Wednesday, September 15, 2010

VẠCH TRẦN MỘT ÂM MƯU TẠC TƯỢNG - Duyên Lãng Hà Tiến Nhất



Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Ngày 1-9-2010, Tổng Giáo Phận Sài Gòn rầm rộ mừng kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cố TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình.

Buổi lễ tổ chức tại Trung Tâm Mục Vụ TGP do HY Phạm Minh Mẫn chủ tọa và giám mục phụ tá Nguyễn Văn Khảm giảng thuyết.

Ngoài phía Giáo Hội, sự có mặt trong buổi lễ của tất cả các quan chức đầu ngành tại Saigon nói lên tính cách đặc biệt của biến cố.

Hơn thế nữa, sự long trọng của buổi lễ còn được ghi nhận từ một khía cạnh khác, đó là những vòng hoa đẹp mắt dựng hai bên bàn thờ, tất cả đều do những tên đầu sỏ VGCS từ Hànội như Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng gởi vô chúc mừng Happy Birthday người chết.

Ngoài buổi lễ có tính cách tôn giáo, người ta còn tổ chức buổi tọa đàm có tên: Chân Dung Một Vị Mục Tử, với mục đích làm sống lại tên tuổi của TGM Nguyễn Văn Bình. Buổi tọa đàm do ngài giám mục tiến sĩ thần học giải phóng Nguyễn Thái Hợp lặn lội từ giáo phận Vinh vào để tổ chức. Thành phần tham dự cũng gồm đủ mặt bá quan văn võ đạo đời phe ta cả.

Sự việc TGP Saigon tưởng niệm một vị lãnh đạo đã quá cố là một việc làm rất bình thường, và đáng khen. Nhưng nhìn vào những sự việc diễn ra, người bàng quan và vô tư nhất cũng không thể không nẩy sinh thắc mắc trong đầu. Trước hết là về vấn đề nhân sự. Những thành phần đứng ra tổ chức và tham dự buổi lễ tưởng niệm cũng như hội thảo đều là “phe ta” cả. Một biến cố của cả tổng giáo phận, thế nhưng người ta chỉ thấy hiện diện ban lãnh đạo giáo phận Saigon là HY Phạm Minh Mẫn, GM phụ tá Nguyễn Văn Khảm, cùng với các Lm Huỳng công Minh, Thiện Cẩm, Phan Khắc Từ v.v. Còn có mặt cả giám mục thần học giải phóng Nguyễn Thái Hợp từ GP Vinh vô.

Có phải biến cố này chỉ giới hạn trong nội bộ nhóm xưa nay được mệnh danh là phe quốc doanh không?

Người ta thấy hoàn toàn vắng bóng đại diện của các giáo phận khác thuộc TGP Saigon như Xuân Lộc, Phú Cường, Mỹ Tho v.v.

Không biết họ không được mời, hay được mời mà không đến?

Tính cách quốc doanh của biến cố còn được chứng minh qua sự hiện hiện đông đủ của mọi cấp thẩm quyền của thành phố, và những bó hoa của bọn cầm quyền tại trung ương. Sự thể khác thường này làm người ta nhớ lại, TGM Nguyễn Văn Bình chết đã được đảng và nhà nước VGCS ưu ái làm lễ quốc táng. Sự ưu ái quá ư đặc biệt này nói lên điều gì nếu không phải là ngài TGM là người có công rất lớn đối với chế độ? Từ lý thuyết đến thực hành, Thiên Chúa Giáo và cộng sản vô thần là hai thực tại đối nghịch loại trừ nhau.

Thực tế và lịch sử đã chứng minh, Giáo Hội Công Giáo là một tổ chức tôn giáo bị VGCS đàn áp thẳng tay và tàn bạo nhất tại VN. Một vị TGM có công với CS thì khó lòng có công với Giáo Hội được. Đó là lý lẽ của Phúc Âm.

