Friday, April 8, 2011

Bài học 30 tháng 4 - Tôn Thất Bình

Tôn Thất Bình


Hàng năm đến ngày 30/4, người Việt hải ngoại kỷ niệm ngày Quốc hận tháng Tư đen thê lương. Ngày miền Nam bị cưỡng chiếm do ngoại bang sắp đặt. Ngày tưởng niệm những vong linh, oan hồn đã chết nơi biển cả, rừng sâu. Ngày thương xót nhớ đến các thiếu nữ bất hạnh đã bị hải tặc hãm hiếp và đem bán cho các động mãi dâm. Các thiến nữ bất hạnh đó hiện nay ở đâu ? ! 30/4 là ngày tưởng niệm các quân cán chính đã hy sinh trong tháng ngày hấp hối của chế độ VNCH và thương xót bao người quốc gia trên đường cùng đã bị CS bắt, hành hạ, tra tấn và đã ngã gục trong trại tù khổ sai khằc nghiệt mà CSVN rêu rao gọi là “”trai cải tạo”, danh từ hiền lành đầy nhân đạo để phỉnh gạt thế giới.

Ba mươi sáu năm uất hận trôi qua nhưng hình như ngày Quốc hận 30/4 chưa đánh động sâu sắc lòng người Việt ở hải ngoại. Họ chưa căm thù VC đến mức nên bỏ qua đi những di biệt phe phái mà phải đoàn kết bắt tay nhau để cứu đồng bào ta đang bị áp bức, bóc lột, cứu đất nước đang lâm nguy do bọn bành trướng TC. Muốn giật sập CSVN thì phải thật tâm đoàn kết để tạo tổng lực cứu nước. Phải suy gẫm đến biến cố 30/4 đau thương mà đừng chụp mũ nhau, bôi bác nhau hay vì chút quyền lợi mà cúi đầu làm tay sai cho bọn VC. Thế hệ tiếp nối sẽ tích cực chống Cộng cứu nước nếu thế hệ đàn anh là người có tâm huyết với Tổ quốc. Thế hệ đàn em sẽ lơ là hay không quan tâm đến vận mạng của đất nước nếu thế hệ đàn anh đặt quyền lợi cá nhân hay phe phái trên Tổ quốc Việt nam và đánh phá lẫn nhau. Xin hãy đoàn kết lại thành một LIÊN MINH vì dân tộc mà đấu tranh, vì Tổ quốc đang lâm nguy mà đứng lên cứu nước trước khi VC dâng hết nướcViệt nam choTrung Cộng để thành lập một thế giới đại đồng CS Việt-Trung.

1.- Bài học dân tộc tự quyết.

Đừng bao giờ giao vận mạng đất nước cho ngoại bang điều khiển. Đừng vì quyền lợi riêng tư hay phe phái mà nhờ ngoại bang che chở để rồi họ dành quyền điều khiển và khống chế đất nước của mình. Tổng Thống Ngô đình Diệm cương quyết không để ngoại bang xen vào nội bộ của đất nước. Ngài đã hy sinh nhưng danh thơm “cương quyết bảo vệ chủ quyền đất nước” của ngài được muôn đời ca tụng và lịch sử sẽ ghi công. Thời Đệ nhị Cộng hòa, các vị lãnh đạo đất nước quá sợ hãi Đại sứ Mỹ nên ông này đã lộng hành như thời Thái Thú Tàu xưa kia. HK điều khiển Viêt nam theo quyền lợi của nước họ. Trong khi đó các lãnh đạo tướng lãnh kéo phe cánh, củng cố địa vị hơn là cùng nhau nghiên cứu kế hoạch chống các cuộc xâm nhập của CS Bắc Việt và bọn tay sai tại Cục R ở biên giới Cao mên. Nay đảo chánh, mai chỉnh lý ! Ông lớn thì buôn lậu “còi hụ Long An“ ! Bà lớn thì mê đánh bài tạo kẻ hở cho VC cài người vào song bài lấy hơi của các bà để việc tiếp tế gạo và vũ khí vào chiến khu được dể dàng. Kết quả, điệp viên của VC đã xâm nhập được vào các cơ quan tối mật của VNCH và vì quyền lợi của tài phiệt HK, ngài đồng minh của chúng ta đã bắt tay với TC để tính việc xóa tên VNCH khỏi bản đồ thế giới. Không ai thương nước Việt nam bằng người Việt nam. Đừng quá ỷ lại vào sự che chở của ngoại bang mà quên đi trọng trách chính của mình là phải hết lòng, hết sức bảo vệ Tổ quốc.

Thời CSVN cai trị đất nước thì lại tệ hơn nữa. Không những chúng tham nhũng và bóc lột người dân mà CSVN lại quá lệ thuộc TC đi đến mất nước ! Chúng âm thầm lén lút dâng 789 km2 lãnh thổ VN cho TC vào ngày 30-12-1999 và 10,000 km2 lãnh hải vào ngày 25-12-2000, trong đó các vị trí chiến lược, phòng tuyến thiên nhiên lịch sử như đèo Pha Luy ở Ải Nam Quan, núi Mã Viện ở ải Chi Lăng mà quân của Lê Lợi đã mai phục và chém bay đầu đại danh tướng Liễu Thăng của Nhà Minh. Vùng VC dâng cho TC có rặng Hoàng Liên Sơn, thung lũng sông Hồng, sông Lô là nơi mồ chôn của 20 ngàn quân tinh nhuệ “Bát Nhất” của TC đã tràn qua biên giới Bắc Việt ngày 17-2-1979 theo lệnh của Đăng Tiểu Bình để dạy cho Việt nam một bài học.

Trong vùng dâng hiến cho TC có khu danh lam thắng cảnh Bản Giốc thu hút du khách mà TC đang khai thác. Khi Liên Xô sụp đổ, VC bỏ Liên Xô và chuyển hướng quy phục TC là kẻ thù truyền kiếp của Việt nam ở sát biên giới. VC trắng trợn làm gia nô cho TC. Ai chống đối, đả đảo Trung Cộng thì bị công an bắt giam. Một nhóm người Hoa đã đánh chết một người Việt chống đối chúng tại ngay thủ đô Hanôi nhưng công an làm ngơ không dám can thiệp vì sợ trái chỉ thị của Chính Trị Bộ VC. Thanh niên sinh viên biểu tình phản đối TC chiếm Hoàng Sa và Trường Sa thì bị công an bắt giam bỏ tù. Dân chúng không hiểu đây là đất nước Việt nam của chúng ta hay của Trung hoa ! Người dân không còn quyền bảo vệ vận mệnh của đất nước mình nữa sao !. Quyền điều khiển đất nước Việt nam hiện đang nằm tại Bắc kinh. TC không công khai chiếm Việt nam nhưng áp dụng kế hoạch “tầm ăn lá dâu” tuần tự ngấm ngầm thôn tính Việt nam qua bọn phản quốc Việt gian gia nô CSVN đang lén lút thi hành. Không còn xa nữa,Việt nam sẽ bị xóa tên khỏi bản đồ quốc tế và trở thành một tỉnh của Trung hoa. Hành động phản quốc của VC, lịch sử sẽ ghi chép vết dơ đó. Ai còn nghĩ đến quê hương đất nước xin hãy đoàn kết lại để cứu Tổ quốc. Một nước mà thiếu dân tộc tự quyết là một nước độc tài hay mất chủ quyền.

2.- Bài học tự túc, tự cường.

Không ai dại gì mà tung tiền giúp đất nước ta khơi khơi mà không thu lại lời lãi. Sau lưng những việc viện trợ kinh tế, quân sự là những điều kiện về quyền lợi “có qua, có lại“ đôi bên cùng có lợi. Bởi vậy trong chiến tranh chống giặc thù CS xảo quyệt, chúng ta phải cảnh giác, phải biết xử dụng viện trợ cho hợp lý và hữu hiệu để đất nước thành giàu mạnh hung cường đề phòng khi bị eo sách hay bị cúp viện trợ thì không bị hụt cẳng như 30/ 4/ 75. Đừng ngây ngất, ỷ lại vào viện trợ, vào bạn đồng minh hùng mạnh mà ngồi sung sướng hưởng thụ. Phải biết lợi dụng tiền viện trợ để sáng tạo phát triển kinh tế nước nhà. Nước giàu mạnh thì chúng ta mới có tiền dồi dào để lập ra nhiều sư đoàn biệt kích mà không cần tiền trả lương của HK quá hạn chế và mong manh. Chính các sư đoàn đặc biệt này sẽ ngăn chặn được sự xâm nhập của bộ đội Bắc Việt theo đường mòn dãy Trường Sơn. Việc càn quét quân VC nằm vùng sẽ do các lực lượng binh chủng khác đảm trách phối hợp với cảnh sát và đoàn xây dựng nông thôn. Phải lo cho kinh tế phát triển thì mới có ngân sách quốc phòng cho việc triệt tiêu sự xâm nhập của quân Bắc Việt như nói trên. Lãnh đạo phải bớt ăn chơi xa hoa và phải dồn hết trí óc tìm kế sách để ngăn chặn sự xâm nhập của quân Bắc Việt trên đường mòn HCM thay vì ỷ lại vào quân đội HK. 30/4 đã cho chúng ta bài học phải tự túc, tự cường. Đừng quá ỷ lại vào viện trợ mà hụt cẳng khi đồng minh xoay lưng lại với ta.

3.-Bài học phải tự tin và không vọng ngoại.

Xưa vua Lê Chiêu Thống (1787-1788) chỉ biết ôm chân nước Tàu nên bị làm nhục và khinh bỉ. Thời Đệ Nhị Cộng Hòa, các vị lãnh đạo cong lưng thuần phục HK nên bị khinh thường. Ai không làm theo ý quan Đại sứ HK thì bị lật đổ và người khàc lên thay thế. Vì vậy các vị lãnh đạo đã làm theo chỉ thị của quan Thái Thú HK cho ăn chắc khỏi bị rớt ghế. Vọng ngoại từ đấy, ỷ lại từ đấy thì đâu còn tự tin và phát huy sáng tạo cứu nước. Không ai thương mình bằng chính mình. Phải quyết tâm tự tin bảo vệ đất nước trong sáng tạo. Nước giàu mạnh, ngoại bang mới kính nể. Nước châm tiến, lạc hậu thì ngoại bang xem thường và tìm cách xâm chiếm thôn tính. 30/4 là ngày đau thương mất nước. Đó là bài học cần suy gãm phải tự tin, đừng ỷ lại vọng ngoại.

4.- Bài học mị dân không đúng cách.

Vẫn biết ý dân là ý trời nhưng bá nhân bá tánh biết nghe theo ai. Người lãnh đạo phải sáng suốt nhận định hướng đi có lợi cho Tổ quốc. Không mị dân nghe theo những đòi hỏi bất lợi cho đất nước.

Sau khi lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bọn VC nằm vùng trong phong trào đấu tranh, đã đòi Tổng Thống Dương Văn Minh phải tháo gỡ tất cả ấp chiến lược. Để vừa lòng phong trào đó, Tổng Thống Dương Văn Minh đã ra lệnh tháo gỡ hết áp chiến lược. Nhờ đó VC dễ dàng xâm nhập vào thôn làng và khống chế được nông thôn. Chúng cắt đứt một số đường giao thông ở nhiều tỉnh và gây bất ổn cho thành thị. Là một vị tướng mà ông Dương Văn Minh không biết hậu quả và tai hại đó sao. Khi vấn đề trở nên trầm trọng thì mới cho xây dựng ấp Dân sinh nhưng đã muộn vì VC đã nằm lẫn trong dân rồi. Chúng khống chế nông thôn để bao vây thành thị theo sách lược. Hậu quả là phe quốc gia phải co cụm lại và mất dần đất đai để rồi đi đến mất nước. 30/4 làm chúng ta suy gẫm lại bài học mị dân không đúng cách đã đưa đến hậu quả tai hại to lớn. VC trà trộn trong phong trào đấu tranh lật đỗ chế độ Đệ nhất CH nên các tưởng lãnh không dám cứng rắng sợ ‘bứt dây động rừng‘ do đó chúng đã xâm nhập vào được các cơ sở quan trọng của chính quyền. Chúng triệt hạ Đoàn Đặc Nhiệm Công Tác Miền Trung đã có công bắt trọn ổ điệp viên cao cấp từ miền Bắc xâm nhập vào Nam. Đoàn Đặc Nhiệm này bị chụp mũ là bọn Cần Lao ác ôn. Các tên trùm điệp báo cao cấp VC rất nguy hiễm đã bị bắt giam nay được thả ra hết! Không khác gì thả hổ về rừng để ăn thịt dân ta. Chính quyền Dương Văn Minh im re không có phản ứng gì. Phải chăng lãnh đạo VNCH e ngại “rút dây động rừng” nên đặt quyền lợi cá nhân lên trên Tổ quốc VN. VC nằm trong Phong trào đấu tranh ở Huế đã áp lực phải xử bắn ông Phan Quang Đông, chỉ huy Cơ Quan Điệp BáoTối Mật Quốc Gia nhảy toán và xâm nhập đường bộ ra Bắc, thế mà vị Tư lệnh vùng I CT không dám can thiệp mặc dầu biết rõ Cơ Quan nhảy toán ra Bắc không liên hệ gì đền Cần Lao. Các điệp viên quốc gia ở Bắc Việt như rắn mầt đầu và từ từ bị tóm bắt do điệp viên VC đã lọt vào được Cơ quan nhảy toán ra Bắc. Xin trích một đoạn trong bài “OP 34A” của Biệt cách dù Phan Tuấn Sơn. “… Địch có vẻ đã cài được người vào ta, nên kế khoạch bị lộ từ nữa năm nay. Tháng 10 đến tháng 12, Sở đã mất 3 toán không tin tức gì. Hình như tất cả đều bị bắt ngay khi vừa chạm đất … 11giờ 10 đêm hôm đó, máy bay chở chúng tôi thẳng về hướng Tây Bắc của Tổ quốc Việt nam. Mục tiêu hay điểm đáp của chúng tôi là Công Trường 40 (chuyên nuôi bò) ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, chỉ cách biên giới Lào có 17 km… đèn xanh bật sáng, không nghĩ ngợi, tôi lao mình vào khoảng không gian mờ mịt, chênh chếch bên trái tôi do ngọn lửa được đốt theo hình chữ “T” như đã được quy định … tôi chuẩn bị lái dù hướng về mục tiêu … bỗng nhiều tràng súng nổ ròn rã. Do ánh lửa hắt lên không trung, tôi thấy rõ ba anh bị trúng đạn khi dù chỉ còn cách mặt đất chừng vài chục mét … Nguy rồi, chúng tôi đã bị địch phục kích, được địch chờ đón ngay tại mục tiêu !” (Trích Đặc san Biệt Cách Dù 2001, trang 98 và 99).

