Saturday, July 14, 2012

Xin đừng gọi “bác” Hồ là tên chó đẻ - Nguyễn Vĩnh Long Hồ

Nguyễn Vĩnh Long Hồ

Thói thường ở đời, mỗi khi đánh giá nhân cách đồi bại, lưu manh, đểu cáng, lừa thầy phản bạn, tàn bạo, vô tình bạc nghĩa, buôn dân bán nước…của một nhân vật nào đó, người ta thường gọi là “ĐỒ CHÓ ĐẺ”, “ĐỒ CẨU TRỆ”, “ĐỒ CHÓ CHẾT”. Hồ Chí Minh cũng bị gọi là “TÊN CHÓ ĐẺ”. Vậy, nhân vật đầu tiên nào trong lịch sử đã gọi Hồ Chí Minh là “TÊN CHÓ ĐẺ”? Xin thưa, người đó là cụ VIP KK Nguyễn Văn Chức. Do đâu mà Hồ Chí Minh bị cụ VIP KK Nguyễn Văn Chức mắng thậm tệ như thế? Tôi xin dẫn chứng vài giai đoạn lịch sử, cái gọi là cuộc “Kháng chiến chống Thực dân Pháp” do Hồ lãnh đạo như sau:

LÀM TAY SAI CHO ĐỆ TAM CSQT

Lúc đầu, Việt Nam có đến 3 tổ chức Cộng Sản: An Nam Cộng Sản ở Nam kỳ - Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn ở Trung Kỳ - Đông Dương Cộng Sản Đảng ở Bắc Kỳ. Cuối năm 1929, CSQT ban hành chỉ thị mang số 9444/5 ngày 27/10/ 1929 bằng tiếng Pháp ra lệnh cho 3 tổ chức phải thống nhất lại và một buổi họp được tổ chức tại Cửu Long từ ngày 2 đến 7/2/ 1930, thống nhất tổ chức lại, lấy tên là VIỆT NAM CỘNG SẢN ĐẢNG, đặt trực thuộc ĐÔNG PHƯƠNG BỘ của CỘNG SẢN QUỐC TẾ. Nhưng ngay sau đó, Đông Phương Bộ chỉ thị không được lấy tên Việt Nam Cộng Sản Đảng, vì tên nầy có tánh cách cục bộ và địa phương, mà phải đổi thành ĐÔNG DƯƠNG CỘNG SẢN ĐẢNG.


Khi Hồ Chí Minh trở về Việt Nam hoạt động, Đông Dương Cộng Sản Đảng đã tổ chức bạo động khắp nơi, nên chỉ sau một thời gian hoạt động, đa số các đảng viên cốt cán đều bị Pháp bắt. Số liên hệ bị bắt lên đến 10.000 người. Hay tin nầy, CỘNG SẢN QUỐC TẾ đã chỉ thị cho Hồ Chí Minh từ Trung Quốc phải quay về hang Pắc Pó triệu tập hội nghị vào ngày 19/5/1941 để duyệt xét và điều chỉnh lại phương thức hoạt động. Trong đại hội, Hồ Chí Minh đọc chỉ thị của Đệ Tam Quốc Tế, ra lệnh cho các đảng viên của ĐÔNG DƯƠNG CỘNG SẢN ĐẢNG lùi vào hoạt động trong bóng tối. Vì thế, đại hội đã quyết định tái lập VIỆT NAM ĐỘC LẬP ĐỒNG MINH HỘI, gọi tắt là “VIỆT MINH” để hoạt động.

Như vậy, ngay trong thời kỳ đầu, việc hình thành từ danh xưng và cả đến phương thức hoạt động đều do CỘNG SẢN QUỐC TẾ quyết định. ĐÔNG DƯƠNG CỘNG SẢN ĐẢNG chỉ là công cụ phục cho quyền lợi của CSQT mà thôi.

LÍNH ĐÁNH THUÊ CHO TRUNG HOA - MỸ - PHÁP

Năm 1944, do sự thúc đẩy của Hoa Kỳ, chính phủ Trung Hoa đã tổ chức một hội nghị VIỆT NAM CÁCH MẠNG ĐỒNG MINH HỘI (VIỆT CÁCH) tại Liễu Châu vào ngày 19/3/1944 để thành lập một tổ chức đưa trở về Việt Nam hoạt động chống Nhật. Hồ Chí Minh liền giơ tay xung phong. Hồ được Trương Phát Khuê và Việt Cách cấp giấy giới thiệu, một giấy thông hành dài hạng, một bản đồ quân sự, một số tiền mặt và 18 cán bộ do Hồ lựa chọn có tên sau đây: Dương văn Lộc, Vi văn Tôn, Hoàng Kim Liên, Phạm văn Minh, Hoàng văn Trao, Nông văn Mưu, Hoàng Sĩ Vinh, Trương Hữu Trí, Hoàng Gia Tiên, Lê Nguyên, Nông Kim Thành, Hoàng Nhân, Hoàng Thanh Thủy, Hà Hiến Minh, Dương Văn Lễ, Đỗ Trọng Viên và Đỗ thị Lạc.

Trước khi lên đường, Hồ xin 1.000 khẩu súng trường, 6 súng cộng đồng, 4.000 quả lựu đạn, 50.000 quốc tệ, 25.000 tiền Đông Dương và 15.000 viên thuốc quinine. Nhưng, Hồ chỉ được cấp một khẩu súng lục tùy thân và 76.000 quốc tệ với lời hứa khi các đơn vị chiến đấu được thành lập, Hoa Kỳ sẽ huấn luyện và cung cấp vũ khí. Hồ Chí Minh đã làm lễ tuyên thệ trước trước lá cờ của VIỆT NAM CÁCH MẠNG ĐỒNG MINH HỘI và hứa trung thành với VNCMĐMH là giúp hai chánh phủ Trung Hoa và Hoa Kỳ thiết lập hệ thống tình báo tại Việt Nam.

• Tháng 7 năm 1944, Hồ Chí Minh đem nhóm cán bộ được tuyển chọn về Việt Nam hoạt động dưới sự chỉ đạo của “OFFICE OF STRATEGIC SEVICES” (OSS) , tức cơ quan Tình Báo Chiến Lược của Hoa Kỳ.

• Ngày 16/7/1945, một toán biệt kích “Commando” Mỹ - Pháp gồm 6 người do Thiếu Tá ALLISON K. THOMAS cầm đầu, được gọi là DEER TEAM. Toán nầy nhảy dù xuống Kim Lung, Tuyên Quang để huấn luyện cho quân đội của Hồ Chí Minh chống lại NHẬT. Toán Deer Team đã huấn luyện các đơn vị của Võ Nguyên Giáp về hoạt động tình báo, lượng giá các tin tức, ám sát đến hoạt động tuyên truyền...

• Sau khi huấn luyện xong. Từ ngày 10 đến 14/8/ 1945, Mỹ đã gởi đến cho Hồ các loại súng trường Garant M - 1, Carbines, tiểu liên, phóng lựu, Bazooka để chiến đấu chống với quân đội Nhật Bản. Như vậy, Hồ Chí Minh và lực lượng Việt Minh không phải là “LÍNH ĐÁNH THUÊ” cho Hoa Kỳ thì gọi là cái giống gì? Chính nhờ vào các võ khí do Mỹ cung cấp và huấn luyện mà Việt Minh đã cướp được chính quyền vào tháng 8/1945.

LÀM TAY SAI CHO TRUNG CỘNG

Năm 1946, khi Pháp trở lại Đông Dương, Việt Minh rút khỏi Hà Nội và chạy lên vùng Việt Bắc. Từ 1947 đến 1949 là những năm Việt Minh là bị Pháp đuổi chạy dài. Giữa năm 1949, khi Hồng Quân Trung Cộng tiến về phía Nam Trung Hoa, Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã yêu cầu Đảng Cộng Sản Đông Dương đem quân chiếm vùng Ưng Long Khiêm, sát vùng Đông Bắc của Việt Nam; mặc dầu, lúc đó bị giặc Pháp rượt đuổi chạy vắt giò lên cổ. Dù vậy, Đảng Cộng Sản Đông Dương cũng phải cố gắng thành lập một lực lượng đặc nhiệm là sư đoàn 316 (còn gọi là sư đoàn Thổ) do Lê Quảng Ba (người gốc Tày) làm Tư Lệnh và Trần Minh Giang do Đảng Cộng Sản Trung Cộng cử qua làm Chính ủy.

• Ngày 10 tháng 6 năm 1949, lực lượng nầy tiến vào đất Trung Hoa trong chiến dịch “Thập Đại sơn” đánh nhau với quân Tưởng Giới Thạch. Đến ngày 5 tháng 7 năm 1949, lực lượng nầy trở lại Việt Nam.

• Khi Trung Cộng chiếm xong Hoa Lục, Tưởng Giới Thạch chạy ra Đài Loan. Ngày 01/10/ 1949, Hồ cử Lý Bích Sơn và Nguyễn Đức Thụy đến Bắc Kinh cầu viện. Hàng ngàn cán bộ và bộ đội Việt Minh đã được đưa qua Tàu huấn huyện về chiến thuật hành quân, kỷ thuật tác chiến, xử dụng vũ khí, tình báo... Trung Cộng muốn biến Việt Nam thành tiền đồn chống Chủ nghĩa Tư bản nên đã cung cấp vũ khí, quân trang, quân dụng thật dồi dào để đánh Pháp. Nhưng, Hồ Chí Minh phải thi hành những điều kiện và yêu sách do Mao Trạch Đông đưa ra và Hồ đã chấp nhận để cho Trung Cộng đề cử đoàn Cố vấn chính trị hùng hậu do Lưu Dương Bình lãnh đạo để giám sát và chỉ đạo các hoạt động của Việt Minh.

Từ đó, hiện tượng “Tàu hóa” ngày càng rõ rệt trong bộ đội Việt Minh: Hồ Chí Minh và dàn lãnh đạo Đảng CSVN như: Phạm văn Đồng, Trường Chinh, Lê Duẫn, Tôn Đức Thắng... đều vận y phục “đại cán”, vay mượn của Trung Cộng từ ngôn ngữ, văn hóa, chính trị, quân sự...

Dưới áp lực của Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh phải phát động cuộc “cải cách ruộng đất” đẫm máu, kinh hoàng theo kiểu Trung Cộng. Số người bị giết chết dã man trong chiến dịch nầy, lên đến mấy trăm ngàn người, dưới sự giám sát của các chuyên gia Trung Cộng. Có thể nói, nếu Trung Cộng không chiếm được Hoa Lục, làm gì Hồ Chí Minh và Đảng CSVN kết thúc được cuộc chiến tranh “Đông Dương lần thứ nhất”? Huyền thoại chiến thắng “Điện Biên Phủ” cũng là thứ huyền thoại dõm. Nếu không có đoàn chuyên gia quân sự ( CMAG) do Vi Quốc Thanh làm cố vấn, có lẽ không có trận Điện Biên Phủ.

Tóm lại, Trung Cộng đã đóng vai trò quyết định trong cuộc kháng chiến chống Thực Dân Pháp và đánh bại quân đội viễn chinh Pháp, chớ không phải do Hồ Chí Minh và Đảng CSVN lãnh đạo, họ chỉ là những tên thừa hành lệnh của quan thầy Trung Cộng mà thôi.

HỒ CHÍ MINH NỐI GIÁO CHO GIẶC PHÁP

Hồ Chí Minh đã gián tiếp nối giáo cho giặc Pháp, làm suy yếu tiềm lực chiến đấu chống Thực dân Pháp của người Việt Quốc Gia yêu nước. Bao nhiêu nhà ái quốc, các đảng phái cách mạng từ trong Nam ra Bắc, những anh hùng tử sĩ xả thân chiến đấu chống Thực dân Pháp, họ không chết trước họng súng của quân xâm lược Pháp mà chết vì sự khủng bố tàn bạo do bọn sát thủ của nhóm Dương Bạch Mai, Trần văn Giàu và hung thần Chợ Đệm Nguyễn Trấn. Dẫn chứng một vài trường hợp điển hình:

• Đêm 23/9/1945, người bị giết đầu tiên, phơi thây trên đường Albert 1er là ông Lê văn Vững, Bí thư vùng Sài gòn - Chợ Lớn, thuộc nhóm Tranh Đấu. Trần văn Giàu sai sát thủ tên Lý Huê Vinh thuộc Quốc Gia Tự Vệ Cuộc ám sát.

• Ngày 23/9/1945, cô giáo Nguyễn thị Lợi phụ trách báo Tranh Đấu cũng bị thủ tiêu ở Cần Giuộc.

• Cuộc khủng bố trắng, ám sát các nhân sĩ yêu nước có uy tín với đồng bào nhưng không chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản bắt đầu từ ông Bùi Quang Chiêu, Hồ văn Ngà, Trần Quang Vinh, bác sĩ Hồ Vĩnh Ký và vợ là bác sĩ Nguyễn thị Sương (nguyên Thủ lãnh Phụ Nữ Tiền Phong), nhà báo Diệp văn Kỳ, luật sư Dương văn Giáo...

• Đức Huỳnh Giáo Chủ đã bị tên Việt gian Bửu Vinh, cán bộ Việt Minh mưu sát tại làng Tân Phú (tức Đốc Vàng Hạ) vào ngày 16/4/1947 theo kế hoạch của Hồ Chí Minh vì chủ trương đấu tranh bất bạo động của Đức Huỳnh Giáo Chủ động viên hơn 4 triệu người Việt Quốc Gia yêu nước, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, giai cấp…hưởng ứng nhiệt liệt, và “Chủ nghĩa Quốc Gia” trở thành một thách đố gay gắt với chủ trương của Hồ Chí Minh là núp dưới chiêu bài “Giải phóng Dân Tộc” để thực hiện “Chủ nghĩa Cộng sản” trên toàn cõi Đông Dương theo lệnh của Đệ Tam QTCS. HCM đã nhờ ai đó viết trên báo L’HUMANITÉ rằng: “Le nationalisme était si on ne le controlait pas, un dangeureux phénomène risquant de menacer l’expansion du communisme dans les colonies” (Chủ nghĩa Quốc gia nếu không bị khống chế thì sẽ là một hiện tượng nguy hại cho sự phát triển Chủ nghĩa Cộng sản ở các xứ thuộc địa).

• Hồ Chí Minh đã hiện nguyên hình là con chó săn cho thực dân Pháp, khi bán đứng cụ PHAN BỘI CHÂU cho thực dân Pháp tại Thượng Hải vào tháng 6/1925, với giá 10 vạn đồng để tiêu diệt VIỆT NAM QUANG PHỤC HỘI. Theo lệnh của Hồ Chí Minh, cán bộ Đảng Cộng Sản Đông Dương đã rãi truyền đơn tố cáo cuộc chuẩn bị tổng khởi nghĩa của VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG do Lãnh Tụ NGUYỄN THÁI HỌC đề xướng vào tháng 2/1930.

Ngoại trừ, những tên trí thức thiên tả bẻ cong lịch sử theo đơn đặt hàng của bọn đầu gấu Bắc Bộ Phủ, còn những nhà viết sử chân chính đều đi đến kết luận rằng: Nếu Hồ Chí Minh và Đảng CSVN không làm tay sai, lính đánh thuê cho Trung Cộng và Liên Xô thì Việt Nam đã không có cuộc chiến kéo dài 30 năm hoàn toàn vô ích, Việt Nam đã độc lập thực sự vào cuối thập niên 1940 và đã trở thành con rồng của Á Châu.

