Sunday, November 6, 2011

Việt Nam Cộng Hòa Ra Đời Trong Hoàn Cảnh Nào? - Nguyễn Huy Hùng


QUỐC HUY VIỆT NAM CỘNG HÒA
Dấu triện (seal) của Phủ Tổng Thống thời Đệ Nhất Cộng Hoà.

Nguyễn Huy Hùng

Hàng năm cứ đến khoảng cuối tháng 10 qua đầu tháng 11 Dương Lịch là một số người đă từng hưởng nhiều ân huệ của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, lại vận động tổ chức ngày tưởng niệm để ghi nhớ công ơn ông đă thành lập nước VIỆT NAM CỘNG HOÀ tại miền Nam Việt Nam sau khi hoàn tất việc thi hành Hiệp định đình chiến do Pháp và Việt Minh ký tại Genève ngày 21-7-1954.

Nhiều Bạn Trẻ thắc mắc muốn biết hoàn cảnh nào đă đưa đẩy khiến cho ông Ngô Đình Diệm có được cơ hội thành lập nước Việt Nam Cộng Hoà theo khuôn mẫu Tổng Thống Chế của Hiệp chủng Quốc Hoa Kỳ và lên làm Tổng Thống tại miền Nam Việt Nam, nhưng lại không có thì giờ ngồi sưu tập các tài liệu ghi chép các sự kiện lịch sử đă xẩy ra tại Việt Nam trong những năm thuộc thế kỷ 20, nên trăn trở chẳng biết phải làm sao.

Do đó, tôi xin ghi lại dưới đây một số những sự kiện trọng yếu đă xẩy ra tại Việt Nam trong những năm thuộc thế kỷ 20, và hoàn cảnh nào đă giúp cho ông Ngô Đình Diệm có thời cơ trở thành người Anh Hùng tạo dựng ra nước Việt Nam Cộng Hoà vào năm 1956 tại miền Nam Việt Nam.

Nhưng vì tuổi tác đã cao trên 80, trí nhớ cũng suy giảm do ảnh hưởng sau 13 năm chịu cảnh đọa đầy trong các trại tập trung cải tạo lao động khổ sai của chính phủ nước Cộng Hoà xă hội chủ nghiă Việt Nam sau ngày Quốc Hận 30-4-1975, toàn thể đất nước Việt Nam bị đặt dưới quyền thống trị độc tài chuyên chính độc đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam, nên những ghi nhận và suy luận được trình bầy có thể là chủ quan theo hiểu biết nông cạn của tôi, cũng có thể phiến diện hoặc thiếu sót, xin Quý Vị còn minh mẫn vui lòng miễn chấp và bổ túc giúp cho, tôi cám ơn vô cùng.

1. CHIẾN CUỘC TẠI ĐÔNG DƯƠNG XOAY CHIỀU, CHÍNH PHỦ PHÁP PHẢI RÚT QUÂN RA KHỎI VIỆT NAM.

Giữa năm 1949, Trung Cộng thắng thế ở Trung Hoa Lục địa, do đó tình hình chiến trận tại Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh, đặc biệt là tại Bắc Việt trở nên rất sôi động. Tháng 5 năm 1949, Chính phủ Pháp phải cử Tướng Revers sang thanh sát tình hình và nghiên cứu trình kế hoạch đối phó. Sau khi công cán về nước, Tướng Revers đề nghị rút bỏ Cao Bằng (biên giới Việt Nam-Trung Hoa) để:
    1. Gom quân giữ Quốc lộ 4 từ Lạng Sơn đến Tiên Yên;
    2. Củng cố bình định vùng đồng bằng Bắc Việt;
    3. Lấn chiếm cô lập khu Việt Bắc của chủ lực Việt Minh gồm các tỉnh Thái Nguyên, Lào Kay, Tuyên Quang, và Yên Bái.
Chủ định thâm sâu của Pháp là tái lập Thuộc địa Đông Dương dưới hình thức mới, nên không được sự hỗ trợ của Hoa Kỳ. Do đó Pháp e ngại Trung Cộng (chủ nhân ông mới của Trung Hoa Lục địa) xua quân can thiệp hỗ trợ cho Việt Minh Cộng sản, nên phải thu về thủ vùng đồng bằng để bảo toàn lực lượng, và tìm phương kế mới.

Kế hoạch của Tướng Revers đề nghị, được Chính phủ Pháp chấp thuận cho thi hành vào cuối năm 1949. Nhưng vì tại Đông Dương lúc đó, đang có sự bất đồng ý kiến giữa Tướng Carpentier (Tổng Tư lệnh quân Viễn chinh Pháp) tại Saigon và Tướng Alexandri (Tư lệnh đoàn quân tại Bắc Việt), nên măi tới cuối tháng 8 năm 1950 mới thực hiện, mặc dù qua tin tức tình báo, chính phủ Pháp, Cao ủy Đông Dương Pignon, và Tướng Carpentier, đều biết rằng Kế hoạch Revers đă bị tiết lộ.

Phía Việt Minh, không biết bằng cách nào đã dò biết được Kế hoạch Revers, nên tướng Võ Nguyên Giáp với sự trợ giúp trang bị vũ khí đạn dược, huấn luyện quân sĩ, và cố vấn hành quân của Trung Cộng, đã ráo riết chuẩn bị mở màn thử thách khả năng chiến đấu của bộ đội Việt Minh.

Ngày 18-9-1950, các đơn vị Việt Minh được sự yểm trợ của Pháo binh và súng cao xạ bắn máy bay, đã khởi tấn công và chiếm được đồn Đông Khê, rồi bao vây cô lập Cao Bằng. Sau đó thừa thế tiếp tục khai triển mặt trận Cao Bằng-Lạng Sơn, kéo dài cho tới ngày 7-10-1950. Pháp thất bại nặng nề, phải rút bỏ Cao Bằng, Thất Khê, Na Chầm, Đồng Đăng, Lạng Sơn, và Lao Kay.

Trận đánh này đă làm tăng uy thế cho Việt Minh, rúng động tinh thần quân sĩ Pháp tại Đông Dương, cũng như các giới chính trị Pháp và Hoa Kỳ. Dân chúng Pháp bắt đầu gọi cuộc chiến tại Đông Dương là “Chiến tranh sa lầy”, các Đảng phái chính trị Pháp cấu kết với nhau làm áp lực chính trị, khiến các chính phủ Pháp thay phiên nhau sụp đổ liên tục, làm cho tình hình tại cả bên chính quốc lẫn tại Đông Dương ngày một rối rắm thêm. Để gỡ rối, Chính phủ Pháp cố gắng tìm một Tướng làm Tổng Tư lệnh mới thay thế Tướng Carpentier tại Đông Dương. Các Tướng Juin và Tướng Koenig được tham khảo, nhưng 2 ông này từ khước vì Chính phủ Pháp không thể thoả măn được những điều kiện các ông ấy đòi hỏi. Sau cùng, Tướng Jean Marie Gabriel De Lattre De Tassigny được lựa chọn. Ông này nhận lời ngay với một điều kiện duy nhất là phải cho ông ta rộng quyền chỉ huy.

Ngày 7-10-1950, Đại tướng De Lattre được đề cử làm Cao ủy kiêm Tổng Tư lệnh quân Viễn chinh Pháp tại Đông Dương. Đúng 10 ngày sau, Tướng De Lattre lên đường nhậm chức, mang theo cả một Bộ Tham Mưu hùng hậu để làm trụ cột giúp ông ta hoàn thành sứ mạng lớn lao đă nhận lănh. Trong suốt 9 tháng trời ròng ră tiếp theo, ông ta đă chứng tỏ tài lănh đạo chỉ huy và hành quân táo bạo của mình, qua các trận Vĩnh Yên giữa tháng 1-1951 (chết mất người con trai duy nhất là Trung úy Bernard), trận Mạo Khê cuối tháng 3-1951, trận “Bờ Sông Đáy” cuối tháng 5-1951, và đặc biệt là kế hoạch xây dựng “Phòng tuyến Bê tông De Lattre” để bảo vệ đồng bằng Bắc Việt trong Vùng Tam Giác: Moncay, Việt Trì, Ninh Bình, và “Phòng Lũy Hải Phòng”. Tướng De Lattre đă làm cho tinh thần Quân Sĩ được phục hồi, đồng thời tạo được sự tin tưởng của Chính phủ Pháp và các Đồng minh Hoa Kỳ, Anh Cát Lợi,…

Giữa tháng 9-1951, Tướng De Lattre được Chính phủ Pháp cho đi công cán sang Hoa Kỳ xin viện trợ. Có lẽ nhờ trận Việt Minh tấn công quân Pháp tại vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, có sự hiện của quân Trung Cộng trong hàng ngũ quân Việt Minh, y như trận Bắc Hàn tấn công Nam Hàn mà Mỹ và Đồng minh phải can thiệp cũng có sự hiện diện của quân Trung Cộng trong hàng ngũ quân Bắc Hàn, nên Hoa Kỳ thay đổi thái độ đối với Pháp. Nhờ thế, Tướng De Lattre đă xin được Mỹ viện trợ cho Pháp tiếp tục cuộc chiến tại Đông Dương, dưới nhiệm vụ mới là “Ngăn chặn sự bành trướng của Quốc tế Cộng sản ở vùng Đông Nam Á Châu”, mà Việt Minh là tay sai tiền phương của Liên Sô và Trung Cộng. Viện trợ chỉ được chấp thuận với một điều kiện tiên quyết kèm theo là: “Pháp phải thành thực trao trả quyền Độc Lập, Tự do, cho các Chính phủ Quốc gia không Cộng sản tại Đông Dương, và xúc tiến nhanh chóng việc thành lập, huấn luyện, và trang bị quân sự cho các Quốc gia này có đủ khả năng tự vệ, tiêu diệt Cộng sản địa phương, bảo đảm an ninh cho dân chúng phát triển kinh tế. Đặc biệt phải để cho các Quốc gia này có quyền Tự do giao thương trực tiếp với tất cả các nước Tư bản, ngoài khối Liên Hiệp Pháp, không phải qua trung gian của Pháp.”

Ngày 28-9-1951, hai ngày sau chuyến công du của Tướng De Lattre chấm dứt, chiếc tầu biển Eartham Bay của Hoa Kỳ đã từ Manilla chở tới Saigon, rất nhiều vũ khí nhẹ và đạn dược đủ loại. Đồng thời, một đoàn 30 Phóng pháo cơ B-26 do phi công Hoa Kỳ lái từ Phi Luật Tân qua, đáp xuống phi trường Cát Bi (Hải Phòng), trao cho Pháp trong âm thầm không kèn không trống. Mười hai (12) chiếc trong số phi cơ này đă được Hoa Kỳ biến cải thành loại máy bay soi sáng (Luciole), dùng để thả hoả châu soi sáng chiến trường ban đêm, trong thời gian liên tục 1 tiếng đồng hồ cho mỗi phi cơ.

Cũng nhờ thế nên ngày 1 tháng 10 năm 1951, ông Trần văn Hữu Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng Chính phủ Quốc Gia Việt Nam mới chính thức công bố việc thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam (QĐQGVN) chống Cộng sản (gồm 8 Sư đoàn nhẹ trong 5 năm, riêng năm 1951 dự trù thành lập Sư đoàn 1 ở miền Nam, Sư Đoàn 2 ở miền Trung, Sư đoàn 3 ở miền Bắc, và Sư đoàn 4 ở vùng Cao Nguyên Trung phần Việt Nam). Ngày 16-10-1951 ban hành Lệnh Tổng Động Viên khoảng 15.000 thanh niên có bằng cấp từ Trung học trở lên vào học các khoá đào tạo Sĩ quan Trừ bị cấp tốc tại Thủ Đức và Nam Định. Rồi lần lần sau đó, thành lập Bộ Tổng Tham Mưu QĐQGVN, Trường Quân Y, và các Trường Võ bị Địa phương (Ecole Militaire Régionale) đào tạo các Chuẩn úy Trung đội trưởng, ngoài số Thiếu úy Hiện dịch do Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt đã và đang đào tạo (Trường VBLQ ĐàLạt được thành lập từ năm 1948). Các Trung tâm Huấn luyện Tân binh và Hạ sĩ quan cũng lần lượt được thành lập, và hoạt động náo nhiệt để thành lập các đơn vị cấp Tiểu đoàn, Trung đoàn Bộ Binh và các đơn vị Binh chủng, Nha, Sở chuyên môn.

(Thời gian này, Tôi là Trung Úy mới mãn khóa Sỹ quan Truyền Tin tại Trường Truyền Tin Montargis bên Pháp về vào đầu tháng 7-1951, được bổ nhiệm làm Trưởng Ban Mật Mă thuộc văn phòng Đổng lý Bộ Quốc Phòng do Thiếu Tá Nguyễn văn Vận làm Đổng Lý. Sau này Thiếu Tá Vận rời Bộ Quốc Phòng ra Hà Nội được thăng cấp lần lần tới Thiếu Tướng Tư lệnh Quân Khu 3 vào năm 1954)

Được sự yểm trợ của Hoa Kỳ, Quân đội Viễn chinh Pháp ồ ạt xây dựng các doanh trại và cơ sở rất lớn rộng cho các Cơ quan Chỉ huy và Đơn vị Hành chánh Tiếp vận Trung Ương tại các vùng Tân Sơn Nhứt, Gò Vấp, Bình Lợi, Cát Lái (Gia Định), Khánh Hội (Saigon), và Biên Hoà. Theo dự tính của Tướng De Lattre, các Cơ sở này phải đủ tầm vóc có thể biến thành các Cơ sở Chỉ huy và Tiếp vận cho các Lực lượng Liên Hiệp Quốc xử dụng khi cần phải đến Việt Nam để điều khiển chiến tranh ngăn cản Cộng sản Quốc tế xâm lăng các nước thuộc Đông Nam Á Châu, như họ đã đến tham gia cuộc chiến tại bán đảo Triều Tiên.

Vào tháng 12 năm 1951, Tướng De Lattre qua đời, Tướng Raoul Salan được cử thay thế làm Tổng Tư lệnh, để tiếp tục giải quyết cuộc “Chiến tranh sa lầy” không lối thoát của Pháp tại Đông Dương. Nội tình nước Pháp tiếp tục lục đục, chính phủ Queuille bị đổ vào tháng 2-1952. Tại Bắc Việt, Tướng Salan rút bỏ Hoà Bình vào cuối tháng 3-1952. Thủ tướng mới của Chính phủ Pháp là Pinay vẫn giữ chính sách cũ đối với Đông Dương. Ông Letourneau được bổ nhiệm làm Bộ trưởng các Quốc gia Liên kết, kiêm nhiệm chức Cao Ủy Đông Dương kể từ tháng 4-1952, và Tướng Salan được chỉ định làm Tổng Tư lệnh Quân đội Viễn chinh Pháp tại Đông Dương. Bộ trưởng Letourneau phải thường xuyên hoạt động tại chính quốc, làm gì có thời giờ chạy qua chạy lại giữa Pháp và Đông Dương, nên Tướng Salan vô hình chung có được toàn quyền quyết định y như cố Đại tướng De Lattre thuở còn sinh thời.

Sở dĩ Tướng Salan được lựa trám chỗ trống của De Lattre, vì ông ta đă từng ở Việt Nam lâu năm, tham dự nhiều trận chiến với Việt Minh từ hồi 1947, đă cộng tác mật thiết với Tướng De Lattre trước khi ông này qua đời, nên thông thạo lối đánh của Việt Minh. Ngoài ra, ông ta còn có được cái trí khôn của người Á Đông vì lấy vợ người Việt Nam, hút thuốc phiện, theo vợ đi lễ các Đền, Chùa, am tường các phong tục tập quán của các Sắc dân Đông Dương. Chiến công của Tướng Salan từ sau ngày thay thế De Lattre, chỉ là cuộc hành quân rút lui khỏi Hoà Bình trong an toàn không bị sứt mẻ, và xây dựng “Pháo lũy Na Sản” giữ được mặt trận vùng Bắc Thái (phiá Tây, Bắc Việt) vững vàng trong suốt 3 tháng (10, 11, và 12-1952). Còn tình hình toàn diện Đông Dương chẳng có gì khả quan hơn.

