Tuesday, July 5, 2011

Ngày vui của bà Trần Khải Thanh Thủy qua mau!

    Ngày vui qua mau!
Đào Nương
Nhật báo Saigòn Nhỏ ngày 2 tháng 7, 2011


Trong bài viết tuần trước, Đào Nương tôi đã “welcome” bà TKTT đến Hoa Kỳ và lo sợ khi bà được Việt cộng cho đi tỵ nạn Hoa Kỳ vì “lý do nhân đạo” nhưng lại giữ “phân nửa” của bà ở Việt Nam. Thật là ... no good! Có mụ già nhà quê lưu vong thuộc mẫu người “si tình” thường trực rất “sợ” “thiên đường của bác” tại quê nhà nhưng cho rằng ra đi như thế thì thà đừng đi. Nếu chúng ép phải ra khỏi nước thì phải gọi đó là hành động cưỡng bức ... vô nhân đạo của bọn Viêt gian cộng sản dành cho một người đấu tranh vì dân chủ. Đi như thế, có khác nào “người đi một nửa hồn tôi chết, một nửa hồn kia, đợi ... ủ tờ”. Sống xa “nửa kia” như thế thì chết còn hơn. Ngày rời Việt Nam dù để lại con tim hay khối óc thì đều là hoàn cảnh khốn khổ cho một phụ nữ lưu vong. Nói làm chi đến chuyện tiếp tục cầm bút tranh đấu cho dân chủ? Hành động cưỡng bức này của Việt cộng trên thông cáo chính thức của hai bên Mỹ và Việt cộng lại là vì “lý do nhân đạo” thì quả thật là khó nghe với một nhà tranh đấu cho dân chủ.

Hệ thống báo Saigòn Nhỏ hân hoan đón chào bà Trần Khải Thanh Thủy và hy vọng khi đã chiến đấu anh dũng trong xã hội cộng sản và sống sót trong lao tù cộng sản thì giờ đây bà cũng sẽ chiến đấu anh dũng, sẽ tiếp tục đứng thẳng để đối phó với những “mặt trận” mới đang chờ đợi bà nơi xứ người. Đào Nương tôi chợt thấy lo sợ cho bà, “thân gái dặm trường” với những kẻ thù dấu mặt. Trong tù cộng sản, chúng ta có thể nhận diện kẻ thù dễ dàng. Nhưng trong tình thế đấu tranh chống cộng hiện nay ở hải ngoại, sự nhận diện kẻ thù khó hơn nhiều. Nó đòi hỏi một nhận định sắc bén và sự kiên định lập trường, nhìn vào hậu quả để phán quyết chứ không dùng cảm tính. Điều này khó thể đòi hỏi nơi một người vừa mới đặt chân đến vùng đất tự do “tư bản” sau những năm tù đày trong ngục tù cộng sản, dù là với một nhà tranh đấu cho dân chủ như bà Trần Khải Thanh Thủy.

Trong 26 năm làm báo, Đào Nương tôi đã chào đón nhiều nhà chống đối, đấu tranh dân chủ được Việt cộng “thả” và Hoa Kỳ “nhận” cho tỵ nạn chính trị. Có những cuộc đón tiếp rất ồn ào như trường hợp của Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Chí Thiện nhưng cũng có “những bước chân âm thầm” như trường hợp của Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Dương Thu Hương. Hiện nay, tất cả đều đã rõ trắng đen. Việc lột mặt nạ của một người có hoạt động tình báo thì cộng đồng người Việt hải ngoại không làm được. Nhưng phân tích những bài viết (dù có vẻ chống cộng) nhưng hoàn toàn có tác dụng tuyên truyền cho cộng sản thì người Việt hải ngoại nhận định được ngay sau một thời gian dù lối viết luồn lách có kỹ thuật cao. Nhưng lối văn viết báo, chửi cộng sản, chửi ông Hồ “ào ào” của bà Trần Khải Thanh Thủy thì lại là một chuyện thường ở huyện trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Bà Thanh Thủy chỉ “ăn khách” khi bà “đánh trâu” trong nước - ở Hà Nội, nhưng khi ra hải ngoại thì bà cũng sẽ chỉ là một trong hàng trăm ngàn cây bút chống cộng từ 36 năm qua.

Sự kiện đảng “ăn cắp” Việt Tân (để phân biệt với đảng “ăn cướp” CSVN) trở thành “bầu show” tổ chức cho bà ra mắt đồng bào ở thủ đô tỵ nạn Little Saigòn ở Nam Cali ngày Thứ Bảy 2 tháng 7, 2011 lại khiến cho Đào Nương tôi nhớ lại chuyện cũ. Tổ chức cũng là “bầu show” của ông Alibaba Nguyễn Chí Thiện. Nhưng khi ông Alibaba này bị lột tẩy vì tội cầm nhầm tập thơ Vô Đề thì “đảng ăn cắp” này lại im thin thít không dám tranh luận hay bênh vực. Lại càng không dám thú nhận là mình đã sai lầm. Tất cả những sự kiện này dễ dàng đưa chúng ta đến một kết luận: Đây là một “bầy chó có chủ”, chủ bảo sủa hướng nào thì chúng sủa hướng đó, chủ bảo ngừng thì phải ngừng. Và tiếp theo, chúng sẽ gục mặt, cúp đuôi, im lặng để qua cầu. Do đó, hành động của chúng thường tiền hậu bất nhất, không có chính sách, không có lòng nhân đạo, không có lý hay tình với tất cả mọi người, mọi việc.

Chúng ta hiện có vài trăm ngàn người Việt Nam ở hải ngoại đã từng sống trong chế độ cộng sản. Xin quý vị hãy tự hỏi khi cho vợ ra đi vì lý do nhân đạo nhưng giữ chồng ở lại, vừa đến Hoa Kỳ thì bà vợ lại được ngay một tổ chức “phản động” làm bầu show để “tâm tình” với đồng bào thì ... chuyện tình Lan và Điệp này sẽ kết thúc ra sao? Hỏi tức là trả lời. Thật là tội nghiệp cho bà Trần Khải Thanh Thủy khi chồng bà, ông Đỗ bá Tân, gia đình bà còn ở lại Việt Nam. Hãy hình dung sự hoang mang của bà Thanh Thủy khi từ một trại tù cộng sản được bốc sang Hoa Kỳ chỉ trong hai ngày. Trước khi đi, bà chỉ kịp nói lời từ giã với chồng, với mẹ và sau đó là phải lên máy bay đi ngay. Hành động “áp tải” này có thể gọi là “nhân đạo” không đối với một phụ nữ trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay mà cột đèn ở Saigòn có chân thì cũng ra đi. Đó là lý do từ khi cộng sản làm chủ đất nước, trong thập niên 80, 90, hàng triệu người Việt đã vượt biên xin tỵ nạn chính trị khắp thế giới. Những người đến được một vùng đất tự do là những người may mắn. Chúng ta chưa có một con số chính thức nhưng số người Việt vượt biên và vùi thây dưới Biển Đông được ước định vào khoảng nửa triệu người. Rồi từ khi cộng sản Việt Nam mở cửa để bang giao và hội nhập vào cộng đồng thế giới, số thanh niên, thanh nữ Việt Nam đi ra nước ngoài dưới dạng xuất khẩu lao động hay hôn nhân là gì?: Để vượt thoát tìm đường sống. Vì lý do chính trị hay kinh tế thì có gì khác biệt khi một công dân không thể có cơm ăn, áo mặc, bị đối xử như nô lệ ngay trên quê hương của mình.

Điều này nhà văn Trần Khải Thanh Thủy biết rõ hơn ai hết. Bà đã cầm bút, đã chửi cay độc, chửi tàn mạt cái chế độ cộng sản vô nhân và nhất là bà đã chế riễu “hình tượng thiêng liêng Hồ Chí Minh” mà bọn Việt cộng ngoài mặt thì giả vờ lộng kiếng nhưng bên trong chúng đã liệng cống từ lâu rồi. Kể từ khi chúng núp bóng “vô sản” để cướp chính quyền và biến thành những tên “tư sản đỏ”, một lũ cướp ngày. Trong một xã hội như xã hội cộng sản ngày nay, bà Thanh Thủy thật khó được bình an để xử dụng ngòi bút của bà. Không ai trách một phụ nữ khi hành động rất đời thường. Chấp nhận ra đi khỏi nước dù chồng con còn kẹt lại. Thoát được ai thì may cho người đó. Nhất là khi đang bị hành hạ dã man trong trại tù cộng sản mà lại được thả tự do, lên máy bay đi Mỹ ngay thì chắc khó có ai từ chối. Cột đèn mà có chân thì chúng cũng ra đi mà! Vì ra khỏi nước dưới thời cộng sản đồng nghiã với ra khỏi đáy địa ngục. Nhưng bà nhà văn Trần Khải Thanh Thủy không phải là một phụ nữ tầm thường. Bà là một nhà cầm bút đấu tranh cho dân chủ, một nhà tranh đấu đối lập với nhà nước cộng sản. Việc chấp nhận tình trạng lưu vong do Hà Nội đưa ra và Hoa Kỳ đồng thuận để tiêu diệt tiếng nói đối lập của mình thì chúng tôi phải coi như đó là sự đầu hàng của nhà đấu tranh dân chủ Trần Khải Thanh Thủy trước bạo quyền của cộng sản Việt Nam.

Thông cáo của đảng “ăn cướp” Viêt Tân làm “bầu show” cho bà nhà văn Trần Khải Thanh Thủy lại được đăng tải trên báo Người Việt, một cơ quan ngôn luận do “nhà tình báo” Đỗ Ngọc Yến thành lập đã soi được vài tia sáng vào những điều bí ẩn của cuộc ra đi “đột xuất”. Một người như ông Yến “được” ngồi ngang hàng với “anh ba” Nguyễn Tấn Dũng và tên lãnh sự CSVN Nguyễn Xuân Phong thời 1989 thì thật là một “hãnh diện” cho làng báo Việt ngữ tại Thành Cam. Khi đồng bào có dịp “tâm tình” với bà Trần Khải Thanh Thủy thì nên hỏi bà có biết những điều này không? Nhất là ông Ngô Kỷ và cái Poster hình ông Đỗ Ngọc Yến chụp chung với Nguyễn tấn Dũng và Nguyễn Xuân Phong do chính ông “khám phá” trước đây, khởi đầu cho một cuộc biểu tình kéo dài suốt 3 năm qua trước cửa toà soạn báo Người Việt này. Ông Ngô Kỷ nên nhờ bà Trần Khải Thanh Thủy kiểm chứng xem hình Nguyễn Tấn Dũng trong hình có phải là thật không?

Đào Nương tôi cố tin là bà Trần Khải Thanh Thủy “ngây thơ”, không hiểu về tình hình ở hải ngoại nên vừa ra khỏi ... bến xe Saigòn là bị rơi vào tay bọn “đầu nậu” “kháng chiến”. Hai năm qua bà ở tù cộng sản nên chắc bà chưa biết chuyện giáo sư Phạm Minh Hoàng bút hiệu Phan Kiến Quốc đang bị cộng sản bắt giam không xét xử tại Việt Nam về tội chống chế độ và bị chúng cáo buộc là đảng viên của đảng Việt Tân mặc dù vợ chồng ông Pham Minh Hoàng xác định là họ không có liên hệ với tổ chức này. “Bằng chứng phạm tội” của ông giáo sư người Pháp gốc Việt này là 36 bài “đánh phá chế độ” khi viết về những tệ nạn xã hội, về bauxite Việt Nam, về lãnh hải. 36 bài viết này so với hàng trăm bài viết kêu đích danh Hồ Chí Minh ra mà chửi, chỉ trích chế độ cộng sản một cách tàn tệ của bà Trần Khải Thanh Thủy được xuất bản tại hải ngoại trong hai quyển “Ở tù cộng sản, đố ai không cười” “Hồ Chí Minh, trăm tên, nghìn mặt” với lợi tựa ngay trang đầu “Người đã đem chủ nghiã cộng sản không tưởng và vũ khí vào Việt Nam, gieo bao tai hoạ cho dân tộc” thì ăn thua gì.

Nhưng không, bà Trần Khải Thanh Thủy không “ngây thơ” khi liên kết ngay với đảng “ăn cướp” Việt Tân. Vì trong cuộc phỏng vấn của đài VOA, bà Trần Khải Thanh Thủy đã thay “tông”! “Hồ Chí Minh, trăm tên, nghìn mặt” đã được bà Thanh Thủy gọi một cách rất lễ độ là Hồ Chủ Tịch:
    (Trích phỏng vấn của đài VOA):

    • VOA: Ngoài sự ủng hộ từ hải ngoại, theo chị, còn những yếu tố nào khác nữa giúp chị được phóng thích trước thời hạn và được sang Mỹ tỵ nạn trong số rất nhiều các trường hợp bất đồng chính kiến khác có hoàn cảnh tương tự như chị?