Ngày 16 tháng 6 năm 1997, Hà Nội tổng kết cuộc chiến kéo dài 30 năm và Thông Tấn Xã nhà nước CSVN công bố như sau: 3.000.000 người Việt Nam thiệt mạng, 4.400.000 bị thương và 2.000.000 người bị nhiễm các chất độc hóa học. Mười năm sau 1975, có gần 5.000.000 trẻ em dị dạng vì hậu quả của chiến tranh. Những con số thương vong to lớn nầy, tự nó đã vạch trần sự thật về sự tuyên truyền khoác lác về kỳ tích chiến thắng ba đế quốc sừng sỏ NHẬT - PHÁP - MỸ do Hồ Chí Minh và Đảng CSVN lãnh đạo.

Sau khi Thế Chiến II chấm dứt, phong trào giải đế, bài thực trở thành xu hướng chung của nhân loại. Lần lượt các quốc gia thuộc địa cũ của các đế quốc đều được trao trả nền độc lập mà không cần dùng đến hình thức “chiến tranh giải phóng dân tộc” do Hồ và Đảng CSVN lãnh đạo tại Việt Nam, vì nó sẽ gây đổ máu, nhiều chết chóc, tang thương, đổ nát vô ích, không cần thiết cho đất nước của họ.

• Tại Á CHÂU: Các thuộc của Anh, Pháp, Hòa Lan... đều lần lượt thu hồi nền độc lập như Ấn Độ (1947), Miến Điện (1948), Tích Lan (1948), Phi Luật Tân (1946), Nam Dương (1949), Mã Lai (1957), Singapore (1959)...

• Tại PHI CHÂU: Có khoảng 30 quốc gia đều trở thành độc lập như Algérie, Maroc, Tunisie...

Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Genève về Việt Nam được ký kết: từ vĩ tuyến 17 là ranh giới chia đôi đất nước. Trên một triệu người Việt Nam từ miền Bắc di cư vào Nam, họ đã bỏ phiếu bằng chân để lựa chọn chế độ “Tự Do & Dân Chủ” của miền Nam. Hiệp Định Genève ra đời là do CSVN cấu kết với thực dân Pháp, còn phái đoàn Việt Nam Quốc Gia và Hoa Kỳ không ký tên vào Hiệp định nầy.

Tại Miền Bắc XHCN, chánh phủ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA do Hồ Chí Minh lãnh đạo, luôn rống gân cổ kêu gào, động viên nhân dân miền Bắc XHCN tiếp tục hy sinh sức người, sức của “ĐÁNH CHO MỸ CÚT - NGỤY NHÀO” để làm gì? Đây là những lý do:

Ngày 26 tháng 10 năm 1955 là ngày Quốc Khánh, mở đầu kỷ nguyên nước VIỆT NAM CỘNG HÒA do Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DIỆM lãnh đạo. Suốt 9 năm cầm quyền, chánh phủ VNCH do ông lãnh đạo được trên 80 quốc gia trên thế giới công nhận và thiết lập ngoại giao và được gia nhập vào Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Yếu tố “Chính Danh” nầy đã làm cho Hồ Chí Minh tức tối. Hồ điên cuồng ra lệnh cho bọn cán bộ VC nằm vùng (từ 3 đến 5.000) được cài ở lại trong miền Nam trước khi tập kết ra Bắc, bắt đầu hoạt động khủng bố, ám sát, bắt cóc... các viên chức chánh phủ để tạo nên tình trạng bất ổn trong dân chúng; vì thế, chánh phủ VNCH đã ban hành sắc luật “Đặt Cộng Sản ra ngoài vòng pháp luật.”.

Còn cái là “MTGPMNVN” qua “Liên Minh Dân Chủ” rồi đến “Chánh phủ Lâm Thời Cộng Hòa MNVN”. Cả 3 tổ chức trá hình nầy không đại diện cho một ai cả, nó chỉ là công cụ, tay sai do bọn CSVN dựng lên để lừa bịp dư luận trong nước và thế giới và nó bịp luôn bọn trí thức ngây thơ ăn cơm Quốc Gia, thờ ma Cộng sản: Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Trịnh Đình Thảo, Trương Như Tảng, Ngô Bá Thành, Dương Quỳnh Hoa, Mã thị Chu...

Sau khi cưỡng chiếm MNVN, cái gọi là CPLTCHMNVN chỉ tồn tại một thời gian ngắn rồi bị tập đoàn Lãnh đạo Đảng CSVN xóa sổ ngay.

Núp dưới chiêu bài “Chiến tranh Giải Phóng Dân Tộc” và “Chống Mỹ Cứu Nước” để phát động “CUỘC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC MIỀN NAM”. Hồ Chí Minh và Đảng CSVN đã nhìn mục tiêu “ĐỘC LẬP QUỐC GIA” chỉ là một chặng đường trên lộ trình vô sản hóa thế giới. Lòng nhiệt tình yêu nước của dân tộc Việt Nam bị Hồ Chí Minh lợi dụng, khai thác triệt để phục vụ cho âm mưu bành trướng lãnh thổ của Đệ Tam QTCS.

Rút kinh nghiệm trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, Trung Cộng điều động cả triệu quân chí nguyện trang bị vũ khí hiện đại, ào ạt vượt qua sông Áp Lục (Yalu river) đối đầu trực tiếp với quân đội Hoa Kỳ và Đồng Minh và chiếm được Hán Thành (Seoul) ngày 4/1/1951. Nhưng đến ngày 14/3/1951, Hán Thành được quân đội Hoa Kỳ và Đồng Minh tái chiếm lại, chí nguyện quân Trung Cộng bị tổn thất nặng nề, phải bỏ chạy về đến tận sát biên giới Trung - Hàn.

Vì vậy, trong cuộc chiến tranh Việt Nam lần nầy, ngoài việc tranh giành uy thế lãnh đạo trong khối Đệ Tam QTCS với Liên Xô, Trung Cộng cung cấp, yểm trợ các loại chiến cụ, quân trang, quân dụng... to lớn cho Hà Nội với hình thức bán chịu, lên đến 20 tỉ USD , và điều động 327.000 quân tới Bắc Việt Nam chỉ làm nhiệm vụ “giữ nhà” để quân CSBV rảnh tay, dồn hết quân nổ lực xâm lược Miền Nam Việt Nam. Bọn Trung Nam Hải vô cùng thâm độc trong quyết tâm: “ĐÁNH MỸ ĐẾN NGƯỜI VIỆT NAM CUỐI CÙNG!” và “DÙNG NGƯỜI VIỆT GIẾT NGƯỜI VIỆT”. Tên Việt Gian Hồ Chí Minh và Đảng CSVN chết tiệt đã xóa sạch nguyên cả thế hệ thanh niên Việt Nam để phục vụ cho tham vọng bành trướng bá quyền của Trung Cộng.

Ngày 4 tháng 9 năm 1958, khi Trung Cộng ngang ngược tuyên bố lãnh hải “Lưỡi rồng” chạy dọc bờ biển VN xuống Nam Dương, rồi vòng lên phía Đông, chạy dọc theo bờ biển Phi Luật Tân và tất cả các đảo ở Biển Đông, kể cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều thuộc chủ quyền của Trung Cộng. Để đền ơn bọn lãnh đạo Trung Nam Hải cho mua chịu 20 tỉ USD vũ khí, bom đạn…để giết người Việt Quốc Gia. Hồ đã muối mặt, chỉ thị cho Thủ tướng Phạm văn Đồng nhân danh chánh phủ VNDCCH đặt bút ký công hàm đề ngày 14/9/1958 gởi Thủ tướng Trung Cộng là Chu Ân Lai: “Ghi nhận và tán thành bản tuyên bố của chánh phủ nước CHND Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.”

Nếu chiếu theo “ĐIỀU 73 LÊ TRIỀU HÌNH LUẬT” thì cái tội phản bội Tổ Quốc của Hồ Chí Minh bằng cách cấu kết với ngoại bang, xâm phạm chủ quyền của quốc gia, xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc, tên Hồ Chí Minh phải bị bêu đầu là gương: “CHƯ MẠI BIÊN CƯƠNG ĐIỀN THỔ DỮ NGOẠI QUỐC NHƠN TRẢM” (Ai bán ruộng đất nơi biên cương cho người nước ngoài thì bị chém).

Ý đồ của Trung Cộng là muốn Hà Nội dùng chiến tranh du kích, trường kỳ kháng chiến để kéo dài cuộc chiến tranh làm cho Việt Nam kiệt quệ hoàn toàn, từ đó dễ bề thôn tính Việt Nam để làm bàn đạp, bành trướng xuống vùng Đông Nam Á, làm chủ tình hình biển Đông, nuốt chững quần đảo HOÀNG SA trước, vói tay xuống TRƯỜNG SA sau nầy.

Nếu Hồ Chí Minh và tập đoàn Lãnh đạo Đảng CSVN không cam tâm làm tay sai và lính đánh thuê cho Liên Xô và Trung Cộng quyết tâm nhuộm đỏ MNVN trước, để làm bàn đạp bành trướng xuống khu vực Đông Nam Á Châu, trực tiếp đe dọa đến chiến lược sinh tồn của Mỹ, Anh Quốc và khối Anglo Saxons ở Úc và New Zeland thì Hoa Kỳ và đồng minh đã không đổ quân vào MNVN để giúp chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa be bờ, ngăn chận làn sóng đỏ từ phương Bắc tràn xuống MNVN và các nước ĐNÁ theo học thuyết DOMINO. Đây là cuộc “CHIẾN TRANH VIỆT NAM” do Hồ Chí Minh và Đảng CSVN gây ra theo lệnh của Đệ Tam QTCS…

CARL SCHMITT đã nói rất đúng: “Một dân tộc có sinh mệnh chính trị thật sự, khi nào tự nó với cái nhu yếu sống còn mà nhận thức ai là kẻ thù, tùy theo tình trạng thực tiễn mà nó phải đương đầu. Nếu dân tộc ấy phải chấp nhận kẻ thù do một thế lực ngoại bang chỉ định phải chiến đấu hay không chiến đấu thì dân tộc ấy không còn là một dân tộc còn quyền tự do chính trị nữa. Nó đã bị cuốn hút vào một hệ thống chính trị khác rồi.”

Cụ VIP KK Nguyễn Văn Chức gọi Hồ Chí Minh là kẻ vô học, có lẽ vô học nhất trong hàng ngũ lãnh tụ trên thế giới. Nhưng gian manh, đểu cáng, tàn bạo; có lẽ, vào bậc nhất trên thế giới. Từ vô học đến đểu cáng vô nhân đạo, vô ơn, bạc tình bạc nghĩa không xa. Tôi (cụ Chức) muốn nói đến vụ y đối xử với những người đàn bà đã hiến thân cho y, hoặc đã cưu mang y.

Vụ nàng Nguyễn Thị Xuân - hiến trinh cho y, và có con với y, bị Trần Quốc Hoàn hãm hiếp cực kỳ dã man nhiều lần, rồi sau đó bị giết thê thảm - đã không thể xảy ra, nếu không có sự đồng tình mặc nhiên của Hồ Chí Minh.

Cụ Chức đánh giá về HCM không sai! Vào thập niên 1950, có lần HCM đứng trước ảnh của hung thần Staline và Mao, rồi nói với Phạm văn Đồng rằng: “Bác là người có khuyết điểm, chớ hai vị nầy là người trong suốt như pha lê, hoàn toàn không có tì vết. Vậy, chúng ta hãy lấy tư tưởng của người đưa vào Hiến pháp làm nền tảng chỉ đạo”.

André Gide lập lại ngôn từ của Thoreau, dùng để đánh giá HCM trong trường hợp nầy rất chính xác: “The worst thing is being the slave dealer of one’s soul.” (Cái tồi tệ nhất là tự thỏa thuận nô lệ trong tâm hồn con người.)
Nhưng, thưa cụ VIP KK Nguyễn văn Chức, cụ gọi Hồ Chí Minh là “TÊN CHÓ ĐẺ” là cụ vô tình xúc phạm đến “DANH DỰ LOẠI CHÓ” rồi đó cụ ạ! Nếu như, Hồ Chí Minh có được 1/10 phẩm chất của loài chó, có lẽ đất nước Việt Nam đã đi vào một ngả rẽ khác có lợi cho dân tộc VN nhiều hơn.

Loài chó đáng được người ta “vinh danh” hơn là đem loài chó để so sánh với kẻ vô loại, ngu dốt như tên Hồ Chí Minh chẳng hạn. Tôi xin dẫn chứng hai câu chuyện về họ hàng nhà chó để cụ suy gẫm.

CÂU CHUYỆN THỨ NHẤT:

Trước tòa án ngày 23/9/1870, Luật sư George Graham Vest (1830-1904) đại diện cho thân chủ Burden có con chó săn bị người hàng xóm tên Hornsby bắn chết. Burden thắng kiện và Vest nổi danh, sau đó, trở thành Dân Biểu rồi Nghị sĩ của tiểu bang Missouri.

Con chó tên “OLD DRUM” được nhiều người ngưỡng mộ dù đã chết. Ngày 23/9/1958, tượng Old Drum được đúc bằng đồng đen, dựng trước tòa án của Johnson County ở Warrensburg, tiểu bang Missouri.

Bài diễn văn tuyệt vời của Luật sư Vest đã gây xúc động cho mọi người có mặt trong phiên tòa, còn lưu lại tới ngày hôm nay. Nhà bỉnh bút William Safire và báo The New York Times đã chọn bài “TRIBUTE TO DOGS” (Vinh danh loài chó) của Luật sư Vest là bài diễn văn hay nhất “THIÊN NIÊN KỶ”.





    Gentlemen of the Jury: The best friend a man has in the world may turn against him and become his enemy. His son or daughter that he has reared with loving care may prove ungrateful. Those who are nearest and dearest to us, those whom we trust with our happiness and our good name may become traitors to their faith. The money that a man has, he may lose. It flies away from him, perhaps when he needs it most. A man's reputation may be sacrificed in a moment of ill-considered action. The people who are prone to fall on their knees to do us honor when success is with us, may be the first to throw the stone of malice when failure settles its cloud upon our heads. The one absolutely unselfish friend that man can have in this selfish world, the one that never deserts him, the one that never proves ungrateful or treacherous is his dog. A man's dog stands by him in prosperity and in poverty, in health and in sickness. He will sleep on the cold ground, where the wintry winds blow and the snow drives fiercely, if only he may be near his master's side. He will kiss the hand that has no food to offer. He will lick the wounds and sores that come in encounters with the roughness of the world. He guards the sleep of his pauper master as if he were a prince. When all other friends desert, he remains. When riches take wings, and reputation falls to pieces, he is as constant in his love as the sun in its journey through the heavens. If fortune drives the master forth, an outcast in the world, friendless and homeless, the faithful dog asks no higher privilege than that of accompanying him, to guard him against danger, to fight against his enemies. And when the last scene of all comes, and death takes his master in its embrace and his body is laid away in the cold ground, no matter if all other friends pursue their way, there by the graveside will the noble dog be found, his head between his paws, his eyes sad, but open in alert watchfulness, faithful and true even in death. George Graham Vest - c. 1855
------------------
Thưa Quý vị Bồi Thẩm.


Người bạn tốt nhất mà ta có được trên thế gian nầy, một ngày nào đó có thể quay lại chống ta và trở thành kẻ thù.

Con cái mà ta nuôi dưỡng với tình thương bao la vô hạn, rốt cuộc có thể là những kẻ bội bạc, vô ơn.