Qua tháng 5-1953, Tướng Navarre được cử thay thế Tướng Salan làm Tổng Tư lệnh Quân Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương. Ông này xào xáo lại các kế hoạch của các Tướng tiền nhiệm, rút tỉa các kinh nghiệm, để hệ thống hoá thành kế hoạch chiến thuật mới của mình là:
    1. Phòng thủ miền Bắc;
    2. Bình định miền Nam;
    3. Lập một Binh đoàn Chủ lực lưu động, để có thể đánh ở bất cứ nơi nào có sự tập trung quân của Địch (Việt Minh).
Kế hoạch được mở màn bằng cuộc hành quân “Castor” vào cuối tháng 11-1953, để hỗ trợ việc xây dựng “Tập đoàn Cứ điểm Điện Biên Phủ” với mục đích:
    a. Buộc Việt Minh phải chấp nhận một trận công kiên chiến, mà Pháp tin rằng họ sẽ thắng vì có ưu thế hơn về Không quân và Tiếp liệu.

    b. Cầm chân Chủ lực quân Việt Minh tại miền Bắc để chúng không thể tiếp sức cho miền Nam, nhờ thế Pháp sẽ bình định Liên Khu V gồm các Tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên, tại miền trung tâm của Trung Việt Nam một cách dễ dàng.

    c. Dùng Điện Biên Phủ làm “Căn cứ Bàn đạp” đánh vào Hậu tuyến Việt Bắc, nếu Việt Minh di quân khỏi nơi này để tấn công vùng đồng bằng sông Hồng. Tiếc thay, Bộ tham mưu của Tướng Navarre ước tính sai lệch quá nhiều. Việt Minh đă tập trung được quanh Điện Biên Phủ, một lực lượng nhiều tới 100,000 quân. Với sự yểm trợ của Trung Cộng, Việt Minh còn kéo được cả súng Đại pháo qua đỉnh núi, đào hầm bố trí ngay trên sườn núi nhìn thẳng xuống thung lũng Điện Biên Phủ. Thế mà Pháp cho rằng, Việt Minh chỉ có thể tập trung quanh Điện Biên Phủ khoảng 20,000 quân là tối đa, và lòng chảo Điện Biên Phủ không thể bị uy hiếp bằng Pháo binh, vì các Đại pháo chỉ có thể bố trí phiá bên kia các dẫy núi quanh lòng chảo, xa quá tầm tác xạ của súng.
Cuối tháng 11-1953, tình hình chiến sự bỗng chuyển biến đột ngột. Bốn (4) Sư đoàn Việt Minh kéo lên áp lực miền Bắc Thái (Tây Bắc, Bắc Việt). Qua tháng 12-1953, Tướng Navarre phải cho lệnh rút quân bỏ Lai Châu và toàn vùng Bắc Thái, để tập trung về Điện Biên Phủ, đồng thời mở nhiều cuộc hành quân ở vùng thượng lưu sông MêKông để củng cố phòng thủ miền Bắc Lào (nước Ai Lao).

Đầu năm 1954, tình hình lắng dịu tại khắp các chiến trường phụ trên toàn cõi Đông Dương. Riêng tại Điện Biên Phủ tình hình coi như đang có nhiều điều thuận lợi cho quân Pháp. Nhưng, vào trung tuần tháng 2-1954, Hội nghị Bá Linh (Berlin, Đức) được mở ra để thảo luận về việc thành lập một Hội nghị chính thức tại Genève để tìm giải pháp cho vấn đề đình chiến tại Đông Dương, đă khiến tình hình chiến sự trở nên bất lợi cho quân Pháp, và làm cho Tướng Navarre bị ngỡ ngàng.

Đầu tháng 3-1954, Việt Minh rút Sư đoàn 308 đang uy hiếp Luang-Prabang (Lào), đem về tăng cường bao vây Điện Biên Phủ. Đến ngày 13-3-1954, Việt Minh mở đầu các cuộc tấn công trên khắp các mặt trận Đông Dương (kể cả Điện Biên Phủ), nhằm mục đích phô trương khả năng quân sự mới để áp đảo tinh thần quân Liên Hiệp Pháp và các Quốc gia Liên kết Đông Dương, đồng thời tạo điều kiện thượng phong tại Hội nghị Genève. Quân Pháp bị cầm chân tại tất cả mọi nơi, nên không còn quân số tiếp ứng cho nhau, nhất là cho “Tập đoàn Cứ điểm Điện Biên Phủ”.

Đến cuối tháng 4-1954, Bộ Tư lệnh Pháp cho mở cuộc hành quân “Atlante” đánh vào Quân khu V của Việt Minh tại trung Việt, nhưng chẳng đem lại kết quả gì, nếu không muốn nói là uổng công vô ích.

Ngày 7 tháng 5-1954, sau 55 ngày đêm tự lực cầm cự, “Tập đoàn Cứ điểm Điện Biên Phủ” đă phải xin đầu hàng vô điều kiện. Dư luận Pháp rất hoang mang, chia rẽ, tranh cãi trầm trọng, khiến Chính phủ Pháp phải đưa Tướng Paul Ely Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Pháp sang Đông Dương thay thế Tướng Navarre, với quyền hạn rộng răi là Cao Ủy kiêm Tổng Tư lệnh quân đội viễn chinh tại Đông Dương, như đă dành cho Tướng De Lattre hồi trước. Nhưng, Tướng Ely cũng chẳng làm được gì hơn, là tiếp tục nhận lãnh những thất bại chua cay, trong âm mưu tái lập thuộc địa lỗi thời của Pháp tại Đông Dương sau Thế chiến II.

Mấy tuần lễ sau vụ Pháp thất trận Điện Biên Phủ, chiến cuộc Đông Dương được giải quyết ngă ngũ, chấm dứt bằng giải pháp chính trị tại Hội nghị Genève với một Hiệp Định đình chiến, ký kết vào lúc 01:00 giờ ngày 21 tháng 7 năm 1954 tại Genève giữa Pháp và Việt Minh. Đại diện Hoa Kỳ và Đại diện Chính phủ Quốc gia Việt Nam khước từ không ký vào bản Hiệp định. Theo Hiệp định này, nước Việt Nam bị phân làm 2 phần Nam, Bắc. Vĩ tuyến 17 và dòng sông Bến Hải được dùng làm ranh giới giữa 2 miền. Từ giữa lòng con sông trở lên phiá Bắc thuộc quyền kiểm soát cai trị của Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh cầm đầu. Phần từ giữa lòng con sông trở xuống phiá Nam thuộc trách nhiệm của Chính quyền Pháp và Chính phủ Quốc gia Việt Nam do Quốc trưởng Bảo Đại lãnh đạo.

Thi hành Hiệp định Genève, Bộ Tư lệnh quân Viễn chinh Pháp của Tướng Ely phối hợp cùng Chính phủ Quốc gia Việt Nam do ông Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng, tổ chức một cuộc di tản vĩ đại ngoạn mục trong vòng 300 ngày, cho hơn một triệu Dân Quân Cán chính không thích sống dưới Chế độ Cộng sản rời miền Bắc vào Nam tái lập nghiệp, và hàng chục ngàn Cán Binh Cộng sản từ miền Nam buộc phải tập kết ra Bắc. Thời hạn triệt thoái quân Pháp và quân Quốc gia ra khỏi Bắc Việt theo lối cuốn chiếu quy định như sau: phải ra hết khỏi Hà Nội trong thời hạn 80 ngày kể từ ngày ký Hiệp Định Genève, do đó ngày chót được ấn định cho Hà Nội là ngày 11-10-1954; 100 ngày cho Hải Dương do đó ngày chót được ấn định là ngày 1-11-1954; và 300 ngày cho Hải Phòng do đó ngày chót được ấn định là ngày 19-5-1955.

2. THỜI CƠ GIÚP CHO QUỐC GIA VIỆT NAM CHÍNH THỨC CÓ ĐƯỢC CHỦ QUYỀN ĐỘC LẬP TRONG MỌI LÃNH VỰC TỔ CHỨC QUẢN TRỊ HÀNH CHÁNH, CHÍNH TRỊ NGOẠI GIAO ĐỐI NỘI ĐỐI NGOẠI, PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ QUỐC PHÒNG TẠI MIỀN NAM VIỆT NAM.

Từ ngày Cựu Hoàng Bảo Đại nhận lănh sự ủy nhiệm của các Đảng phái chính trị không theo Cộng sản tại Việt Nam, đứng ra thương thuyết và ký với Pháp Hiệp Ước sơ bộ tại Vịnh Hạ Long để giành lại quyền độc lập cho nước Việt Nam thống nhất cả 3 miền Bắc Trung Nam vào ngày 5-6-1948, rồi đến trưa ngày 8 tháng 3 năm 1949 tại Paris có thêm THOẢ ƯỚC ÉLYSÉE giữa Tổng Thống Pháp Vincent Auriol và Quốc trưởng Bảo Đại, vào ngày này, hai người trao đổi văn thư, theo đó “Pháp long trọng công nhận” một nước Việt Nam độc lập và dân chúng có quyền tự do quyết định sự thống nhất lãnh thổ của mình, theo tinh thần Hiệp Ước Hạ Long, kèm theo một phụ bản các điều thoả thuận với PIGNON, cho đến ngày ký Hiệp định Đình chiến tại Genève 20-7-1854, đă có tới 7 chính phủ thay nhau điều hành Quốc gia Việt Nam:
    1. Nguyễn văn Xuân, từ 2-6-1948 đến 30-6-1949.
    2. Bảo Đại, từ 1-7-1949 đến 20-1-1950,
    3. Nguyễn Phan Long, từ 21-1-1950 đến 5-5-1950,
    4. Trần văn Hữu, từ 6-5-1950 đến 25-5-1952,
    5. Nguyễn văn Tâm, từ 26-5-1952 đến 15-1-1954,
    6. Bửu Lộc, từ 16-1-1954 đến 6-7-1954,
    7. Ngô Đình Diệm từ 7-7-1954 tới 23-10-1955.
Thư ngày 8-3-1949 của Auriol gửi Bảo Đại gồm 7 mục chính:
    1. Việt Nam thống nhất (Unité du Vietnam)
    2. Vấn đề Ngoại giao (Question diplomatique)
    3. Vấn đề Quân sự (Question militaire) Việt Nam sẽ có một Quân đội riêng để duy trì trật tự, an ninh nội địa và bảo vệ Triều đại (la defense de l’Empire). Trong trường hợp tự vệ, có thể được các lực lượng Liên Hiệp Pháp yểm trợ (appuyé par les forces de l’Union francaise). Quân đội VN cũng tham dự vào cuộc bảo vệ biên cương của toàn Khối Liên Hiệp Pháp.
    4. Vấn đề chủ quyền trong nước (Souveraineté interne).
    5. Vấn đề tư pháp
    6. Vấn đề văn hoá
    7. Vấn đề kinh tế và tài chánh.
(Ghi chú: Đoạn văn chữ nghiêng nét đậm trên đây là trích từ trang 119 trong cuốn VIỆT NAM NIÊN BIỂU 1939 (Tập B :1947-1954) của Chính Đạo do nhà phát hành Văn Hoá in năm 1997 tại Hoa Kỳ. Đặc biệt Tôi có thay một chữ trong mục 3. ….., an ninh nội địa và bảo vệ Triều đại (la defense de l’Empire). …. Thay cho chữ .. bảo vệ đế quốc (la defense de l’Empire)….. như trong nguyên bản, vì Tôi nghĩ Việt Nam chưa bao giờ là Đế quốc, thời trước 1945, Pháp gọi là L’Empire d’Annam tức là Vương quốc Annam do Bảo Đại làm vua (Empereur.)

Đến ngày 28-4-1956, Bộ Tư lệnh quân Pháp tại Đông Dương giải tán, tất cả các Cơ sở và Căn cứ trước đây do Pháp xây dựng chiếm đóng, đều trao hết cho Chính phủ và Quân đội Quốc gia Việt Nam thừa hưởng. Dinh Norodom tọa lạc tại trung tâm Thủ đô Saigon trước kia dành cho Cao Ủy Pháp tại Đông Dương, nay là trụ sở của Chính phủ Quốc gia Việt Nam đổi tên thành Dinh Độc Lập. Camp Chanson to lớn bên cạnh phi trường Tân Sơn Nhất trước kia là nơi làm việc của Bộ Tư lệnh quân viễn chinh pháp tại Đông Dương, nay thuộc quyền xử dụng của Bộ Tổng Tham Mưu (Bộ TTM) Quân đội Quốc gia Việt Nam (QĐQGVN) và đổi tên là Trại Trần Hưng Đạo. Hospital Rocques rộng lớn của đoàn quân Viễn chinh Pháp xây dựng tại Gò Vấp sát bên Bộ TTM và phi trường Tân Sơn Nhất, nay thuộc quyền QĐQGVN và đổi tên là Tổng Y Viện Cộng hoà. (Không biết cái tên Roques Tôi nhớ có đúng không, bạn nào biết là sai xin vui lòng chỉnh giùm, Tôi vô cùng cám ơn). Còn rất nhiều Doanh trại, Căn cứ, và Cơ sở khác tại Saigon và tại các Tỉnh trên toàn lănh thổ miền Nam Vĩ tuyến 17 được Pháp trao lại cho Chính quyền Quốc gia miền Nam Việt Nam, nhưng Tôi thấy không cần liệt kê hết ra đây.

Vào tháng 8-1956, Chính phủ Pháp loan báo việc đề cử ông Henri Hoppenot làm Cao Ủy Đông Dương. Nhưng, ông Ngô Đình Diệm đang lãnh đạo Chính quyền Quốc gia Việt Nam với chức vị tự phong là Tổng Thống từ ngày 26-10-1955 thay thế Quốc trưởng Bảo Đại bị truất phế từ ba ngày trước đó 23-10-1955, đã dựa theo các điều khoản của Hiệp định Genève không chấp nhận, nên Chính phủ Pháp phải đổi lại chức vụ là Đại sứ Pháp tại Việt Nam.

Đến ngày 26-10-1956, lễ ban hành Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hoà (theo khuôn mẫu Tổng Thống Chế của Hiệp chủng Quốc Hoa Kỳ, do Quốc Hội Lập Hiến được bầu ra vào ngày 4 tháng 3 năm 1956 biên soạn và biểu quyết chuẩp thuận) mới được tổ chức rất trang trọng tại Đại lộ Trần Hưng Đạo, Saigon. Buổi lễ này cũng đồng thời là Lễ Tuyên Thệ chính thức nhậm chức Tổng Thống nước Việt Nam Cộng Hoà đẩu tiên tại miền Nam Việt Nam của ông Ngô Đình Diệm, trước toàn dân và Ngoại giao đoàn quốc tế đă có mặt tại Saigon từ thời Quốc gia Việt Nam còn thuộc quyền lãnh đạo của Quốc trưởng Bảo Đại. (Quốc Hội Lập Hiến gồm 123 Dân Biểu thuộc các thành phần sau: Phong trào Cách mạng Quốc gia 47 ghế, độc lập không đảng phái nào 39 ghế, Tập đoàn Công dân 18 ghế, Phong trào Tự do 11 ghế, và 5 đảng phái chia nhau 8 ghế.)

Sau khi quân Pháp rút ra khỏi miền Nam Việt Nam, ảnh hưởng Pháp tan biến dần để thay thế bởi ảnh hưởng Hoa Kỳ. Bởi vì, ngay từ khi mở Hội nghị Bá Linh bàn thảo việc thành lập Hội nghị Genève giải quyết vấn đề chiến tranh Đông Dương, Hoa Kỳ đă ngầm vận động thúc đẩy Quốc trưởng Bảo Đại mời ông Ngô Đình Diệm (đang ở Mỹ) về làm Thủ Tướng, thay thế Thủ tướng Bửu Lộc được coi là thân Pháp.

3. THỜI CUỘC BIẾN ĐỔI ĐÃ TẠO CƠ HỘI CHO THỦ TƯỚNG NGÔ ĐÌNH DIỆM GIÀNH ĐƯỢC QUYỀN LÃNH ĐẠO QUỐC GIA VIỆT NAM, THAY THẾ QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI ĐÃ RỜI VIỆT NAM SANG PHÁP TỪ NGÀY 10-4-1954 SỐNG TẠI BIỆT THỰ RIÊNG Ở CANNES, ĐỂ CHỮA BỆNH SÁN GAN VÀ VẬN ĐỘNG QUỐC TẾ GIÚP GIẢI QUYẾT CUỘC CHIẾN CHỐNG CỘNG SẢN TẠI VIỆT NAM.

