Saturday, October 16, 2010

Diễn văn đọc tại buổi Tâm Đảm của Đảng Vì Dân 16-10-2010 tại Đền Thờ Quốc Tổ Victoria, Úc châu

Nguyễn Thế Phong
    Kính thưa:

    - Ô. Nguyễn Văn Bon, Chủ tịch CĐNVTD-Victoria
    - Ô. Nguyễn Công Bằng, Đại diện cho Đảng Vì Dân tại hải ngoại
    - Ô. Trần Đông, Trưởng ban tổ chức
    - Ô. Hương Nam , Đại diện Đảng Vì Dân tại Úc châu
    - Quý vị đại diện các hội đoàn đoàn thể
    - Quý đồng hương
Lời đầu tiên, chúng tôi xin được cám ơn BTC đã có nhã ý mời chúng tôi tham dự vào buổi Tâm Đàm ngày hôm nay của đảng Vì Dân với đồng hương tại Victoria. Thứ đến chúng tôi xin chào đón phái đoàn công du Úc Châu của đảng Vì Dân do ông Nguyễn Công Bằng dẫn đầu. Kính chúc ông và phái đoàn đạt được nhiều kết quả trong chuyến viếng thăm Úc Châu lần này.

Chúng tôi xin một lần nữa khẳng định rằng, lập trường của cá nhân chúng tôi cũng như của BCH-CĐNVTD-UC là luôn luôn tham dự, khuyến khích và hỗ trợ cho mọi sinh hoạt chánh trị và dân chủ của mọi cá nhân, hội đoàn, đoàn thể hay tổ chức tại hải ngoại để bàn về các phương thức chống Cộng, tranh đấu cho dân chủ, nhân quyền độc lập và tự do cho toàn dân VN. Tuy nhiên, điều này hoàn toàn không có nghĩa là CĐNVTD-UC nhất thiết đồng ý hay ủng hộ những đường lối, quan điểm hay cung cách sinh hoạt chánh trị riêng của cá nhân, đảng phái hay tổ chức ấy.

Trong tinh thần đó, cá nhân chúng tôi, thay mặt cộng đồng, xin được chào đón phái đoàn của đảng Vì Dân và nhân dịp được tham dự buổi tâm đàm của một đảng phái chánh trị với đồng bào hôm nay để xin chia sẻ một vài suy nghỉ nhỏ bé của riêng tôi trong bài diễn văn này liên quan đến một vấn đề hệ trọng trong nỗ lực cứu nước cứu dân hiện nay của người Việt hải ngoại cũng như trong nước, đó là: tình trạng khủng hoảng niềm tin của đồng bào đối với các đảng phái đấu tranh chống Cộng và sự khai thác, tấn công, gây chia rẽ, hoang mang, nghi kỵ và nản lòng một cách triệt để của CSVN trong quần chúng quốc nội và đồng bào tại hải ngoại về các sinh hoạt đảng phái hiện nay. Vì đối với CSVN, việc làm tê liệt và vô hiệu hoá được tiềm năng sinh hoạt chánh trị có tổ chức và quy cũ của đồng bào và cộng đồng chúng ta qua hình thức đảng phái sẽ vô cùng có lợi cho chế độ và tình trạng độc đảng độc tôn và độc tài tại VN hiện nay. Mục đích chính của chiến lược này là làm gây ra được tình trạng: đảng phái nào người Việt trong và ngoại nước cũng nghĩ là bị CS lợi dụng, do CS lập ra, có ăn chia với CS, là ngoại vi của CS, thậm chí chính là CS. Nói một cách khác, chúng biến mọi người thành ma, thành quỷ, thành hôi thối giống như chúng cã để không còn ai biết đường nào mà phân biệt và đi đến tình trạng buông xuôi, bỏ ngõ và chán chường.

Nhưng trước khi tiếp tục, chúng tôi mạn phép xin quý vị cho phép chúng tôi được kính mời quý vị cùng nghe một bài hát mang tựa đề “Yêu Ai Cứ Bảo Là Yêu” do nhạc sĩ Phan Văn Hưng sáng tác và trình bày dựa trên bài thơ của nhà thi sĩ đối kháng Phùng Quán, người đã bị nhà nước CSVN bỏ tù, đày đọa tước hết mọi quyền lợi công dân chỉ vì ông dám lên tiếng cho sự thật. Chúng tôi xin dâng tặng bài ca này cho các nhà tranh đấu dân chủ và mọi ngưòi dân Việt trong nước đã và đang phải bị bắt bớ vì họ dám hy sinh sống thật và nói thật chứ không chiụ khuất phục trước những áp lực, đe doạ, khủng bố, tù đày và đàn áp triền miên của bạo quyền phản quốc CSVN. (xin vui lòng mở nhạc giùm)

Kính thưa ông Nguyễn Công Bằng cùng toàn thể quý vị,

Hôm nay đây, chúng ta cùng nhau hội tụ nơi đây, trong ngôi Đền Thờ Quốc Tổ thiêng liêng này, trước bàn thờ của Quốc Tổ và anh linh của các bậc tiền nhân và lịch sử gần 5000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc VN để tâm đàm tìm cách cứu dân, cứu nước với một đảng phái mới thành lập cách đây 6 năm mang tên là “Vì Dân”. Một cái tên thật mộc mạc, đơn giản nhưng thâm thuý và mang nhiều ý nghĩa trọng đại kèm theo với những đòi hỏi to lớn đối với những ai xử dụng hai danh xưng này.

“Vì Dân” hay tiếng Anh là “For the People Party” là một chữ lớn và rất ư là “đòi hỏi” (‘demanding’) vì khi chọn hai chữ “Vì Dân” làm đảng danh, tôi hy vọng và nghĩ rằng, những thành viên sáng lập cũng như hiện hữu của đảng “Vì Dân” biết rằng họ đã tự mang cho mình một trách nhiệm và một lý tưởng vô cùng nặng nề, khó khăn và cao thượng vì:
    * Đã “VÌ DÂN” thì không thể “VÌ ĐẢNG” đuợc nữa. Nhu cầu của đảng phải nằm dưới nhu cầu của DÂN và của DÂN TỘC.

    * Đã “VÌ DÂN” thì không thể “VÌ MÌNH” được nữa. Tư lợi và quyền lợi của những thành viên của đảng phải tuyệt đối gạt bỏ để trở thành “VÌ NƯỚC QUÊN MÌNH”

    * Đã là “VÌ DÂN” thì không thể “VÌ QUYỀN LỢI RIÊNG TƯ hay ĐẢNG PHÁI” được nữa mà phải vì dân để đặt QUYỀN LỢI của TỔ QUỐC và QUỐC GIA lên trên hết. Nếu cần phải hy sinh hay chiụ thiệt thòi làm gạch lót đường thì Đảng Vì Dân cũng phải sẵn sàng làm hay đóng vai trò đó.

    * Đã là “VÌ DÂN” thì phải sẵn sàng “VỊ QUỐC VONG THÂN” khi TỔ QUỐC và QUỐC DÂN lâm nguy, kêu cứu chứ không vì sợ chết hay bị tận diệt cho đảng của mình để mà đầu hàng, nhân nhượng, điều đình với kẻ thù hầu bảo an hay bảo tồn đời sống cho cá nhân hay đoàn thể của mình.

    * Đã là “VÌ DÂN” thì phải “VÌ VIỆC CHUNG” mà làm. Trong nước thì lo cho nhu cầu dân chủ, tự do và độc lập của TOÀN DÂN, ở hải ngoại thì phải lo và đóng góp cụ thể cho sự vững mạnh, đoàn kết và sự trường tồn của CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT QUỐC GIA như là bổn phận của đảng chứ không thể đứng bên lề coi chuyện của Cộng Đồng không phải là chuyện của tổ chức mình.

    * Đã là “VÌ DÂN” thì phải “THẬT VỚI DÂN” không lợi dụng, mỵ dân như CS đã và đang làm. Thành thật, trong sáng, có nói có, không nói không, không khoe trương khoác lác, hình thức rình rang bề ngoài, đóng kịch, mạo danh, tiếm danh và làm mất đi lòng tin cậy của dân chúng.

    * Đã là “VÌ DÂN” thì phải “THẬT SỰ DÂN CHỦ” từ thượng tầng cho đến hạ tầng, đường lối, chủ trương, sinh hoạt phải được thi hành trong tinh thần tương kính, nhẫn nại, trân trọng và lắng nghe ý kiến xây dựng, đặc biệt là tiếng nói của đồng bào là người dân.

    * Đã là “VÌ DÂN” thì phải tuyệt đối không “PHẢN DÂN, HẠI NƯỚC” hay vì quyền lợi của đảng mà phản dân, bắt tay, hoà hợp, hoà giải với kẻ thù của DÂN TỘC và ĐẤT NƯỚC v.v…và v.v…
Kính thưa quý vị, tại sao những yếu tố này lại quan trọng trong bối cảnh của đất nước và tình hình sinh hoạt chánh trị của người Việt hải ngoại nói chung chứ không riêng gì đảng Vì Dân hiện nay? Xin thưa là vì dân chúng và đồng bào trong cũng như ngoài nước đã quá ngán ngẫm và đau khổ trước những cảnh tượng và hành vi vì địa vị, quyền hành và vì đảng để mà bán nước, hại dân “thà mất nước chứ không mất đảng” của CSVN, nên hai chữ VÌ DÂN và VÌ NƯỚC cần phải được dùng và sống bởi tất cả những ai đang chọn nó một cách cực kỳ đúng nghĩa để không đắc tội với DÂN TỘC và ĐỒNG BÀO trong cũng như ngoài nước và đặc biệt là với các thế hệ con cháu mai hậu và với lịch sử.

Rất tiếc thay, vì trải qua nhiều kinh nghiệm đau thương và thất vọng bởi những hành vi lường gạt, khoa trương, dối trá và không thành thật trước đây của một số cá nhân, hội đoàn và tổ chức chánh trị tại hải ngoại và trong nước, một số đông đồng bào đã chọn một thái độ chết người, một thái độ vô cùng bất lợi và nguy hại cho tiền đồ của đất nước và vô cùng có lợi cho bạo quyền cộng sản VN đó là: họ cho rằng ai làm chánh trị cũng đều thủ đoạn, đều lừa dối và đều lợi dụng nên ai có lên làm thì cũng như vậy mà thôi, thay đổi làm gì. Tệ hơn nữa và đi xa hơn nữa là một số người còn mắc phải căn bịnh “ám ảnh” đi đâu, gặp ai và nhìn ai họ cũng thấy, nghĩ và nghi rằng người ấy hay tổ chức ấy đã bị CS xâm nhập hay dựng nên để rồi quyết định không tin ai cả và cũng không tham gia hay làm một điều gì cả vì họ sợ sẽ bị CS lợi dụng hay làm lợi cho CS. Điều này là điều CS đã và đang khai thác, lợi dụng và khuyến khích người Việt tỵ nạn và các tổ chức trong cộng đồng ngưòi Việt tỵ nạn nghĩ và làm như thế một cách tối đa. Đó là: “Đừng tin ai hết và không nên làm gì cả hay tham gia với ai cả vì người đó hay tổ chức đó có thể là CS”

Nghị Quyết 36 và trọng tâm của những chiến lược CSVN đã và đang dùng để làm tê liệt và vô hiệu hoá sự đoàn kết và sức mạnh của cộng đồng người Việt hải ngoại là ở điểm này. Vì thế, chúng ta cần phải đi đến những suy nghĩ và hành động đúng đắn và rõ rệt về bạn và thù hầu bảo vệ được chiến tuyến của chúng ta và chống lại một cách hữu hiệu dã tâm này của kẻ thù phản quốc CSVN.

Vì thế chỉ còn trông mong vào Cộng Đồng để thấy được một đường hướng, một quan điểm chung và một lời cố vấn nào đó hầu có thể giải quyết được phần nào vấn đề then chốt này. Đặc biệt là ngày nay, đảng CSVN và tay sai của chúng đã dốc toàn lực, thường xuyên và bỏ hết thời giờ ra (hàng giờ, hàng phút và hằng giây) để bôi bẩn, đánh phá, mạ lỵ, xuyên tạc, bịa đặt một cách tối đa không chừa một thứ ngôn từ nào trên hệ thống e-mail và paltalk để “maximize” tạo tối đa những ngộ nhận , nghi kỵ, ganh ghét và chia rẽ trong hàng ngũ người Việt chống Cộng với nhau. Hễ càng chống Cộng bao nhiêu, hễ càng có uy tín bao nhiêu thì càng bị đánh và bôi bẩn bấy nhiêu. Điều này có tác dụng nhãn tiền là: một phần nào đó nó đã làm tê liệt được một cơ thể vốn vẫn lành lặn và mạnh khỏe nhưng vì tâm thần của cơ thể ấy bị nhập tâm là toàn bộ cơ thể đã bị virus CS xâm nhập làm hư hết rồi, không nên tin hay làm gì cả với các chi thể ấy, nếu xử dụng chúng virus sẽ lây lan thêm ra. Kết quả là, thân xác lành mạnh ấy dừng lại, tê liệt và án binh bất động.

Nói một cách khác mối đe dọa lớn nhất cho tương lai và cuộc tranh đấu giải trừ quốc nạn của dân tộc VN hiện nay vẫn là sự khủng hoảng niềm tin tại hải ngoại mà CSVN đã và đang khai thác một cách tối đa để làm nản lòng mọi người dân trong cũng như ngoài nước, vì nếu chúng ta đã không tin nhau được nữa thì sẽ chẳng bao giờ có thể kết hợp được như thế CS sẽ “bất chiến tự nhiên thành”.

Đứng trước tình trạng này, cộng đồng tỵ nạn và cá nhân của chúng ta phải làm như thế nào và câu trả lời nằm ở đâu? Chúng tôi thiển nghỉ, cá nhân mỗi một người trong chúng ta cần hiểu và làm được một số việc như sau:
    1. Xác định rỏ là trong thực tế CSVN không tài thần hay có ảnh hưởng toàn diện, dễ dàng và to lớn như chúng huyênh hoang hay như tay sai của họ đã và đang rỉ tai, tuyên truyền. Tuyệt đại đa số ngưòi Việt tỵ nạn CS và các tổ chức, đảng phái chống Cộng vẫn là những người chống Cộng thật, không hề thoả hiệp hay theo CS để mỵ dân. Không nên tưởng tượng quá đáng khả năng và sức mạnh lôi kéo của CSVN.

    2. Không để cho những quan ngại về CS xâm nhập hay cài người làm cho chúng ta có thái độ “vơ đũa cả nắm” thấy và nhìn mọi sự với quan niệm: “you are a communist or a communist sympathiser until proven otherwise”. “Tôi coi anh là cộng sản cho đến khi anh chứng minh được rằng anh không là CS”. Ngược lại phải tham dự và chính mình tìm hiểu những sinh hoạt chống Cộng của những cá nhân hay đoàn thể này ra sao và tự mình phán xét, thẩm định trên tư cách, đường hướng và những sinh hoạt của họ với tất cả sự vô tư, công bằng và không để những ác cảm hay thành kiến của mình hay của người khác ảnh hưởng trên sự xét đoán độc lập của mình.

    3. Dùng chữ TÂM, chữ ĐỨC và chữ CHÁNH làm tiêu chuẩn chính để đánh giá và thẩm định giá trị và tư cách của cá nhân hay người lãnh đạo của một tổ chức. Theo tôi, càng muốn làm CHÁNH TRỊ (chánh= đúng ; trị= làm, chỉnh lại) thì cá nhân và đoàn thể ấy càng phải có CHÁNH TÂM và có ĐẠO ĐỨC thật sự chứ không phải GIAN NGOA, xử dụng XẢO THUẬT hay NGUỴ BIỆN. “Nếu Tâm đầy tràn Phật tánh thì hành động như Phật, còn Tâm bị Tà Ma chiếm ngự thì hành động sẽ y như Ma”. Người làm chánh trị và các tổ chức chánh trị tại hải ngoại phải xét lại và đặt lại ưu tiên của đoàn thể mình về nhân sự cũng như tư cách hành xử của tổ chức mình. Mọi việc phải dựa trên căn bản thành tâm và thành thật. Không thêu dệt, đánh bóng hình thức bên ngoài, không xử dụng tiểu xảo, đặt cái lợi nhỏ trước mắt của đảng hay cá nhân mình để làm mất đi NIỀM TIN, cái lợi lớn, lợi chung và lợi lâu dài của toàn thể dân tộc. Tuyệt đối không dùng THỦ ĐOẠN hay đối với đồng bào và các hội đoàn đoàn thể và tổ chức cùng chiến tuyến chống cộng với mình.