Những người kề cận, thân thiết ta nhất, những người mà ta phó thác hạnh phúc và danh dự, có thể trở thành kẻ phản bội, phụ lòng tin yêu.

Tiền bạc mà ta có được rồi sẽ mất đi. Nó biến mất đúng lúc ta cần nó nhất.

Tiếng tăm ta xây đấp bấy lâu cũng có thể tiêu tan trong giây phút bởi một hành động điên rồ.

Những người phủ phục tôn vinh ta khi ta thành đạt, có thể sẽ là những kẻ đầu tiên ném đá vào ta khi ta thất thế, sa cơ…

Duy chỉ có một con vật là bạn, vâng chỉ một, hoàn toàn không vụ lợi mà con người có thể có được trên thế gian đầy ích kỷ nầy, một con vật không bao giờ bỏ rơi ta, không bao giờ tỏ ra vô ơn hay tráo trở với ta…đó là con chó của ta!

Con chó của ta luôn luôn ở cạnh bên ta khi thịnh vượng cũng như lúc cơ bần, khi khỏe mạnh cũng như lúc yếu đau.

Nó ngủ trên nền đất lạnh, dù gió đông thổi siết hay bão tuyết lấp vùi; miễn sao, nó được kề cận bên chủ là được.

Nó vẫn trìu mến hôn bàn tay ta, dù ta không còn thức ăn gì cho nó.

Nó liếm vết thương của ta và những vết trầy mà ta lãnh chịu khi đương đầu với cuộc đời nhiều gay góc này.

Nó canh gác giấc ngủ cho ta như thể ta là một ông hoàng, dù ta chỉ là một gã hành khất ăn xin.

Nó vẫn ở lại bên ta, khi tất cả bạn bè khác đã bỏ ta mà xa chạy cao bay.

Dù khi tán gia bại sản, thân bại danh liệt, ta vẫn còn có con chó trung thành. Tình thương yêu nó dành cho ta không dời đổi như vầng thái dương rực sáng trên bầu trời mênh mông.

Nếu chẳng may số phận nghiệt ngã, đá ta ra bên vĩa hè xã hội, không bạn bè, vô gia cư…thì con chó trung thành chỉ xin ta ân huệ…không gì khác hơn là cho nó được đồng hành, cho nó được bảo vệ ta trước hiểm nguy, giúp ta chống lại kẻ thù.

Và khi trò đời dâu bể hạ màn, thần chết đến gõ cửa rước linh hồn ta đi, để lại thân xác ta trong lòng đất lạnh thì khi ấy, khi tất cả bạn bè quyến thuộc đã phủi tay, quay mặt đi để tiếp tục sống cuộc đời của họ. Vâng, khi ấy, bên nắm mộ ta vẫn còn con chó nằm phủ phục, gục mõm giữa hai chân trước, đôi mắt ướt buồn vẫn mở to cảnh giác, trung thành và chân thật ngay cả khi ta đã qua đời…

George Graham Vest
__________________________
CÂU CHUYỆN THỨ HAI
    Trong nhiều ngày liền, chú chó Leao ở Brazil nằm phục trước mộ của chủ nhân và chú nhất định không chịu rời đi, dù đội cứu hộ đã đưa Leao đi cách xa nghĩa trang hàng chục cây số. Theo trang Albu Express, chủ nhân của Leao là cô Cristina Maria Cesario Santana, bị thiệt mạng trong trận lụt ở Brazil cuối tuần trước. Cô được chôn cất ở nghĩa trang Teresopolis, thủ đô Rio de Janeiro, Brazil. Chú chó Leao cũng chứng kiến cảnh chôn cất chủ nhân mình và từ đó, chú luôn nằm trước mộ của Cristina để canh gác. Leao không ăn uống và cũng không đi đâu nửa bước trong suốt ba ngày liền. Đội cứu hộ gần đó đã tìm cách đưa chú về một trại nuôi chó hoang. Nhưng, chỉ một tiếng sau, Leao lại trốn thoát và tìm về đúng ngôi mộ của Cristina. Phóng viên của nhiều tờ báo đưa tin về con chó trung thành này và bức ảnh Leao nằm phục trước mộ chủ đã được lan truyền trên mạng, nó đã làm xúc động con tim hàng triệu người trên thế giới.
Qua bài diễn văn tuyệt vời của Luật sư George Graham Vest: “TRIBUTE TO DOGS” (Vinh danh loài chó), tôi không biết cụ VIP KK Nguyễn Văn Chức suy nghĩ như thế nào mà gọi tên Hồ Chí Minh là “TÊN CHÓ ĐẺ”? Cụ Chức đặt “Bác Hồ” ngang hàng với loài chó là cụ vô tình đã sỉ nhục và xúc phạm tới danh dự họ hàng nhà chó rồi đó…

Kẻ hậu bối xin kính chào cụ VIP KK Nguyễn văn Chức.

Nguyễn Vĩnh Long Hồ

Tại Sao Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản Không Hoan Nghinh, Đón Nhận Bùi Tín ? - LS Lê Duy San

LS Lê Duy San 

Ông Bùi Tín sinh năm 1927. Ông là con của cụ Bùi Bằng Đoàn, nguyên Thượng Thư Bộ Hình của triều đình Huế, sau theo Việt Minh được làm Chủ Tịch Quốc Hội nước VNDCCH. Ông Bùi Tín theo Việt Minh ngay từ đầu khi Việt Minh cướp chính quyền từ tay của chính phủ Trần Trọng Kim vào tháng 8 năm 1945. Ông được kết nạp vào đảng Cộng Sản nhớ các thành tích ám sát, thủ tiêu người quốc gia. Nhờ có khả năng viết lách, ông trở thành nhà báo, phóng viên chiến trường với bút hiệu Thành Tín và được phong quân hàm Đại Tá. Sau chiến tranh, ông giải ngũ, tiếp tục viết báo, làm đến chức Phó tổng biên tập báo Nhân Dân, kiêm Tổng biên tập tuần báo Nhân Dân Chủ Nhật.

Cuối năm 1990 ông Bùi Tín sang Pháp dự hội nghị hàng năm của báo L'Humanité (báo của đảng Cộng Sản Pháp), rồi quyết định xin tỵ nạn tại Pháp với lý do là để đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền cho VN.

Thực ra, nếu ông không xin tỵ nạn thì cũng bị cho về vườn vì ông thuộc phe thân Liên Sô, nhưng Liên Sô đã xụp đổ, phe thân Tầu thắng thế, nên đã tìm đường chạy trước và trở thành người bất đồng chính kiến. Ông phê phán đường lối hiện hành của Đảng Cộng sản Việt Nam là đã xa rời lý tưởng cộng sản. Dần dần, ông phê phán luôn cả chế độ cộng sản Việt Nam và lý thuyết xã hội chủ nghĩa. Ông đòi hỏi một sự đổi mới có tự do dân chủ “thật sự” cho Việt Nam. Có thể nói những bài viết của ông có lợi cho Việt Cộng thì ít mà có hại cho chúng thì nhiều, nhưng ông vẫn không được người tỵ nạn Cộng Sản đón chào mà còn bị coi là cò mồi, là chống đối cuội. Lý do là vì:
    · Bùi Tín là kẻ có tội với nhân dân.
    · Bùi Tín vẫn chưa thực lòng xám hối tội lỗi.
    · Bùi Tín vẫn tôn thờ Hồ Chí Minh và không công nhận cờ vàng.
1. Bùi Tín là tội đồ của dân tộc.

Ngay từ khi gia nhập Mặt Trận Việt Minh, ông Bùi Tín đã được trao phó nhiệm vụ ám sát, thủ tiêu những thành phần đối nghịch với Cộng Sản, đặc biệt là các đảng viên VNQDĐ. Chính ông Võ Tử Đản đã cho biết ông Bùi Tín đã giết cha ông là Võ Bào, đảng viên VNQDĐ, 2 người chú của ông là Võ Sỏ, Võ Liêu và một số người dân Quảng Trị vào năm 1947, 1948. Ông Võ Tử Đản kể: “Mặc dầu tuổi đời đã 82, tôi vẫn không bôi xóa được cảnh tượng ghê rợn, thê thảm trong một đêm trăng nhiều mây mù của trung tuần tháng 3 năm 1947, tại làng Nại Cửu, xã Phong La (nay là xã Triệu Đông), quân Triệu Phong. Ông Bùi Tín, với đôi mắt rực lửa căm thù, dùng báng súng Sten đập mạnh vào người ông thân sinh tôi 5 lần đến gục ngã, sau khi 2 tên tự vệ của Bùi Tín dùng mã tấu chém xối xả vào thân, vào mặt. Biết cha tôi đã chết, Bùi Tín dùng chân đá xác ông xuống sông Vĩnh Định, nơi này cách chỗ cư ngụ của cha tôi khoảng 100 thước ………..

Hiện tại, ngoài tôi ra còn có hai nhân chứng đã mắt thấy, tai nghe lời kết án và hành động sát thủ dã man của Bùi Tín. Họ vẫn còn sống, ông Võ Di ở tại làng Nại Cửu và ông Trần Cận (một trong 6 tên tự vệ đã cùng đi với Bùi Tín đêm hôm đó) ở tại Thị xã Đông Hà, Quảng trị.”

Khi bị chính ông Võ Tử Đản tố cáo và hạch tội, ông Bùi Tín đã phủ nhận và nói rằng với chức vụ Đại Đội Trưởng của ông, dưới ông còn có nhiều người, ý muốn nói ông đâu cần phải đích thân ra tay như lời ông Võ Tử Đản nói. Nhưng theo ông Việt Sĩ thì lúc bấy giờ ông Bùi Tín mới gia nhập Việt Minh và tuổi đời thì mới 19, đâu đã có công trạng gì mà có thể được phong cho làm Đại Đội Trưởng? cùng lắm là Trưởng Ban ám sát. Như vậy, lời tố cáo của ông Võ Tử Đản. Ông Võ Tử Đản rất đáng tin cậy. Hơn nữa, ông Võ Tử Đản còn nêu cả tên 2 nhân chứng vẫn còn sống là ông Võ Di và Trần Cận.

Ngoài ra, ông Bùi Tín còn là cán bộ Cải Cách Ruộng Đất. Với chức vụ này, chắc chắn ông Bùi Tín gây ra không ít tội ác trong thời kỳ đấu tố địa chủ, nếu không làm sao ông có thể được phong cho quân hàm Đại Tá?

2. Bùi Tín vẫn chưa thực lòng sám hối tội lỗi.

Mặc dầu đã từ bỏ đảng CSVN, mặc dầu ông đã viết nhiều bài chỉ trích nặng nề đảng CSVN và Chế Độ Xã Hội Chủ Nghĩa VN, nhưng ông vẫn chưa thực lòng sám hối tội lỗi của mình cũng như xác nhận tội lỗi của Hồ Chí Minh và bè lũ Việt Cộng. Trái lại, ông còn cho rằng chỉ có VC mới yêu nước, mới có chính nghĩa, Ông nói: “Trước nhân dân cả nước Việt Nam, trước dư luận quốc tế, quả thật là có nhiều khó khăn, khi muốn dành cho quân đội ấy (Quân Đội VNCH) những chữ “yêu nước”, “chính nghĩa”, khác hẳn với Quân đội Nhân dân Việt Nam. "

Thật không thể hiểu nổi, một quân đội, quân đội VNCH đã hy sinh mấy chục binh sĩ để bảo vệ Hòang Sa và Trường Sa thì ông Bùi Tín cho rằng thật khói dành cho quân đội ấy những chữ “yêu nước”, “chính nghĩa” trong khi đó quân đội Việt Cộng (Quân Đội Nhân Dân VN) theo lệnh quan thầy Nga Tầu đem quân đi cưỡng chiếm miền Nam VN để thực thi nghĩa vụ đệ tam quốc tế và chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN dâng cả đất, cả biển cho Tầu Cộng thì ông Bùi Tín lại cho là “yêu nước”, là có “chính nghĩa”?

Đối với ông Hồ Chí Minh, ông Bùi Tín vẫn tin rằng ông HCM là người yêu nước. Để trả lời câu hỏi của Trà Mi, phóng viên đài Á Châu Tự Do (RFA), ông Bùi Tín nói:“Theo tôi, khi ông Hồ sang Pháp năm 1911 lúc đầu không phải vì mục đích đi tìm đường cứu nước. Lúc bấy giờ ông ta gặp phải một bi kịch gia đình. Ông cụ là tri huyện Bình Khê vì đánh chết nông dân nên bị đuổi ra khỏi ngành quan lại, tha phương ở phía Nam. Mất chỗ dựa, ông Hồ quyết định ra đi tìm kế sinh nhai và giúp đỡ gia đình.

“Nhưng đến khi sang Pháp, khi tiếp xúc với nhóm các ông như Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, cụ Phan Chu Trinh, lúc ấy, tôi nghĩ ông ta là người yêu nước, nhất là khi ông ta đứng ra làm tờ báo Những người cùng khổ, bảo vệ những người dân thuộc địa để chống thực dân Pháp, tôi cho rằng hành động này là trên lập trường yêu nước.”

“Thế nhưng cho đến khi ông sang Maxcơva năm 1924, trở thành nhân vật của đệ tam quốc tế cộng sản, thì tôi nghĩ, lúc ấy ông vẫn là một người yêu nước, nhưng không phải là một người yêu nước theo chủ nghĩa quốc gia, mà theo chủ nghĩa cộng sản.”

Ông Bùi Tín xác nhận: “Cho đến khi chiến tranh kết thúc (30/4/75), tôi không hề có ý thức gì về tội ác của CSVN, tôi được học chính trị, chính huấn, học “khá kỹ”, nghĩa là học theo lối dậy dỗ, áp đặt, nhồi nhét, mà không hòai nghi, không tranh luận về chủ nghĩa Mác, Lênin, về tranh đấu giai cấp, về chuyên chính vô sản… cho nên chúng tôi chỉ thấy tội ác của thực dân, đế quốc, phong kiến, tư bản… Những tổn thất trong chíên tranh, tôi chỉ thấy những tội ác do kẻ thù gây ra và những hy sinh cần thiết về phía “ta” để dành chiến thắng.”

Những điều xác nhận trên của ông Bùi Tín đã chúng tỏ rằng ông là một đảng viên Cộng sản rất trung kiên, cuồng tín và chắc chắn ông đã thủ tiêu rất nhiều người trong thời gian ông còn là Trưởng Ban ám sát của Việt Cộng. Vậy mà ông vẫn ngoan cố, không biết hối lỗi, nhận tội.

3. Bùi Tín vẫn tôn thờ Hồ Chí Minh và không công nhận cờ vàng.

Ông Bùi Tín dư biết ông HCM đã du nhập chủ nghĩa Mác Lê vào làm hại cả một dân tộc, làm đất nước VN thụt lùi lại cả gần nửa thế kỷ và giết hại cả triệu người vì muốn thi hành nghĩa vụ quốc tế, vì muốn tiến lên xã hội chủ nghĩa, ông Bùi Tín vẫn công nhận ông HCM là thần tượng của ông. Mặc dầu những chuyện xấu xa của HCM như lấy vợ Pháp rồi bỏ để lấy vợ Nga, rồi bỏ vợ Nga lấy vợ Tầu, rồi lại bỏ vợ Tầu lấy vợ Việt là Nông Thị Xuân, rồi lại cho người giết Nông thị Xuân để tự do ngủ với người khác cũng như việc HCM lấy Nguyễn thị Minh Khai là vợ của Lê Hồng Phong, chuyện ông Hố Chí Minh bán đứng cụ Phan Bội Châu cho thực dân Pháp v.v., ông Bùi Tín đều biết rõ nhưng ông chưa hề có bài nào kết tội HCM.

