Friday, November 5, 2010

Tẩu Tướng Trần Thiện Khiêm ra tay

    TƯỚNG KHIÊM RA TAY

Lê Văn Ấn

Sự xuất hiện đột ngột của cựu Ðại tướng Trần Thiện Khiêm cũng là cựu Thủ Tướng của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam làm cho người Việt khắp nơi “bàng hoàng như giấc chiêm bao”. Tại sao sau 35 năm im hơi lặng tiếng, nay Ðại tướng Trần Thiện Khiêm lại xuất hiện? Tại sao mỗi lần ba chữ Trần Thiện Khiêm xuất hiện đều mang lại những biến cố quan trọng cho đất nước và dân tộc Việt Nam? Tại sao lúc “thập tử nhất sinh” của đất nước ba chữ này lại âm thầm ra hải ngoại bỏ lại giang sơn và dân tộc cho người khác gánh chịu phút hấp hối của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa? Sự xuất hiện lần này của cựu Ðại Tướng, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm có ý nghĩa gì? Ảnh hưởng ra sao đối với đất nước?

Năm 1960, sự xuất hiện của Ðại tá Trần Thiện Khiêm đã làm cho cuộc đảo chánh 11.11.1960 tan rã, cứu nguy chế độ Ngô Ðình Diệm. Kể từ đó, Ðại tá Trần Thiện Khiêm là con cưng của chế độ, trở thành Thiếu Tướng, lên Trung Tướng để rồi …

Năm 1963, Trung tướng Trần Thiện Khiêm tham gia đảo chánh thì chế độ Ðệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ với cái chết thê thảm của 3 anh em họ Ngô, để từ đó sau khi để cho Nguyễn Khánh “giỡn mặt, đưa đi làm Ðại sứ” tưởng Ðại Tướng đã ngâm câu “được làm vua thua làm Ðại Sứ”, nhưng rồi Ðại Tướng trở về được cử giữ chức Tổng Trưởng Nội vụ kiêm Tổng Trường Quốc Phòng rồi Thủ Tướng một lèo cho đến những ngày cận kề sụp đổ của Miền Nam, Ðại Tướng theo gót Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bàn giao cho ông Nguyễn Bá Cẩn để ra đi trước khi Saigon nghe được tiếng súng địch.

Tính sổ lại trong hàng tướng lãnh, nhất là tướng lãnh đã tham gia thảm sát gia đình họ Ngô, Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm là người hưởng nhiều bổng lộc hạng nhất, chỉ sau Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, tuy nhiên Tổng Thống Thiệu còn lắm vất vả và tính mạng luôn bị đe dọa, sống trong lo âu phập phồng, còn Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm đúng là “ngồi mát ăn bát vàng”. Cũng vì vậy mà những người viết sử trong giai đoạn này đều cho Ðại Tướng là một nhân viên CIA đắc lực nhất, mới được những bổng lộc phú gia địch quốc và dưới một người trên muôn người. Cũng vì vậy mà lần xuất hiện này của Ðại Tướng làm cho mọi người vừa lo âu, vừa hồi hộp. Phải chăng, Hoa Kỳ hay CIA đang sắp đặt một biến chuyển mới cần đến Ðại Tướng ra tay? Và nếu những lần ra tay trước đây chỉ có lợi cho Hoa Kỳ, vậy lần này có lợi cho ai?

Qua bài phát biểu ngắn ngủi trước Ðại Hội Toàn Quân, Ðại Tướng chỉ cho biết là “… tôi vinh danh các anh, những người còn sống cũng như những người đã ra đi là chiến sĩ anh hùng của lý tưởng Tự Do và Dân Chủ, nhân dịp này tôi gửi lời chào và thăm hỏi của tôi đến từng gia đình của các chiến hữu trong tập thể các chiến sĩ VNCH hải ngoại”. Và theo lời cựu Thiếu tá Cảnh Sát Phan Tấn Ngưu, Trưởng Ban Tổ Chức Ðại Hội Toàn Quân thì Ðại tướng Trần Thiện Khiêm nhờ ông Phan Tấn Ngưu “tổ chức một bữa cơm để mời một số anh chị em đã hy sinh làm những việc đáng ca ngợi như trên …”.

Nếu chỉ có vậy rồi Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm trở về lại gia đình, trông hương khói cho người vợ quá cố cách đây mấy năm thì chắc hẳn Bà Tôn Nữ Hoàng Hoa đã không viết một bài với tựa đề “Những kẻ không yên phận”. Nói cách khác là nữ sĩ TNHH cho rằng Ðại Tướng không yên phận như đã yên phận mấy chục năm qua. Trước mắt thì cái tựa đề bài viết của TNHH đúng thật, nhưng xét cho cùng, nếu quả tình Ðại Tướng trong quá khứ đã là người của CIA thì cho đến lúc trăm tuổi, chắc chắn Ðại Tướng thân bất do kỷ, dù có muốn yên phận hay không cũng không do mình quyết định. Người tiết lộ bí mật Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm là người của CIA là cựu đại tá Phạm Bá Hoa, chánh văn phòng của Ðại tướng, và cũng theo ông Phạm Bá Hoa thì chính Ðại Tướng Khiêm mới là người chủ chốt cuộc đảo chánh 1.11.1963! Còn ông Nguyễn Văn Ngân thì cho rằng chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã khẳng định Ðại tướng Trần Thiện Khiêm là tay chân của CIA và là người chủ chốt trong cuộc lật đổ chế độ Ðệ Nhất Cộng Hòa, chịu trách nhiệm cái chết của 2 anh em cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm!

Chúng tôi viết bài này không phải để tố cáo một ông già 85 tuổi, vì cũng có thể trước khi thấy mình gần đất xa trời, Ông muốn đến với các chiến hữu lần chót, nhưng nếu cựu Ðại Tướng Thủ Tướng xuất hiện trong những dịp khác chắc mọi người sẽ nhìn Ðại Tướng với con mắt khác, đằng này ông lại xuất hiện trong một Ðại Hội Toàn Quân “không đúng hạn kỳ”, lại do một cựu sĩ quan Cảnh Sát đứng ra tổ chức với sự có mặt của cựu Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình, trong khi Biển Ðông đang dậy sóng, trong khi Hoa Kỳ muốn trở lại Á Châu nhất là vùng Biển Ðông, trong lúc những tên chóp bu trong Bộ Chính Trị VC nói với Mỹ khác, nói với Trung Cộng khác, trên thực tế thì Trung Cộng vẫn tiếp tục lấn đất, lấn biển, dân chúng chỉ viết mấy chữ HS, TS, VN là bị VC đàn áp khốc liệt, thử hỏi ai là người Việt Nam không bàng hoàng thảng thốt khi thấy sự xuất hiện của Ðại Tướng giữa Ðại Hội Toàn Quân?

Tập Thể Cựu Chiến Sĩ VNCH gồm luôn cả Cảnh Sát nếu tính về số lượng là một tập thể đông đảo nhất, tối thiểu cũng lên hàng trăm ngàn người trên Hoa Kỳ và trên thế giới, nhưng có thể nói trên thực tế, đây chỉ là con số ảo! Cũng vì là con số ảo nên Tập Thể tổ chức hết sức lỏng lẻo và trong quá khứ, cán bộ nòng cốt của Tập Thể nhiều khi lại là người của đoàn thể khác, lại tiếc rằng đoàn thể đó là đoàn thể “đâm sau lưng người chống Cộng”. Sau đây là một vụ điển hình. Cách đây hơn 5 năm, trong một bài viết cho mục Cuộc Hý Trường của báo Tiếng Dân, tôi có trình độc giả một đoạn như sau: “Trong thông cáo ngày 12.3.2005 của Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Hải Ngoại do giáo sư Nguyễn Xuân Vinh ký, có đoạn nguyên văn như sau: “Những tin đồn Tập Thể có liên hệ với một số đảng phái như đảng Việt Tân chỉ là đòn ly gián, gây chia rẽ bằng cách phổ biến thông tin sai lạc”. Chúng tôi xin không dùng “những tin đồn”, chúng tôi cũng không “phổ biến những tin tức sai lạc”, và chúng tôi cũng không dùng “đòn ly gián”. Chúng tôi xin đưa ra những sự kiện có thật, được Tập Thể xác nhận để giúp Tập Thể có cái nhìn chính xác những việc làm của những nhân vật cao cấp của Tập Thể, để giáo sư Nguyễn Xuân Vinh phải nhìn thẳng vào sự thật và có thái độ dứt khoát với những ai muốn khuynh loát Tập Thể. Cũng trong Thông cáo nêu trên, giáo sư Nguyễn Xuân Vinh còn cho biết: “Việc kết hợp giữa Tập Thể với các đoàn thế Quốc Gia chân chính khác sẽ được cứu xét từng trường hợp trên căn bản kết hợp công tác, không kết hợp cơ cấu”. Tuy nói vậy, nhưng không phai vậy! Cũng trong dịp tổ chức ngày Quốc Hận 30 tháng Tư năm 2005, ông Phạm Đình Khuông, phát ngôn viên của Tập Thể, ông Đoàn Hữu Định Tổng Thư Ký của Tập Thể và cô Lữ Anh Thư Phó Chủ tịch Trung Tâm Điều Hành Trung Ương, Cả ba người này chỉ dưới quyền của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo và giáo sư Nguyễn Xuân Vinh trong hệ thống lãnh đạo của Tập Thế. Thế nhưng, cô Lữ Anh Thư là “đồng trưởng ban tổ chức”người đồng Trưởng Ban với cô là ông Võ Quốc Bình, một cán bộ cao cấp của đảng Việt Tân âm mưu biến ngày Quốc Hận thành ngày Tự Do cho Việt Nam, nghĩa là nhờ có ngày 30.4.1975 mà người Miền Nam Việt Nam được tự do do Việt Cộng ban cho! Ông Phạm Đình Khuông, phát ngôn viên của Tập Thể là người tham dự các cuộc họp với đảng Việt Tân và là người Bảo Trợ cho “Ngày Tự Do cho Việt Nam”, Ông Đoàn Hữu Định, Tổng Thư Ký Tập Thể cũng nhận lãnh trách nhiệm quan trọng trong “Ngày Tự Do Cho Việt Nam”.

Một dẫn chứng như trên đủ thấy rõ Tập Thể đã bị đảng Việt Tân xâm nhập ngay đầu não từ 5 năm qua.

Những ngày gần đây, tất cả những ai đứng lên đấu tranh cho tự do dân chủ ở trong nước bị Việt Cộng bắt đều bị Việt Tân dán cho bản cáo trạng trên trán là “đảng viên Việt Tân” để cho Việt Cộng dễ bề thanh toán họ. Những người này sẽ phải lãnh những bản án nặng nề vì Việt Cộng đã chính thức “sắc phong” cho Việt Tân là “Khủng bố”. Song song với việc giúp Việt Cộng có bằng cớ trừng trị những nhà đấu tranh trong nước, Việt Tân nỗ lực phá hoại và chiếm đoạt những chức vụ “dân cử” các tổ chức của người Việt nhất là các Ban Đại Diện Cộng Đồng vì đây là cơ sở địa phương. Các nơi đã bị Việt Tân lũng đoạn và chiếm đoạt là Houston, Texas; Portland, Oregon; Nam Cali trở thành “vùng xôi đậu” và Bắc Cali hiện đang bi Việt Tân, LĐCT và dư đảng Hoàng Duy Hùng tấn công mãnh liệt. Chúng tôi khẳng định Việt Tân là Việt Cộng, bởi vì những “thành tích” làm lợi cho Việt Cộng điển hình là Đoàn Thanh Niên Phan Bội Châu, một đoàn thể ngoại vi của Việt Tân, dưới sự điều khiển trực tiếp của Đỗ Hoàng Điềm mà hiện nay là Chủ tịch, đã dùng những hình ảnh của Việt Cộng tố cáo “tội ác Mỹ Ngụy” trình diễn cho đồng hương xem, như là một cách trả đũa cho Trần Trường!

Với những “thành quả” phục vụ Việt Cộng của Việt Tân như vậy, với những liên hệ giữa Tập Thể và Việt Tân như thế, người Việt tỵ nạn Cộng Sản Việt Nam tại hải ngoại sẽ ra sao? Nhất là với sự xuất hiện của cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, một tay sai đắc lực nhất của CIA?

Có phải vì đây là sự kết hợp giữa Việt Cộng và Hoa Kỳ mà Việt Cộng đòi hỏi điều kiện là Hoa Kỳ phải “thu xếp” người Việt Hải Ngoại vào cái rọ của Việt Cộng mà CIA một lần nữa lại nhờ bàn tay của Đại Tướng Trần Thiện Khiêm? Có phải vì sự sắp xếp này mà cách đây 2 tháng có tin đồn rằng Tân Tổng Lãnh Sự Việt Cộng tại Houston, Texas đã “ướm hỏi” 3 nhân vật quan trọng của người Việt tỵ nạn Cộng Sản, trong đó có Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại về việc .. “cộng tác”?

Có phải chăng đã đến lúc người Việt tị nạn Cộng Sản Hải ngoại cũng như đồng bào trong nước phải than câu “Chúng ta không thua tại Việt Nam, nhưng thua tại Hoa Kỳ” do sự kiện cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm ra tay?

Khi thấy Ðại tướng Trần Thiện Khiêm xuất hiện, mọi người bàng hoàng như giấc chiêm bao. Tại sao vậy? Vì những lần ngài xuất hiện đều là những lần mang lại kinh hoàng cho dân tộc.

Cha ông chúng ta có câu “được làm vua, thua làm giặc”, không ai trách chuyện đảo chánh một chế độ để giành quyền lực, Ðại tướng Trần Thiện Khiêm cũng vậy, nhưng, mọi người “bàng hoàng” vì theo những nhân vật then chốt của Ðệ Nhị Cộng Hòa, kể cả cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, ông Ngân, ông Hưng v.v… nhất là ông Phạm Bá Hoa, cựu chánh văn phòng Ðại tướng Khiêm đều chứng minh lệnh đảo chánh 1.11.1963 phát xuất từ ngoại bang, cách thi hành lệnh đảo chánh lại quá tàn nhẫn, vô nhân đạo, giết một cách dã man những người đã đầu hàng, những đồ tể lại là những quân nhân, những tướng lãnh. Ðại tướng Khiêm và các tướng lãnh tham gia cuộc đảo chánh lại “không có một chính sách, chủ trương đường lối kế hoạch” nào để thay thế chế độ mình đảo chánh, dù chỉ là một chính sách non kém. Nói cách khác họ chỉ biết vâng lệnh ngoại bang, hay họ chỉ là NHÂN VIÊN của CIA. Cái nhục khác là họ đã nhận 3 triệu đồng bạc Việt Nam do một sĩ quan Hoa Kỳ giao cho!