    4. Không nên quá lo lắng vì có quá nhiều đảng phái tại hải ngoại hay trong nước, chỉ có CS độc tài, độc đảng mới sợ đa dảng và đa nguyên. Hiện nay, đảng CSVN chỉ muốn một mình một chợ. Chỉ có họ mới có quyền bán và buộc toàn dân VN phải mua bất kỳ những gì họ bán dù đó là thịt thúi hay cá ươn. Chính vì thế mà chúng ta và toàn dân VN đã và đang đòi hỏi đa đảng và đa nguyên cho VN để cho người đi chợ có quyền chọn lựa. Trong thể chế dân chủ thật sự, ai cũng có quyền bán, và ai cũng có quyền mua hay không mua, những người bán hàng, ai cũng sẽ cố bán cho chúng ta những món hàng của họ và đương nhiên họ cũng sẽ phải nói tốt về tư cách của họ và phẩm chất của món hàng mà họ muốn bán. Mua hay không mua vẫn là quyền của chúng ta. Chúng ta có thể bị hớ một vài lần. Nhưng đó là việc phải có khi đi mua hay chọn hàng. Chúng ta phải thận trọng, sáng suốt, từ tốn, rút tỉa kinh nghiệm và khôn ngoan hơn và dần dần chúng ta cũng sẽ biết được ai là người bán hàng thành thật, bán hàng tốt và không nói thách. Những người bán hàng thành thật như thế sẽ từ từ chinh phục những người đi chợ và người đi chợ sẽ dần dần tụ lại với người ấy, mặc dù mới ban đầu gian hàng của người có Tâm tốt ấy có thể không đưọc đẹp, đuợc to, ồn ào hay sôi nổi, đông người tới như những cửa tiệm có nhiều tiền, có nhiều nhân viên và có cơ ngơi rộng lớn khác trong chợ. Nên nhớ rằng, những cửa hàng dù lớn, nhưng một khi đã bị người đi chợ khám phá ra là dối trá, hàng không thật “treo đầu dê, bán thịt chó” thì những người bán hàng ấy cũng sẽ phải bị đào thải về lâu về dài. Chỉ cần có dân chủ và tự do cho cả chợ thì dù cho gian hà ng của CS có là cái siêu thị đi nữa, nhưng thịt thúi cá ương thì người đi chợ cũng sẽ thà đứng xếp hàng trước một cái sạp bán cá thịt tươi để mua hơn là vào siêu thị. Đồng bào và chúng ta không đơn sơ hay ngây thơ như những cá nhân hay những đảng phái này nghĩ. Vì dẫu cho họ có thu hút được đông người hay giới trẻ nhẹ dạ đi theo vào lúc ban đầu đi nữa, nhưng nếu tâm và đức không có hay không thật thì chẳng chóng thì chày, đồng bào hoặc giới trẻ cũng sẽ thấy được sự thật về đức độ của tổ chức hay người lãnh đạo đó để rồi xa lánh.
Tuy nhiên, ba điều chúng ta cần lưu ý ở đây là:
    1. Sanh hoạt chánh trị đối đầu với CSVN rất hệ trọng, không giống như đi mua hàng, hay hậu quả không giống như mua hàng bị hớ. Tôi chỉ dùng hình ảnh này để cho chúng ta dễ thấy vấn đề hơn mà thôi. Người đi làm cách mạng, tranh đấu chỉ cần bị lừa một lần cũng đủ bị mất mạng, tù đày và sự dối trá ấy đủ giết chết niềm tin của hàng vạn con người và của cả dân tộc. Vì thế, chúng ta không thể VÔ TÌNH, QUÁ CẢ TIN hay MÙ QUÁNG đi theo người này hay tổ chức nọ mà không cần biết hay cân nhắc những chủ trương hay việc gì họ đã và đang làm để xem những chủ trương, lập trường, đường hướng hay kế hoạch ấy có làm hại, có “tri hành bất nhất” hay có tạo bất lợi, đi ngược lại công cuộc chống Cộng giải trừ Quốc Nạn của toàn dân hay không. Với tư cách là người mua, chúng ta không nên tin ngay những gì người bán viết trên bảng quảng cáo. Nếu họ viết rằng “cam ngọt” chúng ta không nên tin ngay bằng cách mua liền cả ký lô, nhưng nên chỉ mua một hai trái để thử xem người bán có thật thà hay không. Nói một cách khác là chúng ta phải chính mình mua thử, nếm thử, đến tham dự để tìm hiểu xem người này đảng nọ nói gì, đường hướng ra sao, một cách công bằng và công tâm. Tuyệt đối không nên ngồi nhà hay chỉ nghe người khác nói để mà phê phán. Có thế mới biết cam có ngọt thật sự v à người bán có “treo đầu dê bán thịt chó” hay không. Tôi thiết nghĩ chúng ta sau đó còn cần có thời gian để “xem trái để mà biết cây” cẩn thận chờ xem và dành thời gian tìm hiểu thấu đáo một cách trực tiếp với những tổ chức này trước khi ủng hộ một cách chừng mực và sáng suốt.

    2. Chúng ta cũng không thể vì sợ bị lừa ở chợ mà không đi chợ để mua đồ ăn được. Tương tự như thế, chúng ta cũng không thể vì sợ CS trà trộn vào các đảng phái để rồi không sinh hoạt hay tham dự những sinh hoạt chánh trị của các đoàn thể hay tổ chức chống Cộng được. Điều quan trọng ở đây là chúng ta phải sáng suốt, đởm lược và khôn ngoan để rời bỏ, ngưng hợp tác với những cá nhân hay tổ chức không chân thật đó và vẫn tiếp tục tham gia vào những tổ chức hay sinh hoạt chánh trị khác và nhất quyết không để mình có thái độ “vơ đũa cả nắm”. Chúng ta không thể vì đã bị một gian hàng nào đó trong chợ lừa để rồi kết luận rằng mọi gian hàng trong chợ đều là những người không thật tâm cã. Phải làm sao để việc chúng ta không mua hàng của một cửa hàng nào trong chợ không tạo cớ cho CS lợi dụng xúi dục chúng ta không đi chợ hay tẩy chay toàn bộ khu chợ.

    3. Cuối cùng, chúng ta không nên quá bận tâm về những gian hàng (đảng phái chánh trị) không thật và không tốt. Trong sinh hoạt dân chủ, chính sự dối trá và thủ đoạn sẽ bị dân chúng xa lánh và khiến họ phải từ từ dẹp tiệm, hay có đó nhưng bán không ai mua nữa. Trong sinh hoạt dân chủ, chúng ta không có quyền bắt ai phải đóng cửa cả và đó cũng không phải là quyền của chúng ta hay của một chánh quyền dân chủ thật sự. Chúng ta chỉ có quyền không mua và chia sẻ với người khác kinh nghiệm bị lừa của chúng ta để họ không dùng cửa hàng ấy nữa là cũng đủ cho họ phải bị đào thải. Trong tinh thần đó, chúng ta chỉ giữ lịch sự và không mua hàng chứ không nên đánh phá gian hàng của ai cả trong chợ. Ngoại trừ chúng ta có chứng cớ rõ ràng rằng gian hàng ấy là của CS hay làm lợi cho CS một mình một chợ muôn đời thống trị đất nước thì chúng ta triệt để phải chống đối như chúng ta đã và đang chống một cách quyết liệt, không nhân nhượng hiện nay. Cộng sản luôn khích động để chúng ta phải bỏ giờ và sức lực quý hiếm ra để đánh phá và đòi dẹp những gian hàng hay người bán hàng xấu. Nhưng đó không phải là bổn phận của người mua. Chúng ta chỉ cần tẩy chay gian thương và ủng hộ những gian hàng thiện tâm và phải tập trung dành hết thì giờ và công sức để lật mặt nạ và loại bỏ cái gian hàng chính yếu nhất, rõ ràng nhất, phản quốc nhất, độc tài nhất, độc đảng nhất, mạnh nhất và nguy hiểm nhất là tà quyền CSVN.
Nói một cách ngắn gọn, chúng ta tuyệt đối không nên có thái độ QUÁ BI QUAN hay QUÁ CHỦ QUAN đối với các nỗ lực, phong trào và tổ chức chánh trị chống Cộng của 85 triệu ngưòi dân VN trong nước và 3 triệu đồng bào tại hải ngoại, nhưng phải có thái độ trưởng thành, đứng đắn, thận trọng, sáng suốt và bình tĩnh không để cho CS đưa cộng đồng chống Cộng của chúng ta vào tình trạng tuyệt vọng, bỏ rơi, hoàn toàn thụ động và tê liệt.

Có lẽ công cuộc giải trừ Quốc Nạn không cần thêm nhiều đảng phái nữa mà cần những đảng phái hiện hữu thể hiện được cái TÂM chân thật, phong cách ĐẠO ĐỨC và hành động TRONG SÁNG của tổ chức mình để phục hồi lại niềm tin của mọi người cho đại cuộc chung. Làm được như thế thì những người đang xả thân hoạt động chánh trị của các đảng phái đã đóng được một công lớn cho chánh nghĩa quốc gia và đại cuộc rồi vậy. Thật mong thay.

Kính chúc quý vị đại diện của đảng Vì Dân và toàn thể quý vị cùng đồng bào hiện diện một buổi Tâm Đàm thành công, lợi ích và nhiều ý nghĩa.

Nguyễn Thế Phong – CĐNVTD-UC


NHỮNG DIỄN VIÊN CỦA NHỮNG TRÒ HỀ KỆCH CỠM - Lão Móc

Lão Móc

Theo một nhân vật đã từng ở vai trò lãnh đạo Mặt Trận (trước kia), tức đảng Việt Tân (hiện nay) thì ông Hoàng Cơ Định (HCĐ), một nhân vật cao cấp trong Trung ương đảng Việt Tân là người “chủ quan, kiêu căng và thiếu khả năng lãnh đạo”. Ông Định giữ vai trò then chốt trong MT (trước kia) và đảng Việt Tân (hiện nay) chỉ vì ông là em của ông Hoàng Cơ Minh, núp trong bóng tối “làm mưa làm gió” đến nay phải lộ diện và mọi người đã thấy rõ khả năng thực sự của ông ta.

Nhận xét này rất chính xác khi đọc bài viết của ông ta có cái tựa đề: “Tôi đi dự lễ truy điệu cụ Hoàng Minh Chính” được đăng trên mục gọi là “Bình Luận” của tuần báo VTimes có ông “ký giả playboy” Lâm Văn Sang làm Tổng thư ký. (VTimes số 96, Thứ Sáu 11-4-2008).

Xin mời độc giả đọc trích đoạn sau đây để thấy cái “khả năng… bình luận” của ông “Tiến sĩ” HCĐ, cán bộ cao cấp của đảng VT:

“… Tôi hỏi ông Võ Tư Đản, là người vốn hay đi chung xe với tôi lên San Francisco biểu tình trước Lãnh sự quán Việt Cộng là: “Tôi là kẻ thù với bác từ hồi nào mà sao đả đảo dữ thế?” Ông Đản trả lời: “Anh vào trong kia truy điệu tên VC Hoàng Minh Chính thì là kẻ thù của tụi tui, trước kia là bạn, bây giờ là thù rồi.” Tôi lấy làm lạ, sao từ bạn thành thù lại có thể dễ dàng như trở bàn tay vậy! Tôi quay sang hỏi ông Võ Văn Sĩ là người khi mới gặp nhau lần trước còn cùng uống chung ly rượu, chia xẻ với nhau khói thuốc lá Bastos. Ông có vẻ biểu đồng tình (sic!) nhưng khi nhìn vào trong hội trường tôi thấy có cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn, cụ Nguyễn Hữu Hãn, luật sư Nguyễn Tường Bá, hết cả là những nhân vật chống cộng đươc đồng bào kính nể, nếu không được vào bậc thầy thì cũng thuộc loại đàn anh của ông Sĩ (sic!)…”

Đây là một “phát giác” rất mới lạ do ông HCĐ viết ra giấy trắng, mực đen: Hai ông Võ Tư Đản, Võ Văn Sĩ là BẠN của ông HCĐ, “cán bộ cao cấp” của đảng VT. Qua trích đoạn trên người ta thấy ông HCĐ, người Mỹ gốc Việt có tên Nhật Dean Nakamura rất “bình dân” là “cùng đi chung xe biểu tình chống VC với ông Võ Tư Đản” và “uống chung ly rượu và chia xẻ với nhau khói thuốc lá Bastos” với ông cựu Thiếu Tá Công Binh/QLVNCH Võ Văn Sĩ (sic!). Có điều không biết ông “cán lớn” HCĐ căn cứ vào đâu mà đưa ra nhận xét: “… cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn, cụ Nguyễn Hữu Hãn, luật sư Nguyễn Tường Bá hết cả đều là những nhân vật chống Cộng được đồng bào kính nể nếu không vào bậc thầy thì cũng thuộc hạng đàn anh của ông Sĩ.” Chống Cộng mà cũng có “chống Cộng bậc thầy”, “chống Cộng hạng đàn anh” (sic!). Đây mới đúng là “khẩu khí của chính trị gia cao cấp” của băng đảng VT!

Về chuyện ông “chính trị gia VT” HCĐ “quay sang nói với ông Trần Văn Loan” thì bình luận gia Đại Dương đã có viết như sau:

“Các chính trị gia bị đoàn biểu tình chất vấn khi tham dự lễ truy điệu Hoàng Minh Chính đã viện dẫn chính sách chiêu hồi của Việt Nam Cộng Hoà để biện minh. Từ cổ chí kim đã có rất nhiều vụ chiêu hàng, chiêu hồi, nhưng chưa bao giờ nhân loại chứng kiến cảnh người đi chiêu hồi lại tổ chức truy điệu và sì sụp vái lạy kẻ được chiêu hồi.” (Việt Nam nhật báo số 5536, Thứ Ba 15-4-2008).

Nhận xét về “khả năng” của ông HCĐ mà chúng tôi đã nêu trên càng đúng khi đọc tiếp những hàng chữ sau đây: “Tôi thấy việc làm của những người biểu tình này chỉ là để biểu lộ mối căm hờn của họ đối với VC, hành động của họ không có tác dụng chống cộng, vì không làm hại gì cho VC, không làm cho chế độ đó suy yếu mà chỉ tạo sự phân hóa trong cộng đồng.”

Thực tình mà nói, chúng tôi tin rằng ít người hiểu được những lời lẽ cao xa của ông HCĐ khi ông ta viết tiếp như sau: “… Những người Việt Nam phải bỏ nước ra đi là nạn nhân của chế độ độc tài cộng sản, trong khi đó những người đã bước vào hội trường này để bày tỏ cái “nghĩa tử là nghĩa tận” với cụ Hoàng Minh Chính đã bị mạ lỵ lăng nhục bởi những người biểu tình ngoài kia, họ cũng là nạn nhân của một loại độc tài. Đây là thứ độc tài của những người không có vũ khí trong tay, về hình thức tuy có khác, nhưng bản chất vẫn là một.” (Bài báo đã dẫn).

Trong khi đó thì cũng chính tờ VTimes trong bài tường thuật đã viết như sau: “Có một cuộc đối thoại giữa ông Hồ Văn Khởi của ban tổ chức và ông Trần Văn Loan nhưng không giải quyết được sự việc. Người chống đối cho rằng “Những đảng viên này chống đảng để cứu đảng,” “Chống Cộng cuội.” Người tổ chức lễ truy điệu thì cho rằng “nên chiêu hồi những người cộng sản phản tỉnh.” Cuối cùng thì lễ vẫn cứ cử hành bên trong nhà vòm, trong khi tiếng hô đả đảo vang dội bên ngoài.” (VTimes, số báo đã dẫn).