Ông Bùi Tín cũng gián tiếp không công nhận Cờ Vàng khi nói tránh ra là nhiều người trước kia đã là viên chức cao cấp trong chính quyền miền Nam đã nói với ông ta là: “Chúng tôi muốn quên lá cờ vàng ba sọc đỏ đi vì nó tiêu biểu cho một chế độ quan liêu quân phiệt, tham nhũng và thối nát, chúng tôi không muốn thừa nhận lá cờ ấy. Chế độ đó đã thất trận, thất trận do thối nát, thiếu sáng suốt, phải bỏ nước chạy ra nước ngoài.”

“Nhiều người trước kia đã là viên chức cao cấp trong chính quyền miền Nam” là ai? Sao không thấy ông Bùi Tín kể ra? Chắc ông Bùi Tín thừa biết sự tham nhũng và thối nát của các viên chức của chế độ quân phiệt miền Nam trước kia dù ở múc độ nào đi chăng nữa, cũng không bằng 1% sự tham nhũng và thối nát của các quan chức trong chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện nay. Vậy sao ông Bùi Tín không phủ nhận Cờ Đỏ Sao Vàng?

Việt Nam Cộng Hòa tuy không còn nữa, nhưng Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ vẫn là căn cước của người Việt tỵ nạn Cộng Sản ở hải ngọai. Ông Bùi Tín là người đã tỵ nạn tại Pháp, nhưng ông không phải là tỵ nạn Cộng Sản vì ông không công nhận Cờ Vàng. Vì thế chúng ta, những người Việt tỵ Nạn Cộng Sản không có lý do gì phải tiếp nhận ông như người cùng chiến tuyến.

Tóm lại, Bùi Tín có thể là người bất đồng chính kiến với giới lãnh đạo CSVN hiện nay, nhưng ông vẫn tôn thờ HCM, một tên tội đồ của dân tộc và chưa dứt khóat hẳn với chủ nghĩa Cộng Sản. Ông không chủ trương phải lật đổ chế độ Cộng Sản mà chỉ muốn cải sửa chế độ đó và hòa hợp hòa giải với bọn lãnh đạo Hà Nội. Ông tuy là người tỵ nạn chính trị, nhưng ông không phải là người tỵ nạn Cộng Sản. Người tỵ nạn Cộng Sản là người tỵ nạn chính trị. Nhưng người tỵ nạn chính trị chưa chắc đã là người tỵ nạn Cộng Sản. Ông Hòang văn Hoan và ông Bùi Tín là những người ở trong trường hợp này, chỉ khác là ông Hòang văn Hoan thuộc phe thân Tầu nên đã chọn nước Tầu để tỵ nạn. Còn Bùi Tín thuộc phe cánh thân Nga, nhưng nước Nga lúc đó chế độ CS đã xụp đổ, nên Bùi Tín đành phải chọn nước Pháp để tỵ nạn chính trị. Mai mốt, nếu phe cánh thân Tầu thất thế, phe thân Nga hay thân Mỹ giành lại được quyền hành, chắc chắn Bùi Tín, nếu còn sống, sẽ trở về Việt Nam, dù chế độ Cộng Sản vẫn còn ngự trị đất nước Việt Nam. Ngòai ra, những đề tài mà ông Bùi Tín viết, đều là những đề tài mà người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản đều biết cả, chỉ khác là do chính một một cựu đảng viên cộng sản nói ra mà thôi.

Đó cũng là câu trả lời cho những ai còn thắc mắc: “Tại sao trước kia, thời Đệ Nhất VNCH, chúng ta đã có cả một chính sách để chiêu hồi người Cộng Sản, bây giờ Bùi Tín, một người đã bất đồng chính kiến với Cộng Sản, tại sao chúng ta lại không đón nhận Bùi Tín?” Hơn nữa, chính Bùi Tín cũng không bao giờ tỏ ra ăn năn, hối hận về những tội lỗi của mình và cũng không bao giờ ngỏ ý muốn hồi chánh.

Lê Duy San

Người bị cầm tù, nhạc cũng bị cầm tù - Trần Việt Trình


Trần Việt Trình

Đúng vậy! Nhạc sĩ Việt Khang ở trong nước, chỉ với hai bài nhạc Việt Nam Tôi Đâu? và Anh là Ai? đã bị nhà cầm quyền CSVN bắt bỏ tù, bỏ tù người và bỏ tù cả nhạc. Hai bài hát này đã trở thành một thứ “quốc cấm”, không ai được hát, không ai được lưu truyền.

Thực chất hai bài hát đó là gì? Lời nhạc không mang tính hằn học, nhưng mang một sức mạnh truyền cảm thức tỉnh lòng người, đánh động tiềm thức sâu thẳm của mọi người, tạo nên sự phẫn nộ trong lòng người, thôi thúc họ phải suy nghĩ về số phận nghiệt ngã của quê hương dân tộc.

Nghe hai bài hát này ai cũng mang những uất hận nghẹn ngào trước cảnh Trung Quốc xâm lược vùng biển Việt nam, ai cũng đau xót trước cảnh kẻ quyền thế thì giàu sang trên sự lường gạt, trong khi đa số người dân thật thà thì sống nghèo nàn, khổ cực, đoạ đày và bị hiếp đáp. Người dân trong nước khi nghe hai bài hát này như nghe tiếng lòng mình đang thổn thức còn người sống ở nước ngoài khi nghe hai bài hát này thì bao nao nức dồn dập hướng lòng về quê hương đang đau khổ và lâm nguy.

Hai bản nhạc đó đã làm cho chế độ độc tài CSVN run sợ và họ đã bắt Việt Khang. Họ bỏ tù người và bỏ tù cả nhạc. Ở trong nước không ai dám công khai hát hai bài hát này.

Nói đến nhạc cấm lưu hành tôi mới nhớ đến số phận bản nhạc Tàu đêm năm cũ xảy ra cách đây hai tuần. Bài hát mà cứ như là người. Bị cầm tù 37 năm nay, cuối năm vừa rồi bài hát được nhà cầm quyền ký giấy phóng thích, mới hít thở không khí tự do được chừng 6 tháng thì lại bị lôi cỗ vô tù nằm trở lại. Số là Cục Nghệ thuật biểu diễn (NTBD) ngày 29 tháng 11 năm 2011 đã ký giấy phép đồng ý cho phổ biến bài hát trên của Trúc Phương cùng với bài Hoa nở về đêm của Trần Thiện Thanh, nhưng ngày 26 tháng 6 vừa qua cũng chính Cục NTBD lại ký quyết định thu hồi sản phẩm có hai bài hát do chính mình cấp phép. Chuyện bắt nguồn từ việc ca sĩ Vi Thảo ở trong nước hợp đồng với Bến Thành Audio để sản xuất album nhạc lấy tên bài hát Tàu đêm năm cũ làm chủ đề. Bến Thành Audio đứng tên liên kết với Nhà xuất bản Âm nhạc để xuất bản. Bến Thành Audio đã làm đúng thủ tục, làm đơn xin phép Cục NTBD để ca sĩ Vi Thảo được hát hai ca khúc “ngày xưa” mà nhiều người miền Nam rất yêu thương: Tàu đêm năm cũ và Hoa nở về đêm.

Phát hành chưa đầy một tháng, album Tàu đêm năm cũ đã bị Cục NTBD gửi quyết định yêu cầu thu hồi nhưng không đưa ra lý do xác đáng. Cục NTBD chỉ cho biết “chưa cho phép phổ biến bài hát Tàu đêm năm cũ do tác giả Trúc Phương sáng tác”. Vấn đề cần đặt ra ở đây là tại sao Cục NTBD đã cấp phép rồi lại thu hồi?
Cục NTBD cho biết thêm lý do thu hồi là: “có một số ca từ không phù hợp trong ca khúc Tàu đêm năm cũ”. Như thế nào là “ca từ chưa phù hợp”? Chúng ta hãy nghe qua lời ca của bản nhạc này. Lời nhạc chính thức của Trúc Phương như sau:

    Trời đêm dần tàn tôi đến sân ga
    Đưa tiễn người trai lính về ngàn
    Cầm chắc đôi tay ghi vào đời tâm tư ngày nay
    Gió khuya ôi lạnh sao, ướt nhẹ đôi tà áo
    Tàu xa dần rồi, thôi, tiếc thương chi khi biết người ra đi vì đời
    Trở gót bâng khuâng, tôi hỏi lòng đêm nay buồn không,
    chuyến xe đêm lạnh không
    (Gió khuya ôi lạnh không)?
    Để người yêu vừa lòng
    Đêm nay lặng nghe gió lùa qua phố vắng,
    Trăng rằm về xa xăm
    Trong giây phút này, tôi mơ ước sao nằm trọn vào tay nhau
    Ngày tháng đợi chờ, tôi đến sân ga nơi tiễn người trai lính ngày nào
    Tàu cũ năm xưa mang người tình biên khu về chưa?
    Trắng đêm tôi chờ nghe tiếng tàu đêm tìm về
Hình bóng người “Chinh phu trong lòng người cô phụ” là một hình ảnh đẹp trong trái tim muôn người. Lời ca cũng không nhất thiết mang hình ảnh của người lính VNCH mà còn phảng phất bóng dáng “nón cối, dép râu” của bộ đội “ra đi vì đời”. Nhưng dầu sao thì cũng không nên vì định kiến nhỏ mọn “bên này hay bên kia” mà khước từ sự hiện diện vô tư của nó.

Ngày xưa ở miền Nam cũng như ngày nay ở hải ngoại, trong các ca khúc nhạc Việt, chúng ta vẫn không hề có chút kỳ thị nào những bài hát lời ca mang tính nhân bản, cho dầu là xuất phát từ miền Nam hay miền Bắc.

Trước 1975, có những ca khúc và những bài thơ có nguồn gốc từ miền Bắc đã được lưu hành rộng rãi tại miền Nam, thậm chí được các nhạc sĩ trong Nam phổ nhạc. Bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” của Hữu Loan được Phạm Duy phổ nhạc thành “Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà” đã trở nên nổi tiếng trong Nam, đã bị cấm trên toàn miền Bắc. Bài thơ “Các Anh Đi” là của một thi sĩ miền Bắc được Văn Phụng phổ nhạc. Ca khúc “Đợi Anh Về Em Nhé” thơ của Konstantin Simonov, lời dịch của Tố Hữu, do Văn Chung phổ nhạc cũng được ban hợp ca Thăng Long trình diễn nhiều năm. Thậm chí, ca khúc “Sơn Nữ Ca” của Trần Hoàn cũng được các ca sĩ Sài Gòn hát rất nhiều. Trần Hoàn là ai? Sau 75, Trần Hoàn là trưởng Ty Thông tin Bình Trị Thiên và ông đã làm đến bộ trưởng Bộ Văn Hoá Thông Tin, cơ quan có quyền ra lệnh cấm nhạc.

Suy cho cùng, chuyện lời ca tiếng nhạc của một bài hát, chuyện vặt vãnh trong khi đất nước đã được “hòa bình” hơn 1/3 thế kỷ rồi mà họ vẫn xoi mói một cách hèn mọn như vậy thì nói gì đến chuyện trọng đại, lớn lao là hòa hợp, hòa giải dân tộc mà họ thường rêu rao? Chỉ có bịp bợm người dân trong nước và lừa gạt công luận thế giới mà thôi!

Suy cho cùng, không ai cầm tù một bài hát. Tàu đêm năm cũ là một dẫn chứng cụ thể cho điều đó với toàn thể đồng bào trong và ngoài nước. Hành vi thiếu văn hóa đó nói lên bản chất hèn mọn chắc chắn chúng ta không tìm thấy được ở bất cứ mộtquốc gia văn minh nào trên thế giới hiện nay, trừ chế độ CSVN.

Chuyện Tàu đêm năm cũ cũng gợi cho chúng ta nhớ lại nhiều vụ cấp phép chồng chéo và bất nhất gần đây giữa các cơ quan cho phổ biến các ca khúc trước 75, chuyện cấp phép cho các chương trình nhạc của nghệ sĩ trong nước, của nghệ sĩ hải ngoại về trình diễn và cả nghệ sĩ quốc tế nhưng rồi bỗng bị thu hồi trước giờ diễn.

Ai cũng thừa biết “văn hóa nghệ thuật là một mặt trận” và là một lĩnh vực rất “nhạy cảm” của nhà cầm quyền CSVN. Nhà cầm quyền CSVN quy định, việc trình diễn và phát hành các tác phẩm âm nhạc trước 1975 cũng như của hải ngoại ngày nay phải làm thủ tục xin phép Cục hoặc Sở từng bài hát một.

Chúng ta hãy đi trở lại con đường cầm tù 37 năm nhạc vàng miền Nam của nhà cầm quyền CSVN.

Mãi cho đến khi bắt đầu thời kỳ “Đổi mới” thì các ca khúc nhạc vàng miền Nam mới dần dà được nhà cầm quyền CSVN xét lại và cho phổ biến một cách rất hạn chế tuỳ theo tác giả và tác phẩm. Năm 1986, lần đầu tiên nhà cầm quyền CSVN cho công bố danh mục 36 tác phẩm âm nhạc của miền Nam trước kia được phép công khai trình diễn. 11 năm sau ngày “giải phóng” người miền Nam, 36 ca khúc trong hàng ngàn ca khúc của người miền Nam mới được “giải phóng”. Để tránh né nhạc vàng, Bộ Văn hóa đề nghị cổ xúy nhạc xanh, tức nhạc trẻ của thời đại “Đổi Mới” nhưng không thành. Số người nghe nhạc vàng ngày càng đông, không chỉ ở miền Nam mà cả ở miền Bắc, thậm chí nhạc vàng còn theo chân người Việt đi lao động ở Liên Xô và các nước Đông Âu vào thập niên 1980. Nhà cầm quyền tỏ ra bất lực và thất bại trước phong trào nhạc vàng sống lại.

Theo một bản tin đăng trên báo Thanh Niên ở trong nước thì tính đến năm 2008, con số ca khúc được cấp phép cho phổ biến có khoảng 1000 bài. Tờ Thanh Niên cho biết năm 1989, 49 bài hát sáng tác trước 1945 được cho phép trình diễn. Đến năm 1991, thêm 66 ca khúc trước 1975 được cấp phép. Một năm sau, thêm 66 ca khúc nữa, rồi thêm 90 ca khúc nữa. Tính cho đến nay, sau nhiều đợt cho phép nhỏ giọt, con số bài hát trước 1975 được cho phép đã nhiều hơn 1000 bài.

Vào năm 2008, Cục NTBD đã tuyên bố danh sách ca khúc được phổ biến công khai trên trang web của cục nhưng trên thực tế, đến tháng 1 năm 2012, việc làm này mới được thực hiện. Dầu vậy, số lượng ca khúc đưa lên cũng mới chỉ có 319 bài. Cục NTBD cho biết danh sách này còn nữa nhưng suốt từ tháng 1 đến nay, vẫn chưa thấy có thêm bài hát cho phép nào được cập nhật.