Chúa dậy: "Không ai có thể làm tôi hai chủ được, bởi vì được lòng chủ này thì sẽ mất lòng chủ kia". Một vị lãnh đạo cao cấp của Giáo Hội được CS coi là có công là một sự kiện rất khác thường.

Nếu có ai thắc mắc muốn biết cái công trạng của cố TGM Bình là công trạng gì, thì câu trả lời không cần tìm ở đâu xa, nó nằm ngay trong bài thuyết giảng trong thánh lễ của GM Nguyễn Văn Khảm: ý nghĩa của việc tưởng niệm, không chỉ là hoài niệm quá khứ nhưng còn là làm cho ký ức về cố TGM Nguyễn Văn Bình trở thành sống động trong hiện tại và để tinh thần của ngài tác động tới tương lai. Có thể diễn nghĩa lời của giám mục Khảm như thế này là ngài muốn đưa ra một học thuyết giáo dục gọi là “Tinh Thần Nguyễn Văn Bình” cho các tín hữu: để tinh thần của ngài (TGM Bình) tác động tới tương lai. Đạo Công Giáo tôn phong các vị thánh mục đích chính thường là để nêu gương đạo đức thánh thiện của các vị cho giáo dân noi theo và bắt chước. Ngụ ý rõ ràng của ĐC Nguyễn Văn Khảm là ngài có ý định đẽo gọt và sơn phết hình tượng cố TGM Nguyễn Văn Bình thành mô phạm cho giáo dân VN chiêm ngưỡng, học hỏi và noi theo. Cái đó gọi là Tinh Thần Nguyễn Văn Bình.

Đến đây thì câu hỏi phải đặt ra là “Tinh Thần Nguyễn Văn Bình” là tinh thần gì?

Kẻ viết bài này xin được trả lời ngay, khỏi cần phải suy nghĩ. Đó là một tinh thần bạc nhược, rất bạc nhược.

Là một tin hữu, người viết vẫn còn biết sợ tội nên nói thật lòng: không dám khinh mạn hoặc phạm thượng đối với các đấng bề trên trong Giáo Hội. Ngay trong lễ tưởng niệm và trong cuộc tọa đàm, kể cả bài thuyết giảng của ĐC Nguyễn Văn Khảm, không một ai nêu lên được bất cứ một thành tích đáng kể nào của ĐC Bình lúc còn sinh thời, nhất là trong thời gian ngài giữ chức TGM Saigon, ngoài điểm chung nhất được nêu lên và đề cao, ngài là một con người có đức tính ôn nhu, hiền hòa. Ở đây chúng tôi xin bỏ ra ngoài chữ “Người Hiền” theo ý nghĩa Khổng Nho, bởi vì TGM Nguyễn Văn Bình không thể là một Người Hiền theo ý nghĩa đó. Chúng tôi không phủ nhận sự hiền hòa, một đức tính cao quý của người mục tử Nguyễn Văn Bình. Nhưng đức tính hiền hòa của ngài đã trở thành nhu nhược và thậm chí bạc nhược trong suốt thời kỳ đất nước và Giáo Hội phải trải qua bao cơn sóng gió từ 30-4-75 cho đến ngày ngài qua đời.

Xin nêu ra một số dữ kiện quan trọng xẩy ra cho Giáo Hội liên quan đến trách nhiệm chủ chăn mà với tư cách lãnh đạo, ĐC Bình không thể im lặng làm ngơ để dĩ hòa vi quý được với bất cứ lý do gì. Xin chỉ nói những chuyện trong phạm vi Giáo Hội Công Giáo mà thôi.

- Sau 30-4-75, một số linh mục CS nằm vùng cùng với bọn “cách mạng giờ thứ 25” và đám trí thức công giáo cấp tiến xuống đường biểu tình đòi trục xuất đức Khâm Sứ Tòa Thánh tại VN. Bọn này đồng thời không chấp nhận ĐC Nguyễn Văn Thuận làm TGM Phó với quyền kế vị tại TGP Saigon và còn yêu cầu VGCS xử tội Ngài nữa.

