết: “Nhân danh tổng thống Nixon, tôi xin thông báo với Thủ tướng một cách trịnh trọng nhất rằng trước hết, chúng tôi sửa soạn rút quân hoàn toàn ra khỏi Đông Dương và ấn định ngày giờ rút quân, nếu có một cuộc ngưng bắn và phóng thích tù binh của chúng tôi. Thứ đến, chúng tôi sẽ để cho giải pháp chính trị của Nam Việt Nam tự diễn biến và phó mặc cho một mình người Việt.” (Nguyễn Tiến Hưng, Tâm tư tổng thống Thiệu, California: Cơ sở Hứa Chấn Minh, 2010, tr. 617.) Trong cuộc họp hôm sau (10-7-1971), Kissinger nói thêm: “Điều chúng tôi yêu cầu là một khoảng thời gian chuyển tiếp giữa sự rút quân và diễn biến chính trị. Không phải là để chúng tôi có thể trở vào lại [Việt Nam], nhưng chúng tôi có thể để cho dân tộc Việt Nam và dân tộc các nơi khác ở Đông Dương tự quyết định lấy số phận của họ… Hôm qua, tôi đã thưa với Thủ tướng, và tôi muốn nhắc lại rằng, nếu sau khi quân đội Mỹ rút lui hoàn toàn, mà các dân tộc Đông Dương thay đổi chính quyền của họ, Hoa Kỳ sẽ không can thiệp.” (Nguyễn Tiến Hưng, sđd. tr. 624.)

Lót đường cho cuộc bang giao với Trung Quốc, Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan, không phủ quyết cuộc bỏ phiếu của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ngày 25-10-1971 theo đó CHNDTQ được giữ ghế đại biểu Trung Quốc thay Đài Loan. Sau đó, tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon viếng thăm CHNDTH một tuần bắt đầu từ ngày 21-2-1972 mà ông Nixon cho rằng đây là “một tuần lễ sẽ làm thay đổi thế giới”. Trong cuộc họp đầu tiên với Chu Ân Lai ngày hôm sau 22-2-1972, tổng thống Nixon đề cập ngay đến vấn đề Việt Nam: “Nếu tôi ngồi vào bàn với bất cứ nhà lãnh đạo nào của Bắc Việt Nam, và cùng nhau bàn bạc về việc đình chiến và nhận lại tù binh của chúng tôi, tất cả người Hoa Kỳ sẽ được rút ra khỏi Việt Nam trong sáu tháng kể từ ngày đó… Chúng tôi đã đề nghị rút hết người Hoa Kỳ, mà không để cái “đuôi” đàng sau – như cách nói của Thủ tướng – và ngưng bắn trên toàn Đông Dương, miễn là chúng tôi lấy lại được tù binh. Sau đó, chúng tôi sẽ để cho dân chúng ở đó tự quyết định.” (Nguyễn Tiến Hưng, sđd. tr. 627.)

Thế là xong, số phận Việt Nam lại do Hoa Kỳ và Trung Quốc quyết định và trao đổi với nhau. Dĩ nhiên hai nước nầy quyết định theo quyền lợi của nước họ và bất cần quyền lợi của các đồng minh. Những diễn tiến sau đó thì mọi người đều biết. Hoa Kỳ ngưng cung cấp đạn dược, nhiên liệu cho quân đội VNCH. Thế là VNCH hết phương tiện chiến đấu, phải buông súng.

5. PHE NÀO THẮNG NHÂN DÂN ĐỀU THẤT BẠI

Trong cuộc chiến vừa qua ở Việt Nam, nếu nhìn cục bộ và ngắn hạn vấn đề Việt Nam, thì rõ ràng Bắc Việt Nam tức VNDCCH hay CSVN thắng lớn; Nam Việt Nam tức VNCH thất bại hoàn toàn và Hoa Kỳ kể như thua vì không thành công trong việc giúp VNCH chống CSVN ở miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, nếu nhìn toàn diện cuộc chiến từ năm 1945 cho đến năm 1975 và đặt cuộc chiến Việt Nam trong toàn cảnh chính trị thế giới cho đến ngày nay, thì lẽ thắng thua có phần khác.

Trước hết, để đi đến chiến thắng, CSVN phải cầu viện Liên Xô và Trung Quốc về mọi mặt. Vay thì phải trả. Không có gì để trả, CSVN lấy tài sản, đất đai tổ tiên để trả nợ. Đây là tội phản quốc không thể tha thứ, nặng nề hơn và tệ hại hơn bất cứ tội phản quốc nào đã qua trong lịch sử Việt Nam. Chiến thắng rồi rước tên ăn cướp vào phá nhà, để nó cướp mất đất của tổ tiên thì có phải là chiến thắng không?

Trung Quốc vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu sau khi nội chiến Quốc Cộng chấm dứt năm 1949. Do chiến tranh Việt Nam, khi ngồi vào bàn Hội nghị Genève năm 1954, Trung Quốc nghiễm nhiên trở thành ngang hàng với các cường quốc Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô. Vào đầu hội nghị Genève 1954, ngoại trưởng Hoa Kỳ John Foster Dulles không thèm bắt tay xã giao với Châu Ân Lai, thủ tướng kiêm ngoại trưởng Trung Quốc. (Henry Kissinger, White House Years, Toronto: Little, Brown and Company, 1979, p. 1054.) Thế mà gần 20 năm sau, do chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ bắt tay với Trung Quốc và mở cửa cho Trung Quốc vào Liên Hiệp Quốc giữ ghế đại diện tại LHQ, thay thế Đài Loan năm 1971. Trong cuộc gặp gỡ năm 1972, tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã tặng cho Trung Quốc một món quà lớn: Hai bên ký bản thông cáo chung Thượng Hải ngày 28-2-1972, theo đó, Hoa Kỳ xác nhận trong điều thứ 12 của thông cáo chung, rằng chỉ có một nước Trung Quốc, và Đài Loan là một phần lãnh thổ của Trung Quốc.

Chẳng những hưởng lợi về ngoại giao và lãnh thổ, Trung Quốc còn nghiễm nhiên trở thành chủ nợ của CSVN và xem CSVN như là chư hầu, buộc CSVN chạy theo chính sách của Trung Quốc, ép Việt Nam phải ký hiệp ước nhượng ải Nam Quan (1999) và nhượng 10,000 Km2 mặt biển vịnh Bắc Việt (2000).

Cộng sản VN khoe rằng “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”. Hoa Kỳ không chiến thắng ở miền Nam Việt Nam, được kể là thua trận. Hoa Kỳ mất 58,000 quân ở Việt Nam, nhưng khi quay lưng rời khỏi Việt Nam, Hoa Kỳ chẳng mất một tấc đất nào của Hoa Kỳ, mà cũng chẳng một tấc đất nào của Hoa Kỳ bị bom đạn quấy rầy. Chính sách của Hoa Kỳ từ trước đến nay là phòng thủ từ xa.

Mục đích ban đầu của Hoa Kỳ là đến Việt Nam để ngăn chận làn sóng CS, nhất là Trung Quốc, phòng thủ từ xa chống lại sự thâm nhập của CS vào Hoa kỳ. Do chiến tranh Việt Nam, các nước Đông Nam Á có thời giờ xây dựng và củng cố vòng đai phòng tuyến chống cộng, từ Thái Lan, Mã Lai đến Phi Luật Tân, Indonesia. Cũng từ chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ bắt tay với Trung Quốc, tách Trung Quốc ra khỏi liên minh với Liên Xô. Như thế Hoa Kỳ cũng đã đạt được mục tiêu ban đầu đã đề ra. Sau năm 1975, CSVN trải thảm đỏ rước Hoa Kỳ trở lại Việt Nam. Rõ ràng Hoa Kỳ không “cút”, mà còn mạnh hơn trước.

Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn thất bại, bị CS gọi là “ngụy”. Quân đội VNCH đã anh dũng chiến đấu để bảo vệ nền dân chủ tự do son trẻ của miền Nam Việt Nam. Sau thời kỳ quân chủ và thực dân đô hộ Việt Nam, sự hiện diện chuyển tiếp trong 21 năm của QGVN rồi VNCH ở miền Nam Việt Nam, tuy ngắn ngủi nhưng là bước mở đầu cho con đường dân chủ hóa Việt Nam. Chính thể VNCH đã gieo mầm tự do, dân chủ, dân quyền, nhân quyền, cho người Việt Nam. Ngược lại, trong chừng đó năm ở Bắc Việt Nam và cả cho đến bây giờ, người dân dưới chế độ CS chưa bao giờ được nghe nhắc đến “Bản tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền” ngày 10-12-1948 của LHQ, chứ đừng nói gì chuyện thực thi dân quyền và nhân quyền. Sau năm 1975, người miền Bắc dưới chế độ CSVN bỏ nón cối, bỏ dép râu, bỏ đại cán và ăn bận theo người miền Nam. Dân chúng Việt Nam hiện nay đang ước mong bài học dân chủ VNCH trở lại. Còn nhà nước CSVN thì kêu gọi “khúc ruột ngàn dặm” quay về giúp nước. Như thế sao có thể gọi VNCH là “ngụy”? Có thể nói VNCH không “ngụy”, không “nhào”, mà vẫn hiện diện ở Việt Nam.