Ít ai nghĩ một cán bộ cao cấp của đảng VT như ông HCĐ lại viết lách bịa điều đặt chuyện vu cáo những người biểu tình cứ y chang như là ông “ký giả gia nô mưu sinh bằng đầu gối” là Cao Sơn Nguyễn Văn Tấn và cặp “kép đểu thiên phú, đào lẳng bẩm sinh” Nguyên Khôi, Đoan Trang vừa mới tập tễnh “làm truyền thông Việt gian” trong “sự biến” Little Saigon! “Đây là thứ độc tài của những người không có vũ khí trong tay (sic!)…” Gớm! Chữ với nghĩa! Nực cười thay cái “đỉnh cao trí tuệ” của ông “tiến sĩ” HCĐ!

Xin miễn đề cập đến chuyện ông “cựu Thủ Tướng VNCH 7 ngày” Nguyễn Bá Cẩn “đã ca ngợi cụ Hoàng Minh Chính là người nhiệt thành yêu nước và thật sự dứt khoát với chủ nghĩa cộng sản (sic!)”

Bài viết này xin được đề cập đến cái mà ông HCĐ gọi là “nhận xét rất sâu sắc” của ông Tổng bí thư đảng VT Lý Thái Hùng. “Nhận xét sâu sắc” của ông Lý Thái Hùng mà ông HCĐ “coi như đó cũng làm cảm nghĩ của ông ta (HCĐ)” là: “cụ Hoàng Minh Chính đã dành cả cuộc đời đấu tranh cho nền độc lập, tự do và dân chủ cho dân tộc (sic!)”

Những người có theo dõi các hoạt động của MT (trước kia) và đảng Việt Tân (hiện nay) đều biết “đảng VT đã khẳng định CSVN là thành phần của dân tộc, họ ca tụng CSVN có công với đất nước, họ vinh danh “cố chủ tịch Hồ Chí Minh” là ân nhân của dân tộc, họ kêu gọi “gác bỏ hận thù” quá khứ để hòa hợp dân tộc, họ động viên tuổi trẻ hải ngoại về xây dựng đất nước dưới sự lãnh đạo của bạo quyền, họ phá rối, gây chia rẽ cộng đồng hải ngoại…”

Nhiều bậc thức giả, điển hình là cựu luật sư Nguyễn Văn Chức đã chứng minh CSVN KHÔNG PHẢI LÀ THÀNH PHẦN CỦA DÂN TỘC, MÀ LÀ KẺ THÙ CỦA DÂN TỘC. CSVN KHÔNG CÓ CÔNG, MÀ CÓ TỘI!

Đã có rất nhiều bài viết chứng tỏ ông Hoàng Minh Chính chỉ là CHỐNG ĐẢNG ĐỂ CỨU ĐẢNG – như các ông Nguyễn Hộ, Nguyễn Văn Trấn, Trần Độ v.v…

Năm 1996, “tiến sĩ” Nguyễn Bá Long ở Canada và “kỹ sư” Nguyễn Gia Kiểng ở Pháp đã “suy cử” hung thần Nguyễn Hộ lên làm “minh chủ” cho cái gọi là MẶT TRẬN DÂN CHỦ. “Minh chủ” Nguyễn Hộ đã từ trong nước viết thư ra hải ngoại và “ị” trên đầu hai ông “trí thức đầu ruồi” Nguyễn Bá Long, Nguyễn Gia Kiểng như thế nào mọi người đều đã rõ.

Chuyện ông đốc-tờ trọc phú Nguyễn Xuân Ngãi “hãnh diện khoe với phóng viên Việt Hồng của Đàn Chim Việt nhân dịp Hoàng Minh Chính sang Hoa Kỳ chữa bệnh và “rao giảng” dân chủ vào năm 2005: “99% đảng phái lúc đó đồng ý đứng chung trong Phong Trào. Bữa đó cụ HMC làm chủ tọa cuộc họp, có đảng Việt Tân, Đại Việt, Quốc Dân Đảng”.

Việc “một số đảng chính trị của người Việt tại San Jose như đảng Dân Chủ Việt Nam, Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Dân Xã… và đại diện là bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi, các ông Hồ Văn Khởi, Nguyễn Tường Bá, Hoàng Cơ Định, Hoàng Thế Dân, Hai Long, Võ Du, Chu Tấn… cùng làm lễ truy điệu” cụ Hoàng Minh Chính thì cũng y chang như chuyện hai ông tiến sĩ Nguyễn Bá Long, kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng đã “suy cử” hung thần Nguyễn Hộ lên làm “minh chủ” của cỗ xe MẶT TRẬN DÂN CHỦ VÀO NĂM 1996.

Trong cái gọi là bài “bình luận”, ông HCĐ phóng bút viết: “Khi tới tham dự buổi lễ, tôi hơi ngạc nhiên khi thấy một số đồng bào cầm cờ và biểu ngữ biểu tình phản đối ở bên ngoài. Chuyện biểu tình này, tôi đã nghe nói từ trước, nhưng vẫn nghĩ là không có, vì dân tộc Việt Nam có truyền thống văn hóa, chẳng ai lại đối xử như vậy với một lễ thất tuần của một người quá cố.”

Khi viết những dòng chữ khoe mẽ rằng mình “có truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam,” chê bai những người biểu tình chống lễ truy điệu ông Hoàng Minh Chính, ông HCĐ không biết rằng ông ta và đảng của ông ta đã làm chuyện:

“Chân mình thì lấm lê mê
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người!”

Ông ta quên mất rằng chính ông ta và băng đảng Việt Tân của ông ta đã “KHÔNG NGHĨA TỬ LÀ NGHĨA TẬN” ĐỐI VỚI CỐ ĐỀ ĐỐC HOÀNG CƠ MINH LÀ BÀO HUYNH VÀ CŨNG LÀ CHỦ TỊCH CỦA MẶT TRẬN QUỐC GIA THỐNG NHẤT GIẢI PHÓNG VIỆT NAM.

Xin mời độc giả đọc trích đoạn sau đây trong bài viết VỤ MẶT TRẬN HOÀNG CƠ MINH của luật sư Nguyễn Văn Chức được viết vào ngày 19-8-1999 để thấy rõ ông HCĐ và Mặt Trận (trước kia) cũng như đảng VT (hiện nay) đã NGHĨA TỬ LÀ NGHĨA TẬN như thế nào đối với cố Đề Đốc Hoàng Cơ Minh:

“… Khi một người nằm xuống - trừ trường hợp liên quan đến tôn giáo – ai cũng có quyền định công luận tội. Nhưng không ai được phép riễu cợt. Một người đã chết từ lâu, mà vẫn bị rêu rao rằng còn sống và đang đi đây đi đó, nay từ trong nước gửi thư chúc Tết đồng bào, mai từ quốc nội gửi lời huấn thị đoàn viên, nay từ chiến khu “theo rõi và hướng dẫn công tác đấu tranh của Mặt Trận”, mai chủ tọa Hội Đồng Kháng Chiến Toàn Quốc tại quốc nội … thì đó là MỘT TRÒ HỀ. Và MỘT SỰ RIỄU CỢT! Riễu cợt đối với vong linh người đã chết, riễu cợt đối với gia đình người đã chết. Không một nén hương, không một lời cầu nguyện, đã là bạc tình bạc nghĩa. Nay lại còn rêu rao rằng người đó còn sống. Thiết tưởng KHÔNG CÓ SỰ RIỄU CỢT NÀO LỚN HƠN.

Trở lại trường hợp đề đốc Hoàng Cơ Minh. Ông đã chết. Nếu những đoàn viên của ông không biết cúi đầu trước vong linh của ông, thì cũng đừng nên riễu cợt.

Huống chi, RIỄU CỢT ĐÃ TRỞ THÀNH THÓA MẠ.

Như mọi người đều biết từ nhiều năm nay, Mặt Trận HCM đã có những hành động bất lợi cho người Quốc Gia, nếu không muốn nói là phản lại người Quốc Gia. Họ khẳng định CSVN là thành phần của dân tộc. Họ ca tụng CSVN có công với đất nước. Họ phổ biến bài ca tụng ‘cố chủ tịch Hồ Chí Minh’. Trong vụ đấu tranh dẹp cờ VC và dẹp ảnh Hồ Chí Minh của đồng bào Cali (1999) vừa qua, họ đã gây cản trở cho đồng bào, đã nhập cuộc vào phút chót, rồi sau đó chiếu phim tuyên truyền cho VC trong đêm thắp nến 26-2-1999 và phổ biến trên Internet của họ bài ca tụng công đức Hồ Chí Minh v.v…

Chúng ta hãy gom những hành vi nói trên vào một nhóm, gọi là SỰ KIỆN MỘT. Và đây, SỰ KIỆN HAI: Mặt Trận quả quyết Đề Đốc Hoàng Cơ Minh “hiện còn sống và đang lãnh đạo Mặt Trận.”

Bây giờ chúng ta hãy đặt SỰ KIỆN MỘT bên cạnh SỰ KIỆN HAI, chúng ta phải bắt buộc đi tới một kết luận. Kết luận đó, là: những hành động phản lại người Quốc Gia của Mặt Trận từ lâu nay đã do Chiến Hữu Chủ Tịch của họ (hiện đang còn sống và đang lãnh đạo Mặt Trận) đã trở cờ, phản bội người Quốc Gia và đang làm tay sai cho CS.

Tôi không muốn đẩy lý luận đi xa hơn. Bởi lẽ: cũng như mọi người, kể cả anh em Mặt Trận, tôi biết ông Minh đã chết. Và bởi lẽ: tôi biết rõ con người ông Minh. Đúng hay sai, người ta có thể tố cáo ông đã lừa dối đồng bào, đã cướp đoạt tiền Kháng Chiến, đã bỏ đói anh em trong trại, đã bắn anh em, đã thủ tiêu cộng sự viên v.v… Nhưng XIN ĐỪNG THOÁ MẠ ÔNG LÀM TAY SAI CS. Những gì của Ceasar, hãy trả lại cho Ceasar!

Thế nhưng, Mặt Trận lại muốn khác. Họ có những hành vi khiến người ta phải kết luận rằng: chiến hữu chủ tịch của họ (hiện còn đang sống và lãnh đạo Mặt Trận), đã phản bội người Quốc Gia và đang làm tay sai cho cộng sản. Đáng buồn là ở đó. Câu hỏi đặt ra: những kẻ đang “lãnh đạo” Mặt Trận là ai?”

“Trong chính trị, sự thiếu trí tuệ là một tai họa. Từ thiếu trí tuệ đến chao đảo lập trường, không đầy một bước. Từ chao đảo lập trường đến lòn cúi làm tay sai kẻ thù, không đầy nửa bước. Từ lòn cúi làm tay sai kẻ thù đến công khai phản bội anh em, không đầy một phần tư bước.

Trong chính trị, sự thiếu trí tuệ là một tai họa. Nhất là khi nó đi đôi với sự thiếu lương thiện. Và nhất là khi nó trở thành đặc quyền của những kẻ mang danh lãnh đạo một đoàn thể chống Cộng.

Trong chính trị, sự thiếu trí tuệ thường đẻ ra NHỮNG TÊN HỀ KỆCH CỠM. Người Quốc Gia cười, thằng Việt Cộng còn cười hơn.”

Theo nhận xét trên của luật sư Nguyễn Văn Chức thì các bác sĩ, tiến sĩ, kỹ sư “lãnh tụ” của Ban Đại Diện Cộng đồng NGƯỜI VIỆT của 6 “CHÍNH ĐẢNG” (do “anh hề chính trị” Hoàng Thế Dân, cán bộ cao cấp của đảng Việt Tân làm chủ tịch) tại San Jose, từ vụ tiếp tay với bà NV Madison dùng “thủ đoạn chính trị nhơ bẩn” (dirty politic game) đàn áp dân chủ, chống lại nguyện vọng chọn tên LITTLE SAIGON cho khu thương mại trên đường Story của cử tri khu vực 7 đến việc làm “lễ truy điệu kẻ thù” tại Tòa Thị Chính thành phố San Jose là NHỮNG DIỄN VIÊN CỦA NHỮNG TRÒ HỀ KỆCH CỠM - không hơn, không kém!

Lão Móc


Thursday, October 14, 2010

Quê Hương và Chủ Nghĩa - Nguyễn Quốc Chánh

Nguyễn Quốc Chánh, Saigon
    Quê Hương và Chủ Nghĩa

    Chủ nghĩa dạy em, thù hận hờn căm
    Chủ nghĩa dạy em, độc ác bất nhân
    Chủ nghĩa dạy em, lọc lừa xảo trá
    Chủ nghĩa dạy em, dối gian trăm ngả
    Chủ nghĩa dạy em, bội phản vong ân
    Chủ nghĩa dạy em, giết chết lương tâm
    Chủ nghĩa dạy em, vô thần đấu tố
    Chủ nghĩa mù, rước voi dày mả Tổ
    Chủ nghĩa ngu, thờ đồ tể ngoại bang
    Chủ nghĩa bưng bô, xây dựng thiên đàng
    Chủ nghĩa lừa em, những con bò sữa
    Chủ nghĩa bất lương, ma cô nhà chứa
    Chủ nghĩa tú bà, dụ dỗ thơ ngây
    Chủ nghĩa cò mồi, vơ vét luôn tay
    Chủ nghĩa cai thầu, bán buôn Tổ-Quốc
    Chủ nghĩa lưỡi câu, móc mồi dân tộc
    Chủ nghĩa bịp lừa, bánh vẽ tự do
    Chủ nghĩa cá ươn, tư tưởng vong nô
    Chủ nghĩa chết đi, Quê Hương vẫn sống

    Ai nhân danh hạnh phúc
    Thứ hạnh phúc ngục tù
    Ai nhân danh dân chủ
    Thứ dân chủ si ngu
    Ai nhân danh chân lý
    Thứ chân lý đui mù

    Bao nhiêu năm, ai nhân danh chủ nghĩa,
    Tự-Do xích xiềng, Dân-Chủ dối gian
    Mác-Lênin, đâu phải người Việt Nam!
    Sự thật đó có làm em đau nhói ?
    Vẫn chập chờn lượn bay bầy quạ đói
    Chồn cáo kia có rình rập trước sau
    Ngẩng mặt cao và đừng sợ đớn đau
    Đứng lên em bằng tâm hồn biển động.
    Em đứng lên như đại dương dậy sóng
    Tiếng sét thần tuổi trẻ nổ ầm vang
    Những tượng hình, chủ nghĩa, phải tiêu tan
    Cây Dân-Chủ bừng lên ngàn sức sống,

    Em bây giờ khôn lớn
    Mắt rực lửa yêu thương,
    Biết đâu là sự thật
    Em tìm thấy con đường.
    Tự-Do sẽ nở hoa
    Trên quê hương khốn khó
    Anh như con ngựa già
    Vẫn cúi đầu kiên nhẫn
    Đốt những đám cỏ khô
    Dọn đường cho em đi làm lịch sử

    Em hãy ngồi xuống đây
    Anh kể câu chuyện này
    Trên cánh đồng cỏ cháy
    Ngậm ngùi như khói bay
    Con ngựa già một đời
    Chưa thấy được ngày vui
    Mắt mỏi mòn trông đợi
    Những mầm cỏ xanh tươi.
    Đã bao nhiêu năm rồi
    Hướng nhìn về xa xôi
    Tâm tư đau nhức nhối
    Cuộc đời vẫn nổi trôi
    Em nhìn về tương lai
    Cố dấu tiếng thở dài
    Mắt dường như ngấn lệ
    Có phải vì khói cay?

    Em thấy đó, trên đường đi không đến,
    Quê hương đau, chồn cáo vẫn nghêng ngang
    Những con thú người nhảy múa kiêu căng
    Ngửa mặt hú một bài ca chủ nghĩa.
    Ngôn ngữ văn nô, đỉnh cao trí tuệ.
Nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh sinh năm 1958 ở Bạc Liêu, hiện sống tại Sài Gòn. Tác giả của nhiều tập thơ như Ðêm mặt trời mọc, Khí hậu đồ vật và Của căn cước ẩn dụ, và Ê, tao đây. Thơ của ông đã được nhiều tác giả dịch ra tiếng Anh. Trong bài phỏng vấn dành cho nhà văn Vi Ký, nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh nhận xét về đảng Cộng Sản:

“Ðảng Cộng sản thắng Tây và Mỹ bằng máu của dân tộc, bằng vũ khí của Nga và Tàu, rồi nộp “độc lập dân tộc” cho cộng sản Tàu và Nga. Ai chỉ ra tình trạng thế chấp và bán đứng đó đều bị cho là phản động. Kẻ phản động có thể gây tai họa cho Ðảng nhưng lại là phúc của dân.