    Trần Khải Thanh Thủy: Ngoài vấn đề sức khỏe của tôi, còn nhân vấn đề Biển Đông. Việt Nam bây giờ bị Trung Quốc nắm đằng chuôi vì công hàm bán nước năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng theo lệnh của Hồ Chủ tịch. Cho nên Việt Nam cần tìm kiếm đồng minh, chính là Mỹ. Tháng 7 này giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ bàn về vấn đề Biển Đông và Việt Nam rất hy vọng Mỹ sẽ ủng hộ Việt Nam trong lĩnh vực này. Còn nhiều lý do lắm, nhưng lý do lớn nhất là tội ác quá trắng trợn của nhà nước Việt Nam đối với tôi. Tất nhiên, người đi tiên phong bao giờ cũng gặp kiếp nạn, nhưng kiếp nạn tôi gặp phải có lẽ là duy nhất ở Việt Nam. Chưa ai bị khủng bố như tôi. Họ ném bom phân 14 lần vào nhà tôi, rồi dựng chuyện đánh vỡ đầu tôi mà không có một chút sơ cứu nào. Suốt mấy tháng trời họ cắt thuốc của tôi trong trại giam Hỏa Lò đến mức tôi bị ngất lên ngất xuống 8 lần vì tiểu đường lên cao. Tôi còn bị đánh đập trong tù. Không những quản giáo sai phạm nhân đánh tôi, mà chính bản thân điều tra viên Nguyễn Hùng Tuấn cũng đánh tôi.
    (ngưng trích)
Bài phỏng vấn của đài VOA với nhà tranh đấu dân chủ Trần Khải Thanh Thủy rất dài nhưng Đào Nương tôi nghĩ chỉ với một câu trả lời trên đây là đủ để chúng ta nhìn ra nhiều điều:

1. “Tư duy” của bà TKTT về Hồ Chí Minh đã thay đổi: không ai gọi một tên gieo bao tai hoạ cho dân tộc, bán nước tức một tội đồ cuả dân tộc một cách cung kính là Hồ chủ tịch cả.

2. “Vấn đề sức khỏe” của tù nhân dù là tù nhân “vĩ đại” như Trần Khải Thanh Thủy không bao giờ là mối bận tâm của bọn Việt gian cộng sản cả. Khi trả lời như vậy với đài VOA, bà TKTT đã khinh thường “sự hiểu biết” của cộng đồng người Việt hải ngoại trong đó có khoảng vài trăm ngàn tù nhân chính trị đã sống sót từ các trại tù cải tạo Cộng Sản Việt Nam không chỉ vài năm ngắn ngủi như bà mà hàng chục năm hay vài chục năm.

3. “Vấn đề Biển Đông” không bao giờ là một bận tâm của bọn lãnh tụ Cộng Sản Hà Nội: Chúng đã nhận tiền, nhận ân huệ của Bắc Kinh để chiếm chính quyền. Chúng đã coi đất nước là của riêng và bây giờ nếu phải giao đất nước cho Tàu cộng thì đó là cũng là công việc của chúng, người dân không được có ý kiến như từ trước đến nay, từ khi “Hồ chủ tịch của bà TKTT” cai trị đất nước. Điều bận tâm duy nhất của bọn cộng sản Hà Nội là giữ vững chế độ để chúng bảo vệ được tài sản khổng lồ mà chúng đã thu lượm được. Đất, biển còn hay mất không phải là mối bận tâm của chúng. Hay nói khác đi, chúng không có khả năng để “bận tâm hay bảo vệ” đất nước. Chúng cũng không tìm “đồng minh ở người Mỹ” vì bản chất đa nghi của bọn bất tài, bất lương, thất học khi cướp được chính quyền là thường xuyên lo sợ. Ngược lại, người Mỹ có thứ tự “ưu tiên” khi bàn về chuyện “đồng minh”, lợi nhiều thì quan tâm trước. So với những quốc gia khác đang tranh chấp về Biển Đông với Tàu cộng, Việt Nam là một quốc gia không mang lợi ích đến cho người Mỹ như các quốc gia khác trong vùng: Thái Lan, Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã lai, Singapore, Nhật ... vì nền kinh tế trì trệ của Việt Nam dưới sự cai trị của những “đỉnh cao trí tuệ”.. loài khỉ”.

4. Một người vừa ra khỏi ngục tù cộng sản sau nhiều năm bị cô lập và biệt giam mà “bình luận” về tình hình chính trị thế giới như bà TKTT thì quả thật là “khó ai không cười”: “Tháng 7 này giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ bàn về vấn đề Biển Đông và Việt Nam rất hy vọng Mỹ sẽ ủng hộ Việt Nam trong lĩnh vực này”. Theo thiển ý của Đào Nương tôi, bà TKTT nên tìm một nơi vắng vẻ, đọc lại sách báo đã xuất bản tại hải ngoại và nhất là nên học ngoại ngữ. Ở xứ người mà không biết ngoại ngữ để theo dõi tin tức trực tiếp thì rất phiền. Nhất là không nên đọc “tài liệu đảng” để bình luận về tình hình thế giới. Muốn biết về tình hình Biển Đông trong tháng 7 này có gì lạ, Đào Nương tôi nghĩ bà TKTT nên đọc bài “THE PERFECT STORM, ASEAN adrift in South China Sea của ký giả David Brown trên Asia Times là đầy đủ chi tiết nhất. (http://www.atimes.com/atimes/Southeast_Asia/MG02Ae02.html)

5. “Còn nhiều lý do lắm, nhưng lý do lớn nhất là tội ác quá trắng trợn của nhà nước Việt Nam đối với tôi. Tất nhiên, người đi tiên phong bao giờ cũng gặp kiếp nạn, nhưng kiếp nạn tôi gặp phải có lẽ là duy nhất ở Việt Nam. Chưa ai bị khủng bố như tôi. Họ ném bom phân 14 lần vào nhà tôi, rồi dựng chuyện đánh vỡ đầu tôi mà không có một chút sơ cứu nào. Suốt mấy tháng trời họ cắt thuốc của tôi trong trại giam Hỏa Lò đến mức tôi bị ngất lên ngất xuống 8 lần vì tiểu đường lên cao. Tôi còn bị đánh đập trong tù. Không những quản giáo sai phạm nhân đánh tôi, mà chính bản thân điều tra viên Nguyễn Hùng Tuấn cũng đánh tôi”.

Dù không muốn chỉ trích hay chào đón một phụ nữ cầm bút vừa được hít thở bầu không khí tự do nhưng Đào Nương tôi nghĩ rằng nên viết ra sự thật mích lòng để bà TKTT “đừng quá khinh thường” cộng đồng người Việt hải ngoại như lời tuyên bố ở trên. Chắc chắn bà không phải là người đầu tiên và duy nhất bị “nhà nước ta” đối xử tệ bạc. “Kiếp nạn” của bà cũng không nhiều hơn 85 triệu người Việt Nam trong nước. Vì bà chỉ bị ném “bom phân” chứ không phải bom thiệt, bà chỉ bị đánh vỡ đầu nhưng không bị hiếp hội đồng, bà cũng không phải là người “tiên phong” trong số một triệu người tù cải tạo của miền Nam bị tiểu đường mà không có thuốc. Họ không chỉ bị ngất xỉu 8 lần như bà mà họ đã “xỉu” đến mất mạng luôn trong chốn rừng thiêng, nước độc. Bà “được” đưa ra toà, hình ảnh bà bị đánh được phát tán trên Internet và báo chí hải ngoại của cộng đồng người Việt đã hết lòng can thiệp, lên án bọn cộng sản Việt Nam đã chơi xấu với bà.

Thử nhớ lại, hiện nay, luật sư Lê Công Định, giáo sư Phạm Minh Hoàng có “được” đưa ra toà như bà không, ai biết chuyện gì đã xảy ra trong tù với họ. Công an cộng sản còn “lịch thiệp” với bà đến độ thay vì chúng đánh bà trực tiếp, chúng “sai” phạm nhân đánh bà. Sao chúng sợ bà đến thế. Riêng tên điều tra viên Nguyễn Hùng Tuấn đánh bà thì hiện nay số phận hắn ra sao? Phải chăng mai đây, để chứng minh guồng máy công an cai trị cuả “nhà nước ta” không tệ, có khi người Việt hải ngoại lại được dịp nhìn thấy tên này bị cách chức hay sa thải chăng?

Trong khi đó, nếu là một nhà đấu tranh dân chủ cho Việt Nam, một người dấn thân cho một công việc đội đá vá trời là đi tìm dân chủ, nhân quyền cho Việt Nam, thái độ phải khác chứ? Đáng lẽ bà TKTT phải lên tiếng cho hàng triệu tù nhân không được may mắn đi Hoa Kỳ vì lý do “nhà nước ta” lo sợ cho “sức khỏe của họ” như bà.

Tôi cứ đinh ninh rằng khi được phỏng vấn, bà TKTT sẽ nói rằng: “Tôi không biết vì sao tôi lại được may mắn như thế. Vì đất nước chúng ta còn có hàng triệu người bị giam trong những trại tù khắp nước. Họ bị bạc đãi hơn tôi. Họ bệnh nặng hơn tôi. Họ là những người không tên tuổi, không ai biết đến nỗi khổ đau của họ như tôi. Nếu nhà nước cộng sản Việt Nam nghĩ rằng viêc họ tha tôi như thế này có thể làm im đi tiếng nói chống cộng, chống bất công cho xã hội Việt Nam, từ nay tôi sẽ không dám “chửi” Hồ Chí Minh nữa thì họ đã lầm. Tôi sẽ làm những ngày tháng tù tội của tôi là những ngày tháng có ý nghĩa. Vì tôi sẽ làm cho thế giới nhìn thấy cái khổ của dân tôi, của đất nước tôi. Họ là hàng triệu người không được nói, không được ăn, không được thở... Nỗi khổ cuả tôi, cuả gia đình tôi không là gì so với nỗi đau khổ của họ ...”

Đào Nương tôi xin kể lại câu chuyện tiêu biểu của một phụ nữ Việt Nam mà tôi biết để bà TKTT biết thêm về nỗi thống khổ mà phụ nữ miền Nam sau 1975 có chồng là “ngụy” để từ nay bà TKTT biết rằng có người khổ hơn mình nhiều để bà đừng than khổ nữa. Hạnh phúc tương đối lắm bà ạ. Ngày đại úy Không Quân/Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Phí quang Quý đi cải tạo thì người vợ trẻ của ông chưa đến 20 tuổi. Cái khổ của cô vợ trẻ Kiều Túy là ông chồng “ngụy” của cô không an phận ở tù cải tạo như mọi người mà ông lại vượt ngục. Kết quả của một đêm lén về thăm vợ trước khi tiếp tục lẩn trốn là cái bào thai trong bụng người vợ trẻ. Dĩ nhiên, tin ông vượt ngục thành công được bọn công an khu vực đến tận nhà để tra hỏi. Chối gì thì chối nhưng khi cái bụng chửa vượt mặt thì cô vợ trẻ làm sao mà che dấu được nữa. Tai họa đến cho cô cùng đứa bé trong bụng là vì thế. Cô bị tù, và tù nhiều lần, sau khi được tha vì tội chửa hoang hay tội che dấu chồng trốn trại thì kế tiếp là tội vượt biên. Mỗi lần như thế vài năm hay vài tháng và đứa bé mang họ mẹ cứ theo mẹ mà đi qua nhiều trại tù. Ban ngày mẹ bị bắt đi lao động thì bé ở nhà bắt ốc, nhặt cơm rơi vãi mà ăn. Có lần bé bị lọt vào cái càn xé lớn đựng cơm tù tưởng đã mất mạng vì bé quá nhỏ. Cũng may mà bé được phát hiện kịp thời nếu không thì chết cũng không ai hay. Đời tù cộng sản thì bà TKTT đã biết, nay xin bà hãy đặt mình vào hoàn cảnh của “cô vợ ngụy” Kiều Túy và đứa trẻ mang họ mẹ trên đây thì chắc bà hiểu rõ hơn tôi. Cũng may mà ông đại úy KQ “ngụy” Phí quang Quý vượt biên thành công. Vài năm sau đó, sau khi liều mạng đến lần thứ 11 thì mẹ con bà Kiều Túy vượt biên cũng thành công. “Dù chết mẹ con mình cũng phải đi để về với cha ... Con không phải là một đứa con hoang như mấy tên công an mắng chửi me con mình đâu”. Khi đến Hoa Kỳ, em bé đã lên 9 tuổi.

Đứa bé gái đó hiện nay, bé Nguyễn Thị Kiều Trang là một bác sĩ ngành sản khoa tại Hoa Kỳ. Thời gian đầu ở Mỹ, khi còn học Trung học thì cha mẹ sinh thêm hai em bé. Buổi chiều, khi ở trường về, bé Kiều Trang phải mang cả hai cái babyseats với hai đứa em vào thư viện để vừa học vừa trông em. Khi trường trung học nơi em học treo lá cờ đỏ vì ngỡ đó là quốc kỳ của Việt Nam, em đã lên gặp bà hiệu trưởng, nói về đời sống của em trong những ngày em phải sống với lá cờ đỏ đó. Bà hiệu trưởng nghe chuyện, nói với em rằng em hãy về nói với ba mẹ em đưa lá cờ nào em nghĩ là đại diện cho Việt Nam bà sẽ treo lá cờ đó. Và từ đó đến nay, mười mấy năm rồi, em đã rời khỏi ngôi trường trung học đó, đã là một bác sĩ sản khoa của Hoa Kỳ nhưng ngọn cờ vàng ba sọc đỏ mà cha em đã từng chiến đấu dưới ngọn cờ đó, vẫn còn tung bay tại ngôi trường trung học của tiểu bang Washington này.