Sau 35 năm im hơi lặng tiếng, Ðại Tướng xuất hiện lần này chẳng những “bổn cũ soạn lại” mà còn tệ hơn nữa. Vì Ðại tướng Khiêm không có sự chuẩn bị nào hết. Tại sao nói Ðại Tướng Khiêm không chuẩn bị? Sau 35 năm không bị ai khuấy rầy cũng chẳng khuấy rầy ai, thế mà Ðại Tướng không biết địch cũng chẳng biết ta. Không biết địch khi Ðại Tướng cho rằng Cộng Sản cũng vì quốc gia dân tộc, và Cộng Sản đang lắng nghe ý kiến của người dân để sửa đổi chế độ! Với 2 ý kiến trên của Ðại tướng Khiêm, nữ sĩ Tôn Nữ Hoàng Hoa đã cho rằng “Ðại tướng ở truồng giữa chợ”, không phải ở truồng thể xác mà là ở truồng tư tưởng, vốn liếng hiểu biết sau 35 năm chẳng những là con số không mà còn giúp Việt Cộng tuyên truyền một cách hữu hiệu. Từ khi Hồ Chí Minh ra khỏi hang Pak Pó, hắn ta chỉ nói một câu “vì dân vì nước” để lùa bao nhiêu thanh niên nhảy vào lửa đạn, để đến khi “chiến thắng Ðiện Biên Phủ”, Hồ Chí Minh quá “hưng phấn” nói toạc móng heo: “Nhận chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản giải quyết vấn đề cách mạng ở nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ” (Lịch sử đảng Cộng Sản Ðông Dương, trang 29, Nhà Xuất Bản sách Giáo khoa Mác Lenin, Hà Nội, 1979). Việc làm của Hồ Chí Minh cũng như thuộc hạ chỉ nhằm mục đích phục vụ ngoại bang, phản dân hại nước. Biết bao nhiêu người đã chết hoặc bị tù đày chỉ vì chứng minh rằng Hồ Chí Minh và Cộng Sản KHÔNG BAO GIỜ VÌ QUỐC GIA DÂN TỘC. Ðại tướng đã coi thường sự hy sinh xương máu của người chết, khinh dể người sống qua câu nói này. Năm mươi năm sống ở Việt Nam, 35 năm sống ở Hoa Kỳ, võ làm đến Ðại tướng, văn làm đến Thừa tướng để chống Cộng mà không biết những cái sơ đẳng của Việt Cộng!!!!

Trong cuộc phỏng vấn của SBTN do Việt Dzũng phụ trách, Ðại Tướng Khiêm cho rằng “Ðảng Cộng Sản Việt Nam đang họp đảng và đang lấy từng ý kiến của người dân để thay đổi chế độ”. Hèn gì mà bà TNHH cho là Ðại Tướng ở truồng giữa chợ. Nếu ai không phục thì cũng phải cho rằng Ðại Tướng giống như “gà đội nón”. Bao nhiêu người cho ý kiến, kể cả Ðại tướng Việt Cộng Võ Nguyên Giáp. Tất cả những người “cho ý kiến” đều bị Việt Cộng dần cho bầm dập. Hơn nữa, rất rất nhiều “ý kiến” đã đến tai VC và được Nguyễn Minh Triết trả lời: “Bỏ điều 4 hiến pháp là tự sát”.

Trong cuộc phỏng vấn này, Ðại tướng Khiêm cho biết đã đọc báo này, báo nọ của ngoại quốc, nhưng ngay cả báo chí ngoại quốc, đài truyền thanh, truyền hình cũng biết bao nhiêu lần đề cập đến chuyện VC trấn áp những người “góp ý kiến”! Các chính phủ cũng như các đoàn thể phi chính phủ đã biết bao lần yêu cầu VC trả tự do cho những người phát biểu ý kiến trong ôn hòa, mà VC đã nghe đâu, thưa Ðại Tướng? Trừ phi Ðại Tướng được Việt Cộng và Hoa Kỳ cam kết sẽ “lắng nghe”!!!!?? Nếu thế thì xin Ðại Tướng nói thẳng ra để toàn dân góp ý!!!

Lần xuất hiện này, Ðại Tướng dùng Tập Thể Chiến Sĩ làm bàn đạp, nhưng Ðại Tướng chẳng biết tổ chức Tập Thể ra sao cả. Trong bài trưóc kẻ viết bài này đã chứng minh những 3 vị lãnh đạo cao cấp của Tập Thể là người của Việt Tân. Ba người này đã lộ mặt, còn những người chưa lộ mặt mặt nữa, mà “Việt Tân cũng là Việt Cộng”.

Ðã 35 năm qua, những người ở trong Tập Thể hôm nay chính là những kẻ đã chiến đấu ngăn cản địch quân để cho Ðại Tướng và gia đình lên máy bay ra hải ngoại bằng yên vô sự, đã bị lao tù Cộng Sản, ra được hải ngoại là họ “bắt tay vào việc chống Cộng”, dù đã bị những kẻ khốn nạn cho là “những ổ vi trùng bệnh tật”, là “đoàn quân tấn công rest room”, v.v… Nay “được hãnh diện” có Ðại Tướng làm cố vấn. Ðại tướng sẽ cố vấn cho họ những gì, thưa Ðại tướng? Ðại tướng sẽ khuyên họ nên tin rằng Việt Cộng cũng vì quốc gia dân tộc?? Phải góp ý kiến với VC để thay đổi chế độ hay để Việt Cộng vững vàng như bàn thạch đến năm 2025 giống chủ trương của đảng Việt Tân? Trong khi nghe theo lời cố vấn của Ðại Tướng, chờ đợi VC “cho phép” góp ý kiến, hoan hô chúng cũng vì quốc gia dân tộc v.v… Tập Thể sẽ đi về đâu? Nếu đem so sánh với chủ trương của Việt Tân với ý kiến của Ðại tướng thì cũng như hai anh em sinh đôi, vì Việt Tân cho rằng VC cũng yêu nước, Hồ Chí Minh là anh hùng, ngày 30 tháng Tư là Ngày Tự Do cho Việt Nam. Và nếu cần cũng sẵn sàng hy sinh 3 triệu người Việt hải ngoại v.v…và v.v… mà Ðoàn Hữu Ðịnh, một nhân vật của Việt Tân hiện đang ngồi chình ình trong Tập Thể. Thế là thế nào?

Năm 1960, Ðại tướng cứu nguy chế độ Ðệ Nhứt Cộng Hòa ai cũng tin tưởng, kể cả anh em họ Ngô, nhưng kỳ thực là Ðại Tướng lập công để ở lâu, đi sâu, trèo cao, cuối cùng anh em Ngô Ðình Diệm đã bị Ðại Tướng giết một cách dã man. Bây giờ, Ðại Tướng ra để lập lại chuyện 1960 hay 1963? Ðó là nguyên nhân làm mọi người bàng hoàng.

Có người “tin tưởng” rằng Ðại Tướng “ra” lần này là để hợp tác với Hoa Kỳ lật đổ chế độ VC để Việt Nam trở lại một tiền đồn ngăn cản Trung Cộng bành trướng. Nhưng xét ra lập luận này không vững. Lý do là Ðại Tướng qua bài phòng vấn, không biết mảy may gì về chủ trương và kế hoạch VC, không biết cả đến thủ đoạn của VC mà đã ca ngợi chúng rồi thì còn chống vào đâu?

Phải chăng, Hoa Kỳ nay đã quyết tâm trở lại Châu Á, để chống lại Trung Cộng ngày càng lớn mạnh, lớn bao nhiêu hiếu chiến, hiếu thắng và rắp tâm xâm lược bấy nhiêu, muốn hất cẳng Hoa Kỳ khỏi Á Châu, Phi Châu, nên Hoa Kỳ phải nhờ đến Việt Cộng. Và điều kiện để Việt Cộng hợp tác với Hoa Kỳ là phải “dẹp cái đám chống Cộng hải ngoại” nên mới nhờ Ðại Tướng ra tay? Dĩ nhiên, Việt Cộng không dại gì mà nói thẳng ra như vậy, chúng sẽ xin Hoa Kỳ yêu cầu hải ngoại hợp tác với chúng để “cùng chống Trung Cộng”, y như sách vở của đầu đảng của chúng là Hồ Chí Minh đưa chiêu bài “chính phủ Liên Hiệp để chống Pháp” ngày xưa? Nói cách khác Hồ Chí Minh ngày xưa mượn cớ chống Pháp để “đoàn kết các đảng phái” để rồi tiêu diệt đảng phái Quốc gia, nay VC cũng noi gương đó, trước khi “đánh Trung Cộng” thì Tập thể hải ngoại đã chết về tay chúng. Ai khác thì còn nghi ngờ chứ với Ðại Tướng thì chẳng cần phải nghi ngờ. Chúng tôi có võ đoán hay không? Xin thưa, Ðại Tướng đã có “lễ ra mắt” Việt Cộng: VC yêu nước, VC lắng nghe ý kiến người dân. Xin Ðại Tướng thử đưa một vài ý kiến về nhân quyền mà Hoa Kỳ là nước chủ trương nhân quyền lâu nay, xem Việt Cộng có rửa tai nghe hay không?

Ðại Tướng vừa ủng hộ “diễn biến Hòa Bình” của Hoa Kỳ đồng thời cũng lo ngại “Trung Cộng Ðồng hóa Việt Nam”. Nhưng ai giúp Trung Cộng đồng hóa Việt Nam, ai phản đối diễn biến hòa bình của Hoa Kỳ: Việt Cộng. Tại sao?, thay vì hô hào dân chúng “góp ý kiến” với Việt Cộng, Ðại Tướng không hô hào dân chúng đứng lên phản đối Việt Cộng, tạo nên một cuộc cách mạng xanh, cách mạng nhung?

Mấy chục năm nay, ai cũng cho rằng Ðại Tướng ngậm miệng ăn tiền, họ không oán trách Ðại Tướng như đã oán trách Nguyễn Cao Kỳ làm một hàng thần lơ láo, một Nguyễn Khánh thấy chức là nộp đơn cho Nguyễn Hữu Chánh. Nhưng nay Ðại Tướng ra tay mọi người đều lo sợ lành ít dữ nhiều, nhất là khi nghe Ðại Tướng cho rằng Việt Cộng cũng vì quốc gia dân tộc, Việt Cộng đang lắng tai nghe ý kiến của dân để thay đổi chế độ. Do đó, người Việt trong cũng như ngoài nước lo sợ rằng lần này Ðại Tướng Khiêm ra tay là “Việt Cộng sẽhốt hụi chót”, “thu hoạch” nghị quyết 36.

Năm nay Ðại Tướng đã thọ đến 85 tuổi, số năm tối đa cũng chỉ 15 năm nữa thôi. Xin Ðại Tướng suy nghĩ lại, làm tay sai cho Hoa Kỳ diệt tuyệt chế độ Ðệ Nhứt Cọng Hòa một cách dã man, đã hưởng trọn phần thưởng của Mỹ, nay xin hãy vì dân, vì nước nói lời công đạo, nếu không, xin Ðại Tướng buông tha cho đàn em, nhất là những kẻ từng cầm súng, để họ tiếp tục chống Cộng, xin Ðại Tướng về hưởng tuổi già, bên người vợ mới, đồng thời hương khói cho người vợ quá vãng.

Xin cám ơn Ðại Tướng.

Lê Văn Ấn
_________________

Trong 2 bài trước, chúng tôi đã trình bày cùng quý độc giả cựu Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm quả thực đã là một nhân viên CIA, nói cách khác là một sĩ quan, một tướng lãnh của Quân Lực VNCH, nhưng là tay sai của Mỹ, Mỹ muốn cứu Tổng Thống Ngô Ðình Diệm thì cứu, Mỹ muốn giết Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, xóa bỏ nền Ðệ Nhứt Cộng Hòa, lập tức tướng Trần Thiện Khiêm thi hành, không chút ngại ngùng, đắn đo. Sau đó, miền Nam ra sao ai cũng biết rằng đó là hậu quả của cuộc lật đổ chế độ Ngô Ðình Diệm. Do đó, khi Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm xuất hiện tại miền Nam Cali đã làm cho những ai đã sống qua thập niên 50, 60 và những thập niên kế tiếp ở miền Nam Việt Nam đã bàng hoàng, không hiểu lần này Ðại Tướng Khiêm “lại ra”, thì số phận của người Việt tị nạn Cộng Sản hải ngoại và mấy chục triệu người trong nước sẽ gánh lấy những hậu quả nào.

Ðọc qua tất cả tài liệu về chính biến 1.11.1963, không có một tài liệu nào từ phía Mỹ, bàn đến một nhân vật, một đảng phái nào sẽ thay thế Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Các tướng lãnh khi được “mời” tham dự đảo chánh không có ai nêu lên vấn đề thay thế. Nhiều người đã cho rằng với trình độ học thức cũng như kiến thức các tướng lãnh hồi đó, ngoài tướng Lê Nguyên Khang có chứng chỉ năm thứ nhất luật khoa (?), tất cả đều ít học. Nhưng cho dù với trình độ “thảm hại” như vậy các tướng lãnh cũng không thể nào không đặt ra vấn đề đó. Thế mà nghe mời lật đổ là tham gia! Ngoài ra, các tướng lãnh này cũng đã biết “kỳ thị Phật giáo” là chuyện bịa đặt, thế mà lương tri họ vẫn không biết đến. Nói cách khác, các Tướng lãnh, nhất là Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm chỉ biết phá hoại.

Ðất nước là của chung, dù cho kẻ đã phản bội, đã lầm đường lạc lối, ngay cả Việt Cộng nếu ăn năn trở lại cũng có thể đóng góp một tay để lật đổ chế độ Cộng Sản, tất cả sự đóng góp đều phải được chấp nhận, nhưng phải thực lòng. Tuy vậy, qua nhận định “chắc như bắp” của Tướng Trần Thiện Khiêm: “Cộng Sản hay không Cộng Sản cũng nghĩ đến quốc gia dân tộc và đảng Cộng Sản Việt Nam đang lắng tai nghe ý kiến của người dân để sửa đổi chế độ” mọi người cũng nhận định “chắc như bắp” rằng tai họa sắp đến.

Tất nhiên, Tướng Trần Thiện Khiêm không thể không biết suy nghĩ để nhận định xem ý tưởng của mình đúng hay sai trước khi phát biểu, không thể chống chế rằng tôi nói trong lúc thiếu suy nghĩ, nhưng tới giờ phút này Tướng Khiêm vẫn chưa “chống chế”, tức là vẫn giữ vững lập trường. Hơn nữa, Tướng Trần Thiện Khiêm phát biểu trong một cuộc phỏng vấn chứ không phải trong một cuộc “làm việc” của công an Việt Cộng. Câu nói của Gorbachev, Cựu Tổng bí thư đảng Cộng sản Liên sô: “chế độ Cộng Sản chỉ có thay thế chứ không thể sửa đổi”. Cái nôi của Cộng Sản là Liên sô và cả Ðông Âu đã “tự chối bỏ chủ nghĩa Cộng Sản họ đang theo đuổi” thì không lý do gì một người “thường đọc sách báo ngoại quốc” như Tướng Trần Thiện Khiêm lại không biết Cộng Sản có nghĩ đến quốc gia dân tộc hay không?