Xét cho cặn kẽ, ĐC Nguyễn Văn Thuận chẳng có tội gì ngoài cái tội duy nhất ngài là cháu ngoại (MT: gọi TT NĐD bằng Cậu ruột) của cố TT Ngô Đình Diệm. VGCS vin vào cái tội đó để đòi nợ máu ngài. Sự thật là vậy, thế nhưng ĐC Bình ngoảnh mặt làm ngơ để cho ĐC Thuận bị các linh mục dưới quyền ĐC Bình nhục mạ và để VGCS cấm cố ngài.

- Trước các sự việc trên, với trách nhiệm của một bề trên, TGM Nguyễn Văn Bình im thin thít.

- Trong khi xẩy ra vụ nhà thờ Vinh Sơn trên đường Trần Quốc Toản thì ngài lại mau mắn lên đài phát thanh Saigon thay mặt cho Giáo Hội để nhận tội và hứa sẽ không để xẩy ra những vụ tương tự nữa (??!!). Chắc chắn ngày đó không có ai ngoài TGM Nguyễn Văn Bình tin rằng trong nhà thờ của cha Minh, chánh xứ nhà thờ Vinh Sơn có súng, có lựu đạn, và có cả đồ lót của phụ nữ? Những thứ này có đủ khả năng để chống lại CS lúc đó sao?

- Đức TGM Nguyễn Kim Điềm chết một cách rất mờ ám ngay tại Saigon trong địa hạt của TGP Saigon. ĐC Bình không thể không biết điều đó. Điều cần và có thể làm cho một người anh em của mình bị bức tử là ĐC Bình cần phải lên tiếng yêu cầu khám nghiệm để tìm ra nguyên nhân cái chết của ĐC Điền. Nhưng ĐC Bình giữ im lặng và nghe đâu ngài còn không dám công khai dâng thánh lễ cầu nguyện cho ĐC Điền.

- Bọn tứ nhân bang nằm vùng: Minh, Cần, Từ, Bích, chúng công khai tự nhận là đảng viên CS, được đảng CS rèn luyện và sử dụng làm nội tuyến để lũng đoạn Giáo Hội. Bọn này ngang nhiên vi phạm luật Giáo Hội cấm hoạt động chính trị đảng phái, mà lại là đảng CS vô thần. ĐC Bình biết rõ sự việc hơn ai hết. Thế mà tại sao ngài lại đưa Huỳnh Công Minh lên làm tổng đại diện với quyền sinh sát trong giáo phận, và Phan Khắc Từ làm cố vấn cho ngài?

- Các linh mục thuộc TGP Saigon làm tuyên úy trong QLVNCH sau 30-4 phải đi tù.

Quý này đều do tòa TGM Saigon chỉ định chứ không phải tình nguyện.

Đức cha Bình đã không dám đứng ra lãnh trách nhiệm của một người ra lệnh. Hơn thế nữa, trong suốt thời gian ở tù, các tuyên úy cũng không hề được một lời hỏi thăm của TGM Nguyễn Văn Bình.

Trong khi đó tòa TGM Hànội lại thỉnh thoảng gởi quà tiếp tế cho một số vị mà đức Hồng Y Trịnh Văn Căn biết đến.

Khi các tuyên úy cải tạo trở về, các ngài sống lêu bêu, không giáo xứ nào dám chứa chấp các ngài, và dĩ nhiên các ngài không được thi hành sứ vụ linh mục của mình. TGM Nguyễn Văn Bình không lên tiếng can thiệp, cũng chẳng có biện pháp nào giúp đỡ các ngài.