Đây là vết đau nhức nhối mở đầu cho ngày uất hận 30/4 đen !

5.- Bài học phe phái và tham nhũng.

Khi nắm được quyền hành, các vị lãnh đạo củng cố địa vị của mình. Thế là có màn lôi kéo phe cánh, lập bè phái, thanh toán nhau, hạ bệ nhau để địa vị lãnh đạo của mình được vững chắc. Hôm nay đảo chánh, ngày mai chỉnh lý. Quân cán chính bị chia rẽ thiếu đoàn kết hợp nhất. Thay vì hợp nhau lại để bàn tính kế hoạch ngăn chống VC xâm nhập, các vị khoanh cho cấp dưới lo liệu còn mình thì tính việc đảo chính, phản đảo chánh.

Vấn đề khác nữa. Ai muốn có địa vị cao tốt thì phải chạy chọt, đút lót. Thế là nạn tham nhũng bộc phát. Nhiều kẻ bất tài nhờ đó được trọng dụng. Những đàn em này phải mất một số tiền lớn để đút lót mới mong có được địa vị như ý. Nên khi nhậm chức rồi thì họ phải bóc lột, tham nhũng để không những lấy lại vốn mà còn trở nên giàu sang. Phú quý sinh phè phởn và lơ là việc nước. Ông bà tha hồ đánh bạc, rượu chè, nhảy đầm, chơi bời. VC khai thác sơ hở này nên tung tiền đút lót các quan lớn để xâm nhập vào tổ chức an ninh của chính quyền. Chúng khôn khéo làm bà thương gia cùng đánh bạc với các mệnh phụ trong sòng bài để gây cảm tình thân thiết rồi xin việc cho “con cháu gỉa tạo” vào các cơ sở an ninh tình báo. Nhiều vụ mua vũ khí, mua gạo đưa vào mật khu đã được ô dù của các bà lớn vô tình bao che. Thế đấy !

6.- Bài học tâm lý chiến.

Không ai phủ nhận gương hy sinh, can đảm của quân cán chính VNCH. Nhiều bài hát rất hay và hào hùng do cơ quan tâm lý chiến sáng tác. Đài gươm thiêng ái quốc,phim kịch chống cộng đã hâm nóng lòng ái quốc của quân dân. Tuy nhiên cần được lãnh đạo khuyến khích và hỗ trợ để công cuộc tâm lý chiến được phổ biến rầm rộ và hiệu quả hơn.

Phải có kế hoạch tung ra hải ngoại để thế giới hiểu chính nghĩa của chúng ta hơn, để họ không bị mắc mưu bọn VC và bọn phản chiến. Đây là điểm yếu của VNCH để cho VC qua mặt tuyên truyền dối trá với thế giới rằng VNCH là bù nhìn của đế quốc Mỹ, rằng chùng có chính nghĩa đánh Mỹ cứu nước.

Phải cần có những buổi học tập định kỳ tại mỗi đơn vị để ban tâm lý chiến đơn vị có dịp hâm nóng tinh thần chống cộng của các chiến sĩ. Để vị này vạch mặt bọn VC tuyên truyền sai trái, láo khoét, giải độc cho một số anh em chiến sĩ bị hoang mang hay bất mãn điều gì. Sĩ quan tâm lý chiến tại mỗi đơn vị phải là người có tâm huyết và chịu khó lien lạc với Trung ương sở Tâm Lý chiến để có tài liệu thuyết trình mỗi tháng tại đơn vị của mình. Tôi nhớ một lần được phân công trực ban đêm đứng bên quan tài một sĩ quan tử trận. Trong câu chuyện họ hàn huyên, tôi nghe một bà nói : “… con tôi ra trận không bao giờ bắn phía bên kia, thế mà nó bị chết oan”. Con bị VC giết mà gia đình vẫn còn cảm tình với chúng sao?. Biết đâu họ đã bị VC đầu độc tuyên truyền láo khoét rồi. Sở Tâm lý chiến nghỉ sao.

7.- Bài học, biến đau thương thành liên minh đoàn kết cứu nước.

Nếu không có chương trình nhân đạo HO thì các quân cán chính bị tù khổ sai vô thời hạn nơi rừng sâu giá lạnh ỏ thượng du Bắc Việt và bị CSVN hành hạ đến bỏ xác tại đây không có ngày về. Chúng dùng sức lao động của kẻ sa cơ để khai thác rừng hoang cho chúng. Đến khi kiệt sức gục ngã thì vĩnh biệt cỏi đời và làm phân bón cho cây cỏ tại đây. Phải nhớ hận thù này mà bỏ qua cho nhau những đố kỵ cá nhân. Hãy đoàn kết lại để xóa sạch bọn CS ác ôn phản quốc.

Hãy tưởng nhớ đến triệu đồng bào vùi thây nơi biển cả, trong rừng âm u. Những thiếu nữ ngay thơ vượt biên với mộng ước tươi sang trong tương lai, nhưng than ôi các cháu ấy đã bị hãm hiếp rồi bán cho các động mãi dâm. Có ai nghe tiếng khóc than thảm thiết của các cháu bất hạnh đó không. Hãy biến đau thương đó thành hành động đại đoàn kết để cứu nước.

Ba mươi sáu năm ly hương nhìn lại cố quốc mà chạnh lòng. Đồng bào quốc nội đang rên siết lầm than. Nhân quyền bị chà đạp, ruộng đất bị lũ cán bộ ác ôn cướp đoạt. Bọn VC dùng luật rừng để cai trị nên chúng tha hồ vơ vét tài nguyên của đất nườc. Cán bộ cấp cao thì tham nhũng theo kiểu cao cấp và tài sản của chúng tăng dần đến mấy chục tỷ đôla. Cán bộ cấp dưới tham nhũng bằng cách đục khoét dân lành vô tôi và sống phè phởn với cả triệu đola. Công an thì đưởc bao che. Đánh chết người mà không bị tội nên chúng tha hồ trấn lột đồng bào cô thế.

Nguy khốn hơn nữa là chúng đang manh tâm dâng đất nước Việt nam thân yêu cho Trung Cộng để được TC ban ơn bảo đảm chiếc ghế chủ tịch một tinh có tên Việt nam của nước Trung hoa vĩ đại.

30/4 là ngày mất nước VNCH, là ngày đau thương uất hận ! Xin hãy thắp nén hương cho những oan hồn bất hạnh, nạn nhân của VC. Xin hãy đoàn kết để tạo tổng lực giật sập chế độ CSVN phản quốc, hại dân. Mong lắm thay.

Tôn Thất Bình
Hawaii


Những Ngộ Nhận Lịch Sử - Đỗ Ngọc Uyển

    - Viết cho Tháng Tư
Đỗ Ngọc Uyển

Kể từ sau biến cố lịch sử 30-4-1975 cách đây 36 năm, một số sử gia, nhà nghiên cứu, nhà văn… đã đưa ra một số nhận định về các sự kiện chủ yếu của cuộc chiến tại Việt Nam như sau: Cuộc chiến Việt Nam là một cuộc nội chiến hoặc một cuộc chiến uỷ nhiệm. Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã bại trận và Quân Đội Cộng Sản đã thắng trận. Cuộc chiến Việt Nam đã vĩnh viễn chấm dứt kể từ ngày 30-4-1975.

Khi đưa ra những nhận định trên đây, người ta đã chỉ nhìn thấy hiện tượng của các sự kiện mà không nhìn thấy bản chất của chúng. Những nhận định hời hợt này đã đưa đến những ngộ nhận tai hại về một giai đoạn quan trọng của lịch sử đất nước. Trình bày trung thực những sự kiện chủ yếu của một giai đoạn lịch sử là trách nhiệm của các thế hệ đã tham gia vào, đã là chứng nhân trong giai đoạn lịch sử đó và cũng là để trả một món nợ đối với các thế hệ tương lai bởi vì hậu thế có quyền đòi hỏi, có quyền biết những sự thật lịch sử trong quá khứ, những gì mà các thế hệ đi trước đã làm. Để trả lại sự thật cho lịch sử, phải tìm hiểu chính xác bản chất của các sự kiện nói trên. Đây cũng là công việc chính danh, đặt tên cho đúng.

I. Cuộc Chiến Việt Nam là Một Cuộc Nội Chiến hoặc Một Cuộc Chiến Uỷ Nhiệm

1. - Khi nhận định cuộc chiến Việt Nam là một cuộc nội chiến, người ta đã dẫn chứng rằng những người lính ở hai bên chiến tuyến cùng là người Việt Nam. Đây chỉ là hiện tượng và như vậy không thể vội vã kết luận cuộc chiến này là một cuộc nội chiến. Muốn biết bản chất của cuộc chiến này, hãy tìm hiểu những người lính VNCH và những người lính CSVN đã suy nghĩ những gì trong đầu họ khi cầm súng trực diện đối đầu nhau ngoài mặt trận. Việc này không khó.

Trong cuộc chiến xâm lược Việt Nam Cộng Hoà kéo dài 20 năm do Cộng Sản Miền Bắc phát động theo lệnh của Đệ Tam Quốc Tế, mỗi lần cầm súng ra trận, những người lính VNCH đều mang trên vai Danh Dự và Trách Nhiệm đối với Tổ Quốc cùng với niềm tin họ đi chiến đấu để bảo vệ thể chế dân chủ tự do của quê hương Miền Nam, để chống lại quân xâm lược Cộng Sản Miền Bắc nhằm thôn tính và áp đặt một chế độ cộng sản độc tài toàn trị lên Miền Nam. Đây cũng chính là đi chiến đấu để bảo vệ những giá trị truyền thống của lý tưởng quốc gia dân tộc mà tổ tiên đã dày công xây dựng, vun đắp và bảo vệ trong suốt dòng lịch sử của dân tộc.

Trong suốt những năm dài trong quân ngũ, những người lính CSVN đã phải thường xuyên học tập về chủ nghĩa cộng sản. Họ bắt buộc phải trung thành với Đảng Cộng Sản Việt Nam, phải phục vụ và hy sinh cho lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Những người lính này, khi cầm súng ra trận, đều có một niềm tin mù quáng sắt đá rằng họ đi làm nhiệm vụ quốc tế vô sản ngay trên đất nước Việt Nam và toàn cõi Đông Dương để xây dựng một thế giới đại đồng không còn giai cấp bóc lột, không còn tôn giáo, không còn tổ quốc, không còn biên giới quốc gia … theo đúng lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản mà Hồ Chí Minh đã lén lút du nhập vào Việt Nam.

Những phân tích trên đủ để chứng minh cuộc chiến tại Việt Nam không phải là một cuộc nội chiến vì những nguyên nhân tranh chấp, chia rẽ trong nội bộ quốc gia mà chính danh là Cuộc Chiến Quốc Cộng. Đó là cuộc chiến giữa hai phe mang hai ý hệ Quốc Gia và Cộng Sản chống đối nhau quyết liệt, một mất một còn như bốn câu thơ sau đây được viết trong một trại tù cộng sản tại Hoàng Liên Sơn:
    Nó sống thì mình thác
    Mình còn nó phải tiêu
    Lối đi chỉ một chiều
    Chẳng còn đường nào khác.


    Cung Trầm Tưởng
    Hoàng Liên Sơn, 1977
Trong Cuộc Chiến Quốc Cộng, Việt Cộng luôn luôn đặt một câu hỏi thách thức có tính khẳng định: “Ai thắng ai?” Câu hỏi này đang được lịch sử trả lời.

Đối với Việt Cộng, Pháp hay Mỹ … chỉ là những kẻ thù giai đoạn và có thể trở thành bạn đối tác chiến lược như Hoa Kỳ ngày nay. Trái lại, thực tế 80 năm nay đã chứng minh rằng người Việt quốc gia, tức toàn dân Việt Nam, mới là kẻ thù không thể đội trời chung về ý hệ mà Việt Cộng phải tiêu diệt trước khi chúng có thể xây dựng được “chế độ xã hội chủ nghĩa” tại Việt Nam.

Có người đã so sánh Cuộc Chiến Quốc Cộng tại Việt Nam với Cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ - một cuộc chiến có nguyên nhân chia rẽ nội bộ là vấn đề nô lệ - và trách móc Việt Cộng đã không đối xử với những chiến binh QLVNCH như phe thắng trận đã đối xử một cách mã thượng đối với phe thua trận trong Cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ. So sánh như vậy là lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia, là bao che cho tội làm Việt gian, tay sai cho ngoại bang của Việt Cộng; cũng như trách móc cộng sản đã đối xử tàn ác với những chiến binh QLVNCH bị sa cơ sau ngày 30-4-1975 là không hiểu gì về bản chất của cộng sản, một lũ vô nhân tính, với chủ trương “đấu tranh tiêu diệt giai cấp”, làm sao chúng có nhân ái và lương tri để cư xử giống như con người được!