Tóm lại, Tướng Khiêm “ra” kỳ này với nhận định: “người Cộng Sản cũng nghĩ đến quốc gia dân tộc”“Ðảng Cộng Sản đang lắng nghe ý kiến của người dân để thay đổi chế độ”. Qua những nhận định này, chẳng khác gì Tướng Khiêm đã chấp nhận hợp tác với Việt Cộng. Và ông đã “mớm” cho Tập Thể đường lối đó! Lập trường này bất cứ người Quốc Gia chống Cộng nào cũng không thể chấp nhận được. Tiếc thay, tướng Khiêm lại “được bầu chọn vào chức” cố vấn cho Tập Thể Chiến Sĩ. Ðề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại sau khi nhận chức lãnh đạo Tập Thể cũng chẳng có ý kiến gì về lập trường này. Nói cách khác ông Chủ Tịch Tập Thể cũng chấp nhận lập trường của tướng Khiêm. Dĩ nhiên, các tướng lãnh tham gia “Ðại Hội trước nhiệm kỳ” mấy hôm đó cũng cùng lập trường với tướng Khiêm. Việt Cộng đã thắng một trận tuyên truyền ngoạn mục, một thắng lợi vĩ đại mà người đem lại thắng lợi cho chúng là tướng Trần Thiện Khiêm, và vị tân chủ tịch Tập Thể. Một tin đồn trước đó cả tháng rằng Ðề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại đã được Tổng Lãnh Sự VC ở Houston ướm lời mời hợp tác, và câu trả lời của Ðề Ðốc rất tiêu cực!!!??

Trong Tập Thể lại có những “cái nhân” (nhưng) của Việt Tân là em của Việt Cộng!

Trong bài viết này, chúng tôi xin trình bày những gì chúng ta “còn may mắn”, những gì Tướng Khiêm có thể làm để có lợi cho Việt Cộng và những gì các tướng lãnh, nhất là Ðề Ðốc Hồ Văn Kỳ Thoại có thể xác định, có thể làm để kềm chế những tác hại do việc “Tướng Khiêm ra tay” đem lại.

Nhưng còn may mắn! Tập Thể chẳng những chưa “nắm được” toàn thể cựu chiến sĩ Quân Lực VNCH mà quân số của Tập Thể mới chỉ là “con số ảo”! May là đã có rất nhiều người lên tiếng, vạch rõ những “ác tính” của lập trường Tướng Trần Thiện Khiêm. May là ngoại trừ tướng Khiêm và những tướng lãnh tham dự cuộc họp hôm đó, ngoài ra, mọi người trong cũng như ngoài nước đều có 2 lỗ tai và 2 con mắt còn tốt, còn thấy được Việt Cộng không nghĩ đến quốc gia dân tộc, và nhất là Việt Cộng không bao giờ “lắng nghe” ý dân! Có chăng là “nghe” để trả thù, trừng trị những ai nói ra ý kiến của họ nghịch với ý của Ðảng!!! Một người có mắt như mù, có tai như điếc mà đòi làm cố vấn, đòi lãnh đạo một đoàn thể có tham vọng “bao trùm lên tất cả các đoàn thể có cựu chiến sĩ VNCH” là Tập Thể, hỏi ai không bàng hoàng lo ngại.

Nếu:
    Nếu ông Chủ tịch Tập Thể Cựu Chiến Sĩ VNCH không minh định lại lập trường
Nếu các tướng lãnh đã có mặt trong buổi họp Tập Thể Chiến Sĩ và đã bầu Tướng Trần Thiện Khiêm làm cố vấn, không minh định lại lập trường và yêu cầu Tướng Khiêm hoặc lui về vui thú “điền viên” vợ mới. Hoặc nói lại cho rõ Việt Cộng thờ chủ nghĩa Tam Vô, trong đó có vô tổ quốc, Việt Cộng là độc tài đảng trị không bao giờ lắng nghe ý kiến của người dân. Ngay cả ca nhạc sĩ Việt Dzũng người thực hiện cuộc phỏng vấn cũng đã có “phản xạ” lập tức về câu nói của Tướng Khiêm, chứng tỏ hầu hết người Việt tỵ nạn Cộng Sản không chấp nhận lập trường của Tướng Khiêm. Nếu các tướng lãnh, lãnh đạo Tập Thể cũng như những người dân chống Cộng không lên tiếng:

Thì:
    Việt Cộng sẽ rêu rao chúng ta chống Cộng là sai lầm, là phá hoại v.v…
    Những ai đang ở tù Việt Cộng là “đáng trừng phạt”.. Và .. Chúng ta mất chính nghĩa.
    Trong khi đó chắc chắn Tập Thể sẽ có người lên tiếng phản đối “lập trường” của tướng Trần Thiện Khiêm, “Hoa quả đầu mùa” mà Tướng Khiêm ra mắt Việt Cộng là sự chia rẽ trong Tập Thể Chiến Sĩ. Và sự thắng lợi về mặt tuyên truyền của Việt Cộng qua câu nói của Tướng Trần Thiện Khiêm.
Ðề phòng:
    Một ngày nào đó, Tướng Khiêm sẽ nhân danh “các tướng lãnh VNCH, nhân danh Tập Thể, nhân danh …ĐOÀN KẾT cùng BẢO VỆ HOÀNG SA, TRƯỜNG SA.. để tuyên bố ủng hộ Việt Cộng, hợp tác với Việt Cộng để “chống Trung Cộng” mà tay sai Việt Cộng đã nhiều lần thập thò đưa ra và đã bị người Việt hải ngoại phản đối.
Tướng Khiêm có thể đi đêm với Việt Cộng ký kết hợp tác với chúng, đặt người Việt hải ngoại trước sự đã rồi mà thiệt hại tối thiểu cũng là sự chia rẽ của KHỐI NGƯỜI VIỆT hải ngoại. Rồi sẽ có những “yếu nhân Hoa Kỳ” ăn phải bùa hay đô la Việt Cộng, hùa vào, cho rằng Tướng Khiêm là “lãnh đạo”, là biểu tượng Hòa Bình, v.v…

Một chuyện bên lề cũng cần đặt ra ở đây: không biết có sự trùng hợp nào mà khi Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo đứng ra gánh vác việc Tập Thể thì có tiếng xầm xì về “bóng dáng một người đàn bà”. Khi giáo sư Nguyễn Xuân Vinh thôi gánh vác chuyện Tập Thể cũng có “bóng dáng một người đàn bà”. Khi Nguyễn Cao Kỳ đem thân về với “triều đình Việt Cộng” cũng có “bóng dáng một người đàn bà”. Và bây giờ, tướng Trần Thiện Khiêm ra tay bên cạnh “cũng có một người đàn bà” mới! Ðúng là chuyện bên lề, mong rằng không phải là chuyện bản lề trong công tác Tập Thể.

Chuyện bản lề khác là những cán bộ Việt Tân đang nằm trong Tập Thể. Nếu Tập Thể chấp nhận đường lối của Việt Tân thì kẻ viết bài này không còn gì để nói, vì chúng tôi đã khẳng định “Việt Tân là em Việt Cộng”. Còn nếu Tập Thể không chấp nhận lập trường của Việt Tân, cũng không chấp nhận Cộng Sản là tập thể cũng nghĩ đến quốc gia dân tộc, lắng nghe ý kiến người dân, thì xin Tập Thể mạnh dạn trục xuất cán bộ Việt Tân ra khỏi Tập Thể, và minh định lập trường một cách công khai để các cựu chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có xung phong hợp tác với Tập Thể. Nếu không, kẻ viết bài này e ngại một sự chia rẽ trầm trọng sẽ xảy ra, làm lợi cho Việt Cộng. Ðau đớn hơn, sự thắng lợi về mặt tuyên truyền cho VC lại là công lao của tướng Trần Thiện Khiêm.
ooOoo

Ðây là bài viết chót trong loạt bài “Ðại Tướng Khiêm ra tay”, và đây cũng là những lời cô đọng tâm huyết của một kẻ chống Cộng tầm thường, nhưng luôn luôn trân trọng những gì người Việt tỵ nạn Việt Cộng tại hải ngoại đã làm với mục đích lật đổ chế độ Việt Cộng bên quê nhà, nhất là rất trân trọng những việc làm chống Cộng của tất cả các chiến sĩ đã cầm súng bảo vệ Miền Nam Việt Nam. Vì vậy, tuy hèn kém nhưng tôi quyết viết lên sự thật, viết lên những gì mà Việt Cộng và tay sai đang âm mưu phá hoại hàng ngũ chống Cộng của người Việt tị nạn Cộng Sản tại hải ngoại cũng như tất cả những lực lượng, quốc gia vì lợi lộc của quốc gia họ, hoặc cá nhân họ mà dùng Việt Nam như một món đồ trao đổi.

Có thể tóm lược những gì 3 bài trước tôi đã nêu lên như sau:
    * Ðại tướng Trần Thiện Khiêm, hoặc không hiểu Cộng Sản dù là những điều sơ đẳng, hoặc cố ý tuyên truyền cho Việt Cộng qua cuộc phỏng vấn của SBTN do Việt Dzũng thực hiện.

    * Cái nguy hại, nếu Tập Thể Chiến Sĩ dùng Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm làm cố vấn, vì tư tưởng ủng hộ VC của Ðại tướng đã rõ rệt, không thể chối cãi.

    * Việt Tân đã xâm nhập vào Tập Thể Chiến Sĩ ngay từ những ngày đầu và đã đóng những vai trò chủ chốt lãnh đạo Tập Thể Chiến Sĩ.

    * Việt Tân là Việt Cộng nối dài tại hải ngoại.

    * Hàng ngũ Tập Thể hiện rất lỏng lẻo, nhưng danh xưng rất lớn, bao gồm tất cả các quân binh chủng, các hội đoàn Quân Ðội hiện tại. Rất có thể bị những kẻ tay sai Việt Cộng hay thế lực nào đó mưu cầu một lợi lộc nào đó mà lợi dụng để “bán đứng” cho Việt Cộng.
Vấn đề còn lại hôm nay là Tập Thể Chiến Sĩ phải minh định lập trường mình là không chấp nhận quan điểm: “Cộng Sản hay không Cộng Sản cũng nghĩ đến Quốc Gia Dân Tộc” và nhất là “Ðảng Cộng Sản Việt Nam đang lắng tai nghe ý kiến của người dân để sửa đổi chế độ”, vì đó chỉ là ý kiến cá nhân của Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm. Và nếu người có tư tưởng đi ngược lại với chính nghĩa chống Cộng như vậy, chẳng những Tập Thể không thể đặt để họ vào làm cố vấn mà cần phải loại họ ra khỏi Tập Thể. Ðó là trường hợp của Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm.

Chúng ta, người Việt tỵ nạn Cộng Sản tại hải ngoại, đang chống Cộng thì Ý CHÍ CHỐNG CỘNG LÀ TRÊN HẾT. Không vì cấp bậc, không vì học vị, không vì thế lực hay bất kỳ lý do gì mà chúng ta nhượng bộ họ, hoặc phải tôn trọng họ, để rồi họ lung lạc, dẫn dắt chúng ta rời khỏi mục tiêu chống Cộng hoặc sẽ là một loại chống Cộng hình thức, một thứ trang sức, một cần câu danh lợi v.v… Lời phát biểu của Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm không thể có cách cắt nghĩa nào khác, ngoài ý nghĩa sai lầm từ căn bản về Việt Cộng, ngoài ý nghĩa tuyên truyền cho Việt Cộng, ngoài ý nghĩa muốn dẫn dắt tật thể nói riêng và đồng hương hải ngoại nói chung hợp tác với Việt Cộng. hợp tác với Việt Cộng là tự sát.

Xin đừng binh vực Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm với những lập luận: nói vậy chứ không phải vậy, hoặc trong một phút bốc đồng, Ðại Tướng nói vậy thôi, hoặc một lập luận nào khác. Vì câu nói của Ðại Tướng Khiêm quá đơn giản, quá rõ ràng, không có điển tích, v.v… Nói cách khác không thể ngụy biện rằng chúng ta hiểu lầm Ðại Tướng. Qua buổi phỏng vấn trên, qua những lời phát biểu của cựu Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm, chúng ta “không còn gì mà lưu luyến” Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm nữa.

Trong một bài trước, chúng tôi có xác nhận rằng công cuộc chống Cộng là công việc chung, bất kỳ ai cũng có thể tham gia, kể cả Việt Cộng hồi tâm chuyển ý dứt bỏ đường lối Cộng Sản để gia nhập hàng ngũ chống Cộng, chúng ta đều chấp nhận, ngược lại, những ai đã có hành động minh bạch binh vực Việt Cộng, ca ngợi Việt Cộng chúng ta không thể chấp nhận họ trong hàng ngũ chúng ta, vì đó là những kẻ nội tuyến nguy hiểm. Chúng tôi viết lên những bài này cũng chỉ nhân danh một người chống Cộng, chống Cộng thì bất kỳ ai cũng có bổn phận vạch mặt chỉ tên người kẻ “đâm sau lưng chiến sĩ”.

Trên đây là đề nghị của chúng tôi, dứt khoát phải loại Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm chẳng những ra khỏi Tập Thể mà cũng loại ông ta ra khỏi bất cứ hội đoàn chống Cộng nào. Nói cách khác là đoàn thể nào chứa chấp Trần Thiện Khiêm, đoàn thể đó không phải là đoàn thể chống Cộng. Kể ra, với nề nếp và truyền thống của Quân Ðội, nhất là Quân Ðội VNCH mà phải loại bỏ một Ðại Tướng, làm “phiền” một Ðại Tướng trong khi không có ai ngang cấp bậc với ông ta cũng là một điều rất tế nhị. Tuy nhiên, “pháp bất vị thân”. Cụ Phan Ðình Phùng đã từng nói với Hoàng Cao Khải: "Ðệ bây giờ chỉ còn một nấm mồ Việt Nam mà thôi” khi Hoàng Cao Khải dọa phá mồ mả tổ tiên của cụ Phan Ðình Phùng. Chúng ta cũng vậy, phải đặt tổ quốc và sự sống còn của dân tộc trên hết.

Tuy nhiên, nếu Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm thật lòng ăn năn, thật lòng nhìn nhận sai lầm của mình, chắc chắn Tập Thể Chiến Sĩ cũng không hẹp hòi gì mà không dành cho Ðại Tướng một chỗ ngồi trong Tập Thể. Ðó là cách xử thế của người Việt Quốc Gia, người Việt tỵ nạn Cộng Sản tại Hoa Kỳ.