Người xưa viết: “Nhất tướng công thành vạn cốt khô” (Một viên tướng thành công có hàng vạn người chết.) Ngày nay, nhà thơ Nguyễn Duy diễn đạt một cách khác nhưng không kém phần bi đát: “Xin tạc vào đá nầy lời chúc hòa bình/ Nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến tranh / Phe nào thắng nhân dân đều thất bại…” (Nguyễn Duy, “Đá ơi”, Cambodia 28-8-1989.) Vâng, do CSVN gây chiến, hơn ba triệu người Việt Nam đã nằm xuống và dân tộc Việt Nam đau đớn mất đi một phần đất đai của tổ tiên vào tay Trung Quốc.

KẾT LUẬN

Từ sau thế chiến thứ hai, khi đảng CS cướp được chính quyền ở Việt Nam, Việt Nam nằm giữa hai thế lực tư bản và CS, và bị các cường quốc áp đặt những quyết định theo quyền lợi của họ.

Khi can thiệp vào Việt Nam nhằm phòng thủ và ngăn chận CS từ xa, Hoa Kỳ chủ trương chiến tranh giới hạn, không tấn công Bắc Việt để chận đứng nguồn tiếp liệu của khủng bố và du kích phát xuất từ Bắc Việt Nam. Vì vậy, CS ở miền Nam Việt Nam được Bắc Việt Nam với sự tiếp tay của CSQT, nuôi dưỡng, tiếp liệu, đã hoạt động liên tục, không nghỉ ngơi, thắng thua gì cũng cứ tiếp tục chiến đấu theo lệnh của đảng Lao Động, hết keo nầy bày keo khác trên toàn quốc. Hoa Kỳ chẳng những không thành công trong việc giúp VNCH chiến thắng CS ở miền Nam Việt Nam, mà càng ngày Hoa Kỳ càng sa lầy trong chiến tranh Việt Nam. Hoa Kỳ liền thay đổi sách lược, bắt tay với Trung Quốc, rút quân khỏi Việt Nam, bỏ rơi VNCH, theo một đường lối khác trong khi tiếp tục chống khối CS trong chiến tranh lạnh.

Sự chuyển hướng của Hoa Kỳ cho thấy rõ, trong chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản và cộng sản, chiến tranh Việt Nam không phải chỉ được quyết định trên chiến trường Việt Nam hay quyết định tại Sài Gòn và Hà Nội, mà chiến tranh Việt Nam còn là kết quả của những trao đổi giữa Washington DC, Moscow, Bắc Kinh, và cả Paris, London … Cần chú ý rằng không riêng gì Việt Nam, mà trên thế giới, ở Trung Đông, ở Trung và Đông Âu, ở Đông Nam Á, ở Phi Châu, ở Nam Mỹ, từ giữa thế kỷ 19, các cường quốc đều lạm quyền đối với các nước nhược tiểu, xem các nước nhược tiểu như những món hàng tồn kho, chia chác với nhau trên lưng các nước nhược tiểu.

Đặt chiến tranh Việt Nam trong toàn cảnh chính trị thế giới, trong chiến tranh lạnh toàn cầu, rõ ràng kết quả cuối cùng chỉ có lợi cho ngoại bang. Hai bên thắng thua đều bị chi phối bởi các thế lực quốc tế. Bên thắng trận chẳng có gì để hãnh diện trong vai trò con cờ của CSQT. Bên thất trận được đánh giá là chế độ tốt hơn bên thắng trận (John McCain tuyên bố tại Sài Gòn năm 2000), vì nền cai trị dựa trên nguyên tắc tự do dân chủ, là lý tưởng bất biến của dân tộc, của nhân loại. Do hoàn cảnh quốc tế, lý tưởng tự do dân chủ ở Việt Nam phải tạm thời lép vế trước bạo lực, nhưng chắn chắn tương lai đất nước sẽ tiến về phía lý tưởng tự do dân chủ, như hoa hướng dương luôn luôn quay về ánh mặt trời.

Trần Gia Phụng


Ngày nào còn cầm quyền, thì CSVN còn bán nước cho giặc Tầu - Mường Giang

Mường Giang

Trước cách mạng 1789 của Pháp, vua Louis XVI lúc nào cũng tự coi mình là đấng con trời, vì nắm hết mọi quyền lực trong nước, lại thêm có sự tiếp tay của ba thế lực đương thời. Ðó là giai cấp tăng lữ, quý tộc và bọn khoa bảng giàu có, nhờ hút máu của đồng bào hèn nghèo bé miệng. Có thể coi xã hội Pháp thời đó như VN sau tháng 5-1975, quyền lực cả nước do đảng ôm trọn gói, cộng với một thiểu số khoa bảng và Việt kiều sa đọa vì quyền lực và lợi nhuận trước mắt mà bán rẻ danh dự của cuộc đời.

Ðó là lý do, khiến cho mọi tầng lớp xã hội Pháp thời đó, mà hầu hết là giới nông dân thợ thuyền, qua luồng gió dân chủ, tự do của Montesquieu, Jean Jacques Rousseau, Voltaire, đã đứng dậy đập tan chế độ bạo tàn, đưa cuộc cách mạng 1789 đến chỗ thành công. Ngày nay người Pháp, không ai quên được cái đêm 14-7, cảnh dân chúng Ba Lê phá vỡ ngục Bastille, kế tiếp là ngày 21-1-1793 đã bắt vua Louis XVI lên đoạn đầu đài xử tử, vì tội rước giặc về, để bảo vệ cái ngai vàng của mình, mà dày xéo quê hương tiên tổ. Do kết quả trên, từ đó về sau thế giới coi cuộc chính biến năm 1789, là một cuộc cách mạng vĩ đại. Nước Pháp sau đó, đã đổi mới toàn diện về chính trị, thay đổi hiến pháp, cải cách xã hội mở đường cho cuộc cách mạng 1848 tại Âu Châu, hoàn thành chủ thuyết Dân Tộc Tự Quyết, cải thiện đời sống của giới lao động, thợ thuyền.

Và không ai ngờ được mấy thế kỷ sau, vào năm 2011-2012 tại vùng đất Bắc Phi và Tế Á Tiểu Á nằm phía bên kia bờ Địa Trung Hải không xa nước Pháp là mấy, người Ả Rập cũng đã thức tỉnh đồng loạt đứng dậy làm cuộc Cách mạng SHIA (Hoa Lài) tại Bắc Phi, Trung Đông để đòi Dân Chủ Tự Do, Nhân Quyền và Chén Cơm Hơi Thở đang bị bọn lãnh chúa, bạo quyền, cưỡng đoạt suốt mấy chục năm qua, sau khi đất nước đã dành lại nền tự chủ từ tay lũ thực dân da trắng.

Cuộc cách mạng được thành công êm thắm tại Tunisia, Ai Cập nhưng hậu quả của nó đã làm chấn động toàn vùng. Tại Lybia, dù Gaddafi rất hung hăng thề quết sạch kẻ thù nhưng cuối cùng cũng phơi xác trong ống cống. Riêng tổng thống Yemen Ali Abdallah Saleh biết sợ, nên đã thoái vị để giữ mạng sống chờ ngày ra tòa án quốc tế đền tội chém giết đồng bào mình. Hiện chỉ lại thằng bờm Hafez al-Assad, tổng thống Syria dựa vào sự che chở của Nga Sô và Trung Cộng, ngày ngày thẳng tay bắn giết đồng bào mình, trước sự bó tay của Liên Hiệp Quốc, trong đó có Mỹ-Pháp-Đức và Anh. Sự hèn nhát vì tưlợi của những nước trên, bắt thang cho Iran, Bắc Hàn, Việt Cộng, Trung Cộng và Nga Sô càng lúc càng thêm hung dữ, đẩy nhân loại vào con đường tận thế trước mắt vì bom đạn và giá nhiên liệu cắt cổ, kể cả tại Hoa Kỳ.

Như vậy, cách mạng qua các thành tựu trên là một sự bỏ cũ thay mới, loại cái xấu cái tồi để thực hiện những điều hay tốt, làm cho an dân lợi nước. Trong dòng lịch sử VN cận đại, tài liệu có nhắc tới cách mạng mùa thu tháng 8-1945 do cộng sản đệ tam quốc tế, qua bình phong Việt Minh thực hiện. Thật sự CSVN đã cướp được chính quyền lúc đó, là vì nó đang bị rơi rải ngoài đường, bởi cả Nhật-Pháp , hai chủ nhân ông của VN đã buông tay. Còn Chính phủ đương thời Trần Trọng Kim thì hữu danh vô thực, vì bị bọn Việt Gian thiên tả nằm vùng lúc đó, hè nhau đoạt quyền dâng cho CSVN.

