Sunday, June 10, 2012

Ai bắn què chân hùm xám Nguyễn Ngọc Loan? - Chu Việt

Chu Việt
    "Ngẫm hay muôn sự tại Trời" - Nguyễn Du
Cho đến nay các sử gia đều tin rằng tấm hình nổi tiếng một thời của Eddie Adams đã kết liễu cuộc đời binh nghiệp của tướng Nguyễn Ngọc Loan. Không sai, nhưng chỉ đúng một nửa. Chính nhiếp ảnh gia đoạt giải Pulitzer của AP này đã viết trong tuần báo TIME (1): “Ông tướng giết thằng Việt Cộng; tôi giết ông tướng bằng máy chụp hình của tôi”. Đó là tấm hình chụp tướng Loan thản nhiên hành quyết một tù binh cộng sản bị còng tay sau lưng, mặt mếu máo. Một hành vi sát nhân ghê tởm gây chấn động toàn thế giới. Mặc dù sau đó Adams đã thú nhận: “Người ta tin vào hình ảnh, nhưng hình ảnh cũng nói dối, cho dù không có sửa đổi gì. Chúng chỉ là những nửa sự thật”. Dẫu vậy nhưng nó cũng đã đánh dấu khúc ngoặt quan trọng của cuộc chiến: Dư luận phản chiến nở rộ tại Hoa kỳ đã khiến Tổng thống Johnson mất niềm tin vào một chiến thắng quân sự tại miền Nam Việt Nam. Và cuộc thương thảo với Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Việt Nam (MTGPMN) đã diễn ra sau đó dưới triều đại Nixon như giải pháp duy nhất đem lại hòa bình.

Đằng sau tất cả những sự kiện lịch sử ấy là chuyển động âm thầm nhưng có ảnh hưởng quyết định của tình báo chiến lược. Cơ quan CIA (Tình Báo Trung Ương) Hoa kỳ và đối tác VNCH ở cấp cao đã phải đối mặt với những tình huống gây ra mâu thuẫn trầm trọng giữa một bên là MACV (Bộ Tư Lệnh Quân Sự Mỹ), CIA, Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ và bên kia là Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH và Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia khi ấy do Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan nắm giữ. Bối cảnh chung là cuộc tấn công bất ngờ của Việt Cộng – khi ấy vẫn được báo chí Mỹ coi là MTGPMN, tách biệt với Cộng Sản Bắc Việt (CSBV), một huyền tích chỉ được giải ảo sau 1975 – trong dịp hưu chiến Tết Mậu Thân (tháng 1, 1968).

Nguyễn Ngọc Loan: Ông là Ai?

Tướng Nguyễn Ngọc Loan, hỗn danh Sáu Lèo, sinh năm 1930 tại Huế. Chị cả của ông, bà Bích Hồng, là phu nhân Đại tá Bác sĩ Văn Văn Của, nguyên Đô trưởng thành phố Sài Gòn (1965-68) (2). Ông học trường Trung học Albert Sarraut và đậu Tú tài Toán toàn phần rồi bị động viên Khóa 1 Sĩ quan Trừ bị (Nam Định). Thiếu úy Loan theo học Trường Sĩ quan Không quân Pháp Salon de Provence năm 1953 rồi thực tập hoa tiêu khu trục phản lực tại căn cứ Meknes, Maroc, trở thành phi công khu trục phản lực đầu tiên của Không lực VNCH. Về nước, ông được bổ nhiệm Phi đoàn trưởng Phi đoàn 2 Quan sát. Được thuộc cấp nể trọng nhưng ông không được các sĩ quan Cố vấn Hoa kỳ ưa thích vì ông hay đả kích lề lối làm việc máy móc của họ.

Năm 1964, ông Loan thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm “Tư lệnh Phó Không Quân VNCH” dưới quyền Tư lệnh, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ. Năm 1965, vinh thăng Chuẩn tướng, ông tham dự chiến dịch không kích Bắc Việt trong khu vực Đồng hới – Vĩ tuyến 17 (Bến Hải).

Những năm kế tiếp, tướng Loan được đề cử đảm nhiệm 3 chức vụ an ninh, tình báo quan yếu của VNCH:

- Đặc ủy trưởng, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo
- Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và
- Cục trưởng Cục An Ninh Quân Đội.

Lòng tận tụy với trách nhiệm nặng nề và tính “bất cần đời” của tướng Loan, coi cái chết “như pha” tạo cho ông một cá tính gồ ghề, bề ngoài tưởng như ngổ ngáo, hãnh tiến, nhưng thật ra ông là con người đầy cảm tính và “cận nhân tình”, được cấp dưới nể trọng và bạn hữu chí tình thương mến. Thỉnh thoảng gặp ông tại Phủ Thủ Tướng (Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương – UBHPTƯ), ông cười nói xuề xòa, moa moa, toa toa, miệng không ngớt chửi thề: đ.. cụ, đ.. cụ.

Tuy nhiên, Định Mệnh dường như đã an bài cho ông một số phận khắc nghiệt. Chỉ nội trong ngày 31 tháng 1 năm 1968, sự nghiệp của ông được kể như chấm dứt vì một quyết định làm cho người Mỹ coi ông là kẻ phản bội. Mặt khác, có thật là bức hình của Eddie Adams chụp cảnh ông xử bắn tên đặc công Lém ở đường Ấn Quang ngày 4 tháng 2, 1968 mới là nguyên nhân chính? Sự thực không phải như vậy.

Hoa kỳ đi đêm với MTGPMN

Kề từ tháng 2 năm 1967, Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Sài Gòn đã có những tiếp xúc sơ bộ với một số cán bộ cấp thấp thuộc MTGPMN. Sau đó,với sự trợ giúp của Tình báo Hải ngoại Pháp (SDECE, Service de Documentation et de Contre-Espionage), cộng đồng tình báo Mỹ ở Việt Nam đã bắt tay được với những nhân vật trọng yếu của Cục R (Trung Ương Cục miền Nam) và MTGPMN như: Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Dương Quỳnh Hoa, Trần Văn Trà, Đồng Văn Cống, Trần Bửu Kiếm và Trần Bạch Đằng, Cục trưởng Cục R (3).

Sau việc hộ tống êm thắm vợ con Trần Bửu Kiếm và Trần Bạch Đằng ra vùng “giải phóng” an toàn, Sứ quán Hoa kỳ móc nối với Nguyễn Thị Bình (qua trung gian LS Đinh Trịnh Chính, Bộ trưởng Chiêu Hồi, Dân Vận VNCH) toan tính thành lập chính phủ “liên hiệp hòa giải dân tộc” với 2 thành phần: MTGPMN và chính quyền VNCH.

Tất cả những tiếp xúc “đi đêm” nói trên đều không lọt qua con mắt của tướng Loan, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia. Tướng Loan ra lệnh cho S-6 (Cảnh Sát Đặc Biệt) tổng giam một số nhân vật MTGPMN khi ấy đang được Sứ quán Hoa kỳ bảo vệ tại các “nhà an toàn” (safe house) ở ven đô Sài Gòn và Tây Ninh. Sứ quán Hoa kỳ gây áp lực với tướng Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch UBHPTƯ, phải thả lập tức các sứ giả MTGPMN và yêu cầu các cơ quan an ninh VNCH không được phép xâm nhập các nhà an toàn và những khu vực dành riêng cho nhân viên ngoại giao Hoa kỳ trên khắp lãnh thổ VNCH.

Mặt khác, Tổng thống Lyndon B. Johnson được Đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker bảo đảm rằng Sài Gòn là thủ đô an toàn và Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Saigon là khu vực an ninh 100% không bao giờ bị tấn công vì đây sẽ là địa điểm mật đàm đã được thỏa thuận giữa Hoa kỳ và MTGPMN.

Tòa Đại sứ Hoa kỳ rơi vào tay Đặc Công CSVN

Trong trận mở màn Chiến dịch Tổng Tấn Công – Tổng Khởi Nghĩa của CSVN, một biến cố ít ai biết đến, kể cả báo chí Mỹ, là Tòa ĐS Hoa kỳ đường Thống Nhất đã rơi vào tay Đặc công CS ngay những phút đầu. Đó là hậu quả của việc tướng Loan đã cho rút 2 trung đội Cảnh Sát Dã Chiến bảo vệ bên ngoài TĐS Mỹ về tăng cường cho Dinh Độc Lập.

Diễn tiến: Tổ C-10 gồm 18 tên đặc công CS thuộc Tiểu đoàn Đặc công 276 của Đặc Khu Ủy Sài gòn – Chợ Lớn đã xuất phát lúc 1 giờ đêm 31 tháng 1, 1968 từ tiệm Phở Bình đường Yên Đổ, góc Hai Bà Trưng, trên 1 xe van mầu trắng. Hai giờ sáng, xe dừng trước cửa sau Tòa ĐS đường Mạc Đĩnh Chi lúc đó chỉ có một tiểu đội Quân Cảnh Mỹ giữ an ninh phía trong. Bọn đặc công CS chia làm 6 mũi khai hỏa tấn công. Chúng dùng bộc pha, B-40 và AK-47 báng xếp triệt hạ vọng gác của Cảnh sát QG đặt giữa Lãnh sự và tòa nhà chính. Nhưng vọng gác này đã bỏ trống từ chiều hôm trước cùng lúc với hai trung đội Cảnh Sát Dã Chiến, theo lệnh của tướng Loan.

Hai tên đặc công tấn công vào cửa chính Tòa ĐS, tức thì bị QC Mỹ hạ sát. Sau đó QC Mỹ rút vào trong và dùng radio cầu cứu. Hai tên đặc công khác dùng bộc pha phá thủng một lỗ lớn tường rào góc đường Thống Nhất – Mạc Đỉnh Chi, giúp cho toàn bọn C-10 tràn vào vườn hoa rồi tiến chiếm Lầu 1 và Lầu 2 trong khi QC Mỹ rút lên Lầu 3 cố thủ. Lầu 2 Đại Sứ quán Mỹ là Tổng Hành Dinh Tình Báo Chiến Lược của Hoa kỳ ở Đông Nam Á. Toàn bộ tài liệu mật mã “Tuyệt Mật” của CS Bắc Việt mà Mỹ thủ đắc được từ 1961, gồm hồ sơ chính sách, cương lĩnh, nghị quyết tấn công quân sự miền Nam, cùng các tài liệu khác liên quan đến cuộc chiến, đều được lưu trữ trong các tủ và két sắt Diebolt nặng trên 1 tấn (4). Bốn tên đặc công CS cố thủ Lầu 2 ra sức cậy phá, tháo gỡ 6 ổ khóa của 12 két sắt nhưng vô hiệu.

Mười hai giờ khuya (12 giờ trưa Washington, D.C.), tại trụ sở CIA, Giám Đốc Richard Helms đang khoản đãi ông William Colby, tân Giám đốc CORDS (5) Việt Nam. Giữa tiệc, một thiếu tá tùy viên hối hả xin gặp để trình một công điện Hỏa Tốc từ MACV: “Trụ sở CIA và Sứ quán Hoa kỳ Saigon đã lọt vào tay đặc công MTGPMN từ 1 giờ sáng 31 tháng 1, 1968”. Cùng lúc, Tòa Bạch Ốc cũng nhận được công điện hỏa tốc: “Saigon đang bị 5 tiểu đoàn địa phương MTGPMN tấn công ồ ạt. Tòa ĐS ở trung tâm thủ đô thất thủ. Bộ Tư Lệnh MACV và Bộ TTM/QLVNCH tràn ngập khói súng, chống trả yếu ớt vì bị bất ngờ”.

Giám đốc CIA Richard Helms đọc công điện 3 lần vẫn cả quyết với quan khách: “Đây là những ‘điều giả tưởng’ không thể nào có thể xẩy ra được với Hoa kỳ”.

Sáu giờ sáng, một đại đội xung kích thuộc Sư đoàn Không kỵ 101 được trực thăng vận đổ xuống từ nóc Tòa ĐS, đột nhập Lầu 3 rồi Lầu 2, cận chiến với 12 đặc công CS, tiêu diệt toàn bọn và giải tỏa Tòa ĐS — biểu tượng của sức mạnh Hoa kỳ tại Đông Nam Á.

Lãnh đạo VNCH, đệ I và II Cộng Hòa, biết gì?

Đầu tháng 2, 1975, tôi đến Washington D.C. nhận nhiệm vụ Tùy Viên Lục Quân tại Tòa Đại sứ VNCH, ưu tiên tìm hiểu và báo cáo về quân viện Mỹ cho VNCH lúc đó đang lửng lơ. Một chị bạn nhà tôi, tên Dung, Đệ Nhị Tham Vụ, mời tôi đi ăn lunch. Tò mò, tôi hỏi chị: “Tòa Đại Sứ mình vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ra sao?” Chị đáp: “Tôi vẫn bỏ tiền túi mời mấy ông dân biểu đi ăn lunch”. Vậy thôi?

Tôi nghĩ, từ Ngô Đình Diệm cho đến Nguyễn Văn Thiệu, các nhà lãnh đạo VNCH có thể ví như những người đi buôn không vốn, không hiểu rành rọt về tổ chức và vận hành của chính quyền Hoa Kỳ, cho nên không biết đến hiệu quả của “lobby” và không giám hay không biết “chi” cho nỗ lực này vì không vốn (?). Khoảng cuối thập niên 70 bỗng sì căng đan “Koreagate”, bùng nổ. Điệp viên KCIA (Tình Báo Trung Ương Đại Hàn) Tongsun Park đã tung hàng trăm ngàn đô mua chuộc ảnh hưởng của một số nhà lập pháp Hoa kỳ để chống lại nguy cơ Nixon đòi rút quân khỏi Nam Hàn như đã làm ở Nam Việt Nam khiến VNCH rơi vào tay CSBV. Ở đời ai dại, ai khôn? Thành thử, chúng ta luôn luôn cầm dao đằng lưỡi để cho đối phương tuốt dao máu chẩy thành vòi! Lý do: không nắm được những nguyên lý căn bản về Tình Báo Chiến Lược để sử dụng nó hữu hiệu trong chiến tranh.

Có ai ý thức được rằng Hoa kỳ ào ạt đổ quân vào Việt Nam, thật ra, không phải là để bảo vệ nền độc lập và chủ quyền của VNCH?