Những ai vì Ðảng sẽ kết án kẻ phản động, còn những ai vì con người thì sẽ hoan hô kẻ phản động. Hãy nhớ câu nói lịch sử của ông Nguyễn Văn Thiệu:
    Ðừng tin những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn những gì cộng sản làm”.


Tuesday, October 12, 2010

Hợp tác, thỏa hiệp có lợi cho ai? - Lại Thế Lãng



Lại Thế Lãng

Theo tinh thần của Công đồng Vaticano II người Công giáo vẫn có thể sống chung với người cộng sản. Tuy nhiên sống chung không có nghĩa là “câm nín và cúi đầu” trước sự dối trá và bất công. Sống chung cũng không có nghĩa là nhắm mắt bịt tai và chỉ biết gật đầu thỏa hiệp với tội ác.

Ngày 22/7/2007 HY Phạm Minh Mẫn có gửi cho linh mục Nguyễn Thái Hợp, Chủ nhiệm CLB Phaolô Nguyễn Văn Bình một lá thư để nhờ nơi này “Nghiên cứu và đề xuất bài học chính xác và trọn vẹn” cho những băn khoăn của Ngài. Lá thư đã nêu ra bảy điểm.

Trong điểm một và hai của lá thư, HY nhận định rằng “Năm 1954, trước CĐ Vat II Giáo hội Công giáo phía bắc có thái độ cứng rắn, bất hợp tác với nhà nước Cộng sản…”. Còn “Năm 1975, sau CĐ Vat II Giáo hội Công giáo phía nam có thái độ hợp tác, nhường quyền sử dụng trường, cô nhi viện, dưỡng lão viện và bệnh viện Công giáo cho nhà nước…”.

Trong bốn điểm tiếp theo lá thư nêu ra những tệ nạn trong xã hội hiện nay nhấn mạnh đến hai lãnh vực giáo dục và y tế. Về giáo dục lá thư viết “Sau 30 năm, tôi thấy báo chí thông tin kết quả của một cuộc điều tra xã hội: 30- 40% học sinh tiểu học nhiễm thói gian lận xen lẫn lừa dối, 40- 50% học sinh trung học nhiễm thói đó, lên đại học thì tỷ lệ là 50- 60%…”. Về y tế lá thư viết “Báo chí cũng thông tin những nghành liên hệ với y tế thì toa rập nhau trấn lột bệnh nhân. Hình như các nghành, thay vì biến giai cấp vô sản thành người đầy tớ phục vụ nhân dân theo như lời Bác dạy, thì thực tế cho thấy là giai cấp vô sản biến nhân dân thành vô sản, và tự biến mình thành một giai cấp mới mà tôi nghe nhiều người gọi là tư sản đỏ…”

Ở điển cuối cùng của lá thư, HY yêu cầu “CLB.NVB nghiên cứu xem coi thái độ bất hợp tác và thái độ hợp tác của Giáo hội trong lịch sử 50 năm qua mỗi thái độ có những lợi và hại nào …”

Với lời lẽ khá mạnh mẽ, lá thư cho thấy HY nghi ngờ về kết quả của sự hợp tác nếu không muốn nói là Ngài không tán đồng. Là vì sự hợp tác trong các lãnh vực nêu trên rõ ràng chỉ là tiếp tay làm cho xã hội thêm băng hoại. Vào thời gian đó lá thư thực sự đã làm mát lòng mát dạ nhiều người. Nhiều người tỏ ý vui mừng vì nghĩ rằng trong hàng giáo phẩm cũng đã có người lên án bất công và thối nát gây ra bởi chế độ cộng sản. Một nhà báo kỳ cựu người Việt Nam sống ở Hoa Kỳ đã hết lời ca ngợi HY về sự can đảm khi Ngài cho phổ biến lá thư này. Nhà báo này còn bày tỏ mối lo ngại về những bất lợi sẽ đến với HY. Ông cũng cảnh báo rằng nhà cầm quyền cộng sản đang dành sẵn cho Ngài một chỗ ở bên cạnh linh mục Nguyễn Văn Lý trong nhà tù Nam Hà.

Thế nhưng chỉ ba năm sau thì thái độ của Ngài đã khác hẳn. Qua những việc làm gần đây của TGP Sài gòn như việc vinh danh Đức cố TGM Nguyễn Văn Bình thì ai cũng thấy Ngài đang muốn đi theo con đường của Đức cố TGM Nguyễn Văn Bình, nhân vật được coi là tiêu biểu cho khuynh hướng hợp tác với nhà cầm quyền cộng sản. Tại sao thái độ của Ngài lại đổi chiều 180 độ như vậy?

Trong bài này xin không bàn về vấn đề đó. Chỉ xin đề cập đến đoạn cuối của lá thư HY gửi cho CLB Phaolô Nguyễn Văn Bình “CLB NVB nghiên cứu xem coi thái độ bất hợp tác và thái độ hợp tác của Giáo hội trong lịch sử 50 năm qua mỗi thái độ có những lợi và hại nào, đối chiếu cái lợi và cái hại của hai thái độ và đề xuất bài học thực hành cho mọi thành phần tôn giáo và xã hội biết cách nào góp phần vừa xây dựng đất nước, vừa lành mạnh hóa đời sống dân tộc. Có được thế thì sự phát triển đất nước và con người mới vững bền”.

Không biết CLB Phaolô Nguyễn Văn Bình đã trả lời cho HY chưa và đã trả lời như thế nào? Thật ra thì chỉ cần nhìn vào thực trạng của Giáo hội Việt Nam dưới chế độ cộng sản suốt mấy chục năm qua thì dù chỉ là một người bình thường cũng có thể trả lời được những câu hỏi được nêu ra trong lá thư.

Cộng sản vẫn coi tôn giáo, nhất là Công giáo là một chướng ngại cần phải dẹp bỏ. Vì vậy ngay khi nắm quyền ở miền Bắc năm 1954 cũng như khi đã đặt được sự thống trị tại miền Nam 1975 họ đã có cùng một cách đối xử với Giáo hội Công giáo. Chính sách của họ đối với người Công giáo “trước sau như một” chẳng có gì khác biệt. Cho dù là hợp tác hay không hợp tác thì họ cũng đóng cửa chủng viện, trục xuất chủng sinh; giải tán dòng tu; chiếm dụng cơ sở vật chất của Giáo hội; cầm tù nhiều giáo sỹ, giáo dân … Và cho dù ở đâu, ngoài Bắc hay trong Nam, nhà nước cộng sản đều nhìn người Công giáo dưới con mắt ngờ vực. Ngay cả các cơ quan truyền thông của nhà nước cũng nhiễm tính kỳ thị đối với người Công giáo, trong ngôn từ họ luôn coi người Công giáo chỉ là công dân hạng hai.

Hãy xem thử cái lợi và cái hại đối với Giáo hội miền Bắc, nơi mà HY coi là có thái độ bất hợp tác. Cái hại trước hết là hàng giáo phẩm, giáo sỹ bị chèn ép, bị đối xử bất công. Chưa nói đến những ngày tháng gian khổ của Giáo hội miền Bắc sau năm 1954 mà chỉ nói tới thời gian gần đây thôi thì cũng đủ thấy những chủ chăn của Giáo hội miền Bắc bị đối xử như thế nào. Cụ thể là trường hợp của TGM Ngô Quang Kiệt và các linh mục Dòng CCT ở Thái Hà. Các vị đã phải chịu bao nhiêu cay đắng, bị nhục mạ, bị vu khống, bị đe dọa và còn phải hứng chịu bao nhiêu trò hèn hạ khác.

Nhưng cái lợi là chính trong hoàn cảnh khó khăn lại tạo được sự hiệp thông chặt chẽ trong hàng chủ chăn. Khi xảy ra sự kiện Thái Hà, Đức cha Cao Đình Thuyên của Giáo phận Vinh đã tuyên bố “Việc của Thái Hà cũng là việc của Giáo phận Vinh”. Và mặc dầu nhà cầm quyền đe dọa các Giám mục đến Thái Hà, nhiều Giám mục miền Bắc cũng vẫn cứ đến hiệp thông với Thái Hà. Bất chấp những lời đe dọa, Đức cha Nguyễn Văn Sang của Giáo phận Thái Bình dù tuổi gìa sức yếu cũng đã lặn lội đến Thái Hà cho bằng được. Sau đó khi trở về Giáo phận Ngài gửi lời “Chào các bạn tôi đi ở tù” như là một thái độ sẵn sàng chấp nhận mọi hành động trả thù của nhà cầm quyền cộng sản.

Giáo dân miền Bắc được trui rèn trong gian khổ đã trở nên bất khuất, xứng đáng là con cháu các thánh tử vì đạo Việt Nam. Họ sẵn sàng chấp nhận thiệt thòi về phần mình để bảo vệ niềm tin và để gióng lên tiếng nói bảo vệ Sự thật và Công lý. Trong biến cố Tòa Khâm sứ càng gần đến giờ nhà cầm quyền Hà Nội đe dọa ra tay thì giáo dân lại càng kéo đến đông hơn. Tại Thái Hà, 8 giáo dân hiên ngang ra tòa không một chút nao núng. Họ ăn mặc đẹp đẽ, mặt mày tươi tỉnh, hùng dũng cùng với anh chị em đồng đạo tiến đến pháp đình vui như ngày hội. Ở Tam Tòa trước cảnh tượng các linh mục và giáo dân bị đánh đập tàn nhẫn, lòng người giáo dân ở Vinh đã sôi sục mà nếu không vì vâng lời bề trên thì chắc chắn đã xẩy ra xung đột mà hậu qủa không ai có thể lường được. Ở Đồng Chiêm ngay cả ông gìa bà lão cũng không hề khiếp sợ khi đạo quân bất lương kéo đến đập phá cây thánh gía trên núi Thờ.

Bây giờ thử xem qua Giáo hội miền Nam nơi mà HY cho là có thái độ hợp tác. Cái lợi trước mắt là hàng Giáo phẩm được ưu đãi, được vuốt ve. Cụ thể là trường hợp Đức cố TGM Nguyễn Văn Bình đã được nhà nước cộng sản ưu đãi bằng cách cho thiết lập một CLB mang tên Ngài. Nghe đâu ở Sài gòn còn có tên đường Nguyễn Văn Bình và có trường học cũng được đặt tên của Ngài. đặc biệt hồi đầu tháng 9 vừa qua TGP Sài Gòn đã long trọng kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Ngài mà nhiều người cho rằng TGP Sài gòn đã làm theo đơn đặt hàng của nhà nước cộng sản để họ hó có cơ hội trả công cho một vị TGM đã có “thành tích” đến chết vẫn còn sợ.

Cái hại hiển nhiên là vì được vuốt ve, được trọng vọng khiến cho chủ chăn trở thành nhu nhược, thụ động, không còn có dũng khí để nói lên sự thật và chống lại bất công. Hậu qủa là hướng dẫn giáo dân đi vào lối sống ích kỷ, chỉ biết sống cho mình còn ai chết mặc ai, không còn có tình liên đới trước sự thống khổ của anh em đồng đạo cũng như đồng bào … (Có thể đây là cái hại theo cách nhìn của những người công chính, nhưng lại là cái lợi cho những người cơ hội hướng theo “thói đời”)

Một điều tai hại khác là để cho nhóm quốc doanh trong cái tổ chức “Ủy ban chia rẽ Công giáo” hoành hành. Tổ chức này, như mọi người đều biết rõ mục đích của nó, được cho ra đời ở miền Bắc với cái tên Ủy ban Liên lạc về sau đổi thành Ủy ban Đoàn kết nhưng nó chẳng làm được trò trống gì ở miền Bắc vì Giáo quyền miền Bắc đã tỏ thái độ dứt khoát đối với nó ngay từ đầu. Theo ông Vũ Sinh Hiên, tác gỉa bài nghiên cứu “Thái độ của các Giám mục miền Bắc đối với cộng sản từ năm 1945 đến 1975” thì tổ chức UBLL “đứng đầu là linh mục Vũ Xuân Kỷ, thuộc địa phận Hà Nội và bị Đức Giám mục treo chén. Cùng trong Uỷ ban này với cha Kỷ là linh mục Nguyễn Tất Tiên, cũng thuộc địa phận Hà Nội và cũng bị Đức Cha Khuê treo chén như cha Kỷ …”. Còn về phía giáo dân, cũng theo tác gỉa Vũ Sinh Hiên “có nơi bị giáo dân tẩy chay công khai. Cha Võ Thành Trinh từ miền Nam ra, trấn nhậm giáo xứ Hòn Gai, ngoài tầm kiểm soát của Giám mục, hành lễ vẫn có giáo dân tham dự vì kẹt hiếm hoi linh mục …. Thế nhưng khi cần tổ chức thánh lễ hôn phối, các đôi tân hôn vẫn không quản ngại đường xá xa xôi, đem nhau về Hải Phòng xin lễ cho chắc ăn. Để cha quốc doanh dâng lễ e không thành”

Trong khi đó vì giáo quyền của TGP Sài Gòn dung túng UBĐK ngay từ đầu khiến cho tổ chức này càng ngày càng lộng hành. Là một tổ chức quốc doanh hoạt động theo chỉ đạo của Mặt trận Tổ quốc, nhóm này đã theo túng mọi công việc ở TGP Sài gòn, chiếm giữ các vai trò then chốt trong website của HĐGM, dùng CLB Phaolô Nguyễn Văn Bình để cổ xúy cho sự nhu nhược và ươn hèn.

Những điều trình bày trên cho thấy thái độ hợp tác chỉ có lợi cho các đấng bậc biết cúi đầu vâng phục nhà nước cộng sản nhưng lại hoàn toàn có hại cho Giáo hội. Chủ trương hợp tác chẳng qua chỉ là chạy theo những lợi ích trần thế mà bỏ qua sứ mạng chính của đạo Chúa là bênh vực người nghèo khổ, người cô thế, người bị áp bức bóc lột, người bị bỏ rơi.

Tất nhiên nói như vậy không có nghĩa là cổ võ cho thái độ “bất cộng đái thiên” với người cộng sản. Theo tinh thần của Công đồng Vaticano II người Công giáo vẫn có thể sống chung với người cộng sản. Tuy nhiên sống chung không có nghĩa là “câm nín và cúi đầu” trước sự dối trá và bất công. Sống chung cũng không có nghĩa là nhắm mắt bịt tai và chỉ biết gật đầu thỏa hiệp với tội ác.

Lại Thế Lãng
Vermont – USA

Monday, October 11, 2010

Sống Phúc Âm Theo Định Hướng Xuống Hàng Chó Ngựa

    Sống Phúc Âm Theo Định Hướng XHCN
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Sau ngày CS vào Sài Gòn, tất cả mọi sự đều thay đổị. Sự thay đổi này người CS gọi là cách mạng, còn người dân miền Nam gọi một cách mộc mạc dễ hiểu là đổi đời. Công cuộc cách mạng của người CS tại Sài Gòn điển hình và rõ nét nhất, ai cũng thấy được, là biến cái bảng hiệu của nhà thương Từ Dũ trên đường Cống Quỳnh từ “Bảo Sanh Viện” thành “Xưởng Đẻ”. Còn sự đổi đời của người dân Sài Gòn thì đâu đâu cũng thấy, rất đa dạng và đa vẻ. Câu đồng dao một thời “Đầu đường đại tá vá xe, cuối đường thiếu tá bán chè đậu đen” có thể diễn tả đầy đủ và linh hoạt nhất cuộc đổi đời sau năm 75 của người dân miền Nam. Nhưng cho dù là cách mạng hay đổi đời thì ý nghĩa thực nhất của cuộc sống con người miền Nam có lẽ nó nằm đâu đó trong mớ Lý Thuyết Tiến Hoá Theo Sự Lựa Chọn Tự Nhiên (Theory of Evolution by Natural Selection) của Charles Robert Darwin để cầu mong được sinh tồn mà thôi. Nói khác đi thì đó là cách phản ứng thích nghi để tồn tạị. Đó là bản năng tự nhiên mà mọi người, mọi sinh vật đều có. Người bình dân chất phác thì cứ để cho sự thích nghi xẩy ra một cách tự nhiên, chẳng cần màu mè, hoa lá hầu che đậy.