Như có lần chúng tôi đã viết “Tập Thể Cựu Chiến Sĩ VNCH nếu tính về số lượng là một tập thể đông đảo nhất, tối thiểu cũng lên hàng trăm ngàn người trên Hoa Kỳ và trên thế giới, nhưng có thể nói trên thực tế, đây chỉ là con số ảo. Ðó là sự thật, hơn nữa, chưa có một hệ thống tổ chức chặt chẽ từ hạ tầng cơ sở, nhưng tại sao người ta, những “thế lực thù địch” cứ muốn xâm nhập, muốn thao túng Tập Thể Chiến Sĩ? Trước tiên phải kể là Ðảng Việt Tân. Trong một email gởi cho bạn, ông Ðoàn Hữu Ðịnh, cựu Ðại úy QL/VNCH, phủ nhận ông không phải là đảng viên Việt Tân, nhưng cách đây 5 năm, tháng Tư năm 2005, ông Ðoàn Hữu Ðịnh, ông Phạm Ðình Khuông và cô Lữ Anh Thư3 cán bộ chóp bu của Tập Thể lại hợp tác cùng ông Võ Quốc Bình tổ chức “Ngày Tự Do cho Việt Nam”? Thời gian chuẩn bị rất lâu, báo chí có nêu thắc mắc này thì cô Lữ Anh Thư cho rằng “chú Ðoàn Hữu Ðịnh đi họp với tư cách cá nhân”. Sau đó chính cô Lữ Anh Thư lại là “Ðồng Trưởng Ban Tổ Chức “Ngày Tự Do cho Việt Nam” với Võ Quốc Bình, cán bộ Việt Tân? Ðến khi báo chí dồn dập nêu lên thắc mắc, cô Lữ Anh Thư mới tiết lộ “thấy tổ chức này không tốt nên cháu và chú Ðịnh đã rút lui (sic). Ba cán bộ cao cấp của Tập Thể, lại là những người trí thức, ra hoạt động chính trị chống Cộng (?) thế mà một tổ chức có một quá trình làm lợi cho Việt Cộng như Việt Tân mà 3 cán bộ này không biết đến thì thật là chuyện lạ! Không biết đến thì cũng không sao, nhưng nếu hợp tác với Việt Tân, lại là “Ðồng Trưởng Ban Tổ Chức” thì không thể nào không biết Việt Tân có đường hướng chính trị ra sao, tổ chức “Ngày Tự Do cho Việt Nam” ý nghĩa thế nào mặc dù dư luận báo chí đã thắc mắc, nêu vấn đề một cách nghiêm túc với 3 nhân vật này. Với những chứng cớ này, chúng ta có thể kết luận 3 nhân vật Ðoàn Hữu Ðịnh, Lữ Anh Thư và Phạm Đình Khuông là những người 2 mang, hoặc là họ được Việt Tân cho xâm nhập vào Tập Thể và họ đã ra mặt “kết hợp” hai đoàn thể, nhưng bị dư luận lên án nên họ phải lùi một bước, chưa biết bao giờ họ “tiến 2 bước” đây?

Cũng trên mặt báo này, nhiều lần chúng tôi đã đưa ra những bằng chứng cụ thể những hành động của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh trước đây và đảng Việt Tân hôm nay rằng, đảng Việt Tân đã có rất nhiều hành vi chứng tỏ họ đứng về phe Việt Cộng, qua thời gian dài mấy chục năm của Mặt Trận và mười mấy năm của Việt Tân. Những hành động có lợi cho Việt Cộng tại Âu Châu, Úc Châu và nhất là Mỹ Châu mà trọng tâm là Hoa Kỳ. Như thế, không thể nào gọi là “có sự hiểu lầm” về phía chúng tôi, hoặc “có sự sơ sót” về phía Việt Tân. Nếu chỉ một hai lần thì người bàng quan có thể cho chúng tôi hiểu lầm, nhưng có quá nhiều lần và xảy ra đều khắp trên thế giới. Cũng trong những bài báo đã được đăng tải trên tuần báo Tiếng Dân cũng như được phổ biến trên nhiều diễn đàn Internet, chúng tôi đã cố gắng trích lại những tài liệu họp tập, chỉ thị … về đường lối, mục đích của đảng Việt Tân là hợp tác với Việt Cộng. Ði từ “giải phóng Việt Nam” bằng quân sự đến “Tổng Nổi Dậy Hòa Bình” và bây giờ là hợp tác với Việt Cộng để xây dựng đất nước, tự ý cho phép VC tồn tại đến năm 2025!!!

Một chủ trương rất dã man của đảng Việt Tân hiện nay là bất cứ ai đấu tranh cho tự do dân chủ ở Việt Nam bị Việt Cộng bắt, đều bị Việt Tân xác nhận họ là đảng viên Việt Tân. Hành động này để chứng tỏ với dư luận rằng Việt Tân là một đảng chống Cộng và có “nhiều” cơ sở tại quốc nội. Nhưng trên thực tế Việt Tân giúp Việt Cộng khỏi mang tiếng bắt oan, Việt Tân còn giúp Việt Cộng có thể kết án nặng nề những nhà đấu tranh trong nước, vì Việt Cộng đã từng công khai cho rằng Việt Tân là quân khủng bố! Ðây là hành động hết sức thâm độc và dã man, nếu chúng ta để ý sẽ thấy Việt Tân là kẻ phản quốc, chống lại các nhà dân chủ trong nước. Bất cứ tổ chức nào có người hoạt động bí mật ở trong nước đều phải giữ kín tổ chức của mình, một là tránh cho mình khỏi bị đối phương lên án, hai là tránh khỏi bị Việt Cộng tra tấn để nạn nhân tiết lộ danh tánh “đồng đảng”. Thế mà mỗi khi nghe thấy ai bị bắt, Việt Tân vội vàng chứng nhận họ là Việt Tân, trường hợp giáo sư Phạm Hoàng là một vụ điển hình.

Với lập trường và hành động của Việt Tân như vậy, chúng tôi đã kết luận Việt Tân cũng là Việt Cộng. Do đó, công tác ưu tiên một của Tập Thể Chiến Sĩ là phải thanh lọc những tên Việt Tân nằm vùng trong tổ chức. Ðiều này rất khó cho Tập Thể Chiến Sĩ, nhưng nếu không làm điều này thì không trước thì sau, Tập Thể Chiến Sĩ cũng bị Việt Tân cũng là Việt Cộng lũng đoạn, khống chế và trở nên một tổ chức có hại cho công cuộc chống Cộng.

Với danh nghĩa Tập Thể Chiến Sĩ bao gồm hầu hết, nếu không nói là tất cả những ai là quân nhân VNCH, những ai là Cảnh Sát Quốc Gia VNCH đều “đứng dưới mái nhà Tập Thể”. Cũng vì thế, nếu cá nhân, đoàn thể nào nhân danh Tập Thể mà có hành động đón gió trở cờ sẽ làm cho tất cả những ai đã chiến đấu cho VNCH đều bị mang tiếng. Nhất là hiện nay, Việt Cộng đang tung ra chiêu bài: “Quốc Gia với Việt Cộng đều là người Việt, phải đoàn kết lại để “CÙNG” chống Trung Cộng xâm lăng”. Ðây là một âm mưu rất thâm độc, VC không phải “chiến đấu” với người chống Cộng mà vẫn dẹp được người chống Cộng. Và người Việt tỵ nạn Cộng Sản ở hải ngoại sẽ bị VC xâm nhập, lũng đoạn và chiếm giữ.

Một cơ may cuối cùng đành cho Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm là nhân vì lời tuyên bố của Ðại Tướng rằng: “Ðảng Cộng Sản đang lắng nghe ý kiến của dân để sửa đổi chế độ”, xin Ðại tướng hãy chính thức yêu cầu Việt Cộng để cho toàn dân trong nước có TỰ DO NGÔN LUẬN! Có Tự Do Ngôn Luận mới có thể “góp ý kiến” để Ðảng sửa đổi chế độ được. Nếu không thì, chính Việt Dzũng khi nghe Ðại Tướng đề cập đến “góp y kiến với Cộng Sản”, Việt Dzũng đã như đỉa phải vôi. Nếu Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm làm được điều này, cả dân tộc sẽ mang ơn Ðại tướng. Không cần phải đòi hỏi những chuyện như đòi bỏ điều 4 hiến pháp, thì Nguyễn Minh Triết cho rằng như vậy là buộc chúng tự sát, điều mà Việt Cộng làm được là TỰ DO NGÔN LUẬN.

Nếu Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm không làm được điều đó hoặc ít ra, cũng thành thật thú nhận rằng hai nhận định của Ðại Tướng: Cộng Sản hay không Cộng Sản cũng vì Quốc Gia Dân Tộc và VC đang lắng nghe ý kiến của dân là sai lầm hoàn toàn. Nếu điều sau này mà Ðại Tướng cũng không đủ can đảm thú nhận. Thì Tập Thể loại Ðại Tướng ra khỏi Tập Thể là một điều phải làm vậy. Mọi người hãy đề cao cảnh giác Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm ra tay lần này nếu không đáp ứng được TỰ DO NGÔN LUẬN cho dân Việt Nam, thì ngài Ðại Tướng chỉ là tay sai của ngoại bang hoặc của Việt Cộng.

Lê Văn Ấn


Tuesday, November 2, 2010

Thư chung ngày 02.3.1960 của các Giám Mục Miền Nam

    Thư chung ngày 02.3.1960 của các Giám Mục Miền Nam về vấn đề Cộng sản vô thần
Bức thư gồm hai phần: Hiểm họa cộng sản và cải tạo đời sống. Sau đây trích toàn phần nói về hiểm họa cộng sản và lời mở đầu của phần nói về cải tạo đời sống. (…)

Các Giám mục Miền Nam gửi anh em bức thư chung này tỏ tình ưu ái và lo lắng của chúng tôi đối với anh em. Mục đích của bức thư chung này là giúp anh em có một tài liệu nghiên cứu học hỏi trong mùa Chay, để anh em nhìn thấy rõ mối hiểm họa của Cộng sản, để anh em thấu hiểu nó nguy hại và nham hiểm đến mức nào trong việc tiêu diệt Đức tin của chúng ta (…)

HIỂM HỌA CỦA CỘNG SẢN

I. Chủ trương vô thần của Cộng sản

Đối với học thuyết của Marx và Lénine, chúng ta quan tâm hơn hết đến một điểm là CHỦ TRƯƠNG DUY VẬT. Vì chủ trương duy vật chỉ nhận có vật chất là nguyên lý và là đích cùng của vạn vật, nên học thuyết đó tất nhiên cũng chủ trương vô thần. Đã chủ trương vô thần, nó phải hoàn toàn đối nghịch với tất cả những gì là tinh thần, siêu việt, tín ngưỡng, hoặc đạo lý; nói thể khác, nó hoàn toàn đối nghịch với chân lý nói chung, và học thuyết Công giáo nói riêng. Nói tóm lại, nó công khai chống Thiên Chúa mà bọn họ coi chỉ là sản phẩm do óc tưởng tượng của kinh tế và óc phong kiến.

1. Cộng sản vô thần chủ trương khơi động tất cả những gì là hèn hạ xấu xa nhất của con người, như hiềm thù, ghen ghét, vô luân, phá hoại, v.v… để đưa xã hội đến giai cấp tranh đấu.

2. Cộng sản vô thần tước đoạt hết tự do của con người, kể cả tự do tín ngưỡng và do đó cướp đoạt mất nguyên tắc căn bản xây dựng phẩm giá con người.

3. Cộng sản vô thần chối bỏ hết mọi phẩm trật, quyền bính, do đó phá đổ hết mọi thứ trật tự, trật tự siêu nhiên, trật tự tự nhiên, trật tự xã hội, trật tự Giáo Hội, và ngay cả quyền bính trật tự giữa cha mẹ với con cái trong gia đình.

4. Cộng sản vô thần chối bỏ quyền tư hữu, và do đó khiến con người hoàn toàn bị cô lập, nô lệ.

Tất cả những điều kể trên đây đều đi ngược lại với học thuyết Công giáo, và vì thế hai học thuyết trên không thể đi đôi với nhau.

Muốn cho Đạo Thánh được nguyên vẹn, người công giáo phải phủ nhận lý thuyết cộng sản và những áp dụng của nó đến tận cùng. Cộng sản, trái lại, muốn cho chủ nghĩa của họ được thắng cũng phải hết sức diệt tôn giáo. Trong cuộc tranh giành quyết liệt này, Cộng Sản đã tỏ ra rất xảo quyệt. Chúng ta hãy sáng suốt nhận định để có một đường lối dứt khoát giúp người đang ở trong cơn bách hại được biết đường xử trí và người chưa bị bách hại được biết cách đề phòng.

Tính cách chung kế hoạch bắt đạo của Cộng sản ngày nay vẫn là dùng đủ mọi phương pháp, dù tráo trở lừa dối, hoặc dã man tàn nhẫn đến đâu, miễn giúp sao đi tới thành công.

1. Họ trà trộn vào các cơ quan công giáo để thi hành thủ đoạn bám địch để giết địch. Họ tìm cách len lỏi vào nội bộ của ta để dò xét, tuyên truyền, chia rẽ, phá hoại, bằng cách giả là những phần tử sốt sắng, nhiệt thành, niềm nở và cố chiếm đoạt quyền điều khiển. Sau đây là bản mật lệnh của Cộng sản mà chúng tôi muốn anh em đọc để suy nghĩ:

Công giáo và Thệ phản là hai tổ chức đắc lực làm tay sai và gián điệp cho đế quốc tư bản. Những tổ chức này cố lén lút váo nội bộ của Đảng ta để bóc lột và đàn áp dân chúng. Những Giáo hội này đặt căn cứ ở khắp nơi đô thị trên thế giới, gieo rắc lý thuyết đầu độc của họ để diệt trừ chủ nghĩa xã hội cộng sản.

Vì thế, trong khi theo sát chỉ thị của cấp lãnh đạo Đảng, các đồng chí phải triệt để tìm hết mọi cách để lọt vào nội bộ của từng Giáo hội, giúp tay cho ngành công an, mật vụ của chúng ta mới tổ chức, nỗ lực hoạt động ngay trong trung tâm hoạt động các giáo sĩ, rồi tấn công đại quy mô, liên miên hoạt động, dù phải giả vờ cầu nguyện Thiên Chúa phù hộ cũng nên. Điều cần thiết để thành lập mặt trận duy nhất là phải lợi dụng sắc đẹp và sức quyến rũ của phụ nữ. Vì thế, muốn đạt đến mục đích này, muốn chia rẽ nội bộ Giáo Hội, muốn gây mâu thuẫn giữa các tổ chức tôn giáo, cơ quan của Đảng ta đã thông tư chín điều sau đây:

- Các đồng chí phải len lỏi vào các học đường do Giáo hội thành lập và đã bị các lý thuyết của họ đầu độc. Ta phải dò xét bọn phản động để biết rõ mọi hoạt động của chúng. Ta lẩn lút giữa các sinh viên, cảm thông những tâm tình của họ, theo rõi hết mọi hoạt động địa phương, kiểm soát nó và theo sát đúng phương pháp tế nhị, nhất thiết ta phải gia nhập vào các khu vực hoạt động của các giáo sĩ.