Có ai ý thức được rằng, với Hoa kỳ, không có quốc gia nào là bạn lâu dài và cũng chẳng có nước nào là kẻ thù vĩnh viễn, mà chỉ có quyền lợi của Hoa kỳ là vĩnh cửu?

Có ai biết rằng: Trong thời gian CSVN làm xiếc đi giây giữa Liên Xô và Trung Cộng, Trung Cộng coi VNCH là bạn và là đối trọng răn đe CS Bắc Việt? Với Trung Cộng, Liên Xô và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt) là hai kẻ thù không đội trời chung? Mặc dầu Mao vẫn chi viện cho Hồ để đoạt hai chiến thắng vang dội: Chiến dịch Biên giới 1950 và Điện Biên Phủ, 1954. Nhưng cũng vì vậy mà Trung Cộng phải dè chừng. Cuộc chiến biên giới 1979 đã chứng minh cho điều này khi Đặng Tiểu Bình muốn “dậy” cho Việt Nam một bài học.

CIA ra lệnh thủ tiêu Nguyễn Ngọc Loan

Tháng 4 , 1968, Cố vấn trưởng Cảnh sát Quốc gia VNCH, J. Accompura (nguyên đại tá Lục quân Hoa kỳ) được mời đến gặp vị tân Trưởng Trạm CIA (Station Chief) tại VNCH, ông George Weisz đến thay thế ông Jorgensen. Không úp mở, ông Weisz cho Accompura hay: “Chính phủ Hoa kỳ quyết định thủ tiêu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát QGVN, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan”.

Mặc dầu làm cố vấn cho tướng Loan chưa được 2 năm, Accompura lại rất thân tình và cảm mến ông. Accompura dấu kín chuyện CIA sẽ thủ tiêu ông, nhưng yêu cầu tướng Loan không được rời khỏi Dinh Độc Lập và không được tham gia bất cứ trận đánh nào có mục đích tiễu trừ các lực lượng MTGPMN tại trung tâm và ven đô Sài Gòn. Tướng Loan hứa xuông với Accompura cho qua chuyện, nhưng ông không ngồi yên.

Ở đâu có tiếng súng AK-47 là ông nhào tới. Chỉ cần một tấm áo giáp, một khẩu M-16, với 12 băng đạn 5.56 ly vòng quanh bụng, đầu không nón sắt, chân dép cao su, không lon không lá, tướng Sáu Lèo lâm trận… không coi mũi tên hòn đạn của kẻ thù có kí lô nào. Một Don Quixote hay Triệu Tử Long? Có lẽ cả hai gom một. Nhiều người coi ông như “người hùng đơn độc”, một phán xét có phần cảm tính. Tôi quan niệm đơn giản: Ông là người chỉ huy biết lãnh đạo. Lãnh đạo bằng cách làm gương, nghĩa là sát cánh cùng quân sĩ, đồng lao cộng khổ, ngay nơi trận tiền. A true leader. Phải nói như thế. Như người Mỹ thường nói.

Đầu tháng 5, 1968, hay tin VC tràn về khu Tân Cảng, tướng Loan điều động 2 đại đội CS Dã Chiến truy kích Tiểu đoàn Thủ-Biên (6) MTGPMN đang đốt nhà dân để “chém vè” vì bị trực thăng võ trang UH-1B của Sư đoàn 25 BB Mỹ tấn kích từ phía bắc cầu Sài Gòn. Hay tin tướng Loan dẫn CSDC ra Tân Cảng, Accompura vội nhẩy xe Jeep Cảnh sát chặn đoàn xe của ông Sáu Lèo ở ngã tư Dakao – Phan Thanh Giản và yêu cầu ông cùng về Tổng Nha tham dự buổi họp Chương Trình Phượng Hoàng do W. Colby chủ tọa. Tướng Sáu Lèo từ chối.

Ai bắn nát chân tướng Loan?


Tin tức loan tải: 11 giờ 45 ngày 7 tháng 5, 1968, một tên VC núp dưới chân cầu Sài Gòn bắn sẻ viên đạn “dum dum” (7) phá vỡ nát bắp chân trái tướng Nguyễn Ngọc Loan.

Các bác sĩ giải phẫu tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, sau khi khám vết thương, nêu thắc mắc và khẳng định:

- Đầu đạn phá nát bắp chân trái tướng Loan không phải là “dum dum”. Nếu phải thì nó phải để lại những mảnh li ti và dấu vết thuốc nổ khi đầu đạn nổ lần thứ 2.
- Súng xung kích AK-47 của CS Bắc Việt sử dụng ở miển Nam không trang bị loại đạn “dum dum”.
- Súng bắn sẻ CKC của Tiệp Khắc cũng không trang bị đầu đạn “dum dum”.
- Đầu đạn AK-47 và CKC không phải là đạn xuyên phá. Loại đạn này chỉ tạo 1 lỗ nhỏ đường kính không quá 1 cm ở mặt trước vết thương, và mặt sau ít khi có lỗ rộng quá 5 cm.

Có lẽ chỉ có cố vấn Accompura biết rõ viên đạn làm tan nát cuộc đời binh nghiệp của tướng Loan là loại đạn gì. Và sát thủ là ai?

2005: Sau rốt, màn bí mật cũng được vén lên, bởi không ai khác là chính Accompura. Sát thủ thi hành bản án tử hình tướng Loan là một hạ sĩ quan TQLC Hoa kỳ có vợ Việt Nam, làm việc cho CIA Sài Gòn. Khẩu súng bắn lén tướng Loan là M-16 gắn viễn vọng kính. Viên đạn M-16 cỡ 5.56 mm thuộc loại Flechette

(8). Chi tiết được biết thêm:

Sát thủ đứng trên sàn trực thăng võ trang UH-1B, qua viễn vọng kính đã lẩy cò khi chiếu môn thập tự [+] nhắm trúng đầu tướng Loan. May thay,“Thiên bất dung gian”, người không thể giết người, chỉ có Trời mới giết được người. Lúc sát thủ lẩy cò cũng vừa là lúc trực thăng gặp “air turbulence” hụt hẫng đưa viên đạn trúng bắp chân trái Sáu Lèo đang gác trên thành cầu thay vì trúng đầu ông. Viên đạn Flechette 5.56mm đã phá nát bấy toàn thể bắp chân trái tướng Loan, cắt đứt gân lòng thòng và động mạch tiếp tế máu cho bàn chân.

Bác sĩ Trưởng Khoa Giải Phẫu Tổng Y Viện Cộng Hòa đề nghị cắt bàn chân bởi vì động mạch đã bị phá nát, nếu không, một thời gian ngắn bàn chân sẽ bị hư thối.

Tướng Loan yêu cầu, bằng mọi cách, giữ lại bàn chân trái cho ông.

Ảnh hưởng tiêu cực của tấm hình hay do lệnh CIA?

Bác sĩ cố vấn trưởng Tổng Y Viện đề nghị đưa tướng Loan đến điều trị tại Bệnh viện Quân Y Mỹ tại Long Bình. Giám đốc Bệnh viện từ chối vì không có khả năng nối động mạch vi ti ở bắp chân.

Tướng Kỳ yêu cầu MACV can thiệp với Hạm Đội 7 có tầu bệnh viện đón nhận tướng Loan để chữa trị. Tầu Bệnh Viện Đệ Thất Hạm Đội từ chối.

Chính phủ VNCH yêu cầu Tòa Đại sứ Hoa kỳ giúp đỡ đưa tướng Loan đến Bệnh viện Jama trên đất Nhật. Tòa Đai sứ Hoa kỳ khước từ.

Không thể trông cậy vào Đồng minh Hoa Kỳ giúp đỡ, tướng Kỳ cuối cùng nhờ đến Tòa Đại sứ Úc chấp thuận cho tướng Loan được điều trị tại Canberra. Chính quyền Canberra khước từ lời yêu cầu của VNCH, viện cớ dư luận dân chúng Úc không đồng tình chứa chấp một kẻ giết tù binh chiến tranh không vũ khí trong tay (9).

Tướng Loan giải ngũ, trở lại đời sống dân sự. Tướng Kỳ mất một người vừa là bạn thân, vừa là quân sư lỗi lạc trong cuộc đời tham chính của mình.

Hoa kỳ không giết chết được Loan nhưng vẫn căm tức “Sáu Lèo” một lúc phá hỏng hai giải pháp chính trị và quân sự của Mỹ tại Việt Nam. Họ quả quyết: “Nếu Loan không rút 2 trung đội Cảnh sát Dã chiến bảo vệ Sứ quán ở đường Thống Nhất thì không tài nào tổ đặc công C-10 của MTGPMN có thể xâm nhập thành lũy tối cao và kiên cố nhất của Mỹ, làm ô danh siêu cường số 1 thế giới”.

Rất có lý, nhưng Hoa kỳ vẫn khờ khạo khi tin rằng “nắm được Nguyễn Thị Bình, Trần Bạch Đằng và Trần Văn Trà là chế ngự được thế thượng phong quân sự của đối phương”. Sự thực phũ phàng là [như ngày nay ai cũng biết] Cuộc Tổng Công Kích – Tổng Nổi Dậy Tết Mậu Thân 1968 của CSVN là thuộc quyền quyết định và được điều khiển bởi Lê Đức Thọ, Bí Thư Trung Ương Cục miền Nam và Võ Văn Kiệt, Bí thư Đặc ủy Khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn.

Lý do tướng Loan rút 2 trung đội CSDC bảo vệ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ trên đường Thống Nhất rất đơn giản và ngay thẳng. Đã là nơi sẽ diễn ra thương thảo giữa MTGPMN và Hoa Kỳ, thì VNCH cần gì phải canh gác? Đó là trách nhiệm của Mỹ.

Dự tính bắt cóc 6,000 người Mỹ làm con tin

Trong cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”, TS Nguyễn Tiến Hưng có đề cập đến một tình huống mà ông gọi là “cực kỳ ê chề” (10) khi Tòa Đại sứ Mỹ phải đối diện, nếu và khi QLVNCH hay Cảnh sát “nổi khùng” mà cưỡng chế cuộc di tản 6 ngàn người Mỹ và một số người Việt thân quen hay làm việc cho Mỹ khi thấy những người này cứ kìn kìn ra đi, bỏ mặc họ cho số phận. Nên nhớ là khi ấy, trong nội vi Sài Gòn, lực lượng Cảnh Sát Dã Chiến hầu như nguyên vẹn cũng như một số đơn vị Nhẩy Dù và TQLC. Nếu có ai xúi dục và thuyết phục được họ đó là biện pháp duy nhất có thể làm để Mỹ phải đem quân tham chiến trở lại thì họ có khả năng quay súng bắn lại người Mỹ. Do đó, Hoa kỳ cũng có kế hoạch phòng hờ (11) đối phó với tình huống này, và Đại sứ Graham Martin cứ phải hành xử “bình chân như vại” cho tới phút chót mới chịu ra đi sáng ngày 30 tháng 4.

Điều này lý giải tại sao Mỹ phải cho ưu tiên di tản những phi công khu trục sang Utapao, Thái Lan, bởi vì QLVNCH chỉ cần vài chiếc F-5 là có thể bắn hạ những trực thăng di tản rơi rụng như sung. Trong tình huống này, TS Hưng lập luận, VNCH sẽ tức khắc trở thành thù địch, và sẽ không thể có Eden Center, Little Saigon hay Cabramatta vì không có người Việt nào được di tản thì làm gì có cộng đồng Người Việt Hải Ngoại như ngày nay?

Ý tưởng “bắt con tin” này có thể đã nhen nhúm trong đầu óc tướng Loan và có thể ông đã bàn bạc với bạn bè hay người thân. Từ ý tưởng sang ý định và đem ra thực hiện thì một người có uy tín và thành tích như ông có thể dễ dàng thuyết phục bạn bè tướng lãnh và thuộc cấp trong Không Quân và Cảnh Sát Quốc Gia. Nhưng ông đã không làm mặc dù Mỹ đã thù hận ông vì làm như thế sẽ có hại cho cả hai bên Việt, Mỹ và CSVN sẽ là kẻ thủ lợi. Ý tưởng này đã được một chuẩn úy KQVN kể lại cho Tòa Đại sứ Mỹ.

Từ cuối 1972, tướng Loan đã được một người bạn chính trị gia làm việc ở Tòa Bạch Ốc gửi thư riêng thông báo đầy đủ về kế hoạch rút quân của Hoa kỳ theo đúng những điều khoản của Hiệp Định Paris ký kết giữa Lê Đức Thọ và H. Kissinger ngày 27 tháng 1, 1973. Cuối thư, người bạn khuyên ông liên lạc với TVQL Anh tại Sài Gòn để thu xếp việc di tản cho chính bản thân ông và gia đình một khi Sài Gòn lọt vào tay các toán tiền tiêu của 6 sư đoàn CSBV. Ông biết là Hoa Kỳ sẽ chẳng bao giờ đem quân trở lại tham chiến tại miền Nam. Trừ phi…

Rốt cuộc, trưa ngày 29 tháng 4, 75, tướng Loan và gia đình đã phải chật vật lắm mới leo lên được một vận tải cơ C-130 và tới Utapao lúc 16:00 giờ chiều.

“Trời kia đã bắt làm người có thân” – Nguyễn Du

Để kết thúc câu chuyện, tôi xin nhường lời cho Eddie Adams

“Ông Loan chạy thoát Việt Nam trong thời gian Sài Gòn xụp đổ và đến Mỹ. Sau cùng ông định cư ở vùng Burke, tiểu bang Virginia. Ông gắng mở một tiệm ăn ở miền Bắc Virginia nhưng khi có người biết ông là chủ thì tiệm ăn đóng cửa. Có những người phản đối đi vòng quanh khu đó hò hét để xả hơi nỗi bất bình của họ một cách thời thượng, an toàn.

“Ông ta rất đau yếu vì bị ung thư một thời gian. Và tôi nói chuyện với ông trên điện thoại tôi muốn làm một cái gì đó. Tôi giải thích mọi điều và kể lại chuyện tấm hình đã hủy hoại đời ông như thế nào thì ông ta chỉ muốn quên chuyện đó. Ông nói thôi bỏ đi. Còn tôi thì không muốn ông bỏ đi như vậy.”

“Thiếu tướng Loan từ giã cõi đời cách đây một năm và một tháng (12). Ông để lại vợ và năm đứa con. Phần lớn những bản tóm lược tiểu sử người quá cố cũng giống như tấm ảnh đã hủy hoại đời ông, chỉ có một chiều và cố chấp”.

