Tuesday, March 27, 2012

Con Cá Sấu Khóc trên Nhát Kiếm Chém Gió - Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Về khoa học kỹ thuật thì chưa dám nói, nhưng về văn chương phú lục thì phải thừa nhận rằng, tiếng Việt của chúng ta xúc tích và sâu sắc tuyệt vời. Để nói về cái thói đời giả nhân giả nghĩa thôi cũng đã có hàng lô thành ngữ nghe thú vị hết sẩy như là: nước mắt cá sấu, mèo khóc chuột, nhân nghĩa bà Tú Đễ v.v. Những câu này hàm ý mỉa mai cử chỉ hay hành động của những kẻ trong lòng ác độc, nhưng bề ngoài lại tỏ ra ta đây nhân nghĩa, đạo đức. Người với người khéo dư nước mắt vờ vịt thương khóc nhau khi người nọ thấy người kia gặp bất hạnh là chuyện nhỏ. Việc chính quyền nước này chạnh mối từ tâm lo chuyện mất nhân quyền cho một dân tộc khác mới là chuyện lớn. Chả nói ra thì quý bạn đọc cũng đã hiểu bần bút muốn nói gì và muốn nói về ai.

· Từ vấn đề bán vũ khí

Hiện nay đang có chuyện VGCS thương lượng mua vũ khí của Hoa Kỳ. Dĩ nhiên là loại vũ khí hiện đại có thể đương đầu với ngoại xâm (Trung cộng) chứ không phải là những thứ súng dỉ, máy bay tầu bò phế thải mà ông bạn Mỹ tốt bụng ngày xưa giúp cho QLVNCH để đánh VC. Thằng VGCS dám chơi thằng Trung cộng thì ông Mỹ khoái là cái chắc. Thằng khốn nạn bí lắm mới phải nhịn ăn nhịn mặc để mua sắm võ khí. Ông Mỹ đang lúc dân thiếu ăn hẳn cũng muốn bán để có tiền cứu đói, nhưng lại lồng vào việc mua bán này điều kiện là phải trả nhân quyền cho nhân dân VN trước cái đã rồi mới bán. Buôn bán người ta deal với nhau vấn đề giá cả, cò kè bớt một thêm hai, chứ có ai lại đem quyền lợi của người khác ra mà mặc cả? Chuyện lạ là chỗ đó. Về nhân quyền tại VN thì chẳng phải là ngày trước chính quyền Mỹ đã cố ý giao người dân miền Nam cho bọn VGCS để chúng tha hồ hành hạ và tước đoạt nhân quyền đó sao? Thế mà nay người Mỹ lại khi không đòi nhân quyền về cho người dân VN thì ai tin nổi? Có cái gì mờ ám trong đó không? Nước mắt khóc thương người dân VN của mấy ông chính khách Mỹ có gì khác nước mắt cá sấu?

Người Mỹ rao hàng với bọn VGCS đều là chính khách cỡ bự cả: ông Phụ tá Bộ Trưởng Ngoại Giao, Nghị sĩ John McCain, Joe Lieberman. McCain ngày xưa được bọn cai tù VC cho ăn cháo lú hơi nhiều nên ông là người đầu tiên kêu gọi Mỹ bãi bỏ cấm vận và thiết lập bang giao với VGCS, bây giờ đi lo chuyện nhân quyền! Còn ông Joe Lieberman đi VN phải chi rủ thêm Henry Kissinger cùng đi chung có phải vui vẻ cả làng không. Do Thái với nhau cả đấy mà. Ẩn ý của mấy ổng trong vấn đề bán buôn này là gì người ngoài chẳng ai biết, vì thế bần bút đành phải rờ mu rùa để bốc quẻ vậy.

Dân tỵ nạn mình là bầy chim phải ná nên thấy có người giương cung là sợ. Quốc gia sợ đã vậy, mà thằng VGCS cũng lạnh cẳng nữa. Khi ông Mỹ ra giá để bán võ khí là vấn đề nhân quyền thì nhất định thằng VGCS cũng thừa hiểu rằng, lòng từ tâm của mấy ông chính khứa Mỹ chẳng qua cũng là thứ nhân nghĩa bà Tú Đễ. Kẻ cướp bà già hiểu nhau quá mà. Thằng VGCS nghe ông Mỹ ra điều kiện sách nhất định sẽ tỉnh bơ trả lời: nguời VN chúng tôi vẫn có đầy đủ nhân quyền đấy chứ có ai lấy đi đâu mà mất. Dĩ nhiên mấy ông Mỹ vì muốn bán hàng nên quả quyết điều mình nói là thật, còn phải đưa ra bằng chứng nữa để chứng minh.

Có phải phong trào ký Petition ra đời trong cái bối cảnh như thế không? Nếu đúng thì bần bút sẽ lại rờ mu rùa tiếp.

· Đến hỏa mù điều kiện sách

Việc bán võ khí không biết đã đi đến đâu, nhưng phong trào ký Petition đã qua rồi. Diễn tiến của vấn đề đã được truyền thông phổ biến đầy đủ. Bần bút xin được miễn nhắc lại, chỉ xin nhấn mạnh đến hai điểm quan trọng trong nhiều sự việc đã xẩy ra. Thứ nhất là sự hứa hẹn TT Obama sẽ tiếp kiến phái đoàn trình Petition. Và thứ hai là cuộc tiếp kiến đáng lẽ để trình bầy về vấn đề nhân quyền tại VN, đã biến thành buổi thực tập cho sinh viên của chương trình Community Leadership của TS Nguyễn Đình Thắng.

1. Obama tiếp kiến - Trong cái chiêu mị dân của ông Obama “We the People”, người ta chỉ thấy nói, nếu có 25.000 chữ ký thì Petition sẽ được tòa Bạch Ốc cứu xét và trả lời. Thế nhưng trong cuộc cuộc vận động ký Petition, vấn đề đã biến dạng đi rất nhiều. Ngay từ khởi đầu, ông Nam Lộc (phát ngôn viên của ban vận động?) đã khoa trương thành TT Obama xin được gặp gỡ phái đoàn người Việt tỵ nạn, và còn muốn được nghe mấy bài hát NS Việt Khang đã sáng tác. Sự thể “được Tổng Thống tiếp kiến” đã làm nức lòng nhiều người trong cộng đồng tỵ nạn VN. Rất nhiều người háo hức mong có dịp vô tòa Bạch Ốc, gặp mặt, bắt tay, và nói chuyện với ông Tổng Thống vài ba câu. Có tấm hình chụp với ông Tổng Thống để khoe bà con là điều đáng hãnh diện lắm chứ. Nhất là (xin nhấn mạnh) khi được nghe mấy ông giáo sư, tiến sĩ, sĩ quan bự ca cải lương đề cao phong trào, họ tin tưởng mãnh liệt rằng thời cơ giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của bạo quyền VGCS, được Obama giúp đỡ, đã đến trong tầm tay. Sự mơ tưởng này đã trở thành động lực có sức quyến rũ mãnh liệt khiến phong trào ký Petition bùng lên cao và lan rất nhanh là vì vậy. Các chiến lược gia của tòa Bạch Ốc nhất định rất bằng lòng với kết quả này. Nếu đúng như bần bút đoán mò thì tòa Bạch Ốc đã dùng con số người ký Petition để chứng minh với bọn VGCS rằng quả thật vấn đề nhân quyền là vấn đề quan trọng lắm. Người dân Mỹ gốc Việt rất quan tâm về vấn đề này và họ đang quyết liệt đòi hỏi cho bằng được. Xem ra chính phủ Mỹ khó lòng mà thoái thác. Một mặt người Mỹ vẫn neo giá. Nhưng mặt khác họ lại trấn an VGCS rằng, tuy nhiên vấn đề này còn có thể giải quyết được. Mấy ông Mỹ biết đâu chẳng nói nhỏ vào tai bọn VGCS rằng thì là, các anh đừng có lo, chúng tôi sẽ có cách biến chuyện CÓ thành KHÔNG dễ dàng thôi, cứ yên chí đi. Vì thế người ta mới được thấy xẩy ra chuyện treo đầu dê (đòi nhân quyền) bán thịt chó (thực tập Leadership) ngày 5-3 vừa qua tại tòa Bạch Ốc.

2. Buổi thực tập chương trình Community Leadership - Hiện nay không còn vấn đề thuyền nhân nên dĩ nhiên không cần đến SOS làm gì. TS Nguyễn Đình Thắng xoay qua hoạt động lãnh vực đào tạo leaders tưong lai cho cộng đồng tỵ nạn VN. Người ta không biết có sự sắp đặt nào giữa TS Nguyễn Đình Thắng và tòa Bạch Ốc không, nhưng sự thể xẩy ra tại South Court Auditorium trong Eisenhower Executive Office Building trong tòa Bạch Ốc cho thấy, đây là buổi thực tập cho các học viên chương trình Community Leadership của TS Thắng hơn là cuộc gặp gỡ Tổng Thống của người VN tỵ nạn để đạo đạt nguyện vọng của mình. Chủ đích của buổi tiếp kiến là trình bầy với chính quyền Obama về vấn đề nhân quyền tại VN thì hầu như bị bỏ quên, có nhắc đến cũng chỉ là một chút mầu mè riêu cua làm mặt. Sự vắng mặt cố ý của kép chính (TT Obama) trong buổi tiếp kiến là để làm giảm tính cách quan trọng của vấn đề nhân quyền hầu chứng tỏ cho VGCS thấy cái tài đạo diễn của người Mỹ để chúng an tâm. Màn ảo thuật biến “CÓ thành KHÔNG” ngoạn mục này hẳn làm yên lòng bọn VGCS. Nhưng nhân vật chủ chốt trong chiến dịch Petition là ông Trúc ồ thì bất bình ra mặt. Ông Trúc Hồ bất bình vì cho rằng mình đã thất bại vì bị người nào đó đánh lừa. Công cuộc vận động để chính TT Obama can thiệp với ngụy quyền VGCS thả NS Việt Khang và các tù nhân chính trị khác Trúc Hồ coi như đã đi đoong?

· Điều kiện sách thực?

Vấn đề đặt ra ở đây là, nếu quả thật chính quyền Obama đã dàn dựng ra biến cố và lợi dụng phong trào ký Petition của cộng đồng tỵ nạn VN để deal với VGCS trong vấn đề mua bán vũ khí thì chuyện đó có tin được không, và nếu đáng tin thì điều kiện sách mà người Mỹ đòi hỏi thực sự là gì?

Vấn đề thứ nhất: có hay không có chuyện dàn dựng - Chuyện tin hay không tin là tùy nơi mỗi người, bần bút chỉ dựa trên kinh nghiệm về nước Mỹ để suy đoán. Dù sao cũng có một điều có thể tin được là, ở nước Mỹ này, nhà cầm quyền đôi khi bất chấp đạo lý và lương tâm để được những gì mà họ cần. Lấy vụ án OJ Simpson làm thí dụ. Vụ án OJ Simpson đã lôi cuốn được sự chú ý của cả thế giới chứ không phải riêng nước Mỹ. Đến nỗi có một lần TT Yeltsin gặp TT Clinton, vừa bước ra khỏi máy bay, câu đầu tiên ông Yeltsin hỏi Tổng Thống Mỹ là: Liệu ông có tin OJ Simpson hắn giết vợ thật không? Khi OJ Simpson bị cảnh sát rượt đuổi trên xa lộ hàng buổi trời thì người ta đã có lý do để nghĩ rằng anh ta giết vợ thật. Simpson bị bắt và bị đưa ra tòa thì dân da đen đe dọa nổi loạn. Lý do là vì Nicole vợ Simpson là da trắng, còn anh ta da đen. Nhìn vào thành phần xử án, người ta đã có thể suy đoán Simpson sẽ vô tội. 12 phụ thẩm chỉ có 2 ông nhưng tới 10 bà. Trong số 12 vị này thì 2 da trắng, 1 spanish, còn 9 là da đen. Chánh án Ito là một ông gốc Nhật bản. Đúng như là, OJ Simpson trắng án thật. Research của đài NBC cho thấy có tới 77% người được hỏi tin rằng Simpson đã giết vợ. 87% trong số 77% này da trắng, còn lại là da mầu. Vụ án OJ Simpson quan trọng tới độ mà TT Bill Clinton đã phải bỏ công việc để theo dõi phiên tòa trên màn hình. Cho tới khi Simpson được tuyên bố trắng án thì ông Clinton mới yên tâm thở phào nhẹ nhõm. Phiên tòa đã được sắp đặt đâu ra đấy từ chánh án đến phụ thẩm, biện lý cũng như luật sư hai bên. Mọi thủ tục, luận chứng và bằng chứng trước tòa ăn khớp nhau, không ai bắt bẻ gì được. Người đạo diễn tỏ ra thật tài tình. Trong trường hợp này, công lý phải nhường bước để đổi lấy trật tự và an toàn cho xã hội. Biến cố 30-4-1975 còn là một kinh nghiệm học hỏi nữa cho bất cứ người VN nào. Đau thương, tang tóc, uất hận, và bi đát vô cùng. Chúng ta mất hết chẳng còn gì để người Mỹ được cái mà họ muốn. Trước danh dự của một cường quốc số một trên thế giới, người Mỹ còn dám dàn dựng cả một cuộc thua trận để tháo chạy, bỏ lại đàng sau một dân tộc rơi vào cảnh đau thương, tủi nhục, bị tước đoạt quyền làm người thì còn có gì họ không dám làm! Nếu chiến dịch Petition là một trò hề dàn dựng thì màn kịch dàn dựng này còn quá nhân đạo.

Vấn đề thứ hai: điều kiện sách thực - Lợi ích của việc Mỹ bán vũ khí cho VGCS thì chỉ có chính quyền, những người ở cấp thượng tầng, mới biết. Người khác khó có ai biết được. Chúng ta cũng chỉ có thể suy đoán dựa trên kinh nghiệm lịch sử. Ở các nước khác thì bần bút không dám nói, nhưng kinh nghiệm cuộc chiến Quốc cộng vừa qua cho chúng ta một bài học. Trong cuộc chiến tranh này, chính quyền Mỹ cung cấp cho VNCH dưới hình thức viện trợ toàn khối quân trang, quân dụng để chiến đấu chống Việt gian miền Bắc xâm lược. Phải nói thiệt rằng vũ khí và khối quân dụng đó đều là thứ cũ kỹ và lỗi thời. Không có cái gì là hiện đại cả, tạm trừ ra duy nhất là những trái bom CBU. Bom CBU tại VN cho đến bây giờ vẫn còn là một huyền thoại. Nó là loại vũ khí hiện đại nhất đối với QLVNCH. Theo nhận định của vài người bạn của bần bút trong Không Quân, thì CBU có thể gọi là loại vũ khí quyết định chiến trường của QLVNCH, được Mỹ viện trợ nhưng không giao ngòi nổ. Ngòi nổ được cất giữ mãi ở bên đảo Guam hay Thái Lan gì đó. Có lẽ người Mỹ sợ QLVNCH táy máy chôm chĩa rồi làm hư bột hư đường của họ chăng? Vào giờ thứ 25 của cuộc chiến, người Mỹ mới để cho Không Quân VNCH thả hai trái bom này xuống chiến trường Xuân Lộc nhằm chặn đường tiến quân của bộ đội miền Bắc hầu có đủ thì giờ cho ông ĐS Martin và những người Mỹ cuối cùng kịp rút khỏi Saigon.

Cần phải thừa nhận VN là một mắt xích quan trọng và cần thiết trong sách lược chế ngự Trung cộng của Mỹ thì mới thấy rằng người Mỹ muốn dành quyền làm chủ các vũ khí có khả năng quyết định vấn đề thắng hay bại trong vùng biển Đông nếu chiến tranh xẩy ra. Trong cuộc chiến VN, Mỹ không chủ thắng nên họ viện trợ bom mà không viện trợ ngòi nổ cho VNCH. Tiền đề này dẫn đến kết luận là cho dù người Mỹ bán hay viện trợ các loại vũ khí chiến lược nào cho người VN, dù Quốc Gia hay CS thì họ cũng muốn dành quyền sử dụng vũ khí đó khi họ muốn. Xưa kia Mỹ giao bom mà không giao ngòi nổ cho VNCH. Bây giờ nếu bán vũ khí tối tân cho Hànội, VGCS cũng phải để cho Mỹ quyền điều khiển các vũ khí đó. Đây mới là điều kiện sách thực. Nhân quyền chỉ là cái mặt nạ của vấn đề. Yêu sách của người Mỹ có thể là họ đòi khi chuyển giao vũ khí phải có chuyên viên đi theo để bảo trì với hình thức cố vấn kỹ thuật. Vũ khí càng tối tân thì chuyên viên càng phải có trình độ. Phần chuyên môn này không phải ai làm cũng được và vơ ở đâu cũng có người. Thằng VGCS nghe thế có lẽ đành chịu thua, nhưng nó liên tưởng ngay đến con ngoáo ộp CIA và vô cùng sợ hãi. Do đó ông Mỹ lại phải một phen dùng phù phép để trị. Petition của Trúc Hồ mới là món ăn chơi. Có thể Dự Luật 1410 đang nằm ở Hạ Viện sẽ là món ăn thiệt. Đã có món khai vị (appetizer) rồi. Obama vừa mới ra lệnh cấm nhập từ VN vào Hoa Kỳ những túi nylon đựng đồ. Đến lúc cần cho thằng VGCS say xỉn, ông Mỹ chơi đòn cấm người dân tỵ nạn gởi tiền về hay một biện pháp nào khác hữu hiệu hơn xem nó có nằm đo ván để cho chó ăn chè không thì biết liền.