2. - Khi nhìn thấy người lính Việt Nam Cộng Hoà chiến đấu bằng vũ khí do Hoa Kỳ viện trợ và người lính Cộng Sản Việt Nam chiến đấu bằng vũ khí do Liên Xô và Trung Cộng cung cấp, người ta đã vội kết luận đây là cuộc chiến do các thế lực quốc tế uỷ nhiệm. Nhận định này chỉ đúng một nửa. Vũ khí trong tay người lính chỉ là một phương tiện vô tri không nói lên được ý nghĩa và bản chất của cuộc chiến. Chính mục đích mà hai phe theo đưổi trong cuộc chiến - như đã trình bày ở trên - mới nói lên ý nghĩa và bản chất của cuộc chiến.

Nhìn kỹ lại lịch sử Việt Nam cận đại sẽ thấy Cuộc Chiến Quốc Cộng còn đang tiếp diễn tại Việt Nam ngày hôm nay đã bắt đầu từ cuối năm 1924 khi Hồ Chí Minh theo lệnh của Đệ Tam Quốc Tế đến hoạt động tại Quảng Châu, Trung Hoa, để đánh phá các đảng phái cách mạng của người quốc gia đang hoạt động tại Hoa Nam. Hồ Chí Minh đã bán Cụ Phan Bội Châu cho Pháp để lấy 100,000$ tiền Đông Dương; đã xâm nhập và chiếm đoạt Tâm Tâm Xã của Phạm Hồng Thái; đã xâm nhập và tiếm danh Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (gọi tắt là Việt Minh) của Cụ Hồ Học Lãm; đã xâm nhập, phá hoại, lũng đoạn và leo tới chức uỷ viên trung ương của Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội của Cụ Nguyễn Hải Thần. Tất cả những việc làm trên đây đều được Hồ Chí Minh báo cáo từng chi tiết cho Đệ Tam Quốc Tế để lãnh lương và xin phụ cấp.

Hồ Chí Minh đã gây ra cuộc chiến tranh với Pháp trong tám năm và lợi dụng thời gian chiến tranh này để tàn sát đẫm máu các thành viên của các đảng phái quốc gia. Sau khi chiếm đuợc chính quyền tại Miền Bắc vào năm 1954, Hồ Chí Minh tiếp tục truy lùng và tiêu diệt hết các đảng phái quốc gia. Cuộc Chiến Quốc Cộng do Hồ Chí Minh phát động và kéo dài cho tới ngày nay là cuộc chiến đẫm máu nhất trong lịch sử và đã cướp đi sinh mạng của ít nhất là năm triệu người Việt. Đây là tội ác lịch sử của Hồ Chí Minh và Băng Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Sau khi chiếm được một nửa đất nước vào năm 1954, Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Nhận chỉ thị của Đệ Tam Quốc Tế để giải quyết vấn đề cách mạng (vô sản) tại Việt Nam, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ”. Những lời thú nhận trên đủ để chứng minh chính Hồ Chí Minh đã phát động Cuộc Chiến Quốc Cộng theo lệnh của Đệ Tam Quốc Tế. Người Việt quốc gia, tức dân tộc Việt Nam, đã và còn đang tiếp tục chiến đấu diệt cộng không phải do một thế lực quốc tế nào uỷ nhiệm mà vì trách nhiệm đối với quê hương. Người Mỹ chỉ tham gia, viện trợ và cam kết giúp người Việt quốc gia trong Cuộc Chiến Quốc Cộng kể từ năm 1954 khi họ nhận thấy hiểm hoạ bành trướng của Trung Cộng xuống vùng Đông Nam Á - một vùng có lợi ích kinh tế và chính trị lâu dài của Hoa Kỳ - thông qua bọn tay sai Việt Cộng. Tuy nhiên, sau khi đạt được thoả thuận với Trung Cộng và thấy không còn nguy cơ bành trướng của Trung Cộng xuống vùng Đông Nam Á nữa, người Mỹ rút lui và chấm dứt mọi viện trợ quân sự và kinh tế cho VNCH vào năm 1973. Đó là tinh thần thực dụng và duy lợi của những người làm chính sách của Hoa Kỳ bất kể đạo đức chính trị và những lời cam kết long trọng của năm vị tổng thống Hoa Kỳ trong quyết tâm giúp VNCH chống lại cuộc xâm lăng của Việt Cộng Miền Bắc. Người Mỹ đã rút khỏi cưộc chiến nhưng người Việt quốc gia, tức toàn dân Việt Nam, vẫn tiếp tục Cuộc Chiến Quốc Cộng cho tới khi nào thanh toán xong Băng Đảng Việt Gian Cộng Sản. Đây là nhiệm vụ lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Cuộc chiến xâm lăng VNCH nằm trong chủ trương bành trướng của Đệ Tam Quốc Tế xuống vùng Đông Nam Á được uỷ nhiệm cho Đảng CSVN. Năm 1976, trong một cuộc họp nội bộ, Lê Duẩn, Tổng Bí Thư của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã tuyên bố: “Chúng ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc và chúng ta đã thành công trong việc cắm lá cờ quốc tế Mác Lê trên toàn cõi Việt Nam”. Ngoài ra, tờ Sài Gòn Giải Phóng, một tiếng nói chính thức của Đảng CSVN, đã tự khai như sau: “Trung Quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí mà còn là người thầy tín cẩn, đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có được ngày hôm nay thì chủ quyền Hoàng Sa thuộc Trung Quốc hay thuộc ta cũng vậy thôi. Những lời tự thú trên của Lê Duẩn và của tờ Sài Gòn Giải Phóng là những bằng chứng hùng hồn, hiển nhiên, không thể chối cãi rằng chính danh của “bộ đội Cụ Hồ” là lính đánh thuê cho Đệ Tam Quốc Tế, cho Trung Cộng và Liên Xô. Với bản chất là lính đánh thuê chuyên nghiệp cho ngoại bang, “bộ đội Cụ Hồ” chưa bao giờ chiến đấu vì tổ quốc Việt Nam. Những người “bộ đội” này không có chỗ đứng trong dòng lịch sử chính thống của dân tộc; chỗ đứng của họ là ở trong lịch sử của Đảng Cộng Sản Việt Nam, một chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế.

Những phân tích trên đây đã chứng minh rằng trong Cuộc Chiến Quốc Cộng, người lính VNCH cầm súng đi chiến đấu để bảo vệ quê hương Miền Nam, chống lại cuộc xâm lăng của Đệ Tam Quốc Tế được uỷ nhiệm cho Chi Bộ Cộng Sản Việt Nam. Và, người “bộ đội Cụ Hồ” cầm súng đi đánh thuê cho Đệ Tam Quốc Tế dưới chiêu bài đi làm nhiệm vụ quốc tế vô sản để thực hiện lý tưởng đại đồng của chủ nghĩa cộng sản như Hồ Chí Minh đã xuất khẩu mấy câu thơ một cách ngông cuồng, hỗn xược khi một lần y đi ngang qua đền thờ Đức Thánh Trần tại Vạn Kiếp: “…Bác đưa một nước qua nô lệ. Tôi dẫn năm châu tới đại đồng…”

II. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Đã Bại Trận và Quân Đội Cộng Sản Đã Thắng Trận

Trong sách Binh Thư Yếu Lược của Đức Thánh Trần có đoạn ghi rõ: “Từ xưa các trường hợp nhờ quân ta rối loạn mà địch được thắng lợi đếm không xuể. Quân ta rối loạn đem lại thắng lợi cho địch có nghĩa là quân ta tự tan vỡ, chớ không phải địch đánh thắng ta. Nếu sĩ tốt tự rối loạn, dẫu là tướng tài cũng phải chịu nguy hại, như thế không còn nghi ngờ gì nữa”.

Nếu theo sát những biến chuyển quân sự trong 50 ngày trước ngày 30-4-1975, người ta rất dễ nhận thấy đã có những cuộc hoảng loạn (panic) được tạo ra bằng nhiều cách để làm tan rã hàng ngũ phòng thủ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Trong suốt thời gian này, hai đài phát thanh quốc tế BBC và VOA đã liên tiếp hai buổi mỗi ngày, sáng và tối, loan truyền những tin tức gây chấn động kinh hoàng làm hoảng loạn tinh thần quân dân VNCH, góp phần làm tan rã nhanh chóng hàng ngũ QLVNCH để mang lại thắng lợi cho quân CS. Tại nhiều nơi, hàng ngũ phòng thủ của QLVNCH đã bị tan rã trước khi quân CS tới chiếm. Sau này, chính Việt Cộng đã thú nhận chúng cũng không tin chúng có thể đoạt được thắng lợi trong ngày 30-4-1975. Chúng đã ước tính ít nhất phải đến năm 1977, chúng mới có thể chiếm được Miền Nam với điều kiện là Hoa Kỳ cắt đứt mọi viện trợ quân sự và kinh tế cho VNCH và chúng vẫn tiếp tục nhận được đầy đủ tiếp viện và yểm trợ của khối cộng sản.

Về địa hình quân sự, lãnh thổ VNCH hẹp chiều ngang. Do đó, rất dễ lập những tuyến phòng thủ hàng ngang vững chắc, kế tiếp nhau chạy dài từ bắc vào nam để chặn đứng những cuộc tấn công quy ước vào lãnh thổ VNCH từ hướng bắc. Muốn tấn công một tuyến phòng thủ như vậy, địch quân phải có một hoả lực vượt trội và một quân số đông hơn ít nhất gấp ba lần quân phòng thủ. Điều này được thấy rõ trong trận đánh duy nhất và cuối cùng trong tháng 4-1975 tại Mặt Trận Xuân Lộc. Sư Đoàn 18 Bộ Binh của QLVNCH cùng với những đơn vị tăng phái đã chặn đứng mũi tấn công của Quân Đoàn 4 Bắc Việt gồm ba Sư Đoàn 6, 7, 341 cộng thêm Sư Đoàn 7 của Việt Cộng tại Miền Nam cùng với một số đơn vị pháo binh và thiết giáp tăng phái đang tiến về hướng Sài Gòn. Trong thời gian 12 ngày đêm, từ ngày 8 đến 20-4-1975, bốn sư đoàn chính quy cộng sản cùng với quân tăng phái đã liên tiếp mở những đợt tấn công biển người ác liệt, đẫm máu với chiến thuật “tiền pháo hậu xung” nhưng chúng không thể chọc thủng được tuyến phòng thủ của Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Chúng đã phải thay thế ngay tại mặt trận Tướng Tư Lệnh Hoàng Cầm bằng Tướng Trần Văn Trà. Cuối cùng, chúng vẫn phải đoạn chiến với SĐ 18 BB. Chúng để Sư Đoàn 7 VC ở lại cầm chân SĐ18 BB và tìm cách đi vòng áp sát vào Thủ Đô Sài Gòn.

Với Trận Xuân Lộc, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo và Sư Đoàn 18 Bộ Binh cùng các đơn vị tăng phái đã chứng minh cho thế giới thấy tướng lãnh, sĩ quan QLVNCH là những cấp chỉ huy dày dạn kinh nghiệm chiến trường và những người lính QLVNCH là những chiến binh có tinh thần chiến đấu cao và rất thiện chiến trong những trận đánh quy ước. Nếu không có những cuộc hoảng loạn được tạo ra để làm tan rã hàng ngũ QLVNCH, những tuyến phòng thủ vững chắc của QLVNCH kế tiếp nhau suốt theo chiều dài của lãnh thổ từ bắc vào nam đã dễ dàng chặn đứng và đánh bại những cuộc tấn công quy ước của quân xâm lăng Cộng Sản Miền Bắc trong tháng 4/1975. Và có thể quả quyết Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà không thể bị đánh bại trong 50 ngày.

Tác giả Phillip B. Davidson - trong bài viết có tựa đề “Xuan Loc Battle” - đã đánh giá Trận Xuân Lộc là một trong những trận đánh có tầm vóc hùng sử ca trong hai cuộc chiến Đông Dương. “The Battle for Xuan Loc produced one of the epic battles of any of the Indochinese wars.”

Những sự kiện trên đây đã chứng minh: chính là vì Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bị làm cho tan rã để mang lại thắng lợi cho Quân Đội Cộng Sản Miền Bắc chứ không phải Quân Đội Cộng Sản Miền Bắc đã đánh thắng Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà trong ngày 30-4-1975. Ngoài ra, theo binh thư, khi một đoàn quân xâm lược chỉ chiếm được đất, chiếm được thành mà không chiếm được lòng dân, đoàn quân đó không phải là đoàn quân chíến thắng mà chính danh là một đoàn quân cướp của giết người, một đoàn cộng phỉ. Trong 50 ngày trước ngày 30/4/1975, khi quân cộng sản tiến tới đâu, người dân Miền Nam kéo nhau bỏ chạy tới đó suốt từ bắc vào nam và bị chúng đưổi theo bắn giết rất dã man. Chỉ riêng trên Tỉnh Lộ 7B từ Pleiku tới Tuy Hoà, trong chín ngày đêm, quân Việt Cộng đã đuổi theo, pháo kích giết chết hơn 160,000 đồng bào gồm người già, đàn bà và trẻ nhỏ. Khi chúng chiếm được cả Miền Nam, người dân không còn đất để chạy nữa, họ kéo nhau lao ra biển bất chấp nguy hiểm đến tính mạng. Các hãng thông tấn quốc tế thời đó đã gọi những cuộc chạy giặc này là những cuộc “bỏ phiếu bằng chân”.