Adams gửi hoa phúng điếu với một tấm thiệp trên viết dòng chữ, “Cho tôi xin lỗi. Lệ đang ứa trong mắt tôi.”

Chu Việt

Tháng 5, 2012

Nguồn: Tài liệu Ngành Tình Báo Điện Tử (SIGINT, Signal Intelligence) QLVNCH Tuần báo TIME ngày 27 July, 1968

(1) Tuần báo TIME ra ngày July 27, 1968.

(2) Đại tá Của bị trọng thương do trực thăng Mỹ bắn lầm quân bạn tại đường Khổng Tử, Chợ Lớn trong cuộc Tổng Công Kích đợt II, tháng 5, 1968. Cũng bị sát hại nơi đây là Trung tá Phó Quốc Trụ, Quận trưởng 5 Cảnh sát và Thiếu tá Nguyễn Bảo Sĩ (em trai Trung tướng Nguyễn Bảo Trị) là bạn người viết bài này.

(3) Trong thời gian này, Trần Văn Trà là Tư lệnh CT-5 (CT = Công Trường hay Sư đoàn), Nguyễn Văn Sỹ, Tư lệnh CT-7, và Đồng Văn Cống, Tư lệnh CT-9. Trần Bửu Kiếm là Ủy viên Ngoại Giao của Trung Ương Cục Miền Nam (Cục R). Nguyễn Thị Bình là Bộ trưởng Ngoại Giao, Dương Quỳnh Hoa, Bộ trưởng Y tế và Nguyễn Hưũ Thọ, Chủ tịch Chính phủ Lâm thời MTGPMN.

(4) Loại két sắt này chịu được nhiệt hỏa hoạn cao hàng ngàn độ C, phía trong được trang bị chất phóng xạ radium chống chụp hình lén.

(5) CORDS (Civil Operations and Revolutionary Development Support) là nỗ lực bình định nông thôn miền Nam của Hoa Kỳ qua chương trình “Phượng Hoàng”.

(6) Thủ Dầu Một – Biên Hòa

(7) Đầu đạn “dum dum” có sức công phá mạnh vì dãn nở hay nổ lần thứ hai khi xuyên vào mục tiêu. Do đó, công ước The Hague đã cấm chỉ sử dụng.

(8) Đạn Flechette BF3, tốc độ cực nhanh có thể xuyên qua thiết giáp.

(9) Đại úy đặc công Nguyễn văn Lém bị Cảnh Sát Dã Chiến bắt tại trại gia binh Thiết Giáp Phù Đổng Thiên Vương, Gò Vấp, sau khi hắn đã tàn sát dã man tòan thể gia đình Trung tá Tuấn, gồm cha mẹ và vợ con ông (trong đó có đứa 6 tuổi). Tuấn là bạn đồng khóa, rất thân với tướng Loan. Khi bị bắt, trong mình Lém vẫn còn dấu khẩu súng lục K-54 bị áo che khuất. Lém không được coi là tù binh chiến tranh theo Công Ước Geneva.

(10) Xem Chương 15: “Vào để giúp… Ra lại Bắn Nhau?”.

(11) Kế hoạch phòng hờ này được TS Hưng lược trình trong Chương 15, Sách đã dẫn. Đại sứ Martin gọi nó là “crazy” (điên rồ) và cực lực phản đối. Đại khái, nó bao gồm 3 phương sách thay thế nhau để di tản 6,000 người Mỹ và một số người Việt nhất định:

- Mỹ trải 2,000 TQLC dọc theo QL-15 (Sài Gòn – Vũng Tầu) giữ an ninh di tản.
- Mỹ thiết lập cầu không vận bằng C-130 và C-141 giữa Tân Sơn Nhất và Utapao.
- Mỹ thiết lập cầu không vận trực thăng giữa Sài Gòn và các quân vận hạm ngoài khơi Vũng Tầu.

(12) Ông mất ngày 14 tháng 7, 1998 ở tuổi 68.

Tuổi trẻ hãy dấn thân - Nhã Nam

Nhã Nam

Tre già măng mọc tựa như tuổi trẻ tiếp nối bước đường của cha, anh đó là lẽ tự nhiên của đời thường không gì phải ngạc nhiên. Thế nhưng, muốn cho thế hệ trẻ, chưa có ý niệm gì nhiều về cộng sản và cũng chưa từng nếm mùi cay đắng của chúng, kế thừa để nối tiếp đắc lực con đường cách mạng giải thể chế độ đảng trị Hà Nội mà thế hệ cha, anh đang còn dang dở thì thế hệ này, phải trang bị cho giới trẻ một hành trang, mà hành trang đó không gì khác hơn là nắm và biết được bản chất của cộng sản Việt Nam, để từ đó trên bước đường cách mạng sẽ không bị chao đảo hay rơi vào mê hồn trận trước những luận điệu tuyên truyền tinh vi và xảo quyệt của chúng.

Tội chia đôi đất nước:

Sau khi Nhật đảo chánh ngày 9 tháng 3 năm 1945, Vua Bảo Đại tuyên bố Việt Nam độc lập nằm trong khối Đại Đông Á của Nhật, như vậy trên mặt pháp lý Pháp không còn chủ quyền ở Việt Nam. Thế nhưng khi Nhật đầu hàng vô điều kiện 15 tháng 8 năm 1945, vì sợ Quân đội Tàu được phân công giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra, sẽ hỗ trợ các đảng phái Quốc Gia, điều này đã làm cho HCM rất nỗi lo âu.

Để giải quyết đảng cộng sản Việt Nam qua HCM, chỉ vì quyền lợi của quốc tế cộng sản, mà không nghĩ gì đến quyền lợi của quốc gia, dân tộc đã manh tâm thỏa hiệp với giặc Pháp hầu rảnh tay đàn áp và tiêu diệt các đảng phái quốc gia, qua tạm ước tại Hà Nội 6 tháng 3 năm 46 và sau đó Hiệp Định Fontainbleau 14 tháng 9 năm 46 trong đó có điều khoản bán nước, chấp nhận quân đội Pháp thay thế quân đội Tàu giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra. Bản văn này đã chính thức tạo pháp lý cho quân đội Pháp trở lại Việt Nam qua cuộc đổ bộ quân tại cảng Hải Phòng 19 tháng 5 năm 46, và từ đó, tạo cho Pháp điều kiện thuận lợi để tái chiếm Việt Nam. Biến cố này đã đưa đến cuộc chiến Việt-Pháp kéo dài trong 9 năm và chấm dứt bằng Hiệp Định Genève chia đôi đất nước năm 1954.

Khích động lòng Yêu nước bằng những lời tuyên truyền tinh vi, xảo quyệt:

HCM nói: "đất nước ta ra ngõ gặp anh hùng!". Tại sao không ra ngõ gặp anh tài hay anh hiền mà lại gặp anh hùng? Có như vậy thì sau này khi xâm lược miền Nam mới có cảnh, Sanh Bắc Tử Nam.

Tạo ra gương anh hùng tưởng tượng của một Lê văn Tám, đã làm cây đuốc phá kho xăng Nhà Bè để tuyên truyền và từ đó đã tàn nhẫn đẩy thanh, thiếu niên vào chỗ chết một cách mù quáng qua xiềng chân vào súng đại liên, lấy thân làm bàn đế cho súng cối để bắn, hay lấy thân lấp lỗ châu mai……

Hòa hợp, hòa giải dân tộc:

Đem chiêu bài "thống nhất đất nước" kêu gọi người Việt hải ngoại "hãy xóa bỏ hận thù để hòa hợp, hòa giải dân tộc hầu góp phần xây dựng đất nước". Làm sao có thể hòa hợp, hòa giải với tập đoàn Hà Nội khi chính họ chẳng những đã không chịu lắng nghe những ý kiến đóng góp để xây dựng đất nước của những nhà bất đồng chính kiến ở trong nước mà còn áp bức, đàn áp và kết án tù tội, thì làm gì có thể nói chuyện hòa hợp, hòa giải với người Việt Quốc Gia ở hải ngoại. Do đó, đây chỉ là đòn phép tuyên truyền của chúng mà thôi.

Thôi thì hãy lấy hai trường hợp người Việt hải ngoại về nước hợp tác trong lãnh vực kinh tế, làm điển hình để biết được thực chất về những lời kêu gọi trên của cộng sản Hà Nội:

- Nguyễn Gia Thiều ở Pháp, về kinh doanh điện thoại, sau một thời gian công ty phát triển mạnh mẽ, điều này bất lợi cho chính sách kinh tế của chúng, nên đã triệt hạ bằng tội buôn lậu, trốn thuế, bị phạt 130 tỷ đồng và bị tù 20 năm.

- Trịnh Vĩnh Bình ở Hòa Lan, mang 4 triệu đô la về mở quán ăn và đầu tư đất đai đã bị công an gài bẩy và phải nhờ đến chính phủ Hòa Lan can thiệp mới có thể bỏ của chạy lấy người.

Không thể tha thứ:

Đối với người Việt Quốc Gia, không có vấn đề hận thù để mà xóa. Vấn đề ở đây là, không thể tha thứ những gì đảng cộng sản Việt Nam đã và đang làm:

Làm sao có thể tha thứ được:

- Khi cộng sản Hà Nội theo lệnh của Nga Tàu để bành trướng chủ nghĩa cộng sản ở Động Nam Á, đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam qua việc dựng lên "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam" năm 1960, dưới chiêu bài "chống Mỹ cứu nước" (sic) nhưng thời điểm ấy (1960) ở miền Nam có quân Mỹ đâu để mà chống ! Và cuộc chiến xâm lược này đã cướp đi sinh mạng môt cách oan uổng của gần 3 triệu thanh, thiếu niên của cả hai miền Nam, Bắc để đánh ”Mỹ " vào ngày 30 tháng 4 năm 75. Thế nhưng chẳng bao lâu sau đó lại khẩn khoản và ân cần mời mọc và trải thảm đỏ để rước Mỹ vào trở lại!

- Đem một chủ nghĩa duy vật ngoại lai, mất nhân tính vào miền Bắc trước đây và miền Nam sau năm 75, với chủ trương đấu tranh tư tưởng, đấu tranh giai cấp, đã làm đảo lộn mọi luân thường, đạo lý của dân tộc, qua việc tạo ra sự nghi kỵ lẫn nhau để đưa đến tình trạng con tố cha, vợ tố chồng…, qua việc giết hại một cách tàn nhẫn không gớm tay đồng bào vô tội trong cải cách ruộng đất, qua Tết Mậu Thân, 1968, tại Huế v.v…. Chính vì bản chất phi nhân và tàn bạo đó của chủ nghĩa cộng sản, nên ngày 25 tháng 1 năm 2006 quốc hội Âu Châu ra quyết nghị 1481, đã lên án cộng sản trên thế giới là phi nhân, là thảm họa dân tộc, là tội ác chống nhân loại.'

- Để ru ngủ giới trẻ, cộng sản Hà Nội đã theo chính sách của toàn quyền Decoux Pháp trước đây, thay vì phong trào thể thao, chúng cho phát động phong trào hưởng thụ qua các quán cà phê ca nhạc, qua các quán karaoke, qua các tụ điểm ca nhạc…. Phong trào này không những tạo cho giới trẻ chẳng quan tâm gì đến chế độ độc tài, đảng trị của chúng mà còn đẩy họ vào cuộc sống sa đọa và trụy lạc, trai thì ăn chơi trác tráng, nghiện ngập sì ke, ma túy, gái thì trở thành gái đứng đường, gái gọi cho người mua vui. Cảnh tượng này đã và đang diễn ra nhan nhản khắp mọi nơi trong nước. Thảm trạng này đã đuợc thể hiện qua hai câu ca dao được truyền miệng trong dân gian:
    “Chiều chiều ra bến Ninh Kiều,
    Dưới chân tượng bác đĩ nhiều hơn dân.”

- Nhằm cứu vãn cuộc khủng hoảng kinh tế trong thập niên 90, tập đoàn cộng sản Hà Nôi đã thay đổi chính sách kinh tế từ, kinh tế xã hội chủ nghĩa sang “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Chính sách kinh tế quái đản này, chỉ cứu vản chế độ chứ không vì lợi ích của quốc gia, dân tộc. Thực vậy, chỉ sau một thời gian không lâu, các "cán bộ" cộng sản đã trở thành các tư bản đỏ giàu xụ trong khi ấy cuộc sống của người dân ngày càng lầm than hơn.

Để hình dung được sự khốn khổ của người dân trong nước như thế nào, hãy đọc những bài viết và hình ảnh được đăng tải trên các nhật báo của cộng sản trong nước sẽ thấy cảnh các ông già, bà lão đã 70, 80 tuổi phải lam lũ làm đủ thứ việc để kiếm tiền độ nhật, các em nhỏ trong độ tuổi đi học đã thất học hay phải rời bỏ ghế nhà trường lao vào xã hội để đi lượm ve chai, bọc ny lông, bán vé số hay lớn hơn, trở thành các cô gái của: bia ôm, cà phê ôm, karaoke ôm… để kiếm tiền giúp cha mẹ trong cuộc sống hàng ngày.

Điều đau lòng và nhục quốc thể là, qua sự tiếp tay của ngụy quyền Hà Nội với bọn chuyên buôn gái, trong nước: xem các cô gái tựa như những món hàng được bày ra để đem bán như phải khỏa thân trình diễn trước những cặp mắt cú vọ của những đàn ông nước ngoài lớn tuổi lỡ thời, tật nguyền, bệnh tật hay ế vợ để họ rửa mắt rồi sau đó chọn lựa để về làm vợ. Ngoài nước thì những hình ảnh của các cô gái Việt đựợc rao hàng như những món đồ chơi với những dòng chữ, sẽ chấp nhận về làm vợ với gía rẻ mạt được đăng tải trên Ebay hay trên các báo của các nước Tân Gia Ba, Mã Lai, Đại Hàn, Nam Dương, Đài Loan, Trung Cộng…..