Không rõ vì lý do gì mà Cục NTBD chưa chịu công khai rộng rãi danh mục ca khúc đã được phép phổ biến. Gần đây, ông Phạm Đình Thắng, Phó cục trưởng Cục NTBD khẳng định quan điểm của Cục NTBD là “tất cả đều được công khai, không có gì phải giấu”. Ông cho biết những năm trước, danh sách ca khúc vẫn được gởi cho phòng chuyên môn của các sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch nhưng chắc vì lý do nào đó nên đã thất lạc!!!??? Khi được hỏi tại sao đến thời điểm này, danh mục ca khúc được phổ biến đăng tải trên trang web của cục cũng chỉ có 319 bài thì ông Thắng cho biết việc này đã giao cho Phòng Tổ chức Biểu diễn, chắc phòng đang cập nhật!!!???

Bài báo cũng nói rằng, có khoảng trên 10 ngàn bài hát được sáng tác trước 1975 trở ngược về thời điếm 1945. Tính như vậy thì, nói nôm na, con số được cấp giấy phép trình diễn chỉ vào khoảng 10 phần trăm trên tổng số 10 ngàn bài. Nói một cách khác, cứ 10 bài được sáng tác thì hết 9 bài còn bị giam giữ, cầm tù, chưa được phóng thích.

Ngày nay, không ít ca sĩ trong nước có cơ hội ra nước ngoài thoải mái, tự do, trình bày những bài hát “xưa cũ” được yêu thích nhưng bị cấm đoán không cho trình diễn ở trong nước. Trong khi đó thì hiện nay chúng ta cũng có nhiều ca sĩ, nhạc sĩ và nghệ sĩ từng bỏ xứ đi tìm tự do nay về nước trình diễn, có người sống hẳn ở Việt Nam. Ai sao chưa nói tới, trường hợp Phạm Duy thì thật là chướng tai gai mắt!

Tưởng cũng cần nhắc lại, từ những năm 1950, Phạm Duy đã tỏ ra bất phục tùng chính quyền cách mạng, rồi ông rời bỏ cách mạng để xuôi Nam. Từ đó, nhạc của ông bị liệt vào hạng phản động và tên tuổi của ông bị đem ra phê phán. Thời kỳ ở miền Nam và một thời gian dài sau 1975, ông có quan điểm chống Cộng mạnh mẽ thể hiện qua nhiều sáng tác, điều đó khiến ông bị phe CS kết án gắt gao. Tại Hoa kỳ, thời gian đầu ông sáng tác một số ca khúc nói lên nỗi buồn tha hương, cũng như đả phá chế độ CS tại VN. Do vậy mà trong suốt 30 năm từ 1975 đến 2005, Phạm Duy bị nhà cầm quyền CSVN cấm đoán và những ca khúc của ông bị liệt vào loại nhạc quốc cấm.

Dầu sao thì Phạm Duy cũng là một “tài năng âm nhạc” của Việt Nam. Ở hải ngoại, nhạc của ông được hát tự do, chẳng ai cấm, ông cũng chẳng cần phải xin phép ai. Ấy vậy mà ở vào cái tuổi cửu thập cổ lai hy, ông lại mò về VN “Xin chọn nơi này làm quê hương, dẫu cho khó thương”, xin xỏ, quỳ luỵ một chế độ mà ông đã từng từ bỏ, chầu chực họ nhỏ giọt phóng thích những đứa con tinh thần của ông. Tính đến nay thì ông cũng chỉ mới giải vây được 118 ca khúc trong tổng số cả ngàn bài hát của ông bị cầm tù ba mươi mấy năm nay.

Tuổi đời của tôi và Phạm Duy cách nhau xa chừng. Tôi không dám nặng lời với Phạm Duy vì không biết nếu mình được may mắn sống dai như ông, về già, cuối đời, mình có làm những chuyện ngu xuẩn như vậy không? Sợ nói trước bước không qua. Tôi chỉ có thể nói: ngu đến thế là cùng!!!

Trần Việt Trình



Phải làm gì khi nhật báo Người Việt nhục mạ “VNCH là bè lũ Việt gian tay sai của Mỹ” - Đào Nương Hoàng Dược Thảo




Hình ảnh đồng bào biểu tình trước toà soạn báo Người Việt khi báo này nhục mạ lá cờ vàng năm 2007

Đào Nương Hoàng Dược Thảo
Tuần báo Saigon Nhỏ số ra ngày Thứ Sáu 13 tháng 7, 2012

Từ nhiều năm nay, khi có dịp xuất hiện trên các diễn đàn có sự hiện diện của người Mỹ, Đào Nương tôi vẫn lập đi, lập lại rằng: Đừng đề cập tới chiến tranh Việt Nam như một chuyện của quá khứ khi mà người dân Việt Nam sinh sống tại miền Nam trước 1975 vẫn còn là những công dân hạng hai của chế độ cầm quyền hiện nay tại Việt Nam. Sự trả thù tàn độc của đảng cộng sản Việt Nam dành cho “thành phần” mà họ gọi là ngụy quân, ngụy quyền tức quân, dân, cán, chính của VNCH thì còn hiểu được. Nhưng sự thật thì, đã hơn 3 thập niên, đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn tiếp tục trả thù trên thế hệ con và cháu của “ngụy”. Thử đi vào những con đường chính của các thành phố miền Nam ngày nay xem thành phần chủ nhân của tất cả các cơ sở thương mại ở đó là ai? Họ là những người nói tiếng Bắc, nếu không phải là vợ con của cán bộ đảng CS cao cấp thì cũng là bà con trực thuộc của họ.

Không lẽ toàn thể dân tộc Việt Nam chỉ có bọn cán bộ Bắc Cộng là thông minh, là giỏi làm thương mại? Có phải họ giàu là nhờ làm ăn lương thiện trên thương trường? Thực tế đã chứng minh đó chỉ là một đảng cướp làm giàu nhờ cướp đất, cướp nhà của dân, bán tài nguyên thiên nhiên, bán biển, bán đất cho ngoại bang! Từ hai thập niên qua, chúng tồn tại nhờ cái tình cảm tiểu tư sản của người Việt hải ngoại gửi mỗi năm hàng chục tỷ đô la Mỹ về Việt Nam để trợ giúp cho thân nhân! Như thế thì chiến tranh Việt Nam, tiếng súng tại Việt Nam đã chấm dứt với người ngoại quốc nhưng với toàn dân Việt, nhất là những người Việt sinh sống tại miền Nam, những công dân của Việt Nam Cộng Hoà, cuộc chiến đó chưa hề kết thúc, nếu không muốn nói rằng, cuộc chiến đó càng ngày càng sâu đậm, tỷ lệ thuận với sự tham ô và dã man của bọn Việt Cộng từ khi chúng chiếm trọn cả Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam không phải là một chính quyền dân cử của toàn dân Việt Nam mà mà một đảng cướp. Sau khi cướp được chính quyền, họ đã dùng quyền thống trị để cướp tài sản của dân, tài nguyên của đất nước làm của riêng.

Điều đó giải thích được tại sao tinh thần chống Cộng của các cộng đồng người Việt hải ngoại không hề suy giảm theo thời gian nếu không muốn nói là ngược lại. Bằng mọi cách, mọi phương tiện dù hạn hẹp, người Việt hải ngoại đã thành công trong việc gìn giữ lá cờ vàng ba sọc đỏ của dân tộc Việt Nam tung bay khắp nơi trên thế giới; trong khi ngọn cờ đỏ màu máu của Việt Cộng chỉ tóm gọn trong các cơ sở ngoại giao của Việt Cộng.
Khi chiến tranh chưa chấm dứt thì có nghĩa là lằn ranh Quốc Gia và Cộng Sản vẫn còn hiện hữu. Đối với người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại thì khi chọn đứng bên này hay bên kia chiến tuyến, chúng tôi sẽ nhận diện anh là bạn hay thù. Đối với 85 triệu người Việt Nam, đảng cộng sản là kẻ thù của dân tộc Việt Nam.

Ngày 30 tháng 4 không chỉ là một ngày đau buồn của riêng miền Nam mà là ngày đại hoạ của đất nước, một trang sử đen tối của dân tộc! Nhìn lại, những gì xảy ra cho Việt Nam ngày nay kể từ khi Việt Cộng chiếm trọn đất nước: Chúng ta không chỉ mất đất, mất biển, mất đi chủ quyền đất đai vào tay Tàu Cộng mà tai hại hơn là sự tham ô và ngu xuẩn của bọn cán bộ cộng sản đã làm băng hoại đạo đức xã hội, suy đồi luân lý đạo đức của dân tộc Việt Nam. Nền giáo dục dựa trên căn bản lý lịch của bọn cộng sản đã, đang, và sẽ tiếp tục đưa những thế hệ trẻ Việt Nam vào con đường mù chữ hay biết chữ mà như mù so sánh với mức độ dân trí của các quốc gia lân bang. Biết vậy nhưng thay vì thay đổi tình trạng giáo dục trong nước thì chúng lại cho con cái của chúng sang Pháp, Úc, Canada, Hoa Kỳ... tỵ nạn về giáo dục. Chúng đã tạo ra những thế hệ trẻ không biết gì về lịch sử, về quá khứ đáng hãnh diện của tiền nhân nước Việt, về những đại họa mà đảng cộng sản Việt Nam đã gây ra cho dân tộc Việt Nam.

Ai có thể vui được trong ngày 30 tháng 4? Dù ở bên này hay bên kia chiến tuyến? Ngày nay còn ai không biết về tội ác của Hồ Chí Minh? Về những đại họa mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu từ khi Đảng CSVN thành lập. Ngày 30 tháng 4 không chỉ quan trọng với người Việt tị nạn cộng sản mà còn cả với những người ở miền Bắc Việt Nam. Đó là một ngày mà ngàn đời sau, lịch sử Việt Nam sẽ phải ghi lại: Đó là một ngày lịch sử đau thương cuả dân tộc Việt khi vì lợi ích chiến lược toàn cầu, Hoa Kỳ đã chọn một quyết định vô nhân đạo khi quay lưng với một đồng minh mà trong 20 năm chiến tranh, họ đã đẩy ra làm thành trì để ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Hậu quả của cái chiến lược “thua để thắng” đó của người Mỹ đã gây di hại lâu dài cho đất nước Việt Nam của chúng ta không chỉ vài chục năm sau cuộc chiến mà còn tồn tại kéo dài nhiều thế hệ sau.

Nhưng đó không phải là quan điểm của báo Người Việt, cơ quan ngôn luận đã khiến người Việt trong vùng Little Saigon biểu tình từ bao năm nay vì chủ trương thân cộng một cách lộ liễu của họ. Từ 20 năm qua, tôi đã lột mặt nạ báo người Việt nhiều lần. Từ thập niên 80, báo Người Việt đã sưu tầm tài liệu cho Việt Cộng khi cho tổ chức cuộc thi viết về nạn đói năm Ất Dậu song song với tin Việt Cộng kiện Nhật bản đòi đền bù cho nạn nhân nạn đói năm Ất Dâu (1945). Toà soạn báo Người Việt đã bị đốt sau khi đài truyền hình của Người Việt phát hình cờ Việt Cộng chạy trên sông Thủ Thiêm. Sau mỗi lần bị lột mặt nạ, báo Người Việt lại sa thải người chịu trách nhiệm biên tập. Sa thải kiểu “đèn trống quân” vì sau một thời gian, khi mọi việc lại lắng dịu thì người bị sa thải này lại được thu hồi vào vị trí cũ.

Đến năm 2007 thì vai trò đi đêm của báo Người Việt và cộng sản không còn là một nghi ngờ. Khi cuộc biểu tình của đồng bào Việt Nam chống báo Người Việt in hình VNCH trong chậu nước rửa chân đang sôi nổi thì hình ảnh ông Đỗ Ngọc Yến, cố chủ nhiệm và là người sáng lập ra báo Người Việt chủ tọa buổi họp với Nguyễn Xuân Phong và Nguyễn Tấn Dũng, nguyên lãnh sự CSVN tại San Francisco, được phát tán ra ngoài. Hình được chụp từ năm 1997, khi Nguyễn Tấn Dũng là trưởng phái đoàn thương thảo phía Việt Cộng trong Hiệp Định Thương Mại đầu tiên của Hoa Kỳ với Việt Nam sau khi bỏ cấm vận. Hai khuôn mặt quen thuộc trong cộng đồng người Việt tại Nam Cali hiện diện trong hình bên cạnh Đỗ Ngọc Yến là Võ Tá Chước, em trai của nhạc sĩ Võ Tá Hân và Lê Quí Biên. Tin đồn là chính Lê Quí Biên là người tung những bức ảnh này ra ngoài chưa được kiểm chứng thì tin Lê Quí Biên bị đụng xe chết ở Hà Nội bay đến Hoa Kỳ. Ngẫu nhiên hay dàn dựng? Chết vì tai nạn xe cộ ở Việt Nam thì không hiếm nhưng chết ngay khi hình ảnh đi họp với Việt Cộng cao cấp cỡ Nguyễn TấnDũng, Nguyễn Xuân Phong cùng với Đỗ Ngọc Yến “được” phổ biến khi cuộc biểu tình chống báo Người Việt đang diễn ra thì quả thật là một “tình cờ của lịch sử” vậy.

Nhưng tất cả những “lỗi lầm” kỹ thuật trên đây của báo Người Việt chỉ là chuyện nhỏ.

Người Việt tỵ nạn cộng sản hình như có trí nhớ rất ngắn nên chuyện vượt biên, mười phần chết bảy còn ba, chuyện tù cải tạo, chết năm còn một không sao hết. Tất cả rồi cũng qua và quảng cáo trên báo Người Việt vẫn nhiều, báo Người Việt vẫn tồn tại để làm công cụ tuyên truyền cho Việt Cộng với sự hợp tác của nhiều ông “ngụy quân, ngụy quyền”, những ông từng ở tù cộng sản lâu năm. Nhiều ông sĩ quan cao cấp, chính trị gia của VNCH vẫn dùng hội trường của báo Người Việt để ra mắt sách, để nói chuyện về dân chủ và nhân quyền trong khi các cuộc biểu tình đả đảo cuả đồng bào vẫn ở bên ngoài. Ngay cả các hội đoàn, đoàn thể đấu tranh chống Cộng, khi phân ưu, chia buồn cũng “nhào” vô mảnh đất này! Chúng tôi nêu ra vấn đề này, không phải để cạnh tranh nghề nghiệp mà muốn nói lên “cái vô tư” của một cơ quan ngôn luận đấu tranh chống cộng. Làm báo Việt ngữ chống cộng mà những người thuộc HĐQT báo Người Việt đi ra đi vào Việt Nam như đi chợ, không sao cả… Thế là thế nào? Phải chăng báo Người Việt đã có một cương lĩnh mới?