Khi kể lại câu chuyện trên, Đào Nương tôi hy vọng sẽ làm bà TKTT xúc động như Đào Nương tôi đã xúc động khi nghe. Tôi thấy mọi điều khốn khổ tôi phải chịu đựng trong đời lưu vong như không có gì khi so sánh với nỗi khổ của bé Kiều Trang. Một đứa trẻ sinh ra là con “ngụy”, cha trốn tù cộng sản, phải đi tù cùng với mẹ, từ khi chưa có trí khôn đã bị gọi là đồ con hoang, sống lê la trong trại tù khi mẹ bị bắt đi lao động khổ sai. Vượt biên đến được miền đất hứa Hoa Kỳ thì sự cố gắng của em cũng không dừng ở đó. Trong khi cha mẹ cố lập nghiệp thì em cố học, thay cha mẹ trông nom các em, dạy dỗ các em nên người và bản thân mình thì trở thành một bác sĩ sản khoa. Tấm gương đó, Đào Nương tôi cố gắng đến đâu cũng nghĩ rằng không làm sao noi theo được ... Nhưng “kiếp nạn” của bé Kiều Trang “có phải là duy nhất ở Việt Nam” không? Chắc là không, khi chúng ta có một triệu người được coi là “ngụy” sau ngày 30 tháng 4, 1975.

Một ông bạn ở tù cải tạo Việt Cộng hơi lâu thấy Đào Nương tôi thường “thắc mắc về những điều ai cũng biết” của mấy nhà “dân chủ cuội” thường nói đùa với tôi: Cho đến bây giờ bà vẫn chưa nhìn ra sự khác biệt giữa hiện tượng và bản chất của tư bản và cộng sản à? Ví dụ: chủ nghĩa tư bản tuy có vẻ giàu có, tự do, thoải mái, phong phú như vậy nhưng đó chỉ là “hiện tượng”, còn “bản chất” của chúng thì lại là nghèo đói, áp bức, bóc lột, mất tự do, đau khổ, và đang “giãy chết” đành đạch ở khắp nơi. Chủ nghĩa xã hội, ngược lại, tuy có vẻ nghèo nàn, lạc hậu và nhân quyền bị hạn chế như vậy, nhưng đó chỉ là “hiện tượng”, còn bản chất thì vô cùng giàu có, tiến bộ, tự do, dân chủ, càng ngày càng phát triển mạnh mẽ v.v. Rồi ông này còn ngâm nga: Ở tù một ngày trong ngục tù cộng sản, học được mười sàng “khôn lanh”. Ở nhà với vợ, chỉ có khôn liền liền ... Đứa nào ở tù cộng sản mà không sáng mắt ra, không biết lễ độ thì quả thật là ... biết chết liền.

Đào Nương tôi cũng muốn tin lời ông bạn dzàng. Rằng thì là chỉ cần vào tù cộng sản là anh nào cũng sáng mắt ra, cũng biết thế nào là lễ độ ... Cho đến khi được đọc được thông cáo của đảng “ăn cắp” Việt Tân loan tin họ sẽ là “bầu show” cho bà nhà văn Trần Khải Thanh Thủy để bà “tâm tình” với đồng bào và đọc được bài phỏng vấn của bà Trần Khải Thanh Thủy trên đài VOA thì mới thấy lời ông bạn trên đây chưa chắc là đúng. Ở “thiên đàng XHCN”, cái gì cũng dổm, ngay cả chuyện tù. Do đó, khi cả nước ở tù thì thân xác chỉ còn xương với da, nhưng “những thánh nữ” dân chủ khi ra khỏi tù, thân hình thì béo tốt. Người thì được tặng hoa, người thì được đi Mỹ vì “nhà nước ta” lo cho “sức khỏe của tôi”, vì “kiếp nạn của tôi” quá lớn. Làm sao tin được rằng đó là chuyện khó tin mà có thực?... Khen thay “Người” tạo được một “thiên đường XHCN” đã có lòng lo cho sức khỏe của người tranh đấu, chống chế độ như thế mà không gọi là “Hồ chủ tịch” thì biết gọi là gì?

Con đường tranh đấu dân chủ cho Việt Nam cần sự bình tĩnh và khôn ngoan, bản lãnh và mưu lược của những người muốn nhập cuộc. Hấp tấp, nói năng hồ đồ, đề cao cái tôi của mình quá đáng thì chỉ có thể là một viên gạch lót đường cho bọn cơ hội chủ nghĩa. Lời thật thì hay mích lòng. Mong bà TKTT đọc bài viết này như kinh nghiệm của một người đi trước trong làng báo Việt ngữ ở hải ngoại. Còn nếu bà “hạnh phúc” với “người tình” Việt Tân và cái động hoa đỏ lòm thì cũng đành chúc phúc cho bà. Ngày vui thường qua mau! Tuần “trăng mặt” của bà nhà văn “đấu tranh dân chủ” và cộng đồng người Việt hải ngoại không ngờ ngắn đến thế! Bà chị Dương Thu Hương ít ra cũng được dài hơn một chút. Buồn thật!

Đào Nương
_________
    Phỏng vấn nhà văn bất đồng chính kiến Trần Khải Thanh Thủy
    Source: http://www.voanews.com/vietnamese/news/interview-awar-winning-writer-tran-khai-thanh-thuy-06-27-11-124601334.html



    Việt Nam vừa phóng thích và trục xuất nhà văn bất đồng chính kiến Trần Khải Thanh Thủy sang Mỹ ‘tị nạn nhân đạo’, theo giải thích của chính quyền Hà Nội. Tuy nhiên, trong cuộc phỏng vấn với Trà Mi Ban Việt Ngữ đài VOA sau khi đặt chân tới Mỹ, nhà văn Thanh Thủy khẳng định bà qua Mỹ 'tị nạn chính trị', chứ không phải ‘tị nạn nhân đạo’ như tuyên bố của Việt Nam

    VOA: Chính quyền Việt Nam có những yêu cầu hay điều kiện gì với chị trước khi trả tự do và cho chị ra nước ngoài tị nạn hay không?

    Trần Khải Thanh Thủy: Đầu tiên, họ bắt tôi viết bản cảm tưởng về những ngày trong tù như thế nào và bắt tôi cam đoan rằng khi ra nước ngoài không được chống đối lại chính quyền. Tôi vẫn giữ vững quan điểm và lập trường

    của mình. Tôi nói chế độ nhà tù tại Việt Nam phải thay đổi tận gốc rễ, như việc giam 70, 80 người trong một phòng chật hẹp, mỗi phạm nhân chỉ được 60 cm, cả 70 người mới có được một hố xí chung, điều kiện ăn ở hết sức mất vệ sinh. Còn chuyện cấm tôi không được chống đối, tôi trả lời rằng bản chất tôi bộc trực, thẳng thắn. Tôi luôn coi mình là một nhà bất đồng chính kiến, nên những việc không hợp lý, không hợp tình thì tôi phải phản đối.

    VOA: Chính quyền Việt Nam hồi đáp thế nào trước những phản hồi chị ghi lại như vậy?

    Trần Khải Thanh Thủy: Có những lần họ bắt tôi phải viết đi viết lại. Thế nhưng cũng có những cái họ bảo thôi coi như cho qua.

    VOA: Ngoài sự ủng hộ từ hải ngoại, theo chị, còn những yếu tố nào khác nữa giúp chị được phóng thích trước thời hạn và được sang Mỹ tị nạn trong số rất nhiều các trường hợp bất đồng chính kiến khác có hoàn cảnh tương tự như chị?

    Trần Khải Thanh Thủy: Ngoài vấn đề sức khỏe của tôi, còn nhân vấn đề Biển Đông. Việt Nam bây giờ bị Trung Quốc nắm đằng chuôi vì công hàm bán nước năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng theo lệnh của Hồ Chủ tịch. Cho nên Việt Nam cần tìm kiếm đồng minh, chính là Mỹ. Tháng 7 này giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ bàn về vấn đề Biển Đông và Việt Nam rất hy vọng Mỹ sẽ ủng hộ Việt Nam trong lĩnh vực này. Còn nhiều lý do lắm, nhưng lý do lớn nhất là tội ác quá trắng trợn của nhà nước Việt Nam đối với tôi. Tất nhiên, người đi tiên phong bao giờ cũng gặp kiếp nạn, nhưng kiếp nạn tôi gặp phải có lẽ là duy nhất ở Việt Nam. Chưa ai bị khủng bố như tôi. Họ ném bom phân 14 lần vào nhà tôi, rồi dựng chuyện đánh vỡ đầu tôi mà không có một chút sơ cứu nào. Suốt mấy tháng trời họ cắt thuốc của tôi trong trại giam Hỏa Lò đến mức tôi bị ngất lên ngất xuống 8 lần vì tiểu đường lên cao. Tôi còn bị đánh đập trong tù. Không những quản giáo sai phạm nhân đánh tôi, mà chính bản thân điều tra viên Nguyễn Hùng Tuấn cũng đánh tôi.

    VOA: Phía Việt Nam nói chị sang Mỹ ‘tị nạn nhân đạo’. Là người trong cuộc, ý kiến của chị như thế nào?

    Trần Khải Thanh Thủy: Việt Nam chẳng có nhân đạo gì đâu. Nếu họ có nhân đạo, họ phải thả hết tù nhân ra. Bao nhiêu anh chị em đồng chí hướng với tôi, bao nhiêu nhà dân chủ, nhà bất đồng chính kiến, nhà cải cách chính trị-xã hội như anh Cù Huy Hà Vũ chẳng hạn, những người đó xứng đáng được thả lắm. Thế nhưng họ đâu có thả. Những người bị bắt toàn là những người học thức đầy mình. Họ đã nhìn thấy cái sai, cái trái của lãnh đạo Việt Nam vì sự độc tài mà nuốt chửng tương lai dân tộc. Cho nên, họ đứng lên phản kháng. Nhưng trong cơn sợ hãi, chính quyền Việt Nam đã tung đòn đánh trước.

    VOA: Chị không đồng ý với ý kiến cho rằng những trường hợp như chị là đi ‘tị nạn nhân đạo’. Theo chị, nói như thế nào mới đúng?

    Trần Khải Thanh Thủy: Phải nói là ‘tị nạn chính trị’, chứ còn ‘tị nạn nhân đạo’ thì Việt Nam chả có tí nhân quyền hay nhân đạo nào đâu.

    VOA: Trường hợp của chị không phải là đầu tiên mà cũng không phải là duy nhất. Chính quyền Việt Nam đồng ý trả tự do cho một nhân vật bất đồng chính kiến với điều kiện phải ra nước ngoài sống lưu vong. Theo chị, nên hiểu việc này như thế nào?

    Trần Khải Thanh Thủy: Họ muốn tước đi trước mắt họ những gai nhọn. Ngoài trường hợp của chị Bùi Kim Thành, tôi là trường hợp thứ hai, nhưng tôi hy vọng sau tôi sẽ còn một số trường hợp khác.

    VOA: Chị cho rằng đây là cách chính quyền Việt Nam ‘nhổ những cái gai nhọn’. Cũng có ý kiến cho rằng chính quyền Việt Nam không dung chấp những thành phần chống đối ‘có hại cho an ninh quốc gia’. Chị nghĩ sao?

    Trần Khải Thanh Thủy: Chúng tôi là những người đấu tranh hợp pháp bất bạo động chỉ có lợi cho an ninh quốc gia thôi. Lãnh đạo Việt Nam bây giờ mới là thế lực phản động, làm phản lại quá trình tiến hóa của dân tộc.

    VOA: Thực tế cho thấy những nhà bất đồng chính kiến từng tích cực cổ súy cho dân chủ khi ở trong nước, đến khi ra nước ngoài tị nạn thì hầu như mờ nhạt, không có đóng góp nào nổi bật hay hiệu quả. Ý kiến của chị về nhận xét này thế nào?

    Trần Khải Thanh Thủy: Đó cũng là một thực tế, nhưng tôi hy vọng trường hợp của tôi là ngoại lệ. Tôi là người cầm bút. Trong tôi không chỉ là một ngọn lửa nhỏ mà là cả một hỏa diệm sơn. Sự hiểu biết của tôi về mặt trái trong xã hội Việt Nam cũng rất nhiều. Với nỗi bức xúc của tôi trước những cái khổ của bản thân cũng như của dân tộc Việt Nam, tôi nghĩ tôi sẽ làm được nhiều hơn những gì những người đi trước không làm được. Trọng tài công minh nhất là thời gian.

    VOA: Nếu hệ quả con đường tranh đấu là đi tị nạn ở nước ngoài trở thành một xu hướng, một tiền lệ, chị mường tượng mọi việc sẽ như thế nào? Tác động của nó đối với chính những nhà tranh đấu dân chủ và với công cuộc đấu tranh vì dân chủ cho Việt Nam?