- Trước hành động ngang ngược của Trung Cộng, đánh phá, giết chóc và bắt giữ tàu bè của ngư nhân Việt Nam đang đánh cá trên vùng biển của mình để đòi tiền chuộc mạng thì chính quyền Hà Nội đã không có một phản ứng quyết liệt nào và biện pháp gì để bảo vệ ngư dân! Thái độ khiếp nhược này đã làm ngạc nhiên không ít cho người Việt trong nước cũng như hải ngoại, tại sao? Câu trả lời là, không gì phải ngạc nhiên khi nhìn lại chủ trương của chúng thà mất nước hơn mất đảng, điều này đã được thể hiện một cách cụ thể trước đây qua các hiệp ước năm 1999 và năm 2000 đã để mất ải Nam Quan, 2/3 thác Bản Giốc, đồi Kỳ Lừa, phố Đồng Đăng, bãi Tục Lãm và mất 11.000km2 vùng lãnh hải. Không những thế, chúng còn muốn biến Việt Nam thành quận, huyện của lũ Tàu Cộng qua việc đàn áp, bất giữ và bỏ tù những người yêu nước biểu tình chống lại việc Trung Cộng trắng trợn cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, điển hình nhất là mới đây đã bắt mà không cho biết nơi giam giữ nhạc và ca sĩ trẻ Việt Khang vì đã thể hiện lòng yêu nước của mình qua hai bản nhạc: Anh Là Ai? và Việt Nam Tôi Đâu?

Thái độ khiếp nhược và bán nước này không những không thể tha thứ mà còn là trọng tội với Tiền Nhân, với Quốc Gia và Dân Tộc.

Nếu thế hệ trẻ lãnh hội được bản chất độc tài, bán nước của cộng sản Hà Nội do thế hệ thế hệ cha, anh truyền đạt lại, thì họ sẽ sẳn sàng là lực lượng kế thừa để tiếp nối con đường cách mạng, con đường này thế hệ cha, anh đã đi trong 35 năm, nhưng đường đi vẫn chưa đến.

Hy vọng và chắc chắn rằng, thế hệ trẻ dấn thân không một định kiến, với lòng yêu nước cao độ, với sự nhiệt tình và lòng yêu nước của tuổi trẻ thì con đường giải thể chế độ mãi quốc, cầu vinh của cộng sản Hà Nội sẽ đến một ngày không xa !

Nhã Nam


Lời phát biểu của Trung Tá Lục Quân Hoa Kỳ Julian Trần



Background: US Army Lt. Colonel Julian Tran

Title: Branch Chief, Southeast Asia, G5 Security Cooperatin and Policy, USARPAC at U.S Army Pacific
Demographic info: Hawaiian Islands | US Military
Current: Branch Chief, Southeast Asia, G5 Security Cooperatin and Policy, USARPAC at U.S Army Pacific Past:PACOM, Afghanistan, JIOC, HQDA, Singapore, Kuwait, Europe and more at U.S. Army, Asst. Production Manager at Camsco, Campbell Soup Co, Evensville…
Education: BS, Austin Peay University, TN; MBA, Embry Riddle, FL; MA, MIIS, Monterey, California.


___________________________


Kính thưa quý Cựu Chiến Binh chiến tranh Việt Nam; các quân nhân Hải, Lục, Không quân, Thủy Quân Lục Chiến, Biên Phòng và quý quan khách.

Kính thưa quý vị,
Đây là một vinh dự lớn cho tôi ngày hôm nay được ở đây để bày tỏ những lời biết ơn chân thành đến những anh hùng đã chiến đấu cho nền tự do của miền Nam Việt Nam.

Trước hết, tôi xin cám ơn ban tổ chức, nhất là Cô Nina và cựu Đại Tá Castagnetti đã cho tôi cơ hội được đứng nói chuyện với quý vị trong buổi chiều hôm nay.

Kính thưa quý vị,
Là một người lính, tôi tin là “khi đã là lính, thì suốt đời ta sẽ là lính”; thế nên theo sự suy nghĩ của tôi, quý vị không phải là những cựu chiến binh, mà quý vị luôn là người lính cho đến ngày các quý vị nhắm mắt xuôi tay. Vì thế, nếu cho tôi một cơ hội, tôi sẽ không ngần ngại được sát cánh với quý vị xông pha vào mặt trận bất cứ ngày nào, giờ nào, và bất cứ nơi đâu. Cũng như quý vị, tôi cũng đã từng xông pha ngòai mặt trận trên những vùng đất lạ xa xôi để bảo vệ cho cuộc sống và nền tự do mà chúng ta, những công dân Hoa Kỳ, được an hưởng từng ngày từng phút.

Sự khác biệt giữa thế hệ của chúng tôi và thế hệ của quý vị là ít nhất, chúng tôi cũng nhận được một ít lòng biết ơn của đồng bào khi chúng tôi trở về từ mặt trận; những quân nhân của thế hệ chúng tôi là những người gặp nhiều may mắn. Nhưng còn quý vị, những quân nhân chiến đấu trong cuộc chiến ở Việt Nam – và rất nhiều những quân nhân đó đang có mặt nơi đây – những người lính đó khi trở về từ mặt trận đã phải đối mặt với sự ruồng bỏ và thù hằn của xã hội, một cái xã hội đã vội quên đi giá trị của hai chử tự do và nghĩa vụ của một công dân Hoa Kỳ. Tuy vậy, cho dù quý vị đã không nhận được lòng biết ơn của công chúng cũng như phải đối đầu với những lời tuyên truyền một chiều của giới truyền thông, quý vị đã kiên cường chiến đấu và chưa từng chiến bại trên bất cứ một trận đánh nào trong gian đọan đó, từ thung lũng Ia Drang, Khe Sanh, ngọn đồi Hamburger, Tết và còn nhiều hơn nữa. Tôi và quý vị, chúng ta là những người lính, mà là lính, chúng ta thi hành nhiệm vụ theo quân lệnh, tận lực 110% trong bất cứ hòan cảnh khó khăn nào - và có những người lính đã cho hết tất cả - những người lính đó chính là những người hiện đang nằm sâu trong lòng đất thánh nầy.

Về phần tôi, đất nước Hoa Kỳ đã cho tôi một cơ hội, không những ban cho tôi một cuộc sống tự do, mà còn cho tôi cơ hội để phục vụ trong một quân đội hùng mạnh nhất trên quả địa cầu nầy, để bảo vệ cho nền tự do và cuộc sống của người dân Hoa Kỳ. Và tôi cho rằng đây là một vinh dự to lớn nhất trong cuộc đời tôi. Vâng, đất nước Hoa Kỳ tuy không phải là một quốc gia toàn thiện toàn mỹ, nhưng tôi có thể chứng minh rằng sau hơn 35 quốc gia mà tôi đã từng đi qua, Hoa Kỳ vẫn luôn là một quốc gia tốt đẹp nhất trên trái đất nầy. Đối với những kẻ luôn than phiền về đất nước nầy; bôi nhọ quê hương nầy; nếu họ có thể tìm được một vùng đất nào trên thế giới toàn thiện hơn quê hương nầy, xin họ cho tôi biết, tôi sẽ mua cho họ một vé máy bay một-chiều, điểm đến họ tự chọn, và tôi muốn họ đừng bao giờ trở lại đất nước nầy nữa. Vì tôi rất tự hào là một công dân Hoa Kỳ và tôi không bao giờ muốn sống chung với những người đó.

Tuy tôi còn nhỏ trong thời gian chiến tranh đang xảy ra tại Việt Nam, nhưng tôi cũng có thể cảm nhận được và yêu quý sự tự do mà chúng tôi có ở miền Nam Việt Nam. Người anh ruột và 2 cậu của tôi là sĩ quan trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH), cũng chiến đấu và hy sinh để bảo vệ cho nền tự do của quê hương mình. Nền tự do mà người dân miền Nam an hưởng trước 1975 sẽ không bao giờ có được nếu không có những sự hy sinh cao cả của những chiến sĩ QLVNCH cùng sát cánh với những người lính của các quân binh chủng Hoa Kỳ, những người lính Mỹ đó giờ chúng ta gọi là cựu quân nhân Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam.

Kèm theo đây, tôi cũng muốn gởi lời cảm ơn thành kính nhất đến gia đình và thân nhân của hơn 58,000 vị anh hùng ngã xuống và tên họ đã khắc sâu trên Bức Tường Chiến Tranh Việt Nam tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn. Nếu không có những vị anh hùng nầy, chúng tôi, người dân của miền Nam Việt Nam, sẽ không có thể có được một cơ hội để an hưởng nền thịnh vượng và thấm hiểu được giá trị của hai chữ “Tự Do”. Tuy thời gian “Tự Do” đó có ngắn ngủi, nhưng chúng tôi đã học hỏi được cái giá trị của hai chữ “Tự Do”. Và vì thế, xin quý vị nhận nơi đây lời cảm ơn chân thành nhất từ con tim của tôi cho những ngày tháng Tự Do đó mà quý vị đã cho chúng tôi .

Sau chiến tranh Việt Nam, hàng trăm ngàn người dân Việt Nam đã vượt biên để tìm tự do; đã có không biết bao nhiêu những người vượt biên đã bỏ mình trên biển sâu hoặc là trong rừng sâu núi thẳm ở Lào và Cambodia trên bước đường đi tìm tự do. Những người vượt biên đó được mọi người gọi là “Thuyền Nhân,” hoặc là như tôi, những người vượt biên “Đường Bộ” vì tôi vượt biên qua ngã Cambodia. Những người tỵ nạn đó đã chọn “thà chết để được sống tự do;” họ chọn kiếp sống tự do vì quý vị họ đã cho họ nếm được cái ý nghĩa và giá trị của hai chữ Tự Do.

Thống Tướng Douglas MacArthur có nói rằng “người lính già không bao giờ chết, họ chỉ tan biến theo thời gian.” Nhưng tôi muốn cho quý vị biết rằng ”quý vị có thể chết vì tuổi già, nhưng sẽ không bao giờ tan biến theo thời gian” bởi vì quý vị sẽ sống mãi trong con tim và khối óc của hàng triệu người Việt và cộng đồng Việt Nam trên tòan thế giới. Mỗi khi tôi gặp một cựu chiến binh Việt Nam, tôi luôn gởi đến họ hai tiếng cảm ơn, và tôi mong muốn tất cả mọi người điều làm giống như tôi vì những người cựu chiến binh đó đã hy sinh quá nhiều cho miền Nam Việt Nam và cho đất nước Hoa Kỳ.

Tôi cũng mong muốn tất cả công dân Hoa Kỳ bày tỏ lòng cảm ơn của mình cho tất cả những cựu quân nhân cũng như những người lính đang phục vụ trong quân đội hôm nay; nếu không có họ, đất nước Hoa Kỳ sẽ không bao giờ có được như ngày hôm nay; quê hương nầy sẽ không có được sự tự do mà mình đang có; và Hoa Kỳ đã không trở thành một quốc gia vĩ đại trên trái đất nầy. Xin nhận nơi đây lời chào kính trọng của tôi đến tất cả những cựu quân nhân và những người lính có mặt ở đây ngày hôm nay. Xin ơn trên phù hộ cho quê hương nầy cũng như phù hộ cho tất cả quý vị.



*********************************
Remarks at the Memorial Day Commemoration


National Cemetery of the Pacific (Punchbowl), Honolulu, Hawaii
May 27, 2012
By Lieutenant Colonel Julian Tran, U.S. Army

Good Afternoon.
Distinguish guests; veterans of the Vietnam War; Soldiers; Sailors, Marines; Airmen; Coast Guard; and my fellow Americans.

Ladies and Gentlemen:
It is a great honor for me to be here today to express my deepest gratitude to the warriors who had fought for the freedom of South Vietnam.

First of all, I would like to thank the organizer of this event, particularly, Mrs. Nina and Retired Colonel Castagnetti who give me the opportunity to stand in front of you this afternoon.

Ladies and Gentlemen,
As a soldier, I strongly believe that “once a Soldier, you will always be a Soldier”; therefore, to me, you are not a veteran, but you are, and always will be, a Soldier until the day you die. And I, if given the opportunity, would not hesitate to go to battle with you, side-by-side, anyday, anywhere, and anytime. Like you, I’ve deployed and fought in the faraway lands to preserve our way of life and the freedom that we, Americans, all enjoy every day.

The different between your generation and my generation is that, at least my generation, to a certain extent, has received some appreciations from the people that we met once we returned home from war. I am the lucky one; many of today’s servicemen and women are the lucky ones. But for the Soldiers who fought during the Vietnam War – And many of you are here today – they returning home to face the hostility and rejection from a society that has forgotten the value of freedom and what it meant to be an American. Despite under appreciated and bias media propaganda, you had fought well and had never lost a single battle when you were there, from the La Rang Valley, Khe Sanh, Hamburger Hill, and Tet, just to name a few.

You and I, we are Soldiers, and as Soldier we followed orders and executed our missions regardless of the circumstances. We gave 110% – and many gave it all – and are lying here today in this holy ground.
As for me, America has given me the opportunity, not only to live free again, but also to serve the greatest Armed Forces on this planet earth, and to defend our freedom and way of life. And I consider this is the greatest honor of my lifetime. Yes, America is not a perfect country, but I can attest to you that, after having been to more than 35 countries, this country is still the best country on this planet. Those who complain about America; say bad things about America; if you can find a better place on earth to live, please let me know, I will buy you a one-way ticket, destination of your choice, and don’t you ever come back. Because I am so proud to be an American and I sure don’t want to live with you.

Though I was a little boy during the Vietnam War, but I had a great sense of appreciation of the Freedom that we enjoyed in South Vietnam. My brother and two uncles who were officers in the South Vietnamese Army – or ARVN, fought and died to preserve our freedom as well. The Freedom that South Vietnamese people enjoyed until 1975 couldn’t have taken place without the sacrifice of hundreds of thousands of ARVN soldiers who fought alongside the American Soldiers, Sailors, Marines, Airmen and Coast Guards which who they are now called Vietnam War Veterans.

Additionally, my sincere appreciation also goes to families of more than 58,000 names of those warriors are now on the VIETNAM WALL in Washington D.C. WITHOUT YOU, the Vietnam Veterans, WE, the people of South Vietnam couldn’t have enjoyed a period of prosperity and appreciated the value of FREEDOM. Though the period of “Freedom” was short live, we had learned and realized what it meant to be free. And for that, I want to say THANK YOU from the bottom of my heart for giving us those days of freedom.