Trong bài viết trước đây “Thả con cá bắt con tép” bần bút cho rằng chiến dịch Petition có thể nằm trong kế hoạch vận động tái tranh cử của Obama. Tuy nhiên sau những chuyện xẩy ra tại tòa Bạch Ốc ngày 5-3 vừa qua, bần bút nhận thấy dự đoán đó khó thuyết phục. Cần phải tìm một lối giải thích khác. Thiếu thuyết phục bởi vì một cuộc vận động kiếm phiếu không thể nào luộm thuộm đến độ làm mất lòng cử tri được. Thế nhưng điều đó đã xẩy ra. Vả lại, nhìn vào cuộc tranh cử hiện nay thì thấy ông Obama không cần đến số phiếu của cộng đồng tỵ nạn VN. Có thể ông đã có đủ lý do để tin mình sẽ thắng cử. Không phải nhiều cơ quan truyền thông lề phải (Main Stream Media) đã đưa ra kết quả poll đó sao: Obama leads all GOP candidates (Obama dẫn trước tất cả mọi ứng cử viên Cộng Hòa.) Nếu không là kiếm phiếu hoặc một chủ đích quan trọng nào khác thì Bạch Ốc chẳng làm ồn ào kiểu đó. Cứ suy nghĩ xem, nhà cầm quyền thành phố Los Angeles đã dám “trick” cả nước Mỹ để tránh được một cuộc bạo loạn, thì chính quyền Obama chơi trick cộng đồng tỵ nạn VN một coup để nắm cái thế chiến lược tại Biển Đông theo tính toán của Bạch Ốc thì tại sao không làm?

· Cuộc chống cộng không người lái và hệ quả của nó

Tòa Bạch Ốc, và có lẽ cả ông Obama nữa, chắc hẳn phải sửng sốt trước sự thành công tuyệt vời của chiến dịch Petition của cộng đồng người VN tỵ nạn. Không phải khoe khoang, nhưng thử hỏi có mấy sắc dân làm được như thế. Sự việc nói lên hai đặc điểm của người tỵ nạn: lòng ái quốc rất cao và tinh thần chống cộng rất quyết liệt. Chỉ tiếc rằng người Việt chúng ta thiếu lãnh đạo. Việc lớn không có người lèo lái. Với tinh thần và quyết tâm đó mà kết quả của công cuộc chống cộng từ bao năm qua vẫn cứ xa tít mù khơi là vì vậy! Nhìn vào chiến dịch ký Petition này thôi (chưa nói đến trong nước), chúng ta cũng thấy được những hệ quả của việc thiếu lãnh đạo. Ít nữa có ba biểu hiện chính sau đây.

1. Phi lập trường và mâu thuẫn - Khỏi cần biện luận, chỉ xin nêu dăm ba thí dụ cụ thể. Ký Petition thì ký, nhưng nhịn về VN, đem tiền về vỗ béo CS thì không được, phải về. Chống giao lưu văn hóa nhưng không đưa vợ con đi nghe Đàm Vĩnh Hưng hát không chịu được, phải đi. Tố Thúy Nga thân cộng nhưng trong nhà không thiếu cuốn Paris by Night nào, phải có. Bà Nancy Bùi ký và hội luận hô hào mọi người ký Petition nhưng không tài nào bỏ được công việc làm ăn giao dịch với VGCS. SBTN chống cộng nhưng Trúc Hồ vẫn gởi phóng viên về nước lấy tin và làm phóng sự. Không nhiều thì ít cũng có công tuyên truyền quảng bá dùm cho VGCS, chứ không sao? Có cái gì khác với Nguyễn Phương Hùng? TS Nguyễn Đình Thắng vận động nhân quyền cho VN nhưng lập ra tổ chức bảo lãnh và giúp đỡ con cháu của những đứa đang tước đoạt nhân quyền của người dân trong nước… Những mâu thuẫn này xuất phát từ tinh thần phi lập trường trong cuộc sống tỵ nạn hiện nay. Chữ “Phi” ở đây hàm ý là không cần, không xác định dứt khoát. Ngoài lập trường nhổ cỏ và nhổ tận gốc đảng và chế độ VGCS ra, những thứ khác đều là lập trường phi lập trường cả. Việt Tân rêu rao chống cộng, nhưng coi đảng VGCS có công với đất nuớc và chủ trương đối lập với đảng CS để xây dựng đất nước là phi lập trường. Tâng bốc Bùi Tín và Cù Huy Hà Vũ là phi lập trường, bởi vì bọn này chỉ chống bọn nắm quyền trong Bộ Chính Trị hiện thời mà không chống đảng VGCS. Trúc Hồ không chủ trương lật đổ phỉ quyền CS là phi lập trường. Vân vân và vân vân.

2. Niềm tin mù quáng: tin bạn mất vợ, tin đồng minh mất nước - Trong bài diễn văn nhậm chức nhiệm kỳ 2, Tổng Thống Bush con tuyên bố đanh thép: “Today, America speaks anew to the peoples of the world: All who live in tyranny and hopelessness can know: the United States will not ignore your oppression, or excuse your oppressors. When you stand for your liberty, we will stand with you.“ (Tạm dịch: Hôm nay, một lần nữa nước Mỹ nói với các dân tộc trên thế giới rằng, tất cả những ai đang sống trong chuyên chế và vô vọng đều nên biết Hoa Kỳ sẽ không làm ngơ trước việc họ bị áp bức, và tha thứ cho những kẻ đàn áp họ. Một khi các bạn đứng lên vì tự do, chúng tôi sẽ cùng đứng chung với các bạn.) Ông Bush nói ngon vậy đó và còn gọi Đỗ Hoàng Điềm vào Bạch Cung để tham vấn, nhưng toàn đưa ra những chính sách làm khổ dân VN thêm. Obama cũng thế thôi, vì ông ta cũng là Tổng Thống Mỹ. Đường lối của nước Mỹ có thay đổi ít nhiều tùy tình hình cụ thể, nhưng chính sách của nước Mỹ thì liên tục, không thay đổi dù Cộng Hòa hay Dân Chủ. Đừng quên rằng chính quyền Mỹ đã trao người dân VN cho VGCS hành hạ và tước đoạt quyền làm người thì không có lý do gì đang trong lúc mặn nồng với VGCS, họ lại tốt bụng đến nỗi bắt thằng này phải trả lại nhân quyền cho nhân dân VN. Trên đời có lắm anh đàn ông tin bạn mà mất vợ. Lãnh đạo miền Nam tin Mỹ quá mất nước không hay. Vậy tại sao cái gì cũng phải méc bu với những kẻ đã quay mặt với mình và còn lậy lục xin xỏ nữa? Người dân Việt tỵ nạn chưa học được bài học cay đắng đó.

3. Giao trứng cho ác - 150.000 chữ ký là 150.000 tấm lòng yêu nước sắt son (dĩ nhiên trừ ra những kẻ phi lập trường), trao vào tay những người chưa rành về đấu tranh, phi lập trường mà không trất uốc mới là chuyện lạ. Sau này khi mọi chuyện đã vỡ lở, qua những lời tuyên bố từ chính cửa miệng Trúc Hồ nói ra, nguời ta mới biết ông là một nhà làm truyền thong phi lập trường: ông không chủ trương lật đổ phỉ quyền VGCS mà còn kêu gọi Mỹ giúp nó. Mục tiêu tranh đấu ban đầu của ông là đòi phóng thích NS Việt Khang ra khỏi tù. Về sau thêm mắm thêm muối vào, mục tiêu của Petition mới thành ra là đấu tranh cho nhân quyền tại VN. Tại sao lại Việt Khang mà không phải là một ai khác. Thiếu gì người ở tù không tội tại VN? Thì ra chỉ vì Việt Khang cũng là nhạc sĩ như Trúc Hồ. Chuyện đồng thanh, đồng khí như thế là đáng khen, nhưng nặng tinh thần cục bộ và tùy hứng. Nhờ có “nguyễn trãi” Nam Lộc hiến kế “Obama tiếp kiến và muốn nghe nhạc Việt Khang” mà sáng kiến Petition của “lê lợi” Trúc Hồ bay bổng lên trời cao và nở hoa trên bầu trời tỵ nạn. Tuy nhiên, Trúc Hồ vẫn chưa tìm ra con đường để tìm vào Bạch Ốc và tòa nhà Quốc Hội nên mới phải cầu cạnh TS Nguyễn Đình Thắng. Đây là đầu mối của chuyện bể bạc Petition của Trúc Hồ. Đàng sau vấn đề này người ta thấy lấp ló bóng dáng của những tên Việt Tân. Không biết TS Nguyễn Đình Thắng có liên hệ gì với Việt Tân không, nhưng cái âm mưu lợi dụng lòng yêu nước của đồng bào khởi đi từ chương trình Community Leadership của ông.

Vấn đề đào tạo Leader của TS Nguyễn Đình Thắng cho cộng đồng là một việc nên làm và nên khuyến khích làm. Tuy nhiên trong vấn đề này có hai nghi ngại lớn cần phải đặt ra. Thứ nhất là cơ quan BPSOS của TS Thắng hiện nay đã biến thành một cơ quan bảo trợ cho các du học sinh từ trong nước. Như vậy thì liệu TS Thắng có nghĩ tới việc VGCS cấy người của chúng vào để sau này lãnh đạo cộng đồng tỵ nạn mà ngăn chặn không? Thứ hai, không biết TS Thắng và đám đệ tử của ông có thể lead cái gì cho cộng đồng nếu không phân biệt được mục tiêu tranh đấu như hiện nay. Có hai loại mục tiêu đấu tranh là DIỆT và ĐÒI. Loại đấu tranh để DIỆT bần bút không bàn đến ở đây. Còn với mục tiêu đấu tranh đòi quyền lợi, cũng cần biết quyền lợi tranh đấu là thứ quyền lợi gì. Có cái hợp lý, tranh đấu có thể đòi được. Nhưng cũng có cái bất hợp lý, tranh đấu chỉ uổng công vô ích. Loại thứ nhất là quyền lợi công dân mà Hiến Pháp và luật pháp Hoa Kỳ bảo đảm. Để tranh đấu cho những quyền lợi công dân, TS Nguyễn Đình Thắng và các đệ tử của ông có thể học hỏi nơi các leader người da đen như Martin Luther King Jr. hay Louis Farrakhan. Họ kéo cộng đồng của họ xuống đường để nói to lên nguyện vọng là đủ rồi, chả cần phải xin xỏ lậy lục ai. Loại thứ hai là quyền lợi công dân của nước ngoài, nằm trong tay của chính quyền sở tại, cụ thể ở đây là VGCS, luật pháp Hoa Kỳ không bảo đảm được. Quyền lợi Petition đòi hỏi thuộc loại này và phải biết nó nằm trong khuôn khổ bang giao quốc tế. Bang giao quốc tế được hiểu là việc trao đổi quyền lợi giữa các nước. Chuyện đấu tranh đời quyền lợi từ trong tay phỉ quyền Hànội, TS Nguyễn Đình Thắng không thể đem bầu nhiệt huyết, tinh thần yêu nước của cộng đồng cùng với hai bàn tay trắng ra mà đòi được. TT Obama có muốn cho cũng không có mà cho, muốn giúp cũng phải đổi chác với Hànội bằng một cái giá nào đó. Nếu cái giá đó đi ngược lại với đường lối chính sách của chính phủ Hoa Kỳ thì ai buộc được ông Obama phải chiều lòng cộng đồng chúng ta? Ai cũng biết, đường lối và chính sách của các chính quyền Mỹ từ sau chiến tranh VN là thân thiện với bọn VGCS. Sự thể này không còn nghi ngờ gì nữa. Nên nhớ lại đi, trước đây có lần khi ngoại trưởng Mỹ sang thăm Miến Điện, trước một tập hợp đông đảo dân chúng Miến, bà Hillary Clinton sánh vai bà Aung San Suu Kyi tuyên bố khuyên các nhà lãnh đạo Miến Điện và Bắc Hàn nên theo gương và bắt chước CSVN trên các vấn đề cải cách và phát triển. Khi bà Ngoại Trưởng Mỹ đã lấy CSVN làm mô hình phát triển dân chủ và kinh tế cho nước khác thì xin hỏi, đối với chính quyền Mỹ, vấn đề nhân quyền tại VN có còn được họ quan tâm và cần thiết phải đặt ra nữa hay không? Trao phó tinh thần yêu nước của cộng đồng vào tai những kẻ đang ôm ấp kẻ thù của cộng đồng nên gọi là cái gì, có phải là giao trứng cho ác không?

· Tại cái GPS

Lái xe không rành đường ở nước Mỹ, người ta phải nhờ đến cái máy chỉ đường gọi là GPS (global positioning system.) Để kết thúc bài viết, bần bút xin mạn phép nói rông rài một chút về chuyện cái GPS. Mới hồi đầu tháng, có 3 sinh viên nhật đi du lịch sang Úc. Vì không biết đường nên họ mướn xe có máy chỉ đường GPS. Không biết cái máy quên đường hay trục trặc gì đó, thay vì dẫn 3 người bạn trẻ đến nơi họ muốn tới thì lại đưa họ xuống một bãi biển sình lầy. Chiếc xe ngập hết bánh dưới nước biển và không chạy được nữa. Tội ngiệp mấy người bạn trẻ phải chui ra khỏi xa và lội vô bờ để về khách sạn. Tin rằng lái xe đi đường có GPS là chắc ăn thì lầm to. Bần bút sợ rằng, những quí vị đi trình Petition, có thể vì gặp phải cái GPS có “sự cố” (lại tiếng VC) chăng nên đã đi lộn đường, tới lộn chỗ, gõ lộn cửa, và gặp lộn người chăng. Không phải cái GPS nào cũng giống nhau cả đâu. Sợ là uổng công cho quí vị mất thôi. Hơn một trăm ngàn Petition có giá trị chính trị và tâm lý rất cao. Nó ví như một thanh kiếm báu, chém đá như chém bùn, có thể giáng xuống chưởng lực ngàn cân trên đầu bọn VGCS. Nhưng báu kiến trao vào tay một kiếm khách tồi, chưởng lực tung ta chỉ là nhát kiếm chém gió. Quí vị có đi lạc chỗ cũng xin đừng buồn. Tin rằng thế nào rồi Bạch Ốc cũng sẽ gởi cho quí vị một lá thư cám ơn với một vài câu hứa hẹn vu vơ. Đó là phép xã giao bắt buộc nơi cung đình của các bậc vương tôn công tử trên thế gian này. Trừ ra bọn đầu gấu tại Ba Đình là không có cái lễ nghi vương giả đó mà thôi.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Monday, March 19, 2012

Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa Được Giải Ngũ Chưa? - Nguyễn Bách Việt



Nguyễn Bách Việt

Thêm một ngày 30 tháng 4 đang tới. Ba mươi hai ngày 30 tháng 4 đang qua. Thời gian có thể làm nguôi ngoai nhiều chuyện. Nhưng nỗi đau khi nhìn quê hương VN thân yêu đang tiếp tục chịu cảnh điêu linh, tan nát, nhìn dân tộc VN đang bị đoạ đầy, đau khổ, sẽ không bao giờ nguôi trong lòng chúng ta cho tới khi quê hương VN thật sự có tự do, độc lập, hạnh phúc, phú cường. Ngày 30 tháng 4, 1975 luôn luôn tạo ra biết bao ngậm ngùi, cay đắng, uất nghẹn trong lòng mọi người chúng ta, nhất là trong tâm trí người lính VNCH vì chính trong ngày này, một quân đội tinh nhuệ, thiện chiến trên thế giới đã bị bán đứng do các mưu toan chính trị quốc tế “ngắn hạn” sắp xếp. Từ việc quân lực VNCH bị buộc buông súng, ngưng chiến đấu theo lệnh ông Dương Văn Minh, đại nạn của dân tộc qua biến cố đau thương 30/4, 75 bắt đầu khởi sự và kéo dài cho tới ngày nay trên quê hương VN khốn khổ. Trong tâm tình ngày 30 tháng 4 năm nay, chúng ta hãy đặt câu hỏi:

Binh sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã được giải ngũ chưa?
Về mặt lý và tình, binh lính quân lực VNCH chưa hoàn toàn được giải ngũ.

Lý:

1. Xét theo mặt hiến pháp VNCH trước 1975, mọi người lính trong quân lực VNCH cho dù hiện nay trong độ tuổi 80, 70, 60, 50 nhưng tất cả chưa thực sự được giải ngũ. Vì trong ngày 30 tháng 4 đau thương năm 1975, khi ra lệnh cho tất cả binh lính VNCH buông súng quy hàng, ông Dương Văn Minh đã không đứng trên cương vị chính danh của vị tổng thống kiêm tổng tư lệnh quân đội. Theo Hiến Pháp VNCH, việc Tổng Thống Trần Văn Hương trao lại quyền tổng thống cho ông Dương Văn Minh là vi hiến. Từ lập luận này chúng ta có thể khẳng định chắc chắn, quân lực VNCH vẫn chưa hề được giải ngũ. Cũng dựa trên căn bản pháp lý này, cách đây 12 năm, thượng nghị sĩ Phạm Nam Sách, người dành cả cuộc đời tranh đấu cho hạnh phúc của dân tộc, một nhà hoạt động có uy tín trong cộng đồng VN hải ngoại, khi còn sống, đã phát động phong trào Tái Dựng Nền Cộng Hòa để từ đó, có cơ sở giải thể chế độ VC đang thống trị trên hai miền Nam - Bắc VN rồi đi tới thống nhất đất nước trong hòa bình thực sự.

2. Thêm nữa, khi một người chiến binh bị địch bắt buông súng quy hàng, không có nghĩa là người lính ấy đã được giải ngũ. Người ấy không phải là Cựu Quân Nhân.