Thực tế đã chứng minh suốt 36 năm nay và sẽ không bao giờ Việt Cộng có thể chiếm được lòng người dân Miền Nam dù rằng chúng luôn luôn kêu gọi “hoà hợp hoà giải”. Đối với người dân Miền Nam, đoàn quân xâm lăng Cộng Sản Miền Bắc chỉ là một bọn giặc: “Giặc từ Miền Bắc vô Nam; bàn tay nhuốm máu đồng bào”. Do đó, xét về bất cứ phương diện nào, đoàn quân Cộng Sản Miền Bắc cũng không phải là đoàn quân chiến thắng trong ngày 30-4-1975 như chúng reo hò và được bọn phản bội và phản chiến phụ hoạ suốt 36 năm nay để lừa bịp lịch sử. Chúng chỉ là một bọn lính đánh thuê cho Đệ Tam Quốc Tế, cho Liên Xô và Trung Cộng, một bọn “giặc cờ đỏ” đi cướp của giết người và là công cụ của một băng đảng chuyên nghề đi cướp chính quyền bằng “bạo lực cách mạng vô sản”, tức bằng khủng bố. Cái mà chúng hô hoán là “Đại Thắng Mùa Xuân” trong ngày 30-4-1975, thực chất, chỉ là chuyện “chó ngáp được ruồi”.

III. Cuộc Chiến Việt Nam Đã Vĩnh Viễn Chấm Dứt Kể Từ Ngày 30-4-1975

Khi thấy quân xâm lăng Cộng Sản Miền Bắc đã chiếm được lãnh thổ VNCH nhưng không chiếm được lòng người dân Miền Nam và QLVNCH bị làm cho tan rã, người ta đã vội tin rằng Cuộc Chiến Quốc Cộng đã vĩnh viễn chấm dứt vào ngày 30-4-1975, đã “đi vào tiền kiếp”… Đây là cách nhìn cuộc chiến tại Việt Nam trong bối cảnh của cuộc chiến tranh lạnh toàn cầu và sau khi người Mỹ đã rút đi và chấm dứt mọi viện trợ quân sự và kinh tế cho VNCH. Nhưng nếu nhìn kỹ Cuộc Chiến Quốc Cộng trong bối cảnh vận động của dòng lịch sử chính thống của Việt Nam trong giai đoạn cận đại, người ta sẽ thấy Cuộc Chiến Quốc Cộng tại Việt Nam chưa bao giờ chấm dứt mà vẫn còn đang tiếp diễn dưới nhiều hình thái phù hợp với thế và lực của người Việt quốc gia, tức toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước, trong giai đoạn mới của cuộc chiến.

Lịch sử là một dòng vận động liên tục không đứt đoạn và có tính tiếp nối. Ngày 30-4-1975 chỉ là một dấu mốc của lịch sử. Nó đánh dấu điểm bắt đầu của một giai đoạn mới trong Cuộc Chiến Quốc Cộng. Cuộc chiến này chỉ chấm dứt khi toàn dân Việt Nam thanh toán xong Băng Đảng CSVN và đất nước Việt Nam thật sự có một nền hoà bình công chính trong đó mọi công dân được hưởng đầy đủ những quyền căn bản của con người về dân quyền và nhân quyền trong một chính thể dân chủ tự do như dưới Chế Độ Việt Nam Cộng Hoà mà toàn dân Miền Nam đã dày công xây đắp trong suốt 20 năm bất kể sự phá hoại triền miên từng giây, từng phút, từng giờ trong chiến tranh du kích phá hoại do Hồ Chí Minh phát động theo lệnh của Đệ Tam Quốc Tế để “giải phóng Miền Nam” dù phải “đốt cháy dãy Trường Sơn”.

Kể từ ngày 26-10-1955, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, Miền Nam Việt Nam, về cơ bản, đã xây dựng được một chính thể dân chủ hiện đại với ba nghành hành pháp, lập pháp và tư pháp độc lập với quyền lực cân bằng và kiểm soát lẫn nhau. Đây là một sự kiện lịch sử mà 34 năm sau, năm 1989, Tiến Sĩ Francis Fukuyama - trong một bài tiểu luận nổi tiếng có tựa đề “The End of History” được viết sau khi Bức Tường Bá Linh sụp đổ và hệ thống cộng sản bắt đầu tan rã - đã nhận định rằng: “Cái mà chúng ta đang chứng kiến có thể không chỉ là sự kết thúc của Cuộc Chiến Tranh Lạnh hay của một giai đoạn đặc biệt của lịch sử hậu chiến, mà là sự cáo chung của lịch sử theo nghĩa: là điểm chấm dứt của sự tiến hoá về ý hệ của nhân loại và sự phổ cập hoá nền dân chủ phóng khoáng Tây Âu như là hình thức chính quyền sau cùng của nhân loại”. “What we may be witnessing is not just the end of the Cold War or the passing of a particular period of postwar history, but the end of history as such: that is, the end point of mankind’s ideological evolution and the universalization of Western liberal democracy as the final form of human government …”. Xét theo nhận định trên đây của Tiến Sĩ Francis Fukuyama, chính thể cộng hoà mà Miền Nam Việt Nam đã lựa chọn cách đây 56 năm chính là cái đích cuối cùng mà nhân loại văn minh ngày nay đang đi tới.

Ngoài ra, cũng trong một tiểu luận nổi tiếng liên quan đến tiến trình dân chủ của nhân loại có tựa đề “Democracy’s Third Wave” viết năm 1991, Tiến Sĩ Samuel P. Huntington đã chia tiến trình dân chủ hoá của nhân loại thành ba làn sóng: Làn sóng thứ nhất bắt đầu từ thập niên 1820 đến năm 1926, kéo dài gần một thế kỷ; làn sóng thứ hai bắt đầu từ khi chấm dứt Thế Chiến II cho đến đỉnh cao nhất vào năm 1962; làn sóng thứ ba bắt đầu từ giữa thập niên 1970 đến nay và còn đang tiếp diễn. Căn cứ vào sự phân chia này, tiến trình dân chủ hoá của VNCH - bắt đầu từ ngày 26-10-1955 - thuộc làn sóng thứ hai. Trong khi đó, các quốc gia như Đài Loan, Đại Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Nam Dương … chỉ bắt đầu dân chủ hoá kể từ giữa thập niên 1970 trở đi, tức thuộc làn sóng thứ ba. Điều này chứng tỏ rằng, mặc dù đất nước ở trong tình trạng chiến tranh, VNCH đã thiết lập được chính thể dân chủ tự do trước các quốc gia trong vùng Đông Nam Á và Đông Bắc Á trên, dưới 20 năm.

Trong Chế Độ Việt Nam Cộng Hoà, tất cả các quyền căn bản về nhân quyền và dân quyền được luật pháp bảo vệ. Người dân có tất cả các quyền tự do về kinh tế, chính trị đối lập, sinh hoạt đảng phái, bầu cử, ứng cử, thông tin, ngôn luận, báo chí, tôn giáo, cư trú, di chuyển … và đặc biệt là quyền tự do tư tưởng. Các trường đại học ở Miền Nam có quyền tự trị đại học như các đại học Âu Mỹ. Các giáo sư đại học được tự do giảng dạy tất cả các học thuyết kể cả học thuyết cộng sản. Đại học ở Miền Nam là một thế giới hàn lâm không ai được quyền can thiệp. Nền dân chủ non trẻ của Việt Nam Cộng Hoà còn nhiều khiếm khuyết, nhưng cơ bản là một thể chế chính trị đặt trên những nền tảng tiến bộ nhất trong lịch sử văn minh của nhân loại. Băng Đảng Việt Cộng đã phạm tội đối với lịch sử khi chúng tiêu diệt thể chế chính trị dân chủ này sau ngày 30-4-1975.

Ngày hôm nay, chỉ những kẻ đồng loã với tội ác lịch sử của Đảng CSVN mới nguỵ biện rằng vì dân trí người Việt còn thấp nên chưa thể thực thi được dân chủ tại Việt Nam. Theo tổ chức Freedom House, hiện nay đã có 123 trong số 194 quốc gia trên thế giới theo chính thể dân chủ và con số này đang tiếp tục tăng lên cùng với hai nước Tunisie và Ai Cập mới đây. Cũng theo tổ chức Freedom House, Việt Nam bị xếp vào loại quốc gia độc tài, lạc hậu, người dân không có quyền chính trị và không có dân quyền. Băng Đảng CSVN đã và đang kéo dân tộc lùi lại cả thế kỷ. Chính chúng cũng phải thú nhận: “đất nước còn đang tụt hậu”. Đây là một tội đại hình đối với lịch sử. Tội này không thể tha được.

Không một chính thể cộng hoà nào khi mới thành lập mà được hoàn chỉnh ngay. Sau Cuộc CáchMạng 1779, Cộng Hoà Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ được thành lập với Bản Hiến Pháp năm 1787. Để hoàn chỉnh thể chế chính trị dân chủ này, Quốc Hội Hoa Kỳ đã liên tiếp thông qua 27 bản tu chính hiến pháp. Sau Cuộc Cách Mạng 1789, nước Pháp đã trải qua 5 nền cộng hoà mới được như ngày nay. Đây là hai chính thể cộng hoà dân chủ đầu tiên, tiêu biểu nhất của nhân loại đã phải mất hơn hai trăm năm để hoàn chỉnh mới phát huy được những giá trị của dân chủ và tự do như ngày nay. Chế Độ Việt Nam Cộng Hoà chỉ mới xây dựng và phát huy những giá trị của dân chủ và tự do được 20 năm và còn đang trên tiến trình hoàn chỉnh. Tuy nhiên, nhà văn Dương Thu Hương, sau ngày 30-4-1975, khi đó còn là một đảng viên cộng sản, đã được chứng kiến tận mắt những sinh hoạt dân chủ tự do và nền kinh tế phồn thịnh của VNCH, đặc biệt là tại Thủ Đô Sài Gòn, đã phải ngồi xuống vỉa hè giữa thành phố, ôm mặt khóc “như cha chết” mà than:
    “Bọn man rợ đã thắng người văn minh.”
Trong lịch sử nhân loại, những bọn man rợ đã nhiều lần thắng người văn minh nhưng cuối cùng, người văn minh đã thắng lại như trường hợp của Hy Lạp mà thi hào Horace đã viết:
    “La Grèce vaincue vainquit son farouche vainqueur.”
    (Hy Lạp thua trận đã chiến thắng quân thắng trận hung rợ.)
Cứ nhìn kỹ những gì đã và đang diễn tiến tại Việt Nam sẽ thấy Cuộc Chiến Quốc Cộng còn đang tiếp diễn.

Bất chấp bị cấm đoán, đàn áp, bắt bớ và tù đày, công nhân các xí nghiệp trong khắp nước thường xuyên biểu tình hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn người kiên trì đòi tăng lương, đòi cải tiến điều kiện làm việc và thành lập các nghiệp đoàn tự do để bảo vệ quyền lợi của công nhân.

Bất chấp bị đàn áp và khủng bố dã man, những đoàn nông dân hàng nhiều trăm người trong khắp nước thường xuyên đi biểu tình kiên trì trong nhiều năm nay để tố cáo tham nhũng, đòi đất nông nghiệp và thổ cư đã bị bọn phỉ quyền cướp đoạt đem bán.

Tại rất nhiều địa phương từ nam ra bắc, đã có những cuộc nổi dậy của hàng ngàn thậm chí hàng chục ngàn nông dân như cuộc nổi dậy của nông dân trong toàn tỉnh Thái Bình đã dài kéo dài trong ba tháng, từ tháng 4 đến tháng 7-1997. Cuộc nổi dậy này đã bị CS đàn áp dã man và bưng bít rất kỹ, không một tin tức nào lọt được ra ngoài. Sau này, người ta đã điều tra và được biết cuộc nổi dậy này đã được tổ chức rất quy mô và đã bị đàn áp đẫm máu như một tiểu Thiên An Môn. Đây là những cuộc nổi dậy chống thuế, chống cường quyền, chống cướp đất … Trong những cuộc nổi dậy này, nông dân đã bao vây, chiếm giữ các trụ sở của nguỵ quyền, bắt giam các quan chức tham nhũng, ác ôn côn đồ để hỏi tội và đòi hỏi công lý.

Bất kể bị đàn áp điên cuồng và khủng bố dã man, các tôn giáo - công giáo, tin lành, phật giáo, cao đài, hoà hảo - trong khắp nước đã và đang đồng loạt đứng lên đòi hỏi tự do tôn giáo, tự do hành đạo và kiên trì đòi trả lại các bất động sản đã bị chiếm đoạt.

Bất chấp bị đàn áp dã man, thanh niên, sinh viên, học sinh đã tổ chức những cuộc biểu tình chống nguỵ quyền Việt Cộng đã dâng đất, biển và đảo cho Trung Cộng.

Các nhà hoạt động dân chủ, những nhà trí thức, các giáo sư, các luật gia, các nhà văn, những người cộng sản ly khai, những người cộng sản đã tỉnh ngộ và các bloggers… đã đồng loạt lên tiếng công khai đòi hỏi những điều cấm kỵ nhất đối với Việt Cộng như tổ chức bầu cử tự do; tự do ngôn luận; tự do lập hội, lập đảng; xoá bỏ chủ nghĩa cộng sản; xoá bỏ hiến pháp; xoá bỏ chế độ độc tài toàn trị và thay thế bằng một thể chế dân chủ tự do, đa nguyên, đa đảng…

Hàng triệu người lên mạng Internet hàng ngày để theo rõi, phát biểu, đòi hỏi, tranh đấu… cho dân chủ, tự do và nhân quyền cho Việt Nam.