- Mỗi đồng chí phải tìm cách chịu phép Rửa Tội, để trở nên phần tử của Giáo hội. Nhờ thế, đội lốt được chiếc áo bịp bợp ấy, ta nhập vào Đạo Binh Đức Mẹ, hay nếu là người Thệ phản, phải nhập vào tổ chức Nghĩa Binh (Cruserders). Được thế rồi, đồng một loạt tấn công đại quy mô, dùng những câu ru ngủ để cảm hóa và thu hút giáo dân. Các đồng chí còn đi xa hơn nữa: cố chia rẽ tận gốc của đoàn thể giáo dân, nếu có cần cũng rêu rao đến tình yêu Thiên Chúa và hô hào ủng hộ hòa bình. Làm thế, ta sẽ phá hoại được lối tuyên truyền đầu độc của đế quốc đàn áp.

Đồng chí của ta phải dự hết các buổi lễ tôn giáo và luôn luôn niềm nở, rất hiền từ, lợi dụng hết mọi phương kế khôn ngoan và thiên hình vạn trạng với các giáo sĩ hầu dò xét hành động của bọn họ.

- Những học đường do Giáo hội thành lập và điều khiển là một địa hạt lý tưởng để xâm nhập. Tỏ ra bên ngoài một vẻ hết sức ân cần niềm nở, các đồng chí hoạt động của ta phải áp dụng điều luật “Bám địch để diệt địch”. Họ phải trà trộn hăng hái với giám đốc, giáo sư, sinh viên, để gây ảnh hưởng trên họ, hầu thực hiện cái nguyên tắc: CHIA ĐỂ TRỊ. Ngoài ra, đồng chí ta liên lạc trực tiếp với các phụ huynh sinh viên để củng cố nền tảng cho công cuộc cách mạng và phổ biến rộng rãi những hoạt động bí mật của chúng ta.

- Các đồng chí phải có sáng kiến trên mọi phạm vi, lén lút vào mọi ngành của Giáo hội, thu lượm cảm tình của giáo dân, rồi nhờ đó, ta có đủ phương tiện lọt vào bộ máy điều khiển của Giáo hội.

- Nhờ triệt để tuân theo lệnh Đảng, mà tiểu tổ chỉ huy sẽ đạt được mục đích đã chỉ định cho mình, nghĩa là thâm nhập trong hết mọi ngành tổ chức của Giáo hội, kêu gào ủng hộ hòa bình. Như thế, ta sẽ gieo được ảnh hưởng của ta trên mọi địa hạt.

- Dựa trên nguyên tắc đanh thép này: “DÙNG ĐỊCH ĐỂ DIỆT ĐỊCH”, ta phải gắng thuyết phục một vài phần tử quan trọng hay một ít bậc vị vọng trong Giáo hội đến thăm Trung Hoa và tìm cho họ có đủ tài liệu và giấy tờ cần thiết. Nhờ hành động lừa bịp và thầm kín này, bọn chúng sẽ giúp ta đạt được mục đích: Vì nó sẽ tỏ cho chúng ta thấy rõ cái mặt thực và tình hình đích xác của Giáo hội.

- Các đồng chí hoạt động phải có óc sáng kiến, khám phá những nhược điểm của Giáo quyền, khai thác những mầm mống chia rẽ, vô hiệu hóa những nọc độc do giáo quyền reo rắc bằng cách phổ biến những phương kế giải độc của chúng ta. Nói tóm, phải quyết liệt thi hành để mở rộng ngõ chiến cho ta tấn công vào.

- Các đồng chí nào có chân trong cơ sở chỉ huy phải triệt để đinh ninh rằng: Giáo hội Công giáo là tay sai của đế quốc, phải đả phá và hủy diệt đến tận nguồn gốc. Còn giáo phái Thệ phản họ đã lâm lẫn theo đường lối chính trị sống chung, cần phải ngăn cản họ đừng kết nạp thêm nhiều người, chúng ta hãy để nó tự chết, cái chết tự nhiên của nó.


Anh em thân mến, mấy dòng trích trên đây cho anh em thấy mưu mô của Cộng sản xảo quyệt biết bao nhiêu để tiêu diệt Giáo Hội.

2. Họ có sức giả vờ ủng hộ Công Giáo, bằng cách nêu cao khẩu hiệu tự do tín ngưỡng, nhất là lập những hội cho người công giáo như là “Hội những người kính Chúa yêu Tổ quốc” (Ủy ban Đoàn Kết công giáo ngày nay – BBT) ở Bắc Việt, “Hội Công giáo ái quốc” ở Trung cộng, “Hội Công giáo cấp tiến, Hội Giáo sĩ v.v…” ở hầu hết các nước Cộng sản. Mục đích của những hội đó là rút người công giáo ra khỏi những đoàn thể chính thức của Giáo hội, để họ nắm lấy chi phối, đưa về phục vụ chủ nghĩa của họ, và tệ hơn nữa, còn dùng chính những hội ấy để tố cáo, bắt bớ, lên án, phá hoại các phẩm trật trong Giáo Hội.

3. Để dễ lôi cuốn người công giáo, họ nấp sau những khẩu hiệu rất quyến rũ, như lý thuyết Tam Tự, và những phong trào tự do xây đắp dân chủ, phụng sự hòa bình, bênh vực vô sản, v.v… nhưng thực ra, đó chỉ là những cái mồi rất ngon, những bùa bả hiểm độc để đánh lừa người công giáo.Họ đặc biệt áp dụng chính sách chia rẽ, gieo rắc những điều nghi kỵ, khai thác những điểm bất bình, cô lập hết mọi phần tử, nhất là đi đến cắt đứt các mối liên lạc giữa các giáo đoàn địa phương với Tòa Thánh và Giáo Hội La mã. Vì mục đích này, họ nấp sau chiêu bài “Ái Quốc”, đề cao thuyết Tam Tự để tìm cớ buộc tội phản quốc, trục xuất, giam giữ, hoặc tiêu diệt những ai trung thành với Giáo Hội, rồi tự ý đặt ra những Giám mục mới, không còn tuân lệnh và liên lạc với chính quyền La mã. Họ hạn chế mọi quyền của Giáo Hội, phản đối những quy tắc Tòa Thánh đã đặt, vu khống cho Giáo Hội và các Phẩm trật trong đạo là tay sai của thực dân, đế quốc, phong kiến để gây nghi kỵ và chia rẽ giữa những người dân yêu nước với các đấng thừa hành Giáo Hội.

5. Độc hại hơn nữa, họ còn đi đến tước đoạt hết tự do bằng những phương pháp rất dã man, nhưng tế nhị: như những buổi học nhồi sọ, những trại cải tạo tư tưởng, những tòa án nhân dân, những cuộc tự phê bình và bao nhiêu phương pháp khoa học, vô luân khác. Nếu với bằng ấy mà chưa đủ thì họ kết thúc bằng cuộc bắt bớ, đánh đập, tù đày, trục xuất hoặc thủ tiêu, chém giết …!

Tất cả những kế hoạch bắt đạo như vậy, đang diễn ra trong các nước cộng sản, với những phương pháp và những thủ đoạn giống hệt nhau. Sự đồng nhất ấy chứng tỏ: riêng về vấn đề bắt đạo, các nước cộng sản đều nhất trí như nhau, họ đều tích cực như nhau, đều gặp gỡ nhau, đều xảo quyệt và tàn ác như nhau. Giáo Hội từ khi lập đến nay chưa bao giờ phải chịu những cuộc bách hại có tổ chức đại quy mô và ác liệt như vậy.

Với tất cả những anh em đang bị bách hại bên kia các bức màn sắt, nhất là với những anh em đang chịu đau khổ bắt bớ, chém giết ở bên kia vĩ tuyến 17, chúng tôi xin mượn lời Đức Thánh Cha Gioan XXIII bảo họ:

“Với các Đấng chăn chiên đang nêu lên cho các con cái thiêng liêng của mình gương sáng của một Đức Tin không lay chuyển, của một lòng trung thành tới mức hy sinh cả mạng sống, với các bổn đạo đang bị bách hại khổ sở, nhưng rất được Trái Tim Chúa Giêsu Kitô yêu thương, Chúa là Đấng đã hứa hạnh phúc và phần thưởng đời đời cho những ai bị bách hại vì lòng công chính, với tất cả, Ta tha thiết nhắn nhủ hãy kiên trường trong công cuộc chiến đấu thiêng liêng. Chúa nhân từ có những chương trình không ai dò thấu được, sẽ không để cho ai thiếu sự nâng đỡ cần thiết, thiếu ơn Thánh quý báu, thiếu sự an ủi bên trong. Với các con cái đang bị bách hại, tất cả Giáo Hội tin tưởng vào sự chiến thắng cuối cùng, xin cùng họ hợp nhất trong lời cầu nguyện và chia sẻ mọi nỗi đau đớn”. (Thông điệp Thủ Lĩnh các Chúa Chiên).

VIỆC CẢI TẠO ĐỜI SỐNG

Trước tình trạng đó, để khỏi mắc mưu và sa phạm vào những hành động dại dột, người công giáo vừa phải có ngay một thái độ rõ rệt, vừa phải chuẩn bị cho mình những sức mạnh thiêng liêng cần thiết.

Để đánh lừa những người ngây thơ, dễ tin, người ta đã dám công khai tuyên truyền thuyết sống chung, tưởng như có thể có sự sống chung giữa sự lành và sự dữ, giữa nhân đức và tội ác, giữa Thiên Chúa và ma quỷ. Nhưng anh em phải biết, sự sống chung ấy không thể thực hiện được. Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã nói: “Nền hòa bình mà Giáo Hội tha thiết kêu gọi không được coi như là sự nhượng bộ và thiếu cương quyết trước những lý thuyết hay những cách sống đi ngược hẳn lý thuyết công giáo. Giáo Hội yêu hòa bình, không có nghĩa là Giáo Hội nhửng nhưng trước những tiếng than khóc thống thiết đang vang dội đến Ta từ những nơi mà quyền lợi con người không được đếm xỉa đến, nơi mà sự nói dối được tổ chức quy mô” (Thông diệp Giáng Sinh của ĐTC Gioan XXIII, 23.12.1959)

Quanh Chuyện Cành Đào Hồ Chí Minh Gởi Vào Nam - Nguyễn Quang Duy

Nguyễn Quang Duy

Ông Quách Tòng Đức, Đổng Lý Văn Phòng Tổng Thống Ngô Đình Diệm xác nhận một Tết Nguyên Ðán, một cành đào đỏ lộng lẫy được trưng bày nơi phòng khánh tiết Dinh Ðộc lập với tấm thiệp in tặng của “Chủ tịch Nhà nước Cộng hòa Xã hội Miền Bắc” (Lâm lễ Trinh, trang 89). Một số người đã gắn liền câu chuyện cành đào và một vài tin đồn khác để lý luận ông Diệm và ông Nhu đã đi đêm, hoà giải, ve vãn, bắt tay, đầu hàng, … hay mắc lừa phe cộng sản. Đến đánh mất tín nhiệm và hậu thuẫn cuả Hoa Kỳ, để dẫn đến đảo chánh 1-11-1963. Nhiều người khác lại cho rằng miền Nam mất đi một cơ hội hòa bình, trung lập, không cộng sản, ...

Gần 50 năm qua, không ít người đã tranh luận về đề tài này. Tháng 3-2003, trên diễn đàn Giao Điểm, nhà sử học Vũ Ngự Chiêu chứng minh việc hai ông Diệm và Nhu ve vãn nhằm bắt tay với Việt cộng. Thì chỉ đến tháng 7, cùng trên diễn đàn ông Nguyễn Ngọc Giao lại chứng minh điều trên không đúng sự thật. Cần phải nói là cả hai lập luận cùng chủ yếu dựa trên hồi ký của Mieczyslaw Maneli, nguyên Trưởng Đoàn Kiểm Soát Đình Chiến Ba Lan.

Sự mâu thuẫn này không phải chỉ xảy ra riêng với các nhà nghiên cứu gốc Việt. Hầu hết các học giả Tây Phương cũng mắc chung một hoàn cảnh. Một phần vì nhãn quan mỗi người mỗi khác, Maneli chỉ viết lại công việc của mình, không đề cập đến một số việc chung quanh, sinh ra nhiều câu hỏi để tùy người đọc diễn giải.

Bài viết này dựa trên một số tài liệu mới từ Đảng Cộng Sản và từ Bộ Ngọai Giao Ba lan và Liên Sô, cũng như từ phía Việt Nam để làm rõ hơn vấn đề như: Có thật hai ông Diệm – Nhu muốn thương lượng với cộng sản hay không ? Chuyện cành đào có thực hay không ? Hồ chí Minh có muốn thương lượng với miền Nam hay không ?

Thế Giới Những Năm Đầu 1960

Khi đã củng cố được quyền hành, Khruschev đề xướng một chiến lược mới cho toàn khối cộng sản. Chiến lược này chủ trương chung sống hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau. Theo đó, Liên Sô tập trung vào việc xây dựng kinh tế cho khối cộng sản, áp dụng những thành tựu khoa học và kỹ thuật mới nhất vào sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng sản lượng sản xuất. Thông qua tăng trưởng kinh tế, Liên Sô kỳ vọng đủ khả năng để ủng hộ các nước đang phát triển và ủng hộ các phong trào cộng sản trên toàn thế giới, mở rộng ảnh hưởng của Quốc Tế Cộng Sản.

Phía Trung cộng không chấp nhận chiến lược trên. Họ cho rằng Liên Sô sợ chiến tranh với Mỹ, sợ bom nguyên tử cuả Mỹ, đầu hàng đế quốc Mỹ. Theo quan niệm của họ có chiến tranh cách mạng quốc tế càng mau thắng lợi, càng sớm tiến đến thế giới đại đồng.

Phía Hoa Kỳ, tổng thống Kennedy khi ấy vừa đắc cử đã phải đương đầu với tranh chấp ở Tây Bá Linh (Tây Đức), thất bại trong cuộc đổ bộ Vịnh Con Heo (Cu Ba), và tính sai trong việc trung lập hoá Lào. Những thất bại liên tục này đã dẫn đến một chiến lược chống cộng thiếu tích cực “vừa dọa vừa đàm”.

Toà thánh Vatican cũng thay đổi chiến lược chấp nhận chung sống hòa bình với những người cộng sản.