Tình:

1. Theo truyền thống, quân đội là lực lượng bảo vệ đất nước, lãnh thổ, dân tộc. Ngày nay, nhóm VC lãnh đạo VN đang bán dân, bán nước, bán biển cho quan thầy Tàu cộng. Vậy những chiến sĩ VNCH không thể khoanh tay ngồi nhìn thảm họa đang tiếp tục đổ chụp xuống đầu dân tộc và tổ quốc. Chúng ta không thể ngồi yên để nhìn dân tộc từ từ bị diệt vong dưới bàn tay những người CSVN phi dân tộc. Chúng ta không thể nhìn đất, biển tiếp tục rơi vào tay Tàu cộng, ngư dân VN vô tội tiếp tục bị Tàu cộng bắn giết.

2. Khi gia nhập quân đội, mỗi chiến sĩ VNCH luôn khắc sâu một lời thề:
    Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm
Lời thề này được ghi khắc trong tim nên luôn ở trong lòng mỗi người quân nhân VNCH trên mọi nẻo đường của cuộc sống và được thực hiện trong mọi hoàn cảnh, môi trường chung quanh. Lời tâm niệm “Tổ Quốc - Danh Dự -Trách Nhiệm“ vẫn luôn được các chiến sĩ VNCH thực hiện từ ngày 30 tháng 4 đau thương đó cho đến nay. Những vị tướng như Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng đã chọn cái chết để bảo vệ DANH DỰ cho quân lực VNCH. Những sĩ quan như Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Hữu Thông, v.v... đã can đảm đối đầu với họng súng của VC để nêu cao khí tiết, DANH DỰ của quân lực VNCH. Những người lính thuộc Trung đội Nhảy Dù của Thiếu Úy Huỳnh Văn Thái cùng nhau tự sát bằng lựu đạn sáng 30 tháng Tư, 1975. Những binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến của Lữ Ðoàn 147 cùng nhau tự sát ở Mỹ Khê, Ðà Nẵng tháng 3, 1975 để nêu cao khí tiết. Hơn 100 Thiếu Sinh Quân chưa hề ra trận lần nào, đã quyết chiến anh dũng với địch trong hơn nửa ngày liên tục để bảo vệ trường Mẹ tại Vũng Tàu ngày 28 tháng 4, 1975 và chỉ chịu đầu hàng khi hết đạn, làm cho VC ngỡ ngàng, cảm phục.Còn biết bao chiến sĩ khác đã anh dũng chiến đấu tới hơi thở cuối cùng hay tự sát trong ngày 30/4 mà chúng ta chưa biết tên nhưng đã được một số đồng bào, đồng đội cũng như ký giả ngoại quốc tường thuật lại với lòng cảm phục vô cùng, đã chứng tỏ tinh thần bất khuất của người lính VNCH. Cho đến nay, những chiến sĩ VNCH còn sống tại hải ngoại hay quốc nội vẫn tiếp tục chiến đấu bằng cách này hay cách khác để thực hiện cho được lời thề:
    Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã từng là một quân đội hùng mạnh đứng hàng thứ 4, 5 trên thế giới và hàng nhất trong vùng Đông Nam Á. Qua cuộc chiến tranh Quốc-Cộng vừa qua, quân lực VNCH đã chứng tỏ mình chiến đấu vì lý tưởng tự do của dân tộc, đã chứng tỏ khả năng chiến đấu kiêu hùng, dũng mãnh, sự hy sinh, chịu đựng gian khổ tuyệt vời nếu đem so với các quân đội khác trên thế giới. Vì thế, quân lực VNCH không thua tại chiến trường nhưng thua vì các sắp xếp chính trị trên bàn cờ quốc tế. Giờ đây, danh dự của quân lực VNCH đang được trả lại. Những cuộc hội thảo quốc tế (thí dụ cuộc hội thảo về chiến tranh VN tại trường đại học Texas Tech University, thành phố Lubbock, tiểu bang Texas) đã được tổ chức để trả lại Danh Dự cho quân lực VNCH. Nhiều nhà báo, học giả ngoại quốc, nhất là từ phía Mỹ, đã lên tiếng hay viết bài ca ngợi tinh thần chiến đấu anh dũng của quân lực VNCH. Tướng Norman Schwarzkopf, người chỉ huy cuộc chiến vùng Vịnh để giải phóng Kuwait năm 1991 đã từng ca ngợi các vị chỉ huy quân lực VNCH và cho biết ông học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm quý báu từ quân lực VNCH khi ông tham chiến bên VN. Tướng Collin Powel, tham mưu trưởng quân đội và là cựu bộ trưởng ngoại giao Mỹ cũng xác nhận và ca ngợi tinh thần chiến đấu anh dũng của quân lực VNCH. Thượng nghị sĩ Mc Cain, ứng cử viên tổng thống Mỹ năm 2008, từng bị VC giam 6 năm, cách đây vài năm khi sang thăm VN và thăm nhà tù Hỏa Lò, ông đã thẳng thắn tuyên bố “kẻ ác đã chiến thắng“. Lời nói này là sự gián tiếp ca ngợi lý tưởng tranh đấu cho tự do, dân chủ của dân - quân - cán - chính VNCH, đặc biệt ca ngợi quân lực VNCH, lực lượng tiên phong trong công cuộc tranh đấu cho lý tưởng này. Vì thế, đã đến lúc chúng ta phải hãnh diện là chiến binh của quân lực VNCH ưu tú, đã đến lúc chúng ta hãnh diện nói cho con cháu chúng ta nghe về công sức, về sự hy sinh, chiến đấu vô bờ bến của chúng ta, của đồng đội để bảo vệ lý tưởng tự do cho dân tộc.

3. Vì Danh Dự, người lính VNCH không bao giờ chịu khuất phục trước bạo quyền cộng sản. Vì Tổ Quốc VN yêu thương đang quằn quại trong đau khổ, tang thương, vì Trách Nhiệm của người lính VNCH đối với tổ quốc, đồng bào vẫn chưa thực hiện được nên người lính VNCH vẫn phải tiếp tục chiến đấu. Ngày nay mặt trận không nằm ở chiến trường nữa. Nó nằm ở trong cuộc sống, trong sinh hoạt đấu tranh, trong tư tưởng, trong ý chí của người lính VNCH. Nhận thức như vậy nên người lính VNCH vẫn luôn đi đầu trong các cuộc tranh đấu chống cộng. Hãy xem, trong các cuộc tranh đấu chống cộng có khi nào thiếu vắng những người lính VNCH đi tiên phong không?

4. Một vị tướng ngoại quốc có câu nói lừng danh “Người ta có thể mang tôi ra khỏi quân đội, nhưng không thể mang quân đội ra khỏi tôi”. Rất đúng! Vì bất cứ lý do gì, vì bất cứ hoàn cảnh nào, lời thề “Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm“ luôn luôn nằm trong tim các chiến sĩ VNCH. Vì bất cứ lý do gì, các binh sĩ VNCH suốt đời vẫn là chiến sĩ. Vậy chúng ta có thể ngồi yên, an hưởng tự do không khi quê hương VN thân yêu vẫn còn chìm ngập trong điêu linh, thống khổ, dân tộc vẫn còn sống trong đọa đầy, đàn áp? Lòng ta có thanh thản không khi bè lũ Việt cộng vẫn tiếp tục đọa đầy dân tộc, bịt miệng đồng bào, đang đưa dân tộc làm nô lệ cho ngoại bang Á châu, cho Tàu cộng?

Chúng ta chưa thể nghỉ yên vì Mẹ VN vẫn đang quằn quại, đau thương, than khóc. Chúng ta chưa thể an hưởng tự do nơi xứ người khi đồng bào còn đang bị đàn áp, chà đạp nhân phẩm, bóc lột tận xương tủy bởi VC và ngoại nhân. Nhiệm vụ đối với quê hương, dân tộc chúng ta chưa làm tròn, chúng ta chưa được nghỉ ngơi.

Hàng ngàn, hàng ngàn bé gái là con, cháu chúng ta đang bị bán trong các nhà chứa bên Thái Lan, Cam Bốt, sống kiếp đọa đầy, tủi nhục, đang mòn mỏi chờ đợi sự cứu vớt của chúng ta trước khi quá trễ. Hàng ngàn các em bé khác sẽ tiếp tục bị bán nếu chế độ VC còn tồn tại. Các cô gái Việt Nam là em, cháu chúng ta đang bị rao bán trên internet, trong các lồng kính tại các quốc gia Đông Nam Á như là các con vật tình dục, buộc chúng ta không thể ngồi im để tận hưởng tự do, sung túc, êm ấm nơi xứ người mà không tìm cách tranh đấu để thảm trạng đau lòng này không bao giờ tái diễn trên quê hương VN thân yêu nữa. Các cô gái khốn khổ này không có tội tình gì hết. Chính bè lũ VC mới là tội đồ và chúng ta là tòng phạm nếu chúng ta cứ để cho thảm cảnh đau lòng này tiếp tục xảy ra.

Chúng ta không thể nhìn các cô gái VN hàng ngày bị lột truồng, đi qua đi lại như súc vật để được mua bán, chọn lựa trước những cặp mắt đầy nhục dục của các người Đại Hàn, Đài Loan, Tàu Đông Nam Á tại chính quê hương VN khốn khổ của chúng ta như vậy. Chúng ta không thể thản nhiên nhìn hàng chục ngàn công nhân VN đang bị các chủ nhân ngoại bang hành hạ, làm nhục, bị bóc lột và bị đối xử như con vật trước sự đồng lõa của VC.

Chúng ta không thể cúi đầu nhìn ngoại nhân sỉ nhục dân tộc chúng ta như vậy.

Con người VN đang bị lăng nhục, dày vò, bóc lột. Lòng tự ái dân tộc VN đang bị ngoại nhân thách thức, chà đạp. Chẳng lẽ chúng ta ngồi lặng im? Chẳng lẽ dân tộc VN, chẳng lẽ chúng ta mất hết nhuệ khí oai hùng của Mê Linh Quật Khởi, của Bạch Đằng Dậy Sóng Diệt Thù, của Phá Tống – Bình Chiêm, của Sát Thát, của Bình Ngô Đại Cáo, củaQuang Trung Đại Phá Quân Thanh mà tổ tiên truyền lại?

Chẳng lẽ chúng ta quen thuộc với sỉ nhục đến độ không còn cảm giác tối thiểu để đứng lên làm một cái gì đó rửa nhục cho dân tộc, cho con, em, cháu và cho chính chúng ta?

Cái nhục dân tộc đau đớn này nếu chúng ta không trả được thì chúng ta không thể ngẩng cao đầu làm người VN chứ đừng nói là chiến sĩ VNCH. Nỗi khổ đau tận cùng này của dân tộc nếu chúng ta không bắt đảng CSVN hại dân bán nước trả nợ thì suốt đời con cháu sẽ nguyền rủa chúng ta. Ai sẽ cứu dân tộc VN, ai sẽ cứu các bé gái này, ai sẽ cứu các cô gái VN này nếu không phải chúng ta? Chúng ta phải tranh đấu, phải hành động hết sức mình trước khi kêu gọi sự giúp đỡ của các quốc gia tự do trên thế giới yểm trợ cho 1 nước VN hoàn toàn độc lập, tự do, phú cường.

5. Vong hồn của hơn 3 trăm ngàn (300.000) chiến sĩ VNCH, của hơn 6 mươi ngàn (60.000) chiến sĩ đồng minh đã bỏ mình vì lý tưởng tự do cho dân tộc VN, oan hồn của hàng mấy trăm ngàn đồng bào chết trên đại lộ kinh hoàng mùa hè đỏ lửa 1972, của dân chúng Huế Tết trong Mậu Thân 1968, của cuộc di tản đau thương 1975, cũng như tại nhiều nơi khác trên quê hương đang kêu nài chúng ta đòi lại công lý cho họ để họ không chết oan ức, để cái chết của họ không bị chìm vào quên lãng.

- Vong linh của mấy chục ngàn chiến sĩ đã bỏ mình trong các nhà tù cộng sản và trong cái-gọi-là trại cải tạo, linh hồn của hơn nửa triệu đồng bào đã bỏ mình trên biển cả, rừng sâu vì đói khát, vì giông bão, vì hải tặc trên đường đi tìm tự do đang réo gọi chúng ta phải hành động, phải tranh đấu để cái chết tức tưởi của họ không vô ích.

- Linh hồn 10 ngàn (10.000) cô gái VN bị hải tặc Thái Lan mang bán trong các nhà chứa và chết dần mòn trên đất Thái, đòi chúng ta phải lấy lại công lý cho họ để hồn họ được ngậm cười nơi chín suối.

- Vong linh của những đồng bào, chiến sĩ bỏ mình nơi đất khách quê người đang đòi chúng ta phải đứng lên chiến đấu để hồn họ được siêu thoát, để xác thân họ được chôn nơi đất Mẹ ngàn đời mến yêu.

- Vong hồn hơn 16 ngàn chiến sĩ VNCH là anh em, đồng đội chúng ta tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa đang đòi chúng ta phải bảo vệ nơi yên nghỉ cuối cùng linh thiêng của họ.

- Những thương phế binh VNCH và con cháu họ đang cần chúng ta chiến đấu cho họ, để sự hy sinh của họ không vô ích, để tương lai con cháu họ không tiếp tục nằm trong những đống rác, những nơi bán máu.

- Tất cả đồng bào, anh em, đồng đội chúng ta sẽ không nhắm mắt yên nghỉ nếu chúng ta không tiếp tục chiến đấu, nếu chúng ta buông xuôi phó mặc đất nước, dân tộc cho bè lũ VC phi dân tộc, tàn ác để chúng tiếp tục làm tay sai, bán đất dâng biển cho kẻ thù ngàn đời của dân tộc là giặc Tàu bắc phương, để chúng tiếp tục nô lệ hóa dân tộc cho ngoại bang.

Không phải ngẫu nhiên mà ông bà ta đã đặt chữ “Nước Mất“ đi trước chữ “Nhà Tan“ trong câu dặn dò con cháu “Nước Mất Nhà Tan“. Ý ông bà ta muốn cảnh cáo chúng ta “Nếu chỉ lo cho cái nhà của mình mà không nghĩ tới dân tới nước, vào một ngày nào đó khi đất nước bị kẻ thù hay tay sai kẻ thù chiếm đoạt thì gia đình của chính chúng ta cũng sẽ tiêu tan”. Câu nhắn nhủ thâm sâu, chí tình này của tổ tiên đã được chứng minh hùng hồn qua biến cố 75. Sau 30/4, 1975 khi cả đất nước tan hoang thì biết bao nhiêu gia đình cũng tan nát theo và đi tới tận cùng đổ vỡ. Sau 30/4, cả đất nước thành trại tù, đói khổ tràn lan thì nền tảng gia đình VN cũng bị VC phá vỡ hoàn toàn có chủ đích. Nền đạo lý ngàn đời của dân tộc đi tới phá sản. Con cái tố cha mẹ, thày cô. Cha mẹ, thày cô sợ con cái, học trò, mọi người nghi kỵ, rình rập lẫn nhau. Vợ bỏ chồng theo cán bộ VC. Mọi người lừa bịp nhau, sống gian trá để mong tồn tại.

Sau 30/4, 75 cả nước biến thành chư hầu của Liên Xô, sau đó lại biến thành chư hầu của Tàu cộng để rồi lãnh đạo VC dâng đất dâng biển, dâng đồng bào cho quan thày Tàu cộng. Đó! Hệ quả thê thảm, khốc liệt của câu “Nước Mất Nhà Tan“ là vậy. Nay câu “Nước Mất Nhà Tan” sẽ lại tiếp diễn ở tại ngay các xứ tạm dung thân này, nếu chúng ta chỉ tiếp tục lo cho căn nhà, cho gia đình, cho bè nhóm của chính mình. Nghị quyết 36 của VC đang đi vào giai đoạn quyết liệt. VC nhất quyết nhuộm đỏ cộng đồng, lũng đoạn con cháu chúng ta. Chúng đang len lỏi tranh các chức vụ trong chính quyền địa phương. Nếu chúng ta có thái độ cầu an, mũ ni che tai thì khi cộng đồng chúng ta bị nhuộm đỏ, khi vài chức vụ thành phố, quận hạt chúng nắm, những tay chân này của VC sẽ mời những phái đoàn VC sang thăm các thành phố có đông người Việt tị nạn để phá rối cộng đồng chúng ta. Lúc đó, chính chúng ta, chính gia đình, chính con cháu chúng ta cũng sẽ khó yên thân được với bọn VC nơi hải ngọai này.

Chúng ta phải làm gì?

Nếu biết kết hợp để cùng nhau làm việc, các chiến sĩ quân lực VNCH sẽ có sức mạnh rất lớn và làm được rất nhiều chuyện hữu ích cho công cuộc phục hưng dân tộc. Các tổ chức chính trị của người Việt hải ngoại không phát triển sâu rộng trong hàng ngũ người Việt tị nạn CS nhưng tập thể chiến sĩ VNCH thì nhất định có ảnh hưởng sâu rộng trong cộng đồng người Việt tị nạn CS vì hầu như gia đình nào cũng có người thân hay bạn bè là chiến sĩ VNCH. Vậy hãy biến những giờ phút trà dư hậu tửu thành những giờ phút gặp gỡ, hàn huyên bổ ích. Hãy bình tĩnh và tỉnh táo để nhìn ra những biến chuyển của thời cuộc. Hãy tỉnh táo nhìn ra “Ai là bạn, ai là thù”, nhận ra những hỏa mù, những đòn hiểm độc nhằm gây chia rẽ cộng đồng từ VC. Hãy tập hợp nhau lại và khi gặp gỡ trao đổi, hãy bàn những chuyện cụ thể cho đất nước trong tinh thần xây dựng, tương kính, lắng nghe nhau để đề ra những sách lược, hành động cụ thể trong việc giữ yên hậu phương hải ngoại trước những đòn tấn công liên tục, thâm hiểm của VC. Có vậy, chúng ta mới tạo được lực thống nhất, mới có đủ sức mạnh để yểm trợ tối đa cho mặt trận tự do, dân chủ, nhân quyền đang đi tới hồi quyết định nơi quốc nội trong thời gian sắp tới. Mỗi người, tùy theo khả năng, hoàn cảnh cụ thể của mình hãy hành động hết sức. Hãy thực hiện câu tổ tiên bao đời truyền dạy “Ai có dao dùng dao, ai có bút dùng bút“. Tất cả hãy tập hợp trong một mặt trận chung. Hãy hướng dẫn con cháu tới nơi tới chốn để chúng cùng tham gia vào công cuộc tranh đấu chung của dân tộc và tránh được những cạm bẫy, dụ dỗ tuyên truyền của VC khi chúng đang muốn lợi dụng kiến thức và tấm lòng yêu nước của con cháu chúng ta mang về VN để phục vụ cho quyền lợi bất chính của đảng CSVN, kéo dài thêm sự khốn khổ của đồng bào.

“Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm” để cứu nước, cứu dân thoát cảnh nô lệ, điêu linh, nghèo đói, đọa đầy, mất đất, mất biển, do nhóm lãnh đạo VC đang làm tay sai cho giặc Tàu gây ra cho dân tộc VN. Chúng ta phải tập hợp nhau lại, cùng đứng lên hành động để rửa mối nhục do nhóm lãnh đạo VC đang cấu kết với ngoại bang Tàu cộng, Tàu Đông Nam Á, Đài Loan, Thái Lan, Đại Hàn gây ra cho dân tộc VN.

Ai sẽ đi tiên phong trong trận chiến đòi tự do, dân chủ cho đồng bào? Ai sẽ đi tiên phong trong trận chiến rửa hờn, rửa nhục cho dân tộc?

Chẳng lẽ con cháu chúng ta sẽ đi tiên phong trong chuyện này, còn chúng ta, những người có đầy kinh nghiệm máu xương với VC, hiểu rõ bản chất dã man, xảo trá của chúng, lại phủi tay nghỉ ngơi? Nhất định không! Chính chúng ta phải làm việc này cùng con cháu chúng ta, cùng đồng bào vì chúng ta chưa được dân tộc cho giải ngũ, vì trong tim chúng ta vẫn còn khắc sâu lời thề:
    Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm
Chúng ta chưa thực hiện xong lời thề linh thiêng này, chúng ta không được quyền nghỉ ngơi. Câu “Bảo Quốc – An Dân” ta vẫn chưa làm tròn. Vì đất, biển - mảnh giang sơn cẩm tú tổ tiên tốn biết bao mồ hôi xương máu để lại cho chúng ta đang rơi vào tay Tàu cộng. Vì đồng bào VN vẫn tiếp tục bị đọa đầy, thống khổ. Vì bình an trong cuộc sống và trong tâm trí, người dân chưa hưởng được một ngày kể từ khi đảng CSVN xuất hiện trên quê hương thân yêu.
    Trách Nhiệm với Tổ Quốc, Dân tộc chỉ được hoàn tất khi quê hương VN không còn bị cai trị bởi bè lũ VC bán dân, hại nước, làm tay sai cho Tàu cộng.

    Trách Nhiệm với Tổ Quốc, Dân tộc chỉ được hoàn tất khi từng tấc đất linh thiêng của dân tộc do VC dâng cho quan thầy, được lấy lại.

    Trách Nhiệm với Tổ Quốc, Dân tộc chỉ được hoàn tất khi hoa dân chủ, hạnh phúc nở khắp quê hương.

    Danh dự của dân tộc VN chỉ được lấy lại khi người ngoại quốc không còn dám coi thường dân tộc VN.

    Danh dự của dân tộc VN chỉ được lấy lại khi người ngoại quốc biết nể trọng dân tộc VN chúng ta - những con cháu của giống Tiên - Rồng kiên cường, bất khuất.
Nguyễn Bách Việt


Biển-Đảo Việt Nam Còn Đâu Nữa Để Nguyễn Tấn Dũng Xác Nhận Chủ Quyền! - Mường Giang

Mường Giang

Ngày thứ Sáu (25-11-2011), lần đầu tiên Nguyễn Tấn Dũng (thủ tuớng việt cộng) khi trả lời những câu hỏi trước Quốc hội VC tại Hà Nội, đã công khai xác nhận “Trung Cộng đã dùng vũ lực để cưởng đoạt Quần Đảo Hoàng Sa của VN vào năm 1956 và 1974, lúc đó thuộc chủ quyền của VNCH. Nguyễn Tấn Dũng còn nói thêm “Trường Sa cũng bị Tàu đỏ cưỡng đạt bằng vũ lực...”

Nhưng có điều Dũng đã không bao giờ dám nhắc tới động cơ nào đã giúp giặc Tàu công khai xâm lấn lãnh thổ của một nước khác, mà không bị Hoa Kỳ, Liên Hiệp Quốc chế tài và lên tiếng phản đối. Cũng không thấy nói tới chuyện lấy lại hai quần đảo trên bằng cách nào ?

Theo bản tin của UPI-AFB ngày 23-9-1958 được báo chí của Trung Cộng lẫn Việt Cộng đăng tải - những tài liệu này, hiện vẫn được lưu trữ tại các thư viện quốc tế như Luân Ðôn, Paris, Hoa Thịnh Ðón, Bắc Kinh ... kể cả Hà Nội - ta mới biết được, vào ngày 14-9-1958, Phạm Văn Ðồng lúc đó là thủ tướng, theo lệnh của chủ tịch nước và đảng VC là Hồ Chí Minh, đã cam kết với Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Cộng, bằng văn kiện xác quyết như sau “Chính phủ VNDCCH, tôn trọng quyết định, lãnh hải 12 hải lý cũng như hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, là Tây Sa-Nam Sa, của Trung Cộng”. Ngày 22-9-1958, đại sứ VC tại Bắc Kinh là Nguyễn Khang, dâng văn kiện xác nhận điều trên, do Phạm Văn Ðồng ký, lên Thiên Triều. Ngay cả khi đã cướp chiếm được hoàn toàn miền Nam VN vào tháng 5-1976, trên tờ Sài Gòn Giải Phóng của VC nằm vùng Ngô Công Ðức, Lý Quý Chung.. vẫn còn đăng lời xác nhận của đảng VC “Hoàng Sa-Trường Sa là của Trung Cộng”. Khôi hài hơn, VC nói “vì ta và Tàu sông liền sông, núi dính núi, nên Hoàng Sa-Trường Sa, của ai cũng thế thôi, nên VC muốn lấy lại đảo, lúc nào Trung Cộng vẫn sẵn sàng giao trả”. Luận điệu trên rõ ràng VC đã xác nhận VN là thuộc địa của Tàu Cộng. Dù ngày 14-3-1988, Trung Cộng đã tàn sát dã man những bộ đội VC trong cuộc giao tranh không công bằng (vì quân ta không có vũ khí trong tay và được lệnh cấm chống trả) tại Trường Sa. Ngay sau đó, trên tờ Nhân Dân, số ra ngày 26-4-1988, VC vẫn xác nhận sự kiện Hồ Chí Minh bán hai đảo cho Tàu năm 1958 là đúng. Bởi có vậy, Trung Cộng mới viện trợ súng đạn, gạo tiền và cả triệu quân để VC đánh chiếm VNCH từ 1955-1975.

Dựa theo các nguồn sử liệu hiện nay, khi viết về nguồn gốc của dân tộc VN, đều cho rằng Người Việt là một trong những dân tộc dũng cảm và thông minh nhất trên thế giới, vì đã được hưởng nhiều đặc tính quý báu của các chủng tộc pha trộn. Họ là hậu duệ của nòi giống Mông Cổ, Bách Việt và Nam Á Ða Ðảo qua quá trình thiên di từ Trung Á tới đồng bằng Bắc Việt. Nhờ vậy suốt dòng lịch sử mấy ngàn năm, tổ tiên ta mới đương đầu nổi với nhiều cuộc xâm lăng diệt chủng của Tàu, Chiêm Thành, Lào-Thái, Cao Miên, thực dân Pháp-Nhật và nay là chủ nghĩa vô thần của đảng cọng sản đệ tam quốc tế. Bởi thế ngay từ buổi bình minh dựng nước, người Việt rất thạo thủy chiến, quen dùng thuyền, thời gian sống trên cạn ít hơn dưới nước, vì biển rạch sông hồ, vốn là những nơi chốn thân thương của linh hồn đất Việt.

Chúng ta là con cháu của Lạc Long Quân và Mẹ Âu Cơ, theo cha ra biển và lâp thành nước Văn Lang, có nền văn minh phát triển từ sông nước. Do trên ngoài nông nghiệp, việc khai thác hải sản trên sông biển, vẫn là tiềm năng kinh tế muôn đời của dân tộc.

Nên biển miên viễn vẫn là không gian sinh tồn của nòi giống Hồng Lạc, là bức trường thành “nước“ bảo vệ non sông gấm vóc Việt. Vì vậy trong suốt lịch sử giữ nước chống ngoại xâm, sức mạnh của Thủy Quân Ðại Việt qua các triều đại Ngô, Ðinh, Tiền Lê, Hậu Lý và nhất là Nhà Trần ... đã tạo nên những chiến công hiển hách, làm vẻ vang người Việt, đất Việt, khiến cho con cháu ngày nay, mỗi lần đọc lại những trang sử cũ, đều cảm nhận sự hãnh diện trân quý, đối với tổ tiên mình. Những đia danh Như Nguyệt, Chương Dương, Hàm Tử, Hội An, Lô Giang, Rạch Gầm, Nhật Tảo, Hoàng Sa.. và đặc biệt là dòng sông thiêng Bạch Ðằng nơi xứ Bắc, muôn đời sống đẹp trong hồn người như nhà thơ Phạm Sư Mạnh đời Trần, đã không ngớt lời khen tặng:

“Vũ trụ kỳ quan, Dương Cốc nhật.
Giang san vượng khí Bạch Ðằng thâu”

Ngày nay đảng CSVN đã và đang bán dần mòn non sông gấm vóc cho giặc Tàu, chẳng những là biển, bờ, hải đảo, đất đai biên giới mà ngay tới làng mạc, phường phố tại Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Bình Dương, Đà Nẳng, Cần Thơ nơi nào cũng đã bị Hán hoá từ trong chữ nghĩa ra tới thực tế của cuộc đời. Tất cả đều do tổ tiên đã dựng và gìn giữ qua bao đời, bằng xương máu và nước mắt. Nhờ vậy mới có một nước Việt xinh đẹp bao đời, trải dài trên bờ Thái Bình Dương hơn 3300km, với non xanh nước biếc thật hữu tình. Sau lưng là bức tường thành Trường Sơn hùng vỹ, còn đất đai thì chạy suốt từ Ải Nam Quan tới tận Mui Cà Mâu, Hà Tiên ngút ngàn ruộng đồng vườn tược, nơi nào cũng đẹp xinh ngập tràn hồn quê trong nổi nhớ.

Biển VN còn có một thềm lục địa rộng trên 2 triệu km2 và 4000 hòn đảo, mà lớn nhất là Phú Quốc (Kiên Giang) và Phú Quý (Bình Thuận), có diện tích gần bằng Tân Gia Ba. Nơi nào trên biển cũng đều có một triển vọng to lớn về khả năng khai thác khí đốt và dầu thô. Tóm lại, nếu là những vị lãnh đạo yêu nước, thương dân thưở trước như Trần Nhân Tôn, Lê Thánh Tôn, các Chúa Nguyễn Hoàng, Sải Vương, Hiền Vương, Quốc Chúa, Minh Mạng ... cho tới cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu ... chắc chắc sẽ nhận ra ngay thực trạng của nước ta, người đông đất ít, tương lai của xứ sở đều do biển quyết định, nên phải dồn hết năng lực và sức mạnh quân sự, để bảo vệ biển, đảo như Nhà Nguyễn và gần nhất là VNCH đã từng làm suốt 20 năm tồn tại (1955-1975).

Từ sau ngày CSVN làm chủ cả nước, đảng chưa bao giờ nghiên cứu hay lo lắng bảo vệ lãnh hải của mình, dù biết rằng “cái ăn của toàn dân phần lớn đều nhờ vào biển trước mắt”. Ðó là thực trạng của sự khai thác hải sản bừa bãi trên Ðông Hải, gần như lạm phát vô kỹ luật, từ sau năm 1975 tới bây giờ. Tóm lại tất cả đều là nỗi đau lòng, ngậm ngùi non nước, từ sự kê khai tổng trọng tải của hàng chục ngàn ngư thuyền cả nước, nhưng thực tế chưa bằng 1/10 tàu thuyền đánh cá của các nước trong vùng.

Về sản lượng khai thác trên biển hiện nay của ngư dân VN theo các nguồn tin quốc tế, còn thua xa các nước Nhật, Péru, Ðài Loan, Ðại Hàn cả Thái Lan từ 25 năm về trước. Trong lãnh vực kinh tế, VN hiện có 62 hải cảng lớn nhỏ cả nước, nhưng con số chỉ nhằm phô trương, vì nhiều cảng cá xây lên, để có cơ hội cho cán bộ đảng từ nhỏ tới lớn, chia nhau ăn xén ngân khoản, sau đó bỏ hoang như ở Cà Mâu. Thực chất đã làm lu mờ cái uy thế hiển hach của một nước VN từ bao đời “là một vị trí trung tâm của hải đạo bắc-nam, vùng Châu Á Thái Bình Dương”. Ðồng thời cũng là cửa ngõ ra biển của Lào và nhiều tỉnh miền Nam Trung Hoa như Quý Châu, Vân Nam và Quảng Tây, qua các đường sông Hồng Hà, Mã và sông Cả.

Từ năm 1995, VN đã bắt đầu sản xuất dầu khí của các mỏ trên thềm lục địa nước ta, tại biển Nam quanh Côn Ðảo và quần đảo Trường Sa. Việc khai thác khí đốt cũng đã bắt đầu tiến hành từ đầu thập niên thế kỷ XXI. Ðây là nguồn lợi to lớn nuôi sống cả nước, sau lúa gạo và hải sản. Nhưng vì cần chỗ dựa lưng be bờ để giữ đảng tồn tại, sau khi Liên Xô và Ðông Âu sụp đổ, nên CSVN chẳng những đã không lo bảo vệ non sông gấm vóc của dân tộc, trái lại còn bí mật ký kết bán nhượng biển nhiều lần với Tàu đỏ, đặc biệt là Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ lâu đời của Ðại Việt có từ thời vua Lê Thánh Tôn vào thế kỷ XVII.

Ngày 25-12-2000, CSVN qua Lê Khả Phiêu, Ðỗ Mười, Trần Ðức Lương, Võ Văn Kiệt ... tới Bắc Kinh để âm thầm ký kết bán đảo chia biển với Trung Cộng, qua cái gọi là Hiệp Ðịnh Phân Ðịnh Vịnh Bắc Bộ. Sự kiện trên đã bị dân chúng trong và ngoài nước phanh phui, công phẫn và phản đối dữ dội. Ðặc biệt là báo chí Pháp cũng lên tiếng phê phán và cười chê CSVN cả gan, khi dám nhân danh kẻ cầm quyền, để ký với giặc thù truyền kiếp của dân tộc là Trung Cộng, trong tình trạng bình thường của hai quốc gia độc lập. Ðây là một hiệp định vô lý, man rợ và bất bình đẳng nhất thế giới, mà chỉ có bè lũ bán nước buôn dân như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Ðồng (1958), cùng với băng nhóm không còn nhân tính, thiên luân và tim óc trong Bắc Bộ Phủ mới dám lỳ lợm hành động một cách mù quáng, mặc kệ cho cuộc tồn vong của dân tộc Việt.

Nguyễn Tâm Bảo, một cán bộ kiều vận của Việt Cộng, đặc trách vùng Bắc Mỹ, trong một bức thư tối mật gửi đảng (Sever Ever Been Top Secret), đề ngày 30-6-2008, qua ám số i86 photobucket.com, đã viết “.. thứ hai là quan hệ tế nhị với người anh lớn đã để lộ những kẽ hở. Việc chúng ta nhượng đất nhượng biển là một sai lầm, đụng chạm đến tinh thần dân tộc từ ngàn đời nay. Làm sao để lèo lái tinh thần dân tộc theo hướng có lợi cho chúng ta, để thanh niên vẫn có chỗ xả xú pắp, mà vẫn tin rằng chúng ta không hề hèn nhát trước Trung Quốc, đồng thời việc đó không làm cho Trung Quốc tức giận…”

Ngày xưa, Hồ Quý Ly, Mạc Ðăng Dung và Chúa Trịnh, chỉ vì trong thế kẹt vạn bắt đắc dĩ, nên bó buộc phải ký dâng đất cho giặc. Thời nhà Nguyễn, Vua Tự Ðức cũng chỉ vì thua kém quân sự, nên buộc lòng phải ký kết những hiệp ước bất bình đẳng với kẻ thù nhưng vẫn tìm đủ mọi cách để chuộc lại. Thực dân Pháp trong thời gian đô hộ nước ta, vì quyền lợi của chúng, cũng cắt nhiều đất của VN cho Tàu tại biên giới, đó là điều không thể tránh được với một quốc gia đã mất chủ quyền. Thời VNCH luôn luôn phải đương đầu với thù trong giặc ngoài, suốt 20 năm tồn tại, từ cố TT Diệm tới TT Nguyễn Văn Thiệu, đã không hề bán nhượng hay làm mất một phân đất của tổ tiên. Tháng 1-1974, chỉ vì đồng minh Mỹ bán đứng, VC đồng lỏa với Tàu đỏ, đâm sau lưng nên đành để mất quần đảo Hoàng Sa trong máu hận, sau khi Hải Quân Miền Nam đã tử chiến với Trung Cộng và gây cho chúng nhiều thương vong thiệt hại.