Có phải vì vậy mà ngày Chủ Nhật, 8 tháng 7-2012 vừa qua, trong phần Diễn Đàn, báo Người Việt đã có một cái “thư độc giả” “đáng giá”, một cái tát làm “vỡ mặt” người Việt Nam tị nạn cộng sản vẫn coi ngày 30 tháng 4 là một ngày đau buồn cuả đất nước. Mấy hôm nay, tôi nhận được nhiều cú điện thoại, nhiều điện thư phẫn nộ phản đối báo Người Việt về chuyện này. Nhưng theo tôi, bức thư “độc giả” này chỉ là một bằng chứng thêm về mối liên hệ “mật thiết” giữa những người đang điều hành nhật báo Người Việt và đảng cộng sản Việt Nam, vì ngày nay, 6 năm sau ngày ông Đỗ Ngọc Yến qua đời (ngày 17 tháng 8/ 2006) và 4 năm sau ngày lá cờ VNCH xuất hiện trên báo Người Việt trong chậu nước rửa chân, “độc giả” Sơn Hà đã lên tiếng một cách “dõng dạc, hùng hồn” trên mặt báo Người Việt số ra ngày Chủ Nhật 8 tháng 7, năm 2012 nhục mạ toàn thể người Việt tị nạn cộng sản, nhục mạ toàn thể quân dân, cán chính, của VNCH bằng một thứ luận điệu và ngôn ngữ cộng sản “nhà nòi”. Một bài viết mà khi đọc xong, Đào Nương tôi, một người làm báo không chấp nhận cộng sản, đã thấy rằng không còn ngôn ngữ gì để nói thêm ngoài việc xác định chiến tuyến giữa bạn và thù ngày nay đã rõ. Sau đây là nguyên văn bài viết của “độc giả” Sơn Hà trên mặt báo Người Việt để trả lời bài viết của Nguyễn Gia Kiểng về “Vết Thương Ngày 30 tháng 4”

Lời lẽ bóp méo sự thật của Nguyễn Gia Kiểng:

Kỷ niệm ngày chiến thắng 30-4 liền kề với ngày quốc tế lao động ngày 1-5 làm cho niềm vui của chúng ta được nhân lên gấp bội. Cả dân tộc vui mừng, tự hào, tất cả những người lao động vui mừng, tự hào. Nhưng lạ thay, ông Nguyễn gia Kiểng đã viết bài “Vết thương ngày 30 tháng 4” đưa lên mạng Internet, theo đó đã sặc mùi chia rẽ Nam Bắc, làm như thể miền Nam, Sài gòn là một miền đất khác Việt Nam, một dân tộc khác Việt Nam, làm như thể từ ngày 30 tháng 4, 1975 thì miền Nam Sài Gòn mất tất cả, bị xâm lăng tất cả! Không hiểu ông có thâm thù gì với cách mạng, thâm thù gì với dân tộc mà lại than thở như vậy. Ông quên mất điều đơn giản, tối thiểu là chỉ có đội quân xâm lược Mỹ và bè lũ Việt gian tay sai của Mỹ là thất thủ, là mất miền Nam, mất Sài Gòn, còn dân tộc Việt Nam, cả Nam lẫn Bắc là người thắng trận, thu giang sơn về một mối, chấm dứt ách thống trị của thực dân mới. Chỉ có người mất trí mới viết như ông Nguyễn Gia Kiểng rằng “Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã không đến trong niềm vui thống nhất đất nước, hòa giải và hòa hợp dân tộc mà mọi người mong ước”. Viết như vậy là hoàn toàn xuyên tạc và bóp méo sự thật. Sự thật là sau ngày chiến thắng 30 tháng 4, 1975 thì một loạt sự kiện lịch sử ra đời, đánh dấu sự thống nhất nước nhà. Đó là Việt Nam có một nhà nước thống nhất, bao gồm một Quốc Hội thống nhất, một chính phủ thống nhất, có cơ cấu tổ chức chính quyền các cấp thống nhất cả nước, nói chung có cơ cấu hệ thống chính trị các cấp thống nhất cả nước, có nền giáo dục thống nhất cả nước, có nền y tế thống nhất cả nước, cả nước có đồng tiền chung và một thị trường thống nhất, người Việt Nam đi lại tự do trên toàn cõi Việt Nam… Ngày 30 tháng 4, 1975 là ngày hội của toàn dân đoàn kết, chiến thắng. Đặc biệt, Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bao gồm các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, đồng bào các tôn giáo và không tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, các nhân sĩ, các cá nhân tiêu biểu… xóa bỏ hận thù, thành kiến giai cấp, gác quá khứ, nhìn về tương lai, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường cùng nhau xây dựng và bảo vệ tổ quốc thống nhất. Nhân dân trong nước và cả thế giới chứng kiến sau 30 tháng 4, 1975 không hề có tắm máu, không hề có trả thù. Có một số người trong ngụy quân ngụy quyền, trong đó có số nợ máu với nhân dân, thậm chí đã có tội ác tày trời, đã được tổ chức học tập, cải tạo, nhằm khêu gợi lòng yêu nước, tình đồng bào, nghĩa dân tộc, biết phân biệt chính nghĩa và phi nghĩa, trở lại cuộc sống có đạo lý, có nhân phẩm, làm ăn lương thiện, trở thành công dân của nước Việt Nam mới, thống nhất. Như thế là việc làm vô cùng nhân đạo, rất nhân quyền của cách mạng, chứ sao lại xuyên tạc “chính sách cải tạo là để tiêu diệt đại bộ phận thành phần tinh nhuệ và trí tuệ của miền Nam”! (ngưng trích)

Bài viết này đăng tải trong số báo ra ngày Chủ Nhật 8 tháng 7-2012. Đến ngày thứ Ba, báo Người Việt đăng lại một bài viết của vài độc giả phản biện lại luận điệu tuyên truyền này của Việt Cộng cũng trong phần thư dộc giả. Nhưng “đau buồn” nhất là sự khinh thường của báo Người Việt dành cho Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH. Lá thư phản kháng sự nhục mạ Tập Thể Chiến Sĩ VNCH là “bè lũ Việt gian tay sai của Mỹ” của báo Người Việt ký tên ông chủ tịch Phan Tấn Ngưu chỉ được đăng bên cạnh những cái thư độc giả trong mục Diễn Đàn.

Các tổ chức cộng đồng khác sẽ phản ứng ra sao? Chúng ta có nên chấp nhận quan điểm “Ngày 30 tháng 4, 1975 là ngày hội của toàn dân đoàn kết, chiến thắng. Đặc biệt, Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bao gồm các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, đồng bào các tôn giáo và không tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, các nhân sĩ, các cá nhân tiêu biểu… xóa bỏ hận thù, thành kiến giai cấp, gác quá khứ, nhìn về tương lai, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường cùng nhau xây dựng và bảo vệ tổ quốc thống nhất…”. Trong chúng ta, ai không là những nạn nhân trực tiếp của việc cộng sản bỏ tù người thân trong các trại tù cải tạo nhiều năm, chúng ta nghĩ gì, phản ứng ra sao với một cơ quan ngôn luân viết rằng:

Nhân dân trong nước và cả thế giới chứng kiến sau 30 tháng 4, 1975 không hề có tắm máu, không hề có trả thù. Có một số người trong ngụy quân ngụy quyền, trong đó có số nợ máu với nhân dân, thậm chí đã có tội ác tày trời, đã được tổ chức học tập, cải tạo, nhằm khêu gợi lòng yêu nước, tình đồng bào, nghĩa dân tộc, biết phân biệt chính nghĩa và phi nghĩa, trở lại cuộc sống có đạo lý, có nhân phẩm, làm ăn lương thiện, trở thành công dân của nước Việt Nam mới, thống nhất” (Ngưng trích)

Người đau nhất trong vụ này là Nguyễn Gia Kiểng. Có thể nói rằng nếu không có báo Người Việt thì không hề có phong trào Dân Chủ Đa Nguyên kêu gọi hoà hợp, hoà giải của Nguyễn Gia Kiểng. Mấy năm sau này, Nguyễn Gia Kiểng đã đổi thái độ vì biết rằng bọn lãnh tụ CSVN không đủ lương tri và trí tuệ để chuyển hướng về chính trị. Bây giờ thì chính báo Người Việt lại “chơi” Nguyễn Gia Kiểng.

Xin nhắc lại vì nhiều vị sang Hoa Kỳ sau 1998 có thể chưa biết về điều này: luận điệu “chính sách cải tạo là một khoan hồng cuả nhà nước dành cho những người có nợ máu với nhân dân, có tội với cách mạng” lần đầu tiên được Nguyễn Xuân Phong, tên lãnh sự đầu tiên của Việt Cộng tại San Francisco tuyên bố trong bài phỏng vấn thực hiện bởi ông Vũ Bình Nghi và đăng tải trong báo Xuân Thời Báo 1998 năm 1998 khiến đồng bào tại Bắc Cali biểu tình rầm rộ hàng tháng trời. Báo Thời Báo cuả ông Vũ Bình Nghi cũng như Liên Hội Bắc Cali bị đồng bào Bắc Cali xem như là những tổ chức thân cộng từ ngày đó. Muốn biết mặt mũi của Nguyễn Xuân Phong thì xem hình trên. Y là người số 3 phía bên trái của cố chủ nhiệm Đỗ Ngọc Yến của báo Người Việt trong ảnh trên.

Luận điệu “chính sách cải tạo là một khoan hồng cuả nhà nước dành cho những người có nợ máu với nhân dân, có tội với cách mạng” này thật ra đã không còn được ngay cả chính những cán bộ cộng sản trong nước đồng ý. Nhiều bài viết của người trong nước đã kết án chính sách cải tạo của Việt Cộng dành cho quân dân cán chính miền Nam Việt Nam là sai lầm, là đào sâu sự chia rẻ giữa hai miền Quốc Cộng, giữa Miền Nam và Miền Bắc. Thật ra, đó cũng không hẳn là đúng nếu chúng ta nhìn vào thành phần lãnh đạo và cách hành xử cuả bọn lãnh tụ cộng sản ngày nay. Chính sách cải tạo giam giữ tất cả quân dân cán chính miền Nam nhằm mục đích tiêu diệt các cấu trúc gia đình, truyền thống đạo đức, luân lý cuả xã hội miền Nam để củng cố chế độ cộng sản ngày nay không còn đứng vững. Vì sự tham ô cuả đảng cộng sản không ngừng ở việc trả thù hay tiêu diệt, cướp tài sản của những người “thất trận” ở miền Nam. Ngày nay, bọn cấp trên của đảng đã bóc lột cấp dưới không khác gì chúng đã hành xử dã man với người miền Nam VNCH mà điển hình là vụ Đoàn Văn Vươn, “kỳ tài đất Tiên Lãng” đã chứng minh. Điều đó cho thấy gì? Cán bộ cộng sản ở đâu thì cũng thế: đó là những tên vô lại, vô học có được quyền hành trong tay nên chúng lợi dụng để cướp của, bóc lột người dân, tàn phá đất nước. Ở Nga, ở Đức, ở Tàu, ở Cuba, ở Bắc Hàn… chúng sẵn sàng làm tất cả những việc vô luân nhất, ngay cả việc bán nước để đạt được mục đích. Ý tưởng xây dựng đất nước, bảo tồn văn hoá dân tộc không hề có trong đầu của chúng. Đừng nhìn vào cái bề ngoài hào nhoáng của một Trung Cộng cường thịnh về kinh tế mà quên đi những vấn đề môi sinh và nhân quyền bị xâm phạm mà người dân Hoa Lục đang phải gánh chịu. Nhưng ít ra, bọn lãnh tụ Tàu cộng còn có tinh thần quốc gia dân tộc và trí tuệ để thực hiện những điều cần phải thay đổi để tồn tại, những điều mà bọn lãnh tụ cộng sản Việt Nam không hề có. Chúng ta chưa nhìn thấy một ánh lửa cuối đường hầm cho đất nước Việt Nam là vì thế.

Không biết sau bài viết này, những “nhân vật” đã từng đăng đàn, họp báo chống báo Việt Weekly trước đây khi báo này đăng bài viết Bài Học Khó Thuộc của Hà Văn Thùy (số ra ngày 24 tháng 5 năm 2007) như các ông Trần Phong Vũ, ông Đỗ Thái Nhiên, Nguyễn Chí Thiện… sẽ làm gì? Các ông có lên tiếng họp báo kêu gọi đồng bào tẩy chay không đọc báo Người Việt, không đăng quảng cáo trên báo Người Việt như khi báo Việt Weekly đăng một bài viết cũ của Hà Văn Thủy, một tác giả trong nước? Để đối phó với tờ VW, một buổi họp báo diễn ra từ 1 giờ đến 4 giờ chiều, Thứ Bảy, ngày 16 Tháng Sáu, 2007 tại hội trường Nhật Báo Viễn Đông. Sau đó “Bản Lên Tiếng tố cáo lập trường thân Cộng và xuyên tạc lịch sử của tuần báo Việt Weekly tại Nam California” với hàng trăm nhân sĩ, đại diện tất cả các Hội Đoàn, Đoàn Thể của người Việt tị nạn CS được phổ biến rộng rãi. Điều này liệu có xãy ra khi sự nhục mạ không chỉ dành cho tập thể chiến sĩ VNCH mà còn cho toàn thể người dân sinh sống tại Miền Nam trước 1975?

Khi đăng bài của Hà Văn Thùy, báo VW cũng ghi: “Ý kiến của tác giả phản ảnh quan điểm cá nhân trên tinh thần diễn đàn, không phải của tòa soạn” thì nhật báo Người Việt cũng bắt chước báo VW viết tương tự như vậy: “Các bài viết đăng trên phụ trang diễn đàn Người Việt không nhất thiết phản ảnh quan điểm của nhật báo Người Việt, mà chỉ là quan điểm riêng của từng cá nhân”.

Đừng biện luận rằng đây chỉ là một cái thư độc giả. Vì ai là độc giả này? Một tên cán bộ đảng như Nguyễn Xuân Phong hay là cả cái Bộ Chính Trị CSVN mượn tay của một diễn đàn tự nhận là lớn nhất ở hải ngoại để nhục mạ cả VNCH là tay sai cho giặc Mỹ chỉ cần qua hình thức một cái thư “bạn đọc” như thế thì thật là quả dễ dàng. Vì thế người viết là ai không quan trọng, quan trọng là người đã đăng, đã phổ biến bài viết mới là quan trọng. (Luật pháp Hoa Kỳ có ấn định rõ về điều này)

Với lá thư nhục mạ VNCH là tay sai cho giặc Mỹ này trên báo Người Việt, hệ thống báo Saigon Nhỏ nhận định rằng báo Người Việt là một công cụ của đảng cộng sản Việt Nam và do đó, hệ thống báo Saigon Nhỏ không thể đứng cùng chiến tuyến với báo Người Việt được.

Từ nay, hệ thống báo Saigon Nhỏ sẽ ngừng đăng tải bài viết của những tác giả còn cộng tác với báo Người Việt cũng như kêu gọi đồng bào Việt Nam tị nạn cộng sản hãy đọc kỷ bài viết trên đây cuả báo Người Việt và suy nghĩ: Đã đến lúc quí vị có nên dễ dãi, tha thứ cho hành động của Việt gian? Nếu câu trả lời là không thì xin quí vị hãy suy nghĩ thêm là có nên yểm trợ cho những cơ quan ngôn luận hay những diễn đàn thân cộng tại hải ngoại khi họ đã lộ diện. Chúng ta không cuồng tín nhưng chúng ta biết rất rõ ngày nào bọn Việt Cộng còn nắm chính quyền thì dân tộc Việt Nam còn bị đày đọa, thất học, sống đời nô lệ để phục vụ cho bọn thiểu số đảng viên cộng sản sống xa hoa vương giả trên máu, mồ hôi và nước mắt của người dân Việt. Chúng ta, Người Việt tị nạn cộng sản có tự do, có dân chủ, có tài lực thì xin hãy nghĩ đến 85 triệu đồng bào ruột thịt ở bên nhà. Việt gian đáng phỉ nhổ hơn Việt Cộng vì chúng có thể có một chọn lựa khác hơn là con đường… bác đi tức con đường bi đát của dân tộc. Sau vụ này, báo Người Việt sẽ tìm cách xoa dịu sự phẫn nộ của người Việt tị nạn cộng sản bằng cách sa thải ngay vị chủ bút, TTK toà soạn như đã từng đối xử với ông Vũ Ánh hay Vũ Quí Hạo Nhiên trước đây trong vụ cái chậu nước rửa chân có lá cờ vàng một thời gian rồi sẽ thu dụng lại. Lần này, sau ông “du sinh” Phạm Phú Thiện Giao từ Đông Âu sang, không lẽ lại là ông Hạo Nhiên hay ông Đinh Quang Anh Thái lên thay? Kẹt thật! Cách hay nhất là báo Người Việt nên xin với ông Tổng Biên Tập cuả 700 tờ báo trong nước phái sang một người để chắc chắn rằng quí vị đi đúng lề phải của nhà nước ta. Không cần phải màu mè “Cơ quan Tranh Đấu Thời Sự Văn Nghệ Giáo Dục” như hiện nay. Vì Tranh Đấu thì phải chống ai chứ không lẽ chống … Thời Sự Văn Nghệ Giáo Dục. Khi báo Người Việt không chống cộng thì báo Người Việt chống ai? Hỏi tức là trả lời.