After the Vietnam War, hundreds of thousands of Vietnamese people escaped from Vietnam; untold number of them died at seas or in the jungles of Laos and Cambodia on their journey of seeking freedom. Those people, as you have known them as “boat people” or, as for me, the “land people” because I escaped from Vietnam thru Cambodia. Those refugees had chosen to “live free or die” because you have given them the TASTE of FREEDOM.

General Douglas MacArthur said “old Soldiers never die; they just fade away.” For the Veterans of the VIETNAM WAR, I want to say that “you may die of old age, but you will never fade away” because in the heart and mind of millions of Vietnamese people and communities around the world, you will live on forever. Whenever I see a Vietnam War Veteran, I always say Thank you to him, and I would ask everyone to do the same because he had given so much and had done so much for South Vietnam and for America.
I also would ask every American to say a word of THANK YOU to every Soldier past and present; because without them, America will not be where we are today; American will not have the freedom that we have today; and America will not be the greatest country on this planet earth. To all the veterans and Soldiers here today, I salute you.

GOD BLESS AMERICA AND GOD BLESS YOU ALL.


Thursday, May 31, 2012

Demand for Vietnamese brides booming in China

Beijing, May 29 (PTI): Vietnam's mail-order bride business is booming, fuelled by surging demand from Chinese men who have given up hope of finding a wife due to growing gender gap in the country.

Though international marriage agencies are officially illegal, loopholes in China have allowed the industry to flourish, China's state-run Global Times reported today.

For a group purchase price of 30,000 to 40,000 yuan (USD 4,727 - USD 6,303), an attractive Vietnamese bride aged between 18 and 25 can be "bought" from a marriage agency based in China's Yunnan Province, which regularly posts online advertisements, it said.

The agency is registered as a Chinese dating service in the provincial capital Kunming and organises group tours to Vietnam for single Chinese men and arranges dates for them with Vietnamese women selected from a catalogue as a possible mate for marriage.

The cost of the tour includes travel expenses, translation services, gifts for the women's families and the wedding ceremony.

They also assume responsibility for finding clients a new bride if the first one flees after the wedding, according to a report by Kunming-based newspaper the Spring City Evening News.

"We're gathering Chinese clients for group tours to Vietnam to arrange dating activities, not group purchasing.

More than 80 per cent of clients find brides," an agency employee told the Global Times.

"All prospective brides who participate in the dates are willing to marry a Chinese suitor. Those who do tie the knot enter China with all legal documents, including a Vietnamese passport, a valid tourist visa and a health certificate," it said.

Like all foreigners with a Chinese husband or wife, permanent residency in China can be obtained after five years of marriage.

Chinese men opted to marry Vietnamese brides because of growing sex ratio in China increasing the gender gap.

According to 2010 Census figures, China's sex ratio at birth was 118 males for every 100 females. The number of males for every hundred females has risen consistently every decade from 108 in 1982, 111 in 1990 and 116 in 2000.


Friday, May 4, 2012

Khí tiết sáng ngời - Huy Phương

Huy Phương
    “Anh hùng có sá chi thua được,
    Tiết nghĩa nào phai với đất trời.”(Thủ Khoa Huân)
Chúng ta đã biết một nước Nhật anh hùng, người Nhật có trách nhiệm với dân tộc và tổ quốc. Trong chính quyền, các viên chức gây ra sự tổn thất hay tai nạn trong phần trách nhiệm của mình đều tự xử bằng cách nhận lỗi và từ chức.

Những sĩ quan Nhật lúc sa cơ thất trận biết chọn cái chết cho mình để tròn khí tiết. Trận Okinawa với quân đội Mỹ kéo dài 82 ngày, kết thúc vào tháng 6, 1945, trong những giờ phút cuối cùng biết không giữ nổi đất đai của tổ quốc, ngày 15 tháng 6, trong một hang động lớn, Ðại Tá Kanayama, trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 27BB tập hợp 102 người còn lại của trung đoàn. Ông ta làm lễ đốt quân kỳ trung đoàn và nói:

“Trong ba tháng vừa qua, anh em đã cùng tôi chiến đấu. Lòng dũng cảm, chí hy sinh, sức chịu đựng của anh em, lịch sử sẽ khắc sâu. Nay tôi nói lời cám ơn anh em đã phục vụ quên mình. Giờ đây, tôi tuyên bố giải thể trung đoàn. Từ nay trở đi, anh em không còn bị ràng buộc, tôi lãnh trách nhiệm về việc này. Riêng tôi, tôi sẽ vĩnh viễn ở lại đây. Nhưng tôi cấm anh em theo tôi. Ra lệnh cho anh em phải sống để kể lại cho hậu thế biết quân đội Nhật Bản đã anh dũng chiến đấu như thế nào ở Okinawa.”

Ðoạn Ðại Tá Kanayama rút gươm mổ bụng. Ðại Úy Sato chặt đầu người chỉ huy theo đúng nghi thức rồi hô to Tenn Mheika banzai! (Thiên Hoàng vạn tuế), dứt tiếng hô, ông chĩa súng lục vào đầu bóp cò tự sát.

Cũng trong ngày 21 tháng 6, trong chỉ huy sở của mình tại Mabumi,

Tướng Ushijima và mọi người đều hớt tóc, cạo râu. Sau đó ông viết thư trình lên Thiên Hoàng Hiro Hito báo cáo về tình hình chiến sự tại Okinawa và tạ tội không giữ được đảo. Thư được điện về Bộ Tổng Tham Mưu quân đội Hoàng Gia tại Tokyo. Cuối cùng, ông nói với Ðại Tá Yahara:

“Ðại Tá Yahara, ông cũng như tôi lẽ ra phải tự sát. Nhưng tôi ra lệnh cho ông ở lại. Nếu ông chết, sau này còn ai có thẩm quyền để kể lại về trận chiến Okinawa này. Mặc dù sống sau khi thua trận là nhục nhã, nhưng tư lệnh của ông ra lệnh cho ông phải chịu cái nhục này.”

Yahara do đó là sĩ quan cao cấp bên phía Nhật sống sót sau trận đánh và về sau ông đã cho xuất bản cuốn sách mang tựa đề “Trận Ðánh Vì Okinawa.”

Chiều ngày 22 tháng 6, Tướng Ushijima và Tướng Cho quỳ gối hướng về phía Bắc (hướng Hoàng Cung) vái ba vái và tiến hành lễ tự sát. Tướng Cho đưa cổ cho Ðại Úy Sakaguchi chém đầu. Tướng Ushijima lấy gươm tự mổ bụng, tiếp theo đó bảy sĩ quan tham mưu cùng tự sát. Ngày 2 tháng 7, trận Okinawa chính thức chấm dứt.

Hai tháng sau trận Okinawa, trong giai đoạn cuối cùng của Ðệ II Thế Chiến, Mỹ đã thả hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima and Nagasaki của Nhật Bản, sáu ngày sau, 15 tháng 8, 1945, Nhật Hoàng mới dứt khoát chấp nhận Tuyên ngôn Potsdam, đồng ý đầu hàng. Biết tin này, một số sĩ quan trẻ trong quân đội Nhật định làm đảo chính, định tiêu diệt phái chủ hàng và buộc nhà vua chấp nhận quyết chiến đến cùng. Nhưng cuộc đảo chính đã không xẩy ra, khi lệnh đầu hàng ban ra, nhiều tướng lĩnh và sĩ quan đã tự sát, trong đó có Bộ Trưởng Lục Quân Anami, Ðại Tướng cựu Tổng Tham Mưu Trưởng Sugiyama, Ðại Tướng Tư Lệnh miền Ðông Tanaka…

Vào tháng 4 năm 1975, khi quân đội Cộng Sản đang trên đường tiến vào Nam Vang, người Mỹ đã mời Thủ Tướng Sirik Matak và toàn bộ chính phủ Miên nên ra đi, vì ở lại thì sẽ bị Khờ Me Ðỏ sát hại.

Ngày 16 tháng 4 năm 1975, Thủ Tướng Sirik Matak đã viết một lá thơ vô cùng cảm động gởi cho đại sứ Mỹ tại Nam Vang là ông John Gunther Dean.

Lá thư đầy nghĩa khí và tiết tháo của một người anh hùng “sinh vi tướng, tử vi thần,” nhưng cũng đầy cay đắng như sau:

“Tôi chân thành cám ơn lá thư của quý ông, và ngỏ lời đưa tôi đến bến bờ tự do.

Tôi thì không thể rời bỏ nơi này một cách hèn nhát đến thế.

Ðối với quý ông và nhất là đối với đất nước nhân hậu này, tôi chưa hề tin rằng quý ông có ý nghĩ từ bỏ một dân tộc muốn tìm chọn tự do.

Quý ông đã từ chối bảo vệ chúng tôi và chúng tôi đành bó tay. Quý ông đã rời bỏ chúng tôi, chúng tôi thật lòng ao ước quý ông và quý quốc sẽ tìm thấy hạnh phúc dưới bầu trời này.

Nhưng hãy nhớ rõ điều này, nếu tôi có chết ngay bây giờ, trên mảnh đất mà tôi yêu mến, thì cũng chỉ vì mọi người sinh ra rồi sẽ có ngày trở về cát bụi.

Tôi chỉ có một lỗi lầm là đã tin vào người Mỹ các ông.

Xin ngài, người bạn quý, nhận nơi đây lòng biết ơn chân thành của tôi.” (Hoàng Tử Sirik Matak)

Khi Khờ Me Ðỏ vào toàn bộ chính phủ Miên đều bị giết, riêng gia đình ông Sirik Matak, từ con cháu đến các người giúp việc trong nhà ông đều bị Khmer Ðỏ sát hại.

Trong những ngày cuối cùng của VNCH,

Trước khi người Mỹ quyết định bỏ mặc cho VNCH tự chiến đấu chống cộng sản, Ðại Sứ Martin của Hoa Kỳ đã chính thức gặp Tổng Thống Trần Văn Hương và mời tổng thống rời khỏi nước, đi đến bất cứ xứ nào, ngày giờ nào với phương tiện nào, cũng như hứa sẽ bảo đảm cho tổng thống một đời sống xứng đáng với cương vị tổng thống cho đến ngày trăm tuổi.

Tổng Thống Trần Văn Hương đã trả lời:

“Thưa ông đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Ðã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi bỏ nước ra đi, tôi rất cám ơn ông. Nhưng tôi đã suy nghĩ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết Cộng Sản vào được Saigon, bao nhiêu đau khổ nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia sẻ với họ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nỗi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông đại sứ đã đến viếng tôi.”

Ngày 30 tháng 4, 1975, Saigon thất thủ sau khi Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng quân Bắc Việt, Quân Ðội Việt Nam chúng ta không thiếu anh hùng: bốn tướng lãnh VNCH đã tự sát, đó là :

Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Vùng 2 Chiến Thuật,

Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Vùng 4 Chiến Thuật,

Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh SÐ21BB,

Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh SÐ5BB.

Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã dùng độc dược, và ba tướng lãnh sau dùng súng ngay tại Bộ Chỉ Huy của mình.

Cũng như Ðại Tá Kanayama, trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 27BB của trận Okinawa, Tướng Vỹ của Bình Dương đã triệu tập một phiên họp bất thường, thật ngắn ngủi, để giải thích cho mọi người rõ lệnh đầu hàng. Ông nói: “Lệnh bắt chúng ta buông súng bàn giao cho địch, nói thẳng ra là đầu hàng… Vì tôi là một tướng chỉ huy mặt trận, tôi không thể thi hành được lệnh này. Tôi nghĩ thân làm tướng là phần nào đã hưởng vinh dự và ân huệ của Quốc Gia hơn các anh em, nên tôi phải chọn lấy con đường đi riêng cho tôi.”

Cảm thấy nỗi nhục thất trận, không phải chỉ hàng tướng lãnh.

Cấp tá như:

Trung Tá CSQG Nguyễn Văn Long, đã tự bắn vào đầu, chết dưới chân tượng TQLC trước Quốc Hội, Trung Tá Trần Ðình Chi, An Ninh Quân Ðội đã tự sát tại văn phòng ông ở Biên Hoà.

Một hạ sĩ quan Quân Cảnh đã kết liễu đời binh nghiệp của mình tại Biệt Khu Thủ Ðô, và Nhiều binh sĩ Nhảy Dù đã choàng vai vây vòng tròn với nhau trên đường lui ở Ngã Ba Ông Tạ, cũng như những toán TQLC trên bãi biển Tư Hiền (Ngã Tư Bẩy Hiền), với những quả lựu đạn mở chốt để cùng chết với nhau.

Quyết định chọn cái chết là khó, nhưng cái chết diễn ra rất nhanh, chọn sự sống là dễ, nhưng sự sống kéo dài làm người ta tủi nhục.

Trong khi đó ngày 7 tháng 5, 1954, Ðiện Biên Phủ thất thủ, Tướng chỉ huy De Castries đã ra đầu hàng, bị bắt làm tù binh và được trao trả sau Hiệp Ðịnh Genève. Ông rời quân ngũ năm 1959 và qua đời năm 1991 tại Paris, Pháp. Ông có trở lại thăm chiến trường xưa nhưng không hề ca tụng kẻ thù.(Đại Tá De Casriies được Chính Phủ Pháp thăng lên cấp Thiếu Tướng khi đang bị vẫy hãm trong lòng chảo Điện Biên. Tổng Thống Pháp muốn Đại Tá tuẫn tiết ở đó. Nhưng…..). Trái lại Ðại Tá Bigeard, bị bắt tại Ðiện Biên Phủ, sau 50 năm đã ca tụng kẻ thù và chê quân đội Pháp. Tương tự như vậy, bên cạnh những hào kiệt đã tuẫn tiết, quân đội chúng ta cũng có những mạt tướng không chịu chết cho đời thương tiếc, mà sống để lại ô danh và tủi nhục cho đồng đội đã hy sinh xuơng máu cho sự nghiệp, chạy về quị lụy ôm chân kẻ thù xưa.

Bên cạnh những anh hùng, cũng có những kẻ hèn hạ phản bội.

Chúng ta liên tưởng đến hai câu thơ của Cụ Phan Bội Châu:
    Dù lịch sử, cha ông thây kệ Nhục hay vinh họ kể gì đâu!
Người xưa đã nói: “Không lấy thành bại mà luận anh hùng.”