Tại Saigon trong khoảng những ngày cuối tháng 5 sang đầu tháng 6-1954, các hãng thông tấn quốc tế và quốc nội loan truyền tin đồn đoán là ông Ngô Đình Diệm sẽ làm Thủ Tướng thay thế Thủ Tướng Bửu Lộc. Nhưng măi đến ngày 16-6-1954, Quốc Trưởng Bảo Đại, từ tư dinh tại thành phố Cannes bên Pháp, mới chính thức công bố quyết định cử ông Ngô Đình Diệm làm Thủ Tướng với toàn quyền hành động (tức là mọi quyết định quan trọng liên quan đến quốc gia không cần phải thỉnh ý Quốc Trưởng trước như các Thủ Tướng tiền nhiệm).

Ngày 25-6-1954 ông Ngô Đình Diệm từ Pháp về tới phi trường Tân Sơn Nhất Saigon, được sự tiếp đón theo nghi lễ ngoại giao tại phòng Khách Danh Dự của phi trường, gồm một số nhân viên đại diện các Bộ trong Chính phủ Bửu Lộc, một số Sĩ quan cấp Tá Việt và Pháp thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ TTM/QĐQGVN (trong đó có Tôi đang là Thiếu Tá Chánh Sự vụ Sở Mật Mã trực thuộc văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng, lúc đó Thiếu Tướng Nguyễn văn Hinh làm Tổng Tham Mưu Trưởng và Trung Tá Trần văn Minh làm Tham mưu trưởng), cùng một số thân quyến thuộc dòng họ Ngô-Đình và Nhân sĩ thân hữu của gia đình ông Ngô Đình Diệm ở trong nước.

Những ngày tiếp theo, ông Diệm tiếp xúc các nhân sĩ để thành lập chính phủ, mãi tới ngày 7-7-1954 mới chính thức trình diện chính phủ và bắt đầu tham chánh. Thành phần chính phủ gồm có:
    - Ngô Đình Diệm, Thủ Tướng kiêm Nội Vụ và Quốc Phòng,
    - Trần Văn Chương, Quốc Vụ Khanh,
    - Trần Văn Đỗ, Tổng Trưởng Ngoại Giao,
    - Trần Văn Của, Tổng Trưởng Tài Chánh và Kinh Tế,
    - Nguyễn Tăng Nguyên, Tổng Trưởng Lao Động và Thanh Niên,
    - Trần văn Bạch, Tổng Trưởng Công Chính,
    - Phạm Hữu Chương, Tổng Trưởng Y Tế và Xă Hội,
    - Phan Khắc Sửu, Tổng Trưởng Canh Nông,
    - Nguyễn Dương Đôn, Tổng Trưởng Quốc Gia Giáo Dục,
    - Trần Chánh Thành, Bộ trưởng Phủ Thủ Tướng,
    - Lê Quang Luật, Thông Tin,
    - Phạm Duy Khiêm, Công vụ Phủ Thủ Tướng,
    - Nguyễn Ngọc Thơ, Nội Vụ,
    - Lê Ngọc Chấn, Quốc Phòng,
    - Hồ Thông Minh, Thứ Trưởng Quốc Phòng,
    - Bùi Văn Thinh, Tư Pháp,
    - Nguyễn Văn Thoại, Kinh Tế,
    - Trần Hữu Phương, Tài Chánh.
Nhưng chỉ ít ngày sau, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm bắt đầu gặp nhiều khó khăn về mọi mặt đối nội cũng như đối ngoại. Chẳng hạn:

1. Đại diện Chính phủ Quốc gia Việt Nam không ký trên Hiệp định Genève, nhưng vẫn phải chấp nhận và cộng tác với Bộ Tư lệnh quân đội Viễn chinh Pháp tại Đông Dương thi hành, đặc biệt phải chấp nhận cho các cơ sở kiểm soát đình chiến do Ấn Độ (Trung Lập) làm Chủ tịch, với các thành viên Ba Lan (Cộng sản) và Canada (thuộc Thế giới Tự Do Tư Bản) đặt cơ sở hoạt động tại nhiều nơi trên lãnh thổ miền Nam, ngay cả tại giữa Thủ Đô Saigon. Trong các cơ sở kiểm soát đình chiến này có cả sự hiện diện của những người đại diện của Việt Cộng.

2. Phải vận động nhờ Chính quyền Pháp tại Đông Dương và chính phủ Hoa Kỳ hỗ trợ phương tiện và ngân khoản để di tản cả triệu người (Dân, Quân, Cán chính) không thích sống dưới sự cai trị của Chính quyền Việt Cộng tại miền Bắc Vĩ tuyến 17, di cư vào miền Nam.

3. Tổ chức tiếp đón cứu trợ ban đầu, tái định cư, và tạo công ăn việc làm, ổn định đời sống cho những người này. Vì họ đă phải bỏ tất cả của cải đất đai hương hỏa của Tổ tiên Ông Cha tại miền Bắc, ra đi vào miền Nam với 2 bàn tay trắng.

4. Hợp nhất các Lực lượng Võ trang Giáo phái vào hàng ngũ Quân đội Quốc gia Việt Nam, để tiêu hủy nạn “phe phái hùng cứ địa phương” do Pháp tạo dựng lên trước đây, với mục đích Thực dân thâm độc “chia để trị”.

5. Điều chỉnh cải tiến hệ thống hành chánh, để chấm dứt tệ nạn “Xứ Quân, Vua một cõi” thao túng áp bức quần chúng bằng quy luật “Phép Vua thua Lệ Làng”, hậu quả dư âm Quan lại của thời Pháp còn vương rớt lại, tại các tỉnh và ngay cả tại các Quận hành chánh giữa Saigon Chợ Lớn.

6. Loại bỏ các tổ chức gieo rắc tệ đoan xã hội (khu bài bạc, các ổ chứa gái mãi dâm công khai hoạt động có nộp thuế) do các tay Chính trị hoạt đầu, Doanh gia bất chính, lợi dụng nước đục thả câu, với sự bảo trợ khích lệ của Thực dân Pháp đă tổ chức kinh doanh từ nhiều năm qua.

7. Đặc biệt là phải đề ra phong trào chống Cộng, với một Chính sách dựa theo Chủ thuyết Nhân bản có thể bẻ gẫy được Chủ thuyết Cộng sản, để làm kim chỉ Nam hướng dẫn quần chúng hăng say tham gia công cuộc tố cáo và loại trừ các hoạt động của cán bộ Cộng sản nằm vùng tại miền Nam. Để dân được sống an toàn tại khắp mọi nơi, an tâm tham gia xây dựng phát triển Kinh tế phồn vinh, và hưởng cuộc sống ấm no hạnh phúc trong thanh bình.

Vì thế mới có Chủ thuyết NHÂN VỊ, Đảng Cần Lao, và PHONG TRÀO CÁCH MẠNG QUỐC GIA ra đời, hoạt động thường xuyên trong mọi tổ chức hành chánh, quân đội, và các cơ sở xã hội khác trên đất liền cũng như trên các hải đảo thuộc miền Nam Việt Nam từ Vĩ tuyến 17 trở xuống.

Mọi người sống tại miền Nam Việt Nam đều biết và cũng đã từng phải tham gia, tùy theo vị trí hoàn cảnh riêng của mỗi cá nhân và gia đình. (Thời gian đó, Tôi là Thiếu Tá Trưởng Phòng Mật Mă Trung Ương thuộc Bộ Chỉ huy Viễn Thông tại Bộ Tổng Tham Mưu QĐQGVN, được tập thể chiến hữu thuộc các đơn vị Truyền Tin tại Saigon bầu làm Chủ tịch Phong trào Cách Mạng Quốc gia của Binh chủng Truyền Tin).

Phong trào này nhằm mục đích đánh bóng lãnh tụ Ngô Đình Diệm, chỉ trích tinh thần bạc nhược của Quốc trưởng Bảo Đại trong việc điều hành Quốc gia, để tiến tới việc tổ chức cuộc “Trưng cầu Dân ý truất phế Bảo Đại” vào ngày 23 tháng 10 năm 1955, và ủy nhiệm cho ông Ngô Đình Diệm thành lập nước VIỆT NAM CỘNG HOÀ theo khuôn mẫu Tổng Thống Chế của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ vào ngày 26-10-1956.

Suốt trong thời gian vận động tổ chức cuộc TRƯNG CẦU DÂN Ý vào ngày 23-10-1955, trên các phương tiện truyền thông của Chính phủ thường xuyên phổ biến bài hát thúc đẩy mọi người tích cực tham gia đi bầu rất hay. Nhưng rất tiếc Tôi chỉ còn nhớ một số câu tiêu biểu khó quên chứ không nhớ trọn bài:
    “Hai ba tháng mười là ngày trưng cầu dân ý,
    Hai ba tháng mười là ngày phá tan ngai vàng,
    Đứng lên toàn quốc, viết trang sử mới,
    ……..(không nhớ……”
Và kể từ sau ngày VIỆT NAM CỘNG HOÀ ra đời 26-10-1956, nghi thức chào cờ chính thức được quy định là sau khi hát bài Quốc Ca “Tiếng gọi công dân” thì phải hát bài SUY TÔN NGÔ TỔNG THỐNG. Bài hát này do nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Bích sáng tác (ông đã qua đời vào năm 2001):





---oo0oo---

Ai bao năm từng lê gót nơi quê người
Cứu đất nước thề tranh đấu cho tự do
Người cương quyết chống cộng
Bài phong kiến bốc lột
Diệt thực dân đang giắt reo tàn phá

Bao công lao hồn sông núi ghi muôn đời
Gương hy sinh ngàn muôn tiếng không hề phai
Toàn dân quyết kết đoàn cùng chung sức với người
Thề đồng tâm say đắp cho ngày mai

Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống
Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm
Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống
Xin thượng đế ban phước lành cho người

Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống
Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm
Toàn dân Việt Nam quyết theo Ngô Tổng Thống
Chung đắp say nền thống nhất sơn hà

Download nhạc xin bấm vào: Suy Tôn Ngô Tổng Thống

Nguyễn Huy Hùng (K1)
Cựu Đại Tá Quân lực Việt Nam Cộng Hoà,
Phụ tá Tổng cục trưởng Chiến tranh Chính trị kiêm Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến,
Cựu tù nhân chính trị 13 năm lao động khổ sai trong các trại tập trung cải tạo của chính quyền Cộng hoà xă hội chủ nghiă Việt Nam sau ngày Quốc hận 30-4-1975.


Các tài liệu tham khảo:

1. (Quân sử 4) QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ TRONG GIAI ĐOẠN HÌNH THÀNH 1946-1955. Do Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu biên soạn và phát hành, sách được in tại cơ sở xuất bản Đại Nam năm 1972 trụ sở Taiwan Republic of China, và được ông Đỗ Kinh Lâm tự Đỗ Ngọc Tùng (cựu sinh viên sĩ quan Khoá 4 Lý Thường Kiệt, Trường Võ bị Quốc gia Việt Nam) Giám đốc nhà xuất bản Đại Nam sao in lại và phát hành vào năm 1983 tại thành phố Glendale California Hoa Kỳ.

2. THÀNH TÍCH SÁU NĂM HOẠT ĐỘNG CỦA CHÁNH PHỦ VIỆT NAM CỘNG HOÀ ấn hành năm 1960 tại Saigon, và được ông Hồ Đắc Huân (cựu sinh viên sĩ quan Khoá 2 Hiện dịch Nha Trang) sao in lại tại Khu Little Saigon Nam California Hoa Kỳ vào tháng 7-2007 để gửi tặng riêng các thân hữu tùy nghi ủng hộ giải quyết tổn phí ấn loát chứ không in với mục đích thương mại. Ai muốn có sách có thể liên lạc với ông Huân qua điện thoại số (714) 725 5136 hoặc địa chỉ gửi thư:
HỒ ĐẮC HUÂN
    P.O. BOX 1711
    Westminster, CA92684
3. VIỆT NAM NIÊN BIỂU 1939-1975 (Tập B: 1947-1954) của Chánh Đạo do nhà xuất bản Văn Hoá in và phát hành tại Hoa Kỳ năm 1997.

4. VIỆT NAM NIÊN BIỂU Tập III NHÂN VẬT CHÍ (liệt kê gần 900 tác nhân lịch sử cận đại, từ 1848 tới 1975) của Chánh Đạo do nhà xuất bản Văn Hoá in và phát hành tại Hoa Kỳ vào năm 1997


Saturday, November 5, 2011

Chính Sách Nhà Minh Và Cộng Sản Trung Quốc Đối Với Việt Nam - Trần Gia Phụng


Trần Gia Phụng

1. CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ MINH VÀO THẾ KỶ 15

Quân Minh đô hộ nước ta từ năm 1407, và thi hành chính sách thuộc địa khai thác. Để thực hiện công cuộc khai thác, trước hết, nhà Minh đổi Đại Việt thành quận Giao Chỉ, sáp nhập Đại Việt vào Trung Quốc, tổ chức hành chánh quận Giao Chỉ như một quận ở Trung Quốc, đưa người Trung Quốc sang nắm những chức vụ then chốt, dùng một số người Việt chịu cộng tác với nhà Minh vào những chức vụ địa phương.

Sau khi sáp nhập Đại Việt và Trung Quốc, quân Minh tiến hành kế hoạch đồng hóa. Quân Minh tịch thu hoặc tiêu hủy tất cả các loại sách vở của nước Nam, kể cả các bia đá ghi lại sự nghiệp của tiền nhân. Quân Minh chở về Trung Quốc hầu như toàn bộ sách vở Đại Việt đã có từ thời Hồ Quý Ly trở về trước. Các sách nầy được Phan Huy Chú ghi lại trong chương “Văn tịch chí” sách Lịch triều hiến chương loại chí. Thay thế sách vở Đại Việt đã tịch thu và tiêu hủy, nhà Minh cho phát hành rộng rãi sách vở Trung Quốc do vua Minh cho san định lại.

Tháng 9 năm 1414 (giáp ngọ), người Minh ra lệnh lập Văn miếu (thờ Khổng Tử), các đàn thờ thần xã tắc, núi, sông, gió, mưa ở các phủ châu huyện. Về phong tục, người Minh buộcthanh niên nam nữ không được cắt tóc mà phải để tóc dài; phụ nữ phải bận áo ngắn quần dài như người Minh. Người Minh còn cấm người Việt không được ăn trầu. Ăn trầu là một tục lệ lâu đời của người Việt. Cũng trong năm 1414, nhà Minh mở trường học ở Thăng Long và các phủ, châu, huyện.

Trong khi từ từ đồng hóa người Việt, nhà Minh tổ chức khai thác kinh tế để phục vụ nhu cầu của Trung Quốc. Về tài nguyên nhân lực, nhà Minh bắt hết nhân tài Đại Việt, những người thông minh, thông kinh, học rộng, quen thuộc việc quan, chữ đẹp, tính giỏi, nói năng hoạt bát, tướng mạo khôi ngô, khỏe mạnh, dũng cảm, quen nghề đi biển, khéo nghề sản xuất gạch, làm hương… đưa về Trung Quốc sử dụng.

Về nông nghiệp, quân Minh quy định mỗi mẫu ruộng chỉ có 3 sào, thay vì 10 sào như cũ. Đổi đơn vị đo lường như thế có nghĩa là tăng thuế ruộng đất lên hơn ba lần. Năm 1410 (canh dần), quân Minh ra lệnh đặt đồn điền ở các nơi gần thành Thăng Long, thu mua lúa ở các phủ Tuyên Hóa, Thái Nguyên, Tam Giang, để cung ứng thực phẩm cho đoàn quân viễn chinh; buộc dân Việt trồng hồ tiêu đặc sản để chuyển về Trung Quốc như: hương liệu, hươu trắng, chim vẹt, vượn bạc má, trăn …Người Minh còn bắt dân chúng vùng rừng núi tìm bắt voi, tê giác, và dân chúng làm nghề chài lưới ven biển đi mò ngọc trai.

Tháng 7 năm mậu tuất (1418), người Minh thiết lập trường sở thu ngọc trai tại hai địa điểm có hải phận sinh sản nhiều ngọc trai. Đó là Vĩnh An (Tiên Yên, Vạn Ninh, Quảng Yên) và Vân Đồn (Vân Hải, Quảng Yên). Hằng ngày, hàng ngàn dân bị đưa đi mò ngọc trai cho người Minh.

Về công nghệ, người Minh thu mua vàng bạc, những kim loại quý hiếm chở về Trung Quốc. Tháng 8 năm ất mùi (1415), nhà Minh thiết lập các trường cục cai quản các vùng mỏ vàng bạc, đốc thúc dân đinh khai đào các kim loại quý, kiểm điểm sản lượng và niêm phong nạp lên thượng cấp.