- Tên Lm CS nằm vùng Phan Khắc Từ tự nhận sản xuất lựu đạn Molotov trong nhà thờ Vườn Xoài để chống Mỹ trên đường phố. Hắn có vợ, có con nhưng vẫn coi xứ và làm các phép bí tích thánh cho giáo dân. ĐC Bình có nghĩ đó là tội không? Trên cương vị của một giám mục bề trên, ngài có nghĩ rằng buông thả cho một linh mục phạm thánh công khai và trường kỳ như thế thì chính ngài cũng mang trách nhiệm không?

Còn rất nhiều nhưng xin miễn nêu hết sợ dài dòng quá. Như vậy thì nên hiểu thế nào về TGM Nguyễn Văn Bình qua những sự kiện nêu trên?

Ngài là một vị chủ chăn hiền hòa hay một cái gì khác?

Ai nói các vị lãnh đạo khác của Giáo Hội VN như ĐC Nguyễn Kim Điền, ĐC Ngô Quang Kiệt không phải là những con người hiền hòa và đạo đức. ĐC Nguyễn Văn Bình là một con người hiền hòa nhưng không cương quyết như đức TGM Nguyễn Kim Điền, và thiếu cả can đảm như ĐC Ngô Quang Kiệt. Tính tình hiền hòa đi đôi với sự nhát sợ quá đáng (cái gì cũng sợ) nên TGM Nguyễn Văn Bình trở thành con người nhu nhược, và cuối cùng là bạc nhược. Tinh thần Nguyễn Văn Bình quả là một tinh thần bạc nhược, bạc nhược đến độ nhìn thấy Phan Khắc Từ phạm thánh công khai mà vì sợ CS nên không dám sửa phạt. Ngài sợ CS hơn sợ Thiên Chúa.

Tính cả sợ này không phải người ta gán cho ngài nhưng là do chính ngài lúc sắp chết đã từ miệng thú nhận: "Cho đến bây giờ tôi vẫn hãy còn sợ CS".

Nếu cần phải nêu lên làm mẫu mực cho giáo dân noi theo, hàng lãnh đạo cao cấp Giáo Hội VN không thiếu những tấm gương sáng chói: tài giỏi và nặng tình với văn học VN: đức cố GM Hồ Ngọc Cẩn, gương kiên cường bất khuất: đức TGM Nguyễn Kim Điền, gương nhẫn nhục chịu đựng: các đức HY Trịnh Như Khuê, Trịnh Văn Căn, Phạm Đình Tụng, gương can đảm và bao dung: đức TGM Ngô Quang Kiệt v.v.

Thế nhưng đám quốc doanh lại đem cố TGM Nguyễn Văn Bình ra để làm gương soi cho giáo dân.

Đây là một mưu đồ vô cùng thâm độc chứ chẳng phải hành vi lương thiện, nhất là việc này lại xẩy ra trước ngày Đại Hội Dân Chúa vào tháng 11 tới. Người công giáo cần phải nhận ra và đề phòng.

Việc làm này dĩ nhiên rất vừa ý bọn VGCS. Nhìn vào sự tham dự tận tình của các chức sắc VGCS trong buổi lễ tưởng niệm là thấy ngay rồi.

Nhân sự đứng ra tổ chức lại càng rõ rệt hơn, toàn là các bộ mặt quốc doanh cốt cán: HY Phạm Minh Mẫn, một thói đời bội bạc xưa nay, GM Nguyễn Văn Khảm, đứa con cưng của Lm đảng viên Huỳnh Công Minh, GM Nguyễn Thái Hợp, nhà thần học giải phóng với nhiều tham vọng.