Tại Miền Nam, ngày 1-11-1963 cũng có cuộc "cách mạng" lật đổ nhà Ngô. Như vậy, nếu từ căn nguyên và ý nghĩa của cách mạng, mà tượng trưng là những năm 1789, 1848, 2011-2012 chúng ta sẽ không bao giờ dám nghĩ rằng, những biến cố chính trị vào năm 1945 hay 1963 tại VN, là một cuộc "cách mạng" như một vài người đã tự gán. Ðúng hơn, đó chỉ là những biến cố quân sự để cướp quyền lực, dành địa vị, thay vua, đổi màu cờ, tên nước. Bởi vì sau đó, mọi sự cũng chẳng có gì mới mẻ, ngoài các nhân vật cũ nhưng mới nhờ có kèm theo chức vụ hay lon lá to hơn khi còn trong chế độ cũ, tạo nên một cuộc đổi đời long trời lở đất, mở đường đưa lối, giúp VC cưỡng chiếm được toàn thể VN vào trưa ngày 30-4-1975, tạo nên những thảm kịch thiên cổ, có một không hai trong dòng sử Việt. Đó mới chính là “Đại Họa Mất Nước, Dân Tộc Bị Hủy Diệt“ về tay giặc Tàu, do đảng CSVN dâng bán cho Trung Cộng một cách công khai không cần che dấu, mà ngày nay bất cứ ai cũng biết. Bởi vậy mỗi năm cứ vào ngày 30-4-1975, người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản sống lưu vong khắp mọi nơi trên thế giới, bất kể là Dân hay Quân Cán Chính Miền Nam, đều trang trọng cử hành Ngày ĐẠI TANG CHUNG của DÂN TỘC VIỆT. Tóm lại chừng nào non nước Việt còn sống dưới ách gông cùm của VC và TC, ngày đó Người Việt vẫn còn Tưởng Niệm Ngày VN mất vào tay ngoại bang 30-4-1975.

Tại miền Nam VN, từ 1960-1975, cộng sản Bắc Việt không ngớt tấn công gây chiến khắp mọi miền đất nước, làm cho đồng bào lầm than, người lính trận ngày đêm thương vong, chết tủi. Sau khi chiến tranh chấm dứt, máu xương của Quân, Cán, Chính VNCH và gia đình, vẫn tiếp tục đổ thành núi xương sông máu, đánh động lương tâm của nhân loại, khiến cho Chính Phủ Hoa Kỳ và các nước Tự Do phải chấp nhận Cứu Giúp Thuyền Nhân Tỵ Nạn CSVN (đường bộ và đường biển), kéo dài tới năm 1989 thì chấm dứt.

Trong tình trạng nguy ngập “Chỉ Mành Treo Chuông“ của Đất Nước và Dân Tộc Việt hiện nay, càng lúc ngụy quyền Hà Nội càng tìm đủ mọi cách “đồng hóa công khai“ Dân Tộc Việt thành một thiểu số thuộc Hán Tộc, qua vụ Cờ Tàu Đỏ 6 Sao và mới nhất là buộc trẻ em Việt phải học tiếng Tàu, để sớm quên gốc nguồn Tiên Tổ Hồng Lạc. Để chống lại chủ nghĩa bán nước cho ngoại bang của CSVN, người Việt trong nước đã đứng dậy Thắp Sáng Lại Lich Sử Chống Tàu, qua các cuộc biểu tình phản kháng của những người tuổi trẻ, trong đó có Ca Nhạc Sĩ Việt Khang đã dùng chính máu của mình để viết lên hai nhạc phẩm bất hủ “VN Tôi Đâu và Anh Là Ai“, nhằm biểu lộ tinh thần yêu nước chống ngoại xâm.

Mấy nghìn năm Lịch Sử VN dài vằng vặt, từ buổi đầu dựng nước Văn Lang cho tới những niên lịch cận đại 1974, 1979-1984, 1988 đều là lịch sử chống giặc Tàu, giành lại lãnh thổ và bảo vệ nềnđộc lập tự chủ cho đất nước. Truyền thống trên qua bao đời đã trở nên Tư Tưởng yêu nước thương nòi, thấm sâu vào da thịt tim óc của người Việt. Nó sẽ không bao giờ dời đổi, dù cuộc thế có thịnh suy thì tinh thần yêu nước trên vẫn là một thứ Vũ Khí mà các Thế Hệ Việt đời đời trân quý gìn giữ, để chống ngoại xâm, mà kẻ thù truyền kiếp của Dân Tộc Việt chính là giặc Tàu, ngày nay đang ngự trị khắp đất Việt, từ bờ ra tới biểnđảo do chính Việt cộng cõng về.
    “ ..Cám ơn Anh:
    Những Trai Hùng Nước Việt Hai mươi năm quyết chết với sơn hà
    Không thẹn lòng giữa lúc gặp phong ba
    Tiết nghĩa sáng hơn trăng soi vằng vặt
    Trang lịch sử dẫu nay còn khuất tất
    Nhưng làm sao xóa được bước quân đi ?
    Thành quách xưa như vẳng tiếng thầm thì
    Hồn tử sĩ đêm từng đêm uất hận
    Cũng vì ai mà máu xương chất ngất ?
    Ai đã gieo thù oán khắp quê hương ?
    Làm tuổi trẻ phải bỏ lớp xa trường
    Cùng bom đạn tang thương đời lính chiến
    Chỉ tội nghiệp thân trai trong quốc biến
    Nắm xương tàn đành nát với cỏ cây
    Ðời lính trận chịu thua thiệt đọa đầy
    Rốt cục đã úa vàng trong nấm mộ
    Quyết giữ nước nên đi vào tử lộ
    Làm súng gươm phải vứt bỏ bên đường
    Trên quê hương mà như mất quê hương
    Tình đồng đội theo sóng đời tan tác
    Nhưng các Anh vốn con Hồng cháu Lạc
    Còn trên vai dấu ‘Sát Thát, Diệt Tàu‘
    Những chiến công hiển hách rạng trời cao
    Cũng đủ để làm vui người chiến sĩ
    Thương các Anh mang nỗi sầu thế kỷ
    Núi nghìn năm quên tuổi đứng cô đơn
    Ðoàn quân xưa hào khí ngút mây vờn
    Trời quái ác làm rã tan tận tuyệt
    Thương cho bạn lết lê cùng Phan Thiết
    Nay phận nghèo, què chột thảm thê ôi
    Xưa vì ai phải bỏ hết một đời
    Nay dâu biển mấy ai còn nhắc nhớ ?
    Thương đồng đội tuổi hoa niên rạng rỡ
    Cũng vì ai mà suốt kiếp hận đau
    Người mất tích thì hồn phách nơi nào

    Kẻ thương tật sống đầu đường xó chợ
    Tháng tư đen tháng tư buồn còn đó
    Giặc Hồ về mở tù ngục pháp trường
    Gây kinh hoàng, gieo tang tóc thê lương
    Khiến trời đất cũng bôn đào lánh nạn
    Lính ở lại lãnh đòn thù quốc hận
    Cùng dân đen chết rục rã xương khô
    Xưa lót đường để ai dựng cơ đồ
    Nay thân xác bón rừng xanh thêm lá
    Thương biết bao những mảnh đời tơi tả
    Tuổi trăng mơ làm góa phụ nữa đời
    Rượu tiễn chồng bên án vẫn chưa vơi
    Giờ chỉ có bóng trăng treo ngoài ngõ
    Trang sử Việt nay đà ghi tỏ-rõ
    Sau ba mươi bảy năm hận miên trường
    Các Anh Là Niềm Hãnh Diện Quê Hương
    Luôn rạng rỡ với Cờ Vàng trân quý

    Cám ơn Anh:
    Những Trai Hùng Thế Kỷ
    Khắc trong tim của triệu triệu đồng bào
    Lính cùng dân nay sát cánh bên nhau
    Tình đoàn kết là tình yêu thiên cổ
    Nước Văn Lang mấy ngàn năm còn đó
    Những trai hùng đất Việt vẫn còn đây
    Giờ quật khởi rồi sẽ có một ngày
    Ðuổi Tàu đỏ dành lại non nước Việt..!“
    (Cám ơn Anh – Thơ MG)
Cũng nhờ có sự đoàn kết của 15 Bộ đầu tiên thuộc nước Văn Lang với vật cổ là Trống Đồng và Tình Nghĩa Dòng Giống Lạc Long Quân & Âu Cơ, nên hơn 10 thế kỷ bị giặc Tàu đô hộ với trăm phương ngàn kế đồng hóa cho được dân tộc Lạc Việt, chẳng những tổ tiên ta đã không bị tiêu diệt mà còn phục hưng và cường thịnh nhanh chóng, sau khi được Ngô Vương Quyền dành lại nền độc lập tự chủ vào năm 939 sau Tây Lịch.

Năm 1077 nhà Tống sai Quách Quỳ dẫn hơn 30 vạn quân sang xâm lược nước ta nhưng đã bị Lý Thường Kiệt chặn đứng tại phòng tuyến sông Như Nguyệt (Sông Cầu). Cũng tại đây Ông đã đọc một bài thơ của mình sáng tác với đại ý “sông núi nước Nam vua Nam ở, rành rành định phận tại sách trời, cớ sao lũ giặc sang xâm phạm, chúng bây sẽ bị đánh tơi bời.”. Sau khi nghe được bài thơ trên, tướng sĩ Đại Việt vô cùng phấn khởi. Cuối cùng đánhđuổi được giặc Tống chạy về Tàu. Đến nay hơn 10 thế kỷ đã trôi qua nhưng âm ba của tiếng thơ như vẫn còn ngân vang trong hồn Việt Sử vì nó chẳng khác nào Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên của nước ta, sau khi thoát được ách đô hộ của giặc Tàu.