Pháp thì muốn tạo lại ảnh hưởng ở các quốc gia cựu thuộc địa, vận động cho giải pháp trung lập hoá Đông Dương. Tranh chấp giữa Liên Sô và Trung cộng càng ngày càng căng thẳng. Bắc Việt càng ngày càng nghiêng về phía Trung cộng, chủ trương xử dụng vũ trang để chiếm miền Nam . Phe Liên Sô đánh giá một Việt Nam trung lập theo đề nghị của Pháp sẽ có lợi hơn một Việt Nam bị lệ thuộc vào Trung cộng. (G. K. Magaret tài liệu số 2 trang 38)

Ấn Độ khi ấy lại có chiến tranh biên giới với Trung Cộng. Theo hiệp định đình chiến Genève, Ấn Độ và Ba Lan là hai quốc gia trong Phái Đoàn Kiểm Soát Đình Chiến tại Việt Nam. Ngoại trưởng Ấn M.J. Desai cũng đương kim chủ tịch Phái Đoàn.

Theo những tài liệu mới từ phía Ba Lan, vào tháng 1-1963, Ngoại trưởng Ba Lan Adam Rapacki sang thăm Ấn Độ. Ông đã được Thủ Tướng Ấn Jawaharal Nehru và Ngoại trưởng Ấn M.J. Desai tiếp đón. Trong cuộc gặp, Rapacki bàn đến một giải pháp trung lập hoá cả hai miền Nam Bắc và tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam. Thủ Tướng Ấn Độ Nehru cho biết Hoa Kỳ cũng muốn giải quyết những mâu thuẫn ở Việt Nam bằng giải pháp trung lập.

Từ cuộc gặp trên, Rapacki đã tiếp xúc với Đại Sứ Mỹ tại Ấn Độ, ông John Kenneth Galbraith để tìm giải pháp trung lập Việt Nam . Trong cuộc họp từ ý kiến riêng, ông Galbraith đã đề nghị trước tiên hai phía cùng tiến hành việc ngừng bắn trong vòng sáu tháng. (G. K. Magaret tài liệu số 1 trang 37). Trong nhật ký công tác ngày 21-1-1963, ông Galbraith xác nhận việc này. Sau đó đã báo về cho Tổng thống Kennedy đề nghị của mình. (G. K. Magaret tài liệu số 2 trang 38)

Như vậy tám tháng trước ngày hai ông Nhu và Maneli gặp nhau, phía Hoa kỳ và Ba Lan đã thảo luận về một giải pháp cho Việt Nam. Nhưng không biết vì lý do gì đề nghị cuả Đại Sứ Mỹ Galbraith đã không được tiến hành. Cũng như không hiểu giữa Mỹ và Ba Lan sau này còn có các cuộc gặp gỡ khác hay không ?

Maneli và các cuộc gặp gỡ hai phía Bắc Nam

Cũng theo những tài liệu mới từ phía Ba Lan, trong trừơng hợp của Maneli, Ba Lan hoàn toàn không có ý định xen lấn vào nội tình Việt Nam. Thượng cấp Maneli đã chính thức cấm ông ta làm trung gian hay gặp riêng ông Nhu, ngay cả nếu ông bị áp lực từ phía Bắc Việt. Họ chỉ cho phép ông ta thực hiện vai trò giám sát quốc tế. Phía Ba Lan đã thấy được Maneli chỉ là một chuyên viên luật, không kinh nghiệm ngọai giao, thiếu kiến thức và kinh nghiệm chính trị, dễ bị vướng những bẫy ngầm làm ảnh hưởng đến phía Ba Lan. (xem G. K. Magaret)

Tuy vậy, Maneli với bản tính tính cực và phấn đấu, công việc giám sát quốc tế thì lại rất nhàm chán chủ yếu chỉ viết báo cáo, lại lỡ trớn và tò mò mới xảy ra câu chuyện gặp gỡ với ông Nhu. Maneli cho biết các Đại sứ Roger Lalouette (Pháp), d’Orlandi (Ý), Ram Goburdhun (Ấn độ) và Salvatore d’Asta (Tòa thánh Vatican) là những người đã trực tiếp thúc đẩy việc ông gặp gỡ ông Nhu. Gián tiếp thì có Đại sứ Anh Hohler.

Do những thúc đẩy từ nhiều phía như đã kể ra, Maneli đã bay ra Hà Nội để xin ý kiến của phía Liên Sô và đã được Đại sứ Liên Sô tại Hà Nội đồng ý. Lúc này Ba Lan đang là một chư hầu của Liên Sô, sự đồng ý của Liên Sô đủ bảo kê cho cuộc gặp gỡ.

Những tài liệu mới phát hiện cũng cho biết Liên Sô không mấy quan tâm đến việc Maneli muốn làm. Có lẽ cả Ba Lan lẫn Liên Sô đều đã rõ khi ấy Bắc Việt đã ngã hẳn về phiá Trung Cộng. Liên Sô chấp nhận cuộc gặp chẳng qua chỉ muốn thu nhặt thêm tin tức của cả hai phía Bắc và Nam Việt.

Vào tháng 5-1963, ngay khi kế họach liên lạc với ông Nhu được chuyển cho phía Hà Nội, Maneli đã nhận ngay hồi đáp như sau: “Phạm văn Đồng xác quyết đề nghị (ngừng bắn và trung lập) của chủ tịch Hồ chí Minh và tuyên bố của chính phủ (VNDCCH) vẫn còn hiệu lực: Chính phủ nhân dân (VNDCCH) đã sẵn sàng bắt tay thương lượng vào bất cứ lúc nào, bí mật hay công khai.” (M. Maneli, trang 121). Sau đó trong lần gặp gỡ Phạm văn Đồng còn khéo miệng tuyên bố: “Ông Nhu chắc chắn có khả năng suy nghĩ thực tế, vì ông đã tốt nghiệp cao đẳng (lycée) ở Chartres” Khi Maneli kể lại chuyện này cho Đại sứ Pháp ông ta đã phải thốt lên “quá thích thú, quá quan trọng” (M. Maneli, trang 122).

Ngay sau đó Maneli đã gặp, và được Xuân Thủy cho biết: “… đầu tiên là trao đổi văn hóa và buôn bán (gạo đổi than) trước khi bàn đến chuyện chính trị” (G. K. Magaret tài liệu số 16 trang 59).

Vài ngày sau Maneli đã nhận được một lời nhắn của phái đoàn Ba Lan từ Hà Nội: “Các đồng chí Vịêt Nam rất mong tất cả chi tiết liên hệ đến việc thu xếp cho cuộc gặp với Nhu và chi tiết về cuộc gặp gỡ này” (M. Maneli, trang 123). Trưởng đòan Kiểm Soát Đình Chiến Bắc Việt, Hà văn Lâu còn gởi cho Maneli một điện tín: “Các đồng chí lãnh đạo đòi hỏi thông báo ngay tức thì những bước tiếp và mong rằng mọi việc sẽ tiến hành tốt đẹp, trước khi gặp Nhu, đồng chí cần ghé Hà Nội để thảo luận” (M. Maneli, trang 123).

Đầu tháng 7-1963, Maneli trở lại Hà Nội. Lần này, Maneli được gặp Hồ chí Minh, Phạm Văn Đồng, Xuân Thuỷ và Ung văn Khiêm. Trong hồi ký, Maneli cho biết: “Tôi hỏi Phạm Văn Đồng và Xuân Thuỷ nên làm gì nếu Ngô Đình Nhu mời tới nói chuyện. Họ trả lời ngay lập tức : nhận gặp và lắng nghe. Tôi lại hỏi họ có muốn tôi nói gì (với Nhu). Họ trả lời: ‘Tất cả những gì đồng chí biết về lập trường của chúng tôi trong sự trao đổi và hợp tác kinh tế và văn hoá (giữa hai miền). Một điều chắc chắc là: Mỹ phải rút đi. Trên cơ sở chính trị ấy, chúng tôi có thể thương lượng bất cứ điều gì”. Maneli hỏi thêm về khả năng một chính phủ liên hiệp ở miền Nam hay một hình thức liên bang Bắc Nam, Phạm văn Đồng trả lời: “Trên cơ sở độc lập và chủ quyền của Việt Nam , mọi điều đều có thể thương lượng. Hiệp định Genève đã đặt ra nền tảng pháp lý và chính trị: không có căn cứ hay quân đội nước ngoài trên lãnh thổ đất nước chúng tôi. Như thế, chúng tôi có thể đi tới thoả thuận với bất luận người Việt Nam nào.” (M. Maneli, trang 127-28).

Khi nhận được dấu hiệu khuyến khích từ Đại sứ Liên Sô và biết được sự phấn khởi từ phía Hà Nội, trở vào Sài Gòn, Maneli báo cho Lalouette và d’Asta biết để thu xếp cuộc gặp với Ngô Đình Nhu. Trong cuộc tiếp tân chiều ngày 25-8 của Quyền Ngọai Trưởng VNCH Trương Công Cừu, các ông Lalouette, d’Orlandi, Goburdhun and d’Asta đã giới thiệu Maneli với ông Nhu. Ông Nhu đã vui vẻ ngỏ lời mời Maneli thu xếp gặp riêng. Ngay ngày hôm sau văn phòng của ông Nhu đã liên lạc và hẹn cuộc gặp vào sáng ngày 2-9-1963.

Trong cuộc gặp gỡ tại dinh Độc Lập, Maneli cho biết ông Nhu dành cả hai tiếng đồng hồ nói về chủ nghĩa cần lao nhân vị, chính sách ấp chiến lược, thành quả cuả Việt Nam Cộng Hoà .v.v… Riêng về vấn đề hiệp thương giữa hai miền Nam-Bắc, Maneli cho biết ông Nhu chỉ có ý như sau: “…Tôi không chống lại việc đàm phán và hợp tác với miền Bắc, và như ông biết, nhiều nhà ngoại giao phương Tây đã đề nghị với tôi. Ngay trong những trận giao tranh tàn ác nhất, người Việt Nam cũng không quên ai là người Việt, ai là ngoại quốc. Nếu có bắt đầu đối thoại trực tiếp, thì có thể tiến tới xích lại gần. Và Uỷ hội quốc tế - cũng như bản thân ông - sẽ đóng vai trò tích cực ở đây … Trong tương lai gần, tôi không dự liệu điều gì dẫn tới nói chuyện trực tiếp, nhưng sớm muộn có thể sẽ hé ra khả năng …” (M. Maneli, trang 146) Như vậy ông Nhu chưa có một ý để đi xa hơn nói chuyện trực tiếp với lãnh đạo cộng sản Bắc Việt.

Ngay sau cuộc họp Maneli đã báo cáo về Ba Lan với một kết luận như sau “Những tuyên bố thiếu vững chắc của ông Nhu chính là kết qủa của sự bất ổn và kỳ vọng cây cầu với người Mỹ vẫn chưa bị đốt cháy”. (Magaret K. G. tài liệu số 21, trang 67)

Phần vì tò mò phần vì muốn thâu nhặt tin tức, Maneli đã đặt câu hỏi về mối liên lạc hay đàm phán trực tiếp giữa hai miền Nam-Bắc với ba ông Nhu, Thủy và Đồng. Xuân Thủy vừa giỡn vừa trả lời : "Có phải ông thực sự tưởng tượng rằng chúng tôi thương lượng hay đồng ý với ông Nhu?" (M.K. Gnoinska, trang 147) Ông Nhu và ông Đồng thì cho biết đây chỉ là những lời đồn đãi: "Ông Nhu hỏi lại, có phải ông đã chịu thua dư luận? đó chỉ là chuyên đùa" (Maneli, trang 147) và ông Đồng có cùng chung phản ứng đã hỏi lại "Có phải đồng chí đã tin vào những câu chuyện như vậy hay không ?" (Maneli, trang 147) Sau 1/11/1963, Phạm văn Đồng đã giải thích cho Maneli các nguồn tin từ tướng đảo chánh về các cuộc đàm phán Bắc Nam như sau: ”Đó chỉ là giả dối, phe đảo chánh thông báo tin này chỉ để giải thích lý do phản lại Diệm”. (G. K. Magaret tài liệu số 21, trang 67)

Ngay chiều hôm đó, ông Nhu đã tiếp Đại sứ Hoa kỳ Lodge, Đại sứ Ý d’Orlandi và Khâm sứ tòa thánh Vatican d’Asta. Ông Nhu cho biết về cuộc gặp gỡ với Maneli vào ban sáng. Ông Nhu nói Maneli đã yêu cầu ông chú ý đến tuyên bố của De Gaulle và Hồ Chí Minh về giải pháp trung lập Việt Nam và tiến hành tổng tuyển cử, rồi hỏi ông Nhu muốn chuyển lời gì cho Phạm Văn Đồng. Ông Nhu trả lời “Chẳng có gì cả”.

Không một dấu hiệu nào cho thấy ông Nhu muốn tiếp tục quan hệ với Maneli trong vai trò “đi đêm” với Hà Nội. Cuộc gặp gỡ tại Dinh Độc Lập cho thấy ông Nhu chỉ muốn chứng minh với Hoa Kỳ rằng nếu bị Hoa Kỳ bỏ rơi ông ta có khả năng thương lượng trực tiếp với Bắc Việt. Không như ông tính đây lại chính là bằng chứng duy nhất để phía Hoa Kỳ lập luận ông Nhu muốn thay đổi chiến lược chống cộng của Hoa Kỳ.

Ngược lại phía Bắc Việt lại rất mong Maneli đứng ra làm trung gian. Trước khi xem xét về phía Bắc Việt thật giả ra sao người viết sẽ phân tích một vài tin đồn khác có liên quan.