VC chỉ biết có đảng và quyền lợi cá nhân gia đình, đã công khai đầu hàng giặc Tàu, làm tổn hại đất nước, khiến dân tộc mất danh dự và trên hết là tạo sự bất hạnh cho ngư phủ VN phải hành nghề trên biển cả, bị giặc Tàu bắn chết qua tội danh xâm phản lãnh hải của chính nước mình. Hỡi ôi, chỉ vì muốn được làm nô lệ cho Trung Cộng để giữ đảng, mà VC đã làm mất của VN hơn 11.930 km2 biển. Riêng Hiệp Ðịnh gọi là Hợp Tác Nghề Cá, chưa hề được quốc hội thảo luận cũng như biểu quyết phê chuẩn, nhưng VC lẫn Trung Cộng vẫn tuyên bố, cùng có hiệu lực như Hiệp Ðịnh Vịnh Bắc Bộ vào ngày 30-6-2004, mà hậu quả trước mắt là thảm cảnh đồng bào VN ngày ngày bị Tàu đỏ cướp bóc, hảm hiếp và giết hại trên biển Đông, kể cả những lãnh hải thuộc chủ quyền VN sát bờ như Bán Ðảo Sơn Chà (Quảng Nam-Ðà Nẳng) mới đây vào tháng 6-2008.

Tóm lại, từ việc Hồ Chí Minh, Phạm Văn Ðồng và đảng cộng sản, thừa nhận Hoàng Sa-Trường Sa thuộc chủ quyền Trung Cộng vào năm 1958, cho tới những hiệp ước bất bình đẳng về việc phân định và hợp tác đánh cá trong vịnh Bắc Việt, đảng CSVN coi như đã dâng hiến toàn bộ hải sản, dầu khí của quốc gia cho giặc Tàu. Nên không ai ngạc nhiên khi nguồn tin Nông Ðức Mạnh sang Tàu về và phổ biến tấm dư đồ rách VN ngày nay trong đó không có các địa danh Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, Hang Pắc Pó, Núi Tô Thị và hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, nay đã biến thành Huyện Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam của Trung Cộng.

Mấy ngàn năm mở và dựng nước, linh hồn của dân tộc Việt là rừng thẳm biển xanh như đã ăn sâu vào ánh mắt nụ cười của mọi người. Nay thì rừng đã trụi còn biễn cũng đã phụ người. Chúng ta con cháu ngày nay khi nghĩ tới, chỉ còn đi tìm thuở vàng son của quá khứ, được lưu lại trong hồn biển trên đât cá đẳm đầy nước mắt, nắng gió và cái đói lạnh miên trường của kiếp người bất hạnh trên quê hương nhược tiểu VN.

Có còn nỗi buồn nào hơn nỗi buồn của người ngư phủ VN, đứng trước quê hương mình trong nổi lặng im cay đắng, nhìn những tia nắng ráng chiều còn vương trên biển như tiếng vọng của ngày về một thời oai hùng trên sóng nước. Giờ chỉ còn lại hai bàn tay trắng của phận người nơi biển bạc sau những đợt xăng dầu lên giá, bão táp bất thường và nạn Tàu Ô, Tàu Ðỏ hoành hành khắp Ðông Hải. Biên ôi, biển đã phụ Người !

Tóm lại bọn cướp biển đang hoành hành trong hải phận VN ngày nay, rất đa dạng, phía bắc là bọn Tàu Ô-Tàu đỏ (Trung Cộng), còn ở mạn Nam là đám hải tặc Kampuchia. Chúng thường đội lớp hải quân, có tàu thuyền rất tối tân, loại Hino gắn thủy động cơ 6 bloc và còn chở thêm nhiều canô, chạy máy 50 ngựa. Trên tàu được trang bị đủ loại vũ khí như súng phóng lựu M79, đại liên M60, tiểu liên AK47, lưu đạn Mini, thủy pháo và máy bộ đàm HT10, liên lạc với nhau để báo động, ăn hàng hay chém vè khi bị nguy cấp.

Nhưng đâu phải chỉ có hải tặc Kampuchia, mà còn có bọn cướp biển quốc tế, trong đó có lũ Tàu Ô cũng tới cướp bóc giết ngư dân VN trong vùng biển Kiên Giang. Năm 1996, biên phòng tỉnh này qua nguồn tin từ Mả Lai Á, đã chận bắt được một tàu cướp xuyên quốc gia của Trung Công, mang số D4460 với 25 tên cướp do một sĩ quan chỉ huy, tại vùng biển gần đảo Thổ Châu. Hà Nội sau đó, đã trả lại 25 tên cướp Tàu cho Bắc Kinh.

Ngày nay Trung Cộng là một trong 17 nước hiện diện trong vùng biển Thái Bình Dương có tàu đánh cá với trọng tải trên 100 tấn và xếp hàng đầu vì số lượng tàu chiếm tới 40%, bỏ xa Hoa Kỳ (chỉ có 5%), Nhật (3%) và Nam Hàn (2%). Ngoài ra tất cả tàu đánh cá của Trung Cộng, đều được trang bị các loại lưới có tầm bắt cá tới 50 hải lý. Do trên, tàu đánh cá Trung Cộng, chỉ cần tới những vùng biển, mà VC đã ký nhượng dâng bán cho giặc Tàu, được gọi qua danh từ hoa mỹ là “vùng đánh cá chung”, để neo tàu, bủa lưới, là có thể tóm gọn hết hải sản toàn vùng của VN, từ Thái Bình vào tới Quảng Trị. Ngư dân VN chỉ còn biết khóc vì không biết làm gì hơn để kiếm nuôi sống mình và gia đình.

Tại Bình Thuận, vùng biển giàu có và lớn nhất hiện nay của nước ta, tàu đánh cá Trung Cộng được địa phương gọi là “hung thần trên biển cả”, ngày ngày cào, vơ, quét sạch những gì có trong biển, làm cho ngư dân bản địa xác xơ vì thu hoạch không đủ trả tiền xăng dầu, nói chi tới kiếm gạo nuôi miệng.

Biển Đông và các ngư trường cá Hoàng Sa, Trường Sa nay đã thuộc chủ quyền của Trung Cộng ... nên Nguyễn Tấn Dũng hay Chủ Tịch Nhà nước VC Trương Tấn Sang có lên tiếng xác nhận hay đòi chủ quyền, chẳng qua cũng chỉ để “đánh giặc miệng” cho vui lòng người trong nước đang lúc “ai cũng muốn ăn tươi nuốt sống đảng bán nước và giặc Tàu xâm lăng cướp nước VN” thế thôi !

Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 11-2011
Mường Giang


Sunday, March 11, 2012

Âm Mưu Biến Ngày Quốc Hận Thành Ngày Thuyền Nhân? - Trần Gia Phụng



Trần Gia Phụng

Sau bài “Ngày Quốc hận là ngày Quốc hận”, có nhiều e-mail hỏi người viết rằng tại sao lại có âm mưu biến ngày Quốc hận thành ngày Thuyền nhân? Câu hỏi nầy đáng lẽ phải hỏi thẳng những người âm mưu. Ở đây chúng tôi chỉ phỏng đoán lý do mà thôi. Sự phỏng đoán có thể thiếu sót, xin các bậc cao minh bổ túc thêm.

1. LÀM PHAI LẠT Ý NGHĨA NGÀY QUỐC HẬN

Ngày 30-4-1975 là ngày Cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, áp đặt chế độ độc tài đảng trị trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam. Chế độ cộng sản chà đạp tự do dân chủ, giết hại dân lành, gây nhiều tội ác, trong đó quan trọng nhất là tội phản quốc, nhượng đất, nhượng biển cho Trung Cộng để duy trì quyền lực. Vì vậy dân chúng tự động đặt tên ngày 30-4 là NGÀY QUỐC HẬN.

Sau ngày Quốc hận 30-4-1975, hàng triệu người Việt Nam đã bỏ nước ra đi tìm tự do. Khoảng nửa triệu người bỏ mình trên biển cả. Cộng sản chận bắt, bắn giết những người tìm cách vượt biên. Lúc đầu, cộng sản gọi người Việt vượt biên là tay sai Mỹ ngụy, chạy theo bơ sữa tư bản.

Dần dần, người Việt hải ngoại tập họp thành những cộng đồng lớn mạnh ở khắp nơi trên thế giới, nhất là ở Bắc Mỹ, Âu Châu và Úc Châu. Hàng năm cộng đồng người Việt hải ngoại gởi về hàng tỷ Mỹ kim để giúp đỡ thân nhân ở trong nước. Cộng sản liền uốn lưỡi, đổi giọng, gọi người Việt hải ngoại thành “khúc ruột ngàn dặm”. Tuy nhiên CSVN rất e ngại “khúc ruột ngàn dặm”, vì nhờ khoa học kỹ thuật tiến bộ, phương tiện truyền thông nhanh chóng, tất cả những tin tức ở trong nước được đưa ra nước ngoài dễ dàng. “Khúc ruột ngàn dặm” sẵn sàng tranh đấu, bảo vệ người Việt trong nước, gây trở ngại không ít cho cuộc đàn áp của độc tài cộng sản.

Đối phó với “khúc ruột ngàn dăm”, Bộ chính trị đảng CSVN đưa ra nghị quyết số 36/NQ-TW ngày 26-3-2004 về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, để bằng tất cả các cách thu hút và nếu thu hút không được thì đánh phá các tổ chức, hội đoàn, cộng đồng người Việt hải ngoại, nhằm hóa giải, chận đứng tất cả các cuộc chống đối của người Việt hải ngoại.

Để thực hiện nghị quyết 36, CSVN đưa ra nhiều thủ đoạn thâm độc mà chúng ta không lường trước được. Có khi có người vô tình lạc vào những thủ đoạn của CSVN mà không biết. Âm mưu biến ngày Quốc hận làm ngày Thuyền nhân là một trong những âm mưu thâm độc của CSVN. Âm mưu nhằm hai mục đích:
    1. Làm phai lạt dần dần ý nghĩa Ngày Quốc hận trong lòng người Việt hải ngoại, giảm nhẹ tội ác cho CSVN.
    2. Tạo một đề tài gây tranh cãi và làm chia rẽ cộng đồng người Việt hải ngoại.


2. VÔ HIỆU HÓA HỘI CỰU QUÂN NHÂN

Ở hải ngoại có nhiều hội đoàn. Hội đoàn có tinh thần quốc gia, dân tộc, chống cộng mạnh mẽ, lại có quy củ, có tổ chức, hoạt động mạnh nhất ở bất cứ nước nào, địa phương nào, là hội Cựu Quân Nhân (CQN). Hằng năm, nếu nơi nào không có ban chấp hành cộng đồng, như ở Toronto (Canada) chẳng hạn, thì hầu như hội CQN được giao tổ chức ngày Quốc hận 30-4. Hoặc hội CQN phối hợp với các hội đoàn khác để cùng tổ chức. Luôn luôn hội CQN làm nòng cốt, thường có lễ chào cờ, rước quốc quân kỳ…

Hội CQN là hội giữ lửa cho Cộng đồng, hội mũi nhọn trong các cuộc biểu tình chống cộng. Mỗi năm hội CQN có hai hoạt động chính là tổ chức “Ngày Quốc hận” (30-4) và “Ngày Quân lực” (19-6). Nếu vận động được các địa phương biến ngày 30-4 thành ngày Thuyền nhân, thì lúc đó hội CQN không còn cần thiết, vì đối tượng chính trong buổi lẽ sẽ là thuyền nhân, thì thuyền nhân sẽ đứng ra phụ trách. Một Uỷ ban của các thuyền nhân sẽ đứng ra tổ chức Ngày Thuyền nhân 30-4 hằng năm, thay cho hội CQN.

Khi đó, hội CQN chỉ còn buổi lễ chính là mừng Ngày Quân lực. Là ngày vui thì chỉ có ăn uống, vui chơi, nhảy đầm. Từ vai trò giữ lửa chống cộng, hội CQN trở thành một món trang sức cho cộng đồng. Như thế là một cách vô hiệu hóa hội CQN, làm giảm bớt hoạt động của hội CQN, giảm bớt ngọn lửa đấu tranh chống cộng,. Cái thâm độc của cuộc vận động biến ngày Quốc hận 30-4 thành ngày Thuyền nhân nằm ở chỗ đó. Tuy nhiên vẫn chưa hết…

3. TIÊU DIỆT TIỀM LỰC CHỐNG CỘNG

Ngày Quốc hận 30-4 là ngày của toàn dân Việt, ở trong cũng như ngoài nước, trừ một thiểu số đảng viên. Vì vậy, hằng năm, vào ngày 30-4 ở hải ngoại, khắp nơi trên thế giới đều tổ chức lễ Kỷ niệm Ngày Quốc hận. Rất đông người đến tham dự, có thể nói là đông đảo nhất trong năm. Kỷ niệm Quốc hận hằng năm nhằm nhắc nhở ngày tang thương của dân tộc, tưởng niệm những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì chính nghĩa quốc gia, những đồng bào đã bỏ mình trên đường tìm tự do, và những tù nhân chính trị đã và đang bị đày đọa đến chết trong các trại tù cộng sản. Kỷ niệm Quốc hận 30-4 cũng là dịp cho Cộng đồng Người Việt hải ngoại lên tiếng đòi hỏi dân chủ tự do cho đồng bào ở trong nước. Nói cách khác, ngày 30-4 là ngày tưởng niệm và cũng là ngày tranh đấu.

Trong khi đó, số người thực sự là thuyền nhân hiện nay, một mặt so với dân số toàn quốc thì quá ít vì ở trong nước không có thuyền nhân, và một mặt khác so với tổng số người Việt ở hải ngoại, số thuyền nhân hiện nay chỉ bằng khoảng một phần tư (1/4) hay một phần năm (1/5) mà thôi.

Nếu ngày 30-4 hằng năm là Ngày Thuyền nhân, thì những người không phải là thuyền nhân có thể không đến dự các buổi lễ ngày 30-4, vì không liên quan đến họ. Số người tham dự các buổi lễ kỷ niệm sẽ giảm đi và có thể giảm đi rất nhiều. Như thế, dần dần ngày 30-4 sẽ phai lạt dần. Từ đó, tinh thần đấu tranh chống cộng sản bạo tàn, đòi hỏi tự do dân chủ cho Việt Nam của cộng đồng người Việt hải ngoại sẽ càng ngày càng xuống giốc.

Hơn nữa, một ngày kia, những thuyền nhân sẽ lần lượt qua đời, sẽ không còn thuyền nhân trên thế giới, thì Ngày Thuyền nhân cũng tàn lụi theo. Lúc đó chắc chắn Ngày Thuyền nhân sẽ chẳng còn ai chú ý, chẳng còn ai cử hành, nghĩa là ngày 30-4 cũng sẽ mất tích luôn.

Tóm lại, âm mưu biến đổi Ngày Quốc hận 30-4 thành Ngày Thuyền nhân phát xuất từ ý đồ của CSVN, nhằm làm giảm nhẹ tội ác của cộng sản, triệt tiêu hoạt động của Hội CQN và dần dần làm biến mất ngày Quốc hận, tiêu diệt tiềm lực chống cộng của cộng đồng người Việt hải ngoại. Âm mưu nầy được tay chân của cộng sản, cùng một số tên thân cộng ở hải ngoại tìm cách thực hiện để mưu lợi, trao đổi buôn bán với cộng sản. Tuy nhiên, dầu cố gắng cách nào đi nữa, âm mưu nầy cũng không thể thành công được, vì lịch sử là những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, không ai có thể sửa đổi được lịch sử, nhất là một khi đã được khắc ghi vào bia miệng thế gian. “Trăm năm bia đá thì mòn,/ Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.”

Ở trong nước, CSVN tham nhũng, bóc lột, cướp đất dân lành, nhượng đất nhượng biển cho Trung cộng, đàn áp dân quyền và nhân quyền, bắt bớ, giam cầm những nhà tranh đấu dân chủ bất bạo động, những người yêu nước biểu tình chống Trung cộng xâm lược. Ở hải ngoại, đời sống đầy đủ, tự do dân chủ, lại có những kẻ không nghĩ đến tương lai dân tộc, không nghĩ đến đồng bào đang đau khổ vì CS ở trong nước, mà chỉ vì một chút danh lợi nhỏ nhoi, tiếp tay tuyên truyền cho CSVN, tiếp tục duy trì nạn độc tài toàn trị trên quê hương Việt Nam, thì tội lỗi nầy cũng không kém gì tội lỗi của CSVN.

Trần Gia Phụng
(Toronto, 9-3-2912)

NGÀY QUỐC HẬN LÀ NGÀY QUỐC HẬN - Trần Gia Phụng



Trần Gia Phụng

Biến cố 30-4-1975 là một sự kiện quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Nhiều sách báo đã viết về biến cố nầy. Nhân sắp đến ngày 30-4, ở đây chỉ xin ôn lại diễn tiến trong ngày 30-4-1975 tại Sài Gòn.

1. DIỄN TIẾN NGÀY 30-4-1975

Từ 26-4-1975, quân cộng sản bao vây Sài Gòn từ năm hướng: hướng bắc (Quân đoàn 1 CS), hướng tây bắc (QĐ 3 CS), hướng đông (QĐ 4 CS), hướng đông nam (QĐ 1 CS), hướng tây và tây nam (Đoàn 232 và SĐ 8 thuộc Quân khu 8 CS). Chiều 26-4, CS bắt đầu tấn công, đánh phá vòng đai phòng thủ bên ngoài, chiếm Long Thành, Trảng Bom, Nhơn Trạch, Bà Rịa, cắt đường số 4 từ Sài Gòn đi miền Tây.