Năm 1428, sau 10 năm gian khổ, cuối cùng Bình Định Vương Lê Lợi đã đuổi được giặc Minh ra khỏi Đại Việt, thu hồiđược nền tự chủ cho dân tộc. Dịp này, Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô Đại Cáo“ như một Bản Tuyên Ngôn Độc Lập lần thứ hai, để công bố với toàn dân cả nước biết về chiến thắng chống xâm lăng, từ nay đất nước lại độc lập hòa bình, chấm dứt sự tàn ác dã man của giặc Minh trong 20 năm chúng tạm chiếm được Đại Việt.
    “..nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ dối trời, lừa dân đủ trăm ngàn kế người bị ép xuống biển, dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng kẻ bị đem vào núi, đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.”
Tóm lại người Việt bao đời, lúc nào cũng hăm nóng tinh thần yêu nước, cứu nước. Câu ca dao “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh“ đủ nói lên tinh thần bất khuất của người Việt, không bao giờ chịu ngồi yên nhìn giặc cướp tàn phá quê hương đất nước của cha ông mình đã đổ máu xương xây đắp và gìn giữ. CSVN ngày nay ngoài tội bán nước cho giặc Tàu, còn là một đảng cướp, đã bị toàn dân cả nước ghét bỏ và khinh khi, nên trước sau hay sớm muộn gì cũng bị tiêu diệt như những bạo quyền ác đảng tại Bắc Phi và Trung Đông.

Nhờ tra cứu lịch sử, ngày nay chúng ta mới nhận thấy ‘chính thể nào cũng có cái hay riêng của nó‘ . Trước ngày 30-4-1975, khi chiến xa T54 của Liên Xô được Bắc Việt đưa vào Sai Gòn, thì hầu hết các trí thức Miền Nam quen sống trong sự tự do tuyệt đối của Tây Phương, mà họ có dịp hưởng trong thời gian du học hay đọc qua sách báo, đã khinh bỉ hai nền Cộng Hòa bản địa và gọi đó là chế độ cai đội, đánh thuê cho ‘Tây-Mỹ’ .

Trưa 30-4-1975, khi Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh cho QLVNCH đang chiến đấu với giặc Hồ buông súng, thì phần lớn số trí thức trên, chính họ đã ôm chân Mỹ để chạy trước giữ mạng và loại này, ngày nay điểm mặt vẫn còn không ít ở khắp các nẽo đường hải ngoại, cũng chứng nào tật đó, chỉ trích, đâm thọt và làm thái thương hoàng trong các hội đoàn, tổ chức của ngươì Việt Quốc Gia đang tỵ nạn Cộng Sản.

Nhưng cái điều đáng nói là lúc đó, nếu cây cột đèn có chân thì nó cũng nhổ giò để chạy theo Mỹ để giữ mạng, vì đâu có ai ngu khờ giỡn mặt với lũ hung thần dã man quỷ đỏ, trừ những người lính trận VNCH. Vì vậy, cả Sài Gòn trong ngày được cán bộ gọi là ‘giải phóng‘ rất vắng vẽ trầm lặng, bởi hầu hết các lãnh tụ đã bỏ chạy, đâu còn ai hô hào xuống đường, tuyệt thực, ký giả đi ăn mày để chống chính quyền Miền Nam VN tham nhũng, bầu cử gian lận, tham quyền cố vị như các bài báo của ký giả ngoại quốc có mặt lúc đó đã tường thuật, sau khi họ bị CSVN trục xuất ra khỏi nước.

Ðiều này cho thấy đồng bào Nam VN nói riêng và cả nước đã nhận ra sự lầm lẫn của mình, nhất là sau 37 năm được sống thực với Cộng Sản trong cảnh thiên đường Xã Nghĩa, khi họ đã tưởng ‘giết được TT Ngô Ðình Diệm ngày 2-11-1963‘ hay ‘làm cho VNCH sụp đổ vào trưa ngày 30-4-1975‘ là thân phận của mình đã được giải phóng ? như các lãnh tụ CS từ Hồ Chí Minh trở xuống đã hứa hẹn. Năm 1976, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam bị giải thể, cũng từ đó cả nước, chứ không riêng gì Quân, Công, Cán, Cảnh VNCH bị lùa vào các tầng địa ngục trần gian, để sáng mắt nhận rõ rằng ‘đừng nghe những gì Cộng Sản nói, mà hãy nhìn vào chính thân phận của chúng ta, đang quằn quại trong chế độ CS, mà nhận định và rút tỉa kinh nghiệm, để mà sống sao cho đáng kiếp người.

Dưới ách thống trị của CS ngày nay, chắc đã phần nào giải tỏa được những ấm ức của đồng bào Miên Nam, về lý do là tại sao trong một quốc gia mệnh danh là Tự Do Dân Chủ như VNCH, mà qua hai nên Cộng Hòa, cả hai vị Tổng Thống Diệm và Thiệu đều cố ý hạn chế tự do của người dân lúc đó ?. Bởi vì bất cứ một quốc gia nào, ngoại trừ các nước CS độc tài đảng trị, thì nhiệm vụ đầu tiên của chính quyền là phải thiết lập trật tự, hạn chế bớt tự do tuyệt đối của cá nhận, bằng cách tập trung quyền hành có lợi cho đồng bào và đất nước về trung ương. Ðó là lý do, từ khi lập quốc cho tới ngày nay, người dân Hoa Kỳ đã giao hết quyền hành cho chính phủ Liên Bang, hay như Thù Tướng Richelieu (Pháp) và Bismark (Phổ) cũng đã thực hiện vào đầu thế kỷ XX.

Không phải đợi tới ngày nay, người ta mới đặt câu hỏi về sự cần thiết của ‘cách mạng‘ mà chính lịch sử cũng từng hoài nghi về sự cần thiết đó, nhất là đối với VN qua ba cuộc "cách mạng" 1945, 1963 và 1975 ? hoàn toàn không mang lại điều gì mới mẻ và lợi ích cho đồng bào, trái lại chỉ nuôi béo cò một thiểu số có liên hệ mà thôi. Ðó cũng là lý do tại sao ngày nay cả nước VN từ trong ra tới hải ngoại, hầu như mọi người đều có chung một lý tưởng ‘quyết tâm giải phóng VN‘ ra khỏi ách thống trị của ngoại bang, chẳng những là xích xiềng của đế quốc đỏ, mà còn có bọn thực dân mới qua lớp son hào nhoáng ‘hợp tác làm ăn buôn bán‘ nhưng thực chất là vơ vét tài nguyên của đất nước và bóc lột đồng bào chúng ta, đến tận xương tủy, tới độ người nghèo không ai có thể nghèo hơn, phải bán con cháu ra nước ngoài để lao tác và làm điếm khắp năm châu bốn bể, có ai mà không khóc không thương không căm thù bọn đầu gấu đang ngự trị tại Bắc Bộ Phủ ?

Tóm lại hơn 80 năm qua, bao nhiêu thế hệ VN đã hy sinh vì nước, khiến cho máu chảy thành sông, xương chất cao như núi nhưng rốt cục dất nước và thân phận của người Việt vẫn chưa được giái phóng. Tất cả đều còn nguyên vẹn, cho dù CSVN đã giành được chính quyền trọn nước nhưng đã không mang lại sự thống nhất trong lòng người và đời sống ấm no hạnh phúc cho hơn 80 triệu người Việt. Tất cả cũng chỉ vì đảng Cộng Sản và chủ thuyết Mác-Lê-Mao-Hồ, chỉ có phá hoại mà không xây dựng được xã hội, tham nhũng mọi tài nguyên của đất nước vào trong tay một thiểu số cầm quyền, chà đạp lên phẩm giá của con người, làm cho VN ngày nay vẫn còn lạc hậu hằng bao thế kỷ so với các nước trong vùng, dù đảng có tuyên truyền nhưng sự thật đâu làm sao giữ kín được.

Tuy ngày nay phương tiện truyền thông báo chí của nhân loại đã đạt tới mức siêu phàm không thời nào sánh được nhưng thế giới bên ngoài, kể cả Người Việt hải ngoại, liệu có được bao nhiêu người, biết được một cách chính xác về cuộc sống lầm than đen đủi , tủi cực và khổ đau của tuyệt đại đa số đồng bào nghèo cả nước, cho dù VN ngày nay đã đổi mới, không còn sống cô lập và bít kín với thế giới bên ngoài, sau bức màn sắt như những năm tháng trước thập niên 90 của thế kỷ XX.

Nói chung VN ngày nay không còn có cảnh hàng rào kẽm gai, dao găm mã tấu nhưng thân phận nô lệ vẫn không thay đổi như 70 năm về trước. Bởi vì cuộc sống của người Việt trong nước, dưới ách nô lệ mới của đế quốc đỏ, còn đắng cay ngậm ngùi gấp ngàn lần, nếu so với thời bị giặc Tàu, Tây và Nhật đô hộ. Người dân Việt ngày nay, ngoại trừ một thiểu số liên hệ với đảng và có thân nhân Việt Kiều, tất cả còn lại đã chết khựng qua thủ đoạn cai trị độc ác siêu phong kiến của những khuôn mặt già nua vô hồn, vô tình, vô nghĩa của đảng. Nói chung dưới ách thống trị của đảng CS ngày nay, dù là Hồ Chí Minh, Lê Duẩn hay Nguyễn Tấn Dũng... tất cả cũng chỉ là một, tàn ác và tinh vi gấp một triệu lần sự đô hộ của Pháp và Nhật trước đó.