Đảng cộng sản Việt Nam đã có 700 tờ báo lề phải trong nước ca tụng cho “Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xóa bỏ hận thù, thành kiến giai cấp, gác quá khứ, nhìn về tương lai, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường cùng nhau xây dựng và bảo vệ tổ quốc thống nhất” làm trò cười cho cả nước thì còn có thể hiểu được. Nhưng việc đảng có thêm một tờ báo sống giữa lòng thủ đô tị nạn và ca tụng đảng đến như báo Người Việt thì quả thật là một “thành công vĩ đại” cuả đảng cộng sản Việt Nam trong lãnh vực tuyên truyền ở hải ngoại vậy. Ôi còn nỗi nhục nào hơn nỗi nhục này với những người tị nạn cộng sản đã mất tất cả trên đường lưu vong! Đến được đất nước tự do mà vẫn bị làm nhục đến như thế này thì quả là… nhục thật! Và cũng thật ngậm ngùi khi nghĩ đến: Oan hồn của hàng triệu chiến sĩ VNCH đã hy sinh khi chiến đấu, đã chết trong các trại tù cải tạo chỉ vì muốn bảo vệ lý tưởng tự do và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam trước hiểm hoạ xâm lăng cuả cộng sản, của hàng triệu người đã hy sinh trên đường vượt biên tìm tự do, hàng triệu đứa trẻ không được sống cho ra con người chỉ vì lý lịch của mẹ cha… Ngậm ngùi thay!

Đào Nương Hoàng Dược Thảo

Thư Hiệp Thông của Giám Mục Nguyễn Văn Long với Giáo Sứ Con Cuông, tỉnh Nghệ An



Kính gởi: Các nạn nhân và tất cả anh chị em tín hữu tại Con Cuông, tỉnh Nghệ An

Anh chị em thân mến,

Từ nước Úc Đại Lợi xa xôi, tôi cùng các linh mục, tu sĩ, giáo dân và đồng bào tị nạn cộng sản tại đây xin bày tỏ sự xúc động sâu xa trước những biến cố đang dồn dập xẩy đến với anh chị em trong những ngày qua. Thật như lời Đức Cha của anh chị em viết từ Paris: Đó là “…. những sự việc mà đáng lẽ ra không được hiện diện ở thế kỷ XXI này”. Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã dùng cả một hệ thống quân đội, công an và côn đồ như công cụ để trấn áp anh chị em đang khi thi hành một quyền căn bản và một bổn phận thiêng liêng nhất là thờ kính Thiên Chúa qua Thánh Lễ.

Thật đau buồn khi chúng ta phải chứng kiến cảnh bắt bớ, đánh đập và hành hung linh mục và các giáo dân trong khi thờ phượng. Thật xót xa khi những người làm công cụ của chế độ đã không kể việc phạm sự thánh khi đập phá ảnh tượng và gây thương tích cho các nạn nhân vô tội.Thật oái oăm khi tất cả những sự việc không bao giờ xẩy ra tại một xã hội văn minh ở thế kỷ 21, lại đang xẩy ra ở quê hương “Bác Hồ”-cha đẻ của cái gọi là xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Phải chăng thiên đàng cộng sản mà “bác” phác họa cho dân tộc ta chỉ là chiếc bánh vẽ khổng lồ? Phải chăng cái “độc lập tự do hạnh phúc” mà do hậu duệ chính trị của “bác” tuyên truyền chỉ là một cái thùng rỗng? Anh chị em tại Nghệ An cũng như nạn nhân trên khắp đất nước chính là nhân chứng của sự băng hoại của chế độ cộng sản. Chúng ta cùng tâm thức rằng, bao lâu còn cộng sản, bấy lâu đất nước chúng ta đứng trước hố sâu của tuyệt vọng.

Chúng tôi cũng đã là nạn nhân của cộng sản nhưng giờ đây được may mắn sống trong xã hội văn minh tự do. Trong tình đồng bào cũng như trong cùng một đức tin, chúng tôi muốn bày tỏ sự hiệp thông sâu xa đến các nạn nhân cũng như toàn thể anh chị em giáo dân Con Cuông. Chúng tôi ngưỡng mộ và cảm phục đức tin can trường và ý chí bất khuất của anh chị em trước bạo quyền. Chính lòng tin và ý chí này sẽ chiến thắng bóng tối của sự dữ.

Cảm ơn anh chị em đã cho chúng tôi thấy sự trân qúy của tự do mà anh chị em sẵn sàng trả bằng mọi gía, ngay cả bằng tính mạng. Sự hào hùng của đất Vinh và sự bất khuất của Nghệ An đang sống lại trong anh chị em. Bạo quyền rồi sẽ phải lui bước; bóng tối tội ác rồi cũng bị chế ngự.

Tôi xin dùng lời Đức Kitô để khích lệ anh chị em: “Đừng sợ những người chỉ làm hại thân xác mà không thể làm hại linh hồn”. Việc bạo quyền khủng bố anh chị em cho thấy sự yếu thế và báo hiệu ngày cánh chung của họ. Một thể chế không còn chính nghĩa và một chế độ không còn được lòng dân sẽ không thể tồn tại. Anh chị em không cô đơn trong khổ nhục vì công lý. Chúng tôi đồng hành với anh chị em. Những người thiện tâm đồng hành với anh chị em. Nhưng trên hết, Đức Kitô là phiến đá tảng của niềm tin và niềm hy vọng của chúng ta. Chính Đức Kitô đã chiến thắng sự dữ và tà thần qua sự đau khổ, sự chết và sống lại của Ngài. Chính Đức Kitô đồng hành và đưa anh chị em đến ngày viên mãn của công lý và sự thật trên quê hương mến yêu. Một lần nữa, chúng ta đến với Mẹ La Vang trong lúc lâm nguy ngặt nghèo:

Xin Mẹ La Vang toàn thắng nơi quê hương chúng ta.

Xin Mẹ toàn thắng ngay cả qua những đau khổ và thất bại của chúng ta.

Xin Mẹ cho chúng ta đừng nản lòng tranh đấu cho công lý và sự thật,

cho tự do và nhân phẩm của con người.

Xin Mẹ đem lại chiến thắng của ánh sáng trên tối tăm, sự lành trên sự dữ,

chí nhân trên cường bạo và đại nghĩa trên hung tàn. Amen.

Thân ái trong Chúa Kitô,

Vincent Nguyễn văn Long OFMConv
Giám Mục Phụ Tá Melbourne, Australia. 

Người Lính Việt Nam Cộng Hòa

    Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh
Hoàng Nhật Thơ

Quân đội là một tập thể lớn nhất trong một quốc gia, được hình thành từ đủ mọi thành phần trong xã hội ở khắp mọi miền đất nước theo luật động viên hoặc tổng động viên ... Vì thế tập thể quân đội rất phức tạp nhưng sự phức tạp này đã được trui rèn trong những lò luyện thép để trở thành một tập thể kỷ luật nhất với trách nhiệm cao quý "Bảo Quốc-An Dân".

Quân Đội Quốc Gia Việt Nam được Quốc Trưởng Bảo Đại thành lập năm 1949 cho đến khi chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa ra đời ngày 26/10/1955, Vị Tổng Thống dân cử đầu tiên của nước Việt Nam, Tổng Thống Ngô Đình Diệm với tư cách là nguyên thủ quốc gia kiêm tổng tư lệnh tối cao đã cải danh Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, danh xưng thân thương này được trân quý giữ cho đến ngày hôm nay và mãi mãi.

Từ sau cuộc chính biến ngày 01/11/1963, cuộc chỉnh lý tháng 01/1964 cho đến năm 1965, tình hình chính trường Miền Nam Việt Nam thật sự rối ren, bất ổn bởi những cơn lốc chính trị ... tên đồ tể Hồ Chí Minh và bọn CSBV đã lợi dụng tình trạng này để gia tăng đánh phá trong mưu đồ thôn tính MNVN. Trước những cơn phong ba chính trị với cơn bão lửa chiến tranh lan dần và sau nhiều phiên họp của Thượng Hội Đồng Quốc gia ... Chính phủ dân sự do Thủ Tướng Phan Huy Quát lãnh đạo đã quyết định trao quyền lãnh đạo đất nước lại cho quân đội.

Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương được thành lập và trình diện trước quốc dân ngày 19/06/1965. Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu với tư cách là Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, đã thay mặt đại gia đình quân đội nhận lãnh trọng trách lèo lái con thuyền Quốc Gia trong cơn nghiêng ngả của đất nước. Vì thế ngày 19/06 được gọi là ngày Quân Lực, chớ không phải là ngày Thành lập Quân Lực VNCH như một số người đã hiểu sai.

Kể từ giờ phút lịch sử này, QLVNCH vinh dự gánh vác thêm trọng trách nặng nề hơn đối với quốc gia, dân tộc ... Người Lính VNCH ngoài trách nhiệm "Bảo Quốc-An Dân", họ còn phải chèo chống con thuyền Quốc Gia trong cơn bão lửa chiến tranh trên dòng sông lịch sử.

Nói đến quân đội là phải nói đến Người Lính, những người đã đem cả cuộc đời, một phần thân thể và sinh mạng để bảo vệ hai chữ Tự Do cho Miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến tang thương kéo dài 20 năm bởi cuồng vọng nhuộm đỏ cả quê hương do tên tội đồ Hồ Chí Minh và bọn CSBV gây nên.

Nhân dịp lễ kỷ niệm Ngày Quân Lực lần thứ 46, người viết xin được trải lòng mình trong những dòng chữ hạn hẹp, kính cẩn Vinh Danh-Tri Ân Người Lính VNCH, những người đặt Tổ Quốc_Dân Tộc lên trên hết, những người trân quý Tổ Quốc-Dân Tộc hơn cả mạng sống của mình.

Trước khi gói trọn cuộc đời trong chiếc áo trận phủ dày bởi khói lửa sa trường, họ là những thanh niên sống dưới khung trời Tự Do của Miền Nam Việt Nam, ý thức được trách nhiệm của người trai trong thời loạn ... Họ từ giã học đường, xếp lại con đường công danh khoa bảng vào trang vở thơm mùi giấy học trò, giã biệt người yêu trong tiếng ve ngân ngày tháng Hạ, những cành phượng vỹ đỏ thắm nhẹ đong đưa trong gió như vẫy tay tiễn người đi khoác chinh y, bạn bè kẻ ở người đi nâng chén quan hà chúc tụng nhau những gì đẹp nhất ; Họ hy sinh tình cảm cá nhân, gia đình, người thân, người tình ... đặt bước chân vào cuộc sống quân ngũ bảo vệ, gìn giữ quê hương.

Sau những tháng ngày dài chạy đều bước 1, 2, 3, 4 ... hát vang "chân cứng đá mềm", mũi thở ra khói nơi "thao trường đổ mồ hôi", người thanh niên tuổi trẻ ngày nào đã gột rửa nét thư sinh bằng những giọt mồ hôi của mình ... Mái tóc ba phân, ánh mắt cương nghị, thân thể cường tráng khỏe mạnh được phủ bởi làn da sạm nắng cháy quân trường với lời thề "Vị Quốc Vong Thân" trong ngày lễ mãn khóa ... Người thư sinh ấy đã trở thành đứa con yêu của Tổ Quốc với tên gọi thân thương "Người Lính VNCH".

Người Lính VNCH đem tấm thân được trui rèn từ lò luyện thép, kiến thức quân sự được đào tạo từ mái trường Tổ Quốc mang hành trang "Bảo Quốc-An Dân" hiện diện trên mọi nẻo đường đất nước, gìn giữ quê hương bằng chính sinh mạng của mình.

Người Lính VNCH không đi chinh chiến xây đắp tương lai cho cá nhân mình ... Người Lính VNCH không đem sinh mạng vào vùng lửa đạn đánh đổi quyền cao chức trọng ... Người Lính VNCH không mang giòng máu thắm đổi lấy huy chương trên ngực áo ... Người Lính VNCH không đem một phần thân thể làm nấc thang binh nghiệp ... Người Lính chỉ biết đi chiến đấu cho đất nước yên vui.

Hai mươi năm chinh chiến ... Người Lính VNCH đi miệt mài không ngừng nghỉ, đôi giày trận mòn gót từ miền địa đầu giới tuyến nắng cháy da người ... vùng cao nguyên khô cằn sỏi đá, bụi đỏ mịt mờ ... miền Tây sình lầy nước đọng, rừng già âm u, núi đồi lộng gió cho đến cao vút không gian bao la vương dấu giày trên vùng mây trắng mênh mông ... xa ngút ngàn trùng khơi sóng vỗ lắc lư chiến hạm ... Người Lính đi trong lửa khói mịt mờ, đi trong mưa đạn pháo của quân thù, đi trên xác giặc xâm lăng, ẩn hiện như những bóng ma đi vào mật khu của giặc, âm thầm làm người chiến sĩ vô danh trong công tác đặc biệt "vượt tuyến" ... không nơi nào thiếu vắng bóng dáng Người Lính VNCH, những người đem sinh mạng che chắn cơn bão lửa chiến tranh để mang niềm vui cho đời.

Người Lính đi từ lúc mặt trời còn say ngủ, sương đêm buốt lạnh đôi vai cho đến khi quả cầu lửa khổng lồ chiếu ngay trên đỉnh đầu, bộ chinh y đẫm ướt mồ hôi, thân thể bốc khói ... Người Lính tạm dừng chân lấy nước từ sông hồ, kinh rạch, từ dây rừng đổ vào bọc gạo sấy, nuốt vội vã, hớp ngụm nước mát từ lòng đất mẹ, phì phà vài hơi thuốc lá rồi tiếp tục lên đường ... Hoàng hôn buông phủ, đơn vị tạm dừng quân ... sau khi lót lòng bằng phần lương khô, Người Lính dành chút thì giờ quý báu "từ KBC giá lạnh rừng sâu" trong cái lều vải cá nhân vội vàng viết lá thư tiền tuyến gởi về thăm gia đình ... Kẻ thì thăm hỏi, kính chúc sức khỏe mẹ già vạn an, khói lửa chiến tranh vẫn còn phủ kín quê hương nên con chưa thể về bên mẹ để làm tròn chữ "Hiếu", mong mẹ thứ lỗi cho con. Con vẫn khỏe mạnh, bình an ... Thương nhớ mẹ nhiều ; Người thì cặm cụi bên chiếc balô làm bàn nên nét chữ không ngay, trải nỗi lòng nhung nhớ vợ hiền, con thơ trên trang giấy nhỏ bé ... Thương nhớ em và con thật nhiều. Anh khỏe và an lành ; Người thì nắn nót từng nét chữ yêu thương gởi về người yêu nơi phố thị ... đã từ lâu chưa một lần về thăm ... hẹn ngày hoa giăng đầu ngõ ... Hôn Em ; Kẻ thì nguệch ngoạc đôi dòng thăm bạn bè đang ghìm súng ở một KBC nào đó. Xếp vội những lá thư còn thơm mùi mực, Người Lính vừa chợp mắt thì có lệnh lên đường ... Người Lính tiếp tục bước quân hành, âm thầm khuất vào màn đêm đen tăm tối dưới cơn mưa lạnh buốt để canh giữ quê hương cho người dân tròn giấc ngủ.