Nếu không có Lm đảng viên Huỳnh Công Minh thì GM Nguyễn Văn Khảm vẫn còn là một ông cha xứ quèn ở Xóm Mới. Nhờ có chút tài múa mép, Lm Khảm được Lm đảng viên tổng đại diện đưa về nhà thờ chính tòa Saigon một thời gian, cho đi du học, rồi cất nhắc lên làm giám mục phụ tá. Con đường công danh của GM Khảm chắc còn nhiều hứa hẹn. Người ta không hiểu sao ĐC Cao Đình Thuyên lại đề bạt Lm Nguyễn Thái Hợp lên làm giám mục giáo phận Vinh. ĐC Cao Đình Thuyên là vị mục tử vừa đạo đức lại vừa kiên cường bất khuất. Rõ ràng giữa ngài và vị tân giám mục được ngài đề cử, lập trường đối chọi nhau như nước với lửa. Khi còn du học và làm việc tại Nam Mỹ, Lm Nguyễn Thái Hợp chủ trương đấu tranh giai cấp theo lý thuyết thần học giải phóng để chống lại các chế độ độc tài tại đó hầu đem lại công bình và công lý cho xã hội. Bây giờ làm giám mục tại VN, ngài lại chủ trương đối thoại với VGCS. Có phải đấu tranh giai cấp là phương pháp cướp chính quyền của CS nên ngài không dám lấy gậy ông để đập lưng ông? Hay ngài cho rằng dưới chế độ CS hiện nay, VN đã có đầy đủ công bình và công lý rồi nên không cần phải đấu tranh nữa?

Phe quốc doanh trong Giáo Hội dựng dậy pho tượng thần hiền hòa, ra công sơn phết lại cho sắc sảo rồi đem ra trưng bầy, chẳng khác gì bọn VGCS dựng dậy cái xác thối Hồ Chí Minh, bắt người dân học tập đạo đức của nó. Đạo đức của Hồ là gì thì cả nước đều biết cả. Một con người lưu manh, phản phúc, dâm đãng khét tiếng, hơn nữa lại là tên bán nước số một thì làm gì còn có đạo đức, nói chi đến chuyện nêu gương cho người khác. Những người con gái trong động điếm thường nêu ra đủ mọi lý do rất cao cả để biện minh cho việc bán thân của mình. Với những lý do đó họ vẫn tự cho mình là có đạo đức. Hồ Chí Minh cũng như những cô gái điếm, lá bùa giải phóng dân tộc của hắn chỉ là thứ đạo đức nhà thổ. Có một điểm khác biệt là phần đông các cô gái điếm sa vào hoàn cảnh chỉ vì bắt buộc, còn việc làm của Hồ là do hắn tự nguyện.

Người giáo dân VN cũng như những công dân khác, phải học tập thứ đạo đức nhà thổ của Hồ tặc, lại còn phải học tập cái tinh thần bạc nhược mà bọn chủ chăn quốc doanh đang cố công tạc tượng. Đúng là một cổ đôi tròng. Dựng dậy cái tinh thần bạc nhược của cố TGM Nguyễn Văn Bình chẳng đem lại lợi ích gì cho Giáo Hội. Nó vừa thiếu thực tế, lại vừa vô ích, bởi vì bọn quốc doanh nói bây giờ chẳng ai nghe. Thế nhưng đối với VGCS, phần nào chúng vẫn tin tưởng vào mưu đồ của chúng. Thực ra cũng dễ hiểu thôi, người ta nói “chết đuối bám lấy bọt”. Chế độ VGCS đang chơi vơi giừa đại dương thì vớ được cái gì mà chúng không cố bám. Dù bám vào tên tuổi một vị giám mục công giáo để được sống còn chúng cũng vẫn bám. Có thể khẳng định mà không sợ sai lầm rằng, nếu không có các vụ Tòa Khâm Sứ, Thái Hà, Đồng Chiêm, Lý Loan, Cồn Dầu v.v. thì bọn Việt gian bán nước đã không cần thiết phải dùng đến Tinh Thần Nguyễn Văn Bình làm bình phong. Tuy là hạ sách thật, nhưng chúng hy vọng sẽ làm hạ hỏa được sức chống đối của giáo dân khắp nơi trong và ngoài nước đang dâng cao.