Nếu hôm nay chúng ta mỗi năm đến ngày 30 tháng 4 còn ngẩng mặt nhìn đời được là nhờ hào quang của những người đã chết, rửa mặt cho miền Nam. Còn chúng ta sống, kéo dài cuộc sống làm sao để cho khỏi hổ thẹn

Huy Phương


Thursday, May 3, 2012

QUỐC HẬN & QUỐC THÙ 30/4 - Nguyễn Phúc Liên

Nguyễn Phúc Liên
Geneva, 30.04.2012

Ngày QUỐC HẬN 30/4 không thể nào có thể xóa đi được bởi vì nó ghi lại một thảm trạng không phải chỉ cho dân Miền Nam thời 1975 còn ở lại hay đã ra đi. Cái thảm trạng này không phải là một biến cố Lịch sử được ghi ở một ngày tháng, mà được khắc sống động vào lòng mỗi người dân Việt, không phải chỉ ở những người lớn tuổi trực tiếp sống thời điểm 1975, mà còn ở lớp hậu sinh sau năm 1975 vẫn chịu hậu quả của thảm trạng 30/4/1975. Ngày QUỐC HẬN 30/4 không phải ở tình trạng thụ động trong lòng một số người ôm mối hận mà than khóc để người ta có thể xóa dần với thời gian. Nhưng ngày QUỐC HẬN 30/4 đang trở thành ngày QUỐC THÙ với ý chí ĐỘNG để sinh tồn của từng lớp người TRẺ Việt Nam đang phải sống dưới một Cơ chế CSVN cướp bóc, hà hiếp dân mình, rồi đem Lãnh thổ và Lãnh hải Tổ Tiên cung hiến cho ngoại bang. Ngày QUỐC HẬN 30/4 được sống mãi trong ý chí QUỐC THÙ mà Tiền Nhân đã un đúc triền miên qua nhiều ngàn năm Lịch sử của Dân Tộc đấu tranh để sinh tồn.

Chúng tôi tìm hiểu hai chữ HẬN và THÙ. Theo VIỆT NAM TỰ ĐIỂN của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ xuất bản do Nhà sách Khai Trí năm 1970, thì chữ HẬN và chữ THÙ được định nghĩa như sau:

* HẬN có nghĩa là “Giận, Oán trong lòng “

* THÙ có nghĩa là “Nỗi oán giận ghim trong lòng chờ ngày làm cho lại gan với người đã hại mình hay hại người thân mình “; “Người đã hại mình, cướp giựt tài sản, giết chóc người thân, đồng bào hay cướp nước mình“; “Ghim mối hận trong lòng và tìm dịp hoặc chờ dịp làm cho lại gan đối với kẻ thù.” Hai Soạn giả TỰ ĐIỂN còn trích câu thơ:
    Bà Trưng quê ở châu Phong, Giận người tham bạo, THÙ chồng chẳng quên
Dân tộc Việt Nam, với ý chí đấu tranh để sinh tồn qua giòng Lịch sử không thể ngồi ôm sự đau buồn của ngày 30/4 một cách ủ rũ cam chịu số phận, mà chắc chắn nuôi ý chí BÁO THÙ bằng hành động đối với Cộng sản Việt Nam, một đảng đảng cướp không còn tình người, đã và đang tiếp tục chất chồng lên Dân Tộc những tội ác, đã và đang dâng Lãnh Thổ và Lãnh Hải cho Tầu. Những tội ác đã và đang chất chồng lên Dân Tộc và tội bán nước đã và đang phạm hiện nay tất nhiên không cho phép người Dân Việt, từ lớn tuổi đến hậu duệ, ngồi yên. Dân Việt sẽ vùng lên diệt kẻ thù CSVN. Diệt kẻ thù CSVN ở đây có nghĩa là thi hành CÔNG LÝ cho các Thế Hệ Dân Việt và cho chính Tổ Tiên nữa.

Ngày 30/4 là ngày QUỐC HẬN và mang ý chí đấu tranh của ngày QUỐC THÙ vậy.

Giáo sư Tiến sĩ kink tế Nguyễn Phúc Liên



Monday, April 30, 2012

Tháng Tư Còn Nhớ Mãi - Quang Dương

Quang Dương

Dù đã ba mươi bảy năm trôi qua kể từ ngày đau thương tang tóc phủ trùm lên quê hương dân tộc, nhưng trong lòng người dân Việt nói chung, và đặc biệt người dân miền Nam, có bao giờ quên được những thảm cảnh hãi hùng, những thịt nát xương tan, những máu lửa ngụt trời, những bàng hoàng uất nghẹn và những chuỗi năm dài triền miên tăm tối. Mỗi ngày của tháng Tư hàng năm là mỗi nhắc nhở đậm nét, mỗi khơi dậy trùm khắp về bao nỗi kinh hoàng ghê khiếp, đất thảm trời sầu, đớn đau tủi nhục đã ghi khắc và hằn sâu trong tâm khảm của mọi người. Tháng Tư là tháng tưởng niệm cho mùa quốc hận, cho cái tang chung của dân tộc khi nước mất nhà tan, khi miền Nam Việt Nam tự do cuối cùng bị bức tử, rơi vào tay quân cộng sản miền Bắc vào đúng ngày cuối tháng, ngày 30 tháng Tư năm 1975.

Đã có biết bao nhiêu chiến sĩ quân, cán, chính VNCH, hữu danh hoặc vô danh, anh dũng hy sinh nơi trận địa, trong thành phố, tại thị trấn, nơi xóm làng, ở góc rừng, bìa núi, ven sông… trong lúc chống trả lại sức tấn công lấn chiếm tàn bạo của quân thù. Đã có những vị tướng tuẫn tiết theo thành, thà chết vinh hơn sống nhục. Đã có những người lính cùng nhau tự sát bằng lựu đạn chứ không hàng giặc. Đã có biết bao gia đình dân lành phải tan đàn sẻ nghé, vong gia thất thổ, vợ mất chồng, con lạc mẹ, anh chị em tứ tán trên đường di tản chạy dài từ những tỉnh thành địa đầu giới tuyến miền Trung xuống đến tận miền Nam. Hàng đoàn người di tản thuộc đủ lứa tuổi, gồng gánh mang vác chút tài sản còn mang được, dắt díu nối theo nhau di chuyển bằng tất cả mọi phương tiện, mà nhiều nhất là đi bộ, đã nói lên nỗi kinh hoàng của người dân miền Nam trước viễn ảnh đen tối hãi hùng phải kẹt lại trong vùng quân giặc lấn chiếm. Những nỗi đọa đầy thống khổ, oan khiên tức tưởi của quân dân miền Nam trên đường lánh nạn thật không có bút mực nào tả xiết. Quân thù ngăn chận, cắt đoạn rồi pháo kích, nổ súng bắn xối xả vào đoàn người dân vô tội không một tấc sắt trong tay. Những hình ảnh của hai mẹ con nằm chết sõng xoài trong lúc con còn đang tuổi ẵm ngửa hay những em bé ngây thơ gục ngã bên chén cơm bê bết máu cạnh bờ mương, khe rạch, hay nương đồi vẫn còn lưu dấu đời đời. Đã có bao nhiêu người đến được nơi bình yên? Bao nhiêu người đã chết và bao nhiêu người bị thương, tàn tật một đời? Bao nhiêu người mất tích? Bao nhiêu bé thơ bỗng nhiên thành trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ? Bao nhiêu gia đình chia lìa tan nát? Không có thống kê nào đếm xuể, không có sổ sách nào ghi chép hết. Ai đã ôm mộng bành trướng để gây lên thảm cảnh nghiệt ngã oan khiên? Ai đã khơi sâu thù hận cho xương phơi ngập núi? Ai đã chuốc đẫm oán cừu cho biển máu hồng loang? Tất cả chúng ta đều đã rõ.

Rồi sau cái ngày định mệnh đổi đời oan nghiệt 30 tháng Tư, có biết bao người dân miền Nam tiếp tục phải gánh chịu những đòn thù tàn khốc của kẻ xâm chiếm. Đã có bao nhiêu quân, dân, cán, chính, văn nghệ sĩ, trí thức, doanh gia miền Nam bị lừa đi cải tạo tập trung, thực chất là tù đày dài hạn, ở nơi ma thiêng nước độc. Có bao nhiêu người đã đành phải bỏ thây vùi nông một nấm, hoặc chết mất xác vì bị hành hạ đói khát, lao động khổ sai, bệnh tật không thuốc men cứu chữa, hay bị thủ tiêu bắn bỏ tùy tiện. Những người không bị tập trung cải tạo thì cũng sống đói khổ, vất vưởng nhọc nhằn, thần kinh căng thẳng, nơm nớp lo sợ trong vòng kềm kẹp kiểm soát đến từng móng chân sợi tóc bởi cả một guồng máy công an trị, luồn lách đến từng con hẻm, khu phố. Những luật lệ vô lý, những định đặt tùy tiện bất công của kẻ xâm chiếm đưa ra chỉ để trấn áp, hạ nhục, công khai tịch thu, vơ vét, bóc lột đất đai, phương tiện sản xuất, thành quả của người dân miền Nam. Những chiến dịch và chủ trương đánh tư sản, kiểm kê tài sản, tịch thu văn hoá phẩm, ép dân đi kinh tế mới, quốc doanh, hợp tác xã, làm chủ tập thể, tem phiếu lương thực, đổi tiền… là những công cụ để cướp đoạt tài sản của người dân đến trắng tay và đẩy dân xuống hàng bần hàn đói rách ngang nhau. Mục đích của kẻ xâm chiếm là bần cùng hóa người dân miền Nam để triệt hạ mọi ý tưởng phản kháng và hành động chống đối. Từ đó phẩm giá, nhân cách và đạo đức suy đồi nhanh chóng, trong lúc con người chỉ còn sức chạy vạy, giành giựt, lo toan cho từng miếng cơm manh áo. Những nỗi oán khổ, lầm than, điêu đứng của người dân miền Nam trong giai đoạn này cũng không bút mực ngôn từ nào tả xiết. Đã biết bao người, có trường hợp cả gia đình, phải phẫn uất tự vẫn vì không chịu đựng được nỗi uất ức đau khổ bị tước đoạt hết công lao gây dựng bằng chính mồ hôi nước mắt cả cuộc đời. Sống trong một chế độ phi nhân, hiểm ác, bóc lột, đày đọa, trong một guồng máy cai trị bạo tàn bằng nhà tù, súng đạn như thế thì “cái cột đèn nếu có chân cũng sẽ ra đi” là phải lắm. Nhưng trước khi ra đi, nếu cái cột đèn có cả tay, nó cũng sẽ không thể chịu khoanh tay, trói chân đứng lặng yên mà chịu đựng. Có biết bao vị anh hùng không khuất phục, đã âm thầm hoặc công khai chống lại kẻ thù bằng tiếng nói lương tâm hoặc hành động vũ lực. Đã có bao nhiêu chiến sĩ kháng chiến phục quốc anh dũng hy sinh, bao nhiêu người đã bị tra tấn tù đày dài hạn trong niềm cảm phục lẫn thương tiếc của đồng bào do “mưu sự tại nhân thành sự tại thiên”, do nội gián, hoặc do không đủ lực lượng tương xứng.

Là con người, nhất là con người miền Nam quen cuộc sống tự do, phóng khoáng, rõ ràng và chân thật đâu thể nào chấp nhận sống trong nô lệ gông cùm mất tự do nhân phẩm. Vì thế khi không đủ sức chống lại kẻ thù, đã có hàng triệu lượt người chấp nhận bỏ lại tất cả, liều mạng ra đi vượt biên bằng đường bộ qua ngả Campuchia, Thái Lan hay vượt biển Đông trên những con thuyền mành nhỏ bé mong manh thô sơ cũ kỹ, trang bị tối thiểu hay cũng chẳng trang bị thứ gì, đạp sóng kình nghê, thi gan cùng bão táp sang các vùng đất của các nước tự do. Trong cuộc mạo hiểm đầy gian nan trắc trở, sinh mạng như chỉ mành treo chuông đó đã có hàng mấy trăm ngàn người không may bỏ mình nơi rừng sâu, khe suối hay vùi thây dưới lòng biển cả vì đói khát, bệnh hoạn, vì đạn thù, vì phong ba hay cướp biển. Biết bao cô gái Việt Nam đã bị hải tặc hãm hiếp, giết chết hoặc bắt đi mất tích. Những ai may mắn đặt chân được đến bến bờ tự do cũng không ít người mất vợ mất chồng, mất cha mất mẹ, hay mất con mất cháu, mất người thân trên bước đường đầy máu và nước mắt. Không thống kê nào đếm xuể, không sổ sách nào ghi chép được con số chính xác có bao nhiêu oan hồn uổng tử nơi vực sâu núi thẳm hay nơi ngọn sóng đầu ghềnh. Những tưởng trong dòng lịch sử nhân loại, không một dân tộc nào như dân tộc Việt Nam đã phải chịu đựng thảm cảnh đớn đau, mất mát, tủi nhục vô cùng vô lượng đến như vậy.

Tháng Tư ngậm ngùi nhớ lại những đau thương mất mát để tưởng niệm những chiến sĩ QLVNCH đã vị quốc vong thân trong công cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam Việt Nam, hoặc đã bị bức tử tại những trại tù tập trung cải tạo nơi rừng sâu nước độc. Tháng Tư đau xót cũng để đốt lên nén hương thương nhớ những đồng bào, bạn bè và người thân đã bỏ mình trên bước đường trốn chạy cộng sản hoặc trong lúc vượt biên vuợt biển tìm tự do. Tháng Tư uất hận còn là tháng nhắc nhở chúng ta không bao giờ quên những đồng bào trong nước hãy còn rên xiết đau khổ vì không có tự do, dân chủ và quyền làm người tối thiểu. Dưới chế độ độc tài đảng trị, rõ hơn là độc tài đảng cướp, người dân đen luôn bị đàn áp bóc lột dù đã cam lòng chịu đựng cuộc sống lầm than đói nghèo. Tiếng kêu than vang vọng đất trời của bao người dân nơi quê nhà đã và đang bị bạo quyền cướp nhà cướp đất đã quá to và quá rõ. Trải qua hơn bảy mươi năm kể từ ngày đảng cộng sản Việt Nam reo rắc tang thương máu lửa lên quê hương đất nước có bao giờ người dân được sống trong cảnh an bình no ấm. Chỉ thấy những kẻ cầm quyền độc đảng ăn trên ngồi trốc, càng ngày càng vinh thân phì gia, giàu sang tột đỉnh như những ông hoàng bà chúa, còn đại đa số dân đen thì vẫn chân lấm tay bùn, tha phương cầu thực, đói nghèo lê lết mà cũng không được yên thân. Ngày nay những kẻ tội đồ của dân tộc còn vì lợi ích cá nhân đảng phái, âm mưu cấu kết với nhau đem dâng biển đảo, giang sơn tổ quốc cho giặc ngoại xâm truyền đời phương Bắc. Là người dân Việt, nhìn những cảnh tượng đó ai mà không xót xa ngậm ngùi căm phẫn.