Nhưng trong đời sống chánh trị thì lại khác. Thích nghi cũng cần phải che đậy vì một mục đích nào đó, và thường là để cho đỡ mất thể diện. Ta thấy khi người CS ở vào cái thế đường cùng và trong hoàn cảnh thập tử nhất sinh, khi cần phải thích nghi để sống thì cho dù là giáo điều CS, chúng cũng vứt bỏ hết để áp dụng lối làm ăn của tư bản. Chúng đưa ra chiêu bài Đổi Mới. Chúng làm kinh tế tư bản để sống nhưng vì sợ người ta cười chê là quân nhổ ra rồi lại liếm, nên phải móc thêm cái đuôi “Theo Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa vào mấy chữ kinh tế thị trường cho đỡ bẽ mặt.

Phải thành thực và công bằng mà nhìn nhận rằng bọn cộng sản Việt Nam có ngu, có dốt thế nào đi chăng nữa thì nó vẫn là một tay trùm trong lãnh vực chơi chữ. Chơi chữ ở đây nói khác đi là lừa bịp thiên hạ bằng ba cái thứ khẩu hiệu này nọ. Hoàn cảnh nào, thời nào chúng biết tung ra khẩu hiệu thích hợp cho hoàn cảnh đó, thời dó. Không phải chỉ có đám dân ngu cu đen mới bị bỏ bùa vì mấy cái trò bịp của VC, mà cả đến những thứ khoa bảng, đại trí thức, bằng cấp bề bề cũng chết mê chết mệt với những khẩu hiệu của CS. Thời đánh Pháp, VC trương khẩu hiệu ĐỘC LẬP thật là ăn khách. Đến thời chúng gây chiến tranh ở miền Nam, đem vào cả hàng chục sư đoàn, cùng với xe tăng, đại pháo để đánh dân miền Nam thì chúng lại lớn tiếng đề cao chiêu bài HOÀ BÌNH. Chúng vừa đánh người lại vừa hô hoán bị người ta đánh.

Thế mà vẫn không thiếu kẻ tin. Và như trên vừa nói, trong lúc thập tử nhất sinh khó mong sống nổi nữa thì chúng lại dở trò ĐỔI MỚI. Mà đổi cái nỗi gì. Chỉ là học đòi bắt chước lại những gì của miền Nam mà trước đó đã bị chúng chối bỏ. Khổ nỗi là bắt chước cũng chẳng thành thân. Chưa xứng đáng là thằng học trò hạng bét của tư bản. Khẩu hiệu của VC ngoài đặc tính thời trang, còn chắc lý như đinh đóng cột nữa. Ta hãy lấy một một câu làm thí dụ: “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đảng là nhà nước, và nhà nước là đảng. Như thế thì VC nắm toàn quyền sinh sát rồị còn gì. Ông Chủ Nhân Dân kia còn làm chủ cái gì ?

Bất cứ cái gì CS cũng dán nhãn hiệu Nhân Dân, làm ra vẻ ta đây dân chủ lắm: nào quân đội nhân dân, nào uỷ ban nhân dân, nào công an nhân dân … nhưng về tiền bạc thì lại là Ngân Hàng Nhà Nước. Cái gì cũng là của nhân dân cả, nhưng riêng tiền bạc thì dứt khoát không thể là của nhân dân được. Như thế thì ai bảo là việt gian cộng sản ngu !

Nhưng nếu bảo rằng chỉ có thằng VC mới biết chơi khẩu hiệu thì là lầm to rồi đấy. Một tay chơi (khẩu hiệu) mới bước vào nghề nhưng đã tỏ ra có hạng, và lão luyện không kém. Thật lạ lùng, đó lại chính là Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (HĐGMVN). Thật vậy, trước năm 75, khi đất nước còn chia cắt, Giáo Hội Công Giáo VN (GHCGVN) chưa thống nhất, thì chẳng ai thấy Giáo Hội có khẩu hiệu gì, kể cả ngoài Bắc cũng như trong Nam. Nhưng từ ngày CS chiếm được miền Nam, Giáo Hội hợp nhất lại rồi thì người ta mới thấy trong đời sống của Giáo Hội xuất hiện những khẩu hiệụ. Trong khá nhiều khẩu hiệu được HĐGM nêu lên, câu “Giáo Hội Đồng Hành Cùng Dân Tộc” có thể nói được là một khẩu hiệu đứng hàng đầu mang tính chiến lược của Giáo Hội.

Cần để ý đến hai chữ “Dân Tộc” ở đây. Nhiều người có cảm tưởng là có nhiều từ ngữ chung trong kho tàng ngôn ngữ Việt Nam đã bị CS chiếm độc quyền mất rồi, chữ “đồng-chí” hay chữ “dân-tộc” này đây chẳng hạn. Cái gì CS cũng trương mấy chữ dân tộc ra làm chiêu bài, làm như chỉ có CS mới là dân tộc. Chữ Dân Tộc theo nghĩa chung nhất ngày nay là tập thể các sắc dân, các thành phần dân chúng cùng chung sống trong một quốc gia và làm chủ quốc gia đó. Nhưng theo thuật ngữ CS dùng thì dân tộc đồng nghĩa với đảng cộng sản: dân tộc là CS, và ngược lại, CS là dân tộc. Vì thế mới có câu: yêu nước (dân tộc) là yêu xã hội chủ nghĩạ. HĐGMVN kể ra thì cũng rất đáng khen.

Đáng khen ở chỗ đã biết mau mắn cuốn theo chiều gió, và dám bỏ đi cái điểm câu nệ của một con người có tư cách và biết tự trọng mà học đòi kiểu cách lòe thiên hạ của lũ bịp hạ cấp này. Các Ngài cũng đã trương được cái bảng hiệu Dân Tộc trên nhiều khẩu hiệu của các Ngài, như: Sống Phúc-Âm trong lòng Dân Tộc. Hoặc, GH đồng hành cùng Dân Tộc ... Như vậy ai bảo các cố đạo không thuộc câu: Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy ? Điểm thắc mắc ở đây là nếu hiểu dân tộc là đảng CS thì hoá ra GHCG đồng hành cùng đảng CSVN sao ?

Thực ra thì nói dzậy mà không phải dzậy ... nhưng lại đúng là như dzậy. Cái gì mà ba phải và lắt léo rứa ? Rồi, muốn nói cho ra lẽ thì cũng phải bàn sơ qua về mấy chữ Đồng-Hành trước cái đã.

Đồng hành nói nôm na là cùng đi chung với nhaụ. Một ông đồ nho đi hát cô đầu hay đến nhà bạn chơi tổ tôm có dăm ba chú tiểu đồng lếch thếch theo sau, đứa cầm ô (dù), đứa cắp tráp, đứa sách giỏ trầu, đứa mang bầu rượu ... thì có phải họ đồng hành không ? Xin thưa ngay rằng họ cùng đi với nhau thật đấy, nhưng không phải đồng hành, vì ông đồ đi du hí, còn đám tiểu đồng đi hầu hạ phục dịch cho ông. Hay như một đám quan lính điệu một tử tội ra pháp trường có phải họ đồng hành không ? Cũng không phải, vì lính thì đi canh gác pháp trường, còn tử tội thì ra đó để bị chém đầu.

Như vậy thế nào mới được hiểu là đồng hành ? Trong ý nghĩa sâu xa của từ ngữ này, những thành phần tham dự cuộc hành trình phải là tự do và trong nhiều trường hợp còn phải đồng đẳng nữa. Và, cái đích tiến tới của họ cũng phải là mục tiêu chung. Đối với đảng CS, Giáo Hội không phải là một thực thể tự do, cũng chẳng đồng đẳng, và dĩ nhiên mục tiêu tiến tới của cả hai cũng khác nhaụ. Như thế Giáo Hội không thể nói là đồng hành với CS được. Đối với các thành phần dân tộc khác, cụ thể là các giáo hội của các tôn giáo bạn, thì tuy Giáo Hội cùng đi chung trên một con dường và cùng tiến đến mục tiêu chung là phục vụ xã hội, nhưng lại thiếu yếu tố tự do làm cản trở ý thức chọn lựa cách đi và cả mục tiêu đến. Như vậy thì Giáo Hội cũng không thể nói là đồng hành cùng dân tộc. Vả lại trong ý nghĩa tích cực của nó, chữ đồng hành còn hàm ý một sự ràng buộc tinh thần giữa những người cùng đi. Nghĩa là, nói theo người bình dân, có vui cùng chia, có khổ cùng chịu, sống chết có nhau.

Trong ý nghĩa này, GH có bao giờ tự xét mình xem có thực sự đồng hành cùng dân tộc không ? Trong khi tất cả các tôn giáo bạn đang bị CS đàn áp, tước đoạt quyền tự do hành đạo, tịch thu tài sản và các phương tiện phụng tự, cấm giảng kinh sách, bỏ tù hàng loạt các vị lãnh đạo, thì GH giữ thái độ im lặng, dửng dưng như người bàng quan, đã thế còn đi lậy lục, xin xỏ CS từng chút ơn huệ riêng tư cho mình. GH như thế rõ ràng đã tự chứng minh là kẻ phá rào ăn mảnh và thủ lợi riêng. Làm sao bảo là GH đồng hành với dân tộc ? Nói đồng hành như thế (xin cho được nói thẳng) là nói xạo. GH đã không đồng hành với tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam thì câu hỏi được đặt ra là GH đồng hành với ai như câu khẩu hiệu muốn ám chỉ ? Chữ dân tộc trong khẩu hiệu của HĐGM chỉ còn có thể hiểu ngầm là đảng CSVN mà thôi. Mặc dầu như trên chúng tôi đã trình bầy.

GH không đủ tư cách để đồng hành với đảng CS. Mọi người đều hiểu rằng, khẩu hiệu của HĐGM trong hoàn cảnh khó khăn hiện tại mang ý nghĩa là sự rút gọn lại những lời giáo huấn của các đấng bề trên được coi như kim chỉ nam cho mọi tín hữu tuân theo. Nếu như vậy thì khẩu hiệu có sao đâu, miễn là mọi sự đều tốt đẹp cả. Nhưng vấn đề là khẩu hiệu có thật sự hàm chứa nội dung lời dậy dỗ trung thực của các đấng bề trên hay lại chỉ là trò chơi chữ, tức là dùng chữ nghĩa để che đậy những cái gì không tiện nói ra, hoặc giả để sơn phết cho một sự thực trần trụi khó coi nào đó cần dấu diếm ? Nếu là khẩu hiệu của CS thì đánh chết cũng chẳng ai tin, nhưng lại là của HĐGM thì việc tìm ra ý nghĩa đích thực của nó hoặc dụng ý trong đó hẳn là điều cần phải làm.

Có khá nhiều khẩu hiệu của HĐGM, và căn cứ vào các khẩu hiệu đó, người ta có thể nhìn thấy rõ toàn bộ chủ trương lối sống của Giáo Hội trong chế độ CS. Đạo Chúa là một tôn giáo nhập thế. Sống trong một quốc gia, người tín hữu là tín đồ, đồng thời còn là công dân, có trách nhiệm và bổn phận với dất nước, vì thế họ phải sống hoà nhập với tất cả mọi thành phần dân tộc. Sống đầy đủ bổn phận và trách nhiệm của mình, người tín hữu như thế là đã hoà đồng cùng mọi người, và như thế có thể được coi là tốt đạo đẹp đời rồi. Đồng hành cùng dân tộc chính là cuộc hành trình tới mục tiêu trần thế của Giáo Hội. Mục tiêu đó là con người được tự do về tinh thần, và hạnh phúc ấm no cho thân xác. Đạt tới mục tiêu đó, con người có thể coi là sống Thiên Đàng nơi trần thế rồi.

Nhưng ở Việt Nam hiện nay, cảm tưởng chung là người tín hữu chỉ được sống trong một thứ thiên đường vẽ. Đành rằng ở trần gian này chẳng ai hưởng được thiên đường hiện thực cả, nhưng ít nữa làm sao cái minh hoạ và cái hiện thực thể hiện được nguyên lý hỗ tương bổ túc cho nhau, chứ không phủ định nhau. Vậy thì tại sao các ngài giám mục lại nêu ra những khẩu hiệu nghe rất nổ kia để làm gì ? Có phải để ru ngủ các tín đồ không ? Hay là lặp lại lời hứa hẹn “gắng hy sinh đời ta tươi thắm hơn” như CS chăng ? Câu trả lời công bình nhất chắc không phải là một câu xác định, nhưng hầu như có đủ lý do để nghi ngờ rằng mục đích việc nêu khẩu hiệu là để nhắm che đậy một cái gì đó. Đến đây thì chúng tôi lại phải trở lại câu trả lời ba phải và lắt léo đã được nêu ra ở trên. Câu đó là : Nói vậy mà không phải vậy ... nhưng đúng là như vậy.

GH không đồng hành với Dân Tộc Việt Nam thì cách duy nhất chỉ còn có thể hiểu là GH đồng hành với đảng CS. Nhưng như trên đã phân tích, GH không thể được coi là đồng hành với đảng CS, vậy thì mục đích việc nêu câu khẩu hiệu “GH đồng hành cùng dân tộc” phải nói huỵch toẹt ra là GH muốn xác định đã tự nguyện phục tùng CS rồi, và khẳng định cùng đảng CS đi theo con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN). Nói rõ hơn là để làm vừa lòng CS, qua câu khẩu hiệu này, GH đã phủ nhận lập trường chống cộng của các bậc tiền nhiệm của các Ngài trước đây, đồng thời xác nhận lập trường đứng về phía đảng CSVN.

Nên nhớ rằng HĐGMVN năm 1951 đã ra thư chung xác định CS vô thần là một mối đe doạ lớn nhất hiện nay và công khai cấm tín hữu hợp tác hoặc làm bất cứ việc gì có lợi cho CS. Phân tích trên đã tìm ra được ý nghĩ đích thực của câu khẩu hiệu “GH đồng hành với dân tộc”. Đây chính là sự chuyển hướng lập trường của HĐMGVN nguỵ trang một cách khéo léo dưới một dòng văn tự bóng bẩy. Kết qủa của sự chuyển hướng này đã đem đến cho GH một chút không khí dễ thở hơn trong sinh hoạt của GH. Nói khác đi là chiếc thòng lọng trên cổ của GH đã được CS nới lỏng hơn một chút so với các tôn giáo khác. Nếu không có sự chuyển hướng này, làm sao các đức cha được phép xuất ngoại ồn ào như đã thấy, làm sao các cha, các sơ có thể lũ lượt chu du nước ngoài thăm thân nhân, bạn bè, con chiên bổn đạo để xin tiền náo nhiệt đến thế ? Tuy nhiên cũng phải nói cho rõ, có người được đi thoải mái, nhưng cũng có người bước ra khỏi ngõ cũng còn khó, nói chi đến chuyện ra nước ngoài.

Theo sách lược đấu tranh tiêu diệt kẻ thù của CS, thì việc kẻ thù chịu đầu hàng tư tưởng mới chỉ là bước đầu. Bước kế tiếp và là bước quan trọng là việc kẻ thù bị khuất phục bằng hành động, nghĩa là đối phượng phải tự nguyện làm những gì mà CS muốn. Công thức của bước kế tiếp áp dụng vào hành động nằm gọn trong câu thần chú thường thấy: Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, HĐGM (nhân dân) làm chủ. Việc HĐGM tuyên ngôn đồng hành với đảng CS mới chỉ là bước đầu trong âm mưu CS công cụ hoá GH.