Lịch sử VN suốt mấy ngàn năm, trang nào cũng đẵm đầy máu lệ, chứ không phải chỉ có giai đoạn đau thướng mất nuớc, dưới thời các vị TT Thiệu và Hương. Nay cũng đã hơn ba mươi bảy năm (1975-2012), mà đồng bào cả nước vẫn phải sống trong hàng rào kẽm gai, trước súng đạn mã tấu dao găm, trong màn lưới vô hình rình rập của công an, bộ đội, cán bộ và ngay chính thân nhân mình trong thân phận của kiếp đời nô lệ, phó thường dân, ngay chính trên quê hưng mình, mới là điều thương tâm thống hận.

Đó cũng là ý nghĩa thiêng liêng mà hàng triệu người Việt Quốc Gia tỵ nạn Cộng sản đang sống lưu vong tại hải ngoại, hằng năm không bao giờ quên được ngày 30-4-1975, một ngày Tang Chung của Dân Tộc, đã bị Đệ Tam Cộng sản Quốc Tế cướp nước và tước đoạt quyền sống của Toàn Dân Việt.

Mường Giang


Giành lại Hoàng Sa-Trường sa, không phải bằng cách biểu tình! - Hàn Giang Trần Lệ Tuyền


Hãy nhìn gương người dân Tây Tạng
Xuống đường, Tự thiêu, Tầu cộng có trả lại đất nước của họ không?!





Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

Lịch sử đã chứng minh, và tiền nhân của chúng ta đã truyền đạt cho hậu thế với những bài học máu xương qua cả ngàn năm Bắc thuộc; lũ giặc Tầu không bao giờ chịu từ bỏ tham vọng làm bá chủ thiên hạ; mà đặc biệt là đối với đất nước Việt Nam. Chúng ta đừng bao giờ quên, mà phải ghi nhớ, ngày xưa, khi dân tộc ta đã từng đau thương qua cả ngàn năm bị giặc Tầu đô hộ, và cũng từng có nhiều lần, qua các triều đại, triều đình của nước Nam vì không muốn đổ máu, nên đã từng phải “ngoại giao” bằng cách từ việc cử sứ thần sang Tầu để “thương thuyết” cho đến phải “triều cống” đủ mọi thứ ngọc, ngà, châu báu… kể cả việc “cống người”; nhưng bọn giặc Tầu vẫn không không bao giờ chịu từ bỏ tham vọng thôn tính nước ta; và lúc nào chúng cũng đều muốn biến nước Việt Nam trở thành một “tiểu quận” của nước Tầu.

Chính vì những lẽ ấy, nên từ thuở xa xưa bọn giặc Tầu đã áp dụng chính sách ngu dân, và Hán hóa người dân Việt bằng vô số quỷ kế, như từ “văn hóa” Khổng Tử, đến các hủ tục mê tín dị đoan như những hủ tục đốt vàng mã cúng ma, do tên Thái Lĩnh và Vương Dũ đời Hán Hoa nguyên niên (105) bày đặt ra; nhất là ngày “Tết Đoan Ngọ” mà đa số người dân Việt đã không biết gì về cái ngày mùng 5 tháng 5 cả; vì ngày này, theo nhiều truyền thuyết khác nhau, nhưng chắc chắn bắt nguồn từ bọn giặc Tầu để thờ cúng Khuất Nguyên.

Ngoài những thứ được gọi là “văn minh” ấy, người ta còn thấy những tên tướng Tầu như: Hán Thọ Đình Hầu, Quan Thánh Đế Quân, tức Quan Văn Trường đã được thờ cúng ngay ở trong chùa Phật ?!

Những hủ tục, mê tín dị đoan này, đáng lý ra, người Việt Nam phải ý thức được, và phải bài trừ tận gốc rễ; nhưng tiếc rằng cho đến hiện thời, ngay cả những người đang sống tại hải ngoại, mà hàng năm vẫn “cúng Tết Đoan ngọ” mùng 5 tháng 5, và vẫn mua vàng mã, Mỹ kim, Âu kim giả do bọn giặc Tầu “sản xuất” rồi đem sang các nước có người Việt định cư để bán. Tệ hơn nữa, là có nhiều người từng hô hào “tẩy chay không dùng hàng Tầu” nhưng trong gia đình vẫn cứ giữ những những hủ tục này. Ngoài ra, ngay tại nhiều chùa thờ Phật, nhưng lại cũng thờ cúng Khuất Nguyên vào ngày “Tết Đoan Ngọ” mùng 5 tháng 5!

Chúng ta không phủ nhận tất cả những lời của Khổng Tử, nhưng không thể đem tất cả những lời của Khổng Tử để áp dụng vào cuộc sống như là “khuôn vàng thước ngọc”; hay là “ý chí” chẳng hạn, vì Khổng Tử nói: “Trung quân ái quốc”. Vậy thì, nếu kẻ nào muốn “noi gương” Khổng Tử, thì cứ “trung” với “quân” tức “vua” Trương Tấn Sang, hay có thể là “vua” Nguyễn Tấn Dũng, vì kẻo không, thì sẽ phạm tội “khi quân” nếu “vua” Sang, vua Dũng xử chết, mà không chịu chết thì “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”; hay có lẽ, người ta chỉ muốn “trung” với “quân”… Tầu, tức “vua” Hồ Cẩm Đào, vì đã tự nhận mình là “con dân” của “Khổng Tử-thiên triều” ?

Nhưng có một điều hơi kỳ, là khi cứ xem Khổng Tử như là “phụ mẫu chi dân”, và luôn luôn muốn viết bằng chữ bùa, chê chữ quốc ngữ, nhưng lại cứ dùng ngày giờ Dương lịch, vì Dương (Tây) lịch, được tính và là ngày đánh dấu của sự kiện Thiên Chúa Giáng sinh!

Người viết muốn nói, vì giặc Tầu là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam. Chính vì thế, nếu là người Việt Nam yêu nước chân chính, thì không bao giờ được khiếp nhược, không van xin, không có “xã giao” gì hết, mà phải quyết liệt đánh đuổi bọn chúng ra khỏi bờ cõi Việt Nam, như tiền nhân của chúng ta đã làm.

Nên nhớ, vào một thuở vàng son, vua tôi nước Việt, dù chỉ với gậy tầm vông, cung kiếm, nhưng với mưu lược và lòng yêu nước nhiệt thành, quyết không đội chung trời với giặc, nên đã đem xương trắng, máu đào, để khắc vào những trang sử hào hùng với những chiến công lừng lẫy, đã khiến cho lũ giặc Tầu phải khiếp vía, kinh hồn. Còn ngày nay, vào thế kỷ 21, cục diện thế giới đã thay đổi; bởi vậy, bọn giặc Tầu cho dù có hung hãn đến đâu, thì chúng cũng không bao giờ biến đất nước của chúng ta trở thành một phần lãnh thổ của chúng như Tân Cương, như Tây Tạng cho được; vì nếu bọn giặc Tầu dám đánh chiếm nước ta, thì chắc chắn các cường quốc trên thế giới sẽ không bao giờ chịu ngồi yên mà nhìn bọn chúng thực hiện giấc mộng bá chủ thiên hạ.

Tuy nhiên, muốn đánh đuổi giặc Tầu ra khỏi đất nước, và muốn giành lại Hoàng Sa-Trường Sa, thì không phải chỉ “biểu tình” dù “tại gia-tại chùa” hay kể cả ngoài đường, thì bọn giặc Tầu chúng sợ, mà trả hết biển-đảo lại cho chúng ta. Những kẻ đã và đang mộng du, hoang tưởng, vọng Khổng Tử, thì nên mở mắt, mở trí ra, để thấy rằng, bao nhiêu năm qua, người dân Tân Cương đã từng biểu tình, và người dân Tây Tạng đã chẳng những biểu tình, mà họ còn tự đốt thân mình thành những “cây đuốc sống” thật sự, chứ không hề có chuyện do người khác đốt; nhưng bọn giặc Tầu chúng có trả lại nửa tấc đất nào hay không ?

Vậy thì, trước khi phải đòi, phải giành lại Hoàng Sa-Trường sa, thì điều cần phải làm trước mắt, là phải cùng nhau đuổi hết lũ giặc Tầu trong cái Dinh toàn quyền, là cái “Học viện Khổng Tử”, cùng với những nơi nào có mặt bọn giặc Tầu đã và đang chiếm cứ như: Vịnh Cam Ranh, Hải Phòng, Bình Thuân, Bình Dương, Tây Nguyên… đó là những tên giặc Tầu đang ở ngay trước mắt, ngay trên lãnh thổ của nước Việt Nam. Còn Hoàng Sa-Trường Sa, thì phải đòi, phải giành lại bằng cách vùi chôn hết; vùi chôn vĩnh viễn bọn chúng xuống tận đáy nước của “Bạch Đằng Giang”, như Đức Thánh Trần Hưng Đạo đã làm. Đảng Cộng sản Hà Nội không dám làm, không làm, thì toàn dân Việt sẽ cùng nhau nhất tề đứng lên, kề vai sát cánh, để bằng mọi giá, kể cả giá máu, để giành lại quyền tự quyết của dân tộc, và thu hồi Hoàng Sa-Trường Sa trở về với Tổ Quốc Việt Nam.