    Trần Khải Thanh Thủy: Theo tôi, không nên cứ đấu tranh là phải đi tị nạn ở nước ngoài vì khi ra nước ngoài sẽ tắt lửa lòng rất nhanh, sẽ không có lợi cho phong trào. Phải đấu tranh trực tiếp, trực diện ngay trên mảnh đất đầy chông gai, khói lửa đấy thì tiếng nói mới vang cao hơn. Nhưng trường hợp của tôi là ngoại lệ. Nếu họ không bức tử tôi bằng cách cấm tôi cầm bút trong trại suốt thời gian giam cầm, thì tôi đã chọn con đường ở lại Việt Nam. Họ tước đoạt mọi quyền tự do, mọi niềm tin lẽ sống của tôi. Hễ tôi cầm cây bút lên là y như rằng tất cả kéo đến giằng bút, thu giấy của tôi. Đối với người cầm bút mà không được viết thì không khác gì bị bức tử cả. Chính vì lý do đó mà tôi mới chọn cách đi tị nạn như thế này để được tiếp tục cầm bút.

    VOA: Những người tranh đấu trong nước bị trở ngại, nhưng những người tranh đấu bên ngoài Việt Nam cũng có những hạn chế nhất định. Theo chị, làm thế nào có thể vượt qua những hạn chế khi là một nhà tranh đấu bên ngoài Việt Nam?

    Trần Khải Thanh Thủy: Tôi vẫn tiếp tục giữ ngọn lửa tranh đấu, niềm đam mê viết, và tôi sẽ viết như khi còn ở trong nước.

    VOA: Khi đặt chân tới Mỹ, những lý tưởng và những mục tiêu chị xác định cho mình là gì?

    Trần Khải Thanh Thủy: Mục tiêu của tôi là được sống thật với mình và sống tự do, được cầm bút trở lại. Tôi sẽ viết cuốn ‘Hỏa Lò: Cửa sinh tử của những kiếp buồn’. Tập thứ hai tôi sẽ viết về chính bản thân tôi là ‘Đời tù’và một cuốn nữa mang tính chính luận cao, phần hai của ‘Đêm giữa ban ngày ở Việt Nam’ nói lên mặt trái của xã hội Việt Nam khi cả nước có 372 trường học, nhưng có tới gần 900 nhà tù.

    VOA: Theo chị, vai trò đóng góp của những tác phẩm chị dự định đó trong công cuộc vận động dân chủ cho Việt Nam như thế nào?

    Trần Khải Thanh Thủy: Chắc chắn chúng sẽ như những tiếng bom nổ giữa thời bình.

    VOA: Ngoài những gì chị vừa chia sẻ, chị có những dự định nào khác để không bị ‘tắt lửa lòng’ và để cho dòng mực trong ngòi bút của mình không bị phai nhạt?

    Trần Khải Thanh Thủy: Đam mê của tôi từ bé là cầm bút. Nhà văn muốn được tỏa sáng phải sống hết mình, phải mài mòn mình ra mà viết. Tôi hy vọng những tháng ngày ở Mỹ, cùng với lòng biết ơn đối với nước Mỹ không những đã cứu thoát tôi ra khỏi tù mà còn cưu mang hai mẹ con tôi nữa, tôi sẽ có sự cộng hưởng sức mạnh tinh thần để thể hiện tác phẩm đầy đặn hơn. Điều tôi lo ngại nhất bây giờ là nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam sẽ coi ông xã tôi như một cái chuôi để nắm. Chính thể Việt Nam không từ bất cứ một thủ đoạn bỉ ổi nào để bắt cái thiện phải im mồm.

    VOA: Ngoài những trăn trở cho người thân của mình, chị có những suy tư, trăn trở gì cho công cuộc chung mà chị muốn nhắn gửi đến những người trong nước, những người quan tâm tới chị, quan tâm đến nền dân chủ của Việt Nam?

    Trần Khải Thanh Thủy: Trăn trở thì nhiều lắm. Tôi thấy bão động đầy trời rồi mà tư tưởng của người dân Việt Nam còn chưa rung rinh. Tính đấu tranh đòi quyền lợi và tự do dân chủ trong thanh niên, lực lượng chính, cũng không được trang bị đến nơi đến chốn. Trong xã hội Việt Nam cũng có một cuộc vận động nội tại nhưng chỉ âm ỉ và chậm chạp thôi, tuy người dân Việt Nam đã mất niềm tin rất nhiều. Vẫn thiếu một ngọn lửa để thổi bùng lên. Đám đông không nhận thức được là họ có được những quyền như thế, mà thế nào cũng chịu vậy thôi. Tri thức của người Việt Nam về việc này nói chung rất kém.

    VOA: Xin chân thành cảm ơn chị đã dành thời gian cho cuộc trao đổi này.

    Trần Khải Thanh Thủy: Tôi phải cảm ơn vì mọi người đã quan tâm tới tôi.

    VOA: Vừa rồi là nhà hoạt động dân chủ Trần Khải Thanh Thủy, từng là hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nội tham gia khối dân chủ 8406 và là Hội viên Danh dự của Hội Văn bút Quốc tế Anh. Nhà văn Thanh Thủy cũng được nhận Giải Hellman/Hammet, tức giải thưởng vinh danh các ngòi bút can đảm bị đàn áp chính trị trên thế giới, do tổ chức Theo dõi Nhân quyền quốc tế Human Rights Watch trao tặng.


Friday, July 1, 2011

Văn Hóa "Đểu" - Lê Văn Ngọc

Lê Văn Ngọc

Chuyện về giáo dục ở Việt Nam ngày nay (Tức là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Độc lập- tự do – hạnh phúc):

Trong một buổi học, cô giáo đang dạy cho học trò tập đọc. Đến một chữ khó trong câu: “Đồng chí Phan Đình Giót đã anh dũng lấy thân lấp lỗ châu mai”. Cô hỏi: “Có em nào biết “anh dũng” là gì?. Hỏi mấy lần mới có một em dơ tay xin “phát biểu”:
    - Anh dũng là “đéo sợ”.

    Cô giáo đi từ kinh ngạc đến giận dữ, đem chuyện đến mách hiệu trưởng:

    - Đồng chí xem, học trò dốt nát, mất dậy thế này. Nó lại dám nói: “anh dũng là đéo sợ”.

    Hiệu trưởng gật gù, mỉm cười nói với cô giáo:

    - Ừ! Nó nói thế “đéo sai”.

    Cô giáo lắc đầu chán nản nói:

    - Đã thế thì đây “đéo dạy “nữa!

    Hiệu trưởng khoát tay:

    - Đây “đéo cần”.
Câu chuyện gọi là tiếu lâm, nhưng cười ra nước mắt này là một mặt biểu hiện của một nền , có thể là tiêu biểu cho văn hoá Macxit – Lêninnit đang ngự trị trên nước Việt Nam.

Nói đến văn hoá, người ta đã hàm một ý khác với dung tục. Người có văn hoá là một người có học – không cứ phải là có bằng cấp cao- cách cư xử lịch lãm, thanh lịch:
    Người xinh cái bóng cũng xinh,
    Người dòn cái tỉnh tình tinh cũng dòn.
Chính vì muốn có một phạm trù văn hoá tốt đẹp hướng thượng như thế, nên trước kia người ta gọi là văn hiến. Chỉ từ khi văn hoá Tây phương du nhập, các nhà văn tây mới dùng từ văn hoá để dịch chữ “culture” và cho nó nhiều ý nghĩa duy vật hơn. Nhất là quan niệm thiên Marxist của Đào Duy Anh (1), hay của các nhà “văn hoá” Cộng Sản sau này của Việt Nam: (2“Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.” (2)

Dùng khái niệm văn hoá Cộng Sản để hiểu văn hoá Cộng sản vì sao lại gọi là “văn hoá đểu”, đối với quan niệm xưa xem ra có nghịch lý; nhưng lại rất “biện chứng” với nền văn hoá Macxit hiện nay ở Việt Nam.

Theo “Tự điển tiếng Việt” do Hanội phát hành, từ “đểu” (3) đã được định nghĩa và có những từ kép như sau:

Đểu (tt) xỏ xiên, dối trá đến mất hết nhân cách: nói đểu, đồ đểu, chơi đểu.

Đểu cáng (tt) đểu và đê tiện: bộ mặt đểu cáng.

Đểu giả (tt): đểu và thâm hiểm; thủ đoạn đểu giả. (Chữ “giả” theo định nghĩa cũng trong tự điển này là “Không phải thật nhưng làm ra vẻ giống như thật”, khi ghép với chữ “đểu” lại có nghĩa là thâm hiểm.

Thực ra những người làm tự điển chỉ là sưu tập các từ ngữ lưu truyền trong dân gian. Thái độ khoa học là phải ghi rõ ràng những từ mới và nghĩa mới; cũng như những từ cũ đã bị đổi nghĩa. Có nhiều từ lúc đầu là nói lóng, nói trại nghĩa, vì mục đích che dấu bí mật, lâu dần đã mang ý nghĩa che dấu ấy và trở thành thông dụng. Cũng vậy, chữ “đểu” lúc đầu chỉ mang một ý nghĩa là xỏ xiên, dối trá (tự điển ghi chính thức), nhưng nay nó mang rất nhiều nghĩa: “Ngôn ngữ của dân tộc nào cũng gắn liền với lịch sử. Cái gì thường trực và lâu dài cũng trở thành ám ảnh rồi đi vào ngôn ngữ. Mày thử xem, ngôn ngữ của nước nào cũng xoay quanh hai từ “có” và “là”, (”être et avoir”); to be and to have. Người Việt thì không có gì cả mà cũng chẳng là gì cả, chỉ có cái thân phận nô lệ, bị bóc lột và đói triền miên, vì thế mà động từ cơ bản của tiếng Việt là “ăn”.

Thắng bại thì gọi là “ăn thua”, sinh hoạt nghề nghiệp thì gọi là “làm ăn”; vợ chồng “ăn ở, ăn nằm” với nhau; nói chuyện là “ăn nói”, rồi “ăn ý”, “ăn ảnh”, “ăn khớp” … Ngay cả lúc chửi nhau cũng cho ăn cái này cái kia, rủa nhau đồ “ăn mày, ăn nhặt”, “ăn cắp, ăn giật”. Cái gì cũng ăn cả vì đói quanh năm, lúc nào cũng bị miếng ăn ám ảnh. Bây giờ cũng thế, cái gì cũng đểu cáng cả. Chính quyền đểu, Nhà Nước đểu, nhà trường đểu … cái gì cũng đểu cả nên “đểu” hiện diện một cách trấn áp qua ngôn ngữ.
    Hắn dừng lại một lúc rồi nói tiếp:

    - Nhân loại tiến triển qua các thời kỳ đồ đá, đồ đồng, đồ sắt. Chúng ta còn có thời kỳ “đồ đểu”. Nước mình đang ở thời kỳ “đồ đểu”.
    Bây giờ trong nước người ta không nói là giả nữa mà nói là “đểu”: hàng đểu, bằng đểu, rượu đểu, thuốc đểu.
    (Vô danh)
Tác giả “vô danh” chỉ quan sát và đúc kết hiện tượng sinh hoạt của xã hội Cộng Sản Việt Nam mà không thấy có sự hiện diện của một nền văn hoá chỉ có thể dùng từ “đểu” đặt cho mới xác đáng vì nó có nguyên ủy và biến thái “đểu”.

I. Nguồn gốc đểu của văn hoá Macxit Lêninnit ở VN:

Về cuối đời, sau khi đã bị đày đọa cả nửa thế kỷ trong xã hội XHCNVN, triết gia Trần Đức Thảo nói “Chính là Marx sai”. Một cái sai của một triết gia đã lấy đi cả trăm triệu tính mạng con người, và còn không biết đến bao giờ nhân loại mới hoàn toàn rũ bỏ được cái sai ấy. Ông Gorbachew nhận định: ”Cộng sản là dối trá và chỉ có dối trá”. Theo ngôn ngữ hiện đại ở Việt Nam thì là “Cộng sản là đểu và chỉ có đểu”.

Căn cứ vào mục tiêu của Tuyên ngôn Cộng Sản thì nếu không có dân chủ Xô viết, không thể có chủ nghĩa xã hội. Tham vọng của Cộng sản là thực hiện chủ nghĩa xã hội ở khắp nơi trên thế giới, nhất là ở các nước tiền tiến. Năm 1939 Trosky đã viết: “Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là tạo ra một xã hội không giai cấp, dựa trên sự liên kết và thỏa mãn hài hòa mọi nhu cầu. Trong ý nghĩa cơ bản ấy thì chưa có một tí xã hội chủ nghĩa nào ở Liên Xô”. Điều này chứng tỏ một sự lừa đảo có ý thức đối với lao động và nhân dân thế giới. Engel trên lý thuyết nói về xã hội không có giai cấp của CS nghe rất “sướng tai”: “Sau này khi không còn sự thống trị giai cấp và đồng thời không còn cuộc đấu tranh của mỗi cá nhân để tồn tại do sự tổ chức hỗn loạn của nền sản xuất hiện nay, và do sự va chạm và xung đột thái quá bắt nguồn từ cuộc đấu tranh này thì không còn gì để phải đàn áp, không còn có một lực lượng đặc biệt của Nhà Nước để đàn áp nữa. Kẻ tầm thường nghĩ rằng muôn đời vẫn cần có anh xen đầm. Thật ra anh xen đầm còn chế ngự được con người chừng nào con người chưa đủ lực để chế ngự thiên nhiên. Muốn cho Nhà Nước tiêu vong, phải làm tiêu vong sự thống trị giai cấp và cuộc đấu tranh để cá nhân tồn tại”. Nhưng khi chuyển sang thực tế, trước hết bên Liên Xô trong những năm đầu của cách mạng đã hình thành một giai cấp quan liêu. Sự lừa đảo quần chúng nhân dân tiên khởi của chủ nghĩa CS ở Liên Xô là đã dẹp bỏ một giai cấp mà họ gọi là ăn bám, tức là phong kiến để rồi thay thế vào đó một giai cấp ăn bám mới, tức là giai cấp cán bộ có hành vi rất quan liêu.