Thế nhưng bè lũ VGCS đã lầm. Mưa phùn không dập tắt được cháy rừng, thì tinh thần bạc nhược cũng không bôi xóa được chính nghĩa. Và bọn quốc doanh lại càng sai lầm hơn. Cực đoan trong việc bảo vệ công bình không phải là tội lỗi, và trung dung theo đuổi công lý càng không phải là nhân đức. Đừng có ngụy biện để lừa gạt. Người công giáo VN ngày nay không còn như người công giáo ngày xưa nữa. Họ vâng lời cho công bình và lẽ phải, chứ không cúi đầu vâng phục trước cường quyền như những tên quốc doanh. Hãy để cho đức cố Tổng Giám Mục an nghỉ. Đừng bắt ngài phải làm bình phong cho các người núp nữa. Tội nghiệp ngài.

Duyên Lãng Hà Tiến Nhất

Tuesday, September 14, 2010

Lời Vàng Ngọc Của Mục Tử Chân Chính

    Lời Vàng Ngọc Của Mục Tử Chân Chính Ban cho các cháu Nhi Đồng Quàng khăn Đỏ choét (Đồng tặng các LM Phan khắc Từ (Liên Béo), Huỳnh công Minh, Vương đình Bích, Thiện Cẩm, Nguyễn tấn Khóa…)
    Con hãy ráng, đảng bảo gì làm nấy!
    Bảo con quỳ, hãy quỳ rất nghiêm trang
    Bảo hoan hô bác đảng, hãy hô vang
    Bảo quỳ mọp trước lăng, quỳ nghiêm chỉnh!

    Bảo làm theo gương đạo đức là chính
    Gương cách mạng mùa Thu của bác Hồ
    Hễ mai sau khôn lớn có thể vồ
    Nhà, đất dân miễn là thành cán lớn!

    Tiền bạc nhiều gửi con ra ngoại quốc …
    Cho du học dù tốn bộn đô-la
    Con con rửa tiền, tậu đủ thứ xe, nhà
    Nhớ qua Mỹ, chớ vào Nga, Trung quốc!

    Ức hiếp dân, đánh, bỏ tù, lăng nhụ c…
    Giết chết tươi như anh Nguyễn thành Năm
    Thủ tiêu dân chớ ngần ngại, trở trăn
    Chính sách bác là muôn đời không đổi!

    Muốn làm lớn, chịu khó lòn, đừng vội!
    Như cha đây, Đại chủng viện đã qua
    Ráng bề ngoài, rồi lâu cũng thành cha
    Thêm một bước đảng cho làm Đức Giám …

    Đức Vít-vồ người giáo dân rất … ngán
    Ngài bảo sao tín hữu phải nghe theo
    Rước tượng Chệt Hồ cũng đừng có mè nheo
    Trên Đức Mẹ, còn dưới sàn là bác …

    Có đảng quy - Đừng bao giờ làm khác
    Dù Đức cha Đà lẽng hay Hải phòng
    Cố chu toàn nhiệm vụ đảng cho xong
    Sẽ phú quí và vinh hoa, sung sướng!

    Hãy coi cha, một con người cao thượng
    Chết mặc ai, cha cứ lễ … cha làm
    Mặc cho người dị nghị tính tham lam
    Dù chó câm, cha hài lòng lắm nhé!

    Hãy cố lên rồi đời con cũng thế
    Cứ làm cha, làm Đức Giám, tốt thôi!
    Cứ “à uôm” gậy mũ, chẳng lôi thôi *
    Miếng đỉnh chung bác cho, tha hồ hưởng!

    Cha chỉ cần sao cuộc đời sung sướng
    Ăn ngon, mặc đẹp, mặt mũi phương phi
    Máy lạnh xài, người phục vụ quá đi
    Ôi đảng bác đã ban cha tận hưởng!

    Câm cũng được! Miễn làm sao sung sướng!
    SAO Y TẠI CỒN DẦU, ĐÀ LẼNG
    VÀ THỦ ĐÔ HÀ LỘI NGÀN LĂM
    THĂNG NONG RẤT SÚC VẬT,

    à quên, xin nỗi …VĂN VẬT.