Trang sử xưa, Đức Thánh Trần Hưng Đạo đã từng ba lần chiến thắng cả Nguyên-Mông. Ngày nay, hậu duệ của Người, là toàn dân Việt sẽ phải sẵn sàng nguyện đem xương máu của mình để bảo vệ đất nước, và giành lại từng tấc đất đã bị rơi vào tay của bọn giặc Tầu, là kẻ thù truyền kiếp của Dân Tộc.

Nước Tầu chắc chắn sẽ phải trở về với thời kỳ lục quốc và người Việt Nam sẽ viết lên một trang sử mới huy hoàng, ngời sáng, bừng lên, vút cao giữa Trời Đông Á.

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền


NỖ LỰC ĐẤU-TRANH CHỐNG CSVN - Thế Huy Paris

    NỖ LỰC ĐẤU-TRANH CHỐNG CSVN: 37 NĂM NHÌN LẠI
Thế Huy Paris

Xem lại hình ảnh cuộc biểu tình do Tổng-Hội sinh-viên VN tổ-chức tại Paris ba ngày trước khi việt cộng (VC) tràn vào thủ-đô Sàigòn ngày 30-4-75, với nhiều ngàn người trẻ VN chít khăn tang tuần-hành tại Thủ-đô Pháp tôi đã không cầm được nước mắt, khi hồi tưởng lại những ngày ấy, tại miền Nam hàng ngàn người vừa nằm xuống vào những giờ phút sau cùng của cuộc-chiến. Hàng ngàn người lính thuộc nhiều binh-chủng khác nhau đã tự-sát. Họ không phải là những sĩ-quan cao-cấp nên không được ai biết tên. Họ đã tự-sát tập-thể bằng lựu-đạn từng nhóm nhỏ năm bẩy người tại Sàigòn, Thủ-Đức, Biên-Hòa hoặc tại tư-gia như một số người mà chúng ta đã đề cập đến sau ngày tang chung của đất nước. Cũng vào thời điểm ấy hàng chục triệu người trên toàn lãnh thổ miền Nam, trong đó có tôi, hoảng loạn không biết đời sống và tính-mạng của mình sẽ đi về đâu.

Dù làn sóng người Việt tỵ-nạn mới bắt đầu, dù nước Pháp không phải là nơi được nhiều người Việt tỵ nạn chọn làm nơi cư-trú và dù người Việt tại Paris và vùng phụ-cận chưa đông, nhưng những cuộc biểu-tình tưởng niệm ngày mất nước những năm 1976 ,77, 78 với hàng chục ngàn người tham dự làm ngạc nhiên người dân bản-xứ khi người ta theo dõi cuộc diễn-hành từ công-trường Trocadéro ở hữu- ngạn sông Seine tiến về Tòa Đại-Sứ VC tại số 62 đường Boileau thuộc quận 16, Paris với một rừng cờ vàng ba sọc đỏ và sự góp mặt của đủ mọi thành phần người Việt Quốc-gia tại Pháp. Những năm sau đó, làn sóng người Việt tỵ nạn lên cao, nhưng các cuộc biểu tình chống cộng bắt đầu đi xuống và càng ngày càng vắng vẻ hơn bởi khá nhiều lý-do, trong đó nguyên-nhân chính là:

1. VC gửi những cán bộ chính trị vào trong khối người tỵ-nạn vượt biên để nằm vùng trong hàng ngũ QG nhằm nắm vững tình hình, tâm-lý và các hoạt-động của khối người Việt tại hải ngoại ngày càng đông, hầu phác họa các kế hoạch gài bẫy và làm ung thối các hoạt động của các tổ chức chống Cộng. Đây là bước khởi đầu và quan trọng nhất trong công-tác tình báo. Vào thời điểm ấy, cộng đồng người Việt hải ngoại nói chung, còn thiếu tổ chức và rất ô hợp và là một môi-trường rất dễ dàng cho VC triển khai công tác. Trong suốt chiều dài cuả cuộc chiến Quốc-Cộng tại VN, chính-phủ VNCH với tất cả các hệ thống an-ninh, tình báo và phản gián chằng chịt mà còn bị gián-điệp địch xâm nhập từ trên xuống dưới thì với tập thể người Việt hải-ngoại xô bồ và không kiểm soát được vào những năm đầu tỵ nạn, dĩ nhiên đối với chúng ta tình thế lại càng khó khăn và phức tạp hơn. Sau khi mất nước, người ta phanh- phui ra: vợ ông thủ-lãnh đảng này là CS nằm vùng, một số đảng-viên cao cấp của đảng kia là VC hoặc đảng trưởng của đảng nọ thả tên trùm gián-điệp địch vì bị mua chuộc hoặc thông-đồng với CS!

Các tổ chức đấu tranh và nhiều đảng phái kỳ cựu, sau khi ra khỏi nước vì muốn mở rộng thế lực và khoa trương thanh-thế đã khuyến dụ và kết nạp bất cứ ai, bất kể thuộc thành phần và quá khứ nào vào đảng. Đó là một sự thực không ai có thể chối cãi được và đó cũng là việc mở rộng cửa rước những tên gián-điệp CS vào tổ chức của mình.

2. Một số tổ chức đấu tranh người Việt tại Pháp và tại Mỹ cũng như tại một vài nước khác có đông người Việt nghĩ đến việc khởi xướng một cuộc kháng-chiến võ trang đưa người từ hải ngoại về trong nước hoặc móc nối với các khuynh-hướng CS bất-mãn bị CSVN hất ra khỏi hệ thống quyền lực tức là nhóm kháng chiến Nam-bộ nằm trong Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (MTDTGPMN) hầu dựa vào lực-lượng sẵn có của thành phần này để lật ngược thế cờ. Cả hai chủ-tương ấy đều chứng tỏ rằng những người cầm đầu những tổ chức này không hiểu gì về môi trường chính trị của người Mỹ và ngây thơ trong việc đánh giá hàng ngũ cán-bộ CSVN.

Chính-phủ và quốc-hội Mỹ mà đằng sau là những nhóm tài phiệt Mỹ, là những người thật sự hoạch định đường lối và chính sách Mỹ trên thế giới, từ năm 1970 đã tìm cách rút quân ra khỏi Miền Nam, phủi tay, quay lưng và bán đứng VNCH cho CS Thế Giới vì lợi ích lâu dài của họ. Trong bối cảnh ấy, một cuộc kháng chiến võ trang, dù có mang được người vào trong nước thì lực lượng đó được bao nhiêu, cuộc chiến chênh lệch đó sẽ kéo dài mấy chục năm, vấn đề tiếp-liệu và đạn dược trong thời gian mấy chục năm đó tìm kiếm ở đâu? Ngân sách do sự đóng góp của người Việt hải ngoại hay do sự yểm trợ của thế lực nào trên thế giới? Quốc gia nào trên thế giới lại ngây thơ tham-dự vào một cuộc chiến phiêu-lưu, kéo dài mà không thấy lợi-ích gì trước mắt. Người ta đã quên một điều rất căn-bản là tại các nước dân-chủ Tây Âu, những người lãnh-đạo như Tổng Thống, Thủ-Tướng thay đổi theo từng nhiệm kỳ qua sự tín nhiệm của người dân và chính sách của họ cũng vì thế mà thay đổi theo. Hôm nay họ yểm trợ mình, nhưng năm sau họ thay đổi chính-phủ do một đảng khác cầm quyền thì đường lối của họ cũng đương-nhiên đổi khác. Những người khởi xướng nỗ lực này hoặc là ngủ mơ hoặc chỉ nhắm mục đích lợi dụng sự bồng-bột và tinh-thần hăng-say của quần chúng trong việc đóng góp để thủ lợi riêng, phản- bội và giết chết niềm tin của những người còn nặng lòng với Đất Nước. Sự kiện này đã xảy ra và là một vết thương đang rỉ máu với những biến chứng ngày càng trầm-trọng hơn, làm ung thối nỗ lực đấu tranh cho một nước VN thoát khỏi gông cùm CS.

Khuynh hướng muốn dựa vào nhóm CS bị mất quyền trong MTDTGPMN để chuyển biến tình thế còn đáng trách hơn bởi họ không có một chút kiến thức chính trị nào, dù ở mức tối thiểu, để hiểu rằng bất cứ một liên-minh chính-trị nào cũng phải đặt trên tương-quan thế, lực và thủ-đoạn chính-trị. Cả ba lãnh-vực đó, chúng ta đều không có gì hoặc có, nhưng không đáng kể. Một liên-minh với tình trạng đó, nếu thành hình thì chỉ là cái bẫy của địch hoặc chỉ là con bài cho người ta khai-thác.

Trong cuộc đấu tranh chính-trị, nhiệt tâm và sự dấn-thân rất quan trọng, nhưng chưa đủ vì còn các yếu-tố căn-bản là ước tính tình thế và dự trù khả năng ứng phó trước những đột biến có thể sẽ xảy ra, nhất là đó lại là một liên-minh võ trang hoạt động trong lòng địch. Quan-niệm đơn giản rằng “Kẻ thù của kẻ thù ta là bạn ta” là cách suy-nghĩ ấu-trĩ, nông-cạn và nguy-hiểm, nhưng quan-điểm đó đã có người chủ xướng và một số người đã chết một cách bẽ bàng và vô ích.