Nói đúng ra, giai cấp quan liêu của CS gồm toàn thành phần đảng viên nắm nhiệm vụ điều hành đất nước, chỉ là một hình thức quan liêu tư sản thoái hoá, vì họ cũng có một động cơ quá trình phát triển như nhau, đúng như Trosky đã nhận xét về giai cấp quan liêu CS này: “Xét về tính chất, quan liêu không phải là một giai cấp, mặc dù có khát vọng trở thành giai cấp. Trong quá trình sản xuất, quan liêu không có vị trí độc lập và cần thiết như một giai cấp. Quan liêu chỉ là một đám người ăn bám vào giai cấp lao động (Cả cái Đảng CS từ lãnh đạo chóp bu đến cấp thấp nhất ở địa phương đều là ăn bám vào lao động quần chúng), như cây tầm gửi ăn bám vào một thân cây to, rút nhựa để sống. Trong hàng chục năm qua, quan liêu ở Liên Xô đã rút ở nền kinh tế Nhà nước những đặc lợi, đặc quyền cho mình. Mặc dầu không chiếm hữu những phương tiện sản xuất, họ vẫn có quyền hưởng thụ tối đa những sản phẩm do những phương tiện sản xuất này làm ra. Chính vì thế, họ đã bảo vệ (bảo vệ theo phương pháp quan liêu của họ!) nền kinh tế tập thể, thành quả của Cách mạng tháng Mười như bảo vệ con ngươi của mắt họ” (Bác Hồ cũng lập lại câu này với đảng viên). Thứ hai họ vẫn phải lẩn lút dấu diếm thu nhập của họ, trước mắt dân chúng. Họ vẫn phải giả dối, đem chủ nghĩa Macxit ra tuyên truyền, trong lúc họ áp dụng chủ nghĩa này dưới lăng kính quan liêu của họ”. (5)

Người nông dân và thợ thuyền, nói theo quan điểm của CS là “vô sản” đoàn kết lại để cho bọn bất lương bóc lột và đoạ đầy. Những tuyên bố lừa phỉnh “làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu” đã mê hoặc được dân chúng và đưa được họ vào chốn cực khổ triền miên. Đó là đường lối chính trị “đểu” của đảng Cộng Sản Liên Xô, tiền bối của cách mạng tháng Tám V.N. (Đây VN tháng Tám, em Liên Xô tháng Mười – Tố Hữu)

Trong việc đào tạo nếp sống tinh thần của người dân, tức là về mặt văn hoá Đảng chiếu cố tận tình khuôn ép nhân dân trong cái gọi là nền văn hoá vô sản: “Cơ quan trung ương của đảng ban bố những bài không ký tên, khá giống lệnh của các tướng tá quân sự quản lý kiến trúc, văn học, kịch bản, nhảy múa, cố nhiên là cả triết học, các khoa học tự nhiên và lịch sử.” (6)

Sự lãnh đạo bằng khủng bố của Đảng đối với tầng lớp gọi là trí thức tiểu tư sản làm thui chột hết mọi sáng tác, phát minh mà nguyên do cũng chỉ vì tầng lớp này cần phải tạo một vỏ sò cho mình để tồn tại: “Đã từng nếm một kinh nghiệm đau đớn, các nhà khoa học tự nhiên, toán học, ngữ vị văn học, lý thuyết gia về nghệ thuật quân sự cố tránh những khái quát hoá lớn rộng, sợ rằng có một “giáo sư đỏ” thường thường lại là một anh ngoi lên ngu dốt chống lại họ một cách thô bạo bằng một trích dẫn nào đó của Lênin, hoặc Stalin.

Trong trường hợp như thế, bảo vệ tư duy và phẩm chất khoa học chắc chắn là tự gây cho mình một sự đàn áp khắc nghiệt.” (7) Như thế, điều hợp lý là phải có một nền văn hoá, nói riêng về văn học xây dựng bằng những tác phẩm “đểu” của những tác giả được Đảng chiếu cố: “Sự trung thực không có nó không thể có công tác lý luận, bị dẫm xuống chân. Những ghi chú để giải thích kèm theo các văn bản của Lênin cứ mỗi lần tái bản lại được sắp xếp lại từ đầu đến cuối để phục vụ lợi ích riêng bộ tham mưu của Chính phủ, tâng bốc các” lãnh tụ”, bôi nhọ các địch thủ của họ, xoá đi một số dấu vết…

Các sự việc bị bóp méo, tư liệu bị che dấu, hoặc, ngược lại, được chế tạo ra, thanh danh được dựng lên hoặc bị hủy đi” (8). Đặc sắc của các lãnh tụ Cộng Sản đều là các “nhà văn lớn” với những tác phẩm đồ sộ trở thành kinh điển, và mỗi lời nói là khuôn vàng thước ngọc chỉ đạo: “Bí thư đoàn Thanh niên Cộng sản tuyên bố trong một cuộc hội nghị các nhà văn rằng: “Các chỉ thị của đồng chí Stalin là pháp lệnh cho tất cả mọi người” và người ta vỗ tay, mặc dù một số đỏ mặt vì xấu hổ “… Và như người ta muốn lăng mạ đến tột cùng văn học, Stalin, người không thể viết đúng ngữ pháp một câu tiếng Nga, được phong là một trong những nhà cổ điển về văn phong“. (9)

Nền tảng văn hoá Macxit ở “quê hương cách mạng Tháng Mười” mà những người đầu tiên ái mộ chủ nghĩa Marx hết lòng hết dạ đem về cho nhân dân Việt Nam để thay thế nền văn hoá mà họ gọi là phong kiên lạc hậu, thực dân, tự bản chất nó đã là sản phẩm của đám người “tiêu giấy bạc giả”- nếu dùng từ mới của VN ngày nay thì là bọn “tiêu tiền đểu”. Thực vậy, những sách gọi là kinh điển mà những trí thức VN đọc để từ đó hiểu chủ nghĩa Mac đều không phải là trước tác cơ bản của nền tảng Macxit. Nếu người ta đã biết không phải học thuộc tứ thư ngũ kinh là thành nhà Nho, mà còn phải có công phu hàm dưỡng tu thân mới thể ngộ được đạo đức để làm một hiền nhân quân tử; thì đối với Macxit khả năng tổ chức và lãnh đạo quần chúng- tức là lừa bịp và đàn áp mới là cơ bản. Hồ Chí Minh chỉ là một người hành động, không phải là lý thuyết gia, và ông cũng hoạt động ở ngoại quốc nhiều hơn ở Việt Nam.

Nhóm chủ trương cách mạng theo Maxit là nhóm Tân Việt với Đào Duy Anh, có định hướng và chương trình rõ rệt: “Tôi (Đào Duy Anh) sở dĩ thừa nhận rằng con đường cách mạng của nước ta phải theo phương hướng cách mạng Xã hội chủ nghĩa là do nhận thức bằng lý trí, thấy như thế mới lô-gic, chứ thực ra chưa biết làm cách mạng xã hội chủ nghĩa như thế nào” (10). Chỉ căn cứ vào sách vở do Đảng Cộng Sản viết mà chuyển đạt chủ nghĩa CS vào VN, Đào Duy Anh cũng như vài cộng tác viên của đảng Tân Việt lúc ấy không hiểu rằng thực chất những sách ấy đã không phản ánh thực trạng của cách mạng Xã hội chủ nghĩa: “Nhờ quen biết một thanh niên quê ở Thanh Hoá đã từng làm thư ký tàu biển cho một công ty hàng hải Pháp, có lẽ bấy giờ anh ta là một đầu mối liên lạc ở Saigon để các thủy thủ Pháp tiến bộ trao cho những sách báo do đảng Cộng Sản Pháp xuất bản, tôi được anh trao cho một số sách về chủ nghĩa Cộng Sản như”: ABC du Communisme, Theorie materialisme historique, Lenine et la question national v.v … Ngoài ra tôi còn mua được một số sách của các nhà xuất bản khác như Histoire du Socialisme, Karl Marx, sa vie, son oeuvre của Mac Beer, Lenine của Clara Zetkin, La femme et la socialisme của Auguste Bebel.”

Con đường đi đến chủ nghĩa Mac hoàn toàn bằng lối hàm thụ ấy đương nhiên chỉ cho người ta một mớ kiến thức hào nhoáng bên ngoài, nhưng nó lại tạo ra một niềm tin mù quáng. Không đối chiếu với thực tại thì không thấy những yếu kém hay sai lầm của lý thuyết. Mang tiếng là khoa học, nhưng lại hành xử rất từ chương, nó sẽ dẫn đến “nói một đàng, làm một nẻo” mà sự kiện này vốn lúc ấy đang diễn ra ở Liên Xô, quê hương của Cách Mạng tháng Mười,”Tôi đã tin tưởng rằng Cách mạng VN muốn thành công, cuối cùng tất phải theo hướng Cách mạng Xã hội chủ nghĩa; chủ nghĩa xã hội ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học hay chủ nghĩa Cộng Sản, dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mac, mà chủ nghĩa Mac là chủ nghĩa Duy vật biện chứng và chủ nghĩa Duy vật lịch sử.” (11)

Rất nhiều người đã lầm lẫn khi cho rằng những người Cộng Sản VN chỉ dùng chủ nghĩa Cộng Sản như một phương tiện để tranh thủ độc lập cho nước nhà. Đó là vì theo ý thức hệ cũ, tinh thần quốc gia là tuyệt đối, dù trong chế độ quân chủ, nhân dân và xã tắc vẫn được tôn trọng và từ vua đến quan đều phải lây quốc gia làm trọng. Những nhà cách mạng buổi đầu của VN như Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu dù chủ trương Đông Du hay Tây hoá cũng vẫn có mục đích tranh thủ độc lập cho quốc gia. Nhưng Cộng Sản thì theo đúng tư duy của họ, mục đích là thế giới. Quốc gia chỉ là một phần nhỏ của thế giới. Tranh thủ độc lập quốc gia chỉ là bước đầu để cho giai cấp công nông có chính quyền mà tiến lên làm cách mạng thế giới: “Sau khi phân tích tình hình kinh tế, tình hình chính trị, tình hình xã hội, đặc biệt là sự phân bố giai cấp ở nước ta, tôi đi đến kết luận rằng Đảng ta ngày nay phải là một đảng có tính chất liên hiệp quốc dân, chứ chưa có thể là một đảng Cộng Sản thuần túy của giai cấp công nhân được, vì thực ra giai cấp công nhân của nước ta còn non trẻ, nhưng trong tình hình thế giới ngày nay, cách mạng nước ta cuối cùng phải là một bộ phận của cách mạng thế giới, do giai cấp công nhân lãnh đạo, cho nên để có thể đảm bảo sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mà từ cách mạng dân tộc tiến lên cách mạng thế giới (tức cách mạng Xã hội chủ nghĩa.” (12)

Rõ ràng:
    “Trong khi chắp cánh liền cành,
    Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.”
Tự cơ bản của Cộng Sản không có chỗ đứng cho quốc gia. Lenin chỉ dùng chiêu bài dân tộc để đánh phá tư bản và thực dân, cho Liên Xô rảnh tay làm cách mạnh xã hội ở trong nước. Như thế bản chất của văn hoá Macxit đã là giả dối, lừa phỉnh, hay nói ngôn ngữ ngày nay là “đểu”. Vănhoá Macxit hay bất kỳ một nền văn hoá nào đều phải là tiếp thu những tinh hoa của văn hoá tiền nhiệm. Sự tiếp thu ở mặt văn hoá không hàm ý đấu tranh triệt tiêu, mà chỉ là chọn lựa tự nhiên. Tuy vậy giai cấp cầm quyền với sự lo ấu về an nguy của nó, vẫn muốn khống chế một tư duy văn hoá thể hiện ra ở cách tư duy và hành động. Nền văn hoá nhân bản vốn đã có thời gian dài xây dựng và củng cố trong lịch sử, dù bị nhiều va chạm cũng vẫn là tiêu chuẩn cho mục đích hành động của con người. Nó không thể thỏa hiệp được với sự lăng mạ lòng nhân ái và liêm xỉ của con người bằng những hành vi dối trá, cướp đoạt, diệt chủng.