Nhà Minh thực hiện chính sách thuộc địa khai thác một cách triệt để đến nỗi trong bài Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã than: “Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu, nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim sả. Tàn hại cả côn trùng thảo mộc, nheo nhóc thay! quan quả điên liên. Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ mất cả nghề canh cửi. Độc ác thay! trúc rừng không ghi hết tội; dơ bẩn thay! nước bể không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo thần nhân nhịn được.”

2. CHỦ TRƯƠNG CỦA CỘNG SẢN TRUNG QUỐCVÀO THẾ KỶ 20 và 21

Lược qua chính sách của quân Minh, có lẽ mọi người nhớ lại vào năm 1975, khi vừa cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) tức miền Nam Việt Nam, Cộng sản Việt Nam (CSVN) tập trung và đốt hết sách vở miền Nam nhằm tiêu diệt văn hóa miền Nam, truyền bá văn hóa Mác-xít, không khác gì nhà Minh đã tiêu diệt văn hóa Đại Việt, truyền bá văn hóa Trung Quốc.

Cũng sau khi cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, CSVN bắt sĩ quan, công chức cao cấp VNCH đi học tập cải tạo, thực chất là bắt giam trong các trại tù trên rừng thiêng nước độc và bắt lao động khổ sai. Số người bị bắt giam lên khoảng 1,000,000 người, trong 150 trại giam và số người bị chết trong các trại giam lên đến khoảng 165,000 người. (Spencer C. Tucker, Encyclopedia of the Vietnam War, a Political, Social, and Military History, Volume Two, Santa Barbara, California, 1998, tr. 602.) Cách bắt người đưa lên các trại tù học tập cải tạo của CSVN không khác gì quân Minh đã đày đọa dân Việt vào thế kỷ 15: “ Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu …”

Những chủ trương trên đây là do CSVN học theo quan thầy là Cộng sản Trung Quốc (CSTQ). Cộng sản TQ đối với Việt Nam vào thế kỷ 20 và 21 còn thâm độc hơn nhà Minh đối với Đại Việt vào thế kỷ 15. Trước hết, trong một tài liệu của đảng CSTQ tựa đề là “Cách mạng Trung Quốc và đảng Cộng Sản Trung Quốc”, đưa ra năm 1939, lãnh tụ đảng CSTQ là Mao Trạch Đông đã xác quyết rằng An Nam (tức Việt Nam) là “nước phụ thuộc của Trung Quốc.” (Nxb. Sự Thật, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua [tài liệu của đảng CSVN, không đề tên tác giả], Hà Nội: 1979, tr. 16.) (Lúc nầy CSVN đang chống CSTQ.) Điều nầy chẳng khác gì nhà Minh sáp nhập Đại Việt thành một quận của Trung Quốc vào thế kỷ 15.

Từ năm 1950, khi bắt đầu viện trợ quân sự cho CSVN, CSTQ cũng “viện trợ văn hóa” cho CSVN. CSVN tổ chức các phong trào “rèn cán chỉnh cơ”, “rèn cán chỉnh quân”, “chỉnh huấn”, theo cách thức CSTQ, nhằm loại bỏ tất cả các thành phần dân tộc trong cuộc chiến chống Pháp. Vì vậy từ năm nầy, nhiều nhà yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc đã ly khai Việt Minh và về thành phố hợp tác với chính phủ Bảo Đại.

Cuộc Cải cách ruộng đất theo công thức của CSTQ đã giết hại khoảng 200,000 người dân một cách oan ức. Công thức của Trung Quốc do một đảng viên CSVN cao cấp ghi lại là “một xã có từng nầy bần cố nông thì theo kinh nghiệm Trung Quốc, nhất định phải có bằng nầy địa chủ”.(Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc hội [tái bản], California, 1995, tr. 166.)

Trong cuộc CCRĐ năm 1955, tại Thanh Hóa, đội CCRĐ đã đập phá tấm bia đá từ thế kỷ 15 ghi công đức của Lê Lợi tức Lê Thái Tổ. (Nguyễn Minh Cần, “Xin đừng quên! Nửa thế kỷ trước”, điện báo Ánh Dương, ngày 3-2-2006.) Đội CCRĐ còn đốt nhà thờ tộc họ Nguyễn của đại thi hào Nguyễn Du ở Nghệ An, tiêu hủy tất cả những di cảo của đại thi hào nầy. (Nguyễn Minh Cần, báo đã dẫn.). Cũng tại Nghệ An, anh hùng dân tộc Phan Bội Châu bị đội CCRĐ đem ra đấu tố và ảnh của Phan Bội Châu bị quăng vào chuồng trâu. (Lời kể của cháu nội Phan Bội Châu trên báo Kiến thức ngày nay, số 50, Tp.HCM ngày 15-12-1990, và thư của Lê Nhân gởi Phan Văn Khải, trên báo Đàn Chim Việt ngày 5-12-2005.) Hành động nầy không khác gì nhà Minh vào thế kỷ 15, đập phá bia đá của Đại Việt, đốt hoặc tịch thu sách vở của Đại Việt đem về Trung Quốc.

Còn nữa, để lấy lòng Trung Quốc, CSVN ký công hàm ngày 14-9-1958 công nhận Tuyên bố ngày 4-9-1958. Bản tuyên bố nầy chẳng những xác định hải phận 12 hải lý của Trung Quốc mà còn xác định chủ quyền của Trung Quốc trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vốn là của Việt Nam. Đây là tội phản quốc lớn lao nhất trong lịch sử dân tộc, dâng đảo, dâng biển cho ngoại bang bắc phương.

Bị CSTQ áp lực nặng nề, sau năm 1975, CSVN chạy theo Liên Xô, muốn chống lại CSTQ. Vì vậy năm 1979, CSTQ “dạy” cho CSVN một bài học. Sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991 chấm dứt tình trạng lưỡng đầu trong khối Cộng sản Quốc tế. Trung Quốc trở thành cường quốc cộng sản số 1 trên thế giới. Từ đây CSVN không còn sự chọn lựa nào khác; không còn đu dây giữa Liên Xô và Trung Quốc. Nếu muốn tồn tại, CSVN bắt buộc phải thần phục và qụy lụy cường quốc cộng sản còn lại là Trung Quốc. Về phía Trung Quốc, không còn sợ bị Liên Xô canh tranh ảnh hưởng, CSTQ áp dụng kế hoạch tằm ăn dâu, từ từ nuốt dần con mồi Việt Nam.

Trên danh nghĩa, CSTQ không đô hộ Việt Nam như nhà Minh đô hộ Đại Việt, nhưng CSTQ khống chế đảng CSVN và dùng đảng CSVN làm công cụ khai thác Việt Nam nhằm phục vụ Trung Quốc. Có lẽ chúng ta còn nhớ là trong nền bang giao giữa Đại Việt và Trung Quốc, trước kia vua chúa Đại Việt phải gởi phẩm vật sang triều cống Trung Quốc, nhưng vua chúa Đại Việt vẫn độc lập một cõi và không cúi đầu vâng phục Trung Quốc. Trong khi đó, hiện nay, lãnh đạo CSVN nằm trọn trong tay CSTQ, nên CSVN phải thi hành những mệnh lệnh của CSTQ.

Đầu tiên, CSTQ áp lực CSVN phải ký hai hiệp ước nhượng đất và nhượng biển. Trước kia còn Liên Xô làm đối trọng, CSVN dựa vào Liên Xô để tìm cách tránh né CSTQ. Lần nầy Liên Xô đã tan rã, CSVN đành phải vâng lời Trung Quốc. Hiệp ước về biên giới trên đất liền Việt Nam Trung Quốc ngày 30-12-1999 nhượng ải Nam Quan và một nửa Thác Bản Giốc cho Trung Quốc. Hiệp ước phân định lãnh hải ngày 25-12-2000, nhượng cho Trung Quốc khoảng 10,000 cây số vuông mặt biển trên Vịnh Bắc Việt.

Người Trung Quốc tràn vào Việt Nam càng ngày càng đông, không cần hộ chiếu nhập cảnh, lập gia đình và ở lại luôn Việt Nam, chẳng những cạnh tranh về kinh tế với người Việt Nam mà còn nhắm mục đích đồng hóa Việt Nam. Hàng hóa công nghiệp rẻ tiền của Trung Quốc tuông vào Việt Nam qua đường biên giới rộng mở, giết chết các ngành tiểu thủ công nghiệp trong nước Việt Nam.

Trước kia, quân Minh lập đồn điền, thu mua lúa gạo, thực phẩm gởi về Trung Quốc. Ngày nay người Trung Quốc vơ vét thực phẩm Việt Nam, nhất là hải sản đưa về Trung Quốc. Trung Quốc thu mua nhiều loại “đặc sản” lạ lùng, như móng trâu, tai ngựa, rắn rết, … Muốn bán móng trâu, tai ngựa thì phải giết trâu ngựa. Bắt rắn rết đi bán thì làm mất cân bằng sinh thái trong thiên nhiên… Đây là những kế hoạch nhằm hủy hoại môi trường và kinh tế Việt Nam.

Ngoài ra, Trung Quốc còn thuê đất dài hạn của Việt Nam, từ đồng bằng lên rừng núi, tổ chức canh tác những nông phẩm theo nhu cầu xuất cảng của Trung Quốc để gởi về Trung Quốc, hoặc xuất cảng thẳng đến các khách hàng của Trung Quốc trên thế giới.

Ngày trước, quân Minh bắt dân Việt vùng rừng núi tìm những sản phẩm quý hiếm là sừng voi tê giác . Ngày nay, CSTQ tổ chức sản xuất bauxite ở vùng cao nguyên Cao Bằng và Lâm Đồng, chẳng những tác hại về môi trường mà còn ảnh hưởng đến tình hình an ninh vùng cao nguyên. Công nhân Trung Quốc trong những nông trường và công trường là những quân nhân “ẩn tế”, mai phục sẵn sàng, chờ đợi thời cơ là ra tay hành động. Ngày trước quân Minh bắt ngư dân Việt Nam xuống biển mò ngọc trai, thì ngày nay, CSTQ lấn biển, chiếm ngư trường, tìm kiếm loại nguyên liệu quý dưới lòng biển là dầu hỏa.

Vào thế kỷ 15, hoàng đế nhà Minh chỉ áp lực Đại Việt ở phía bắc. Ngày nay, CSTQ thâm độc hơn, áp lực Việt Nam ở cả 3 mặt: bắc (biên giới Việt-Trung), tây (Lào, Cambodia và dãy Trường Sơn), và đông (Vịnh Bắc Việt và Biển Đông). Vua chúa Trung Quốc chỉ ham đánh chiếm đất liền. Ngoài đất liền, CSTQ còn đánh chiếm hải đảo, hải phận và ngư trường Việt Nam.

Một bài học lịch sử trong cuộc kháng Minh của Lê Lợi đáng ghi nhớ: Khi nhà Hồ đảo chánh nhà Trần năm 1400, một vài con cháu nhà Trần chạy qua Trung Quốc cầu cứu nhà Minh. Vì vậy, Lê Lợi không dính líu đến nhà Hậu Trần nhằm tránh tai tiếng và tránh bị nội ứng, chờ đợi cho đến khi con cháu nhà hậu Trần hoàn toàn sụp đổ năm 1414, thì khi đó Lê Lợi mới bắt đầu chiêu tập hào kiệt, tổ chức hội nghị Lũng Nhai năm 1416, cùng nhau thề nguyền chung sức chống quân Minh, và sau đó mở cuộc kháng Minh năm 1418. Đây là một kinh nghiệm mà ngày nay chúng ta cần phải học hỏi.

Ngày nay, Hồ Chí Minh và CSVN rước quân CSTQ vào Việt Nam, rồi làm tay sai cho CSTQ. Đảng CSVN ngày nay vô cảm với tình tự dân tộc, đàn áp và giải tán tất cả những cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở trong nước. Đàn áp lòng yêu nước của quần chúng là một sự phá sản tinh thần dân tộc chưa từng xảy ra trong lịch sử Việt Nam. Như thế, CSVN còn đó thì không thể chống Trung Quốc được. Muốn chống Trung Quốc thì trước hết phải chấm dứt đám nội ứng CSVN, giống như Lê Lợi muốn chống quân Minh thì phải đợi cho nhà Hậu Trần sụp đổ.

Vừa qua, có một số người ở hải ngoại viết “Thư ngỏ” gởi CSVN là một việc làm thật là vô ích. Đúng là “đàn gảy tai trâu”.

Nếu quý vị còn quan tâm đến tiền đồ dân tộc, muốn viết thư ngỏ, thì xin quý vị hãy viết thư ngỏ kính gởi nhân dân Việt Nam, kính gởi hơn 80 triệu đồng bào trong nước, kêu gọi đồng bào hãy đoàn kết với những nhà tranh đấu dân chủ trong nước, đồng loạt đứng lên giải thể chế độ độc tài CSVN, chấm dứt nạn tay sai nội ứng, thì lúc đó dân tộc Việt Nam mới có thể chiến đấu chống Trung Quốc.

Trần Gia Phụng
(Toronto, 15-10-2011)


Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ngày 26 Tháng 4 năm 1958




Nguyễn Hội
    Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ngày 26 Tháng 4 năm 1958 về thắc mắc trong vấn đề tái thống nhất đất nước.
Trong bức thư đề ngày 7 tháng ba năm 1958, được sử dụng với mục đích tuyên truyền – bởi vì văn bản được phát đi ngay lập tức bởi Đài phát thanh Hà Nội và Đài phát thanh Bắc Kinh – Nhà chức trách Hà Nội đưa đề nghị “thiết lập quan hệ bình thường”, đề nghị xem xét vấn đề tái thống nhất đất nước, hạn chế quân sự và giao thương giữa hai vùng.

Mặc dù đồng bào chúng tôi ở miền Nam và miền Trung Việt Nam đã được thông báo về tính chất lừa đảo của tuyền truyền cộng sản, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cũng phải có trách nhiệm giải thích cho đồng bào ở miền Bắc, những người đang bị cô lập với mọi thông tin xác thực và dư luận thế giới, các mâu thuẫn giữa tuyên bố và hành động của nhà chức trách Hà Nội cùng thực trạng bất lương về những cáo buộc của họ.

Vấn đề thống nhất đất nước và cuộc bầu cử chung.

Xin nhớ rằng, Chính phủ chúng tôi đã luôn luôn bảo vệ sự thống nhất của đất nước. Trong Hội nghị Genève năm 1954, phái đoàn Việt Nam đã phản đối mạnh mẽ chống lại ý định của cộng sản Việt Nam. Phái đoàn chúng tôi đã chống việc chia ly tạm thời của đất nước. Chúng tôi đã đề xuất việc thu các đơn vị quân sự của cả hai bên vào một số khu vực hạn chế và sau đó tổ chức cuộc bầu cử tự do dưới sự kiểm soát của Liên Hiệp Quốc. Phái đoàn Cộng sản đã bác bỏ đề nghị trên, họ đòi hỏi chia đất nước từ vĩ tuyến 17 nhằm đạt dân số trội hơn miền Nam. Sau cuộc trốn chạy của hơn một triệu người tỵ nạn về miền Nam, tại miền Bắc vẫn còn hơn 13 triệu người so với 11 triệu người dân sinh sống trong miền Nam.

Nhờ vào chế độ công an trị và quân đội lớn hơn so với Việt Nam Cộng hòa, cộng sản tin rằng họ có thể ép dân chúng miền Bắc, dân số cao hơn, bỏ phiếu bầu cho họ ngõ hầu chế độ cộng sản có thể thống trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam và như thế, nền hoà bình trong vùng Đông Nam Á sẽ bị đe dọa.

Từ ý tưởng này người cộng sản đòi hỏi thực hiện một cuộc Phổ thông đầu phiếu tại Việt Nam, trong khi họ luôn từ chối các cuộc bầu cử tự do tại Đức và Đại Hàn, bởi vì trong hai quốc gia này dân số trong vùng họ kiểm soát ít hơn so với các khu vực tự do; do đó họ không có cơ hội để thực hiện ý đồ đen tối của mình.

Thái độ mâu thuẫn của cộng sản về vấn đề thống nhất đất nước ở các quốc gia bị phân chia cho thấy động cơ thầm kín của họ nhằm thực hiện những cuộc bầu cử không tự do và không thành thật.