3. VC mở cửa cho người Việt hải ngoại về thăm nhà

Đây là một con dao hai lưỡi đối với CSVN bởi nếu mạng lưới kiểm soát ở trong nước không kỹ- càng thì những tổ chức chống Cộng hải-ngoại sẽ lợi-dụng làn sóng người về thăm nhà như những người làm công tác giao liên với các tổ chức kháng chiến tại quốc nội. Nhưng trước khi cho người Việt về thăm nhà, VC đã kiện toàn được mạng lưới công an để kiểm soát từ trung ương cho đến hạ tầng cơ sở để bảo đảm rằng sẽ không còn một tổ chức kháng chiến nào ở trong nước và ở hải ngoại không còn một nỗ lực nào có khả năng gây rối. Người về thăm nhà ngày càng đông và trở thành một phong trào lan rộng trong cộng đồng người Việt khắp nơi trên thế giới. Sự việc này là một trong những yếu tố chính tạo nên tình trạng suy thoái trầm trọng trong nỗ lực đấu tranh chống Cộng của người Việt Quốc-gia bởi khi đã về VN rồi thì, hầu hết người ta xa lánh mọi sinh hoạt đấu tranh nếu họ, vì một lý do nào đó, còn dự định về lại VN trong những lần tới.

Sau khi Hoa kỳ bỏ cấm vận đối với CSVN, nhiều người Việt ở Mỹ và các nơi khác gửi rất nhiều tiền về gọi là giúp thân nhân tại VN và con số trung bình hàng năm lên tới hàng chục tỷ mỹ kim. Một số người khác còn gửi tiền về nhờ người nhà đứng tên để mua đất, xây nhà hoặc thành lập các công-ty làm ăn với VC mà thương-vụ lên tới nhiều chục triệu đô la. Một số người làm ăn hoặc làm kinh-tài cho VC này vẫn đóng vai trò nhân sĩ hoặc đứng đầu một số sinh hoạt đấu tranh tại hải-ngoại. Có lẽ, đã đến lúc cộng-đồng người Việt hải ngoại (CĐNVHN) phải bạch hoá các nhân-vật đứng hàng hai nói trên hầu thanh lọc hàng ngũ để những thành phần này khỏi trà trộn và chui sâu hơn vào hàng-ngũ của chúng ta.

I.- Phong trào “cởi trói văn-học” và những người CS được gọi là phản-tỉnh

1. Văn học cởi trói

Năm 1988, trong vai-trò Tổng-bí-Thư Đảng CSVN, Nguyễn-văn-Linh ra lệnh “cởi trói văn-học” và sau đó là những khuôn mặt được gọi là văn-học phản-kháng ra đời như Dương-thu-Hương, Nguyễn huy-Thiệp, Trần-mạnh-Hảo…với một số tác phẩm nhằm đả kích những gì được gọi là sai trái của các cấp lãnh đạo trung gian, nghĩa là từ cấp tỉnh trở xuống. Một số khá đông nhà văn, nhà báo và một số tổ chức đấu tranh tại hải-ngoại tung-hô những khuôn mặt tiêu biểu cho phong trào văn học phản kháng gồm những người chủ-trương tờ Văn-học, Hợp-Lưu, Người Việt, Trăm Con…và một số nhà văn, nhà báo thuộc nhiều khuynh hướng khác. Văn Bút VN Hải ngoại là tổ chức duy nhất mang tầm vóc quốc-tế còn nằm trong tay người Việt QG bị chia rẽ vì sự kiện trên bởi một số khá đông cho rằng đó là cái bẫy của VC nhằm bào chữa cho chủ-nghĩa CS và đổ lỗi cho cấp lãnh-đạo trung-gian không chấp-hành đúng chủ-trương và đường lối của Đảng. Nội dung cuả các tác phẩm không hề dám đụng chạm tới mấu chốt cuả sự khốn cùng, tha hoá cuả xã hội là do chủ nghiã CS mà những ai đã sống trong đó, dù đần-độn đến mấy, cũng phải nhìn ra. Do đó, chúng tôi cho rằng sự cởi trói ấy không thật vì nó vẫn nằm trong vòng phân giới hạn cuả đảng CSVN. Cuốn “Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương” được nhóm người ca ngợi Dương-thu-Hương, Nguyễn-huy-Thiệp, Trần-mạnh-Hảo…viết và phát hành ở Mỹ. Những năm kế tiếp, Viên-Linh làm Chủ-tịch VBVNHN thì chủ trương “giao-lưu văn hóa “Quốc-Cộng được đề cập tới nhiều hơn và đó là nguyên nhân sâu xa và đích thực cho sự phân hóa kéo dài khá lâu khiến cho VBVNHN mất rất nhiều uy-tín trong Văn Bút Quốc Tế.

Vào thời điểm phong trào này đang là chủ đề của những cuộc tranh cãi của hai phe ủng-hộ và đả phá chủ trương của TBT Đảng CSVN, người viết bài này đã đưa ra một số bài phân-tích để chứng minh rằng đây chỉ là nỗ lực của những người lãnh đạo đảng CSVN nhằm xì hơi một qủa bóng đã quá căng để tránh sự bùng nổ tai hại mà nhà nước không thể kiểm soát được. Cũng trong thời điểm đó, chủ trương Glasnost và Perestroika do Gorbatchev áp dụng tại Liên-Bang-Xô Viết nên CSVN theo Nga, muốn cởi mở và thoát dần ảnh hưởng cuả Tầu Cộng. Sau khi chiếm được Miền Nam, VC ký hiệp ước liên minh quân-sự với Nga, tạo nên tình trạng căng-thẳng với TC, nhất là khi VC mở cuộc tấn công Khmer Đỏ là đàn em cận ruột của TC vì TC muốn dùng Khmer Đỏ để bao vây VC ở phía Nam. Đó là lý-do khiến VC bầy ra trò cởi trói văn-học, đồng thời đạo diễn và cổ động ngầm cho khuynh hướng mà sau này Bùi Tín,Vũ-thư-Hiên,Thẩm-võ-Hoàng (1) là những người trốn ra khỏi VN, tự xưng là những “người CS lương-thiện và không biến chất”. Một số nhân-sĩ và tổ chức đấu tranh người Việt tại Âu- châu ôm chầm lấy những nhân vật này và hãnh-diện là đã quen biết được những người tiếng tăm và danh-giá. Điều đó chứng tỏ rằng nhận định của những người trong hàng ngũ người QG hời hợt, ngây-thơ hoặc đầy cảm-tính. Trên lãnh-vực đấu-tranh, người ta đã trải thảm đỏ để rước những tên gián-điệp nhị-trùng vào trong hàng ngũ người Việt QG. Một ngày nào đó, VC sẽ dùng những con bài được gọi là phản tỉnh, phản kháng hoặc những nhà đấu tranh cho dân chủ trong một kịch bản làm trái độn để hạ cánh an toàn trong hoàn cảnh xấu nhất có thể sẽ xảy ra.

Trong những năm đầu, từ 1991 đến 1995, Bùi Tín đã gây được một số ảnh-hưởng trong hàng ngũ người Việt hải-ngoại như MT Hoàng-cơ-Minh và các tổ chức thống thuộc. Nhưng sau đó, dù được sự tiếp tay của nhóm Nguyễn-gia-Kiểng ở Pháp, Đoàn-viết-Hoạt ở Mỹ và một số tay chân khác ở Đông Âu, Bùi Tín cũng chỉ tạo nên được sự tranh cãi và chia rẽ giữa người QG mà không tiến xa hơn được nên VC dùng những con bài khác mới hơn để đốt cháy những con bài “đã cháy” một cách tích cực, đưa ra những sự kiện rất ngoạn mục, với lập trường gần-gũi với người QG để triệt hạ những con bài không còn sử-dụng được này hầu lôi kéo sự ủng hộ của những người chống Cộng còn sót lại. Mục đích của kịch bản mới này nhằm tạo hậu thuẫn cho một con bài khác, cũng do VC đạo diễn, theo kiểu “lọt nia thì cũng xuống sàng” đều nằm trong sách-lược cuả VC. Trong lãnh-vực điệp-báo, mọi việc đều không đơn-giản như người ta tưởng bởi đó là một môi-trường của đòn phép, thủ-đoạn và tráo-trở mà những người làm chính-trị phải dự-trù và suy-nghĩ. Tuy nhiên, việc xô đẩy những người thật sự chán ghét CS trở lại với quá khứ CS của họ là một thái-độ thiếu khôn ngoan và phí-phạm hiệu năng của công cuộc chống Cộng nói chung. Những người CS được gọi là thức tỉnh nên sinh hoạt chung với nhau cho cùng một mục đích giải thoát dân tộc khỏi chế độ phản quốc và bất nhân hiện nay. Việc tôn sùng, nhận lệnh, nghe lời chỉ dậy hoặc quỳ lạy họ, nhất định sẽ gây nên những tranh cãi và chia rẽ, bất lợi cho nỗ lực chung là lật đổ những người cầm quyền đã và đang bán nước này.