Đối đầu với lực lượng lớn mạnh nầy, quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) bảo vệ thủ đô Sài Gòn chỉ gồm Quân đoàn III (hai sư đoàn 5 và 18), các chiến đoàn tập họp từ các sư đoàn của QĐ I và QĐ II di tản vào Sài Gòn, các lữ đoàn TQLC, Dù, các liên đoàn BĐQ, một số trung đoàn Pháo binh, Kỵ binh thiết giáp và Nghĩa quân, Địa phương quân. Các đơn vị nầy đều thiếu quân vì trước đó đã bị tấn công, phải di tản, đồng thời thiếu trang bị võ khí, đạn dược và thiếu nhiên liệu cần thiết.

Chiều 28-4, ngay sau khi cựu đại tướng Dương Văn Minh vừa nhận chức tổng thống, 5 chiếc A-37 trước đây của Không quân VNCH bị CS tịch thu, nay dưới sự hướng dân của Nguyễn Thành Trung, cựu trung úy phi công VNCH, vốn là đảng viên CS cài vào Không quân VNCH, bay đến thả bom sân bay Tân Sơn Nhứt. Tối hôm đó, CS tiếp tục pháo kích vào sân bay Tân Sơn Nhứt làm hỏng các phi đạo. Phi trường không thể sử dụng được, nên phải dùng trực thăng đề di tản.

Hôm sau 29-4, CS chiếm được các căn cứ Nước Trong, Long Bình, thành Tuy Hạ (quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa), Đồng Dù (Củ Chi), Hậu Nghĩa. Sáng 30-4 quân CS bắt đầu tiến vào nội thành Sài Gòn. Trước sự đe dọa của CSVN, ảo vọng thương thuyết của Dương Văn Minh hoàn toàn tan vỡ. Cuối cùng, lúc 10G 24 phút sáng 30-4-1975, qua đài phát thanh Sài Gòn, Dương Văn Minh, với tư cách tổng thống tổng tư lệnh quân đội, nhận chức trước đó hai ngày, ra lệnh toàn thể quân đội VNCH ngưng chiến đấu, hạ khí giới. Sau đây là nguyên văn lời Dương Văn Minh:

“Đường lối, chủ trương của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu của người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu thì ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng, vì chúng tôi ở đây đang chờ gặp chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào.” (Trần Đông Phong, Việt Nam Cộng Hòa, 10 ngày cuối cùng, Fountain Valley, CA: Nxb. Nam Việt, 2006, tr. 358)

Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, tổng tham mưu phó quân đội VNCH, thay mặt trung tướng Vĩnh Lộc, tổng tham mưu trưởng (vắng mặt), ra lệnh cho tất cả quân nhân các cấp phải nghiêm chỉnh thi hành lệnh của tổng thống Dương Văn Minh.

Lúc 11G 30 phút ngày 30-4-1975, xe tăng của Đại đội 4, Lữ đoàn Thiết giáp 203 CS tiến vào dinh Độc Lập. Lúc đó, một số cán bộ Trung đoàn 66 thuộc Sư đoàn 304 CS, do đại úy trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ dẫn đầu, đến phòng họp dinh Độc Lập, nơi có mặt tổng thống Dương Văn Minh và nội các của thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Đại úy Thệ đã nói thẳng với Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu rằng các ông bị bắt làm tù, phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện và không có gì bàn giao cả. Sau đó, quân CS áp tải Dương Văn Minh tới đài Phát thanh để đọc lời tuyên bố đầu hàng. Tại đài phát thanh, các sĩ quan CS soạn tại chỗ lời đầu hàng, và buộc cựu đại tướng Dương Văn Minh phải đọc như sau:

“Tôi, đại tướng Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn, kêu gọi quân đội Việt Nam Cộng Hòa hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn, từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn, giao toàn chính quyền từ trung ương đến địa phương lại cho chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.” (google.com.vn) (vào chữ Dương Văn Minh, tìm 30-4.)

Trước áp lực của họng súng quân thù, cựu đại tướng Dương Văn Minh đành phải đọc bản văn do CS soạn sẵn, “kêu gọi quân đội Việt Nam Cộng Hòa hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam.” Quân đội VNCH liền ngưng chiến đấu, tự nhiên rã ngủ, trong khi còn nhiều đơn vị vẫn muốn tiếp tục chống cộng, nhất là Quân đoàn IV vẫn còn nguyên vẹn, chưa thất trận. Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn sụp đổ.

2. NGÀY QUỐC HẬN

Thông thường, người ta tản cư hay di tản khi chiến tranh bùng nổ. Người ta bỏ chạy để tránh lửa đạn. Đàng nầy, chiến tranh chấm dứt ngày 30-4-1975, lửa đạn không còn, mà người ta bỏ chạy, chạy xa thật xa, nghĩa là người ta sợ cái gì còn hơn lửa đạn.

Ngay khi CS chiếm Sài Gòn, khoảng 150,000 người Việt bỏ ra nước ngoài, trong đó khoảng 140,000 đến Hoa Kỳ và khoảng 10,000 đến các nước khác. (Nguồn: UNHCR, The State of the World's Refugees - Fifty Years of Humanitarian Actions, ch. 4, tr. 81.) Cộng sản Việt Nam tố cáo những người di tản là tay sai đế quốc Mỹ. Theo luận điệu nầy, trưa ngày 30-4-1975, Trịnh Công Sơn lên đài phát thanh Sài Gòn phát biểu rằng: “Những kẻ ra đi chúng ta xem như là đã phản bội đất nước.” (Trích nguyên văn: http://ngoclinhvugia.wordpress.com/). Viên nhạc sĩ nầy còn hát bài “Nối vòng tay lớn”, nhưng dân chúng không chấp nhận vòng tay lớn của CS, tiếp tục ra đi dù bị kết tội “phản quốc”.

Sau ngày 30-4-1975, càng ngày càng có nhiều người kiếm cách ra nước ngoài, dầu phải hy sinh chính mạng sống của mình, tạo thành phong trào vượt biên. Theo thống kê của Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc đưa ra năm 2000, từ ngày 30-4-1975 cho đến cuối năm 1995, tổng số người di tản và vượt biên đến được các trại tỵ nạn là 989,100 (gần một triệu) kể cả đường biển lẫn đường bộ. Người ta phỏng chừng có khoảng từ 400,000 đến 500,000 thuyền nhân bỏ mình trên biển cả hay bị hải tặc bắt giết. Ngoài ra, phải kể thêm số người rời Việt Nam qua các hải đảo nhưng không đậu thanh lọc và bị đuổi về nước. Nếu kể thêm chương trình ODP (Orderly Departure Program) và chương trình HO do chính phủ Hoa Kỳ tài trợ, đưa vài trăm ngàn người nữa ra nước ngoài bằng đường chính thức, thì tổng cộng tất cả các số liệu trên đây, sau khi CS chiếm miền Nam Việt Nam, trên 1,500,000 người Việt đã bỏ nước ra đi.

Đây chỉ là những người có điều kiện ra đi. Còn biết bao nhiêu người muốn ra đi mà không đi được. Nghệ sĩ TrầnVăn Trạch đã từng nói một câu bất hủ: "Ở Việt Nam hiện nay, cây cột đèn cũng muốn ra đi.”

Trước khi quân cộng sản vào Sài Gòn, nhiều chức quyền cao cấp VNCH đã di tản ra nước ngoài. Trong số các chức quyền ở lại, có phó tổng thống rồi tổng thống Trần Văn Hương. Ngày 28-4-1975, trước khi bàn giao chức vụ tổng thống cho Dương Văn Minh, đại sứ Pháp ở Sài Gòn cho người đến mời tổng thống Hương di tản. Ông Hương trả lời: “Nếu trời hại, nước tôi mất, tôi xin thề là tôi sẽ ở lại đây và mất theo nước mình.” Sau khi Trần Văn Hương giao quyền tổng thống cho Dương Văn Minh tối 28-4, thì hôm sau, ngày 29-4 đích thân đại sứ Hoa Kỳ là Graham Martin đến gặp Trần Văn Hương và mời ông ra đi. Trần Văn Hương trả lời như sau: “Thưa ông đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có một phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cảm ơn ông đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ và dứt khoát ở lại với nước tôi. Tôi cũng dư biết rằng cộng sản vào được Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ, nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia sẻ với họ một phần nào niềm đau khổ tủi nhục, nỗi thống khổ của người dân mất nước. Cảm ơn ông đại sứ đã đến viếng tôi.” Sau khi nghe Trần Văn Hương trả lời, Martin nhìn trân trân vào ông Hương, rồi ra đi mà chẳng bắt tay từ biệt. (Trần Đông Phong, sđd. tt. 352-355.)

Trần Văn Hương thấy trước và nói rất đúng: “Tôi cũng dư biết rằng cộng sản vào được Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ, nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam.” Nước mất là mất tất cả. Mất tất cả các quyền tự do dân chủ, cả tôn giáo, văn hóa, mất tài sản, nhà cửa, đất đai, ruộng vườn, có người mất luôn cả thân nhân nữa. Trước ngày 30-4-1975, dầu chưa hoàn thiện, dầu bị giới hạn vì chiến tranh, chế độ Cộng hòa vẫn là chế độ tự do, dân chủ, tôn trọng dân quyền và nhân quyền.

Khi mới chiếm được miền Nam, cộng sản bắt ngay sĩ quan, công chức, cán bộ của VNCH còn lại trong nước giam giữ dài hạn, không tuyên án trên các vùng rừng thiêng nước độc. Số lượng sĩ quan, công chức và cán bộ VNCH bị bỏ tù khoảng hơn 1,000,000 người tại trên 150 trại giam; theo đó, khoảng 500,000 được thả về trong 3 tháng đầu, 200,000 bị giam từ 2 đến 4 năm, 250,000 bị giam ít nhất 5 năm, và năm 1983 (tức sau 8 năm) còn khoảng 60,000 người bị giữ lại. (Spencer C. Tucker, Encyclopedia of the Vietnam War, a Political, Social, and Military History, Volume Two, Santa Barbara, California, 1998, tr. 602.) Số liệu nầy theo dư luận chung, còn thấp hơn so với số lượng người và số năm bị thực giam. Ngoài ra, trong số trên 1,000,000 người bị tù sau năm 1975, theo những cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Âu Châu, có khoảng 165,000 nạn nhân đã từ trần trong các trại tù "cải tạo". (Anh Do & Hieu Tran Phan, “Millions of lives changed forever with Saigon's fall”, nhật báo Orange County Register, số ngày Chủ Nhật, 29-4-2001, phụ trang đặc biệt về ngày 30-4, tt. 2-3.) Sau khi bắt giam hàng triệu công chức quân nhân trên toàn cõi miền Nam Việt Nam, cộng sản trấn áp dân chúng miền Nam bằng nhiều phương thức khác nhau:

Thực hiện chế độ hộ khẩu, ai ở đâu ở yên đó, không được di chuyển, không có quyền tự do đi lại. Muốn đi lại phải xin giấy phép khó khăn. Về kinh tế, cộng sản đổi tiền nhiều lần một cách tàn bạo. (Đổi lần đầu ngày 22-9-1975, 500 đồng VNCH lấy 1 đồng mới. Đổi lần thứ hai ngày 3-5-1978 và lần thứ ba ngày 14-9-1985.) Cộng sản tổ chức đánh tư sản mại bản, tư sản dân tộc, tư sản nhỏ (tiểu tư sản), lục soát nhà cửa, tịch thu vàng thật, rồi lập biên bản là “kim loại có màu vàng”, để đổi vàng giả.

Cộng sản cướp nhà cửa, buộc những người khá giả phải hiến đất, hiến nhà để khỏi bị tù. Tại thành phố, CS đưa vào quốc doanh tất cả những xí nghiệp, cơ sở kinh doanh do CS quản lý. Tại nông thôn, CS quốc hữu hóa toàn thể đất đai, ruộng vườn; nông dân phải vào hợp tác xã, làm việc chấm công để lãnh lúa, dân chúng gọi là “lúa điểm” tức “liếm đũa”. Cộng sản buộc dân chúng phải đi kinh tế mới, sống trên những vùng khô cằn, nghèo khổ. Cộng sản thi hành chính sách ngăn sông cấm chợ, để CS độc quyền lưu thông và phân phối hàng hóa. Tất cả chính sách của CS nhắm làm cho dân chúng nghèo khổ cho CS dễ cai trị.

Chính sách cai trị của CS sau năm 1975 đưa Việt Nam đến bờ vực thẳm, nguy hại cho chính CS. Trước tình hình đó, CS mở phong trào đổi mới từ năm 1985. Cộng sản đổi mới để tự cứu mình chứ không phải để cứu dân tộc Việt Nam. Từ đó, Việt Nam thay đổi dần dần, nhất là từ khi Việt Nam gia nhập WTO vào đầu 2007. Tuy nhiên dầu đổi mới về kinh tế nhưng cộng sản vẫn duy trì độc quyền chính trị, lo sợ "diễn biến hòa bình", định hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa, không cho tự do báo chí, bóp nghẹt tự do dân chủ, không tôn trọng dân quyền và nhân quyền. Cho đến nay, ở trong nước chưa có một tờ báo tư nhân, chưa có một tổ chức hay đoàn thể chính trị nào đứng ngoài quốc doanh.

Như thế, ngày CS vào Sài Gòn, chấm dứt chế độ VNCH, là một biến cố lịch sử có tầm vóc lớn lao, làm thay đổi dòng sinh mệnh dân tộc, ảnh hưởng lâu dài cho đến ngày nay. Ngày 30-4 cũng là ngày mở đầu thảm họa chẳng những cho dân chúng miền Nam mà cho cả toàn dân Việt Nam khi chế độ cộng sản càng ngày càng bạo tàn, tham nhũng và nhất là lộ rõ bộ mặt tay sai Trung cộng, dâng đất, nhượng biển, quy lụy Bắc Kinh để duy trì quyền lực. Vì vậy dân chúng gọi ngày nầy là ngày Quốc hận. Hai chữ Quốc hận do dân chúng tự động đặt tên cho ngày 30-4 và truyền khẩu với nhau thành danh xưng chính thức, chứ không có một chính phủ, hay một đoàn thể chính trị nào đặt ra. “Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.”

3. NGÀY QUỐC HẬN LÀ NGÀY QUỐC HẬN

Những người vượt biên được gọi chung là thuyền nhân. Thuyền nhân là từ ngữ được dịch từ chữ “boat people” trong tiếng Anh, xuất hiện từ cuối thập niên 70 để chỉ những người Việt bỏ nước ra đi sau khi cộng sản cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam.

Người Việt vốn ràng buộc với đất đai, ruộng vườn, chỉ ra đi trong hoàn cảnh bất đắc dĩ mà thôi Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, số lượng người Việt bỏ nước ra đi lên đến hàng triệu người. Đặc điểm nổi bật của phong trào thuyền nhân là tất cả những người vượt biên đều tự nguyện ra đi, tự mình muốn ra đi, hoàn toàn tự phát ra đi theo từng gia đình, từng nhóm nhỏ. Không có một đảng phái, một thế lực chính trị hay một nước ngoài nào can thiệp hay tổ chức cho thuyền nhân ra đi. Có khi, nhà cầm quyền CS lợi dụng lòng khao khát ra đi tìm tự do của dân chúng để bán bãi, hay tổ chức vượt biên bán chính thức nhằm lấy vàng. Dầu ra đi trong kế hoạch mà CS gọi là “bán chính thức”, người ra đi vẫn là những người tự nguyện muốn rời bỏ Việt Nam để tránh nạn độc tài cộng sản.

Như thế, vượt biên hay thuyền nhân là một phong trào của vài triệu người, kéo dài trong nhiều năm và nhiều địa điểm khác nhau. Phong trào nầy là hậu quả của ngày Quốc hận 30-4. Ngày 30-4 là ngày đánh dấu sự thành công của chế độ độc tài toàn trị, gây tang thương cho dân tộc Việt Nam. Nỗi đau nầy càng ngày càng nhân lên khi CSVN càng ngày càng đàn áp phong trào dân chủ quốc nội. Chỉ vì lòng yêu nước, người Việt biểu tình phản đối Trung Quốc xâm lược mà cũng bị CSVN bắt giam thì trên thế giới, chuyện nầy chỉ xảy ra ở Việt Nam.

Hai sự kiện ngày Quốc hận 30-4 và Phong trào thuyền nhân hoàn toàn khác nhau và không thể lẫn lộn nhau. Ngày 30-4 là ngày kỷ niệm Quốc hận của toàn dân. Phong trào thuyền nhân ban đầu chỉ khoảng 1,500,000 người. Nếu ngày nay, dân số thuyền nhân phát triển lên khoảng 3,000,000, thì ở trong nước, dân số tăng lên mấy chục triệu người.

Vì vậy, để kỷ niệm phong trào vượt biên, ngày 28-4-2009, toàn thể Hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua nghị quyết số 342 do dân biểu liên bang Hoa Kỳ gốc Việt Nam là Cao Quang Ánh đề xướng, ấn định ngày 2-5-2009 là “Ngày Vinh Danh Người Tỵ Nạn Việt Nam” tại Hoa Kỳ (tức thuyền nhân Việt cộng them những người ra đi theo chương trình ODP và HO). Sau đó, ngày 12-8-2009, Hội đồng thành phố Westminster, (thuộc Orange County, tiểu bang California) thông qua nghị quyết số 4257, ấn định ngày Thứ Bảy cuối cùng của mỗi tháng Tư hằng năm là “Ngày Thuyền Nhân Việt Nam”. Westminster là thành phố có Tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ, khánh thành ngày 27-4-2003, và từ đó là nơi diễn ra lễ Kỷ niệm ngày Quốc hận hàng năm của Cộng đồng Người Việt Tỵ nạn CS.