Mới đây nhất, hiệu ứng của các Cuộc Cách Mạng Hoa Lài tại Tunisia và Ai Cập đã lan tới Việt Nam. Khối 8406 của Linh Mục Nguyễn Văn Lý và Cao Trào Nhân Bản của Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế đã chính thức và công khai đưa ra lời kêu gọi toàn dân xuống đường biểu tình để lật đổ chế độ cộng sản. Qua mạng Internet, thanh niên, sinh viên học sinh trong toàn quốc đã kêu gọi đồng bào chuẩn bị xuống đường biểu tình đồng loạt trong cùng một thời điểm tại các thành phố lớn như Sài Gòn, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Thanh Hoá, Hà Nội, Hải Phòng … để lật đổ nguỵ quyền Việt Cộng.

Trên đây là những đám lửa đã và đang bùng cháy trong khắp nước báo hiệu một trận bão lửa sẽ nổ ra khi người dân bị dồn đến bước đường cùng. Với lợi thế về chính trị và ngoại giao trên chính trường quốc tế, ba triệu người Việt tại hải ngoại đã và đang tiếp tay tích cực yểm trợ về tinh thần và vật chất cho cuộc chiến đấu vì dân chủ và tự do của đồng bào trong nước.

Khi chúng tôi viết những dòng này, Cuộc Cách Mạng Hoa Lài tại Libya đang bị đàn áp đẫm máu gây chấn động thế giới. Ngày 26-2-2011, Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đã thông qua, với số phiếu thuận 15-0, một nghị quyết trao cho Toà Án Hình Sự Quốc Tế để điều tra và truy tố Đại Tá Gadhafi về tội ác chống nhân loại. Ngày 3-3-2011, Công Tố Viên Luis Moreno-Ocampo của Toà Án Hình Sự Quốc Tế đã tuyên bố: “Nhà lãnh đạo Libya Gadhafi cùng các con trai và một số nhân vật thân cận sẽ bị điều tra vi phạm tội ác chiến tranh chống lại loài người”. Ông nhấn mạnh: “Không ai được phép tấn công và tàn sát thường dân … khi họ biểu tình ôn hoà”. Đây là một cảnh báo nghiêm khắc cho những tên đầu sỏ Việt Cộng nếu chúng đàn áp gây đổ máu trong Cuộc Cách Mạng Hoa Mai của đồng bào chúng ta tại Việt Nam trong tương lai.

Đứng trước Cuộc Chiến Quốc Cộng trong giai đoạn một mất một còn hiện nay, Băng Đảng Việt Cộng đang tung ra những đòn khủng bố khốc liệt đối với những nhà hoạt động dân chủ trong nước bằng cách theo dõi, thẩm vấn, bao vây, truy bức, bắt giam, bỏ tù, tạo ra những tai nạn giết người … Nhưng thực tế cho thấy chúng càng điên cuồng khủng bố dã man bao nhiêu, phong trào tranh đấu cho dân chủ, tự do trong nước càng phát triển vững mạnh bấy nhiêu theo đúng quy luật: “Ở đâu có đàn áp, ở đó có đấu tranh”.

Ngày 30-4-1975 là ngày mà Đảng Cộng Sản Việt Nam đoạt được thắng lợi ở điểm cao nhất. Nhưng cũng kể từ ngày này, uy tín của chúng đã tuột dốc một cách thê thảm, không còn cách gì có thể gượng lại được nữa bởi vì cái mặt nạ che đậy cái bản chất Việt gian bán nước của chúng đã rớt xuống. Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày hôm nay chỉ còn là cái xác không hồn, đã mất hết niềm tin của toàn dân Việt Nam kể cả đa số đảng viên cộng sản như chúng đã thú nhận. Ngày hôm nay, Băng Đảng CSVN không còn khả năng cai trị đất nước bằng luật pháp mà chúng chỉ khủng bố người dân bằng công an và nhà tù. Đây là kiểu thống trị của quân man rợ. Chúng đã phải thú nhận rằng hàng ngũ của chúng từ bên trên và từ bên trong đang tự diễn biến, tự chuyển hoá để tự huỷ diệt. Tuy nhiên, với bản chất ngoan cố không thể thay đổi được, chúng sẽ còn tiếp tục hô to khẩu hiệu: “Đảng Cộng Sản Việt Nam Quang Vinh Bách Chiến Bách Thắng Muôn Năm” cho tới 15 phút cuối cùng trước khi bị toàn dân Việt Nam mang ra xử tội như người dân Romania đã xử tử vợ chồng Nicolea Ceausescu, chủ tịch đảng Cộng Sản Romania, đã bị bắt lại sau khi tìm cách chạy chốn bằng trực thăng. Đây là số phận tương lai dành những tên đầu sỏ Việt Cộng còn tiếp tục ngoan cố.

Từ những phân tích trên đây, chúng ta có quyền tin tưởng một cách logic rằng Cuộc Chiến Quốc Cộng đang đi vào giai đoạn kết thúc. Số phận của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chế độ Việt Cộng đã được quyết định, vấn đề còn lại chỉ là khi nào và bằng cách nào. Toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước sẽ thắng trận quyết định cuối cùng. Dân tộc Việt Nam sẽ được hưởng một nền hoà bình công chính với đầy đủ nhân quyền và dân quyền. Và để tiếp nối tính liên tục không gián đoạn của dòng lịch sử chính thống của dân tộc, nền Đệ Tam Việt Nam Cộng Hoà sẽ được toàn dân Việt Nam lựa chọn phù hợp với chiều hướng vận động của dòng lịch sử của dân tộc và với xu thế dân chủ tự do của nhân loại văn minh.

Tháng 3 năm 2011
Đỗ Ngọc Uyển
(Khoá 4 Thủ Đức/ Binh Chủng TT)
Sanjose, California

Tài liệu tham khảo:

Nhất Cá Việt Nam Dân Tộc Chủ Nghĩa Đích Nguỵ Trang Giả của Tưởng Vĩnh Kính - bản dịch của Nguyễn Thượng Huyền với tựa Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, California, Nxb Văn Nghệ, 1999

Binh Thư Yếu Lược của Trần Quốc Tuấn

http://www.vn.net/article.php/20060607075138128 - Sư Đoàn 18 Bộ Binh và những ngày tử chiến tại Xuân Lộc - Phạm Đinh.

http://xuanloc75.blogspot.com/2009/09/xuan-loc-battle-phillip-b-davidson-html. - Xuan Loc Battle – Phillip B. Davidson

Viet Nam, Qu’as-Tu Fais De Tes Fils? – Pierre Darcourt

http://www.bbc.co.uk//vietmese/Vietnam/story/2008/01/080102_thaibinh1997anniversary.shtm. - Từ Thái Bình 1997 đến biểu tình 2007

De la Democratie en Amérique của Alexis de Tocqueville - bản dịch của Phạm Toàn với tựa Nền Dân Trị Mỹ

http://deomoc.net/ Freedom House: Freedom in the World 2010: Erosion of Freedom intensifies

http://wesjones.com/eoh.htm - The End of History – Francis Fukuyama

https://netfiles.uiuc.edu/fesnic/241/Huntington_Third_Wave.pdf. - Democracy’s Third Wave – Samuel P. Hunting

Chính Đề Việt Nam của Tùng Phong (Ngô Đình Nhu?)

The Boston Globe Online: UN, World further isolate Libya’s Gadhafi – by Anita Snow – Associated Press / February 27, 2011



Thursday, April 7, 2011

Tội ác cộng sản Việt Nam

    “Đại Lộ Kinh Hoàng”, nơi gần 2.000 con người chạy loạn đã bị Cộng quân pháo kích chết thê thảm, không bút nào tả siết được, vào Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 khi Cộng quân từ phiá bắc tràn qua sông Bến Hải đánh chiếm Quảng Trị, trắng trợn vi phạm Hiệp Định Ngừng Chiến Genève 1954.

    Nhân chứng sống, cựu Trung sĩ Phan Văn Châu, người đã sống và chứng kiến tận mắt cảnh đồng bào bị pháo kích Cộng sản tàn sát trên cái mà phóng viên chiến trường của nhật báo Sóng Thần, NgyThanh, đã đặt tên là "Đại Lộ Kinh Hoàng" sau khi anh và đồng nghiệp Đoàn Kế Tường là hai người đầu tiên đặt chân lên đọan đường này hai tháng sau cuộc tàn sát, và Chương trình hốt xác đồng bào tử nạn trên Đại lộ "Kinh hoàng" do nhật báo Sóng Thần phát động - (Trùng Dương).
Mùa Hè Đỏ Lửa
Quảng Trị 1972
Đại lộ Kinh Hoàng













Đại lộ "Kinh hoàng" trước khi được công binh của Việt Nam Cộng Hoà mang xe ủi qua, gạt các xác xe dạt xuống hai bên vệ đường, mở 1 lối đi nhỏ trên mặt nhựa cho các xe tiếp tế đạn dược lên phiá Quảng Trị, cũng như lấy thương binh và xác tử sĩ. Ảnh Ngy Thanh, chụp ngày 1 tháng 7, 1972




Miếu tưởng niệm vong hồn những nạn nhân bị Việt cộng thảm sát trên Đại lộ "Kinh hoàng" được lập nên ngay sau khi thị trấn Quảng Trị được giải vây bởi Quân lực Việt Nam Cộng hoà.



Wednesday, April 6, 2011

Thần tượng của lũ cộng phỉ việt gian cộng sản Việt Nam

Thần tượng "độc thân" hồ chí minh cùng vợ và con.
cha già của lũ việt gian buôn dân bán nước đảng cộng sản Việt Nam









Monday, April 4, 2011

Trịnh Công Sơn một ký sinh trùng

    "Lạy Trời, tôi đừng biết Tôi chết vì tay anh" -
    (Trịnh Công Sơn và cho những ai còn "trong cơn mê")
Bài cũ rồi tèo đăng lại cho những ai còn mê ngủ.

Trần Anh Lan


Sự ra đi của Trịnh-Công-Sơn tạo khá nhiều bất đồng ý kiến. Kẻ thì bảo Trịnh Công Sơn là nhạc-sĩ có tài, yêu nước. Người thì nói "nó là tên Cộng-sản nằm vùng". Rồi những bài viết về Trịnh Công Sơn có thể là của cô em tinh-thần "một thuở đi về có nhau", hay của một vài bạn-bè chếnh-choáng hơi men đêm nào nơi quán cóc ven đô. Một chút đam-mê thời xa xưa đó lại hiện về khi "ghế đá công-viên dời ra đường phố". Hãy bình tâm mà xét, xin một phút nghĩ về đêm kinh-hoàng của người dân miền Nam nhất là những người dân như "đàn chim đã một lần bị tên". Xin hãy lắng nghe tiếng tức-tưởi của hàng ngàn người đã ngã xuống, quằn-quại, rên-xiết. Và rồi, át cả tiếng kêu than là tiếng của Trịnh Công Sơn trên đài phát-thanh Sài-Gòn "Rừng núi dang tay nối lại biển xa, ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn-hà. Từ Bắc vô Nam nối liền nắm tay".

Rồi từ sau ngày 30-4-1975 là giai-đoạn "ánh-sáng" trong đời TCS. Ánh lửa kinh-hoàng của 30-4-1975 là ánh bình-minh mà TCS hằng mong đợi. Ta hãy nghe TCS chia cuộc đời mình làm 2 giai-đoạn: trước 1975 là "bóng tối", sau 30-4-1975 là "ánh-sáng". Trong bài viết "Tiếng hát về ánh-sáng" của TCS trên báo Đất Việt số ra ngày 20-01-1979:

-"Lúc bấy giờ nếu nói về núi thì tôi sẽ không nói gì về cái vóc dáng hùng-vĩ của nó mà tôi chỉ nhìn thấy cái vẻ im-lìm, cam chịu của núi. Nhìn dòng sông thì tôi chỉ thấy cái hình-ảnh của thời-gian mang đi hết tuổi thơ của mình. Tôi cũng không nói về cái nắng rực-rỡ của bình-minh mà chỉ bằng lòng cái màu vàng-vọt cùa nắng quái buổi chiều. Nói đến con người, tôi không bao giờ nói đến nó đã sống oanh-liệt như thế nào mà chỉ nhắc đến cái buổi chia-lìa của nó với mặt đất. Tóm lại tôi đã đứng về phía bóng tối tiêu-cực như một thế-giới-quan bệnh hoạn mà từ đó tôi đã khai-thác làm thành cách biểu-hiện của riêng mình đối với cuộc đời. Trong quá-khứ tôi đã hát về bóng tối. Tôi đã quen-thuộc với bóng tối đến độ tôi đi trong đó mà không phải thắp đèn. Tôi đã sống với bóng tối như một kẻ đã được sinh ra mà định-mệnh của nó là niềm tin tuyệt-vọng".

Thật tội nghiệp cho TCS đã mang niềm tuyệt-vọng từ ngày còn là một cậu giáo sinh trường sư-phạm Qui-Nhơn (1962). Một TCS thông-minh, mưu trí như một tay gián-điệp quốc-tế "đi trong bóng tối không cần dọ-dẫm". Thật sự thì cần gì phải dò-dẫm, kế-hoạch nào, phòng-thủ ra sao TCS đã thuộc lòng. Lợi-dụng lòng tin, tình-cảm vào những đêm ngồi cùng hát cho nhau nghe chến-choáng hơi men. Những tình-cảm chân-thực được tỏ bày qua những kẻ đàn anh đã dang tay che chở cho Sơn vào thời điểm Sơn phải vào lính. Thà rằng TCS làm như Hoàng-Phủ Ngọc-Tường, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê văn Nuôi để bè bạn đỡ phần ân-hận.