Chuyện đồn Ngô Đình Nhu gặp Phạm Hùng

Ông Cao Văn Vỹ cho biết trong một chuyến đi săn với ông Nhu và trung tá Bường (tỉnh trưởng tỉnh Bình Thuận) tại khu rừng Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận, ông Nhu đã bí mật tiếp xúc với hai người. Ông Vỹ và trung tá Bường cả hai đều không được tham dự buổi họp. Họ chỉ quan sát từ phía ngoài, ông Vỹ chỉ biết ông Nhu ngồi trong lều săn nói chuyện với hai người, nhưng không biết là ai, vì lúc đó là ban đêm. Theo ông, có lẽ trung tá Bường biết vì chịu trách nhiệm an ninh và tổ chức cuộc gặp gỡ. (Vĩnh Phúc, trang 336)

Ông Quách Tòng Đức cho biết: “Chính ông Nhu có nhắc đến chuyện này trong vài phiên nhóm với tướng lãnh tại Bộ Quốc phòng và ngày 23.7.1963 tại suối Lồ Ồ khi nóí chuyện với các cán bộ xây dựng Ấp Chiến lược khóa 13”. (Lâm lễ Trinh trang 98) Ông Trần văn Đôn tìm hiểu và biết rõ nhân vật ông Nhu gặp trong rừng Tánh Linh chính là Phạm Hùng (Trần văn Đôn trang 183)

Thực ra vào năm 1963, Phạm Hùng là uỷ viên Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam, phó thủ tướng chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Do đó ông họat động tại miền Bắc. Trong khi ấy, người lãnh đạo Trung ương cục miền Nam là ông Nguyễn Văn Linh. Năm 1964 tướng Cộng sản Nguyễn Chí Thanh lên thay. Tháng 7 năm 1967, tướng Thanh trên đường về Bắc nhận chỉ thị tổng tấn công Mậu Thân bị bom chết dọc đường. Phía cộng sản đưa tin ông Thanh đột ngột qua đời ở Hà Nội do bị đau tim. Tháng 10 năm 1967, Phạm Hùng mới vào Nam thay thế tướng Thanh. Phạm Hùng thuộc phe cánh của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, chủ chiến không chấp nhận thương thuyết với miền Nam. Tin đồn Ngô đình Nhu gặp Phạm Hùng đã được cựu đại sứ William Colby ghi trong hồi ký của ông. Colby còn cẩn thận ghi thêm “Giai thoại này có thể là chuyện bịa” (xem Nguyễn Ngọc Giao)

Chiếu theo bản tóm lược về Mục tiêu cuả Hoa kỳ trong cuộc chiến tranh Việt Nam của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, tháng 9 năm 1963, nhiệm vụ của các nhân viên Hoa Kỳ là phải: ”… Ngụy tạo những tài liệu liên kết Nhu với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (Hà Nội) làm cho Nhu mất tín nhiệm với các tướng lãnh…” (Phạm Văn Lưu, trang 246) Ở thời điểm này, ông William Colby đang làm vụ trưởng Vụ Viễn Đông của Cơ Quan Tình Báo Hoa Kỳ (CIA). Câu chuyện biết đâu lại do chính Colby bịa rồi cho CIA tung ra trước ngày đảo chánh.

Sau hơn 35 năm, Cộng Đồng Người Việt Hải Ngọai vẫn không chấp nhận mọi liên lạc với nhà cầm quyền cộng sản. Người miền Nam lúc ấy so ra chỉ chưa đầy 9 năm thoát khỏi Việt Minh. Cá nhân ông Nhu lại xác nhận có liên lạc với cộng sản. Hiểu được như vậy mới thấy Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ quá sức thâm độc khi đề ra nhiệm vụ nói trên. Đây chính là ngòi nổ cho cuộc đảo chính 1/11/1963 và dẫn đến sự hy sinh của anh em ông Diệm.

Trở lại câu chuyện ở rừng Tánh Linh, không thấy ông Vỹ nhắc đến việc bảo vệ ở phía bên kia, như vậy chỉ có 3 người họp và 2 người bảo vệ vòng ngoài. Một cuộc họp như vậy chỉ có thể xảy ra khi hai bên cùng một phía và phải hết sức tin tưởng nhau. Như vậy có thể hai người được ông Nhu gặp là gián điệp Quốc gia về trực tiếp báo cáo tình hình với ông Nhu.

Chuyện đồn từ những người đi từ miền Bắc

Ông Trần Hùng Văn một nhà báo đi từ miền Bắc cho biết ông Nguyễn Tài, nguyên Thứ trưởng Bộ Công An Bắc Việt, được lệnh vào Nam để thu xếp cuộc gặp giữa hai ông Ngô đình Nhu và Phạm Hùng. (Vĩnh Phúc, trang 339-340) Nguyễn Tài sau khi vào Nam bị quân đội Quốc Gia bắt. Sau năm 1975 ông lại bị Lê Đức Thọ giam lỏng để điều tra.

Ông Tài có viết hồi ký cho biết Lê Đức Thọ đã từng nói thẳng với ông bị bắt sao không chịu chết đi. Xuyên suốt hồi ký hình như Nguyễn Tài vẫn thắc mắc không biết tại sao Lê Đức Thọ lại đối xử quá nghiệt với mình (một đồng chí trung kiên) như vậy. Câu trả lời có thể là chính Lê Đức Thọ tung tin Nguyễn Tài làm trung gian giữa hai ông Nhu và Phạm Hùng. Lê Đức Thọ không ngờ rằng ông Tài còn sống để cho chúng ta biết rằng ông đã được điều động vào Nam năm 1964. Khi ấy ông Nhu đã về đất Chúa.

Liên lạc để kêu gọi chiêu hồi

Tháng 4-1963, Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) ban hành chính sách Chiêu Hồi. Ông Nhu cũng nhiều lần xác nhận có liên lạc với Việt Cộng để thuyết phục họ mang quân về hàng. (Chính Đạo, trang 309)

Ông Nguyễn văn Chức, một nhân sỹ tại Canberra, đã kể cho người viết và rất nhiều đồng hương câu chuyện Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) đã có ý định xin hàng. Ông Chức trước đây ngoài làm cho Đài Gươm Thiêng Ái Quốc, ông còn dịch và thẩm định những tài liệu cuả cộng sản. Ông Chức cho biết sau Biến Cố Mậu Thân, trong một trận phục kích quân đội VNCH đã bắn chết 1 cán bộ, 2 giao liên và thâu được một tài liệu quan trọng. Theo tài liệu này một số cán bộ cao cấp của MTGPMN đã họp bàn với ý định mang toàn thể MTGPMN ra hàng. Nhiệm vụ của người cán bộ bị phục kích là mang tài liệu nói trên đến một số cán bộ cao cấp khác cũng có ý định ra hàng. Cơ quan tình báo Hoa Kỳ cho dịch tài liệu này ra Anh ngữ. Ông Chức được giao trách nhiệm thẩm định tài liệu. Ông Chức đã kết luận đây là một tài liệu thực, nhưng không biết Hoa kỳ có sử dụng tài liệu này hay không ?

Xem chủ trương cuả Hồ chí Minh về MTGPMN: “Mình phải đưa Mặt trận Dân tộc Giải Phóng ra. Phải chú ý đến bọn leo nheo, theo đóm ăn tàn …” (HCM, BNTS, tập 8, trang 368) Rồi mới thấy ông Nhu đã nhìn ra tổ chức này để đề ra chính sách Hồi Chánh. Đến năm 1974, sau 10 năm chính sách Hồi Chánh được ban hành, đã có trên 200.000 hồi chánh viên. Nhiều đơn vị cộng sản cấp đại đội, tiểu đoàn đã ra hồi chánh tập thể. Hồi Chánh là một chính sách nhân đạo và thành công nhất của chính quyền Quốc Gia, nhưng lại ít hay không được giới sử gia để ý tới.

Sau 1968, Bắc Việt đã công khai điều động chiến tranh xâm lược miền Nam. Năm 1975, họ cho quân chính quy trực tiếp vượt vĩ tuyến 17, đánh chiếm miền Nam, rồi vội vàng giải thể MTGPMN. Nhiều cán bộ MT cao cấp đã bị bắt, bị quản thúc hay phải trốn tránh ra hải ngoại. Hà Nội phải mang cả một guồng máy cầm quyền từ miền Bắc vào áp đặt lên miền Nam. Hy vọng tài liệu về MTGPMN xin hàng sẽ được tìm thấy trong núi hồ sơ cuả CIA để chúng ta hiểu rõ hơn về tổ chức này.

Hoa kỳ quyết định đảo chánh ngày 24-8-1963

Song song với việc bổ nhiệm Đại Sứ Henry Cabot Lodge, phe chủ chiến Hoa kỳ M - W. Averell Harriman, Roger Hilsman, Ball, Getsinger và V. Forrestal, đã đồng ký một công điện mang số 243 chỉ thị cho ông Lodge thực hiện cuộc đảo chánh lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. Đây là loại công điện tối mật cần hành động lập tức (top secret and operation immediate). Đô Đốc Harry Felt, Tư Lệnh Mỹ tại Thái Bình Dương, cũng đã góp ý kiến vaò việc soạn công điệp này. Công điện đã được đánh đi khẩn cấp vào tối thứ bảy 24-8-1993. Công điện ghi rõ: “Chính phủ Hoa Kỳ không thể để cho Nhu nắm quyền hành trong tay. Chúng ta sẽ cho Diệm cơ hội để tách rời ra khỏi Nhu và bè đảng của Nhu và thay vào đó bằng những nhân vật có khả năng trong giới quân nhân và chính trị có thể tìm được. Tuy nhiên, sau khi dùng mọi nỗ lực mà Diệm vẫn khước từ và đối kháng, chúng ta sẽ phải đối diện với một khả thể: chính ông Diệm cũng không thể nào được để tồn tại.” (Nguyễn kỳ Phong, hình công điện bìa sau sách)

Như vậy việc lật đổ Chính phủ Ngô đình Diệm đã được quyết định trước ngày Maneli gặp ông Nhu. Tất cả những tin đồn, tin chính thức, báo cáo chỉ được dựng lên hay thêm bớt nhằm thực hiện chỉ thị trên.

Tranh chấp giữa hai phe lãnh đạo Cộng sản Bắc Việt

Từ những năm đầu 1950, Trung Cộng đã trực tiếp chỉ đạo chiến tranh, chỉ đạo cuộc chỉnh huấn (một hình thức thanh trừng nội bộ) và cuộc cải cách ruộng đất. Mao Trạch Đông không hề che giấu ý đồ dùng Đông Dương làm bàn đạp và đảng Cộng sản Việt Nam làm công cụ để bành trướng phong trào Cộng sản xuống các nước Đông Nam Á. Do đó không lạ gì khi thành phần công khai thân Trung Cộng như Lê Duẩn (bí thư), Lê Đức Thọ (Tổ Chức Đảng), Trần Quốc Hoàn (Công An), Nguyễn chí Thanh (Quân Đội), … nắm đa số lãnh đạo miền Bắc. Phe thân Nga chỉ là thiểu số, họ lại còn bị mang tiếng là thiếu tích cực thống nhất đất nước, không cổ vũ việc “giải phóng” miền Nam .

Về mặt chìm phe thân Trung Cộng luôn luôn thắng thế, như Hội nghị lần thứ 15 cuả Trung Ương tháng 1-1959, bí mật ra quyết định điều động bộ đội miền Bắc chuyển vũ khí vào Nam, để tiến hành võ trang thống nhất đất nước. Hay Nghị Quyết 49/NQ/TVQH, được Quốc Hội Cộng Sản ban hành ngày 20-6-1961, cho phép bắt giam công dân 3 năm không cần thủ tục tố tụng. Chiếu theo Nghị Quyết này hàng trăm, cán bộ lãnh đạo thân Liên Sô sau này đã bị bắt giam không cần xét xử và nhiều người đã chết trong tù.

Qua báo Nhân Dân có thể thấy nhiều xung đột xảy ra công khai giữa hai phe nhóm kể trên. Qua những tài liệu có được, việc nghiên cứu quá trình xung đột giữa hai nhóm này sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về giai đọan lịch sử này.

Ngày 7-1-1959, trên báo Tin Tức (Liên Sô), Hồ chí Minh chính thức xác nhận bản chất đánh thuê của tập đoàn Cộng sản Bắc Việt, (tự ví là “bộ đội biên phòng”): “Như vậy là ở Đông Nam Châu Á, chúng tôi đã đứng ở tiền đồn của mặt trận dân chủ và hoà bình toàn thế giới chống lại chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh.” (HCMTT, tập 8, trang 258)

Tháng 11-1960, Hồ chí Minh tham dự “Đại Hội Mạc Tư Khoa”, đồng ý ký vào Tuyên Bố chung, đồng thuận với chiến lược thi đua hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau do Liên Sô đề xướng.

Ngày 2-10-1961, dự phiên họp Bộ Chính trị, Hồ chí Minh giải thích lý do theo Liên Sô như sau: ”… Miền Nam đối với Mỹ rất quan trọng. Trước nó nói “Bắc tiến”, nay nó nói “Nam trị”, nhưng vẫn không từ bỏ âm mưu Bắc Tiến. Nó sợ mình đánh nó. Địch quân sự mạnh nhưng chính trị yếu. Ta, chính trị mạnh nhưng quân sự yếu. Nếu lấy sức độ sức để tiêu hao thì không lợi. Ta không lấy đấm chọi đấm mà lấy mưu mẹo diệt nó, trừ bọn ác đi bảo vệ cơ sở, phong trào dân sẽ lên …” (HCM, BNTS, tập 8, trang 150) Chủ trương này được các phe nhóm trong đảng Lao Động chấp nhận cho đến khoảng đầu năm 1963.

Ngày 1-1-1962, trên báo Nhân Dân có đăng “Lời chúc tết đồng bào cả nước”, trong đó Hồ chí Minh nhận xét “… lực lượng xã hội chủ nghĩa hơn hẳn lực lượng đế quốc, lực lượng hoà bình hơn hẳn lực lượng chiến tranh.” Và công khai đề nghị: ”Chúng ta luôn luôn chủ trương rằng: Thống nhất Việt Nam là sự kiện thiêng liêng cuả toàn dân Việt Nam. Đại diện của hai miền có thể gặp nhau, cùng nhau bàn bạc, tìm con đường tốt nhất để hoà bình thống nhất Tổ quốc, trên cơ sở độc lập, dân chủ như Hiệp định Giơ-ne-vơ đã quy định.” (HCMTT, tập 9, trang 272)

Ngày 28-3-1962, để trả lời phóng viên báo “Tin Nhanh Hàng Ngày” ở Luân Đôn (bài này đã được đăng trên báo Nhân Dân), Hồ chí Minh khống thiết kêu gọi: “Chính phủ nước VNDCCH đã nhiều lần đề nghị với chính quyền miền Nam, hai bên phái đại diện gặp nhau để bàn bạc cách giải quyết theo phương pháp hòa bình, và vưà rồi, trong bản Tuyên Bố ngày 18-2-1962, chính phủ nước VNDCCH lại một lần nữa yêu cầu hai chủ tịch và các nước tham gia Hiệp nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương nghiên cứu gấp những biện pháp có hiệu qủa để chấm dứt cuộc vũ trang xâm lược của đế quốc Mỹ vào miền Nam Việt Nam, nhằm bảo vệ hòa bình cuả Đông Dương và Đông Nam Á. Việc miền Nam theo chế độ trung lập hay một chế độ nào khác là do nhân dân miền Nam quyết định … Chính phủ nước VNDCCH đã từng đề nghị (Công hàm ngày 22-12-1958) với chính quyền miền Nam bình thường hoá quan hệ giữa hai miền về mặt kinh tế và văn hóa, về việc đi lại và thư tín giữa hai miền, v.v…” (HCMTT, tập 9, trang 319-320)

Ngày 22-7-1962, trả lời phóng viên báo Tin Tức và Sự Thật Thanh Niên (Liên Sô) về đường lối và biện pháp Hồ tuyên bố: “Chúng tôi luôn luôn chủ trương thống nhất tổ quốc bằng đường lối hòa bình, luôn luôn đòi phải thực hiện đúng đắn Hiệp định Giơ-ne-vờ, đòi đế quốc Mỹ phải chấm dứt can thiệp vào chuyện nội bộ Việt Nam”. (HCM, BNTS, tập 8, trang 267)

Ngày 6-11-1962, kỷ niệm 45 năm Cách mạng tháng 10 Liên Sô, Hồ đã gởi điện tới Bí thư Đảng Cộng Sản Liên Sô trong đã nhấn mạnh: “Từ ngày thành lập Liên Sô luôn luôn thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình và kiên trì đấu tranh cho chính sách chung sống hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau.” (HCM, BNTS, tập 8, trang 317)

Ngày 22-1-1963, chủ tịch Novotny của Tiệp Khắc thăm Hà Nội. Ngày 26-1, Hồ chí Minh và Novotny đã ký một Tuyên Bố Chung phản ánh quan điểm của Liên Sô và ca ngợi chung sống hòa bình là “chính sách đúng đắn nhất”. Ngay sau khi Novotny về nước, xung đột giữa hai phe trong đảng Lao Động căng thẳng hơn.