Chúng ta có thể gọi đó là công tác định hướng xã hội chủ nghĩa đời sống Phúc Âm của GH giai đoạn một. Giai đoạn này tuy cần thiết nhưng không quan trọng, vì các giám mục có nói gì thì nói, CS cũng chẳng tin, chúng coi đó như chuyện nín thở qua sông của các Ngài mà thôi. Điều quan trọng đối với chúng là các Ngài phải thể hiện ý muốn đồng hành qua hành động. Việc quan trọng nhất trong các việc quan trọng mà HDGM đã thực hiện để được kể là thực lòng đồng hành với CS là các Ngài đã tự động trao trọn Quyền Tổ Chức GH vào tay đảng CS. Quyền Tổ Chức là quyền tuyển chọn, huấn luyện và đào tạo các cấp lãnh đạo cho GH, đặt để họ vào những vị trí thích hợp trong cơ chế GH ; hoạch định đường lối và các chánh sách của GH, duy trì sự hiệp nhất trong GH, và hơn nữa là trách nhiệm bảo vệ và gìn giữ sự trong sáng và thống nhất của giáo lý Phúc-Âm của Chúa. Những trách nhiêm trọng đại và cao cả này HĐGMVN đã chu toàn đươc ra sao ?

1. Trách nhiệm tuyển chọn, đào tạo, truyền chức, và bổ nhiệm.

Vấn đề này đã được rất nhiều con cái có thiện chí của Giáo Hội nêu lên một cách quyết liệt và nghiêm túc, đòi hỏi HDGM phải dành lấy quyền làm chủ trong vấn đề này chứ không thể vô lý trao trọn vào tay CS như hiện nay. Có người lý luận là CS cướp lấy quyền này chứ không phải HDGM tự động trao. Thật ra cũng có phần nào đúng. Nhưng suy cho cùng thì nếu GH tạm thời không công khai tuyển sinh, không bổ nhiệm, nghĩa là tạm thời đình chỉ thi hành quyền, thì CS lấy gì mà tước đoạt ? Tuy có khi phải tù đầy hoặc đổ máu, nhưng GH vẫn sinh động và phát triển tại những quốc gia mà ta thường gọi là “GH sau bức màn sắt” qua cách thức tuyển sinh, truyền chức, và bổ nhiệm chui. Mới đây ĐC Nguyễn Văn Hoà, chủ tịch HĐGM, làm đơn xin CS bỏ bớt đi một vài cửa aỉ sàng lọc, nhưng CS đâu có chấp thuận. Với tiến trình tuyển chọn và đào tạo chủng sinh hiện nay của HĐGM, có người gọi đại chủng viện là trường đào tạo cán bộ nhà nước qủa là không sai chút nào.

2. Trách nhiệm hoạch định đường lối và các chánh sách của GH.

Mỗi khi họp HĐGM, văn phòng Tổng Thư Ký phải xin phép nhà nước, nạp trước nghị trình và các vấn đề thảo luận, khi họp phải có sự hiện diện của cán bộ CS, sau khi thảo luận, nghị quyết phải được nhà nước thông qua và chấp thuận thì mới được thi hành. Như vậy thử hỏi HĐGM còn có thể đề ra đường lối, chánh sách riêng của mình theo nhu cầu của GH được sao ?

3. Trách nhiệm duy trì sự hiệp nhất trong Giáo Hội.

Khỏi nói thì ai cũng thấy hiện nay GHCGVN phân hoá và lung lay hơn bao giờ hết. Sự hợp nhất chỉ có ở bề mặt. chia rẽ Bắc Nam, chia rẽ vì quyền lợi, chia rẽ về ý thức trách nhiệm của GH trong các vấn đề phải bảo vệ công lý và sự thật, chia rẽ về lập trường của GH trước các vấn đề của đất nước cũng như của GH, chia rẽ vì sự ù lỳ của HĐGM và sự lộng hành của bọn linh mục quốc doanh v.v. Sự thể hiển nhiên này nếu biết khiêm tốn nhìn nhận để sửa sai thì mới mong hàn gắn lại được.

4. Trách nhiệm bảo vệ Giáo lý.

Có thể nói được rằng chính vì GH đã được định hướng theo XHCN, một đảng chính trị vô thần, nên trong GHCGVN đã thấy có nhiều biểu hiện xa rời giáo lý của Phúc-Âm. LM Nhuận Đức viết trên báo Công Giáo và Dân Tộc: “Tôn giáo là một khí cụ bóc lột áp bức tinh vi nhất, kinh khủng nhất. Thực vậy khi con người bị con người khác bóc lột thì hy vọng giải phóng dù sao cũng tồn tại, vì sức lực quyền năng của kẻ thống trị vẫn có giới hạn. Trái lại nếu đã tin rằng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, quyền phép vô cùng và cũng tin rằng Thiên Chúa đó thống trị áp bức, bóc lột thì làm sao còn hy vọng giải phóng ? Tôn giáo là con dao hai lưỡi. Đức Giêsu chấp nhận cuộc chơi, chấp nhận thách đố, và trả bằng giá máu của mình. Vậy những ai ngày hôm nay tiếp tục giải phóng con người thoát khỏi xiềng xích gông cùm dưới danh nghĩa tôn giáo là những kẻ tiếp nối sự nghiệp Đức Kitô. Cuộc cách mạng Việt Nam chứng minh điều đó”.

Cũng trên tờ báo này, LM Trương Bá Cần viết: “Ý định của Thiên Chúa quả đã bắt đầu thực hiện trên đất nước Việt Nam nhờ công lao của Hồ chủ tịch. Nếu Hồ chủ tịch muốn vào nước Trời, người sẽ vào trước hơn ai hết”. Đức Cha Nguyễn Sơn Lâm còn mạnh bạo hơn: “Đảng CSVN luôn nhìn thẳng vào sự thật, đánh gía đúng vào sự thật, nói rõ sự thật.” Những phát biểu trên của một số cấp lãnh đạo của GH cho ta thấy một điều: người ta muốn đồng hoá công cuộc cứu độ của Chúa Cứu Thế với việc làm cách mạng của người CS. Nói khác đi, những đấng làm thầy và đồng thời làm quốc doanh này cho rằng Chúa Giêsu chẳng qua cũng chỉ là một nhà cách mạng vô sản như những người CS ngày nay mà thôi. Vậy Chúa và các tay tổ CS như Karl Marx, Lenin, Mao Trạch Dong, Hồ Chí Minh cũng “the same” chứ chẳng ai khác ai.

Chính các Tông Đồ của Chúa ngày nay đã kéo Thầy mình là Thiên Chúa xuống ngang tầm những người CS, thậm chí còn không được bằng người CS như GM Nguyễn Sơn Lâm khẳng định “Chỉ có đảng CS mới nói rõ sự thật”. Chẳng thế mà Nước Trời là nơi mà Hồ Chí Minh muốn ra muốn vô là tuỳ ý hắn như LM Trương Bá Cần khẳng định ! Thật không còn thể tượng tượng nổi. Nên nhớ là những vị trên là những người đã gia nhập vào hàng ngũ lãnh đạo GH trong thời chánh quyền Quốc Gia quản lý đất nước, chứ không phải thời CS sau này. Dưới chế độ Cộng Hoà mà VC còn chui vào GH không mấy khó khăn như thế, phương chi lúc này đây, CS nắm toàn quyền sinh sát GH thì việc biến một cán bộ CS thành một ông cha, thậm chí giám mục, nào có khó khăn gì ? Không phải chỉ có bấy nhiêu, mà còn xuất hiện nhiều biểu hiện khác nữa xem chừng khá xa lạ đối với Giáo Lý của Phúc Âm mà vì sợ dài dòng chúng tôi không dám trình bầy hết ra đây.

Việc CS cho cán bộ xâm nhập vào GH là điều có thật, chứ không còn phải là sản phẩm tưởng tượng của những đầu óc chống cộng cực đoan như một số người thường nghĩ. Có rất nhiều tài liệu mật của thế giới CS đã được phanh phui chứng minh điều đó. Báo cáo năm 1961 của KGB tiết lộ : “Có khoảng 600 người dự các lớp đào tạo giáo sĩ trong giáo phận Moscow và 5 chủng viện.

Phải khai thác để đáp ứng nhu cầu của chúng ta. Chúng ta phải gài người của chúng ta vào hàng ngũ các chủnh sinh này, để về sau họ sẽ gây ảnh hưởng lên các hoạt đông của GH Chính Thống Nga. Họ sẽ là nhân viên của chúng ta để gây ảnh hưởng đến tín đồ các tôn giáo ... ” Qua năm sau (1962), Gribanov, phụ tá giám đốc KGB báo cáo: “KGB đã thành công trong việc cho xâm nhập những điệp viên có khả năng, và giá trị vào các chức vụ cao cấp của giáo phận Moscow và các giáo phận của Công Giáo, và của GH Armenian Gregorian”. Ông ta còn tuyên bố: “Với những điệp viên này, chắc chắn chúng ta sẽ loại bỏ được bọn tu sĩ và giáo hội phản động ra khỏi chức vụ của họ”.

Ở Việt Nam, những tài liệu thuộc loại tuyệt mật như trên tin rằng không thiếu, nhưng CS chẳng bao giờ dám khui ra, mà chỉ mới thấy những tài liệu học tập tuy cũng mật nhưng đã được tiết lộ. Một tài liệu học tập của CS viết: “Làm cho Giáo Hội Thiên Chúa từ chỗ làm công cụ của chủ nghĩa đế quốc chống cách mạng, chống CS, trở thành một tôn giáo phục tùng nhà nước, có tinh thần yêu nước, đi với dân tộc và chủ nghĩa xã hội, và biến cải giáo lý, tổ chức, luật lệ, lễ nghi theo hướng tiến bộ.”

Hoặc một tài liệu dùng cho cán bộ làm công tác tôn giáo giáo dục cán bộ: “Giúp đỡ các giáo hội xây dựng tổ chức và duy trì đường hướng hành đạo theo đúng tinh thần của nước Việt Nam độc lập, có chủ quyền. Làm tốt công tác nắm các chức sắc, chức việc, giáo sĩ để tranh thủ ho ... .” (Nên lưu ý chữ “giúp đỡ” bọn CS thường dùng có nghĩa là khống chế). Hiện nay, CS không cần phải gài người hay cấy người của chúng vào GH, vì chúng đã có toàn quyền việc tuyển chủng sinh, chọn người làm linh mục, và thậm chí quyết định việc bổ nhiệm giám mục.

Thời kỳ trước khi khi chiếm được miền Nam CS mới phải nhọc công làm chuyện gài hay cấy người. Việc đó có vẻ khó khăn trên lý thuyết, vì công việc đào tạo giáo sĩ của CG rất thận trọng và khó khăn. Nhưng CS cũng đã thành công được phần nàọ. Những ông cha ngày nay giáo dân gọi chính xác là linh mục chính uỷ không thiếu tại Việt Nam đã nói lên sự thành công của CS.

An 1871 caricature following publication of The Descent of Man was typical of many showing Darwin with an ape body, identifying him in popular culture as the leading author of evolutionary theory. [Tranh hý hoạ vẽ Darwin dưới hình vượn, như "dã nhân" tiền kiếp/hay "hậu sinh", theo thuyết Tiến Hoá /di truyền/ của chính Darwin].

Sự thành công của CS trong vấn đề này bất luận thế nào đi chăng nữa cũng có nghĩa là sự thất bại của GH, và đều mang lại thiệt hại. Nếu HĐGM chỉ dẫn dắt GH đồng hành với CS “bằng miệng” không thôi thì sự thiệt hại nếu có cũng chẳng đáng kể. Bất qúa bản thân các giám mục mất mát chút đỉnh uy tín thôị. Nhưng khi đã hết lòng đồng hành với CS trong tất cả mọi khía cạch của đời sống Giáo Hội thì sự thiệt hại không thể không có. Cứ cái đà này mà tiến, tương lai GH sẽ đi về đâu, người ta đã có thể nhìn thấy được. GH của Chúa sau này biến thành một hình tượng quái dị nào đó kiểu “Hồn Trương Ba, da hành thịt” là chuyện có thể lắm.

Làm thầy thuốc sai lầm giết một ngườị. Làm chính trị sai lầm giết một dân tộc. Làm văn hoá sai lầm giết nhiều thế hệ. Còn làm tông đồ của Chúa mà sai lầm thì không biết kết quả sẽ ra sao ? Xin để quý bạn đọc tự tìm lấy câu trả lời.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Sunday, October 3, 2010

LẠI LẬP LỜ CHUYỆN DANH NHÂN VĂN HÓA - Trần Gia Phụng

Trần Gia Phụng

Sáng nay, Thứ Sáu 1-10-2010, Đại lễ Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long được khai mạc tại Hà Nội. Trong diễn văn khai mạc, ông Phạm Quang Nghị, Ủy viên Bộ chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN), bí thư thành ủy Hà Nội, sau khi ôn lại công đức của tiền nhân, đã xưng tụng Hồ Chí Minh, lãnh tụ sáng lập đảng CSVN như sau: “Người được toàn thể nhân dân tôn kính gọi là Bác Hồ; được nhân loại tôn vinh Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới. Người đã nêu cao chân lý của dân tộc, đồng thời cũng là chân lý lớn của thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”

Câu nầy là một câu tuyên truyền mẫu của CSVN, cả hai vế:

1. Vế đầu nói rằng Hồ Chí Minh được nhân loại tôn vinh là “anh hùng giải phóng dân tộc”.
2. Vế thứ hai cho rằng Hồ Chí Minh được nhân loại tôn vinh là “danh nhân văn hóa thế giới”.

Cả hai vế nầy đều cần phải xét lại vì càng ngày người Việt Nam càng thấy rõ những sai lầm của Hồ Chí Minh và đảng CSVN, và chính Hồ Chí Minh là tội đồ dân tộc vì đã đưa dân tộc vào vòng lệ thuộc Trung Cộng. Riêng bài nầy xin đề cập đến vế thứ hai là Hồ Chí Minh có được nhân loại tôn vinh là danh nhân văn hóa thế giới hay không?

Sở dĩ bài nầy chỉ đề đến chuyện danh nhân văn hóa thế giới, vì trong lễ khai mạc sáng nay, có cô Irina Bokova, tổng giám đốc cơ quan UNESCO tham dự. UNESCO là chữ viết tắt của United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization tức Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (LHQ).

Trong bài diễn văn trình bày tại buổi lễ nầy, cô Irina Bokova nói như sau: “As it did for the centenary of the birth of Ho Chi Minh, the General Conference of UNESCO adopted a resolution calling upon the world’s countries to celebrate with you today.” (http://unesdoc.unesco.org/images/0018/001895/189527e.pdf)

Như thế rõ ràng cô Irina Bokova hoàn toàn không đề cập gì đến việc UNESCO phong tặng Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới, vì sự thật, Hồ Chí Minh chưa bao giờ được UNESCO thừa nhận là một danh nhân văn hóa thế giới. Xin hãy trở lại từ đầu câu chuyện nầy.

Tổ chức UNESCO, trụ sở đặt tại Paris, hằng năm có thông lệ nhắc nhở sinh nhật thứ 100 của các vĩ nhân các nước thành viên LHQ. Vào năm 1987, phái đoàn Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), nhân được luân phiên tham gia vào ban Chấp hành Tiểu ban Văn hóa UNESCO, đã đề cử Hồ Chí Minh (1890?-1969), lãnh tụ sáng lập đảng CSVN, vào “Danh sách danh nhân văn hóa thế giới”, nhân dịp 100 năm sinh niên của nhà chính trị nầy (1990).(1)

Theo sách Records of the General Conference [Tổng kết Đại hội đồng) của Hội nghị khóa 24 của UNESCO diễn ra tại Paris từ ngày 20-10 đến ngày 20-11-1987, tập 1 (bằng Anh ngữ, 215 trang), chủ đề “Resolutions” [Quyết nghị], phần B là “General programme activities” [Chương trình hoạt động tổng quát]), mục 18 là “External relations and public information” [Quan hệ ngoại vi và thông tin cộng cộng], tiểu mục 18.65 ghi nhận việc đề cử vinh danh Hồ Chí Minh vào năm 1990 (trang 134-135), kết thúc như sau: “Yêu cầu ông Tổng giám đốc UNESCO thực hiện những giai đoạn thích hợp để kỷ niệm một trăm năm sinh niên chủ tịch Hồ Chí Minh, và yểm trợ những hoạt động tưởng niệm trong dịp nầy, đặc biệt những hoạt động tại Việt Nam.”(2)

1. Ngoài Hồ Chí Minh, trong danh sách được đề nghị vinh danh năm 1990 còn có các nhân vật: Phya Anuaman Rajadhon (Thái Lan), Thomas Munzer (Đức), Anton Semionovitch Makarenko (Liên Xô), Jawaharlal Nerhu (Ấn Độ) và Sinan (Thổ Nhĩ Kỳ). (UNESCO, sđd., phần “Mục lục”, tr. VII.) Lời tuyên dương tất cả các nhân vật được đề cử, kể cả Hồ Chí Minh, do nhà cầm quyền các nước liên hệ soạn trình. Sau khi được Tiểu ban Văn hóa chấp thuận, Đại hội đồng UNESCO đã thông qua đề nghị trên mà không thảo luận. Lúc đó, Tổng giám đốc UNESCO là ông M’Bow, người Phi Châu. Ông M’Bow giữ chức vụ nầy hai nhiệm kỳ liên tiếp nhờ sự hậu thuẫn của Liên Xô, các nước cộng sản và các nước Á Phi chống đối Hoa Kỳ.