Cả hai nghị quyết trên đây đều chọn một ngày khác với ngày 30-4 để kỷ niệm phong trào thuyền nhân, nhằm tránh làm mất ý nghĩa quan trọng của ngày Quốc hận 30-4. Chỉ có cộng sản và những người làm tay sai cho CS mới cố tình vận động chuyển đổi ngày Quốc hận 30-4 thành ngày Thuyền nhân, nhằm làm giảm nhẹ tội lỗi của cộng sản Việt Nam trước lịch sử, trong khi tội lỗi của cộng sản đối với dân tộc Việt Nam không thể xóa bỏ được.

Mưu toan nầy hoàn toàn thất bại vì Cộng đồng Người Việt Hải ngoại quyết liệt phản đối, chỉ vì một lý do đơn giản, thật đơn giản: NGÀY QUỐC HẬN LÀ NGÀY QUỐC HẬN, không thể nào khác hơn được và không có chữ nào đúng hơn được.

Trần Gia Phụng
(Toronto, 01-02-2012)


Monday, February 27, 2012

”Cuộc đời và cái chết rất buồn của một người chính trực“

Mai Thanh Truyết

Bà Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (DQH) vừa nằm xuống ngày thứ bảy 25–2–2006 tại Sài Gòn, và cũng vừa được hỏa táng vào ngày thứ ba 28/2. Báo chí trong nước cho đến hôm nay, không hề loan tải tin tức trên. Đài BBC có phỏng vấn Ông Võ Nhơn Trí ở Pháp về tin nầy và phát đi ngày 28/2.

Sự im lặng của Việt Nam khiến cho người viết thấy có nhu cầu trang trãi và chia xẻ một số suy nghĩ về cái chết của BS DQH để từ đó rút ra thêm một kinh nghiệm sống về tính chất “chuyên chính vô sản” của những người cầm quyền tại Việt Nam hiện tại.

Ô. Bà DQH và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam

BS DQH là một người sống trong một gia đình theo Tây học, có uy tín và thế lực trong giới giàu có ở Sài Gòn từ thập niên 40. Cha là GS Dương Minh Thới và anh là LS Dương Trung Tín; gia đình sống trong một biệt thự tại đường Bà Huyện Thanh Quan xéo góc Bộ Y tế (VNCH) nằm trên đường Hồng Thập Tự. LS Tín đã bị ám sát tại Đà Lạt trong đó cái chết của ông cũng không được soi sáng, nhưng đa phần có nhiều nghi vấn là do lý do chính trị vì ông có khuynh hướng thân Pháp thời bấy giờ.

Về phần Bà Hoa, được đi du học tại Pháp vào cuối thập niên 40, đã đỗ bằng Bác sĩ Y khoa tại Paris và về lại Việt Nam vào khoảng 1957 (?). Bà có quan niệm cấp tiến và xã hội, do đó Bà đã gia nhập vào Đảng CS Pháp năm 1956 trước khi về nước.

Từ những suy nghĩ trên, Bà hoạt động trong lãnh vực y tế và lần lần được móc nối và gia nhập vào Đảng CSVN. Tháng 12/1960, Bà trở thành một thành viên sáng lập của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN dưới bí danh Thùy Dương, nhưng còn giữ bí mật cho đến khi Bà chạy vô “bưng” qua ngõ Ba Thu –Mỏ Vẹt xuyên qua Đồng Chó Ngáp. Ngay sau biến cố Tết Mậu Thân, tin tức trên mới được loan tải qua đài phát thanh của Mặt Trận.

Khi vào trong bưng, Bà gặp GS Huỳnh Văn Nghị (HVN) và kết hôn với GS. Trở qua GS Huỳnh Văn Nghị, Ông cũng là một sinh viên du học tại Pháp, đỗ bằng Cao học (DES) Toán. Về VN năm 1957, ông dạy học tại trường Petrus Ký trong hai năm, sau đó qua làm ở Nha Ngân sách và Tài chánh. Ông cũng có tinh thần thân Cộng, chạy vô “bưng” năm 1968 và được kết nạp vào đảng sau đó.

Do “uy tín” chính trị quốc tế của Bà Hoa thời bấy giờ rất cao, Mặt Trận, một lá bài của CS Bắc Việt, muốn tận dụng uy tín nầy để tạo sự đồng thuận với chính phủ Pháp hầu gây rối về mặt ngoại giao cho VNCH và đồng minh Hoa Kỳ. Từ những lý do trên, Bà Hoa là một người rất được lòng Bắc Việt, cũng như Ông Chồng là GS HVN cũng được nâng đở theo. Vào đầu thập niên 70, Ông được chuyển ra Bắc và được huấn luyện trong trường đảng. Tại đây, với một tinh thần thông thoáng dân tộc, cộng thêm nhiều lý luận toán học, Ông đã phân tích và chứng minh những lý thuyết giảng dạy ở trường đảng đều không có căn bản lý luận vững chắc và Ông tự quyết định rời bỏ không tiếp tục theo học trường nầy nữa.

Nhưng chính nhờ uy tín của Bà DQH trong thời gian nầy cho nên ông không bị trở ngại về an ninh. Cũng cần nên nói thêm là ông đã từng được đề cử vào chức vụ Bộ trưởng Kinh tế nhưng ông từ chối.

Ô.B DQH và Đảng Cộng sản VN

Chỉ một thời gian ngắn sau khi CS Bắc Việt giải tán Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, Ô Bà lúc đó mới vỡ lẽ ra. Về phần Ô HVN, ông hoàn toàn không hợp tác với chế độ. Năm 1976, trong một buổi ăn tối với 5 người bạn thân thiết, có tinh thần “tiến bộ”, Ông đã công khai tuyên bố với các bạn như sau: ”Các “toi” muốn trốn thì trốn đi trong lúc nầy. Đừng chần chờ mà đi không kịp. Nếu ở lại, đừng nghĩ rằng mình đã có công với “cách mạng” mà “góp ý” với đảng”. Ngay sau đó, một trong người bạn thân là Nguyễn Bá Nhẫn vượt biên và hiện cư ngụ tại Pháp. Còn 4 người còn lại là Lý Chánh Trung (giáo sư văn khoa Sài Gòn), Trần Quang Diệu (TTKý Viện Đại học Đà Lạt), Nguyễn Đình Long (Nha Hàng không Dân sự), và một người nữa người viết không nhớ tên không đi. Ông Trung và Long hiện còn ở Việt Nam, còn ông Diệu đang cư ngụ ở Canada.

Trở lại BS DQH, sau khi CS chiếm đóng miền Nam tháng 4/1975, Bà Hoa được “đặt để” vào chức vụ Tổng trưởng Y tế, Xã hội, và Thương binh trong nội các chính phủ. Vào tháng 7/75, Hà Nội chính thức giải thể chính phủ Lâm thời và nắm quyền điều hành toàn quốc, chuyển Bà xuống hàng Thứ trưởng và làm bù nhìn như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thị Định. Chính trong thời gian nầy Bà lần lần thấy được bộ mặt thật của đảng CS và mục tiêu của họ không phải là phục vụ đất nước Việt Nam mà chính là làm nhiệm vụ của CS quốc tế là âm mưu nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á.

Vào khoảng cuối thập niên 70, Bà đã trao đổi cùng Ô Nguyễn Hữu Thọ: ”Anh và tôi chỉ đóng vai trò bù nhìn và chỉ là món đồ trang sức rẻ tiền cho chế độ. Chúng ta không thể phục vụ cho một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ. Vì vậy tôi thông báo cho anh biết là tôi sẽ trả lại thẻ Đảng và không nhận bất cứ nhiệm vụ nào trong chính phủ cả”. Đến năm 1979, Bà chính thức từ bỏ tư cách đảng viên và chức vụ Thứ trưởng. Dĩ nhiên là Đảng không hài lòng với quyết định nầy; nhưng vì để tránh những chuyện từ nhiệm tập thể của các đảng viên gốc miền Nam, họ đề nghị Bà sang Pháp. Nhưng sau cùng, họ đã lấy lại quyết định trên và yêu cầu Bà im lặng trong vòng 10 năm.

Mười năm sau đó, sau khi được “phép” nói, Bà nhận định rằng Đảng CS Việt Nam tiếp tục xuất cảng gạo trong khi dân chúng cả nước đang đi dần đến nạn đói. Và nghịch lý thay, họ lại yêu cầu thế giới giúp đỡ để giải quyết nạn nghèo đói trong nước. Trong thời gian nầy Bà tuyên bố: ”Trong hiện trạng của Đất Nước hiện tại (thời bấy giờ), xuất cảng gạo tức là xuất cảng sức khỏe của người dân” Và Bà cũng là một trong những người đầu tiên lên tiếng báo động vào năm 1989 cho thế giới biết tệ trạng bán trẻ em Việt Nam ngay từ 9, 10 tuổi cho các dịch vụ tình dục trong khách sạn và các khu giải trí dành cho người ngoại quốc do các cơ quan chính phủ và quân đội điều hành.

Sau khi rời nhiệm vụ trong chính phủ, Bà trở về vị trí của một BS nhi khoa. Qua sự quen biết với giới trí thức và y khoa Pháp, Bà đã vận động được sự giúp đỡ của hai giới trên để thành lập Trung Tâm Nhi Khoa chuyên khám và chữa trị trẻ em không lấy tiền và Bà cũng được viện trợ thuốc men cho trẻ em Việt Nam suy dinh dưỡng nhất là acid folic và các loại vitamin. Nhưng tiếc thay, số thuốc trên khi về Việt Nam đã không đến tay Bà mà tất cả được chuyển về Bắc. Bà xin chấm dứt viện trợ, nhưng lại được “yêu cầu” phải xin lại viện trợ vì … nhân dân (của Đảng!). Về tình trạng trẻ con suy dinh dưỡng, với tính cách thông tin, chúng tôi xin đưa ra đây báo cáo của Bà Anneke Maarse, chuyên gia tư vấn của UNICEF trong hội nghị ngày 1/12/03 tại Hà Nội: ”Hiện Việt Nam có 5,1 triệu người khuyết tật chiếm 6,3% trên tổng số 81 triệu dân. Qua khảo sát tại 648 gia đình tại ba vùng Phú Thọ, Quảng Nam và Tp HCM cho thấy có tới 24% trẻ em tàn tật dạng vận động, 92,3% khuyết tật trí tuệ, và 19% khuyết tật thị giác lẫn ngôn ngữ. Trong số đó tỷ lệ trẻ em khuyết tật bẩm sinh chiếm tới 72%”.

Vào năm 1989, Bà đã được ký giả Morley Safer, phóng viên của đài truyền hình CBS phỏng vấn. Những lời phỏng vấn đã được ghi lại trong cuốn sách của ông dưới tựa đề Flashbacks on Returning to Việt Nam do Random House, Inc. NY, 1990 xuất bản. Qua đó, một sự thật càng sáng tỏ là con của Bà, Huỳng Trung Sơn bị bịnh viêm màng não mà Bà không có thuốc để chữa trị khi còn ở trong bưng và đây cũng là một sự kiện đau buồn nhất trong đời Bà. Cũng trong cuốn sách vừa kể trên, Bà cũng đã tự thú là đã sai lầm ở một khoảng thời gian nào đó. Nhưng Bà không luyến tiếc vì Bà đã đạt được mục đích là làm cho những người ngoại quốc ra khỏi đất nước Việt Nam.

Sau cùng, chúng tôi xin liệt kê ra đây hai trong những nhận định bất hủ của BS DQH là: ”Trong chiến tranh, chúng tôi sống gần nhân dân, sống trong lòng nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm an toàn trong tay rồi, đảng đã xem nhân dân như là một kẻ thù tiềm ẩn”. Và khi nhận định về bức tường Bá Linh, Bà nói: ”Đây là ngày tàn của một ảo tưởng vĩ đại”.

BS DQH và Vụ kiện Da Cam

Theo nhiều nguồn dư luận hải ngoại, trước khi ký kết Thương ước Mỹ-Việt dưới nhiệm kỳ của Tổng thống Clinton, hai chính phủ đã đồng ý trong một cam kết riêng không phổ biến là Việt Nam sẽ không đưa vụ Chất độc màu Da cam để kiện Hoa Kỳ, và đổi lại, Mỹ sẽ ký thương ước với Việt Nam và sẽ không phủ quyết để Việt Nam có thể gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong tương lai.

Có lẽ vì “mật ước” Mỹ-Việt vừa nêu trên, nên Việt Nam cho thành lập Hội Nạn nhân chất Độc Da cam/Dioxin Việt Nam ngày 10/1/2004 ngay sau khi có quyết định chấp thuận của Bộ Nội vụ ngày 17/12/2003. Đây là một Hội dưới danh nghĩa thiện nguyện nhưng do Nhà Nước trợ cấp tài chính và kiểm soát. Ban chấp hành tạm thời của Hội lúc ban đầu gồm:

- Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó chủ tịch nước làm Chủ tịch danh dự;
- Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị QĐND làm Chủ tịch;
- GS,BS Nguyễn Trọng Nhân, nguyên Bộ trưởng Y tế, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam làm Phó Chủ tịch;
- Ô Trần Văn Thụ làm Thư ký.

Trong buổi lễ ra mắt, Bà Bình đã khẳng định rõ ràng rằng:”Chính phủ Mỹ và các công ty sản xuất chất độc hoá học da cam phải thừa nhận trách nhiệm tinh thần, đạo đức và pháp lý. Những người phục vụ chính thể Việt NamCộng Hòa cũ ở miền Nam không được đưa vào danh sách trợ cấp”.

Theo một bản tin của Thông tấn xã Việt Nam thì đây là một tổ chức của những nạn nhân chất Da cam, cũng như các cá nhân, tập thể tự nguyện đóng góp để giúp các nạn nhân khắc phục hậu quả chất độc hoá học và là đại diện pháp lý của các nạn nhân Việt Nam trong các quan hệ với các tổ chức và cơ quan trong cũng như ngoài nước. Thế nhưng, trong danh sách nạn nhân chất da cam trong cả nước được Việt Nam ước tính trên 3 triệu mà chính phủ đã thiết lập năm 2003 để cung cấp tiền trợ cấp hàng tháng, những nạn nhân đã từng phục vụ cho VNCH trước đây thì không được đưa vào danh sách nầy (Được biết năm 2001, trong Hội nghị Quốc tế tại Hà Nội, số nạn nhân được Việt Nam nêu ra là 2 triệu!). Do đó có thể nói rằng, việc thành lập Hội chỉ có mục đích duy nhất là hỗ trợ cho việc kiện tụng mà thôi.

Vào ngày 30/1/2004, Hội đã nộp đơn kiện 37 công ty hóa chất ở Hoa Kỳ tại tòa án liên bang Brooklyn, New York do luật sư đại diện cho phía Việt Nam là Constantine P. Kokkoris. (Được biết LS Kokkoris là một người Mỹ gốc Nga, đã từng phục vụ cho tòa Đại sứ Việt ở Nga Sô và có vợ là người Việt Nam họ Bùi). Hồ sơ thụ lý gồm 49 trang trong đó có 240 điều khoảng. Danh sách nguyên đơn liệt kê như sau:

- Hội Nạn nhân Chất Da cam/Dioxin Việt Nam;
- Bà Phan Thị Phi Phi, giáo sư Đại học Hà Nội;
- Ông Nguyễn Văn Quý, cựu chiến binh tham chiến ở miền Nam trước 1975, cùng với hai người con là Nguyễn Quang Trung (1988) và Nguyễn Thị Thu Nga (1989);
- Bà Dương Quỳnh Hoa, Bác sĩ, nguyên Bộ trưởng Y tế Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, và con là Huỳnh Trung Sơn; và
- Những người cùng cảnh ngộ.

Đây là một vụ kiện tập thể (class action) và yêu cầu được xét xử có bồi thẩm đoàn. Các đương đơn tố các công ty Hoa Kỳ đã vi phạm luật pháp quốc tế và tội ác chiến tranh, vi phạm luật an toàn sản phẩm, cẩu thả và cố ý đả thương, âm mưu phạm pháp, quấy nhiễu nơi công cộng và làm giàu bất
chánh để (1) đòi bồi thường bằng tiền do thương tật cá nhân, tử vong, và dị thai và (2) yêu cầu tòa bắt buộc làm giảm ô nhiễm môi trường, và (3) để hoàn trả lại lợi nhuận mà các công ty đã kiếm được qua việc sản xuất thuốc khai quang.

Không có một bằng chứng nào được đính kèm theo để biện hộ cho các cáo buộc, mà chỉ dựa vào tin tức và niềm tin (nguyên văn là upon information and belief). Tuy nhiên, đơn kiện có nêu đích danh một số nghiên cứu mới nhất về dioxin của Viện Y khoa thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ, công ty cố vấn Hatfield Consultants của Canada, Bác sĩ Arnold Schecter của trường Y tế Công cộng Houston thuộc trường Đại học Texas, và Tiến sĩ Jeanne Mager Stellman của trường Đại học Columbia, New York.

Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa cũng như quá trình hoạt động của Bà từ những năm 50 cho đến hiện tại. Tên Bà nằm trong danh sách nguyên đơn cũng là một nghi vấn cần phải nghiên cứu cặn kẽ.

Theo nội dung của hồ sơ kiện tụng, từ năm 1964 trở đi, Bà thường xuyên đi đến thành phố Biên Hòa và Sông Bé (?) là những nơi đã bị phun xịt thuốc khai quang nặng nề. Từ năm 1968 đến 1976, nguyên đơn BS Hoa là Tổng trưởng Y tế của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam và ngụ tại Tây Ninh. Trong thời gian nầy Bà phải che phủ trên đầu bằng bao nylon và đã đi ngang qua một thùng chứa thuốc khai quang mà máy bay Mỹ đã đánh rơi. (Cũng xin nói ở đây là chất da cam được chứa trong những thùng phuy 200L và có sơn màu da cam. Chất nầy được pha trộn với nước hay dầu theo tỷ lệ 1/20 hay hơn nữa và được bơm vào bồn chứa cố định trên máy bay trước khi được phun xịt. Như vậy làm gì có cảnh thùng phuy rơi rớt!?).