II. Sự phát-triển cuả Mạng lưới Thông-tin Toàn Cầu và Nỗ Lực Chống Cộng

Từ hơn ba chục năm trước, những người cầm bút chống cộng tìm mọi cách để bắt liên lạc với quốc nội, hầu gửi những tin tức liên quan đến sinh hoạt đấu tranh tại hải ngoại về trong nước với hy vọng nó sẽ là chất xúc tác để làm bùng lên ngọn lửa đối-kháng ngay tại quốc nội, và để họ hiểu rằng mọi nỗ lực cuả họ sẽ được cả thế giới yểm trợ một cách tận-tình và mạnh-mẽ. Việc liên lạc giữa những người chống cộng trong và ngoài nước ấy đã là bước đầu dẫn đến vụ án “Hồ Con Rùa” khiến một số văn-hữu lâm vào vòng lao lý và nhà văn Dương-hùng-Cường đã chết trong tù. Nhắc lại việc này, người viết muốn chứng minh rằng việc thông tin trước kia rất khó khăn và chúng ta đã phải trả một giá quá cao. Ngược lại, từ hơn mười năm qua, mạng lưới thông tin toàn cầu qua Internet phát triển rất nhanh, với khả năng vượt qua những bức tường lửa ngày càng tinh-vi. Chuyện gì xảy ra tại VN chỉ một giờ sau cả thế giới đều biết và ngược lại. Internet đã về đến cả các vùng quê rất xa thành phố ở VN. Những bước tiến cuả khoa học về lãnh vực này là một điều thuận lợi vô cùng cho cuộc đấu tranh hỗ tương giữa trong và ngoài nước.

Câu hỏi được đặt ra là: Tại sao từ ngày Internet phát triển đến nay, sự đối kháng cuả người Việt ở trong nước không có gì được coi là khởi sắc? Phong trào dân oan khiếu kiện, biểu tình vì bị cưỡng chế, hầu như bị cướp đoạt đất đai, nhà cửa vẫn dậm chân tại chỗ, dù đó là vấn đề sống còn, liên quan trực tiếp đến quyền lợi thiết thực và đời sống hàng ngày cuả họ? Những vụ cướp đất ngày càng nhiều và xảy ra hầu như ở khắp nơi, tại sao những cuộc biểu tình không lan rộng và tiến hành đồng loạt trên toàn quốc để tạo tiếng vang và áp lực cần thiết, để nhà nước không thể làm ngơ hoặc giải quyết một cách vô lý theo kiểu xã đổ cho huyện, huyện đổ cho tỉnh được? Qua Internet, người ta hiểu rằng đất đai bị cướp đoạt và được bồi thường bằng một giá rẻ mạt đó được các tổ hợp nhà đất, do con của Nguyễn tấn Dũng hoặc do thân nhân của các ông tai to mặt lớn khác đứng đầu, được bán lại với giá cao gấp nhiều ngàn lần cho các đại gia của chế độ CS? Hàng ngàn câu hỏi về các vấn đề khác được đặt ra như việc đàn áp, sách nhiễu sinh hoạt nhắm vào các nhà thờ, chuà chiền, chiếm đất của các tôn giáo là những vấn đề rất nhạy cảm, nhưng phản-ứng cuả người dân vẫn chỉ sôi nổi trong một thời gian ngắn rồi thôi? Các vụ mánh mung, tham-nhũng của mọi cấp cầm quyền được phanh-phui trên báo chí, trên Internet mỗi ngày từ nhiều năm nay khiến mọi người nhìn rõ bộ mặt thật cuả chế độ, nhưng phản ứng cuả người dân vẫn như không có gì xảy ra? Người dân trong nước vô cảm hay bị liệt kháng?

Cách đây ba chục năm, một số người lạc quan cho rằng chỉ cần tìm ra sự thật để chứng minh rằng Hồ chí Minh là tay sai của Đế Quốc CS, lật mặt nạ để cho người dân hiểu được con người thật và phá vỡ huyền-thoại về HCM thì ít nhất, VC sẽ bị lung lay và khốn đốn vì VC chỉ dựa vào thần tượng HCM để tồn tại. Ngày nay, qua những tài liệu được chứng minh rõ ràng trên Internet, bất cứ ai và bất cứ lúc nào, người ta cũng có thể truy cập để hiểu về HCM với tất cả những bằng chứng hiển nhiên không thể chối cãi được về quá khứ qua từng giai đoạn của y và cuả đảng CSVN với thành tích làm tay sai cho Đệ Tam Quốc Tế CS, đời sống cá nhân trụy lạc, viết lách để tự ca ngợi mình… tự nhận là không có tư tưởng gì vì đã có Mao-trạch-Đông nghĩ trước và hàng trăm điều khốn nạn khác. Đảng VC thời đại sau HCM bán nước cho Tầu ngay trong thời bình (hơn 20 năm sau khi bị Tầu Cộng tấn công tại vùng biên giới giữa hai nước), nhượng đất, bán biển cho Tầu, hèn với giặc, ác với dân….và hàng trăm, hàng ngàn những việc hèn hạ và phản quốc khác mà người ta vẫn để chúng đè đầu cỡi cổ? Người dân trong nước thờ ơ với ngay chính đời sống của họ và tương-lai cuả con, cháu họ thì chúng ta tại hải ngoại làm được gì để cứu họ? Họ chờ đợi gì: Đèn xanh, đèn đỏ cuả các thế lực quốc tế chăng? Chúng ta phải thường xuyên nhắc cho họ hiểu rằng sẽ không bao giờ có việc đó xảy ra vì môi trường chính trị thế giới không một nước nào nghĩ đến quyền lợi cuả nước khác; ở đó là cảnh cá lớn nuốt cá bé. Việc lôi kéo đồng minh trong thời chiến tranh lạnh đã chấm dứt từ 40 năm qua. Thái độ há miệng chờ sung, đợi người khác dọn cỗ cho mình ăn không bao giờ có thể trở thành sự thật. Đợi đám con cháu cuả các lãnh tụ CS như Nguyễn-tấn-Dũng, Trương-tấn-Sang… đi học ở ngoại quốc, thấm nhuần tư-tưởng tự do từ Mỹ và các nước Tây Âu trở về nắm quyền và ban phát tự do, dân chủ và nhân quyền cho họ chăng? Muôn đời sẽ không bao giờ có chuyện đó. Hãy nhìn xem hai người con trai và con gái cuả Nguyễn tấn Dũng đang nắm những đặc quyền và đặc lợi gì? Con cuả bọn cán bộ trong Bộ Chính trị Trung Ương cũng đang chạy đua để bòn rút cuả cải trong một đất nước còm-cõi, cạn-kiệt và trên mồ hôi, nước mắt cuả người dân khốn cùng ở trong nước.

Việc đặt kỳ vọng vào con cháu cuả bọn cầm quyền CS hiện nay sẽ lương-thiện và nhân đạo hơn ông cha chúng là niềm tin cuả những người mắc chứng mộng du, vì một con rắn không thể đẻ ra những con rồng. Một con cú không thể sinh ra được những con chim phượng hoàng. Trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng với CS, quan điểm này phải bị lên án, vì nó sẽ hủy-hoại tinh thần chiến đấu cuả hàng ngũ chúng ta. Con cháu cuả những tên du-kích, những gã hoạn lợn được đi du học ở Mỹ, ở Thụy Sĩ nhất định sẽ khôn, sẽ thông minh hơn cha chúng, và dĩ nhiên, sẽ thủ đoạn hơn, sẽ tinh khôn hơn, sẽ nhiều thủ thuật để bám chặt quyền bính hơn cả ông cha cuả chúng. Trong sinh-hoạt đấu tranh và chính-trị, những tin-tưởng thiếu căn bản lý-luận theo chiều hướng ấy cần phải loại bỏ, bởi nó sẽ làm chúng ta bỏ cuộc để cho kẻ thù và con cháu chúng cai-trị hết đời này qua đời khác.

Từ lâu chúng tôi đã nghe một số người ngây thơ cổ súy cho chiêu bài ấy, và còn tệ hại hơn nữa, có người còn chủ trương “bất chiến tự nhiên thành”. Đó, nếu không phải là cách suy nghĩ cuả những người điên thì cũng là quan điểm cuả đám tay sai kẻ thù, ru ngủ chúng ta để quan thầy cuả chúng mặc tình thao túng.

III. Kết luận

Qua tất cả các luận điểm được phân tích ở trên, người viết muốn người dân ở trong nước hiểu rằng sẽ không có một phép lạ nào xảy ra, sẽ không một nước nào xả thân cứu vớt chúng ta, và đừng nghĩ rằng các tổ chức đấu tranh tại hải ngoại có khả năng giải phóng VN nếu chúng ta không ra tay tự cứu. Người Việt Hải ngoại sẽ chỉ đóng vai trò yểm-trợ và vận-động dư-luận và áp-lực của cộng đồng thế giới khi toàn dân cùng vùng lên tự cởi trói .

Thế Huy

Ghi chú: (1) Bùi Tín con của Bùi-bằng-Đoàn.

Vũ-thư-Hiên con của Vũ-đình-Huỳnh bí thư của HCM.

Thẩm-võ-Hoàng con cuả Thẩm-hoàng-Tín (France Maçon)Thị Trưởng Hà Nội (thời Pháp) và Chủ-tịch Quốc-hội (thời VC). TVH đào thoát sang Pháp, nhưng sau đó VC cho vợ con cuả TVH sang Paris để “đoàn-tụ gia đình”(!).