Hai mươi năm chinh chiến, hầu như Người Lính không có dư thì giờ nhiều để tắm gội nhưng họ lại là những người tắm nhiều nhất ... họ tắm trên bước quân hành dưới những cơn mưa tầm tả ngày đêm, vừa đi vừa tắm bằng giòng suối mát ngọt ngào nơi núi cao dốc thẳm, sông hồ kinh rạch, họ tắm bằng những giọt nước từ chiếc biđông nhỏ giọt trên đầu dưới sức nóng gay gắt của mặt trời và họ tắm bằng những giòng biển mặn thoát ra từ cơ thể của họ.

Hơn bảy ngàn ngày đêm, Người Lính chưa bao giờ có một lần tròn giấc, Người Lính ngủ trong thức, thức trong từng giấc ngủ ... Người Lính có thể ngủ bất cứ giờ phút nào, bất cứ nơi đâu dù chỉ năm ba phút, ngủ trong lúc di hành, ngủ trong lúc ăn, ngủ trong lúc đang nói chuyện với đồng đội, ngủ dưới cơn mưa tầm tả nơi giao thông hào, ngủ trong lúc đang đánh răng, ngủ ngay cả lúc đang đại hay tiểu tiện ... Có người đã thiếp đi vài phút dưới cơn mưa pháo của quân thù vì họ quá mệt mỏi trong một trận chiến dài nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, trận chiến 510 ngày đêm trên ngọn đồi Tống Lê Chân. Người Lính rất thèm ngủ nhưng Người Lính tự ban "quân lệnh" cho mình không được ngủ khi quê hương còn thao thức vì tiếng súng đạn xâm lăng ... Hầu như Người Lính đi và thức gần trọn cuộc đời khoác chinh y.

Hai mươi năm chinh chiến ... có biết bao nhiêu Người Lính VNCH đã ngủ quên trên chiến địa, trên vùng trời Tổ Quốc Không Gian, dưới lòng Tổ Quốc Đại Dương mãi mãi không trở về với đồng đội ... Bao nhiêu Người Lính VNCH trở về bằng mỗi một tấm thẻ bài lạnh giá hoặc ngủ im lìm trong hòm gỗ cài hoa, không bao giờ biết mặt đứa con thơ vừa cất tiếng khóc chào đời, không được nhìn thấy những giòng lệ trào tuôn trên khuôn mặt người vợ hiền đầu vừa chít vội mảnh khăn tang ... không được vuốt mái tóc người tình hay vị hôn thê mới vừa đeo chiếc nhẫn đính hôn tháng rồi nay tan nát tâm hồn quấn chiếc khăn tang đang gục đầu trên quan tài gỗ được phủ lá quốc kỳ ... không được tự tay lau những giọt lệ từ giòng nước mắt khô cạn của người mẹ già yêu quý.

Hai mươi năm chinh chiến ... bao nhiêu Người Lính VNCH trở về không nguyên vẹn hình hài ... kẻ trở về với một hoặc hai ống tay áo dư thừa ... người thì vĩnh viễn không bao giờ mặc lại được cái quần dài vì đôi chân đã gởi lại chiến trường ... người thì mãi mãi sống trong bóng tối suốt quãng đời còn lại vì họ đã hiến dâng cặp mắt cho hai chữ Tự Do của Miền Nam Việt Nam. Trong thời chiến, họ đem tấm thân gầy chống đỡ giang san ... ngày tàn cuộc chiến, họ lê tấm thân phế tàn chống đỡ tang thương, bất hạnh phủ trùm lên thân phận người thua cuộc kéo dài hơn một phần ba thế kỷ.

Chinh chiến triền miên không biết bao giờ chấm dứt ... Anh miệt mài đi mãi ... đem sinh mạng đi canh giữ quê hương ... lấy máu hồng đi dập tắt ngọn lửa chiến tranh ... đi cho đến khi nào người dân không còn kinh hoàng, hốt hoảng dìu dắt, bồng bế nhau chạy loạn trong khói lửa ngút trời bởi thảm họa chiến tranh do lũ cộng sản gây nên ... đi cho đến khi không còn thảm cảnh đứa bé thơ đang ngậm bầu sữa khô, nút những giọt máu rỉ ra trên xác người mẹ vừa chết bên ven đường bởi đạn thù, pháo giặc ... đi cho đến khi đất nước thật sự thanh bình, người dân được sống an vui, hạnh phúc, tiếng cười đùa của trẻ thơ rộn rã khắp nơi nơi, tiếng ê a hồn nhiên tuổi thơ vang lên dưới mái trường làng rợp bóng mát thanh bình, tự do.

Đường quân hành dịu vợi mù xa ... đôi chân nhỏ bé của Người Lính đã vượt qua ngàn ngàn cây số, bao nhiêu sông hồ kinh rạch, núi thẳm rừng sâu, sình lầy nước đọng, muỗi đỉa bám đen cả thân mình ... gian nan trên mỗi bước đi, hiểm nguy trong từng hơi thở, tử thần lảng vảng bên cạnh, cái chết có thể đến bất chợt trong buổi ăn, giấc ngủ ... Nhưng Người Lính VNCH, những người nguyện hiến dâng cuộc sống cho đời nào có xá chi hiểm nguy, chết chóc khi quê hương còn vang rền tiếng súng xâm lăng. Người Lính VNCH ơi ... Anh thật là cao cả.

Hai mươi năm lao vào vùng lửa đạn do tên Hồ Chí Minh và bọn CSBV gây nên ... Hằng ngàn ngàn quân lệnh ban ra ... phải chiến thắng, phải dứt điểm mục tiêu, phải giải quyết chiến trường không để một tấc đất quê hương, một căn nhà người dân lọt vào tay quân giặc ... Lá Quốc Kỳ màu Vàng Ba Sọc Đỏ thân yêu phải tung bay phất phới trên xác giặc trong thời hạn bắt buộc. Người Lính VNCH nghiêm chỉnh chấp hành quân lệnh không một lời than van, hiên ngang bước vào vùng tử địa, đem máu đào và sinh mạng của mình giành lấy chiến thắng mang về dâng lên Tổ Quốc.

Trước khi đi vào chốn hiểm nguy, lao mình vào vùng lửa đạn, Người Lính VNCH không nghĩ đến gia đình mà chỉ nghĩ đến sự an nguy của quê hương dân tộc ; Trong vùng lửa đạn mịt mờ ... Người Lính VNCH vừa chiến đấu vừa bảo vệ người dân, dù Người Lính bị thương thân thể đẫm máu, họ vẫn cố gắng dìu dắt người dân, bồng bế trẻ thơ, cõng ông lão, bà cụ thoát khỏi vùng hiểm nguy ... Người Lính VNCH chẳng những bảo vệ người dân mà còn chăm sóc, chữa trị vết thương cho những tù binh cộng sản bị bắt trên chiến trường, Người Lính VNCH tự tay băng bó vết thương cho tù binh, đút cho họ ăn từng muỗng cơm, từng ngụm nước, gắn lên môi họ điếu thuốc sau đó tải thương giao họ lại cho các cơ quan thẩm quyền đưa về điều trị vết thương, khai thác và giáo huấn họ trở về con đường chính nghĩa của quê hương dân tộc. Đây là tánh nhân bản của Người Lính VNCH trên con đường lý tưởng "Bảo Quốc-An Dân".

Người Lính VNCH chèo chống con thuyền quốc gia trong cơn bão lửa chiến tranh, cắm ngọn cờ chiến thắng khắp mọi nơi từ giòng sông Bến Hải miền địa đầu giới tuyến dài xuống tận mũi Cà Mau phần đất cuối cùng của quê hương. Sau trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, quân đội CSBV đã kiệt quệ, chiến tranh lắng dịu, quê hương hồi sinh, nắng ấm thanh bình tạm trải dài muôn nơi sau trận chiến kinh hồn, máu và lửa đỏ cả quê hương suốt năm tháng rưỡi trong cuộc chiến tang thương dài triền miên.

"Cờ bay, cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu ...". Trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa kết thúc, Người Lính VNCH đã dùng máu và sinh mạng tạo một chiến công lẫy lừng làm cả thế giới nghiêng mình kính phục ... Lá Quốc Kỳ tung bay khắp mọi miền đất nước dưới tia nắng ấm thanh bình vừa ló dạng nơi chân trời thì cũng là lúc Người Lính VNCH bắt đầu bị trói tay trên bàn cờ chính trị thế giới, để rồi đưa đến cái chết tức tưởi của chính thể VNCH, Người Lính VNCH bị bức tử gãy súng ... Con thuyền quốc gia chuyên chở "Tự Do-Hạnh Phúc" cho người dân Miền Nam Việt Nam trong suốt hai mươi năm đã bị người bạn đồng minh nhẫn tâm nhận chìm vào giòng sông máu của cộng sản ngày 30/04/1975.

Năm vị tướng lãnh cùng một số Quân Cán Chính VNCH các cấp đã quyên sinh theo con thuyền quốc gia nhưng họ không chìm vào giòng sông máu của cộng sản ... Họ miên viễn đi vào lòng đất mẹ, linh hồn quyện vào Lá cờ Hồn Thiêng Sông Núi ... Họ đã hiên ngang, can trường đi bước quân hành cuối cùng trong sự uất nghẹn "gãy súng" để bảo vệ danh dự cho đại gia đình QLVNCH, bảo toàn chính nghĩa Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, để lại ngàn đời sau nhắc nhớ và thương tiếc.

Ngay sau khi Miền Nam Việt Nam lọt vào tay CSBV ... Hằng ngàn Quân Cán Chính VNCH đã bị lũ quỷ đỏ mạo danh "chống Mỹ, cứu Nước" khoan hồng bằng những loạt đạn AK47 hận thù nơì pháp trường thù hận. Hằng trăm ngàn đã được "hòa hợp, hòa giải" bằng gông cùm xiềng xích, biệt giam ngục tối, bằng những cực hình tra tấn dã man, bị bỏ đói, cưỡng bức lao động trong thủ đoạn thâm độc giết dần mòn nơi các trại tù khổ sai, khắc nghiệt mang ba chữ hoa mỹ "Trại Cải Tạo" trên hai miền Nam Bắc.

Những người TPB.VNCH bị lũ quỷ đỏ chà đạp, lết lê hít thở khói xe, bụi đường bên lề cõi sống. Họ uống nước mắt uất nghẹn kéo lê kiếp sống vong quốc hơn nửa cuộc đời ngay chính trên mảnh đất quê cha mà họ đã hy sinh giòng máu, một phần thân thể để gìn giữ.

Lũ cộng sản vô thần không tim óc, độc ác, dã man cũng không buông tha những người đã chết. Chúng tàn phá nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa, tàn nhẫn giẫm lên những nắm xương tàn vô tri, những thân xác mục rã không còn lòng thù hận.

Người Lính VNCH dù đặt bước chân trên con đường vong quốc trước hay sau đều trở thành những người lính già xa quê hương, đã ổn định cuộc sống nơi xứ lạ. Người thì buồn bã khép mắt ra đi vĩnh viễn trong nỗi uất nghẹn không nguôi ... Người thì đã về hưu sau những năm dài tạo lập cuộc sống mới nơi quê người, ngày ngày trông về cố quốc với ánh mắt xa xăm, hơi thở mỏi mòn, chiếc bóng đời đang ngã dần về Tây trên đất khách ... Người thì vẫn tiếp tục cày trả nợ áo cơm ...

Người Lính VNCH đã đi trên đoạn đường chiến binh dài bằng một phần ba đời người ... Sau ngày "gãy súng", họ vẫn cố gắng tiếp tục đi nốt quãng đường quân hành còn lại bằng con đường đấu tranh trong thời gian hạn hẹp của chiếc bóng hoàng hôn trên con đường vong quốc. Họ tranh đấu cho ai ... Họ đã có tự do, cơm no áo ấm, con cái lớn khôn thành đạt, cuộc sống ổn định thì chắc chắn một điều là họ không tranh đấu cho bản thân hay gia đình họ ... Trong thời chiến, họ không đem sinh mạng đi chiến đấu vì danh vọng, địa vị, quyền uy, chức tước thì ngày nay họ không đem tuổi già ra tranh đấu vì bất cứ một tham vọng gì ... Họ chỉ muốn đóng góp những chuỗi ngày còn lại vào công cuộc đấu tranh giải thể lũ bạo quyền CSVN, cho quê hương dân tộc không còn ngập chìm trong bể máu cộng sản ... Họ tranh đấu cho những thế hệ mai sau được hít thở không khí tự do, không còn bị nhồi sọ, cai trị bởi chủ nghĩa cộng sản bệnh hoạn, vô thần, khát máu. Hai mươi năm chinh chiến ...Ba mươi sáu năm vong quốc ... bây giờ họ là những người lính già lưu vong ... con đường chiến binh dang dở năm xưa vẫn chưa thấy đoạn cuối nhưng hơi thở của họ ... đã cạn ...

Hai mươi năm chinh chiến ... Người Lính VNCH không bao giờ đòi hỏi Tổ Quốc bất cứ một điều gì. Người Lính chỉ mong đem cuộc đời của mình đổi lấy hai chữ Tự Do cho quê hương dân tộc cho dù phải trả cái giá đắt nhất là mạng sống.

Hai mươi năm miệt mài đi canh giữ quê hương ... Người Lính VNCH không yêu cầu người dân bất cứ một điều gì cho lợi ích cá nhân. Người Lính chỉ mong muốn nhìn thấy người dân được sống những tháng ngày an vui, hạnh phúc, cơm no, áo ấm dưới nắng ấm thanh bình trên quê hương mến yêu mang tên Việt Nam.

Những năm dài bị lũ giặc thù tra tấn dã man, chết đi sống lại bao nhiêu lần trong các trại tù khổ sai, khắc nghiệt sau ngày "gãy súng" ... Người Lính VNCH không quỵ lụy, lòn cúi kẻ thù để được tồn tại. Người Lính VNCH trước sau vẫn thủy chung với con đường "Lý Tưởng" mà mình đã chọn, vẫn giữ được khí khái , "Danh Dự" của Người Lính VNCH khi bị bức tử trở thành kẻ thua cuộc.

37 năm vong quốc ... bao nhiêu năm đem phần đời còn lại miệt mài tranh đấu ... "Người Lính già xa Quê Hương" không có bất cứ một tham vọng chính trị nào ... Người Lính Già chỉ mong sao đất nước thoát khỏi gông cùm, xiềng xích của lũ cộng sản bạo tàn, độc ác để người dân Việt Nam có được nụ cười "Tự Do-Hạnh Phúc" mãi mãi nở trên môi.

Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh.

Hoàng Nhật Thơ