Mê hoặc lý thuyết của những người tuyên truyền cho chủ nghĩa Cộng Sản nhắm vào thành phần trí thức trong xã hội là cái vỏ bạo lực của cách mạng. Họ tung hỏa mù để vừa che lấp những hành vi tàn bạo diệt chủng, vừa lu loa gian dối chào hàng: “Bao nhiêu thế hệ triết gia từ mấy trăm năm gần đây đã cố đi tìm thực chất của cuộc sống con người (*), và đến hơn trăm năm nay Karl Marx là nhà tư tưởng mới gọi là nắm được căn bản của cuộc sống. Nhà Phật cho rằng chỉ cần tâm ý con người được sự chỉ đạo của định và tuệ, thì con người bị “phóng thể” có thể trở vè được bản thân mình, do đó mà tự cứu mình và cứu độ người khác. Karl Marx thì cho rằng con người bị “tha hoá” về mọi mặt phải được giải thoát khỏi sự tha hoá để trở thành con người chân chính, toàn diện … Marx thì cho rằng sự tha hoá của con người là bắt đầu từ sự tha hoá về kinh tế, tức là sự tha hoá của chế độ tư hữu tài sản (*). Người Macxit phải dùng đấu tranh mới thực sự giải phóng được con người (Cộng Sản trên thế giới đã giải phóng được cả trăm triệu người khỏi cuộc sống. Riêng Công Sản Việt Nam đã giải phóng cả 20 triệu dân miền Nam (VNCH) khỏi cuộc sống tương đối ổn định về kinh tế để đưa công nông cả nước vào cuộc sống nghèo khổ, nô lệ).

Người Macxit cho rằng nếu không đấu tranh thì không thể nào mong tự giải thoát được. Song đấu tranh có nhiều hình thức, từ đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị, đến đấu tranh bằng bạo lực, tùy thời cơ mà dùng hình thức này hay hình thức khác. (Cái đểu của đấu tranh tư tưởng Cộng Sản là bịt mồm không cho đôi phương phát biểu). Những điều căn bản để cứu đời chỉ có thể thực hiện được bằng cách đấu tranh để mở rộng cách mạng ra nhiều nước khác, kể cả những nước Đế quốc chủ nghĩa, để hạn chế và dần dần chấm dứt sự lũng đoạn của những công ty tư bản khổng lồ trên toàn thế giới là những kẻ thủ ác trong những mối đe dọa lớn đối với loài người. (*)

Như thế thì có thể nói rằng lý tưởng cứu độ của người Phật tử cũng như lý tưởng cứu thế của các tôn giáo khác mà xưa nay các tôn giáo không thực hiện nổi (sic), “chủ nghĩa Mac sẽ có thể thực hiện được” (12). ”Con người được giải phóng khỏi mọi hình thức tha hoá, con người toàn vẹn ấy, chỉ có thể trở thành ở trong xã hội Cộng sản thôi. So với các thứ chủ nghĩa nhân đạo cũ, từ chủ nghĩa nhân đạo Phật giáo và Khổng giáo ở Đông phương, đến các thứ chủ nghĩa nhân đạo bắt nguồn ở lòng thương của Thiên chúa hay những chủ nghĩa nhân đạo của những nhà triết học vô thần, thì chủ nghĩa nhân đạo của Mac cao thượng và thiết thực hơn nhiều” (13).

2. Chính trị đểu

Thiết thực đến người dân là chính trị. Trong xã hội Phong kiến, sống dưới sự cai trị của quan lại trong vương triều cũng như chính quyền ở làng xã, nhân dân không thể tránh khỏi những xử đoán bất công, hà khắc, cho nên ai cũng mong muốn một chế độ cai trị dễ thở. Người ta gọi là “minh quân, lương tể” khi trong nước có vua quan biết thương yêu lo cho cuộc sống an bình của người dân. Cộng Sản đã mị dân bằng chiêu bài dân chủ thủ tiêu tất cả những áp bức của phong kiến: “Về vấn đề quan hệ giữa dân chủ và chuyên chính thực chất là vấn đề chuyên chính vô sản, nghĩa là Sự tổ chức của bộ phận tiên phong của những người bị áp bức thành giai cấp thống trị để đàn áp kẻ áp bức … Đồng thời với sự mở mang rất rộng rãi dân chủ … cho người nghèo, cho nhân dân…chuyên chính vô sản đem lại một loạt hạn chế tự do đối với những kẻ áp bức, kẻ bóc lột, bọn tư bản. Dân chủ cho tối đại bộ phận của nhân dân và đàn áp bằng sức mạnh đối với những áp bức của nhân dân. (14)

Thực tế xã hội CSVN đã chứng tỏ tính chất “đểu cáng” của chính quyền Cộng Sản dựa trên cơ bản chuyên chính vô sản. Nhân dân được lao động vượt quá sức mình (các tận sở năng) để hưởng được những gì nhà nước chuyên chính ban cho mà không được phàn nàn. Thay vì áp chế kẻ thù giai cấp nay đã hoặc cao bay xa chạy, hoặc nằm im dưới lòng đất, nó “hơi xem nhẹ cái mặt dân chủ đối với nhân dân (sic) (Xem nhẹ nghĩa là giai cấp Đảng làm mọi việc một cách độc đoán cho quyền lợi riêng của Đảng.)

3. Pháp luật đểu

Người ta thường dùng những tiêu chuẩn và quan niệm của thế giới dân chủ Tây phương (Cộng sản gọi là phản động) để đo lường và đánh giá hành vi chính trị cũng như luật pháp của Đảng Cộng Sản. Hiển nhiên điều ấy là bất cập vì trong chế độ độc tài toàn trị Cộng sản, không có vấn đề luật pháp không bị chính trị chi phối. Như thế pháp luật là một công cụ để Đảng phát huy tác dụng chuyên chính của nó.(bằng cách bịt mồm bị cáo ở tòa án, định sẵn bản án cho tội nhân trước khi sử, ngăn cản không cho luật sư biện hộ, mớm cung, bịa đặt bằng chứng v.v..

Thế nhưng lại bọc cái gọi là “pháp luật XHCN ấy dưới cái vỏ rất dân chủ và tiến bộ: “… Làm thế nào để cho nó phát huy tác dụng chuyên chính của nó thì chỉ là đối với cái gì có quan hệ thực sự với kẻ thù giai cấp mà phải phát huy tác dụng quản lý dân chủ của nó đối với nhân dân lương thiện. Muốn được như thế thì chỉ có cách là mở rộng dân chủ XHCN, mà vấn đề dân chủ XHCN, như đã nói ở trên chỉ có thể giải quyết bằng đấu tranh nội bộ- phê bình và tự phê bình- trên nhu cầu của thực tế khách quan.” (14). Xem như thế mới hiểu được nhũng người trong đảng mà phạm pháp thì không thuộc phạm vi luật pháp mà chỉ có “xử lý nội bộ” căn bản đặt trên sự phê và tự phê”.

Điển hình vụ tham nhũng Vinashin ở Việt Nam nếu xảy ra ở nước dân chủ (chẳng thể nào có ở một nước dân chủ như Mỹ, Anh, Pháp), thì dư luận, luật pháp đã xử lý tới nơi tới chốn. Nhưng ở nước CHXHCNVN (độc lập- tự do- hạnh phúc) thì: “Quyết định của Bộ Chính trị đã quyết định không xử lý kỷ luật vơi các tập thể, cá nhân trong Chính phủ liên quan đến tình hình sai phạm ở Vinashin! (Chắc là các đồng chí cũng có phê và tự phê). Mặc dầu chúng tôi có thiếu xót và khuyết điểm nhưng đã nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm và tự xét thấy chưa đến mức phải thi hành kỷ luật (có nghĩa là nếu một “nhân dân anh hùng” ăn cắp 100 đồng VN thì tù- ngụy danh là học tập cải tạo, vì Pháp luật nước ta chủ yếu giáo dục, cải hoá; còn “quan lớn bộ Chính trị ăn cắp cả trăm triệu Đôla Mỹ thì lỗi ở đồng đôla đã hủ hoá cán bộ, nên cán bộ phải nghiêm túc tự phê mà đề cao cảnh giác.)

Pháp luật “đểu” là có luật hình sự ban hành để xếp xó, còn thì dùng “luật rừng” mạnh được yếu thua. Mạnh là Đảng, yếu là nhân dân. Bùi Tín đã viết về vụ án “mua dâm nữ sinh vị thành niên ở HàGiang như sau: “Ngay ngày 11 tháng 3 các đài phát thanh VOA, RFA, RFI … đã chỉ ra những điều không bình thường của phiên toà. Tại sao lại xử kín, không cho báo trong nước và báo nước ngoài tham dự, không cho cả người thân trong gia đình, mẹ của hai em Hằng và Thúy vào dự? Tại sao không cho luật sư bảo vệ các em? Tại sao không cho phép luật sư Trần Đình Triển tham dự khi ông tình nguyện biện hộ miễn phí cho các em? Cuối cùng luật sư xin vào dự chỉ để tìm hiểu về vụ án, cũng bị từ chối với một lý do rất vớ vẩn: ‘Hôm nay toà không làm việc”.

Dưới đây là những biểu hiện của “luật rừng” rõ rệt nhất:

“Tên gọi của vụ án vẫn cứ gọi là “vụ án mua bán dâm của vị thành niên”. Không có gì sai hơn là tên gọi này. Có thể khẳng định nếu không có tên hiệu trưởng ma cô Sầm Đức Xương đứng ra bịp bợm, dọa dẫm. mua chuộc các em rằng: “Không nghe theo, không ngoan ngoãn vâng lời các quan chức thì dù học giỏi cũng không được lên lớp, cũng không được đỗ khi thi, còn bị điểm hạnh kiểm xấu” thì không có vụ án này. Bọn nhóm quan đầu tỉnh tham nhũng, hoang dâm đầu xỏ của vụ án nghĩ ra mưu dùng tên hiệu trưởng đầy thú tính làm tay sai đắc lực. Tên hiệu trưởng này hiểu rõ tâm lý các em là rất sợ bị điểm đạo đức xấu, rất sợ bị điểm thấp, rất sợ thi không đỗ, không được lên lớp, sẽ bị gia đình rầy la, nên lợi dụng nỗi lo sợ ấy, biến các em thành những kẻ nô lệ tình dục.

Để soi tỏ cái chế độ tư pháp độc đảng kỳ dị này, xin nhắc lại lời của Chánh án toà án Nhân dân Tối cao Trịnh Ngọc Dương tháng 10 – 2008 được truyền bá rộng rãi: “Ở nước ta xử đúng cũng được, xử sai cũng được; xử hòa cũng được, xử thắng cũng được”. Một tuyên ngôn, một lời thú nhận đáng sợ. Cũng như nữ luật sư Ngô Bá Thành, Đại biểu Quốc hội từng nói: Ở Việt Nam ta có một rừng luật, nhưng khi xét xử lại áp dụng luật rừng”.(Bùi Tín viết riêng cho VOA, 21-3-2011).

“Việt Nam không có tù chính trị”, chỉ có phản động làm nguy hại an ninh, chống phá cách mạng. Đấy là cần phải xử. Còn thông thường thì cứ âm thầm bắt người, giam ở một chỗ bí mật, thân nhân cứ lấy ngày nạn nhân được “mời đi làm việc” làm ngày giỗ.

3. Giáo dục đểu

Tự cơ bản giáo dục Cộng Sản dạy cho người ta ăn gian nói dối để phục vụ chính trị của Đảng. Ngoài chương trình đào tạo nặng về chính trị (Hồng hơn chuyên) còn có sách vở “đểu” khiến cho trí thức người dân chỉ phát triển theo chiều Đảng muốn (Xin hẹn ở một bài khác tìm hiểu và phê phán sâu đậm hơn về sách “đểu”).

Ngay từ hồi Cộng Sản còn lén lút tuyên truyền trong dân chúng VN, người có thể nói có công nhất trong việc đưa chủ nghĩa Cộng Sản vào VN là Đào Duy Anh. Ông đã biết làm việc “treo đầu heo, bán thịt chó”: “Làm việc này tôi có một dụng ý riêng là nhân việc giải thích từ, mà phổ biến trong nhân dân một số khái niệm chính trị theo hướng chủ nghĩa Mac, mà tôi thấy là cách giải thích tiến bộ nhất và khoa học nhất. Tôi có giải thích những thuật ngữ này theo sự hiểu biết của mình do nghiên cứu những sách về chủ nghĩa Mac trước đây, chứ không theo hẳn cách giải thích của các từ thư thông thường, và đôi chỗ nó vượt ra ngoài cách giải thích thường có ở một cuốn từ điển (*). Đó cũng là một cách để phổ biến chủ nghĩa Mac mà bước đầu tôi đã thử làm trong mười ba tập sách của Quan hải tùng thư. Thí dụ: Cộng Sản chủ nghĩa: cái chủ nghĩa muốn tiêu diệt quyền tư hữu, đem tất cả cơ quan sinh sản (*), sinh sản phẩm trên xã hội làm của chung của tất cả mọi người, đặt cơ quan thống kê và quản lý chung; về chính trị thì chủ trương liên hiệp tất cả giai cấp lao động để đánh đổ chế độ Tư bản. (14)

Cả một hệ thống văn học tuyên truyền ngự trị trong giáo dục nhằm uốn nắn tâm hồn người dân ngay từ tuổi mới học nói: “Yêu biết mấy nghe con học nói; Tiếng đầu lòng con gọi Stalin, cho đến ông già gần đất xa trời “nhớ nghĩ chiều hôm” (15). Hệ thống giáo dục ngụy trá ấy không những đánh lừa người dân trong nước, mà còn có mục đích đánh lừa cả quốc tế. Nó không phải là sáng kiến của Cộng Sản VN mà chính là sáng kiến của Cộng Sản quốc tế với Lênin và Stalin: “Cách đây ít lâu, khi tôi ở nước ngoài, người ta đã đề nghị tôi 20.000 Đôla để in các hồi ký của tôi, nhưng những hồi ký này phải qua sự kiểm duyệt của Bộ Chính trị và tôi biết ở đất nước chúng ta, người ta giả mạo, xuyên tạc biết bao nhiêu lịch sử đảng và cách mạng, tôi không muốn tiếp tay cho một số giả mạo như thế. Tất cả công việc kiểm duyệt của bộ Chính trị chỉ là cấm tôi đánh giá trung thực những nhân vật và hành động của họ” (16).