Xin hãy đừng quên tại sao chúng ta phải bỏ nước ra đi lưu vong, sống đời tha hương nơi xứ lạ quê người. Xin hãy còn một chút tự trọng để đừng xử sự như những kẻ vô tâm hoặc tệ hơn nữa như những kẻ bất cố liêm sỉ, mang tiếng là nạn nhân của cộng sản, là nhà văn, nhà giáo, nhà văn hóa mà mau quên đi nỗi nhục nước thù nhà, chỉ biết chạy theo đồng tiền, danh vọng, đàn hát vui chơi vào chính những ngày tưởng niệm đại tang chung của cả dân tộc. Những kẻ đó xét ra phẩm cách còn thua cả những ca viên trong câu thơ xưa: “Thương nữ bất tri vong quốc hận. Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa”.

Quốc hận 4/2012
Quang Dương


Bài giảng của Đức cha Vincent Nguyễn Văn Long trong lễ cầu nguyện cho quê hương


VRNs (29.04.2012) - Melbourne, Australia – Lúc 17:00, hôm nay – 29.04.2012 – tại nhà thờ giáo xứ St Margaret Mary, số 51 Mitchell Street, Đức cha Vincent Nguyễn Văn Long, giám mục phụ tá Melbourne, sẽ chủ tế thánh lễ cầu nguyện cho quê hương đất nước, nhân dịp 30.04.

Trong bài giảng soạn trước, do chính Đức cha gởi đến VRNs và cho phép VRNs tuỳ nghi sử dụng, ở đoạn kết, ngài đã viết:

“Ngày 30 tháng 4 không chỉ là một ngày quốc hận hay quốc nạn. Nó là ngày mà chúng ta, nhất là những thế hệ trẻ phải “ôn cố tri tân”. Nó là ngày chúng ta cùng động viên tranh đấu cho một tương lai Việt Nam tươi sáng hơn. Trong tinh thần Phục Sinh, người tín hữu chúng ta nhìn vào biến cố lịch sử đó như là đoạn đường chúng ta phải đi để tiến vào tương lai vinh thắng. Chúng ta phải can trường bước theo con đường mà các anh hùng hào kiệt đã đi trước chúng ta, vững tin vào sự viên mãn của công lý và sự thật trong Chúa Giêsu Kitô, viên đá tảng của niềm tin và niềm hy vọng chúng ta”.

VRNs xin giới thiệu toàn văn bài giảng chiều nay của Đức cha Vincent để quý anh chị em người Việt khắp nơi có cơ hội hiệp thông, và cũng là lời mời gởi đến quý anh chị em ở gần có thể đến tham dự thánh lễ chiều nay.

________

Kính thưa toàn thể quý ông bà anh chị em,

Một lần nữa, ngày 30 tháng 4, ngày ghi sâu trong ký ức của toàn dân Việt Nam như một ngày Quốc Nạn lại trở về với chúng ta, nhất là những người Việt tỵ nạn cộng sản ở khắp nơi trên thế giới. Có nhiều người nói rằng chúng ta không nên nhìn về quá khứ nữa, chúng ta không nên tưởng niệm ngày quốc nạn hay quốc hận nữa mà hãy hướng về tương lai. Có không ít người còn nói rằng: “Việt Nam bây giờ đã đổi mới, chính thể Cộng Sản đã thay đổi với thời đại, đâu còn gì để chúng ta phải ôn lại dĩ vãng xa xưa, hãy bắt tay vào việc xây dựng tương lại của đất nước trong tinh thần hòa hợp hòa giải dân tộc”.

Nhưng làm sao chúng ta có thể tiến về tương lai nếu chúng ta không biết nhận ra những bài học của lịch sử? Có “ôn cố mới biết tri tân”. Tôi thiển nghĩ rằng, không ai thiết tha với vận mệnh của dân tộc Việt Nam có thể làm ngơ trước những bài học của lịch sử. Nếu lịch sử là một dòng sông thì những bế tắc trong chiều dài của nó phải được đả thông cặn kẽ. Lúc đó dòng sông mới được chảy đều và làm tươi mát phì nhiêu cho đất Việt thân yêu; lúc đó chúng ta mới mong có tương lai tươi sáng.

Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 đánh dấu một khúc ngoặc quan trọng trong lịch sử Việt Nam cận đại. Nó cũng đánh dấu một bế tắc dẫn đến một sự băng hoại toàn bộ cho cả đất nước và dân tộc Việt Nam. Khi bao nhiêu bom đạn của cuộc chiến ý thức hệ đã gây chết chóc thương tích và tàn phá trên những người dân vô tội; khi bao nhiêu những chiến sĩ bỏ mình nơi chiến trận, phơi thây không một nấm mồ hay chết dần mòn tức tưởi trong các trại cải tạo; khi những phương phế binh bị ruồng bỏ trong một xã hội vô nhân bản; khi cả triệu người phải bỏ nước ra đi, làm nạn nhân trên biển cả trong bao tủi nhục đắng cay; khi cả khối dân Việt tại quốc nội phải sống trong một xã hội hoàn toàn băng hoại, bị cai trị bởi một chính thể đã bị đào thải trong thế giới tiến bộ; khi những người dân lưu vong tại hải ngoại chưa có cơ hội đóng góp vào tiến trình canh tân đất nước. Đây chẳng phải là những mệnh đề của người nhìn dưới lăng kính của kẻ chiến bại hay một nhóm người còn mang đầu óc hận thù chia rẽ. Nhưng đây là những bế tắc của lịch sử mà chỉ khi được khai thông mới mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc.

Kính thưa toàn thể quý vị và nhất là các bạn trẻ,

Hôm nay chúng ta cùng “ôn cố tri tân” trong niềm tin vào tiến trình tất yếu của lịch sử. Lịch sử sẽ đào thải những gì không còn thích hợp. Dù có ngoan cố cưỡng lại, không ai có thể ngăn cản thế lực của lịch sử, cũng như không chính thể nào có thể làm ngược lòng dân mà tồn tại. Hôm nay chúng ta tưởng nhớ đến những nạn nhân trước và sau 30 tháng 4 năm 1975. Chúng ta cùng ôn lại những bài học của lịch sử. Nhưng trên hết, chúng ta hãy góp một bàn tay khai thông những bế tắc hầu cùng với toàn thể dân tộc mở ra một kỷ nguyên mới cho quê hương Việt Nam.

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta sự an ủi và niềm tin vào một tương lai tươi sáng, một bình minh mà bóng tối của tà thần sẽ không chế ngự được. Thánh Phêrô đã dùng lời Thánh Vịnh để nói với dân chúng về Đức Kitô rằng “Phiến đá mà người thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường”. “Người thợ xây” trong bối cảnh này chính là những con người tượng trưng cho thế lực của bóng tối và tội lỗi. “Người thợ xây” đây là Giuda, là quân dữ, là những kỳ mục, là Philatô, là Cêsarê và đồng thời là tất cả những ai đứng về phía của sự dữ. Họ đã loại bỏ Đức Kitô, tức là loại bỏ ánh sáng và sự sống, công lý và sự thật cùng tất cả những giá trị nhân bản và siêu nhiên. Nhưng Đức Kitô là phiến đá bị họ loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường. Ngài đã chiến thắng trên tà thần và tội lỗi. Chiến thắng của Ngài vượt không gian và thời gian, để rồi những ai đứng về phía công lý và sự thật đều được thông phần vào chiến thắng của Ngài. Quả thế, dù cho thế lực của sự dữ lấn án sự lành, dù cho những kẻ cường bạo giết hại những bậc chí nhân, nhưng chúng ta có thể tin chắc vào sự viên mãn của công lý và sự thật trong Chúa Giêsu Kitô, viên đá tảng của niềm tin và niềm hy vọng chúng ta.

Trong bối cảnh của đất nước chúng ta hôm nay, “người thợ xây” là ai nếu không phải là chế độ phi nhân vong bản; “người thợ xây” là ai nếu không phải là những công cụ đàn áp cưỡng chiếm đất đai của người dân vô tội như công an, cảnh sát cơ động và côn đồ. Và “phiến đá bị họ loại bỏ” là ai nếu không phải là những người đấu tranh cho công lý và sự thật, là người giáo dân Thái Hà với lá cây vạn tuế, là Đồng Chiêm với một cây thánh giá, là Cồn Dầu với một nghĩa trang thiêng liêng, là anh Việt Khang với một bài ca ái quốc,hay là dân oan với chỉ những tiếng kêu than vô vọng. Như Thiên Chúa đã thực hiện qua sự khổ nhục, sự chết và sự sống lại của Đức Kitô, Ngài cũng sẽ thực hiện nơi những ai đứng về phía của công lý và sự thật. Chúng ta hãy vững tin và liên đới với nhau trong cùng một lý tưởng, một giấc mơ, một mục đích là ngày khải hoàn của chân thiện mỹ trên quê hương mến yêu.

“Ta là mục tử nhân lành. Ta hiến mạng sống vì chiên ta”. Lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay nói lên một chân lý bất hủ là chỉ có tình yêu hiến thân cho người khác mới là lẽ sống của người tín hữu. Sứ mạng của Đức Kitô cũng chính là hiến thân để sự sống viên mãn được thể hiện nơi con người. Hôm nay, một cách đặc biệt, chúng ta tưởng nhớ đến những người con của tổ quốc đã vì nước vong thân. Họ đã chẳng màng danh vọng, vinh quang, phú qúy hay trường thọ. Họ hy sinh chính mạng sống ngay trong tuổi thanh xuân để quê hương có ngày tươi sáng. Chúng ta nghiêng mình kính cẩn trước những gương anh linh của tổ quốc. Chúng ta hãy cùng nhau hướng về mục đích mà chính họ đã làm những viên gạch lót đường: đó là sự sống viên mãn cho tha nhân, sự phục hưng cho dân tộc và sự trường tồn của cơ đồ tổ quốc.

Kính thưa qúy ông bà anh chị em,

Ngày 30 tháng 4 không chỉ là một ngày quốc hận hay quốc nạn. Nó là ngày mà chúng ta, nhất là những thế hệ trẻ phải “ôn cố tri tân”. Nó là ngày chúng ta cùng động viên tranh đấu cho một tương lai Việt Nam tươi sáng hơn. Trong tinh thần Phục Sinh, người tín hữu chúng ta nhìn vào biến cố lịch sử đó như là đoạn đường chúng ta phải đi để tiến vào tương lai vinh thắng. Chúng ta phải can trường bước theo con đường mà các anh hùng hào kiệt đã đi trước chúng ta, vững tin vào sự viên mãn của công lý và sự thật trong Chúa Giêsu Kitô, viên đá tảng của niềm tin và niềm hy vọng chúng ta. Hãy liên kết thành sức mạnh để phá tan xiềng xích của sự bạo tàn, dối trá và gian ác là chế độ cộng sản. Hãy cùng nhau khai thông dòng sông lịch sử để nó được chảy và làm tươi mát phì nhiêu cho đất Việt thân yêu. Xin Thiên Chúa chúc lành và kiện toàn cho mọi hy sinh và nỗ lực của chúng ta, người con dân của tổ quốc trong và ngoài nước đang khát khao và tranh đấu cho công lý. Hãy vững tin tiến về bình minh mới, ngày mùa gặt mới của quê hương, vì “người đi gieo trong đau thương sẽ về giữa vui cười”.

Gm. Vincent Nguyễn Văn Long

Sunday, April 29, 2012

Lịch sử và bằng chứng bán nước cho giặc Tàu của CSVN

Bài phát biểu của ông Nguyễn Thế Phong, Chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do liên bang - Úc Châu, trong ngày biểu tình 30 tháng Tư tại Canberra - 28.04.2012


Muôn đời Trung Hoa dù ở chế độ nào, phong kiến, quân chủ, dân quốc hay cộng sản.. thì lập trường trước sau cũng vẫn theo đuổi hai chiến lược cố hữu, dành cho sự ổn định và an ninh lảnh thổ của đất nước mình: Canh chừng bọn Man Di (Mãn, Mông, Hồi, Tạng, Cao Ly, Nga) ở phía Bắc và ra oai trừng phạt hay nuốt chửng các nước nhỏ ở nam phương (Ðại Việt, Lào, Chiêm Thành, Cao Mên, Thái Lan, Miến Ðiện) . Cuối năm 1949 Mao chiếm được Hoa lục, ngoài bộ mặt son phấn cách mạng vô sản đồng môn đồng chí hào nhoáng bên ngoài nhưng thực chất vẫn theo đuổi chính sách thực dân tự ngàn xưa, là phải tìm đủ mọi cách và cơ hội để Hán hóa và chiếm cho được VN, luôn được người Tàu bao đời coi như một đối thủ mạnh nhất trong vùng.

Ngược lại CSVN, ngay từ lúc còn trong trứng nước vào những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ XX cho đến nay, từ Hồ Chí Minh tới Nguyễn Tấn Dũng và hầu hết các chóp bu đảng, vẫn cứ đời đời biết ơn và luôn giữ sự thờ kính với Trung Cộng. Ðiều này cũng không có gì lạ vì hầu hết các cán bộ lớn nhỏ của cộng đảng VN trước khi sang Liên Xô học hỏi kỹ thuật bán nước giết dân tại Ðông Phương Bộ, đều đã trải qua thời gian huấn luyện quân sự và chính trị tại Hoa Lục. Nói cho tận cùng, Tàu đỏ đã nắm hết lý lịch của tập đoàn lảnh đạo CSVN từ HCM tới Nguyễn Tấn Dũng và lấy đó làm con bài lật ngửa trong canh bạc xì phé. Cho nên còn ai trong đảng CSVN dám chống lại chúng để thân bại danh liệt ?