Dòng đời là tiếp nối những thăng-trầm. Sự chết nào rồi cũng khơi nguồn cho mạch sống mới. Nếu không có cái chết của Phạm-Phú-Quốc thì ta đâu được nghe dòng nhạc bồng-bềnh như len-lỏi trong mây "Huyền sử ca một người mang tên Quốc" của Phạm-Duy. Động-cơ nào đã đưa nhạc TCS lên đến đỉnh cao được nhiều người mến-mộ ? Trước 30-4-1975 TCS đã hát về bóng tối, đứng về phía bóng tối tiêu-cực như một thế-giới-quan bệnh-hoạn (theo lời TCS).

Đọc lại sử Việt-Nam qua những chiện-thắng hào-hùng của tiền nhân, từ cuộc chiến chống bọn phong-kiến phương Bắc đến bọn đế-quốc xâm-lược đều là "tự-vệ". Những năm tháng ấy, ông cha chúng ta còn phải đương-đầu với Chiêm-Thành ở phía Nam. Rồi những rạn-nứt, phân-chia qua các cuộc phân-tranh Trịnh - Nguyễn, Gia Long - Quang Trung, hình-ảnh chiến-tranh, chết-chóc kéo dài từ thế-hệ nầy qua thế-hệ khác đã phát ra tiếng kêu trầm-thống âm-ỉ trong lòng người dân Việt. Rồi cuộc chiến-tranh xâm-lược của Cộng-sản miền Bắc được sự hỗ-trợ của Nga Tàu, từ sau ngày đất nước được tạm chia để chờ ngày thống-nhất. Dân miền Nam chống cuộc xâm-lược đó chỉ là bảo-tồn sự sống còn của nền tự-do và tín-ngưỡng mà tiền nhân đã truyền lại từ ngày lập quốc. Ta nghe lại "Một ngàn năm đô-hộ giặc Tàu, một trăm năm đô-hộ giặc Tây, ba mươi năm nội chiến từng ngày...", cuộc nội chiến đó ai gây, điều đó chắc TCS phải hiểu bởi vì ở vào lứa tuổi "bắt buộc phải hiểu". Hình-ảnh của chết-chóc bất-ngờ quá, chua-xót quá. Vừa mới đó, mới còn thấy đó phút chốc đã mất mẹ mất cha, mất người yêu, mất bạn bè. Ai giết ? Ai gây ? "Người anh em", người vừa mới cùng mình chén tạc chén thù, người mới vừa thề thốt đã bội phản. Nhìn cái chết tức-tưởi, phi lý, không còn một lựa chọn nào khác hơn. Cảnh đau lòng đó hỏi ai không xót thương, không oán hận. Phải thừa-nhận rằng TCS là nghệ-sĩ có tài đã nói lên được cảnh tận cùng bi-đát, đã đưa vào lòng người cảnh-tượng hãi-hùng đó. Và chính nhờ cái "gia-tài của Mẹ để lại cho con" mà nhạc TCS được nhiều người hậm-mộ là đã nói lên một sự-thật dân miền Nam đang gánh chịu. Nhưng nói lên sự thật mà không nói đến nguyên-nhân tạo nên cảnh tương-tàn đó, chỉ ru ngủ rằng:
    "Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
    Để một mai tôi về làm cát bụi"
Người đọc nghe, cảm-nhận điều đó đúng hoàn-toàn. "Sinh, lão, bệnh, tử" có từ nghìn xưa nhưng nơi đây chưa đến lúc phải về với cát bụi mà đã vội đi về hỏi ai không nghĩ đến. Dù biết rằng sớm muộn gì cũng về nhưng chưa chắc có một ai lựa chọn cõi về như một nỗi hân-hoan bình-thản. Tôi không dám nói đến cõi về của các "thánh tử đạo" nhưng chẳng biết quý vị thánh đó có đầu-tư cho "linh-hồn mình ở kiếp sau không" chỉ có Trời biết.

Năm tháng TCS đã sống và chính TCS đã gọi đó là "bóng tối", chính nhờ cái bóng tối đó mà TCS được nhiều người biết, ca-tụng, hâm-mộ và họ đã bị phản bội. Bóng tối đã tạo nên hào-quang cho TCS, dùng hào-quang để ngụy tạo rồi vong ơn. Từ ngày TCS được gọi là trở về với nhân-dân, TCS sáng-tác có đến 150 bản nhạc, có bản nào được ca-tụng như thời TCS bị ở trong bóng tối ?

TCS ơi ! anh đã làm gì với thời đó, anh có thấy người nông-dân miền Nam vừa mờ sáng vác cuốc đi thăm ruộng đã phải dẫm mìn VC tan xác bên bờ ruộng mình ? Một người mẹ bởi gắng cắt nốt luống lúa vừa chín tới kẻo tối đến du-kích về gặt trộm mất. Nhễ-nhại mồ-hôi, vừa xong việc trời đã chập-choạng tối, vội-vàng đầu đội bó lúa, tay nách đứa con vừa thôi nôi đã bị du-kích bắn trả. Quá khuya người nhà đi tìm thì hỡi ơi, dòng sữa nào đã cạn chỉ còn dòng máu đang rỉ thấm vào miệng đứa con thơ ...

Đó là những người làm nên hạt cơm nuôi sống anh, hạt gạo của những bà mẹ quê nơi miền Nam trước năm 1975. Và rồi, chúng ta được nghe "Đại-bác đêm đêm dội về thành-phố, người phu quét đường dừng chổi đứng nghe". Đại-bác, hỏa-tiễn từng đêm về thành-phố, từ đâu về và do ai chỉ-điểm ? Giả vờ xót thương, hòa mình vào cái đau khổ, câm lặng chịu đầu hàng số-phận để rồi đâm sau lưng một cách hèn-hạ.

Ta hãy nghe TCS trả lời phỏng-vấn báo Đảng như sau: "Năm 1963 tôi lên Đà-Lạt trốn lính và tình-cờ nghe Khánh-Ly hát ỏ đây. Khi về Sài-Gòn, Khánh-Ly bỏ phòng trà và đi hát với tôi trong phong-trào sinh-viên. Đến sự-kiện nổ súng ở trường Đại-học Văn-Khoa 1968, tôi không hát trước đám đông nữa".

Nhớ vào ngày lễ Giáng-sinh 1968, đêm văn-nghệ có TCS hát, khi hát được nửa buổi, một thanh-niên lên máy vi-âm tuyên-bố: "Buổi sinh-hoạt văn-nghệ hôm nay là để kỷ-niệm ngày thành-lập MTGPMN". Nghe tới đó, Ngô Vương Toại (xin đừng lầm với tên VC Đoàn Văn Toại) chạy lên giằng lấy micro. Thanh-niên kia rút súng nổ vào bụng Toại rồi mở đường tẩu thoát. Ngô Vương Toại được đưa vào bệnh-viện, rất may chỉ mất một đoạn ruột (từ đó Toại được gọi là Toại ruột). TCS biến đi lúc nào không ai hay.

Có lẽ TCS vào bóng tối vì ông đi trong bóng tối không cần đèn. Trên tờ Đất Việt do hội Việt kiều Đoàn-Kết (báo VC xuất-bản), TCS viết: "Tôi (tức TCS) đã trở về với nhân-dân năm 1968".

Chiến-tranh dai-dẳng trên đất-nước, ai không mong một ngày hòa-bình ? Dòng nhạc TCS đã khơi đúng nỗi ước mơ "khi đất-nước tôi không còn chiến-tranh, mẹ già lên núi tìm xương con mình". Ước mơ đã thành sự thật, đất-nước hết chiến-tranh (sau 30-4-1975) hàng vạn bà mẹ lên núi với áo vải chân trần ngược dòng đến tận nơi đèo heo-hút gió, thâm-sơn cùng-cốc để không phải "tìm xương con mình" mà để "nhìn xương con mình". Đó là những bộ xương người lỡ đất trồng khoai trên các ngọn đồi cháy nắng hay bì-bõm kéo cày thay trâu nơi sình lầy nơi các trại tù. Những bà mẹ đó đã năm lần bảy lượt đút lót cho bọn Công-an sau những tháng ngày tần-tảo buôn-bán kiếm tiền để xin được giấy phép thăm con; những người vợ phải bán máu nơi cổng bệnh-viện và những đứa trẻ thơ phải đi bán từng tấm vé-số góp đủ tiền mua ký đường để má nó đi thăm chồng tận trại giam đất Bắc. Những bà mẹ đó đâu được cái vinh-hạnh như TCS trên chuyến xe lửa xuyên Việt đầu tiên năm 1975 khi đi "tham-quan" miền Bắc. Trong tờ "Đứng Dậy" TCS viết:

- "Khi tàu dừng ở Vinh để phái-đoàn đi ăn trưa, tôi và anh em ngồi quán chờ nhà hàng dọn cơm. Bầy trẻ bu quanh nhìn tôi, một đứa giơ tay trỏ vào tôi kêu lên "Ui chao, cái tóc". Tóc tôi dài quá. Quả đúng ! Sau bao nhiêu ngày sống với cách-mạng, tới ngày giờ nầy cái tàn dư của Mỹ Ngụy vẫn còn rơi rớt lại trên đầu trên cổ tôi. Thế là tôi bỏ bữa ăn trưa để đi hớt tóc".

Đọc đến đây tôi sững-sờ, đau xót; có lẽ cái đau xót hơn cả một cô gái nhà lành lỡ trao thân nhằm tướng cướp. Đứng thật nghiêm như một lần thú tội.
    "Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi ... mọi đàng" và vẳng đâu đây tiếng mõ cầu kinh.
    "Thiện tại, thiện tai ... Nam Mô A Di đà Phật".
Trả lời phỏng-vấn báo Đất Việt năm 1986, TCS cho biết:

- "Khi giải-phóng tôi ở Huế, được thư và điện của bạn bè ở cục R (trung-ương cục miền Nam) và miền Bắc như các anh Hoàng-Phủ Ngọc-Tường, Nguyễn Khoa Điềm; cùng các anh em đó tôi lập hội văn-nghệ ở Huế. Năm 1979, tôi xin chuyển về thành-phố HCM sinh-hoạt hội văn-nghệ thành-phố".

Sau 1975, TCS là ủy-viên biên-chế, quyền sinh sát với các tác-phẩm của hàng trăm văn nghệ-sĩ khác. Đời TCS từ sau 1975 đã lên tột đỉnh vinh-quang, ta hãy đọc lại đoạn TCS viết khi "bóng tối" khép lại:

- "Rất may, là cái giai-đoạn nầy đã khép lại kịp thời, khép lại vĩnh-viễn với một đất-nước đã được giải-phóng hoàn-toàn, giành lại độc-lập, thống-nhất và hòa-bình. Bóng tối trong tôi cũng từ đó khép lại và mất hút trước một ánh-sáng mới-mẻ của bình-minh".

"Buổi bình-minh đã được khôi-phục bằng máu xương của cả dân-tộc, bằng những hy-sinh lớn-lao không có gì so-sánh nổi". Sau 3 năm từ ngày miền Nam mất, TCS đã sáng-tác đâu lối 10 bản nhạc. Nghĩ về mình chưa làm hết sức mình để dâng công cho Đảng, TCS viết:

- "Ba năm với khoảng 10 ca khúc phục-vụ các phong-trào, vài ba cái bút ký ghi chép những thực-tế nóng bỏng của các công-trương, nông-trường, chúng tôi tự thấy có bổn-phận phải giữ một cái nhìn nghiêm-khắc hơn về phía lương-tâm mình. Chúng tôi có phần giống một người nông-dân tồi, bất-lực trước cánh dồng chưa hoàn-thành nổi một vụ mùa nào dù nhỏ. Đời-sống thì cứ mỗi ngày phơi mở ra dưới những dạng linh-động phong-phú mà tiếng nói biểu-hiện cuộc đời dường như muốn lẫn tránh chúng tôi. Tuy-nhiên chúng tôi không vội nản lòng vì anh em bằng-hữu chung-quanh chúng tôi và qua những anh em đó, chính là sự có mặt của Đảng, vẫn luôn luôn đủ kiên-nhẫn để duy-trì một tình-cảm đôn-hậu và nồng-nhiệt, cứ sẵn-sàng chờ đợi ở tôi cũng như ở các bạn tôi một tiếng nói mới.

Điều may-mắn cho riêng tôi là tôi vẫn chưa quá già để không thể trả nổi cái ân-tình nồng-hậu của các anh, các bạn và nhất là cuộc sống hôm nay bằng một "Tiếng hát về ánh-sáng". Đó phải là tiếng hát của hạnh-phúc và của niềm hy-vọng.

Gần 30 năm về trước, tôi cũng đã lảng-đảng trong niềm vẩn-vơ cho cuộc đời, thân-phận khi dòng nhạc TCS qua các bản: Lời buồn thánh, Diễm xưa, Tuổi đá buồn. Chính vì nỗi đam-mê đó, ngày là lính tôi đã tổ-chức mỗi cuối tuần: "Mỗi tuần một ngày cho người nằm xuống".

Vào ngày cuối tuần đó, đơn-vị tôi sửa-soạn những thức ăn thật ngon (cá tươi mua từ bãi biển Sa-Huỳnh khi ghe vừa vào bến) thịt lấy từ chuồng nuôi của đơn-vị, khoảng 20 chiếc GMC đưa binh-sĩ hậu-cứ đến rừng đốn củi mang ra thị-xã bán. Số tiền thu được mua gạo phát cho gia-đình tử sĩ, thương phế binh và những anh em trong đơn-vị có đông con. Tôi, chúng tôi đã khóc, khóc nhiều lần khi tiếng hát vang ra từ những chiếc loa phóng thanh nơi ven rừng: "Bạn-bè còn đó, anh biết không anh ? người tình còn đây anh nhớ không anh ? ... bạn-bè rồi quên, người tình rồi xa ...".