Quyết định đề cử Hồ Chí Minh vào “Danh sách danh nhân văn hóa thế giới” bị Cộng đồng người Việt hải ngoại phản đối khắp nơi trên thế giới. Tại Paris, nơi đặt trụ sở của UNESCO, Uỷ Ban Tố Cáo Tội Ác Hồ Chí Minh (UBTCTAHCM) được thành lập, do ông Nguyễn Văn Trần làm Tổng thư ký. Uỷ ban nầy đã hoạt động tích cực như sau:

1. UBTCTAHCM vận động người Việt và báo chí Việt ngữ ở hải ngoại (Bắc Mỹ, Úc Châu, Âu Châu, Nhật Bản) viết thư cho UNESCO vạch trần tội ác của Hồ Chí Minh và chế độ cộng sản trong nước, đồng thời phản đối việc đề cử Hồ Chí Minh vào danh sách danh nhân văn hóa thế giới. Ý kiến phản đối lên đến khoảng 20,000 thư, đều được Giám đốc phụ trách vùng Đông Nam Á của UNESCO chuyển cho Đại diện của Hà Nội tại UNESCO. Ngoài ra, có người còn viết sách tố cáo Hồ Chí Minh đã ăn cắp thơ của người khác làm thơ của mình trong tập thơ Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù). (Lê Hữu Mục, Hồ Chí Minh không phải là tác giả “Ngục trung nhật ký”, Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Canada, 1990.)

2. UBTCTAHCM liên lạc và kêu gọi Uỷ Ban Tương Trợ Việt-Miên-Lào và Hội Người Pháp Đông Dương (ANAI: Association Nationale des Anciens D’Indochine) gồm gia đình Pháp kiều, cựu quân nhân Pháp phục vụ tại ba nước Đông Dương, lên tiếng tố cáo Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã vi phạm nhân quyền đối với tù binh Pháp sau chiến tranh Đông Dương. Lúc đó, một học giả Pháp nổi tiếng là Jean-François Revel, tác giả các sách: Ni Marx ni Jesus (1970), La tentation totalitaire (1976), Comment les démocraties finissent (1983), khi nghe tin UNESCO dự tính vinh danh Hồ Chí Minh đã viết một bài báo vào đầu năm 1990, nói rõ Hồ Chí Minh đã lợi dụng ước mơ tự do để nô lệ hóa dân chúng, và cho rằng “đây là một trường hợp phạm tội gia trọng, một vụ ăn cắp, một vụ lừa bịp không hơn kém…”(3)

3. UBTCTAHCM liên hệ với Thị xã Paris và một số dân biểu, nghị sĩ Pháp, đề nghị họ đưa vấn đề ra trước Quốc hội Pháp, nhằm yêu cầu chính phủ Pháp có ý kiến với UNESCO về đề nghị vinh danh HCM, vì trụ sở của tổ chức nầy đặt tại Paris.

Trong khi cuộc vận động đang diễn tiến, thì lúc đó có ba sự kiện quan trọng xảy ra:

1. Trong nội bộ UNESCO, ông tổng giám đốc M’Bow thôi giữ chức tổng giám đốc, và ông Frederic Mayer, nhân sĩ Tây Ban Nha, đắc cử chức Tổng giám đốc. Ông Mayer không ủng hộ nhóm thiên tả, và không ủng hộ việc đề cử Hồ Chí Minh vào “Danh sách danh nhân văn hóa thế giới”. Ông Mayor tuyên bố không thể hủy bỏ quyết nghị năm 1987 vì chỉ có Đại hội đồng của UNESCO mới có quyền nầy, nhưng ông cũng cho biết UNESCO sẽ không tổ chức lễ vinh danh Hồ Chí Minh. Thực tế là ngân khoản năm 1990 do ông tổng giám đốc Mayer soạn thảo không có ngân khoản cho công việc nầy. Ngoài ra, hồ sơ lưu trữ về những hoạt động trong hai năm 1990, 1991 của UNESCO hoàn toàn không đề cập gì đến việc vinh danh Hồ Chí Minh. (4)

2. Tại Việt Nam, số người vượt biên càng ngày càng cao. Từ năm 1975 đến năm 1989 (trước thời điểm Cao Uỷ Tỵ Nạn LHQ ra lệnh khóa sổ các trại tỵ nạn, không nhận người vượt biên), số người vượt biên đến được nơi tạm dung lên đến khoảng 900,000 người, không kể số người tử nạn trên đường vượt biên.(5)

3. Các nước cộng sản Đông Âu bắt đầu lung lay và sụp đổ từ cuối năm 1989 đầu năm 1990.

Cuộc vận động của UBTCTAHCM, phản ứng của Cộng đồng người Việt khắp thế giới, và ba sự kiện trên đây đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến UNESCO. Cuối cùng UNESCO quyết định không thi hành việc đề cử Hồ Chí Minh vào “Danh sách danh nhân văn hóa thế giới”. UNESCO cũng thông báo cho nhà cầm quyền Hà Nội biết, đại để như sau:
    - UNESCO không tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm sinh niên của Hồ Chí Minh tại Paris, cũng thư tại Hà Nội.

    - Thuận cho Tòa Đại sứ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ở Paris thuê một phòng tại trụ sở UNESCO để tự tổ chức, nhưng UNESCO không cử đại diện tham dự lễ.

    - Trong buổi lễ, ban Tổ chức không được tuyên truyền rằng UNESCO đã đề cao Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới, không được treo ảnh Hồ Chí Minh trong hội trường.

    - Thiệp mời chỉ được ghi là “tham dự buổi văn nghệ”.
Sau khi UNESCO quyết định như trên, để vớt vát thể diện, tòa Đại sứ CHXHCNVN tại Paris đã thuê một phòng tại trụ sở UNESCO ở Paris để tổ chức buổi trình diễn văn nghệ vào trưa ngày 12-5-1989, đúng một tuần lễ trước sinh nhật của Hồ Chí Minh.(6) Buổi trình diễn văn nghệ nầy, quy tụ khoảng 70 người hiện diện, bao gồm cả ban tổ chức và nhóm “Việt kiều Yêu nước” là tổ chức do CSVN lập ra. UNESCO và chính phủ Pháp không cử đại diện đến dự. Chỉ có các nước cộng sản gởi người đến tham dự là Cuba, Bắc Hàn, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, Lào và Cambodia.

Trong buổi trình diễn văn nghệ nầy, ông Đại sứ CHXHCNVN tại Pháp là Phạm Bình không đọc diễn văn, mà chỉ có ông Nguyễn Kinh Tài, đại diện CHXHCNVN tại UNESCO đọc bài viết ngắn về ý nghĩa buổi lễ, ca tụng sự nghiệp của Hồ Chí Minh, nhưng theo đúng tinh thần quyết định sau cùng của UNESCO, là không đề cập gì đến vấn đề danh nhân văn hóa thế giới.

Tòa Đại sứ CSVN lập kế hoạch tổ chức trình diễn văn nghệ kỷ niệm lãnh tụ của họ vào buổi trưa ngày 12-9, đúng một tuần lễ trước ngày sinh của ông Hồ, nhắm tạo bất ngờ để tránh bị biểu tình phản đối, nhưng Uỷ ban Quốc tế Trần Văn Bá (UBQTTVB) (mới được thành lập nên không là thành viên của UBTCTAHCM), đã kịp thời tổ chức một cuộc biểu tình phản kháng, gồm khoảng trên 100 người Việt, tại công trường Fontenoy, gần trụ sở UNESCO.

Đại diện của đoàn biểu tình là các ông Trần Văn Tòng, Chủ tịch UBQTTVB, cùng với học giả Oliver Todd, thành viên sáng lập UBQTTVB và bà Anne Marie Goussard, Tổng thư ký Hội Quốc tế Nhân quyền, đến gặp ban Giám đốc UNESCO để hỏi rõ mục đích và ý nghĩa của buổi sinh hoạt văn nghệ do CSVN tổ chức tại một phòng họp của UNESCO. Ban Giám đốc UNESCO xác nhận với phái đoàn Uỷ ban Quốc tế Trần Văn Bá rằng, đây là buổi văn nghệ do Tòa Đại sứ CHXHCNVN tại Pháp tổ chức, chứ không phải là lễ vinh danh Hồ Chí Minh của UNESCO.

Sau khi ban Giám đốc UNESCO xác nhận như trên, trong cuộc họp của Uỷ ban Quốc tế Trần Văn Bá tại trung tâm Maubert Mutualité (Paris 5ème) vào lúc 6 giờ chiều cùng ngày 12-5-1989, ông Oliver Todd đã lên diễn đàn tường trình lại cuộc tiếp xúc với Ban Giám đốc UNESCO. Trong khi tường trình, ít nhất ông Oliver Todd đã hai lần nói rõ rằng Ban Giám đốc UNESCO xác nhận rằng UNESCO không tổ chức vinh danh Hồ Chí Minh, và cũng cho biết buổi trình diễn văn nghệ nhân kỷ niệm một trăm năm sinh niên Hồ Chí Minh vào chiều hôm đó, là do sáng kiến của Tòa Đại sứ CHXHCNVN mà thôi.

Cũng cần ghi nhận thêm, ông Bùi Tín, vào năm 1990 còn là đại tá bộ đội CSVN, đã có mặt tại Hà Nội trong buổi lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Hồ Chí Minh, do CSVN tổ chức tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội, ngày 19-5-1990, cho biết không có đại diện của UNESCO đến dự. (7)

Như thế là rõ ràng là Hồ Chí Minh chưa bao giờ được tổ chức UNESCO vinh danh là danh nhân văn hóa thế giới. Đó là sự thật của câu chuyện được các tài liệu của UNESCO ghi nhận. Nếu ai chưa tin, thì xin mời sưu tra hồ sơ lưu trữ của UNESCO. Hồ sơ của UNESCO vẫn còn đó, rộng mở cho tất cả những nhà nghiên cứu, kể cả những nhà nghiên cứu của CHXHCNVN. Thời đại nầy là thời đại thông tin tiến bộ, mọi dữ kiện đều được ghi nhận cụ thể, nên mọi người có thể sưu tra trong các văn khố, nhất là những nguồn tin không thuộc loại bí mật quốc gia, như việc vinh danh một nhà hoạt động chính trị, chẳng cần gì phải để thời hạn lâu ngày mới công bố.

Trong lễ khai mạc kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, ông Phạm Quang Nghị, Ủy viên Bộ chính trị đảng CSVN, bí thư thành ủy Hà Nội, thật sự cũng không dám nói là UNESCO vinh danh Hồ Chí Minh. Ông chỉ lắt léo chơi chữ là Hồ Chí Minh được “nhân loại tôn vinh Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới ….” để tránh bị UNESCO khiển trách, nhưng đồng thời ông Phạm Quang Nghị lập lờ như thế nhằm kiếm cách đánh lừa người nghe trong nước có cảm tưỏng rằng Hồ Chí Minh đã được UNESCO tôn vinh là danh nhân văn hóa thế giới, vì ông đã trình bày điều đó ngay trước mặt cô Irina Bokova, tổng giám đốc UNESCO.

Đúng là trò tuyên truyền bịp bợm kiểu CVSN

Trần Gia Phụng
(Toronto, 1-10-2010)

CHÚ THÍCH:

1. Nghiêm Văn Thạch, tài liệu đưa lên Internet ngày 4-1-2005, và tài liệu Phan Văn Song đưa lên Internet vào cuối tháng 5-2005. Theo Bùi Tín, bài đưa lên Internet và các báo đăng lại vào tháng 8-2005, thì thư đề nghị do bộ trưởng cộng sản Võ Đông Giang, chủ tịch UNESCO của Việt Nam, ký ngày 14-7-1987.
2. Nguyên văn Anh ngữ: ”Requests the Director-General of UNESCO to take appropriate steps to celebrate the centenary of the birth of President Ho Chi Minh and to lend his support to commemorative activities organized on that occasion, in particular those taking place in Viet Nam.” Để truy tìm các quyết nghị của UNESO, xin vào: http://unesdoc.unesco.org/ulis/cfgdoc_25c.html, tại khung “Simple search”, điền chữ “Resolutions”. Muốn xem riêng quyết nghị năm 1987, xin kéo xuống “UNESCO. General Conference; 24th; 1987.”
3. Bản dịch đăng trên nguyệt san Thế Kỷ 21, Garden Grove, California, số 120, tháng 4-1999, tt. 31-32.
4. Đại hội đồng UNESCO được triệu tập hai năm một lần, nên hai năm mới có một bản tổng kết sinh hoạt UNESCO. (1986-1987, 1988-1989, 1990-1991).
5. Theo thống kê do Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc đưa ra năm 2000, được nhà báo Giao Chỉ ghi lại trong bài “Lịch sử 30 năm định cư tỵ nạn 1975-2005”, nhật báo Người Việt Online, ngày 1-4-2005.
6. Bài nói chuyện của bác sĩ Nguyễn Ngọc Quỳ, một nhà hoạt động chính trị kỳ cựu tại Paris, trước Cộng đồng Việt Nam tại Montréal, ngày Chủ nhật 25-4-2004.
7. Bùi Tín, bài báo đã dẫn.

Friday, October 1, 2010

VIỆT TÂN CŨNG LÀ VIỆT CỘNG? - Lê Văn Ấn

Lê Văn Ấn

Ở những bài trước, chúng tôi đã trích những tài liệu chính thức của Việt Tân để xác nhận Việt Tân và Việt Cộng đang cộng tác chặt chẽ với nhau từ trong nước ra hải ngoại. Ðiều đáng tủi hổ cho người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản là đảng Việt Tân lại cam tâm làm em hay tay sai đảng Việt Cộng! Chúng tôi cũng minh xác rằng từ trước đến nay, tuần báo Tiếng Dân vẫn gọi Việt Tân là Việt Cộng nối dài tại hải ngoại. Và sau khi chứng minh những điều xác định trên là đúng sự thật, chúng tôi cũng đã lưu ý đồng hương: chỉ tại đồng hương phần thì thiếu thận trọng, dễ tin, thiếu cương quyết, phần mau quên đã giúp Việt Tân phục vụ Việt Cộng đắc lực tại hải ngoại này. Chúng tôi cũng đưa ra mấy trường hợp ở các thời điểm khác nhau và các địa phương khác nhau để chứng minh: Việt Tân lúc nào cũng thế. Nói cách khác là Việt Tân ở Âu Châu, Mỹ Châu, Úc Châu vẫn là em của Việt Cộng.

- Trung Thu năm 1999 tại Houston, Texas, đảng Việt Tân đã lợi dụng Tết Thiếu Nhi để phân phối lén lút lồng đèn của Việt Cộng, lồng đèn nào cũng có khẩu hiệu của Việt Cộng Hồ Chí Minh: “Vì các cháu thiếu nhi, toàn dân ta kháng chiến”, cán bộ VC đi chân đất, đội nói cối. Sau khi bị lật tẩy với những chứng cớ không chối cãi được, Việt Tân đã phải công nhận các lồng đèn này của Việt Tân mua năm 1983 tại Hồng Kông?! Ðây là cái tình đồng chí của Việt Tân đối với Việt Cộng. Phải lén lút, rình chờ có dịp là biểu lộ tình cảm thắm thiết với Việt Cộng, nói Việt Tân là em Việt Cộng có oan không?