Ngày 11-1-1973 Trung Cộng công khai tuyên bố chủ quyền trên toàn thể các đảo của VN trong biển Ðông. Ngày 26-12-1973 Bắc Kinh bắt đầu thương thuyết việc khai thác dầu-khí tại vịnh Bắc Việt với Ý Ðại Lợi. Tháng 1-1974 giặc Tàu xua hải lục không quân chiếm Hoàng Sa dựa trên công hàm bán nước do Phạm Văn Đồng ký vào ng ày 14-9-1958

Sự suy sụp của đế quốc Liên Xô vào năm 1986 cộng thêm cái chết của Lê Duẩn, đã đưa CSVN vào ngõ cụt về ý thực hệ, kinh tế gần như khánh tận, quân sự bị sa lầy tại Kampuchia.. Nên để cứu đảng, cứu thân, bọn chóp bu tại bắc bộ phủ mới được bầu trong đại hội đảng lần thứ VI (Linh, Hùng, Công, Mười, Kiệt..) qua cố vấn của Chinh, Ðồng, Thọ quyết tâm phấn đấu để sớm được trở lại làm đầy tớ cho Tàu. Trong lúc Trung Cộng vẫn công khai xua quân chiếm thêm nhiều đất đai của ta tại biên giới và các đảo thuộc quần đảo Trường Sa của VN vào ngày 16-3-1988 trước sự phản ứng lấy lệ gần như đầu hàng giặc của chóp bu CSVN.

Từ cuối năm 1989-1990, Ðông Ðức, Ðông Âu và đế quốc Sô Viết tan rã, khối XHCN chỉ còn lại Tàu đỏ, Việt Cộng, Bắc Hàn và Cu Ba. Trước nổi chết gần kề, ngày 10-4-1990 bộ chính trị cộng đảng VN họp khẩn để ‘ nhất trí ‘ quyết tâm bằng mọi giá (kể cả bán nước, bán dân) được theo Tàu để bảo vệ XHCH. Và từ đó tới ngày nay (2-2009), cái giá máu mà dân tộc VN phải đổ ra để CSVN trả nợ cho giặc Tàu là một phần lảnh thổ gồm đất đai, biển, đảo và sự Hán hóa dân tộc Việt của Trung Cộng.

Tháng 1-1285 trước sự xâm lăng lần thứ 2 của Mông Cổ, Ðại Ðế Trần Nhân Tôn đã mời các vị bô lảo khắp nước về hội tại điện Diên Hồng (Thăng Long) để hỏi ý kiến nên ‘hoà hay chiến‘ với giặc.
    - Trước nhục nước nên hoà hay nên chiến ?
    - Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh ?
Tất cả đều trả lời ‘quyết chiến cho dù phải hy sinh tài sản và tính mệnh‘ để bảo vệ non nước Việt. Sau đó người cả nước đều dùng mực thích vào cánh tay hai chữ ‘Sát Thát‘. Nhờ vậy mà nước ta vào thời Trần đã 3 lần chiến thắng giặc Mông Cổ khi chúng sang xâm lăng Ðại việt.

Ngược lại Việt Cộng ngày nay mọi hành động đều lén lút tự chuyện, độc tài quyết đoán. Trong khi đó, trước nhục nước chỉ biết hèn hạ quì lụy cắt đất dâng biên đảo cho Tàu, lập nghĩa trang, xưng tụng đời đời nhớ ơn giặc cướp giết hại đồng bào trong trận chiến biên giới Hoa Việt lần thứ I vào ngày 17-2-1979. Một chế độ bạo ngược tham tàn có một không hai trong dòng Việt sử, thì sớm muộn gì CSVN cũng bị toàn dân giựt xập và tiêu diệt.

Sau ngày 30-4-1975, hằng năm CSVN đều tổ chức ăn mừng ‘chiến thắng Tết Mậu Thân 1968‘ và ‘đại thắng mùa xuân 1975‘. Nhưng tuyệt đối không nhắc tới một chữ về những đau thương trầm thống mà giặc Tàu đã gây cho Nước Việt và Ðồng Bào Việt trong cuộc chiến biên giới Hoa-Việt khởi sự từ ngày 17-2-1979 và kéo dài tới đầu thập niên 1990 mới tạm dứt sau khi toàn bộ chóp bu VC đầu hàng Tàu đỏ. Ðã vậy VC còn công khai khinh thường và hạ nhục cả nước, khi đảng cùng với Trung Cộng rầm rộ tổ chức ăn mừng đã hoàn thành việc cắm mốc biên giói Việt-Trung tại Ải Nam Quan vào ngày 24-2-2009. Biên bản do Nguyễn tấn Dũng ký vào cuối năm 2008 nhưng đã tuyệt tích vì bị đảng ém nhẹm nên người dân không biết đâu mà mò.

Tháng 2-1999 với tư cách tổng bí thư, Lê Khả Phiêu sang chầu thiên triều, nối lại tình đồng chí giữa hai đảng càng thêm thắm thiết. Tiếp theo Phạm Thế Duyệt, Nguyễn tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Lê Minh Hương, Nguyễn Ðức Bình, Nông Ðức Mạnh, Phan Văn Khải ... cũng sang Tàu để nhận chỉ thị. Ðầu tháng 12-1999 thủ tướng TC Chu Dung Cơ sang kinh lý VN. Ngày 30-12-1999 thỏa hiệp đưòng ranh biên giới Việt-Hoa được ký kết bởi Nguyễn Mạnh Cầm (VC) và Ðường Gia truyền (TC). Nhờ hành động nhượng bộ bán nước trong vụ này (trên bộ lẫn dưới biển), mà Lê Khả Phiêu đã trở thành một trong những tỷ phú đỏ VN như báo chí mới phanh phui vào tháng 2-2009. Tóm lại suốt thời gian Phiêu làm tổng bí thư (1997-2001)CSVN đã cắt đất nhượng biển ký bán một phần lãnh thổ cho TC.

Cũng theo sự tiết lộ từ sau bức màn máu, thì trước khi bầu bán đại hội X, chính thủ tướng Tàu đỏ là Ôn Gia Bảo đã sang VN chỉ thị cho đảng phải cho Dũng làm thủ tướng. Vì vậy chẳng ai ngạc nhiên về sự Dũng ‘bán nước Việt‘ cho giặc Tàu để đền ơn đáp nghĩa chủ. Do đó ngày 15-11-2006 Dũng sang Bắc Kinh chầu để nhận lệnh mở cửa cho Tàu vào VN qua hai ngỏ ‘Côn Minh-Lào Kai-Hà Nội‘ và ‘Nam Ninh-Lạng Sơn-Hà Nội’ cùng toàn bộ bờ biển Bắc Việt. Cùng lúc Dũng gặp Ôn Gia Bảo, thì Nông Ðức Mạng cũng tới triều kiến hoàng đế Hồ Cẩm Ðào vào tháng 8-2006 để nâng quan hệ đồng chí giữa hai đảng thêm thắm nồng.

Tóm lại thành tích của Nguyễn Tấn Dũng qua thời gian làm thủ tướng VC từ 2006-2/2009 là phục vụ quyền lợi cho chủ là TC. Bằng chứng ‘bán nước‘ rõ ràng nhất của Dũng là ‘Ký hoàn tất việc cắm mốc biên giới Việt-Trung ‘vào ngày 31-12-2009, để nhượng bán cho giặc Tàu một phần lảnh thổ của đất nước, trong đó có nhiều vị trí chiến lược quan trọng cũng như các di tích ngàn đời của dân tộc như Ải Nam Quan, Núi Ðất, Thác Bản Giốc, Bãi Tục Lãm.... Ngoài ra còn có hải phận Vịnh Bắc Việt, các đảo lớn nhỏ trong hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Dũng và đồng bọn Mạnh, Triết, Trọng ... giống như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Ðồng ngày trước, bất chấp sự ta thán, oán hờn, căm thù và sôi sục máu, trước nổi lầm than của đồng bào, nhục hèn bán nước cho giặc.

Nhưng quan trọng nhất là sự kiện Dũng đã ký lệnh ‘cấm báo chí trong nước không được bàn ra tán vào vụ Trung Cộng tới Quảng Ðức, Lâm Ðồng, Phước Long để khai thác quặng Bau-Xít‘. Ngày 13-1-2009 Dũng đã ký thông báo số 17/TB-VPCP cho Tàu đỏ được thăm dò, khai thác bauxite dùng luyện alumin và nhôm. mặc cho dư luận cả trong và ngoài nước cực lực lên án phản đối với hai lý do ‘tổn hại môi trường, giết chết sông Ðồng Nai và trên hết rước giặc Tàu vào nội địa VN‘.

Kính thưa toàn thể đồng bào,

Hơn 4000 năm qua, Việt-Nam (VN) luôn luôn là cái gai trước mắt, là chướng ngại vật và là cửa ải duy nhất ngăn chặn Trung Quốc (TQ) thực hiện mộng bá chủ vùng Đông Nam Á. Suốt các triều đại trong lịch sử Việt chưa bao giờ chúng ta để mất một tấc đất nào cho TQ. Có chăng chỉ là trong những lúc ta thất thế khi hai nước giao tranh. Thế mà giờ đây, khi cộng đồng nhân loại đã văn minh hơn, khi mà tình giao hảo giữa VN và TQ được Cộng Sản Việt Nam (CSVN) đánh giá là "giao hảo hữu nghị tốt đẹp", thì CSVN lại cam tâm cúi đầu xin dâng phần lãnh thổ, lãnh hải cho TQ để cầu vinh, mong sự bảo trợ cho quyền lãnh đạo độc tôn của họ.

Tháng 12/1999 VN và TQ thông qua Hiệp Định Biên Giới Trên Bộ và Tháng 12/2000 thông qua hai hiệp ước nhượng đất và biển cho Trung Quốc, bạo quyền Hà Nội đã hiện nguyên hình là một bè lũ vô Tổ Quốc, tôn thờ chủ nghĩa ngoại lai và đặt quyền lợi Xã Hội Chủ Nghĩa lên trên cả quyền lợi của Tổ Quốc, Dân Tộc.

Việc bạo quyền CSVN dâng nạp lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam cho Cộng Sản Trung Quốc không chỉ đưa đến những hậu quả vô cùng tai hại và khôn lường cho dân tộc, đất nước VN mà còn cho toàn thể khu vực Đông Nam Á và thế giới tự do nói chung.

Gần đây nhất, hành động bắt bớ, bỏ tù, đàp áp một cách dã man và liên tục những cuộc biểu tình, lên tiếng và cã tác giả của những bài hát yêu nước kêu gọi mọi người đứng lên chống giặc Tàu xâm lược mà tiêu biểu nhất là ca sĩ Việt Khang và bà Bùi Thị Minh Hằng là một bằng chứng không chối cãi về hành vi và thái độ bán nước của CSVN. Một khi đã xem hành động bày tỏ lòng yêu nước của dân là một tội hình sự và coi những lời nhạc kêu gọi cứu quốc là phản động, chống chính quyền, đảng CSVN đã lộ nguyên hình là một bè lủ Thái thú của Tàu không hơn không kém.

Nhục nhã hơn nữa là việc đài truyền hình chính thức của CSVN, gần đây nhất, đã cho phát hình liên tục 2 lần lá cờ Trung Cộng với 6 ngôi sao và tà quyền CSVN bắt trẻ em VN mặc y phục Tàu và cầm cờ 6 sao để chào đón Quan Thầy TC sang viếng thăm VN. Chúng cũng công bố sẽ cho trẻ em tiểu học VN học tiếng Tàu và cho xuất bản những đạo luật của VN sang tiếng Tàu. Còn cần bằng chứng gì thêm nữa để xác quyết việc bán nước của đảng và nhà nước CSVN hôm nay.

Ta vẫn thường được ông bà tổ tiên nhắc nhở: "Không ai thương đất nước VN của chúng ta ngoại trừ chính chúng ta ra". Hơn 4000 năm qua, TQ đã thể hiện bản chất đế quốc và xâm lăng đối với VN. Chúng sẽ không từ bỏ một cơ hội nào để nuốt trọn và đồng hoá nước ta. Giang sơn, đất nước của tổ quốc VN chỉ quý với chúng ta, chứ đối với bọn giặc xâm lăng chỉ là nơi để mà khai thác, càn quét và phá hoại. Nhưng tất cả hiểm họa này đều có thể tránh được, như cha ông chúng ta đã làm trong suốt chiều dài lịch sử Dân Tộc, nếu VN được lãnh đạo bởi người VN yêu nước thật sự.

Than ôi, đất nước của Tổ Tông đang bị một bọn vô Tổ Quốc, vô Thần, vong thân và nô lệ của chủ nghĩa ngoại lai Mác Xít cai trị. Đối với chúng không có tổ quốc VN mà chỉ có Tổ Quốc XHCN nên chúng đã đem đất dâng cho Tàu Cộng. Tội ác này, trời không dung, đất không tha.
Mỗi người VN chúng ta, bao lâu còn hơi thở, bao lâu còn hậu duệ, phải quyết tâm giành lại cho bằng được đất Tổ đã mất dẫu có phải trả bằng xương máu của chính mình để không bị coi là bất Trí, Bất Trung và Bất Dũng với Đất Nước như trong câu nói sau đây của Hàn Phi Tử:
    Đất Nước mất mà không biết là Bất Trí
    Biết mà không làm gì cả là Bất Trung
    Làm mà không liều chết là Bất Dũng.
Do những điều kiện nghiệt ngã về địa dư và lịch sử, mà bao đời VN vẫn coi việc chống giặc Tàu như một thứ tôn giáo trong nhân sinh quan của người Việt. Có thể nói nước Việt tồn tại bao nhiêu năm cũng là bấy nhiêu năm đấu tranh máu lệ với giặc Tàu để giành giựt sự sinh tồn. Chiến tranh đối với dân tộc Việt là cuộc đổ máu vì lý tưởng và bổn phận. Chiến tranh là cơ hội để tồn vong trước sự xâm lược của ngoại bang. Nên đối với giặc Tàu chỉ có chiến tranh ‘ ăn miếng trả miếng ‘ mới làm chúng chùm bước xâm lược VN như lịch sử đã minh chứng. Thế nhưng lẽ phải và quyền lực ở trên đầu súng. Nên chỉ khi nào đảng CSVN bị tiêu diệt, chừng đó đất nước mới có hy vọng đứng dậy chống Tàu để sống còn -/-