Dòng nhạc và tâm-tình đó đã thấm dần vào từng tế-bào của da thịt, từng "van" máu về tim. Đó là một loại rượu "bồ-đào" xa xưa của người tráng-sĩ lên lựng ngựa túy-lúy say:
    "Túy ngọa sa-trường quân mạc tiếu
    Cổ-lai chinh-chiến kỷ nhân hồi".
    (Lương Châu Từ, Vương-Hàn)
Rồi như một chất men âm-ỉ trong tim sau một ngày chếnh-choáng hay một cuộc hành-quân trở về phố thị, chúng tôi: Nghĩa, Minh (Phan Như Thức), Vương Thanh, Luân-Hoán, Minh Đường, Việt, ... quanh chiếc bàn, gác đầu vào vai nhau hát nhạc TCS mặc cho sương thấm lạnh chiếc áo trận bạc màu.

Và sau hôm ấy, Nghĩa (Đ/U) mất tích ở Quế-Sơn, Việt (Đ/U) bị mìn cụt hai chân hiện giờ lưu-lạc, biệt mất hay còn ở quê nhà. Vương Thanh bị bệnh mất sau gần 10 năm tù. Minh Đường mất sau những ngày bệnh tật đói khát; Phan Nhự Thức sau gần 10 năm tù được giấy cho về, mừng quá không kịp xem đến ngày có tin đi Mỹ, nhìn lại giấy ra tù đề ngày 30-2-1982. Vay mượn và được bạn bè giúp-đỡ đủ lộ-phí ra vô Quảng-Ngãi, Hà-Nội để điều-chỉnh ngày 30-2 lại (vì tháng 2 không có ngày 30). Tiền mất tật mang, kết quả đã mất vì bệnh-hoạn. Riêng Luân Hoán, "Ngày trở về có anh thương binh KHÔNG chống nạng cày bừa bởi vì CS đâu có cấp đất cho thương phế binh "Ngụy". Luân Hoán hiện ở Canada gác nạng, ngồi viết gởi bài cho tờ Khởi-Hành Nam California.

Trước năm 1975 nhìn cuộc chiến tương-tàn trên đất Việt hỏi ai không đau xót, nhất là những tâm-hồn nghệ-sĩ, tâm-hồn dễ xúc-cảm. Đêm thật buồn trên quê-hương, đèn mờ nơi phòng trà nước mắt nào không nhỏ xuống khi nghe dòng nhạc TCS trong bài "Em hãy ngủ đi": "Đời mãi đêm và đời mãi buồn, em hãy ngủ đi". Tưởng chừng như bàn tay của một nàng tiên đang xoa nhẹ trên khuôn mặt của cô bé mang nỗi buồn vô tận khi sự chết-chóc vừa cướp đi những người thân trong gia-đình. Dòng nhạc đó người nghe có cảm-tưởng như tiếng ru bềnh bồng mang đến cõi về mà chính mình hằng mong ước. Nỗi khổ đau tận cùng trên quê-hương không lối thoát đó ai không mong đợi một ngày, một ngày mà: "Việt-Nam ơi ! còn bao lâu những con người ngồi nhớ thương nhau" hoặc "Huế, Sài-Gòn, Hà-Nội, 20 năm tiếng khóc lầm-than" và rồi "ngày mai đây những con đường Nam Bắc nở hoa" (trong bài Huế, Sài-Gòn, Hà-Nội của TCS). Đó là một sự thật người dân Việt hằng mong ước, nỗi buồn chỉ còn rượu để tìm quên, song rượu vào, trái sầu vẫn không rụng.
    "Dục phá thành sầu, duy dụng tửu
    Túy tự, túy đảo sầu vẫn sầu".
Nỗi buồn bất tận thì còn gì biết phải về đâu, thiên-đàng hay địa-ngục cũng là một:
    "Sầu đã chín xin người thôi hãy hái
    Nhận tôi đi dù địa-ngục thiên-đàng"
Giữa những suy-tư đó có một kẻ thật tỉnh-táo, vờ say, vờ phóng-khoáng trong tính-toán khôn lường. Đánh đúng vào yếu điểm để xem mình như kẻ đồng-hội đồng-thuyền rồi mưu-đồ cho cá-nhân là một diều sỉ-nhục không thể tha-thứ.

Đọc Kim-Dung qua "Tiếu ngạo giang-hồ" ta thấy nơi Lệnh Hồ Xung, một tửu đồ hào-phóng dường như không có chính hay tà mà chỉ có rượu ngon hay dở và kẻ đối ẩm có đáng để giao tình. Trên Tích Tiên tửu lầu năm xưa, LHX đã dùng mưu trí lừa được tên dâm tặc Điền Bá Quang để cứu Nghi-Lâm rồi nhân đó khơi lên chút thiện tâm, hùng tâm để Điền Bá Quang lẻn vào hầm rượu Tích Tiên tửu đập bễ gần 200 vò rượu quý trên thế-gian chỉ giữ lại có 2 vò mang lên đỉnh Hoa-Sơn cùng với LHX đối ẩm. Với TCS là một tên tửu đồ khơi vào lòng những kẻ cầm súng tự-vệ nỗi buồn chán chiến-tranh mau buông súng đầu hàng để chực cướp thời-cơ dân công cho Bác Đảng.

Rồi 30-4-1975 đến, TCS dang tay đón nhận ánh hồng bình-minh mà từ lâu TCS hằng mong đợi, trong khi đó nó là nỗi kinh-hoàng nhất của nhân-dân miền Nam. Trên những con lộ về Sài-Gòn nhầy-nhụa, lênh-láng xác và máu người dân vô tội. Hàng vạn bè bạn những người đã ngưỡng-mộ TCS lần lượt vào các trại tù từ Nam ra Bắc. Hàng nửa triệu người bỏ xác trên biển Đông hoặc làm mồi cho thú rừng, cho hiếp-đáp, cướp-bóc dọc biên-giới, ... TCS không một giọt nước mắt tiếc thương. Ngay từ năm 1968 hàng ngàn xác người được đào lên từ những mồ chôn tập-thể, nơi quê-hương TCS (Huế). Cuộc tàn-sát nhẫn-tâm trong Tết Mậu-Thân, TCS có một tiếng nói nào cho sự tiếc thương ? Nghệ-sĩ là những người đa-cảm và bất-khuất, nhất là nghệ-sĩ tương-đối có tài như TCS. Hãy nghe lời thơ của Trần-Dần và Phùng-Quán trong Nhân Văn Giai-phẩm, thời mà CS sẵn-sàng thanh-toán bất cứ một ai chỉ cần một chút hé môi giọng bất-mãn:
    "Tôi bước đi
    không thấy phố
    không thấy nhà
    Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ" (Nhất định thắng- Trần Dần)
hoặc:
    "Yêu ai cứ bảo là yêu
    Ghét ai cứ bảo là ghét
    Dù ai ngon ngọt nuông chiều
    Cũng khôn nói yêu thành ghét
    Dù ai cầm dao dọa giết
    Cũng không nói ghét thành yêu" (Lời mẹ dặn- Phùng Quán).
Anh Sơn ơi ! là một nhạc-sĩ khá tiếng tăm, chắc anh nghe nỗi hoài-vọng của hàng vạn người đã trốn chạy chế-độ Cộng-sản từ 1954. Anh có nghe thoảng trong gió tiếng hát ngút-ngàn lảng-đảng đâu đây: "Hà-Nội ơi, tóc thề thả gió lê-thê ... biết đâu ngày ấy anh về". Trong khi đó lại vang lên nỗi chờ của anh, của lời anh đang kêu gọi: "Nơi đây tôi chờ, trong căn nhà nhỏ, mẹ cũng ngồi chờ. Anh lính ngồi chờ trên đồi hoang-vu, người tù ngồi chờ bóng tối mịt-mù. Chờ đã bao năm, Chờ đã bao năm". Chờ gì hở anh ? Chắc anh chờ ánh bình-minh để rồi anh hả-hê cười trong thỏa-mãn "Ta đã thấy gì trong đêm nay, cờ bay muôn vạn cờ bay". Cờ đỏ sao vàng anh mong đợi đã về đó ! Anh tiếp-tục lừa phỉnh người em gái tinh-thần một thời cùng anh được mệnh-danh "nữ-hoàng đi chân không" đi rao giảng tin "cờ nối gió, đêm vui nối ngày. Dòng máu nối con tim đồng-loại". Tôi không bàn đến người cùng anh rao giảng có chủ-đích gì không nhưng bằng tất cả rung-cảm tột cùng đã lôi-cuốn người nghe như âm-điệu của loài ma quái ru người và tên tuổi anh được sáng-chói phải nói một phần là ở công-lao của trái tim nhiệt-tình nầy. Bấy giờ anh sẵn rượu ngon, gái đẹp trong tay cô ca-sĩ trẻ có khuôn mặt khả-ái với đôi răng khểnh ngày đêm bên anh "khi tựa gối khi cúi đầu" chưa đủ sao anh ? anh lại bảo "Em ra đi nơi nầy vẫn thế".

Anh đã tạm thời vờ quên bữa cơm trưa nơi quán hàng bến xe đò tại Vinh (Quảng-Bình) để cắt đứt, không còn dính-líu vào cái tàn dư Mỹ-Ngụy. Và rồi anh tiếp-tục hát ca-khúc "Bài ca đường tàu Thống-nhất":
    "Xóa hết những ngày tối tăm
    Bóng dáng sao vàng lồng lộng
    Đoàn tàu đi thống-nhất hai miền".
Trước năm 1975 chắc anh đã chứng-kiến những đứa trẻ 15, 17 chết không toàn thây trên đường mòn Hồ Chí Minh hoặc quanh các tiền đồn miền Nam với 4 chữ trên cánh tay "sinh Bắc tử Nam", anh không cảm-nhận lời nhắn gọi của người bộ-đội qua lời thơ nơi đáy chiếc ba-lô trước khi chết nơi ven rừng không ai vuốt mắt:
    "Những chiều Trường-sơn núi rừng cô-quạnh
    Mẹ hiền ơi con chợt nhớ quê mình".
Anh còn tiếp tục thăng-hoa cho những bà mẹ, bà chị, em nhỏ trĩu nặng vai trong mỗi phiên chợ buồn:
    "Gánh gánh gánh gánh mau ra chợ
    Có tiếng líu-lo trẻ nhỏ
    Quê-hương ta thống-nhất thật rồi".
Anh không thấy đoàn nữ vận-chuyển Trường-sơn tuổi 15, 17 đã bỏ cả quảng đời con gái làm thân lạc-đà nơi núi rừng. Ngày hòa-bình, về lại quê xưa cày cấy thì không được chia đất, lấy chồng thì trai làng không còn chỉ còn những đứa bé trai lên 5 lên 3, đi làm gái điếm để mưu cầu cuộc sống thì không khách nào đủ can-đảm để hứng gọi mời. Anh tiếp tục cổ-võ họ ra nông-trường, biên-giới:
    "Trên nông-trường không xa lắm
    Có đôi chân đi không ngại ngần
    Em bây giờ quên mùa nắng
    Tóc trên vai vấn-vương bụi hồng
    Qua bao mùa em bỗng lớn
    Đời cho em trái tim nồng-nàn
    Yêu người nên lo-lắng
    Muốn nghiêng vai gánh thêm nhọc-nhằn"
Trước 30-4-1975, anh đã nói lên được sự-thật, sự-thật không thể chối cãi:
    "Khi đất nước tôi không còn chiến-tranh
    Mẹ già lên núi tìm xương con mình"
Bây giờ thì thật sự những bà mẹ từ miền Bắc đi tìm xương con mình trên núi đồi Trường-sơn. TCS ôi ! anh có thấy bóng-dáng bà mẹ được đứa con mình nhắn gọi qua lời thơ đang lang-thang trên đồi không anh ?

Năm 1979 nữ danh ca Mỹ Joan Baez (người đã cùng Jane Fonda) được Việt Cộng ca-ngợi là đã hát cho hòa-bình Việt-nam trước năm 1975, Người đã nhân-danh tổ-chức Humanitas in bích-chương với chữ ký của giới trí-thức phản chiến quốc-tế dán khắp thành-phố lớn trên thế-giới để cảnh-tỉnh lương-tâm nhân-loại về nhân-quyền tại Việt-Nam. Hai tên Việt Cộng Nguyễn Khắc Viện, Lưu Quý Kỳ đã gọi Joan Baez thay-đổi lập-trường làm tay-sai cho CIA. Riêng TCS đã viết cho Joan Baez một lá thư lên án bảo bà ta là: "Tiếp tay cho tư-bản thọc sâu lưỡi dao vào vết-thương của dân-tộc Việt-Nam chưa được hàn-gắn, do đế-quốc Mỹ và bè lũ tay sai" (theo tờ Đất Việt của VC, Canada 14-10-79).
    Thư của Trịnh Công Sơn gửi ca sĩ Mỹ Joan Baez

    Chị Joan Baez thân mến!

    Trong lúc viết lá thư này cho chị thì trước mặt tôi có lá thư ngỏ của chị và bên tai tôi thì có tiếng hát "We shall over come" của chị.

    Đây là một lá thư tâm tình gửi chị Joan Baez nghệ sĩ với đầy đủ sự khiêm tốn của nó chứ không phải thư ngỏ gửi cho President, Humanitan/International Human Rights Committe.

    Năm ấy, tôi lên một thành phố nhỏ ở vùng cao nguyên và nhân tiện ghé thăm một người bạn gái cũng là ca sĩ có một quán cà-phê ở đó. Vào quán, tôi thấy những đĩa hát có hình chị đính ở các vách tường bằng gỗ. Ở ngoài trời rất lạnh, quán đèn màu hồng và ở chiếc quầy trên ghế cao cách tôi khoảng hai mét có một người lính Mỹ ngồi im lặng trước ly rượu. Tiếng hát của chị bay la đà trên từng mặt bàn, ghé vào từng tách cà phê, từng ly rượu và dường như muốn thăm hỏi từng trái tim. Khi người lính Mỹ đứng dậy bước ra tôi thấy trên mắt y có một giọt nước mắt mầu hồng ....