- Khi Trần Trường nịnh Việt Cộng để hình Hồ Chí Minh và lá cờ máu VC trong tiệm của hắn ta, đồng hương Nam Cali hợp cùng đồng hương các nơi khác về biểu tình 53 ngày đêm, ăn Tết luôn tại vỉa hè, trục xuất được Hồ Chí Minh và lá cờ máu. Trong 53 ngày đêm này, không thấy mặt mũi Ðỗ Hoàng Ðiềm và Ðoàn Thanh Niên Phan Bội Châu (của Việt Tân) đâu cả. Nhưng đến khi thấy Hồ Chí Minh và lá cờ máu phải cuốn gói, Ðỗ Hoàng Ðiềm liền xin phép Ban Tổ Chức Biểu tình tổ chức “Ðêm Không Ngủ”. Khi được chấp thuận, Ðỗ Hoàng Ðiềm cùng Ðoàn Thanh Niên này lập tức dùng hình ảnh, tài liệu Việt Cộng “Tội Ác Mỹ Ngụy” chiếu slideshow cho đồng bào coi, lại còn thả “bồ câu hòa bình” tâng bốc VC, bà Nguyễn Việt Nữ đã can ngăn nhưng chúng không chịu, đến khi bà tố cáo với đồng bào thì Ðỗ Hoàng Ðiềm năn nỉ “chị tha cho em một lần”. Ðỗ Hoàng Ðiềm và thanh niên “Phan Bội Châu” đã trả thù cho Trần Trường và Hồ Chí Minh cũng như lá cờ máu!

- Cách đây mấy năm, đài phát thanh Chân Trời Mới của Việt Tân đã phát thanh 5 tuần liên tiếp bài viết của tên Việt Cộng Hà Dương Dực tuyên truyền cho Việt Cộng, mạt sát người Quốc Gia thậm tệ, thế mà từ những tên chóp bu cho đến ban biên tập, ban kiểm tin, ban phát thanh vẫn phát đủ 5 lần. Bị đồng bào phản đối và chính Việt Tân cũng phải nhìn nhận đó là bài tuyên truyền cho Việt Cộng. Chỉ có Việt Tân và Việt Cộng là một mới có những hành động khốn nạn như vậy.

- Cộng đồng Việt Nam tại Vương Quốc Bỉ đang có đề án xây bia kỷ niệm và cảm tạ Vương Quốc Bỉ đã đùm bọc giúp đỡ người Việt tị nạn Cộng Sản mấy chục năm qua. Hội Chuyên Gia, một đoàn thể ngoại vi của Việt Tân lại phỗng tay trên, tự ý xin giấy phép và “mọi sự đã hoàn thành” chỉ xin các hội đoàn đóng góp để trả chi phí 7 ngàn euros! Nếu cộng đồng người Việt tị nạn Cộng Sản tại Bỉ không cương quyết, không buộc được Hội Chuyên Gia này ngưng việc làm “phỗng tay trên” như vậy, chắc chắn cái bia đó sẽ có lợi cho Việt Cộng.

- Chủ trương hiện tại của Việt Tân là đánh phá các Ban Ðại Diện Cộng Ðồng địa phương, để rồi chúng đưa người của chúng vào, nếu thành công thì coi như Việt Cộng đã chiếm được chính quyền nơi đó. Mấy chữ “Quốc Gia chống Cộng” chỉ còn là cái vỏ, “vàng vỏ đỏ lòng” như tại Houston, Portland. Hiện nay, Việt Tân đang núp sau lưng LÐCT do những đảng viên Việt Tân giựt dây để lũng đoạn cơ chế cộng đồng tại Bắc California với chiêu bài ủng hộ Minh Dương hạ bệ Madison.

Tuy nhiên, vì những tên Việt Tân hiện nay tại San Jose nói riêng, Bắc Cali nói chung đã bị đồng hương nhẵn mặt như Hoàng Thế Dân, Hoàng Hồ, v.v… coi như đã bị cháy, nên bọn này rút vào bóng tối, chúng dùng lại những “cựu cán bộ” có thành tích “chống Cộng” để thi hành quỷ kế mà điển hình là Huỳnh Lương Thiện.

Tuần báo Tiếng Dân từ khi góp mặt với giới truyền thông ở Bắc California, đã liên tiếp tố cáo trước dư luận đồng hương: Mặt Trận Hoàng Cơ Minh lúc trước và Việt Tân bây giờ là bàn tay nối dài của Việt Cộng. Ðến nay, chẳng đặng đừng, Tiếng Dân mới vạch thẳng mặt sự cấu kết giữa LÐCT, UBBN 2 và Việt Tân, đồng hương mới nhận rõ bộ mặt Việt Tân cũng là Vệt Cộng đang phá hoại cộng đồng. Nhiều đồng hương đã kêu điện thoại cho chúng tôi và trách “TẠI SAO CHUYỆN ÐỘNG TRỜI NHƯ VẬY MÀ ÐẾN NAY MỚI TIẾT LỘ!”

Cái thâm độc của Việt Tân hiện nay là bất cứ ai ở trong nước hoạt động vì tự do dân chủ mà bị Việt Cộng bắt, Việt Tân ở hải ngoại lập tức vu cho họ là “đảng viên Việt Tân” để Việt Cộng dễ bề tra tấn, lên án họ một cách vô tội vạ. Trong cuộc phỏng vấn của đài RFA do phóng viên Mặc Lâm phụ trách, chính Ðỗ Hoàng Ðiềm, Chủ tịch đảng Việt Tân đã không dấu diếm chủ trương và hành động độc ác của Việt Tân là gây khốn khó cho các cá nhân, những nhà đấu tranh vì tự do dân chủ ở trong nước và gia đình của họ.

Khi được phóng viên Mặc Lâm hỏi: Thưa ông trên trang Web chính thức của Việt Tân ghi rằng “Phải đợi đến sau khi đảng Việt Tân lên tiếng tố cáo trước công luận, nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam mới thú nhận viêc bắt giữ ông Phạm Minh Hoàng vào ngày 9 tháng 9 vừa qua”. Ông nghĩ sao nếu dư luận cho rằng đây là một hành động chứng tỏ Việt Tân đã trúng bẫy của Hà Nội?

Ðỗ Hoàng Ðiềm đã trả lời: “Dạ thưa chúng tôi quan niệm như thế này, Hà Nội đã thường xuyên bắt giữ rất nhiều người và không bao giờ xét xử hoặc đem ra trước công luận là một thủ đoạn rất nguy hiểm, cách làm việc đó của họ rất tai hại … thành ra chúng tôi phải làm sao cho những người này được dư luận quốc tế biết tới.”

Quý độc giả và đồng hương nên nhớ, trước hết, dư luận đã biết rất sớm việc VC bắt giữ giáo sư Phạm Minh Hoàng, vì sau khi chồng bị bắt, bà Kiều Oanh đã báo động với truyền thông quốc ngoại, đâu phải đợi tới khi Web của Việt Tân lên tiếng??!!. Và qua lời của Ðỗ Hoàng Ðiềm ai cũng hiểu rằng: vì mục đích “làm sao cho những người này được dư luận quốc tế biết tới” mà Việt Tân “buộc lòng” phải nhận họ là đảng viên Việt Tân, dù họ có là đảng viên hay không. Ðây là cách gắp lửa bỏ tay người của đảng Việt Tân. Nói cách khác đây là cách toa rập với Việt Cộng để hại người quốc gia chống Cộng. Vì ai cũng biết, một khi là đảng viên của một đảng chính trị thì phải biết ai móc nối mình, hệ thống tổ chức của đảng, hoạt động với ai, tài liệu, tài chánh ra sao, đã làm gì v.v… Nếu một người không phải là đảng viên, dù có tra tấn đến chết, nạn nhân cũng không thể khai báo gì cả, vì họ hoàn toàn không biết. Như vậy, chẳng những Việt Tân giúp Việt Cộng có cớ để “hãm hại” các nhà đấu tranh, mà đây còn là cơ hội để dàn dựng một tổ chức Việt Tân được dư luận biết đến như một đảng chính trị đang hoạt động tại nước ngoài và có nhiều đảng viên hoạt động đấu tranh trong nước. Sau cùng, vì có sự xác nhận của Việt Tân nên sự can thiệp của quốc tế sẽ không hiệu quả bằng một người dân bình thường vì bị áp bức mà nói lên tiếng nói công đạo. Ðây là những gì mà Việt Tân giúp Việt Cộng trừng trị bất cứ ai chống đối chúng, vì “họ là đảng viên Việt Tân” một đảng mà VC gán cho là khủng bố, mặc dù họ có một hành vi “khủng bố” duy nhất là “khủng bố dổm”, liệng chất nổ không có ngòi nổ.

Ðỗ Hoàng Ðiềm là một người bình thường, không chậm trí, không bị bệnh tâm thần mà còn là một người trí thức, được giữ chức vụ lớn nhất đảng, không thể nào lại có những suy nghĩ và hành động của người điên, hay chậm trí như vậy. Hơn nữa, đây là chủ trương của đảng Việt Tân, nghĩa là đã được “Trung Ương” thông qua.

Bà Kiều Oanh, vợ giáo sư Phạm Minh Hoàng đã “khôn ngoan” hơn cả đảng Việt Tân khi không chấp nhận chồng mình là đảng viên Việt Tân. Chính những người đã từng là học trò của giáo sư Phạm Minh Hoàng xác nhận giáo sư chẳng những khuyên sinh viên lo học trước đã, không nên gia nhập đảng phái kẻo vấp lầm nhất là đảng Việt Tân. Ðiều này cho thấy sự độc ác tàn bạo của Ðỗ Hoàng Ðiểm nói riêng và đảng Việt Tân nói chung. Việt Tân đã vu oan cho giáo sư Phạm Minh Hoàng, giúp cho Việt Cộng có cớ giam cầm giáo sư lâu ngày “vì nhu cầu điều tra”. Và khi đưa ra tòa VC có cớ để buộc tội nặng nề nạn nhân. (Ba Cây Trúc: Sábg nay 30/9/2010, tờ báo Le Soir cho biết tin từ Hà Nội, VC sẽ đưa giáo sư Hoàng ra toà án với hình phạt từ 5 năm cấm cố đến tử hình!) Trong lịch sử chính trị, chưa ai ngu dại đến nỗi khai ra tổ chức của mình. Và chính tổ chức mà người đó gia nhập cũng phủ nhận để đối phương không thể buộc tội nạn nhân. Thế mà Việt Tân chủ trương “cấp chứng minh thư” cho bất kỳ ai bị VC bắt. Việt Tân đã lên án sẵn để VC dễ bề trừng trị đối lập.

Ðỗ Hoàng Ðiềm cho rằng VC khi tuyên án không căn cứ vào người có đảng hay không, như nữ luật sư Lê Thị Công Nhân là phát ngôn viên của đảng Thăng Tiến bị 3 năm tù trong khi nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa không nằm trong đảng phái lại bị 6 năm tù, vì vậy “Sau khi cân nhắc như tôi vừa nói lúc nãy thì tôi quyết định phải công bố sự liên hệ của 4 người này đối với đảng Việt Tân để chúng tôi có thể huy động sự đấu tranh một cách hữu hiệu hơn”. Ðây lại là một thứ ngụy biện man trá và dại dột nếu cho rằng Việt Tân là đảng chống Cộng. Không thể lấy 2 trường hợp cá biệt để “vu vạ” cho những nạn nhân của Việt Cộng là đảng viên của mình. Ðộc ác hơn nữa là dành công lao đấu tranh của họ để đảng mình “có thành tích”. Việt Tân đã chủ trương hợp tác và xây dựng với Việt Cộng (nếu VC cho phép) và bảo đảm sự tồn tại của Việt Cộng trên đất nước cho đến năm 2025, như vậy thì Việt Tân chiếm đoạt “thành tích” đấu tranh của người khác làm gì? Ðỗ Hoàng Ðiềm đã dấu đầu lòi đuôi, lạy ông con ở bụi này. Cho dù có đấu tranh thực sự đi nữa, cũng không nên lấy công lao của người khác làm thành tích của mình, nếu là người có liêm sỉ, có tư cách. Tiếc thay, Mặt Trận Hoàng Cơ Minh ngày trước, Việt Tân hôm nay, tập trung toàn những kẻ không tư cách và không liêm sỉ, vì nếu có tư cách và liêm sỉ họ không để lãnh tụ của họ chết 14 năm mới cho khai tử. Tàn bạo như vậy thì còn đâu là tư cách, còn đâu là liêm sỉ nữa?

Vấn đề dân oan là một vấn đề thuần túy xã hội, nguyên nhân là do cán bộ Việt Cộng tham nhũng, lạm dụng chức quyền để ăn cướp nhà đất ruộng vườn của đồng bào khiến họ phải đứng lên đấu tranh, nay Ðỗ Hoàng Ðiềm chứng nhận ông Nguyễn Thành Tâm, một “dân oan” là đảng viên Việt Tân, là chụp cái mũ chính trị cho dân oan để Việt Cộng thẳng tay đàn áp họ, vì họ muốn lật đổ chế độ chứ không phải vì bị ăn cướp mà khiếu nại. Nếu Ðỗ Hoàng Ðiềm điên thì có thể giải thích được, đằng này Ðỗ Hoàng Ðiềm và các lãnh tụ Việt Tân không điên, do đó, chỉ có thể giải thích là Việt Tân về hùa với VC để đàn áp dân chúng Việt Nam, để chính trị hóa vấn đề dân oan hay vấn đề VC ăn cướp của dân.

Trong câu hỏi chót, phóng viên Mặc Lâm đã bác bỏ luận điệu ngoan cố của Ðỗ Hoàng Ðiềm, vì những đảng mà Ðỗ Hoàng Ðiềm vừa nêu đều là những đảng đang hoạt động ở trong nước, tôn chỉ mục đích rõ ràng là bất bạo động. Còn đảng Việt Tân thì xuất phát từ hải ngoại, lại đã tạo được “thành tích khủng bố cuội”, liệng chất nổ ở ngoài cổng Tòa Lãnh Sự Việt Cộng mà lại không có ngòi nổ. Không ngờ, đây chính là dụng ý của Việt Tân, để Việt Cộng dựa vào đó lên án “cuội” Việt Tân là khủng bố, để những ai Việt Tân xác nhận là đảng viên của mình đều là những kẻ khủng bố. Khủng bố là một cái gì đáng ghê tởm, đáng lên án nặng nề. Ðó là dụng ý của 2 anh em Việt Tân và Việt Cộng để đàn áp dã man những ai đấu tranh chống lại Việt Cộng, dù họ không phải là kẻ khủng bố, dù họ không phải là đảng viên Việt Tân.

Một người tầm cỡ như Ðỗ Hoàng Ðiềm tất phải hiểu biết rằng trong khi bị địch bắt, họ có quyền tự do quyết định lời khai của họ, tùy theo trường hợp, hoàn cảnh và sự suy luận cá nhân. Ðằng này, Việt Tân tròng vào đầu họ một bản cáo trạng nặng nề là đảng viên Việt Tân, một đảng khủng bố. Việt Tân nói chung, Ðỗ Hoàng Ðiềm nói riêng phải bị luật pháp Hoa Kỳ trừng trị một khi các nạn nhân của chúng khiếu kiện.

Qua những thành tích của Việt Tân trong quá khứ cũng như những gì mà Việt Tân vu vạ cho các nhà đấu tranh ở trong nước, phải chăng chúng ta có thể kết luận Việt Tân chính là Việt Cộng??. Hơn bao giờ hết, đồng hương tị nạn Cộng Sản, nhất là đồng hương Nam Bắc California xin hãy đề cao cảnh giác, tránh những cạm bẫy của Việt Tân cũng là cạm bẫy của Việt Cộng.

Lê Văn Ấn