Năm 1970, Bà hạ sinh đứa con trai tên Huỳnh Trung Sơn (cũng có tên trong đơn kiện như một nguyên đơn, tuy đã mất) bị phát triển không bình thường và hay bị chứng co giật cơ thể. Sơn chết vào lúc 8 tháng tuổi.

Trong thời gian chấm dứt chiến tranh, BS Hoa bắt đần bị chứng ngứa ngáy ngoài da. Năm 1971, Bà có mang và bị sẩy thai sau 8 tuần lễ. Năm 1972, Bà lại bị sẩy thai một lần nữa, lúc 6 tuần mang thai. Năm 1985, BS Hoa đã được chẩn bịnh tiểu đường. Và sau cùng năm 1998 Bà bị ung thư vú và đã được giải phẩu. Năm 1999, Bà được thử nghiệm máu và BS Schecter (Hoa Kỳ) cho biết là lượng Dioxin trong máu của Bà có nồng độ là 20 ppt (phần ức).

Và sau cùng, kết luận trong hồ sơ kiện tụng là: Bà BS Hoa và con là nạn nhân của chất độc Da cam.
Qua những sự kiện trên chúng ta thấy có nhiều điều nghịch lý và mâu thuẫn về sự hiện diện của tên Bà trong vụ kiện ở Brooklyn?

Để tìm giải đáp cho những điều nghịch lý trên, chúng tôi xin trích dẫn những phát biểu của Bà trong một cuộc tiếp xúc thân hữu tại Paris trung tuần tháng 5/2004. Theo lời Bà (từ miệng Bà nói, lời của một người bạn tên VNT có mặt trong buổi tiếp xúc trên) thì “người ta đã đặt tôi vào một sự đã rồi (fait accompli)“.

Tên tôi đã được ghi vào hồ sơ kiện không có sự đồng ý của tôi cũng như hoàn toàn không thông báo cho tôi biết. Người ta chỉ đến mời tôi hợp tác khi có một ký giả người Úc thấy tên tôi trong vụ kiện yêu cầu được phỏng vấn tôi. Tôi chấp nhận cuộc gặp gỡ với một điều kiện duy nhất là tôi có quyền nói sự thật, nghĩa là tôi không là người khởi xướng vụ kiện cũng như không có ý muốn kiện Hoa Kỳ trong vấn đề chất độc da cam”. Dĩ nhiên cuộc gặp gỡ giữa Bà Hoa và phóng viên người Úc không bao giờ xảy ra.

Bà còn thêm rằng: ”Trong thời gian mà tất cả mọi người nhất là đảng CS bị ám ảnh về việc nhiễm độc dioxin, tôi cũng đã nhờ một BS Hoa Kỳ khám nghiệm (khoảng 1971) tại Pháp và kết quả cho thấy là lượng dioxin trong máu của tôi dưới mức trung bình (2ppt).”

Đến đây, chúng ta có thể hình dung được kết quả của vụ kiện.Và ngày 10 tháng 3 năm 2005, Ông chánh án Jack Weinstein đã tuyên bố hủy bỏ hoàn toàn vụ kiện tại tòa án Brooklyn, New York.

Bài học được rút ra từ cái chết của BS DQH

Từ những tin tức về đời sống qua nhiều giai đoạn của Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, hôm nay Bà đã đi trọn quãng đường của cuộc đời Bà. Những bước đầu đời của Bà bắt đầu với bầu nhiệt huyết của tuổi thanh niên, lý tưởng phục vụ cho tổ quốc trong sáng. Nhưng chính vì sự trong sáng đó Bà đã không phân biệt và bị mê hoặc bởi những lý thuyết không tưởng của hệ thống cộng sản thế giới. Do đó Bà đã bị lôi cuốn vào cơn gió lốc của cuộc chiến VN. Và Bà đã đứng về phía người Cộng sản.

Khi đã nhận diện được chân tướng của họ, Bà bị vỡ mộng và có phản ứng ngược lại. Nhưng vì thế cô, Bà không thể nào đi ngược lại hay “cải sửa” chế độ. Rất may cho Bà là Bà chưa bị chế độ nghiền nát. Không phải vì họ sợ hay thương tình một người đã từng đóng góp cho chế độ (trong xã hội CS, loại tình cảm tiểu tư sản như thế không thể nào hiện hữu được), nhưng chính vì họ nghĩ còn có thể lợi dụng được Bà trong những mặc cả kinh tế – chính trị giữa các đối cực như Pháp và Hoa Kỳ, trong đó họ chiếm vị thế ngư ông đắc lợi. Vì vậy, họ không triệt tiêu Bà.

Hôm nay, chúng ta có thể tiếc cho Bà, một người Việt Nam có tấm lòng yêu nước nhưng không đặt đúng chỗ và đúng thời điểm; do đó, khi đã phản tỉnh lại bị chế độ đối xử tệ bạc. Tuy nhiên, với một cái chết trong im lặng, không kèn không trống, không một thông tin trên truyền thông về một người đã từng có công đóng góp một phần cho sự thành tựu của chế độ như Bà đã khiến cho chúng ta phải suy nghĩ, suy nghĩ về tính vô cảm của người cộng sản, cũng như suy nghĩ về tính chuyên chính vô sản của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đối với chế độ hiện hành, sẽ không bao giờ có được sự đối thoại bình đẳng, trong đó tinh thần tôn trọng dân chủ dứt khoát không hề hiện hữu như các sinh hoạt chính trị của những quốc gia tôn trọng nhân quyền trên thế giới. Vì vậy, với cơ chế trên, hệ thống XHCN sẽ không bao giờ biết lắng nghe những tiếng nói “đóng góp” đích thực cho công cuộc xây dựng Đất và Nước cả.

Bài học DQH là một bài học lớn cho những ai còn hy vọng rằng cơ hội ngày hôm nay đã đến cho những người còn tâm huyết ở hải ngoại ngõ hầu mang hết khả năng và kỹ năng về xây dựng quê hương. Hãy hình dung một đóng góp nhỏ nhặt như việc cung cấp những thông tin về nguồn nước ở các sông ngòi ở Việt Nam đã bị kết án là vi phạm “bí mật quốc gia” theo Quyết định của Thủ tướng Việt Nam số 212/203/QĐ-TTg ký ngày 21/10/2003. Như vậy, dù là “cùng là máu đỏ Việt Nam” nhưng phải là máu đã “cưu mang” một chủ thuyết ngoại lai mới có thể được xem là chính danh để xây dựng quê hương Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta, những người Việt trong và ngòai nước, còn nặng lòng với đất nước, tưởng cũng cần suy gẫm trường hợp Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa ngõ hầu phục vụ tổ quốc và d dân tộc trong sự thức tỉnh, đừng để bị mê hoặc bởi chủ thuyết cưỡng quyền.

Tổ quốc là đất nước chung – Dân tộc là tất cả thành tố cần phải được bảo vệ và thừa hưởng phúc họa bình đẳng với nhau. Rất tiếc điều này không xảy ra cho Việt Nam hiện tại.

Ghi chú: Ngày 3/3/2006, trên báo SGGP, GS Trần Cửu Kiếm, nguyên ủy viên Ban Quân y miền Nam, một người bạn chiến đầu của Bà trong MTDTGPMN, có viết một bài ngắn để kỷ niệm về BS DQH. Chỉ một bài duy nhứt từ đó đến nay.

Mong tất cả trí thức Việt Nam đặc biệt là trí thức miền Nam học và thấm thía bài học nầy qua trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa.

Mai Thanh Truyết

Sunday, February 5, 2012

Độc nhất vô nhị, chỉ có tại Việt Nam

Xã hội của đỉnh cao trí tệ
Khách sạn cung cấp vợ miễn phí



Đảng Cộng Sản Việt Nam Đã Bán Rẻ Tổ Quốc

    Đảng Cộng Sản Việt Nam Đã Bán Rẻ Tổ Quốc Cho Kẻ Thù Truyền kiếp Của Dân Tộc
Trương Phú Thứ

Từ ngàn xưa, nước Việt Nam có chiều dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu. Cha ông chúng ta đã bao đời đổ máu và mồ hôi, nước mắt tạo dựng nên cơ đồ lừng lẫy dưới Trời Đông Á. Từng tấc đất trên núi cao, mỗi con nước hòa trong đại dương đã thấm nhuần hào kiệt uy dũng của tiền nhân; và con cháu hàng hàng, lớp lớp từ đời nọ sang đời kia hiên ngang xây dựng đất nước ngày thêm tươi tốt, chiến đấu đánh đuổi ngoại xâm, giữ vững toàn vẹn lãnh thổ. Cha ông chúng ta đã khổ công khai sơn phá thạch, bồi sông lấp biển, gầy dựng cho con cháu mảnh vườn sào ruộng, là nơi chôn nhau cắt rốn của đám hậu duệ, là chỗ gửi gấm thân xác tiền nhân lúc mãn phần. Kẻ trước người sau, một lòng sắt son tô điểm sơn hà trong niềm kiêu hãnh của dòng giống Lạc Hồng. Quê Cha đất Mẹ là vành nôi ấp ủ tình tự quê hương, là bầu sữa ngọt ngào nuôi dưỡng đàn con Việt tộc. Đàn con Mẹ Việt Nam bám lấy sào ruộng, ôm lấy mảnh vườn là hương hỏa của ông cha khó công gầy dựng như mầm sống của từng thế hệ.

Đất nước ta đã bao lần đánh đuổi quân xâm lược phương Bắc. Lời thề Diên Hồng còn âm vang trên núi cao. Tiếng hò Sát Đát vẫn xé gió tung bay ra bốn bể.

Nhưng đau đớn tủi nhục, xót xa, ngậm ngùi ! Đảng cộng sản Việt Nam đã ký hai hiệp định về biên giới với Trung cộng vào ngày 30-12-1999 và 25-12-2000. Hai hiệp định này đã cống hiến một phần đất đai ở tuyến cực Bắc tiếp giáp với Trung cộng, và một phần lãnh hải vịnh bắc Việt cho Trung cộng. Biên giới Trung-Việt đã lùi sâu vào lãnh thổ Việt Nam nhiều chỗ đến 12 cây số. Ải Nam Quan không còn nữa. Thác Bản Giốc cũng không còn nữa. Vịnh Bắc Việt đã mất thêm đến 10%. Quê hương Việt Nam đã mất một phần đất đai nơi đó là tổ ấm của nhiều dòng họ từ bao nhiêu đời. Tổ Quốc Việt Nam đã mất đi Hoàng Sa - Trường Sa, là mất đi một phần biển có nhiều dầu khí.

Ngày 27-12-2001; lễ cắm cột mốc thi hành những điều khoản của hiệp định được tổ chức và chiếu trên hệ thống truyền hình toàn quốc. Con dân nước Việt ở khắp mọi miền đất nước thắp nhang hướng về địa đầu tổ quốc khấn nguyện anh linh, tiên tổ, sụt sùi rơi lệ.

Lịch sử nước ta ghi chép, Việt tộc đã nhiều lần đứng lên đánh đuổi quân xâm lược hung hãn phương Bắc. Ngay cả lúc cha ông chúng ta ở trong thế yếu kém nhưng chưa hề bao giờ phải cắt đất nhượng biển cho quân ngoại xâm. Vậy cớ sao đảng cộng sản Việt Nam lại cúi đầu tuân phục mệnh lệnh của quan thầy cộng sản Tầu cắt đất của tổ tiên, xé biển của Tổ Quốc cống hiến cho kẻ thù phương Bắc ?!

Có nhiều giả thuyết được nói đến để tìm hiểu hành động phản phúc của đảng cộng sản Việt Nam. Trước hết, là món nợ khổng lồ đã vay mượn của Trung cộng để tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam Cộng Hòa. Sau đó là sự đền ơn đáp nghĩa đối với một đàn anh cộng sản khổng lồ ngay sát nách, có đủ khả năng để bảo đảm sự an toàn của tập đoàn thống trị Hà Nội. Vì muốn nắm giữ đặc quyền, đặc lợi và đủ sức mạnh để khống chế, áp bức những người cùng huyết thống, đảng cộng sản Việt Nam đã táng tận lương tâm cắt đất, nhượng biển cung phụng những đòi hỏi quái ác của bọn cộng sản Tầu.

Hồn thiêng sông núi Việt, anh linh tiên tổ ngậm ngùi đau xót nhìn những đứa phản tặc vô ơn bạc nghĩa, mang cả gia tài của ông cha đem cống hiến cho ngoại nhân để nắm giữ quyền hành và từ đó, áp đặt một thứ chủ nghĩa độc ác phi nhân xóa bỏ tình tự đạo lý dân tộc.

Đảng cộng sản Việt Nam đã hiện nguyên hình trọn vẹn chỉ là một công cụ vô hồn của một thé lực còn rơi rớt lại của khối cộng sản thế giới.

Phường nghịch tặc của Tổ Quốc đã chỉ vì quyền lợi của bè đảng và cá nhân đã không từ nan bất cứ một hành động phản trắc nào, hầu chỉ cần nắm giữ được quyền hành và tài sản tiền bạc của quốc gia.

Hỡi các bạn trẻ Việt Nam! Giang sơn gấm vóc mà tổ tiên chúng ta đã khổ công khai phá và xây dựng đã bị đảng cộng sản Việt Nam cắt xén dâng hiến cho Trung cộng. Còn nỗi nhục nhằn cay đắng, rách gan, đứt ruột nào hơn; các bạn đã khóc ra máu mắt nhìn bọn thảo khấu bán nước toa rập với lũ giặc phương Bắc đóng những cái mốc ngay trên phần đất hương hỏa của bao dòng họ. Các bạn đã uất hận nghẹn ngào nhìn mồ mã tiền nhân đang bị những bước chân xâm lăng của kẻ thù truyền kiếp giầy xéo. Đảng cộng sản Việt Nam vì nhu cầu sống còn đã nhẫn tâm bán rẻ tổ quốc cho bọn giặc thù phương Bắc.

Các bạn là những sinh viên đang miệt mài đèn sách nơi trường lớp. Các bạn là những viên chức nhà nước đang bị trù dập vì đoàn đảng và bọn tham ô nhũng lạm. Các bạn là những công nhân đang bị hành hạ tức tưởi bởi bọn thực dân mới Đài Loan, Hàn quốc. Các bạn là những người lính đang ngày đêm gian khổ, nhưng bị đảng cộng sản Việt Nam không cho được bảo vệ đất nước. Các bạn là những người lao động đang gục đầu nhục nhằn vì miếng cơm manh áo. Các bạn là những người buôn thúng bán bưng đang cay đắng vì đói nghèo đói bệnh tật.

Các bạn, tất cả hãy ngạo nghễ đứng lên, cùng một lời thề ước, tay trong tay bứt phá xích xiềng nô lệ tư tưởng, tù đầy, cơm áo và thoát ra khỏi bàn tay ác độc của kẻ thù tuyền kiếp phương Bắc.

Các bạn trong quân ngũ hãy quay súng lại làm tròn nhiệm vụ của Tổ Quốc và đồng bào trao phó; các bạn hãy nhận lãnh trách nhiệm với tiền nhân, với đồng bào và lịch sử; cùng nhau vùng lên đạp đổ một chủ thuyết tàn ác do đảng cộng sản Việt Nam áp đặt để độc quyền thống trị.

Các bạn cứ nhìn xem chung quang mình, bọn cán bộ chức quyền giầu có đến mức nào, trong khi bản thân các bạn đang lây lất rau cháo qua ngày. Xương máu của các bạn đang đổ ra con cháu bọn cán bộ đốt tiền bên trời Âu-Mỹ. Mồ hôi nước mắt của các bạn đang đổ ra cho đám chức quyền cao cấp nạp những đồng tiền thuế của dân vào cái túi không đáy của bọn nhà thổ. Tài sản quốc gia đã bị các quan chức lãnh đạo đản cộng sản trấn lột và hiện cất giữ ở các ngân hàng ngoại quốc.

Lớp người trẻ ở Liên Sô cũ, các quốc gia Đông Âu và các nước Á Phi đã đồng loạt đứng lên. Họ, với sức mạnh hào và khí của tuổi trẻ, họ đã làm nên đai cuộc. Các bạn hậu duệ Quang Trung, con cháu Trưng-Triệu lẽ nào nhắm mắt xuôi tay nhìn Tổ Quốc bị đảng cộng sản Việt Nam đem bán rẻ cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc, nhìn đồng bào thân yêu triền miên trong nghèo đói, bệnh tật và dốt nát.

Đức Hưng Đạo Vương ba lần đại phá quân Nguyên đã thống thiết trong Hịch Tướng Sĩ:

"Chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giầy xéo, mà phần mộ cha ông của các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào, chẳng những thân ta kiếplưu đày chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là những người bại trận".

Các bạn hãy đứng lên !

Hùng tâm dũng khí của những người trẻ Việt Nam sẽ cứu nước và dựng lại nước. Nước Việt Nam phải là một dãi đất gấm hoa của tự do dân chủ. Người Việt Nam hào hùng phải được quyền sống trong những điều kiện bình thường của con người. Các bạn là vốn liếng quý giá của nòi giống Việt. Các bạn là tài sản trân quý của dân tộc. Các bạn là nguồn cậy trông, là niềm hy vọng của tiền nhân và đồng bào ruột thịt. Các bạn hãy đứng lên tiêu trừ đảng cộng sản Việt Nam, xóa sổ bọn tôi đòi của kẻ thù phương Bắc. Các bạn sẽ không đơn độc. Đồng bào ở trong cũng như ngoài nước luôn sát cánh bên các bạn bằng nhiều cách. Các quốc gia và những người yêu chuộng tự do dân chủ, tôn trọng hòa bình công lý trên toàn thế giới sẽ cùng đứng bên với các bạn. Các bạn hãy ngạo nghễ đứng lên !

Trương Phú Thứ