    Nếu phút này tôi nói tôi yêu quê hương của tôi, tôi yêu những người thân thiết của tôi nơi này thì dĩ nhiên, chị sẽ chẳng có gì ngạc nhiên cả. Bởi vì trên mặt đất này ai cũng có một quê hương, nơi đó như một chiếc nôi êm ái mỗi người đã được sinh ra, lớn lên, sống rồi chết. Ở đó cũng còn có cả hạnh phúc lẫn sự đau khổ như hai khuôn mặt muôn đời của đời sống nhân loại.

    ... Có thể chị rất đau lòng khi viết lá thư ngỏ này, kể cả những người cùng ký tên trong lá thư mà tên tuổi của họ đã từng gắn liền với cuộc chiến tại Việt Nam. Nhưng chị làm thế nào hiểu được hết số phận của một đất nước trên một ngàn năm chưa hề biết đến sự nghỉ ngơi. Khát vọng về hoà bình, về tình yêu, về hạnh phúc của chính chúng tôi là những kẻ cần hơn bất cứ ai trên mặt đất này. Tôi không muốn kể ra đây thật nhiều thí dụ nhưng tôi tin rằng chị chẳng bao giờ biết được trong những nhà tù cũ tại Việt Nam có những người tù từ 1954 chưa hề biết đến ổ bánh mì là gì, có những cô gái ở nhiều tỉnh trên đất nước tôi, vì chiến tranh, biết nhiều B52 nhưng lại ngạc nhiên thích thú không hiểu vì sao một cái tủ lạnh lại có thể cho mình những viên đá lạnh để uống mát đến thế. Làm thế nào nói cho hết được về con người trong một xứ sở mà chiến tranh đè nặng suốt hơn một nghìn năm. Và số phận của những con người ấy sẽ như thế nào nếu không có cuộc cách mạng vừa qua để mang lại độc lập và thống nhất trên đất nước của chúng tôi. Có thể nào chị và những người bạn Mỹ cùng ký tên trong một lá thư ngỏ ấy không hiểu rằng sau một cuộc cách mạng đất nước nào cũng phải chịu đựng những khó khăn, bề bộn và bối rối nhất định?...

    (Theo báo Tiền phong)

    Joan Baez, sinh 1941. Nổi tiếng là một trong những ca sĩ hàng đầu của âm nhạc Mỹ thập kỷ 60-70. Từ năm 1964, là một trong những nghệ sĩ phản đối mạnh mẽ nhất cuộc chiến tranh Việt Nam và bị chính quyền Mỹ gây khó dễ. Tháng 12-1972, Joan đến Hà Nội đúng thời điểm Điện Biên Phủ trên không. Năm 1973 ra mắt album Where Are You Now, My Son? ghi lại những cảm xúc trong hành trình tới Hà Nội.
Những người may-mắn thoát chết hiện lưu-lạc xứ người, tuổi đã về già, nợ gia-đình phải lo nhất là sợ con cháu mình lỡ có một người như anh. Sự thật thì không đủ thì giờ xem báo, hiểu thêm về anh sau 1975 hoặc đọc đôi lời anh tâm-sự. Một thoáng hiện về với âm vang thời xa xưa đó nghe lòng nhức-nhối quặn đau. Bạn bè, những người cùng dựa lưng nhau trong nỗi chết gần kề đâu còn mấy ai. Tôi đốt nén hương cho bè bạn tôi, những người đã nằm xuống có bàn tay anh góp sức và xin được tiễn những người đã ra đi trong số đó có anh bằng tiếng ca trong "Lời nguyền" của Phạm Thế Mỹ:
    "Lạy Trời, tôi đừng biết
    Tôi chết vì tay anh".
Kết những dòng nầy tôi nhớ chuyện xưa; một trong số con cháu nhà Lê, "Lê Báo" vì mưu-đồ phục-hưng sự-nghiệp tiên chúa nên núp bóng chùa Tiêu-Sơn để hoạt-động. Nhưng nhà Lê đã đến thời mạt vận, nghiệp lớn không thành; bấy giờ ông ở tuổi 43, đang quét lá nơi sân chùa. Một đứa cháu hỏi:

-"Thưa Chú, bây giờ nghiệp lớn không thành, chú định làm gì ?".

Ông nhìn trời, một phút lặng yên rồi trả lời:

- "Từ lâu vì mưu-đồ việc phục-hưng để khỏi phụ lòng tiên chúa nhưng nghiệp nhà Lê đã hết, đó là ý Trời. Núp bóng, lợi-dụng danh-nghĩa chốn từ-bi, kẻ tu-hành mưu-đồ sự-nghiệp cho cá-nhân, dòng họ là một điều không nên dù là việc nước nhà. Vong ân là một điều vô liêm của con người nhất là kẻ sĩ. Chú nguyện với lòng là cạo đầu ở dưới mái chùa quét lá đa là vậy".

Bây giờ anh đã nằm xuống. Chết là hết nhưng nơi anh nào đã hết. Người ta nhắc tên anh, đưa anh về nơi an nghỉ với: ngưỡng-mộ, thương-hại, nguyền-rủa, khinh-bỉ và nhất là tính hiếu-kỳ.

Cõi nào anh về ? Niết-bàn hay thiên-đàng, theo tôi vẫn là một. Thoảng nghe dòng nhạc anh "Người nằm xuống để thấy thiên-đàng cuối trời thênh-thang".

Cửa thiên-đàng vốn rộng mở, lòng Chúa vốn bao-dung, lừa lọc gian ngoa càng dễ vào, không sao đâu anh.

Trần Anh Lan
-----
    Nguyên văn phát biểu của Trịnh Công Sơn ngày 30-04-1975 trên đài phát thanh Saigon.

    Tôi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất vui mừng và cảm động gặp và nói chuyện với tất cả các anh em văn nghệ sĩ ở miền nam Việt Nam này. Hôm nay là cái ngày mơ ước của tất cả chúng ta, đó là ngày mà chúng ta giải phóng hoàn toàn tất cả đất nước Việt Nam này.

    Cũng như những điều mơ ước của các bạn bấy lâu là độc lập, tự do và thống nhất thì hôm nay chúng ta đã đạt được tất cả những kết quả đó.
    Tôi yêu cầu các văn nghệ sĩ cách mạng miền nam Việt Nam (không rõ) hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam.

    Những kẻ đã ra đi chúng ta xem như là đã phản bội đất nước.

    Chúng ta là người Việt Nam. Đất nước này đất nước Việt Nam. Chúng ta ở trên đất nước chúng ta.

    Chính phủ Cách mạng Lâm thời sẽ đến đây với thái độ hoà giải tốt đẹp. Các bạn không có lí do gì sợ hãi để phải ra đi cả.

    Đây là cơ hội đẹp đẽ và duy nhất để đất nước Việt Nam thống nhất và độc lập. Thống nhất và độc lập là những điều chúng ta mơ ước từ mấy chục năm nay.

    Tôi xin tất cả các bạn, thân hữu cũng như những người chưa quen với tôi xin ở lại và chúng ta kết hợp chặt chẽ với Ủy ban Cách mạng Lâm thời để góp tiếng nói xây dựng đất miền Nam Việt Nam này

    (Không rõ) Gặp tất cả anh em ở trong Ủy ban Cách mạng Lâm thời. Hiện tại chúng tôi đang ở tại đài phát thanh Sài Gòn và tôi mong các bạn chuẩn bị sãn sàng để đến đây góp tiếng nói, lên tiếng để tất cả mọi người đều yên tâm. Và tôi xin tất cả các anh em sinh viên học sinh của miền nam Việt Nam này hãy yên ổn kết hợp lại với nhau, khóm phường đều kết hợp chặt chẽ chuẩn bị để đón chờ Ủy ban Cách mạng Lâm thời đến.

    Xin chấm dứt. Và tôi xin hát một bài. Hiện tại ở trên đài thì không có đàn ghi-ta. Tôi xin hát lại cái bài “Nối vòng tay lớn”. Hôm nay thật sự cái vòng tay lớn đã được nối kết …



HÃY CỨU SAN HÀ!


Đừng Sợ Nữa Đồng Bào Tôi Ơi!
Hãy Đứng Dậy Lật Đổ Tập Đoàn Việt Gian Cộng Sản Việt Nam
Buôn Dân Bán Nước


Power's People

Việt Nam hãy học bài học Tunisia, Egypt
Free the people, Free yourself

"Those who make peaceful revolution impossible,
make violence inevitable." - John F. Kennedy


Peaceful Revolution Hopeless
Non-violence Hopeless With Vietnam Communists


Tự do không phải ngồi đó mà có,
phải trả giá bằng sự quyết tâm, bằng xương, bằng máu ..
không phải van xin, thắp nến hiệp thông,
cầu nguyện chỉ có ở trong chùa chiền, nhà thờ.
teolangthang

****

HÃY CỨU SAN HÀ!
Ý Nga

Mẹ* không có những đứa con bội nghĩa
Mẹ không nuôi toàn một lũ vong ân
Vừa vô thần, vừa bán nước, hại dân;
Vừa tàn nhẫn triệt tiêu bao tôn giáo.

Đứa trâng tráo, hô hào điều gian xảo;
Đứa tào lao, lãnh đạo rước ngoại xâm;
Đứa đào mồ, quật mả: gây hờn căm;
Đứa ác hiểm dìm thanh niên vực thẳm.

Người chết thảm giữa trùng dương thăm thẳm,
Mang trong tim chuyến vuợt biển kinh hoàng,
Tội tình chi, hồn vất vưởng lang thang?
Vì bọn chúng cần phi tang tội ác!

Mẹ không có những thằng con biếng nhác
Sống ngông cuồng, bệ rạc những mưu mô
Vất cháu con vào tuyệt lộ lao nô
Đưa đất nước vô Con Đường Đẫm Máu.

Dân thảm não, Mẹ gọi ai: ”TRANH ĐẤU!
Tỉnh đi con! Hãy bỏ Cộng, về hàng
Cho đất Cha tươi sáng màu Xuân sang
Hãy cách mạng huy hoàng trang sử Việt!

Phải cương quyết! Phải vùng lên tiêu diệt!
Chẳng còn chi nuối tiếc lũ Việt gian
Chẳng còn chi con theo đóm ăn tàn
Kẻ nội gián rước voi dày mả Tổ”

Gom quân đội, công an: châm ngòi nổ
Nổi Lửa lên từng góc phố, con đường
Gọi mười phương, chín hướng một chính trường:
Đem no ấm, tự do cho dân hưởng!

Mẹ chỉ có những đứa con cao thượng:
Biết yêu thương tổ quốc và đồng bào;
Biết công lao giữ nước của anh hào;
Biết tỉnh táo đứng cùng dân chiến tuyến.

Nước nguy biến! Mẹ gọi ai: “Phải tiến!
Lời Diên Hồng: QUYẾT CHIẾN rộn ràng vang!
Dậy mà đi! Các con phải sẵn sàng!
Đừng hát nữa! Con ơi! Này thương nữ!*

Con hãy thức, giục hiền nhân quân tử
Tụ về đi! Khởi nghĩa dựng lại cờ!
Đừng chần chờ! Đừng ấm ớ, thờ ơ
Đừng ngủ nữa! Con ơi! Kìa CHÍNH NGHĨA!”


Ý Nga, 1-4-2011

*Mẹ Việt Nam


Saturday, April 2, 2011

Japan's nuclear reactor: radioactive leaks

    Reactor leaks: Aerial view
There has been a sharp rise in radioactive iodine in the sea off the Fukushima nuclear power plant, with radioactivity thousands of times higher than the legal limit. The most likely sources of the leaks are Reactors 2 and 3, as detailed here.



Infographic showing the six reactors at fukushima, with reactors 3&4 leaking and the risk levels of the other reactors

It is now believed leaks seeping into the soil, fresh water and the sea are continuous. Radiation has found its way into local produce, milk and tap water as far as Tokyo, 220km (140 miles) to the south.

Theories on main sources of leaked radiation

Reactor 2: Cooling problems damaged the core. It is thought radioactive steam is flowing from the core into the reactor housing and leaking through cracks. Contaminated material may have escaped through the damaged walls of the water-filled suppression chamber beneath the reactor.

Radioactive water in a tunnel underneath the reactor and the turbine (see diagram) is preventing workers from gaining access. This tunnel emerges at the front of the building as a trench - just 55 metres from the sea.

Damaged reactors close-up and diagram showing location of contaminated water

Reactor 3: Uses plutonium in its fuel rod mix - small amounts have been found in soil at the plant indicating this reactor may have suffered a partial meltdown. Sea water is being injected into the spent fuel pool and fresh water is being injected to the damaged core. Highly radioactive water has been detected in reactor.

Reactor 1: Damage to the core from cooling problems. Fresh water is being injected into the core. Highly radioactive water has been detected in reactor.
Decommissioning the plant

The good news is that mains electric power has finally been restored, which brings effective cooling of the fuel rods one step closer.

Once that has been achieved, the next step will be to decomission reactors one to four. This means removing the fuel rods, storing them and then reprocessing them at another plant. Then all non-core buildings will be demolished. Core buildings (which house the reactors) have to remain in tact for at least 40 years because dismantling them would release more radioactive material. Some Japanese nuclear experts are considering whether to cover those core buildings with a special material to stop the spread of radioactive substances.

Reactors 5 and 6 would re-open at some point after consultation with local residents.