Mặc dù nhà chức trách Hà Nội đòi hỏi cuộc bầu cử chung, nhưng họ lại không tổ chức một cuộc bầu cử tự do trong vùng tạm kiểm soát của mình để canh tân cái gọi là Quốc hội của họ. Quốc hội này bao gồm một số thành viên được chỉ định và một số thành viên được bầu trong sự hỗn loạn của năm 1946, hiện nay phải đối mặt với thực tế là một số thành viên đã bỏ chạy về miền Nam. Quy định vào Hiến pháp của họ, một bản Hiến pháp được hoàn thành không có sự tranh luận, trong một phiên họp chỉ kéo dài có một ngày, thì nhiệm vụ những đại biểu của Quốc hội này đã được chấm dứt từ hơn 8 năm nay rồi. Cộng sản Việt Nam do đó đã không tôn trọng hiến pháp của chính họ. Đồng thời họ đã thiết lập chế độ Cộng sản ở miền Bắc, mà không trưng cầu ý dân. Và họ không bao giờ trưng cầu dân ý vì họ biết rằng dân chúng sẽ không bao giờ chấp nhận cái chế độ này.

Chính phủ chúng tôi đã tiến hành một cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 23 Tháng 10 năm 1955, dựa theo đó chế độ cũ được bãi bỏ và chế độ Cộng hòa đã được thành lập. Sau đó chính phủ chúng tôi đã tổ chức cuộc bầu cử Quốc hội vào tháng 3 năm 1956 ở miền Trung và miền Nam Việt Nam. Quốc hội này đã soạn thảo và thông qua một bản Hiến pháp. Hiến Pháp này đã được công bố sau đó.

Những tổ chức dân chủ và các tiến bộ mà chính phủ chúng tôi đã đạt được trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội, đã được cảm thông của cả thế giới. Đến ngày hôm nay đã có 56 quốc gia công nhận chính phủ chúng tôi, duy trì quan hệ ngoại giao với chúng tôi, hoặc đã đề nghị chúng tôi được gia nhập Liên Hiệp Quốc. Nhà cầm quyền cộng sản ở miền Bắc chỉ được sự công nhận của khoảng 10 chính phủ cộng sản. Trong những năm gần đây, ảnh hưởng của Việt Nam Tự Do đã được tăng đáng kể: Nước chúng tôi hiện nay là thành viên của 33 tổ chức quốc tế và Sài Gòn được chọn là trụ sở của nhiều hội nghị quốc tế.

Do đó, rất kỳ lạ khi thấy những người có trách nhiệm phân chia đất nước, không dám tiến hành bầu cử trong vùng tạm kiểm soát của họ và sau đó lại đổ lỗi cho chính phủ chúng tôi từ chối thống nhất đất nước và từ chối bầu cử chung.

Vấn đề về giao thông đi lại giữa liên khu vực tự do

Nhà chức trách Hà Nội đã dấu không thông tin cho người dân miền Bắc biết, rằng người dân có quyền chọn lựa khu vực để sinh sống. Với chế độ khủng bố, họ đã ngăn cản các chuyến di tản của dân chúng miền Bắc; họ đã dùng bạo lực bắt giữ thân nhân những người đã di cư về miền Nam. Tại Ba-Làng và Lưu-Mỹ họ đã nổ súng đàn áp những người đã cố gắng đi đến khu vực tự do.

Họ cũng đã rút ngắn thời gian cho tự do giao thông liên vùng và tự do lựa chọn vùng sinh sống, qua việc qui định thời hạn vào ngày 19 Tháng 5 năm 1955. Sau thời gian này, chính phủ chúng tôi đã đề nghị gia hạn thời gian giao thông liên vùng tự do. Nhưng nhà chức trách Hà Nội muốn hủy bỏ càng nhanh càng tốt sự liên kết giữa hai khu vực, nhằm ngăn chặn các chuyến tỵ nạn về miền Nam và luôn bày tỏ ý đồ xấu xa này của họ. Do đó nhà chức trách Hà Nội đã chỉ gia hạn thời gian di tản thêm hai tháng, tức là đến ngày 20 Tháng 7 năm 1955, và trong hai tháng đó họ đã chỉ cung cấp một chiếc thuyền cho những người muốn về miền Nam.

Bất chấp mọi nỗ lực để ngăn cản việc di tản, bất chấp bị khủng bố và trù dập bằng bạo lực và cho dù thời hạn được di tản rất ngắn ngủi, nhưng gần một triệu đồng bào từ miền Bắc đã di cư về miền Nam thành công. Mặc dù đồng bào của chúng tôi ở phía bên kia vĩ tuyến 17 bị mất quyền tự do di chuyển ngay cả trong khu vực sinh sống của mình, ngày nay họ vẫn còn chạy trốn về miền Nam bằng cách vượt dẫy núi Trường Sơn[1], hoặc trong các chiếc thuyền mỏng manh dọc bờ biển. Một số người không may mắn bị rơi vào tay cộng sản và bị giết, hoặc đã bị tra tấn tàn nhẫn. Những người khác đã chết vì kiệt sức trong rừng sâu hoặc là nạn nhân của các cơn bão biển.

Hiện nay có 81.123 người và 1955 gia đình đã tự, hoặc qua đại diện của họ, làm đơn yêu cầu được di tản vào miền Nam. Yêu cầu của họ đã được giao cho Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến. Nhưng nhà chức trách Hà Nội phản đối những yêu cầu này.

Ngoài ra, còn có một số gia đình từ miền Trung và miền Nam Việt Nam đã đòi hỏi cho anh em, chồng con họ, những người đã bị cộng sản dùng bạo lực bắt cóc đưa về miền Bắc, phải được hồi hương. Tổng số đơn yêu cầu về việc này là 11.196, đã được chuyển tiếp đến Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến. Ngoài các đơn kiện này, còn có rất nhiều trường hợp khác được gửi trực tiếp đến Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến, và số lượng đơn của những trường hợp này không bao giờ được công bố. Qua sự phản đối, chống lại những yêu cầu của người dân được nêu trên, nhà chức trách Hà Nội phải gánh trách nhiệm về tình trạng đau đớn vì chia ly của các gia đình này. Sau khi cộng sản cấm đoán người dân tự do đi lại ngay cả trong khu vực miền Bắc Việt Nam và ngăn chặn những người muốn di tản đi xa, bây giờ thì họ lại rêu rao, tuyên truyền là “tự do đi lại” và “khôi phục lại mối quan hệ bình thường”.

Vấn đề cắt giảm lực lượng quân sự

Từ 3 năm qua nhà chức trách Hà Nội luôn luôn cổ võ cho hòa bình. Nhưng hành động của họ luôn tương phản lớn với chủ đề tuyên truyền của họ.

Họ đã không dừng lại mà luôn tăng cường lực lượng quân sự và nâng cấp trang bị vũ khí kể từ sau khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực và như vậy là vi phạm Hiệp định Genève do chính họ đã ký kết.

Cần quan tâm đến một giác thư của chính phủ Vương quốc Anh gửi cho Liên Xô ngày 9 Tháng 4 năm 1956. Là đồng chủ tịch của Hội nghị Genève, chính phủ Anh đã cáo buộc chính quyền Hà Nội, kể từ khi ngừng chiến đến nay họ đã tăng cường lực lượng quân sự từ 7 lên 20 sư đoàn.

Ngoại trưởng Pháp tháng 3 năm 1958 cho biết, rằng nhà chức trách Hà Nội đã gia tăng quân đội lên đến 350.000 quân và công an, cảnh sát lên tới 200.000 người.

Họ cũng đã nhập cảng vũ khí từ các nước cộng sản để tăng cường lực lượng quân sự của họ. Trong ba năm qua họ đã không tôn trọng Hiệp định Genève, bởi vì họ chưa bao giờ thông báo cho Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến về việc nhập cảng vũ khí vào Việt Nam.

Mâu thuẫn với thực tế, nhà chức trách Hà Nội tuyên bố rằng họ đã giảm lực lượng quân sự của họ xuống còn 80.000 người. Nhưng cho đến nay họ chưa bao giờ nói bất cứ điều gì về con số thực sự quân đội của họ, trước khi hoặc sau khi cái họ gọi là giảm quân. Họ không đưa ra bằng chứng về những lời tuyên bố của mình và không chấp nhận mọi cuộc điều tra.

Họ không có lý do duy trì một quân đội mạnh mẽ hơn Việt Nam Cộng Hòa. Đây là mối đe dọa cho nền hòa bình không những chỉ cho Việt Nam mà còn cho các nước ở trong vùng Đông Nam Á. Để có khả năng duy trì một quân đội to lớn như vậy, nhà chức trách Bắc Việt áp đặt mức thuế cao và hệ thống “đấu tố”, với hệ thống này họ đã ép buộc những người vợ, những người con phải tố cáo cha mẹ và chồng mình đã “dấu vàng của nhân dân”. Những người này thậm chí đã phải tự đánh mình và cuối cùng họ bị xử tử ngay tai chỗ mà không thông qua một cuộc xét xử của toà án. Có thể nói rằng dân tộc chúng tôi phải chịu nhiều đau khổ với chính quyền miền Bắc hơn bất kỳ dân tộc nào khác trên thế giới này.

Ngược lại, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã luôn luôn phục vụ cho nền hòa bình kể từ hiệp định Genève. Để đảm bảo lực lượng lao động cần thiết cho việc tái thiết đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh, chúng tôi đã giảm quân đội từ 242.000 xuống còn 150.000, đồng thời chúng tôi đã không bổ xung thay thế 180.000 binh lính của “Đội quân Viễn chinh” Pháp. Cộng sản mong muốn duy trì Đội quân này lại ở Việt Nam. Vấn đề giảm lực lượng quân sự được phổ biến rộng rãi, điều này rất dễ kiểm chứng.

Nhân đây cũng xin nhắc lại lời tuyên bố long trọng của Chính phủ Quốc gia vào ngày 6 Tháng 4 năm 1956 là không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào và không cho phép cài đặt căn cứ quân sự ngoại quốc trên lãnh thổ của mình.

Vấn đề trao đổi thương mại

Trong thư đề ngày 7 Tháng Ba nhà chức trách Hà Nội đã đề xuất việc trao đổi thương mại với miền Nam. Qua đánh giá đề nghị này và qua tin tức nhận được cho thấy rằng đồng bào miền Bắc mong muốn, cầu xin sự giúp đỡ của thân nhân hoặc bạn bè ở miền Nam, có thể một vài mét vải hoặc vài viên thuốc aspirin. Nền kinh tế miền Bắc do sự thống trị của Đảng Cộng sản đang ở dưới đáy vực sâu. Đề nghị của cộng sản không nhằm mục đích nâng cao đời sống của dân chúng miền Bắc. Do hệ thống độc quyền với chính sách nội thương và ngoại thương mà họ đã đề ra là mua sản phẩm nông nghiệp của dân chúng với giá rẻ mạt và bán lại những sản phẩm này với giá cao hơn đáng kể. Mục tiêu của họ chỉ là, thu thập sự phong phú của miền Nam vào ngân sách đảng của họ. Nếu nhà chức trách miền Bắc muốn đề nghị của họ được duyệt xét thì điều kiện đầu tiên là họ phải đặt quyền lợi người dân lên trên lợi ích của đảng. Đồng thời họ phải để cho dân chúng miền Bắc toàn quyền tự do thương mại và từ bỏ sự độc quyền kinh tế mà đảng cộng sản đã chiếm đoạt từ trước đến giờ.

Vấn đề trao đổi thư từ và bưu thiếp

Mặc dù cộng sản không đề cập đến đề tài này trong thư của họ đề ngày 7 tháng ba năm 58, nhưng họ đã nhiều lần đề nghị nối lại dịch vụ bưu chính giữa hai khu vực. Cho đến hôm nay, cộng sản đã sử dụng các bưu thiếp như một phương tiện tuyên truyền nhiều hơn so với những phong thư được đóng kín. Yêu cầu trao đổi thư từ của họ không ngoài mục đích nào khác là tăng cường chiến dịch đe dọa và ăn xin người dân miền Nam. Vì quyền lợi của dân chúng, Chính phủ Quốc gia không thể thực hiện đề nghị này, nhưng Chính phủ yêu cầu cộng sản khai triển trao đổi bưu thiếp một cách đơn giản để nhân dân của hai Miền có thể liên lạc được với nhau.

Sự thật được mô tả trên đây cho thấy bản chất lừa đảo của các đề nghị của cộng sản, chẳng hạn như tăng cường củng cố lực lượng quân sự của mình, lệnh cấm di chuyển giữa hai khu vực, các vụ giết người muốn di tản về miền Nam, họ đã gây ra những trở ngại để các thân nhân của các gia đình sống tản mác không tìm được nhau và lợi dụng việc trao đổi bưu thiếp nhằm vào mục đích tuyên truyền.

Mâu thuẫn giữa tuyên truyền và hành động của nhà chức trách Hà Nội thật đã rõ ràng. Từ nhiều năm qua thái độ của họ vẫn luôn như một. Để chứng minh thái độ của họ đã thay đổi, họ hãy thực hiện một số hành động cụ thể như sau:
    1. Họ hãy để cho 92.319 người và 1955 gia đình thực hiện ý nguyện của mình là được di cư về miền Nam, đơn của những người và gia đình này đã nộp cho Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến, để những người này được đoàn tụ với gia đình của họ.

    2. Họ nên giảm lực lượng quân sự của họ tương đương với miền Nam Việt Nam. Việc giảm bớt phải được xác nhận là đúng bởi một Ủy ban quốc tế hữu trách. Sau đó vấn đề giới hạn lực lượng quân đội của hai vùng mới được bàn thảo.

    3. Họ cần phải xóa bỏ cái gọi là “Ủy ban Giải phóng miền Nam”, bằng cách từ bỏ khủng bố, giết dân cư của những làng mạc xa xôi hẻo lánh, phá hoại cơ sở Chính phủ nhằm cải thiện đời sống của người dân, đặc biệt trong lĩnh vực cải cách ruộng đất và nông nghiệp.

    4. Họ phải từ bỏ sự độc quyền kinh tế của đảng Cộng sản, để nhân dân miền Bắc Việt Nam được là việc trong hoàn toàn tự do và qua đó, có thể tăng mức sống của họ hiện đã bị giảm xuống đến mức chưa từng có từ xưa đến nay.

    5. Họ không được buộc dân chúng phải cất tiếng ca ngợi họ [2] trong các bưu thiếp. Họ nên giải tán ban biên tập công tác tuyên truyền phục vụ bưu thiếp. Họ không được trả thù những người nhận hoặc gửi bưu thiếp.

    6. Họ phải tôn trọng các quyền tự do dân chủ trong khu vực của họ như ở miền Nam và nâng cao mức sống của dân chúng miền Bắc, ít nhất được tương đương với dân chúng miền Nam; họ không được dùng chế độ vô nhân đạo của họ để làm cho khoảng cách giữa hai vùng lớn hơn nữa.
Nếu khảo sát các sự kiện kỹ càng, ta sẽ nhận thấy bức thư ngày 7 Tháng Ba năm 1958 của nhà chức trách Hà Nội có mục đích chủ yếu nhằm tuyên truyền và phá hoại, chống lại sự giúp đỡ của các quốc gia bạn. Cộng sản đã hành động theo đơn đặt hàng của Liên Xô và cộng sản Trung Quốc, trong lá thư trên đã chỉ trích gay gắt Mỹ và cáo buộc người Mỹ can thiệp vào nội bộ của miền Nam Việt Nam.

Thực tế hoàn toàn ngược lại với những cáo buộc của cộng sản: mối quan hệ Việt-Mỹ hoàn toàn bình đẳng dựa trên luật pháp quốc tế giữa hai nước, cùng tôn trọng chủ quyền của nhau. Tương tự sự liên kết giữa Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và các nước trong thế giới Tự do. Mục đích mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Hoa Kỳ chỉ nhằm bảo đảm nền hòa bình và tự do.

Mối quan hệ giữa nhà chức trách Hà Nội cùng giới thống trị Nga và Trung Quốc, thuộc một thể loại khác. Họ là một vệ tinh đối với giới cai trị. Họ là hạ cấp so với thượng cấp trong hệ thống phân cấp của một đảng: đảng Cộng sản Quốc tế. Sự phụ thuộc này không chỉ được thể hiện qua sự đồng nhất của các tổ chức chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội theo kiểu mẫu của cộng sản Liên Xô và Trung Quốc, mà sự lệ thuộc này còn thâm nhập ngay cả vào lĩnh vực tư tưởng: trong các nghị định và các quy định của họ nhà chức trách Hà Nội bắt buộc dân chúng miền Bắc phải học các hệ tư tưởng cộng sản và sống theo đường lối chính trị của Nga và Trung Quốc.

Ở miền Nam, không ai bị bắt buộc phải tôn thờ các nhà lãnh đạo ngoại quốc và treo hình ảnh họ trong nhà, ở đây không ai có thể tưởng tượng rằng họ có thể hành xử điều kỳ lạ nêu trên.