Chúng ta không có công sức mà rà soát toàn bộ tác phẩm văn học và giáo dục của Cộng Sản Việt Nam. Hãy gạt ra ngoài những sách giáo dục ấu trĩ, chỉ kể riêng phần gọi là “hàn lâm” là nơi tham khảo cho những người ngoại quốc muốn biết về văn hoá VN cũng đã “nguyền rủa sự thật” khủng khiếp đến thế nào. Sách vở miền Bắc đều là những phiên bản của một bản ngợi ca lố bịch gần như hoang tưởng. Hãy xem ông Nguyễn Khắc Viện gọi là trí thức đỉnh cao, đã từng được đào tạo về y khoa ở Paris năm 1983 viết: “Với tất cả những giàu sang và hấp dẫn của nó, xã hội tư bản phát triển nhất vẫn là một xã hội bệnh hoạn, có nguy cơ dẫn loài người đến ngày tận thế hạt nhân(*). Một xã hội xã hội chủ nghĩa ngay từ trong trứng nước như ở Việt Nam còn mang nặng tất cả những chứng tật ấu trĩ và di sản từ ngày xưa (vẫn đổ lỗi cho quá khứ) vẫn có những mầm mống lành mạnh không thể nào có ở những nước tư bản”. (17)

Hãy so sánh ý tưởng sau đâysẽ thấy rõ phiên bản “trăng Liên Xô đẹp hơn trăng Mỹ”: “Nhưng hễ tôi so sánh những cảnh đông người, cảnh xã hội ở đấy với những cảnh tôi thấy trong đường phố Matxcơva thì một sự khác biệt đập ngay vào mắt. Cảnh đông người trên đường phố Matxcơva toát ra một khí sắc lành mạnh không thể có ở các thành phố tư bản” (18). (Làm sao tìm được ở Paris mầm mống và khí sắc lành mạnh như Hiệu trưởng làm ma cô ép buộc gái vị thành niên bán dâm như ở HàGiang, Thiên đường Cộng Sản của CHXHCNVN.)

Đến thời gọi là “mở cửa” thì vì chủ trương “kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa” nên về mặt văn học có sự tái bản những sách của “miền Nam”. Nhưng Đảng đâu có thiếu đề cao cảnh giác. Các sách đã bị cắt xén những điều chạm đến chính sách và niềm tin của Đảng. Điều này tạo ra những nhận định sai lầm về văn hoá ở “miền Nam (VNCH) trước đây (*). Những học giả ở “Miền Nam” trước đây đều phải tuân thủ một tinh thần tôn trọng sự thật khi sáng tác hay biên khảơ. Nề nếp có tính chất quốc tế ấy khiến người ta tin tưởng ở những điều các vị học giả ấy viết ra, để căn cứ vào đấy mà có những nhận định chính xác.Vì thế những biên khảo không được có sự bịa đặt, dựng đứng hay ngụy tạo chứng cớ. Nếu có sự sai lầm trong tác phẩm biên khảo thì đấy là do trình độ còn yếu kém và không thể che dấu được người đọc có trình độ. Việc phê bình thẳng thắn sẽ giúp độc giả nhận ra những chỗ sai lầm này.

Học giả XHCN thì không tôn trọng quy tắc này. Điển hình như “Thầy” Đào Duy Anh đã dựng lên chuyện cụ Phan Bội Châu ca tụng Nguyễn Ái Quốc mà không cần chưng ra một chứng cớ nào cả. Cũng như “học giả” Trần Dân Tiên đã viết sách về tiểu sử “Bác Hồ” để từ đó những học giả ngoại quốc tham khảo khi viết về Hồ Chí Minh. Thầy Đào viết: “... Hiện nay đã có người khác giỏi hơn lớp chúng tôi nhiều đứng ra đảm đương công việc để làm trọn cái việc mà lớp chúng tôi không làm xong. Ông có nghe tiếng ông Nguyễn Ái Quốc không?

- Có báo đăng tin Nguyễn Ái Quốc đã bị bắt và chết ở Hương Cảng cách 2, 3 năm nay rồi mà?

- Không, tôi chắc ông Quốc vẫn còn, mà ông ấy còn thì nước ta nhất định sẽ độc lập. Họ bắt tôi dễ chứ làm sao bắt được ông Quốc; mà có bắt đi nữa thì cũng phải thả thôi, vì ông ấy giỏi chứ có như tôi đâu, lại có nhiều vây cánh và bạn bè khắp thế giới (Cụ Phan đâu có biết, làm sao Pháp bắt được Nguyễn Tất Thành khi chính hắn đã bán cụ cho Pháp để lấy tiền phát triển Đảng,)

- Thưa cụ “Bò đái thất thanh, Nam Đàn sinh Thánh” chẳng phải là cụ hay sao? Cụ còn thất bại nữa là khác!

-Kể cái nghề cử tử thì xưa kia tôi cũng có tiếng thật. Dân ta thường cũng có thói trọng người văn học và gán cho người ta tiếng nọ tiếng kia. Nhưng nếu Nam Đàn có thánh thực, thì chính là ông Nguyễn Ái Quốc chứ chẳng phải ai khác”. (18)

Các học giả ngoại quốc khi viết về VN cứ yên trí tin vào những sự kiện trên thì giá trị của tác phẩm sẽ như thế nào? Rõ ràng chỉ là phiên bản của một chính sách nói dối thông suốt cả nền văn hoá Cộng Sản.

Trong sách giáo khoa dùng đào tạo giáo viên (Đại học sư phạm) đầy dãy những thông tin bịa đặt, tuyên truyền một chiều và nhất là sinh viên không hề được suy tư đối chiếu để tiếp cận chân lý, do đó đã tập quen cho những người thầy giáo tương lai một bản chất nói dối, ngụy biện, để sau này đi dạy, cứ theo con đường “sáng suốt” của Đảng mà hành nghề. Thí dụ năm 1930, sau thất bại của khởi nghĩa Yên Bái, Pháp có ném bom vào làng Cổ Am, mà họ cho là nơi tụ tập của các chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng “Tan tác Kiến Kiều An đất nước; Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây”. Các báo chí thời ấy đều có đăng tải. Nhưng vì đó là cuộc nổi dậy của VNQDĐ, do Nguyễn Thái Học lãnh đạo, nên sinh viên không được học; Còn Đảng thì thổi phồng vụ chống thuế của một số dân làng ở Nghệ Tĩnh lên thành Xô Viết Nghệ Tĩnh (*) mà chính dân làng ở Nghệ Tĩnh cũng chẳng biết Xô viết là cái gì). Như thế là Bộ giáo dục của CSVN đã chủ ý đào tạo một hàng ngũ “thầy đểu” để thực hiện chính sách “dạy đểu”. Việc CSVN có thành công hay không ở chính sách này lại có một nguyên nhân khách quan khác.

4. Tu đểu

Kể từ khi “lý thuyết gia” Đào Duy Anh phong “Bồ Tát” cho Hồ ChíMinh: “Không hề có ý đồng nhất hoá Bác Hồ với Khổng Tử, tôi chỉ muốn nói rằng Bác Hồ tuồng như có thể xem là bực thánh nhân tập đại thành những cái thánh của nhà Nho mà còn gồm cả cái thánh của nhà Phật (Bồ Tát), cho đến cái thánh của người Macxit chân chính.” (19) thì Cộng Sản VN khai sáng một nền “tu đểu” có thể coi như từ một lý thuyết của Thích Nhất Hạnh như Đào Duy Anh đã viết: ‘Tất cả năm công tác mà Thích Nhất Hạnh coi là căn bản và cấp thiết để cứu đời chỉ có thể thực hiện được như ông tự biết khi nào “sự chia cắt đau nhức giữa tôn giáo, chủng tộc và quốc gia được bãi bỏ – Những điều ấy không có thể thực hiện được bằng sự có mặt của các nhà đại sư để cho đạo lý thấm dần vào mọi hoạt động của xã hội và bằng sự tĩnh tu giác ngộ của mỗi người, mà chỉ có thể thực hiện được bằng cách đấu tranh để mở rộng cách mạng ra nhiều nước khác, kể cả những nước đế quốc”. (19)

Cơ bản “hiện đại hoá đạo Phật này cũng giống như chủ nghĩa Macxit là một thứ“ đầu voi đuôi chuột. Nhà nước Cộng Sản kinh nghiệm thới gian trước đã từng lợi dụng đạo Phật làm một sức mạnh tranh đấu (20) nên ngày nay đã kiểm soát chặt chẽ giới tu hành chân chính, đồng thời dung dưỡng để tạo nên một cán cân “tu đểu” dần dà tiêu diệt đạo Phật. Điển hình ở một số chùa có hiện tượng buôn thần bán thánh. Trong chùa cũng có sinh hoạt tổ chính trị, và nhiều sư bị phát hiện với rất nhiều hiện tượng phạm giới. Nếu các tín đồ phẫn khích vẫn lui tới lễ bái, tín ngưỡng trở nên lỏng lẻo, nhạt nhẽo; nếu tín đồ bỏ chùa, Đảng thành công, vì đúng là một viên đạn hạ được hai con chim: vừa thực hiện được chủ trương vô tôn giáo, vừa nắm được ý thức của người dân.

Việc đưa cả Hồ Chí Minh vào thờ trong chùa, như ở phần trên có nói là do một bài báo quan trọng của Đào Duy Anh phong “Bồ Tát” cho “Bác”; cũng như dựng tượng “Bác” ở ngay đền Hùng với huyền thoại là ghi nhớ câu nói của “Bác”: “Các vua Hùng có công dựng nước, Bác cháu ta phải giữ lấy đất nước”. (Thế mà chỉ 2 năm sau đã sai Phạm Văn Đồng viết công hàm bán đứt Hoàng Sa và Trường Sa cho Tàu). Xây dựng chùa to để nói với quốc tế là tôn trọng tín ngưỡng, nhưng thực chất bên trong lại làm cơ sở cách mạng, không kể làm kinh tế du lịch. Trong khi những chốn tu hành không vào luồng thì đổ nát, nghèo khổ, phải đi xin tiền của người Việt tỵ nạn ở nước ngoài để trùng tu. Nghiễm nhiên nhiều chùa trở thành chỗ buôn thần bán thánh, vừa làm kinh tế, vừa ru ngủ quần chúng, khiến bất kỳ một manh động nào có hại cho Đảng, Nhà nước đều bị trấn áp ngay từ trong trứng. Hãy cứ đặt một nhận xét nhỏ để thấy rõ vai trò của các sư công an ở chùa này: Năm 1963 sao mà biểu tình dễ dàng và đông đảo thế; còn hiện thời sư sãi phật tử có dịp nào mà tụ tập nổi nghìn người để khiến cho chính quyền phải huy động bộ máy công an giải tán và đàn áp. Như thế, phải nhận rõ ưu điểm của bộ máy an ninh Cộng sản đã lồng được vào tôn giáo niềm sợ hãi sự trừng phạt ở hiện thế.

4. Hành xử đểu

Xưa cũng như nay dù mang tên gọi khác nhau ở ngôn ngữ, con người đối với nhau bằng lòng thành. Ở Nho giáo chữ Thành đã mang đầy đủ ý nghĩa triết học là tư tưởng cơ bản của triết lý hành động: ‘Thành giả, thiên chi đạo giã; thành chi giả, nhân chi đạo giã” (Thành là đạo của Trời, làm đến được điều thành là đạo của người). Không có thành thì sao gây được tín nhiệm với nhau, tôn trọng nhau để tạo một cuộc sống hoà hợp trên căn bản giúp đỡ nhau mà cải thiện cuộc sống.

Cái “đểu” là Cộng Sản đã phá ngay chữ “Thành” và chữ “Tín” ở chỗ cơ bản nhất là gia đình từ khi khuyến khích con tố cha mẹ, vợ chồng tố nhau. Sự tan nát niềm tin nơi gia đình đưa ra ngoài xã hội tạo nên một xã hội mất niềm tin mà chỉ còn rình mò và lợi dụng nhau. Đành rằng việc làm bậy không đời nào không có, chỉ ít hay nhiều mà thôi. Tuy nhiên Chính quyền phải cầm cân nảy mực để duy trì sự công bình, thành tín cho dân. Ngày trước người ta gọi một ông quan “đểu” là vì ông này lợi dụng chức vụ để ăn tiền, phân xử bất công, đổi trắng thay đen:
    Tri Phủ Xuân Trường được mấy niên,
    Nhờ Trời hạt ấy được bình yên.