Ngày 17-2-1963, trong một cuộc họp Bộ Chính Trị, Hồ chí Minh đã phải yêu cầu “đoàn kết nhất trí trong đảng” trước tình hình hiện nay. Về vấn đề trung lập, Hồ đã phải gỉai thích như sau: “Mỹ bối rối, mình đề xướng trung lập. Đó là thắng lợi của mình. Nói hai bên đình chiến, mình không đánh, đình chiến gì?” (HCM, BNTS, tập 8, trang 367)

Kết quả, Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm bị quy trách nhiệm vì đã soạn thảo Tuyên Bố Chung và bị thay bằng Xuân Thủy. Nguyễn văn Trấn cho biết Hồ chí Minh đã đọc và sửa lại bản nháp của bản Tuyên Bố nhưng làm ngơ, tránh trách nhiệm (NVT, trang 328). Đây là lần đầu Hồ chí Minh bán phe thân Liên Sô để nhập vào hàng ngũ thân Trung Cộng.

Nhờ đó mới dẫn đến thắng thế đầu tiên của phe chủ chiến chuẩn bị cho chuyến thăm Hà Nội vào tháng 5-1963 của Chủ tịch Trung Cộng, Lưu Thiếu Kỳ. Chuyến thăm này đưa Bắc Việt đứng hẳn về phía Trung Cộng, Hồ và Lưu Thiếu Kỳ ký một Tuyên Bố chung gọi “chủ nghĩa xét lại” và “cơ hội hữu khuynh” là đe dọa chính cho phong trào Cộng sản Quốc tế. Trong vòng chưa đầy 4 tháng, hai Tuyên Bố Chung phản ảnh hai quan điểm trái ngược, Hồ đã chuyển hẳn từ nhóm thân Nga sang nhóm thân Tàu.

Cần nhắc lại vào tháng 7, Maneli gặp Phạm văn Đồng và Xuân Thủy có cả sự hiện diện của Hồ chí Minh. Theo Hồi ký của Maneli, Hồ chỉ lắng nghe hai phía và không có ý kiến gì. Trong khi Maneli gặp ông Nhu thì Hồ chí Minh đang nghỉ mát tại Quảng Đông, Trung Quốc. Hồ họp riêng với Thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai và đã tuyên bố như sau: “Đừng nói là phải đánh 5 năm, 10 năm, dù có 20 năm, 30 năm, thậm chí 50 năm cũng phải đánh, đánh cho đến khi thắng lợi hoàn toàn!”. (HCM, BNTS, tập 8, trang 457) Câu tuyên bố trên chỉ nhái lại khẩu hiệu: “Đánh đế quốc, đánh, đánh, đánh, đánh cho đến thắng lợi” do Mao Trạch Đông đề ra, nhằm biểu lộ chủ trương hiếu chiến và lòng trung thành cuả Hồ với Mao.

Cùng lúc ấy, một bài báo của Lê Đức Thọ, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, được in trên báo Nhân Dân. Trong bài, nói một số đảng viên bị ảnh hưởng của “chủ nghĩa xét lại” và vì thế nghi ngờ chiến lược thống nhất đất nước của đảng. Bài báo là một bước trong sự chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ 9 tiến hành vào tháng 11 cùng năm.

Ngày 20-10-1963, Hồ chí Minh tiếp đoàn Đại biểu viện kiểm soát tối cao Liên Sô do ông R.A.Rutencô làm trưởng đoàn. Hồ tuyên bố: “Để hoà bình giải quyết vấn đề miền Nam Việt Nam hiện nay, chỉ có một cách là: Đế quốc Mỹ phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, vấn đề miền Nam Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam tự gỉai quyết lấy, như hiệp định Giơnevơ đã quy định”. (HCM, BNTS, trang 471) Tuyên bố này được đăng báo Nhân Dân 24-10-1993, như vậy Hồ đã chính thức từ bỏ chủ trương chung sống hoà bình cuả Liên Sô.

Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 9, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đã phê phán chủ trương chung sống hòa bình và hội nghị kết thúc với nghị quyết đẩy mạnh công cuộc đấu tranh bằng vũ lực ở miền Nam.

Bùi Công Trừng đã kể lại cho Nguyễn văn Trấn như sau: “Cái thằng Lê Đức Thọ trước giờ họp, nó đi đi, lại lại trong phòng, như thể đội trưởng một tổ pháo đi kiểm tra đốc thúc pháo binh chuẩn bị … Tao đếm lão Hồ, đưa tay mấy lần, lần nào thằng Thọ cũng kịp ngăn: ‘Bác hãy để cho anh em nói mà ...” (NVT, trang 328) Phe thân Liên Sô chưa biết họ đã bị Hồ chí Minh bán sống nên Lê Đức Thọ mới dám lộng quyền như trên.

Sau Hội nghị Trung Ương lần thứ 9, nhóm Lê Duẩn tăng cường phê phán “chủ nghĩa xét lại hiện đại” (ám chỉ chủ trương thi đua hòa bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau, mà Liên Sô, Khrushchev, cổ vũ). Trong loạt bài “Tăng cường mặt trận tư tưởng để củng cố Đảng” của Lê Đức Thọ, được đăng trên báo Nhân Dân, đã thừa nhận một thiểu số trong đảng không đi theo đường lối đã ra. Mặc dù bài báo không nêu tên cụ thể, nhưng theo các quan sát viên, sự ám chỉ nhắm đến những người như Bùi Công Trừng, Dương Bạch Mai, Lê Liêm, Ung Văn Khiêm … những người đã phát biểu phản đối nhóm của ông Lê Duẩn – Lê Đức Thọ trong Hội nghị 9. Lê Đức Thọ cũng loan báo các đảng viên sẽ phải dự các lớp học tập và chỉnh huấn để thấm nhuần nghị quyết của Hội nghị Trung Ương 9.

Tại hội trường Ba Đình, tháng 1-1964, trước các cán bộ cao và trung cấp học tập nghị quyết 9, Trường Chinh tuyên bố: “Đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng ta và Nhà nước ta là thống nhất về cơ bản với đường lối đối ngoại và đối nội của Đảng Cộng Sản và nhà nước Trung Quốc.” (Nguyễn minh Cần, trang 129)

Chiến lược kinh tế của Liên Sô cũng hoàn toàn thất bại ở miền Bắc Việt Nam. Qua tuyên truyền trên báo chí, miền Bắc luôn luôn đạt kế hoạch đảng giao. Qua biên bản Hội Nghị Bộ Chính Trị và qua lời Hồ chí Minh thực tế khác xa: “Từ ngày hòa bình lập lại năm nào cũng thấy có thuận lợi, có khó khăn và năm nào cũng không đạt kế hoạch. Tình hình mỗi ngày một căng thẳng. Ta phải tính cách nào, nếu cần có thể phải giảm bớt một phần xây dựng để giải quyết vấn đề ăn và mặc cho quần chúng được tốt hơn nữa, đừng để cho tình hình đời sống căng thẳng quá.” (HCMBNTS, tập 8, trang 272) Sau 1975, sự nghèo đói cả tinh thần lẫn vật chất được giải thích là để miền Bắc tập trung giải phóng miền Nam . Chẳng qua chiến tranh chỉ là cái cớ để đảng Cộng sản che dấu thất bại về xây dựng kinh tế.

Trở lại chuyện cành đào

Ông Cao Xuân Vỹ cũng nhớ là vào tết nguyên đán năm 1963, Hồ chí Minh đã nhờ Đại sứ Ấn Độ trong Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Ðình Chiến chuyển tết ông Diệm một cành đào. Tổng thống Ngô đình Diệm chỉ biết khi món quà xuân đã về đến Dinh Độc Lập. Ông Diệm cho lệnh mở ra thấy có cành đào, một tấm thiệp chúc tết đề đại khái “Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà kính tặng, chúc tết Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà” và một lá thơ ông Hồ gởi cho ông Diệm. (Vĩnh Phúc, trang 336)

Trên báo Con Ong Tỵ Nạn tại Paris, vào năm 1981, có phổ biến “Bức chúc thư của Hồ chí Minh” trong đó có đoạn: “Đầu năm 1963, hồi đó tôi còn chưa bị bọn quanh tôi bao vây chặt chẽ quá, tôi có nhờ mấy nhân viên Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Ðình Chiến chuyển vào Nam bộ hai cành đào lớn rất đẹp để tặng cụ Ngô đình Diệm, kèm theo một bức thư, trong thư đó, tôi có chân tình yêu cầu cụ Ngô cùng tôi thảo luận trong tình anh em, để hai bên cùng lo cho dân chúng hai miền, trên căn bản thi đua làm cho dân giàu, nước mạnh, theo đường lối riêng của từng người. Truyện này lộ ra, làm cụ Ngô bị giết trong Nam”. Rất nhiều người tin đây là chúc thư thật với thủ bút cuả Hồ chí Minh. Bài viết này không đánh giá bức chúc thư là thật hay giả. Nhân vật Hồ chí Minh đã tự viết sách tự ca ngợi là cha già dân tộc thì còn việc gì không dám làm. Nếu là thật, Hồ chí Minh nên dành nỗi thương tiếc “cụ Ngô” cho hằng trăm “đồng chí” tin Hồ và thân Liên Sô đã bị Hồ bỏ rơi chết trong tù hay trong đọa đày lao khổ.

Kết

Qua bài có thể thấy câu chuyện hai ông Diệm và Nhu muốn thương lượng với miền Bắc chỉ là một thế cờ (dọa Mỹ) tính sai nước. Người Mỹ đã phản phé nước cờ một cách tàn nhẫn lấy lý do trên.

Ngược lại trong cuộc hội thảo do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tổ chức vào cuối tháng 9/2010 vừa qua, cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger lần đầu tiên thú nhận “... Hoa Kỳ thất bại ở Việt Nam là do chính người Mỹ làm ra,... Nước Mỹ muốn thỏa hiệp, Hà Nội muốn chiến thắng”. Người Mỹ đổ quân vào Việt Nam sau khi ông Diệm đã chết cũng chỉ muốn thảo hiệp trong thế mạnh nào ngờ đã sa lầy tại Việt Nam .

Trong khi đó, Hồ chí Minh và đảng cộng sản công khai chấp nhận làm “tiền đồn” đánh thuê cho phe cộng sản và xung đột để chọn giữa hai ông chủ Liên Sô và Trung Cộng. Cả hai phe đều chủ trương thống nhất Việt Nam. Phe Liên Sô, muốn dùng giải pháp chính trị thương lượng với miền Nam . Nếu bắt tay được với miền Nam là một thắng lợi lớn của phe này. Phe Trung Quốc thì chủ trương đánh để giải phóng miền Nam và thực hiện chiến lược bành trướng phong trào Cộng sản xuống các nước Đông Nam Á.

Cuối bàn xin dùng một hình ảnh dễ nhớ làm kết luận. Ở miền Nam , anh em ông Ngô Đình Diệm bị người Mỹ trói tay chỉ biết la làng. Từ miền Bắc, Hồ chí Minh một tay đưa tặng cành đào, tay khác dấu đằng sau con dao nhọn. Lê Duẩn và Lê Đức Thọ thì đằng đằng sát khí “cầm gươm ôm súng xông tới” vượt sang miền Nam. Ông chủ Liên Sô, Khruschev, buồn rầu không biết sao giúp đàn em. Ông chủ Trung Cộng, Mao trạch Đông cười toe toét miệng la lớn “hẩu hẩu” khen thưởng đàn em. Hình ảnh trên cũng bộc lộ toàn bộ cuộc chiến Bắc – Nam 1954-75.

Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
30/10/2010

Tài Liệu Tham Khảo và Trích Dẫn:

Chánh Đạo, 2004, Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, Văn Hoá, Houston, Hoa Kỳ.

Hồ Chí Minh Biên Niên Tiểu Sử, 1996, Tập 8, Đặng Xuân Kỳ chủ biên, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.

Hồ Chí Minh Toàn Tập, 1989, Tập 8 và Tập 9, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội.

Gnoinska K. Magaret, 2005, Poland and Vietnam , 1963: New Evidence on Secret Communist Diplomacy and the “Maneli Affair”, Working Paper No 45, Cold War International History Project, Woodrow Wilson International Center for Scholar.

Lâm Lệ Trinh, 2006, Về Nguồn Sinh Lộ Cho Quê Hương, Thủy Hoa Trang , California , Hoa Kỳ.

Mieczyslaw Maneli, War of the Vanquished, translated from the Polish by Maria de Gorgey, Harper & Row, New York , 1971.

Nguyễn Ngọc Giao, 1963 : Tìm hiểu cuộc “ đi đêm ”giữa Sài Gòn và Hà Nội, Diễn Đàn số 131 tháng 7.2003.

Nguyễn minh Cần, 2001, Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Quốc Tế Cộng Sản, Tuổi Xanh xuất bản.
Nguyễn Tài, Khúc khuỷu đường đời - Mười một năm liên tục đấu tranh để sự thật và lẽ phải được thừa nhận, talawas

Nguyễn Kỳ Phong, 2006, Vũng Lầy Bạch Ốc: Người Mỹ và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tủ Sách Tiếng Quê Hương, Virginia, Hoa Kỳ.

Nguyễn văn Trấn, 1995, Viết Cho Mẹ Việt Nam, Văn Nghệ, Hoa Kỳ.

Phạm Văn Lưu, 1994, Biến Cố Chính Trị Việt Nam Hiện Đại: Ngô Đình Diệm và Bang Giao Việt Mỹ 1945-1963, Centre for Vietnamse Studies.

Vĩnh Phúc, 1998, Những Huyền Thoaị và Sự Thật về Chế Độ Ngô Đình Diệm, Văn nghệ, California, Hoa Kỳ.

Vũ Ngự Chiêu, Tướng Dương Văn Minh và Đệ Nhất Cộng Hoà , Diễn Đàn số 127 tháng 3.2003.