Ở miền Bắc, nhà chức trách ép buộc dân chúng phải sùng bái các các nhà lãnh đạo Nga và Trung Quốc, treo hình ảnh của họ ở nhà và trong những ngày lễ của Liên Xô. Đồng thời họ cấm đoán dân chúng không được phê bình ý thức hệ cộng sản, không được phê bình chính phủ và giới lãnh đạo các nước cộng sản.

Thái độ hèn hạ của nhà chức trách Hà Nội đối với cộng sản ngoại quốc đã hủy hoại đời sống của dân tộc Việt, và là trở ngại lớn nhất cho công cuộc thống nhất đất nước.

Hệ tư tưởng cộng sản hoàn toàn phản nghịch với truyền thống tâm linh của châu Á và tính chất quốc gia của dân tộc Việt Nam.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc bầu cử tự do, nhà chức trách Hà Nội phải hủy bỏ chế độ cộng sản mà họ đã áp đặt lên người dân miền Bắc.
Họ không nên nhắm mắt và tự bịt tai. Họ phải học hỏi để hiểu cho ra rằng, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và Dân tộc Việt Nam không bao giờ chấp nhận cuộc bầu cử không có sự tự do và chân thành.

Nguyễn Hội
Sưu tầm và dịch từ văn bản tiếng Đức “Erklärung der Regierung der Republik Vietnam von 26. April 1958 über die Frage der Wiedervereinigung” do văn phòng Sứ Thần VNCH tại CHLB Đức xuất bản năm 1958.

[1] bản tiếng Đức ghi là dẫy núi An Nam
[2] nguyên văn tiếng Đức là: Họ không được buộc dân chúng phải cất tiếng hát những bài ca tụng họ trong các bưu thiếp



Lễ Khánh thành Tượng Đài Thuyền Nhân Úc châu




Bài Phát biểu của Ông Nguyễn Văn Thanh chủ tịch CĐNVTD/NSW trong buổi lễ khánh thành tượng đài thuyền nhân tại Bankstown, Sydney NSW Autralia.
    Kính thưa quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo,

    Quý vị đại diện các hội đoàn, tổ chức, quý cơ quan truyền thông
    Kính thưa quý vị quan khách và quý đồng hương,
    Đặc biệt chúng tôi xin chào mừng quý quan khách từ xa đến thăm Úc Châu.
Đại diện Ban Tổ Chức chúng tôi xin trân trọng kính chào tất cả quý vị đã đến tham dự Lễ Khánh Thành Tượng Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam tại Saigon Place, Bankstown tối hôm nay. Sự hiện diện của quý vị là một vinh dự cho Ban Tổ Chức, nói lên sự tích cực hỗ trợ của quý vị đối với công trình xây dựng Tượng Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam tại đây.

Kính thưa quý vị, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, trước sự trả thù tàn nhẫn của cộng sản Việt Nam đối với người dân miền Nam Việt Nam, đã có hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi tìm tự do. Đa số người tỵ nạn đã ra đi bằng thuyền, từ đó có danh từ thuyền nhân, Boat People. Những người tỵ nạn đã trốn chạy chế độ cộng sản bằng những con thuyền đánh cá, hoặc ghe chở hàng trên sông cũ kỹ và thiếu phương tiện đi biển. Nhiều người đã chết, hoặc mất tích trên biển vì bị bão táp, ghe thuyền bị hư hỏng, bị lạc vào các hoang đảo, thiếu lương thực, bị chết vì đói khát, bị hải tặc tấn công, cướp bóc, hãm hiếp và giết chết.

Không ai biết được có bao nhiêu thuyền nhân Việt Nam đã chết trên đường vượt biển trốn chạy CS. Nhưng theo sự phỏng đoán của Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc thì trong khoảng thời gian từ năm từ 1975 đến đầu thập niên 90 có khoảng hơn nửa triệu người Việt tỵ nạn đã bỏ mình trên biển. Nhiều năm đã trôi qua, nhưng chúng ta không bao giờ quên được những đau thương mà những thuyền nhân Việt Nam đã phải gánh chịu trên đường tìm tự do, điều mà chúng ta đang được hưởng ở nước Úc này.

Để tưởng nhớ và vinh danh các Thuyền Nhân Việt Nam, nhiều cộng đồng người Việt trên thế giới đã lập những đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân. Riêng tại NSW nhiều năm qua CĐNV chúng ta cũng ước mong xây dựng một tượng đài để tưởng niệm các thuyền nhân Việt Nam, những người đã bỏ mình trên đường vượt biển tìm tự do. Ước vọng của cộng đồng chúng ta đã được HĐTP Bankstown hỗ trợ. Ngoài việc chấp thuận và cho đất để xây dựng tượng đài, HĐTP Bankstown đã hỗ trợ CĐ chúng ta rất nhiều trong tiến trình xây dựng tượng đài về hành chánh cũng như tài chánh.

Khi quyết định xây dựng tượng đài, BCH Cộng Đồng và HĐTP đã mời các Điêu Khắc Gia trong Hội Điêu Khắc Gia Úc tham dự cuộc thi vẽ mẫu tượng đài. Kết quả bản vẽ của ĐKG Terrence Plowright đã được chấm nhất và đã được chọn để thực hiện. Chúng ta chúc mừng và cám ơn ĐKG Terrance Plowright về việc ông đã sáng tạo một tác phẩm nghệ thuật mô tả thuyền nhân Việt Nam.

Về ý nghĩa bức tượng Thuyền Nhân Việt Nam, bức tượng gồm một con thuyền dài 3m bề ngang 1.8m. Con thuyền đang vượt trên những ngọn sóng để hướng về phía trước. Trên thuyền có 5 người, hai vợ chồng trẻ đứng trước, người vợ ẵm đứa con thơ trên tay, phía sau là một cặp ông bà già.

Năm người này tượng trưng cho 3 thế hệ trong cuộc ra đi của người Việt Nam. Hai vợ chồng trẻ và đứa con thơ đứng trước, tượng trưng cho những người trẻ là những người được gia đình ưu tiên cho đi trước trong cuộc ra đi tìm tự do của người Việt Nam trong thời gian từ 1975 đến thập niên 90. Hai vợ chồng già tượng trưng cho cha mẹ Việt Nam, những người sẵn sàng hy sinh cho con cháu ra đi trước và cha mẹ đứng sau hỗ trợ.

Người thanh niên hiên ngang đứng trước mũi thuyền tượng trưng cho đức tính can trường của người thanh niên Việt Nam sẵn sàng đối diện với sóng gió để bảo vệ gia đình. Người phụ nữ bồng con đứng bên cạnh tượng trưng cho những người vợ, người mẹ Việt Nam luôn lo cho con bất chấp những hiểm nguy. Toàn bộ bức tượng được đúc bằng đồng nặng hơn 3 tấn.

Kính thưa quý vị, công trình xây dựng tượng đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam tại Saigon Place, Bankstown là một công trình chung của cả cộng đồng chúng ta. Đó là kết quả của những đóng góp, vận động của rất nhiều người, qua nhiều giai đoạn trong tiến trình định cư của cộng đồng chúng ta tại đây. Tượng đài là biểu tượng của hành trình vượt biển tìm tự do đầy bi thương của người Việt tỵ nạn, đồng thời cũng phản ảnh sự thành công trong việc định cư của chúng ta, những cựu thuyền nhân Việt Nam, tại đất nước này. Tượng đài cũng là biểu tượng của sự đoàn kết, của sự đóng góp của cộng đồng chúng ta vào sự phát triển của Thành Phố Bankstown và là một di sản tinh thần để lại cho con cháu chúng ta sau này.

Saigon Place và tượng đài tưởng niệm thuyền nhân tại đây sẽ đi vào lịch sử của người Việt tỵ nạn tại Úc Châu và tại NSW nói riêng. Chúng ta có thể hãnh diện là chính nhờ ở sự đoàn kết của CĐ chúng ta mà những ước mơ của chúng ta đã thành hiện thực.

Trong chương trình xây dựng tượng đài này, CĐ chúng ta đã được sự hỗ trợ tích cực của HĐTP Bankstown, đặc biệt là bà Cựu Thị Trưởng Tania Mihailuk, nay là Dân Biểu vùng Bankstown, ông Khal Asfour, Thị Trưởng Bankstown, chính phủ NSW và Bankstown Sports Club.

Một lần nữa chúng tôi xin cám ơn tất cả quý vị đang hiện diện trong Lễ Khánh Thành Tượng Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam tối hôm nay. Đặc biệt chúng tôi xin cám ơn tất cả những người đã đóng góp tài chánh cho việc xây dựng tượng đài, các cơ quan truyền thông, các thiện nguyện viên, ban trật tự, ban tiếp tân, ban quay phim và chụp hình, ban treo cờ và dựng màn hình, tất cả quý vị đã quảng đại đóng góp tài chánh cũng như thời giờ và công sức cho việc xây dựng tượng đài và tổ chức lễ Khánh thành hôm nay. Sự thành công của việc xây dựng tượng đài sẽ không thể có được nếu không có sự vận động cũng như đóng góp quảng đại của tất cả quý vị.

Xin cám ơn toàn thể quý vị.

Nguyễn Văn Thanh
Chủ Tịch CĐNVTD - NSW

---

Thanh Nguyen's speech at the Opening of the Unveiling the Boat People monument in SaiGon Place.


    State Member for Bankstown, Councillor Tania Mihailuk, MP
    Mayor of Bankstown City, Councilor Khal Asfour,
    Vice – President of the Bankstown Sports Club, Mr Richard Phillips,
    The Honorable Jason Clair, Federal Member for Blaxland, Minister for Defence Material,
    Mr Glenn Bookes, State Member for East Hills
    Councillor Pam Gavin, Clr Alex Kuskoff, Clr Nhan Tran
    Representatives of all religions and organisations,

    Distinguished guests, ladies and gentlemen.
On behalf of the Vietnamese Community in NSW I warmly welcome each/ and all of you/ and sincerely thank you/ for being here to attend the Unveiling Ceremony of the Vietnamese Boat People Monument. Your presence is a great honour for the organising committee/ and a token of support/ of the Vietnamese Boat People Monument Project.

In 1975, after the Vietnamese communists took over South Vietnam on 30th April, hundreds of thousands of Vietnamese people left their homeland to escape the oppressive communist regime. Most of them escaped by boat, and the term Boat People came into common use during that time. The Boat People risked their lives on dangerously crude and overcrowded boats. Many died or went missing at sea. Many were attacked by pirates; many were abducted, raped and killed.

Nobody knows how many Vietnamese Boat People died while escaping. But it is estimated that around 600,000 people were killed or went missing at sea between1975 and 1990. Many years have gone by, but we always remember them. We never forget their sacrifices and the hardship they endured in their search for democracy, freedom and human rights. We are glad to have found these here in Australia.

Around the world, Vietnamese communities have built monuments to honour the Vietnamese Boat People who lost their lives on the high seas. Here in Bankstown, this monument also recognises the commercial, social and cultural contributions made by the former Vietnamese Boat People to Bankstown City.

When we decided to create a Vietnamese Boat People Monument, we put out an invitation to artists to submit ideas for the design. We congratulate Terrence Plowright for his winning entry, and thank him for his work in creating this beautiful sculpture.

To the Vietnamese people in NSW and throughout Australia, this monument is a meaningful symbol that connects past traumatic experiences of being refugees with successful settlement in Australia. We hope that this monument will add to the vibrancy of Bankstown City and will attract visitors from near and far.

Ladies and gentlemen,

Tonight we are gathering here to unveil the monument and to commemorate and honour the Vietnamese Boat people who lost their lives in search for freedom.

On behalf of the Vietnamese Community in Australia and particularly in NSW I would like to thank Councillor Tania Mihailuk, State Member for Bankstown, former Mayor of Bankstown City, Councillor Khal Asfour, Mayor of Bankstown City and Bankstown City Council and staff for erecting the Vietnamese Boat People Monument in Saigon Place, Bankstown and for organising the Unveiling Ceremony today.

I would also like to thank Bankstown Sports Club for your financial support and in assisting us to conduct a fundraising dinner at Bankstown Sport Club to support the construction and installation of the Vietnamese Boat People Monument. The Monument will be a significant sign of the support and contribution of the Governments, the Bankstown Sport Club and the others.

Once again I thank you all for your presence here this evening. Especially, I would like to thank sincerely our community members and our donors and volunteers, especially members of the Vietnamese Community Management Committee. The success of erecting of the Vietnamese Boat People Monument would not have been possible without your generous donations and support.

Thank you

Thanh Nguyen
Vietnamese Community President in NSW



Friday, November 4, 2011

Sunday, October 23, 2011

Bài phát biểu trong Hội nghị Rerum Novarum năm 2011 của ĐC Nguyễn Văn Long:



“Chế độ cộng sản … với sự cai trị bằng khủng bố, đó là lý do lớn nhất, bi thảm nhất với cuộc di tản chưa từng có trong lịch sử của chúng tôi…”

Dưới đây là bài phát biểu của Đức Giám Mục Vinh-sơn Nguyễn văn Long OFMConv trong Hội nghị ‘Rerum Novarum’ năm 2011về đề tài: ‘Người Tầm Trú 'Asylum Seekers: Is There a Just Solution?'': Có một giải pháp đúng đắn không?’ tại Hội trường Trung tâm, trường Đại học Công Giáo Úc tại Melbourne ngày thứ Ba 11 tháng 10 năm 2011.
    Thưa các bạn,
Thật là một vinh dự lớn cho tôi, một “đứa trẻ mới vào nghề”, được phát biểu trong hội nghị năm 2011, do Ủy ban Công lý và Hòa bình Melbourne tổ chức, kết hợp với trường Đại học Công giáo Úc và Ủy ban Công Giáo về Di Dân và Tỵ Nạn Melbourne. Đối với những ai chưa biết về hội nghị thường niên này, nó được lấy cảm hứng từ Tông thư hay “bức thư ngỏ” được gọi là Rerum Novarum có nghĩa là ‘Những Điều Mới’ của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII vào năm 1891. Bằng cách đối mặt với các vấn đề khẩn cấp của thời đại và kêu gọi Nhà nước bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân, Rerum Novarum đã đặt nền móng cho giáo huấn hiện đại về xã hội của Giáo hội Công giáo. Trong thực tế, nó thể hiện quan điểm cho rằng người nghèo có một tình trạng đặc biệt trong việc xem xét các vấn đề xã hội bởi vì Thiên Chúa ở về phía người nghèo. Các Đức Giáo Hoàng kế vị đã noi theo hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng Lêô và tiếp tục lên tiếng về các vấn đề công bằng xã hội. Ví dụ, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã lên tiếng mạnh mẽ trong Tông huấn đầu tiên của ngài Deus Caritas Est khi ngài tuyên bố “Giáo Hội không thể và không được phép ở bên lề trong cuộc chiến cho công lý. Giáo hội phải thủ vai của mình thông qua các tranh luận hợp lý và khơi dậy năng lực tinh thần, nếu không thì công lý, điều luôn luôn đòi hỏi sự hy sinh, không thể thành công và phát triển.”

Tối nay, tôi nói chuyện với các bạn trên cương vị một giám mục. Tôi có ý tuyên bố một cách không xấu hổ rằng Giáo Hội đứng về phía người nghèo, cũng như Thiên Chúa luôn đứng về phía họ. Nhưng trên tất cả, tôi nói chuyện với các bạn như một người mà bản thân đã từng là người tỵ nạn và tầm trú. Bằng cách chia sẻ cuộc hành trình cá nhân của tôi, tôi hy vọng sẽ tạo ra một bầu khí hiểu biết và tình liên đới với những người ra đi kém may mắn khác mà hành trình cuộc sống của họ cũng xứng đáng không kém chúng ta là được tôn trọng và có nhân phẩm.

Người ta thường nói lịch sử hay lặp đi lặp lại. Tôi thấy rằng những câu chuyện của nhiều người tỵ nạn muốn tìm nơi trú ẩn tại Úc hiện nay tương tự như của chúng tôi, những người tỵ nạn Việt Nam trốn thoát khỏi gông cùm và sự khủng bố của chủ nghĩa Cộng sản trong các thập niên 1970 và 80. Chia sẻ câu chuyện của tôi với các bạn, tôi muốn tạo cho họ một tiếng nói; bởi vì với vị trí của tôi, tôi coi đó là một quyền lợi và nghĩa vụ đạo đức để vươn tới với những người đồng cảnh ngộ tỵ nạn đang tìm kiếm tự do và các giá trị nhân bản.