    Chữ “y” chữ “chiểu” không phê đến,
    Quan chỉ phê ngay một chữ “Tiền”.
Thiểu số quan tham ấy không thể tồn tại hay lũng đoạn xã hội được khi ý thức đạo đức và pháp luật của dân chúng được nâng cao. Câu nhận định tuy rằng hàm hồ, nhưng cũng có chút sự thật của Tản Đà cho ta thấy một yếu tố quan trọng trong việc nâng cao dân trí với việc ổn định xã hội:
    Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn,
    Cho nên chúng nó dễ làm quan.
Cũng bởi bọn chính quyền lưu manh dùng bạo lực kìm kẹp khủng bố người dân, lại thủ tiêu sự công chính và thành tín nên xã hội VN hiện tại là một xã hội không giống ai. Người ta gọi là “thời kỳ đồ đểu”, tuy nghe đau xót, nhưng cũng phản ảnh được sự thật. Việc xưng bằng cấp “rởm” của Cộng sản VN ngày nay mới nở rộ, nhưng đã có từ quá khứ mà suy ra ai cũng hiểu nhưng không ai dám nói là Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đỗ kỹ sư điện tử; còn “Bác Hồ” vì đã chót tô vẽ cho Bác là “thiên tài” hy sinh tìm đường cứu nước quên cả học, nên Đào Duy Anh đành lấp liếm ca Bác về trình độ: “Bác Hồ không đi thi, nhưng sức học chữ Hán bấy giờ đã tương đương với sức học của một người thí sinh trung bình, tức khi chuyển sang học chữ Pháp, Bác đã có được một vốn Hán học về văn thể (*) gọi là kiêm bị, mà về nội dung thì một người thông minh như thế phải là đã có những sở đắc chứ không phải như những học trò dung phàm (*). Bác Hồ học chữ Pháp ở trường Pháp Việt và trường Quốc Học được 6 năm … Bác Hồ đã tiếp thu được một số kiến thức về Tây học kha khá đủ để làm thầy giáo dạy học tại trường Dục Thanh ở Phan Thiết trước khi Bác vào Saigon(*) (21). Bây giờ thì con cháu Bác hách hơn, mua bằng từ Thạc sĩ đến Tiến sĩ ở các nước Tây phương tư bản về để trí thức hoá Đảng.

Tất cả mọi thứ đều được đem ra mua bán từ quan tước đến liêm xỉ và cả sự thật nữa, cho nên mọi hành vi đều thể hiện tính chất nguyền rủa cái Đẹp, cái Tốt va cái Thật. Điều nổi cộm hiện nay là vụ án Cù Huy Hà Vũ đang phô diễn cho cả thế giới thấy rõ một Tòa án ngồi lên trên Pháp luật theo sự chỉ đạo của Bộ Chính trị hay của Đảng mà hành xử “đểu” với nhân dân.

5. Vấn đề hoà hợp hòa giải với CSVN

Những người còn mang bản chất người có thể hòa vào với nền “văn hoá đểu” của Cộng Sản Việt Nam không? Cộng sản không thể và không muốn sửa đổi. Cái gọi là nền văn hoá Macxit ấy là tai họa cho không những dân tộc Việt Nam, mà còn cho cả nhân loại cần phải được giải trừ để thay thế vào đấy một nền văn hoá nhân bản. Phải làm ngay lúc này thì vài ba thế hệ sau mới trở về nẻo thiện được. Văn hoá không thể từ trên trời rơi xuống và có kết quả cấp kỳ. Bài học cay đắng của lịch sử là từ giữa thế kỷ trước người ta không nghĩ đến sự nguy hại của văn hoá Macxit vì thật sự chưa có những biểu hiện “đểu” trong xã hội; vì xã hội vẫn còn ảnh hưởng của những yếu tố văn hoá cũ với điều mà người ta gọi là tử tế. Công việc tẩy rửa văn hoá “đểu” thật là khó khăn và lâu dài.”Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh.”

Lê Văn Ngọc

Chú thích:

(1) Trong quyển VN văn hoá sử cương của Đào Duy Anh, xuất bản năm 1938 ông định nghĩa văn hoá như sau: ‘ Người ta thường cho rằng văn hoá là chỉ những học thuật tư tưởng của loài người, nhân thế mà xem văn hoá vốn có tính chất cao thượng đặc biệt. Thực ra không phải vậy. Học thuật tư tưởng cố nhiên là ở trong phạm vi của văn hoá nhưng phàm sự sinh hoạt về kinh tế, chính trị, về xã hội cùng hết thảy các phong tục tập quán tầm thường lại không phải ở trong phạm vi văn hoá hay sao? Hai tiếng văn hoá chẳng qua là chỉ chung tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng: Văn hoá tức là sinh hoạt.

Văn hoá đã tức là sinh hoạt thì không kể là dân tộc văn minh hay dã man đều có văn hoá riêng của mình, chỉ khác nhau về trình độ cao thấp mà thôi. Ví dụ văn hoá của các dân tộc Âu Mỹ thì cao, mà văn hoá của các dân tộc mọi rợ ở Phi châu, Úc châu cùng các giống người Mường, Mán, Mọi ở nước ta thì thấp.

(2) Trần Ngọc Thêm- Tìm về bản chất văn hoá Việt Nam – trg25

(3) Xét về từ nguyên của chữ “đểu” chưa thấy có tự điển nào nêu ra ngoài các định nghĩa thông thường. Có thể phỏng đoán rằng tiếng Hoa nói lóng dương vật của đàn ông là con chim, tức là “điểu”. Người Việt ta đọc trại thành “đểu” (?)

(4) Trích từ trang mạng của Vô Danh. Xin cám ơn tác giả Vô Danh đã có phát kiến thâm thúy về ngôn ngữ.

(5) L. Trosky – Cuộc cách mạng bị phản bội – trg 17

(6) Nt – trg 196

(7) nt – trg 196

(8) nt – trg 197

(9) nt – trg 198

(10) Đào Duy Anh – Nhớ nghĩ chiều hôm – trg 33

(11) Nt – trg 34

(12) Nt trh 43

(*) Đào Duy Anh ít tham khảo lịch sử tư tưởng nhân loại nên không hiểu rằng việc đi tìm thực chất của cuộc sống con người đã có ít nhất cũng 2000 năm.

(*) Như vậy muốn đừng bị tha hoá về kinh tế, đương nhiên phải triệt tiêu chế độ tư hữu tài sản.

(*) Một trong những lo âu là võ khí nguyên tử của Đế quốc sẽ tiêu diệt nhân loại, còn võ khí nguyên tử của Liên Xô và Trung Quốc thì không (?)

(13) ĐDA – Nhớ nghĩ chiều hôm – trg 343

(14) nt. Trg 389

(*) Nghĩa là không theo quy luật chính xác của tự điển.

(*) Có lẽ ĐDA muốn nói là các cơ sở sản xuất tạo ra sản phẩm kinh tế. Dùng chữ tối nghĩa như trên có thể làm cho người ta hiểu lầm là cơ quan sinh sản của đàn ông và đàn bà đều trở thành của chung.

(15) ĐDA – NNCH – trg 50 – 51

(16) Tác phẩm cuối cùng của Đào Duy Anh xuất bản năm 1972 vẫn viết được những lời bịp bợm: “Nhưng trong 12 ngày cuối năm nhân dân ta đã quật ngã gần trăm máy bay khổng lồ (B 52) ấy (máy bay là một đồ vật hay một con bò mà quật ngã), khiến thứ võ khí chiến lược hoàn cầu mà đế quốc Mỹ vẫn dùng để đe dọa nhân dân thế giới bỗng biến thành con ngáo ộp không đáng sợ nữa. (Một tài liệu mới phát giác gần đây cho biết: một tốp nhân viên an ninh nhận được điện tín của Chính phủ CSVN xin đầu hàng, nhưng ban này đã bị “cất đi” và Mỹ cũng không ném bom sang ngày thứ 13 nữa. Sau đó hoà đàm Paris lại tiếp tục). Không ngờ thua đau như thế, Mỹ phải vội vàng nhận trở lạì với ta quanh bàn hội nghị, cuối cùng phải ký hiệp định đình chiến và thừa nhận chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta.”


Monday, June 27, 2011

International court issues arrest warrant for Gaddafi



Reuters
By Aaron Gray-Block and Nick Carey

THE HAGUE/TRIPOLI (Reuters) - The International Criminal Court issued an arrest warrant on Monday for Libyan leader Muammar Gaddafi, and rebels trying to oust him said their forces had advanced to within 80 km (50 miles) of the capital.


Procecutor Ocampo of the International Criminal Court attends a meeting about Libya …
The court approved warrants for Gaddafi, his son Saif al-Islam and Libyan intelligence chief Abdullah al-Senussi on charges of crimes against humanity. ICC prosecutors allege they were involved in the killing of civilian protesters who rose up in February against Gaddafi's 41-year rule.

"To prevent them covering up ongoing crimes and committing new crimes, they should be arrested. This is the only way to protect civilians in Libya," ICC prosecutor Luis Moreno-Ocampo, who had sought the arrest warrants, said.

The ruling is unlikely to lead to Gaddafi's arrest as long he remains in power and inside Libya, because the court does not have the power to enforce its warrants.

Celebrations erupted in the rebel-held city of Benghazi, in eastern Libya, after the ICC ruling. People honked car horns, waved flags and fired shots into the air.

The ICC decision invalidated any notion of having negotiations with Gaddafi, insurgent officials said.

"After this warrant, it is all irrelevant. We cannot negotiate with war criminals," Jalal al-Galal, spokesman of the rebel National Transitional Council (NTC) told Reuters in its eastern stronghold of Benghazi.

"The world has confirmed what we have been saying all along. He's a war criminal, and he should be tried for it."

Gaddafi's government denies targeting civilians, saying it took action against armed criminal gangs and al Qaeda militants. It says NATO should be prosecuted instead for killing civilians with its bombing campaign.

Anti-Gaddafi rebels, based in the Western Mountains region southwest of Tripoli, made their biggest breakthrough in weeks to reach the town of Bir al-Ghanam, where they are now fighting pro-Gaddafi forces for control, their spokesman said.

The move took them 30 km (18 miles) north of their previous position and closer to Tripoli, Gaddafi's main power base.

"We are on the southern and western outskirts of Bir al-Ghanam," Juma Ibrahim, a rebel spokesman in the nearby town of Zintan, said by telephone.

"There were battles there most of yesterday. Some of our fighters were martyred and they (government forces) also suffered casualties and we captured equipment and vehicles. It's quiet there today and the rebels are still in their positions."

BLOODY REVOLT

The rebels have been battling Gaddafi's forces since late February, when thousands of people rebelled, prompting a fierce crackdown by Gaddafi's security forces.

The revolt has turned into the bloodiest of the Arab Spring uprisings against autocratic rulers across the Middle East.

In Nalut district by the Tunisian border, rebels said power and water infrastructure had been hit by pro-Gaddafi bombing.

"There is a crisis here," the spokesman, identified as Mohammed, said. "We are without electricity after the brigades hit high-voltage electricity posts ... and the power problem affected water supplies."

A Reuters reporter in the center of Tripoli heard at least two loud explosions on Monday coming from the direction of Gaddafi's Bab al-Aziziyah compound, repeatedly targeted by NATO.

Later, government officials took reporters to the compound. They showed them a burned-out bus which, they said, belonged to Gaddafi and had been hit by two NATO missiles.

ISOLATION

Gaddafi is the second sitting head of state to have an ICC arrest warrant issued against him. One was issued previously for Sudanese President Omar al-Bashir.

Securing arrests, however, has proven difficult for the ICC, which has no police force and relies on member states to enforce arrest orders. Some states have refused to arrest Bashir, who is still able to travel to friendly states.

Mohammed al-Alagi, justice minister for the Libyan rebels, told reporters in the Hague that, depending events, they might opt to prosecute Gaddafi in Libya.

NATO Secretary General Anders Fogh Rasmussen said the court's ruling reinforced the reasons for the alliance's bombing campaign and deepened Gaddafi's isolation.

"(Gaddafi) and his henchmen need to realize that time is rapidly running out for them," Rasmussen said in a statement.

Reading out the ruling at the court in The Hague, presiding judge Sanji Mmasenono Monageng said Gaddafi has "absolute, ultimate and unquestioned control" over Libya's state apparatus and security forces.

She said Gaddafi and Saif al-Islam had "conceived and orchestrated a plan to deter and quell by all means the civilian demonstrations" against the regime and that al-Senussi used his position of command to have attacks carried out.

Gaddafi's administration made no immediate comment on the ICC ruling. Speaking on Sunday, government spokesman Moussa Ibrahim said the court was guilty of double standards and was following a Western political agenda.

"The ICC has no legitimacy whatsoever," Ibrahim said.

Mustafa Abdel Jalil, the council chairman, urged Gaddafi's aides and supporters to abandon him, saying those who help him escape justice will end up sharing his punishment. "It is time to abandon Gaddafi to spare themselves," he added.

In neighboring Tunisia, three Libyan ministers, including the foreign minister, were holding talks with "foreign parties," the Tunisian state news agency reported, in a possible sign some in Gaddafi's circle were seeking a settlement.

(Additional reporting by Joseph Nasr in Berlin, Tarek Amara in Tunis, Hamid Ould Ahmed in Algiers, Maria Golovnina in Benghazi, Sherine El Madany in Cairo, Louis Charbonneau at the United Nations and David Brunnstrom in Brussels; writing by Christian Lowe and Mark John; editing by Michael Roddy)