Tôi xin phép được đưa các bạn trở lại với một chút ký ức – ít nhất là cho những người lớn tuổi đủ để nhớ lại. Chiến tranh Việt Nam: vâng, một cuộc chiến hiện thực, đầy bạo lực và kéo dài nhất và đồng thời cũng là cuộc chiến gây tranh cãi và chia rẽ nhất còn khắc ghi sâu đậm trong tâm trí chúng ta. Ai có thể quên được những hình ảnh kinh hoàng của cuộc chiến đó đã được chuyển tiếp tới màn ảnh truyền hình của chúng ta mỗi ngày? Ai có thể quên được các cuộc biểu tình trên đường phố trong các thành phố và tại các cơ sở của các trường đại học của chúng ta? Đó là một cuộc chiến mà chúng ta không thể đương đầu, thậm chí sau nhiều năm tiến hành và chiến đấu, cuối cùng bị bỏ rơi và sau đó là sự thất bại bi thảm. Đáng tiếc là những người lính Úc của chúng ta đã mang những vết sẹo về thể lý và tâm lý cả trong và sau cuộc chiến. Trong nhiều trường hợp, họ đã trở về không phải chỉ là không được công nhận một cách xứng đáng mà còn nhận được sự sỉ nhục họ không đáng phải chịu.

Nhưng sự thật có thói quen tiết lộ chính nó trong một nhận thức muộn màng. Khi vào cuối cuộc chiến, chính xác là ngày 30 tháng Tư năm 1975, hàng triệu người tị nạn Việt Nam đã đổ xô ra biển để trốn thoát khỏi chế độ cộng sản, người ta bắt đầu hiểu lý do tại sao cuộc chiến đó đã phải được chiến đấu và kháng cự. Người Việt Nam là một dân tộc rất tự hào. Chúng tôi tự hào về di sản của chúng tôi có hơn 4.000 năm lịch sử tích lũy, chúng tôi tự hào về đất và biển của chúng tôi là một trong những nơi ngoạn mục nhất ở Á châu. Những ai trong các bạn đã từng đến Việt Nam sẽ đồng ý với tôi. Cuộc sống và số phận của chúng tôi được bén rễ sâu trong mảnh đất của chính chúng tôi. Chúng tôi chưa bao giờ được biết đến như là những người du canh du cư hoặc di dân. Chưa bao giờ trong lịch sử thăng trầm lâu dài của chúng tôi đã có một cuộc di tản hàng loạt như vậy ra khỏi mảnh đất của chính mình. Chưa bao giờ, ngay cả khi chúng tôi bị Trung Quốc xâm chiếm và đặt ách nô lệ trong một ngàn năm, ngay cả khi người Pháp đô hộ chúng tôi hàng trăm năm hoặc ngay cả khi người Nhật gây ra nạn đói làm hàng ngàn người chết trong đệ nhị thế chiến. Chế độ cộng sản đã vượt trên tất cả các chế độ đó với sự cai trị bằng khủng bố, đó là lý do lớn nhất, bi thảm nhất với cuộc di tản chưa từng có trong lịch sử của chúng tôi.

Tôi không ở đây để xem xét lại tất cả các điều tệ hại của chủ nghĩa cộng sản. Nó đủ để nói rằng cuộc di tản là một minh chứng cho mong muốn bất khuất được sống trong tự do và nhân phẩm trong mỗi con người. Chúng tôi, những người tị nạn Việt Nam và là những kẻ sống sót sau sự kiện bi thảm đó là nhân chứng sống cho tự do và các giá trị cơ bản của con người mà chúng tôi đã bị từ chối ngay trên đất nước của chúng tôi. Thưa các bạn, đó là lý do chúng tôi chấp nhận nguy cơ bị các lính canh cộng sản bắn giết, bị đói khát nhiều ngày, bị hải tặc cướp và hãm hiếp, và cuối cùng phải bỏ mạng trên đường vượt biển tìm tự do như hàng trăm ngàn đồng bào của chúng tôi. Chúng tôi muốn nói với thế giới rằng tự do thật đáng giá để tranh đấu. Chúng tôi muốn bộc lộ sự ngây thơ và gian dối của một điều không tưởng về cộng sản mà nó chỉ có thể tồn tại trong lý thuyết hay trong một thế giới cả tin, nhưng đã là một địa ngục thực sự cho chúng tôi trong thế giới hiện thực. Chúng tôi muốn thừa nhận sự hy sinh và dũng cảm của các chiến sĩ của chúng tôi. Các cuộc chiến tranh luôn luôn gây tranh cãi và chia rẽ, nhưng như những gì chúng ta đang quan tâm, không có gì đáng kính hơn so với sự đấu tranh cho người dân Việt Nam, cho tương lai của họ thoát khỏi chế độ độc tài, cho công lý và tự do. Cuộc chiến đó trước đây và hiện nay không bao giờ là vô ích.

Cá nhân tôi là một người tỵ nạn thế hệ thứ hai. Tôi nói thế vì cha mẹ tôi đã từng là người tị nạn trước tôi. Năm 1954, sau khi Hiệp định Geneva chia đôi Việt Nam theo hai ý thức hệ đối kháng, cha mẹ tôi – một cặp vợ chồng trẻ ở độ tuổi đôi mươi với một đứa con nhỏ, đó là người chị cả của tôi lúc đó mới 2 tuổi, – nhổ gốc từ ngôi nhà của mình ở gần Hà Nội và mạo hiểm về phía nam. Họ trốn thoát bằng một chiếc ghe nhỏ và ra đi đến phần đất mà họ chưa từng biết đến trên đất nước. Tại sao họ, và hơn một triệu người Việt Nam từ miền Bắc như họ, thực hiện một cuộc hành trình đầy nguy hiểm về một nơi không rõ ở phía nam? Câu trả lời rất đơn giản: họ đã nhìn thấy những tội ác của chế độ mới khởi đầu trong các sự kiện thảm khốc như cái gọi là cải cách ruộng đất, cưỡng bách các nông dân vào hợp tác xã nông nghiệp, sự đàn áp có hệ thống đối với Kitô giáo, đấu tố và xử tử công khai hàng ngàn người. Họ đã sống trong sợ hãi và khủng bố. Trong một bầu khí như vậy, họ đã sẵn sàng đánh đổi mọi sự để có cơ hội sống trong tự do.

Đó là một điểm xoay của số phận mà sau này tôi cũng theo bước chân của họ, chỉ có điều là sau này nó là một cuộc hành trình xa hơn và nhiều rủi ro hơn. Chúng tôi là một gia đình có bảy người con. Một điều thực tế phổ biến cho các bậc cha mẹ là để bảo đảm sự an toàn cho các con trai trưởng thành của mình khỏi bị bắt tham gia vào quân đội Cộng sản Việt Nam lúc đó đang can dự vào hai cuộc chiến tranh biên giới đồng thời: Trung Quốc ở phía bắc và Khmer Đỏ ở phía nam. Hai anh trai của tôi thoát đi đầu tiên và định cư tại Hòa Lan. Tôi trốn thoát bằng thuyền vào năm 1980 với chị dâu của tôi và hai đứa con nhỏ của chị – một bé trai 18 tháng và một bé gái chưa đầy 6 tháng. Tôi phải ẵm đứa cháu gái ấy hầu như suốt cuộc hành trình. Đó là kinh nghiệm đau buồn nhất tôi từng trải qua. Và tôi không nói về việc thiếu lương thực, nước uống, và phơi mình trong nắng gió. Nhưng là việc nhìn xem một đứa trẻ bị đau đớn khốn khổ mà mình hoàn toàn bất lực để làm bất cứ điều gì cho nó. Nhưng kinh nghiệm của tôi là còn nhẹ so với rất nhiều thuyền nhân khác mà tiếng khóc của họ có thể xuyên thủng bầu trời. Họ là những người đã bị bắn và giết chết bởi những người lính biên phòng cộng sản; họ là những người đã bỏ mình trên biển cả mà không để lại một dấu vết; họ là những người đã bị bọn hải tặc cướp, hãm hiếp, đánh đập hoặc giết chết. Một số còn sống sót để kể lại những câu chuyện kinh hoàng của họ, nhưng hàng ngàn hàng vạn người khác thì không có cơ may. Một nghiên cứu ước tính rằng có đến 500 ngàn trong số 2 triệu người tị nạn Việt Nam chết trên đường đi tìm tự do. Không có gì phải nghi ngờ, đây quả là khúc phim đen tối nhất trong lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Đó là một điều mà chúng tôi sẽ không bao giờ quên.

Về điều này, tôi đã ghi lại trong huy hiệu Giám mục của tôi, hình ảnh của cuộc hành trình đi tìm tự do. Nó tượng trưng cho cả hai điều, cuộc xuất hành trong tinh thần mà tôi là một Kitô-hữu được mời gọi thực hiện, và cuộc ra đi tìm kiếm tự do thật đau đớn mà tôi và vô số các “thuyền nhân” đã thực hiện. Khẩu hiệu “Duc in Altum” có nghĩa là “hãy ra chỗ nước sâu” có một phần là để tôn vinh việc tưởng nhớ tới đồng bào tôi những người đã chịu đau khổ và bỏ mình trong cuộc ra đi tìm kiếm giấc mơ tự do và nhân phẩm. Theo như tôi biết, tôi là giám mục gốc Việt Nam duy nhất có huy hiệu kết hợp lá cờ của miền Nam Việt Nam và di sản tị nạn của tôi. Bằng cách làm như vậy, đó không phải là mong muốn của tôi để tham gia vào chính trị của quốc gia gốc của tôi hoặc có vấn đề với nhà cầm quyền cộng sản hiện tại ở đó. Đấy chỉ đơn giản là mong muốn của tôi để làm chứng cho sự thật về lý do tại sao chúng tôi vượt thoát và tại sao chúng tôi đang ở đây trước mặt các bạn hôm nay.

Người Công giáo chúng ta thường nói “Thiên Chúa làm việc theo những cách bí ẩn” và điều này là chắc chắn đúng trong trường hợp của ‘thuyền nhân’ Việt Nam. Khoảng ba mươi năm trước đây, chúng tôi đến đất nước này với một vài giấy tờ mà chúng tôi được UNHCR (Ủy Hội Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc) cấp trong các trại rải rác trên các vùng xa xôi của các quốc gia Đông Nam Á. Chúng tôi đã mất tinh thần, bị lạc hướng và không có gì chắc chắn về triển vọng của mình trong một đất nước mới. Trong con mắt của nhiều người Úc, chúng tôi là một gánh nặng, một sự xâm lấn, một nỗi ô nhục và thậm chí là một mối đe dọa đối với nước Úc mà họ muốn duy trì. Tôi muốn nhanh chóng cân bằng lại thái độ này với lòng thiện chí, sự hào phóng, hiếu khách và cảm nhận về sự công bằng mà chúng tôi đã trải nghiệm từ đa số người dân Úc. Ở đây với chúng ta có sự hiện diện của cựu Thủ tướng chính phủ, ngài Malcolm Fraser, ông là người góp phần chính trong việc đưa những người tỵ nạn Việt Nam ồ ạt đến Úc. Ước chi tôi đã là “một con ruồi đậu trên vách” trong các buổi họp của các đảng phái ở quốc hội hoặc trong vô số các cuộc tranh luận về vấn đề này giữa các đồng nghiệp của ông về cả hai phía chính trị vào thời điểm đó. Không cần biết điều gì đã từng được tuyên bố và tranh luận, nước Úc đã đón tiếp chúng tôi và hậu quả là đã chôn vùi Chính Sách Nước Úc Da Trắng, ít nhất có thể nói đó là một quốc gia can đảm. Nước Úc không còn giống như xưa sau khi chúng tôi đến, quả vậy, quốc gia này đã trở nên tốt hơn trước hoặc tồi tệ hơn trước, thì đây các bạn có thể đổ cho ông Fraser!

Nói về những thay đổi mang lại do chính sách đa văn hóa và đặc biệt về sự xuất hiện của người tị nạn Việt Nam và Đông Nam Á, các bạn có thể xác minh cho chính mình khi ghé thăm các vùng như Footscray và Springvale ở Melbourne và Cabramatta ở Sydney. Khi tôi đến Springvale 30 năm trước đây, nó là một nơi khá ảm đạm và buồn tẻ. Trung tâm mua sắm chỉ giới hạn trong khu vực quanh Springvale Road, khá bình thường để ít nhất có thể nói vậy. Bây giờ nó là một trong những vùng năng động nhất ở Melbourne. Vì vậy, bây giờ nhiều người Úc không phải gốc Á châu đến đó mua sắm để được giá rẻ và đặc biệt là để thưởng thức các món ăn ngon. Thành phố Greater Dandenong thậm chí còn thảo luận về khả năng có một chiếc xe buýt du lịch cho vùng này với hương vị độc đáo của nó và có lẽ với một sưu tập lớn nhất về các ngôi chùa Phật giáo hơn bất kỳ vùng nào ở Úc. Tại Sydney, các sáng kiến tương tự cho Cabramatta đang được chính phủ xem xét. Các vùng ngoại ô này và các trung tâm khác của người Việt trên khắp nước Úc chắc chắn đã đi một chặng đường dài. Có một dạo người ta sợ đến những nơi này bởi vì có những vấn đề liên quan đến ma túy. Nhưng sự nghi ngại như vậy bây giờ chỉ còn trong ký ức xa xôi, và những nơi này đã chuyển mình thành những nơi sinh động, các trung tâm an toàn và đầy màu sắc và là những thí dụ nổi bật của một nước Úc đa văn hóa.

Thiên Chúa thậm chí còn thực hiện nhiều điều kỳ bí hơn khi xét tới vai trò của người Công giáo Việt Nam trong Giáo Hội Úc. Tha thứ cho tôi nếu tôi nói có vẻ hơi khoe khoang. Nhưng có bằng chứng rõ ràng rằng những người Công giáo Việt Nam là một trong các nhóm sinh động nhất mà Giáo hội Công giáo tại đất nước này đã từng chứng kiến. Trong lễ thụ phong Giám mục của tôi, tôi đã nhận xét một cách hóm hỉnh rằng chúng tôi là “Ái-nhĩ-lan Mới” và tôi nghĩ rằng điều đó đúng về nhiều mặt. Trong một thời gian dài, Ái-nhĩ-lan đã có số linh mục thặng dư và nhiều người trong số họ đã đến đây để lấp đầy số thiếu hụt ở Úc. Bây giờ, thay vào đó là người Việt Nam đã giúp làm giảm bớt tình trạng thiếu giáo sĩ và làm thay đổi bộ mặt của Giáo Hội Công Giáo ở đây. Các con số nói lên điều đó. Hiện có đến 150 linh mục Việt Nam tại Úc – một con số cao bất cân xứng so với tỷ lệ phần trăm nhỏ hơn nhiều của người Công giáo Việt Nam ở đây. Tương tự như vậy, các chủng viện và các dòng tu trên khắp đất nước cũng thường có kinh nghiệm về hiện tượng tương tự. Cả những giáo dân Công giáo Việt Nam bình thường cũng đang làm cho sự hiện diện của họ dễ nhận ra. Không phải là họ chỉ hoạt động tại các trung tâm của họ rải rác khắp đất nước, người Công giáo Việt Nam tham gia trong tất cả mọi cách khác nhau vì lợi ích của Giáo Hội. Bất cứ nơi nào họ hiện diện, đều có sự tham gia tích cực và năng động hơn các nhóm khác. Tôi đoán là các bạn cũng có thể nói như vậy về người Phi Luật Tân, Mau-ri, Đông Timor và các nhóm khác, những người được biết đến vì lòng đạo đức của họ. Điều nổi bật nhất của những người Công giáo Việt Nam là kinh nghiệm về việc họ bị buộc phải rời khỏi đất nước của họ trong một trạng huống rất đau buồn.

Với sự tôn trọng dành cho người Do Thái, tôi muốn nhấn mạnh để vẽ ra sự tương ứng giữa kinh nghiệm của họ về lưu vong và kinh nghiệm của người tị nạn chúng tôi. Giống như họ, chúng tôi có kinh nghiệm kinh hoàng và đáng xấu hổ về việc tách khỏi cội nguồn. Cũng như họ, chúng tôi khao khát việc giải phóng và khôi phục lại đất nước chúng tôi. Giống như họ, chúng tôi khẳng định việc xây dựng lại cuộc sống của chúng tôi và cảm nhận của chúng tôi về bản sắc của mình. Và cuối cùng cũng như họ, chúng tôi có một ý thức trách nhiệm liên quan đến vị trí của chúng tôi trong xã hội mới và giáo hội địa phương. Nhiệm vụ đó bao gồm trong việc làm nhân chứng của chúng tôi cho tự do, đức tin và các giá trị cốt lõi của con người. Một câu thánh vịnh thật có ý nghĩa đối với chúng tôi: “Tảng đá bị thợ xây loại bỏ, đã trở nên đá tảng góc tường.” Cuộc hành trình của chúng tôi đi từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ ngục tù đến tự do, từ tình trạng bị bứng gốc đến chỗ có cảm giác thuộc về mới mẻ, từ bên lề đến hội nhập. Chúng tôi có thể chưa hoàn thành đầy đủ cuộc hành trình này. Tuy nhiên, kinh nghiệm của chúng tôi cho chúng tôi một sự đánh giá độc đáo về các giá trị và các cơ hội mà những người khác chỉ phỏng đoán. Thật vậy, sự khởi đầu khiêm tốn của chúng tôi đã trở thành gia sản của chúng tôi. “Tảng đá bị loại bỏ” đã trở thành “đá tảng góc tường”. Điều này không phải là để nói rằng chúng tôi có một cảm giác về bản sắc và sứ mệnh cao quý. Không phải vậy. Chúng tôi không đặc biệt hơn bất cứ ai khác. Thay vào đó, chúng tôi tin rằng Thiên Chúa sử dụng chúng tôi với kinh nghiệm độc đáo của chúng tôi cho mục đích riêng của Ngài trong Giáo Hội và trong xã hội mà chúng tôi đang sống. Chúng tôi hy vọng sống trọn theo sứ mệnh mà Chúa đã trao phó cho chúng tôi.

Từ đầu đến giờ, như các bạn thấy, tôi đã không nói bất cứ điều gì cụ thể về vấn đề người tầm trú mà đó lại là chủ đề chính của cuộc thảo luận của chúng ta tối nay. Đấy mới chỉ là việc “đập quanh bụi rậm” mà các bạn có thể không đồng ý. Nhưng tôi đã cố đóng khung lý luận của tôi theo cách này. Những gì tôi đã minh chứng từ đầu đến đây đó là những người dễ bị tổn thương muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn cho bản thân và con cái của họ không nên bị nhìn một cách đơn giản là một gánh nặng và trách nhiệm đối với xã hội của chúng ta. Họ có thể trở thành những người đóng góp và kiến tạo vĩ đại cho quốc gia này. Kinh nghiệm của những người tị nạn Việt Nam là bằng chứng rõ ràng rằng thậm chí nhóm bị tổn thương nhất và nghèo nhất cũng có thể được hội nhập trong xã hội đa văn hóa của chúng ta và có thể tạo ra những đóng góp tích cực. Nỗi sợ hãi rằng sự gắn kết xã hội của chúng ta có thể bị suy yếu hoặc là trong tương lai chúng ta có thể bị tổn hại vì một “cuộc xâm lăng của Á châu” – cụm từ về sự sợ hãi phổ biến được rao truyền – đã được chứng minh là vô căn cứ. Hôm nay, những người Úc gốc Á châu đã tham gia cùng với nhóm chính mạch trong mọi khía cạnh của xã hội chúng ta. Ngay cả những người hoài nghi về chính sách đa văn hóa cũng thừa nhận rằng nước Úc đã phát triển để trở thành một nơi năng động, đa dạng và thú vị hơn nhiều.

Việc tranh cãi vẫn có thể có, sự xuất hiện của người tị nạn Việt Nam hoặc di dân Á châu chỉ là một phần của tấm thảm đa dạng về kết cấu của quốc gia chúng ta. Họ không phải là nhóm duy nhất đã phải đấu tranh khó khăn cho việc được chấp nhận và hội nhập. Mỗi thế hệ kế tiếp của người di dân đã phải vượt qua muôn vàn khó khăn trong việc thích nghi với cuộc sống mới tại Úc. Những người tị nạn sau chiến tranh và những di dân từ châu Âu – đặc biệt là những người có ngôn ngữ gốc không phải là tiếng Anh – đã chịu đau khổ không kém vì những khó khăn, nghịch cảnh và thậm chí bị phân biệt đối xử. Họ là những lực lượng nòng cốt của nền kinh tế, thường làm việc cho các dự án to lớn về cơ sở hạ tầng cung cấp nền tảng cho một nước Úc thịnh vượng mà chúng ta thừa hưởng ngày hôm nay. Cùng một tinh thần quyết tâm và làm việc chăm chỉ là đặc trưng cho các thế hệ di dân trước đây. Họ đã và đang tiếp tục đóng góp vào nền kinh tế và xã hội của chúng ta. Chắc hẳn rằng mỗi nhóm đưa ra thách thức riêng của mình cho nước Úc và quốc gia này đã liên tục trỗi dậy đương đầu với thách thức và kết quả là đã trở nên phong phú hơn. Tôi cho rằng chúng ta sẽ không sống đúng truyền thống của chúng ta và tự làm nghèo đi chính mình khi chúng ta áp dụng chính sách khắc nghiệt và sai nguyên tắc đối với người tị nạn.

Là một cựu thuyền nhân, tôi co rúm và rùng mình với nỗi kinh hoàng mỗi khi tôi nghe câu thần chú “Chận đứng thuyền ghe!” Như thể chúng ta sẽ bị tràn ngập bởi những phần tử không mong muốn này, những người sẽ lấy mất việc làm của chúng ta, đe dọa nền an ninh của chúng ta và đặt tương lai của chúng ta trước nguy cơ. Chúng tôi, những người tị nạn Việt Nam đã nghe nói tất cả những điều này trước đây và chúng tôi đã chứng minh cho mọi người dân Úc rằng câu thần chú ấy đơn giản chỉ là sự sợ hãi được rao truyền và đang hạ thấp phẩm giá quốc gia vĩ đại của chúng ta. Các bạn có biết là một nhóm người trong chúng tôi đã đến Darwin sau khi Sài Gòn sụp đổ không? Một người tị nạn có tên Lê văn Hiếu đã ở trên một trong những chiếc ghe đầu tiên đó. Sau một sự nghiệp thành công về tài chính, bao gồm cả thời gian làm thanh tra và giám đốc cho ASIC (Australian Securities and Investments Commission, Ủy ban Chứng khoán và Đầu tư Úc), ông Hiếu đã trở thành Phó Toàn Quyền (Lieutenant Governor) Tiểu bang Nam Úc và là Chủ tịch Ủy ban Đa Văn hóa và Sắc tộc Sự vụ Nam Úc. Và dĩ nhiên, ông không phải là người cựu thuyền nhân duy nhất đã vươn lên một cách nổi bật khi phải chống chọi với muôn vàn khó khăn. Nước Úc đã tạo ra vô số những cá nhân như vậy với những câu chuyện thành công hiếm có của họ, đã được biết đến hoặc trong âm thầm, từ gần như mọi thế hệ, mọi nhóm sắc tộc và mọi lĩnh vực của sự nỗ lực. Sao lại có thể như thế được khi mà toàn bộ nước Úc hiện đại đã được hình thành như là một thuộc địa cho tù hình sự? Anh chị em Thổ dân của chúng ta biết rõ điều đó hơn đó là nước Úc đã được coi như chỉ thích hợp cho những người bị án tù. Họ đến đây bằng các tàu chở hàng và không phải để biến đổi bộ mặt của đất nước này. Hiếm có quốc gia nào có thể tự hào với sự khởi đầu bất thường như vậy. Kể từ kỷ nguyên của những người tù và có lẽ kể từ thời hồng hoang của Thổ dân, lịch sử của đất nước này là về sự chiến thắng của người bị áp bức, sự khải hoàn của tinh thần con người. Tôi tin rằng nước Úc được như ngày hôm nay là vì đất nước chúng ta dám chào đón những kẻ không được đón chào; chúng ta dám tạo cơ hội cho những người kém may mắn và một “sự công bằng cho kẻ yếu thế”. Chúng ta đã làm cho câu nói này trở thành đúng nghĩa đối với nhiều người đã đến bến bờ của chúng ta tương tự như ông Hiếu: “Kẻ yếu thế hôm qua lại là nhà vô địch hôm nay”.

Ngoài những khẩu hiệu chính trị mà tôi đã bình luận ở trên, tôi không dám chắc rằng cả giọng điệu lẫn nội dung của các cuộc tranh luận hiện nay về người tầm trú lại thích hợp với tinh thần của đất nước vĩ đại này của chúng ta. Nhiều lập luận được đưa ra để từ chối cho người tị nạn có cơ hội được bảo vệ mà họ đáng được hưởng theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Người Tị nạn – trong đó nước Úc là một bên ký kết. Gần đây quyết định của Tòa án Tối cao liên quan đến điều gọi là thỏa thuận trao đổi người tị nạn với Mã-lai không những cho thấy sự yếu kém trong chính sách của chính phủ nhưng cũng tạo ra một sự kêu gọi đối với chúng ta trên phương diện một quốc gia phải tôn trọng nghĩa vụ pháp lý và đạo đức của mình. Thư chung Ngày Chúa nhật về Công bằng Xã hội năm 2007 của Hội đồng Giám mục Công giáo Úc đã kêu gọi chính phủ từ bỏ “giải pháp Thái Bình Dương”. Gần đây, Hội đồng Giám mục lại lặp lại lời kêu gọi thanh lọc tại chỗ để tạo cho người tầm trú một cơ hội được sống một cuộc sống xứng với phẩm giá trong khi tình trạng tị nạn của họ đang được xét duyệt.

Tôi không có ý định nhận xét về những lập luận này ở đây. Đủ hiểu để nói rằng vấn đề người tầm trú và tị nạn là một vấn đề lâu dài và phức tạp, và không thể có một giải pháp dễ dàng trong bối cảnh xã hội hiện thời của chúng ta và hơn thế nữa là vai trò của chúng ta trên thế giới hiện nay. Tuy nhiên, những gì tôi muốn kêu gọi các bạn là chúng ta cần tiếp cận vấn đề từ một hướng nhìn tích cực mà không phải là từ một tâm lý hẹp hòi và tiêu cực làm hạ phẩm cách mọi người dân Úc. Tất cả chúng ta đều nhớ sự cố Tampa và nó đã làm hại thanh danh của chúng ta thế nào trên trường quốc tế – thậm chí nếu nó có thể bị chính trị hóa trong nước. Đáng buồn thay, thế giới sau ngày 11 tháng 9 (2001), khi việc bảo vệ biên giới và an ninh quốc gia trở thành quan trọng về mặt chính trị và xã hội, thì các quyền của người tầm trú trở thành thứ yếu và thậm chí là không được màng tới. Tampa và chuyện “quăng con xuống biển” sau đó là những ví dụ, và thực sự là hình ảnh thu nhỏ của câu chuyện tiêu cực và nền chính trị thiếu đạo đức đã làm nhiễm độc các cuộc tranh luận. Bất kể chúng ta đứng chỗ nào trong vấn đề này, nó làm hạ phẩm cách của chúng ta khi đồng loại của chúng ta bị cho là thấp kém hơn con người và nguy hiểm. Chắc chắn rằng, những người dám đánh đổi mạng sống của họ để mong tìm một tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân và con cái mình, xứng đáng được đối xử tốt hơn. Chắc chắn rằng, một quốc gia di dân văn minh như chúng ta có thể tự cải thiện cho tốt hơn ngay cả đối với một vấn đề rất phức tạp.

Trong tâm trí của tôi, chúng ta không thể tiếp cận vấn đề của người tầm trú mà không quan tâm tới một bối cảnh rộng lớn hơn về công lý và tình liên đới. Nước Úc là và sẽ tiếp tục là một nam châm cuốn hút người tầm trú cho đến khi nào vẫn còn một vực thẳm ngăn cách vị trí của chúng ta và vị trí của họ trên cán cân chính trị và kinh tế-xã hội. Một giải pháp tích cực phải bao gồm việc giải quyết vấn đề chủ yếu là vấn đề nhân đạo và công lý, chứ không phải chỉ đơn thuần là một vấn đề chính trị. Với phân tích sau cùng, người tầm trú thách thức chúng ta xem xét lại hoàn cảnh khó khăn của họ và sự bất bình đẳng toàn cầu trên một mặt, và mặt khác, đặc quyền của chúng ta được hưởng một số các điều kiện sống tốt nhất trên hành tinh. Có thể nào chúng ta cứ bảo vệ lối sống của chúng ta mà lại ít quan tâm hoặc đếm xỉa tới các anh chị em kém may mắn của chúng ta? Có thể nào chúng ta cứ tiếp tục bảo vệ đặc quyền của chúng ta như là một “độc quyền” của riêng mình mà không cần đối mặt với sự bất công có ảnh hưởng tới chính chúng ta? Có thể nào chúng ta cứ áp dụng các biện pháp trong việc đối xử bất công và vô nhân đạo chống lại con người đồng loại của chúng ta để biện minh cho thái độ của chúng ta? Đối với tôi dường như chúng ta không thể tránh khỏi những câu hỏi này và những câu hỏi gây nhiều tranh cãi về mặt đạo đức ẩn nấp đằng sau vấn đề người tầm trú.

Để kết luận, tôi muốn nói điều này với toàn thể nhân dân Úc: chúng ta có thể làm toàn bộ tốt hơn nhiều so với việc cho phép nền chính trị gây sợ hãi và tiêu cực cướp mất cuộc tranh luận của chúng ta và định hướng phản ứng của chúng ta; chúng ta có thể ngăn chặn việc hạ thấp phẩm giá của đất nước xinh đẹp của chúng ta bằng cách quay về với các giá trị Kitô giáo của mình như là quan tâm đặc biệt đến người nghèo, truyền thống công-bằng-cho-mọi-người và huyền thoại của mình về việc trợ giúp những người yếu kém. Nước Úc đã trỗi dậy để đương đầu với những thách thức trong quá khứ với lòng quảng đại bảo bọc những người tầm trú, di dân và người tị nạn. Quốc gia này đã tự chứng minh mình can đảm một cách đặc biệt trước làn sóng người Đông Dương bỏ nước ra đi và đã chấp nhận một số lượng lớn chưa từng có những người tị nạn Á châu lần đầu tiên trong lịch sử của mình. Thế giới đã không đi đến chỗ tận mạt như một số người đã có thể lo sợ. Ngược lại, nước Úc đã biến đổi để trở nên tốt hơn vì nó luôn luôn xảy ra như vậy với từng làn sóng kế tiếp của những người mới đến. Nước Úc được như ngày hôm nay là vì tình yêu của họ đối với tự do và các giá trị cơ bản của con người. Nước Úc được như ngày hôm nay là vì niềm xác tín và chí hướng của họ cho một tương lai tốt đẹp hơn. Chúng ta vinh danh di sản của quốc gia vĩ đại này không phải bằng chính sách phong tỏa quá mức, tự cách ly và bảo vệ đặc quyền của chúng ta bằng mọi giá. Thay vào đó, chúng ta có thể làm cho nó thành vĩ đại hơn khi chúng ta quan tâm và chăm sóc người tầm trú trong tinh thần bao dung và liên đới là những điều đã ghi lại dấu ấn trong lịch sử của đất nước chúng ta ngay từ lúc khởi đầu. Tôi kết thúc ở đây với thông điệp của các Giám Mục Công Giáo Úc về người tị nạn và tầm trú vào tháng 5 năm 2004: “Nước Úc có cơ hội để khôi phục lại thanh danh của mình như là một quốc gia nhân đạo gương mẫu nơi mà người tị nạn có thể xây dựng lại cuộc sống tan vỡ của họ và là nơi, như một quốc gia, chúng ta có thể hát mà không sợ xấu hổ rằng ‘những ai vượt biển ngang đây, hãy vào chia sẻ bình nguyên bạt ngàn.’”

Cám ơn các bạn đã lắng nghe!

Giám mục Vinh-sơn Nguyễn văn Long OFM

Giám Mục phụ tá, Tổng Giáo Phận Công Giáo Melbourne,

Đặc trách khu vực miền Tây,

Giám Mục hiệu tòa Tala.

(Hoàng Nguyễn dịch từ nguyên bản tiếng Anh)

Ghi chú: Bài phát biểu này được trình bày cho cử tọa người Úc. Độc giả có thể đọc nguyên văn Anh ngữ và xem video clip toàn bài phát biểu theo link:

http://www.cam.org.au/melbourne-news/bishop-vincent-long-gives-rerum-novarum-oration-2011-video.html