    13-9-2010
    Phụng Sao

    Bút Xuân Trần Công Tử
*à uôm: đóng kịch cho qua chuyện

Việt Nam KHÔNG CẦN các anh làm từ thiện

    VIỆT NAM ĐÂU CẦN CÁC ANH LÀM TỪ THIỆN !
3G Mackeno

Mọi người đều biết triệu phú USD ở Việt Nam nhiều hơn triệu phú trong Cộng đồng người Việt Hải ngoại. Hôm nay, tiền thu lợi hàng năm đã có:

500.000 Việt Kiều về nước & mỗi người mang theo trung bình 2.000USD = 10 tỷ đô la Mỹ.
Người Việt hải ngoại gửi về nước 8 tỷ Mỹ kim thống kê được, nếu kể thêm số không thống kê được ít nhất 2 tỷ nữa, chúng ta có con số tròn 10 tỷ Mỹ kim.- Mỗi năm Việt Nam nhận các khoản viện trợ nước ngoài và LHQ trên 3 tỷ Mỹ kim. Tổng cộng gần 25 tỷ đô la.

Miền Nam Việt Nam (MNVN) trước 1975, không có sản xuất quan trọng, không mỏ dầu, chỉ nhận trung bình 700 triệu Mỹ kim một năm nuôi 17 triệu người và gồng gánh bộ máy chiến tranh.
Trung bình 42USD/người /năm.
    Thế nhưng, MNVN là con rồng Đông Nam Á.

    Trường học MNVN từ mẫu giáo đến Đại học đều được hưởng quy chế miễn học phí.

    Người bệnh vào bệnh viện từ xã phường đến trung ương đều được miễn phí.

    Thiên tai năm nào cũng có nhưng cả nước đùm bọc lấy nhau. MNVN không cần ngửa tay xin tiền ngoại quốc.
Ngày nay không cần làm gì mỗi năm Việt Nam vẫn nhận đều khoảng 25 tỷ đô la. Tính trung bình 287USD/người /năm.

Thế nhưng học sinh mẫu giáo đến đại học đều đóng học phí cắt cổ.

Bệnh viện từ xã đến trung ương đều thu lệ phí rất cao. Dù cấp cứu, không tiền không được nhập viện.

Từ 1989 đến nay đã 20 năm nay, VN vẫn lẽo đẽo phía sau các quốc gia khác trong vùng Đông Nam Á. Tụt hậu 35 năm so với VNCH năm 1975.

Việt Nam ngày nay ở vào thời đại WTO, thời đại mở cửa, không còn là thời đại thời bao cấp, ngăn sông cấm chợ thuở trước 1989. Trước 1989 việc cứu trợ thiên tai tại VN là việc cần. Sau thời đại mở cửa 20 năm nay, VN phát triển vượt bực. Những người về VN đều thấy việc hàng quán đầy đường, người xe kín lối, nhà chọc trời đầy dẫy, tất cả các nhà hàng đều đông nghẹt, khách sạn giá quốc tế, địa ốc ngang tầm hay mắc hơn cả Tokyo, Sydney, Whasington DC, ....

Mọi người đều biết triệu phú USD ở Việt Nam nhiều hơn triệu phú trong Cộng đồng người Việt Hải ngoại.

Số tiền trong nước đổ ra nước ngoài mỗi năm rất lớn đều tuôn vào các ngân hàng và các trương mục tư bản đỏ.

Do vậy việc cứu trợ và từ thiện Việt Nam đã đến lúc cần được xét lại một cách đúng mức.
    Giúp đỡ thương phế binh VNCH bị bỏ rơi tại VN là cần.

    Giúp đỡ những cơn bệnh hiểm nghèo VN không có phương tiện chữa trị là không thể bỏ.

    Giúp đỡ những trường hợp cá biệt là cần.

    Giúp đỡ những nhà đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân và dân quyền là không thể thiếu.
Tuy nhiên việc tổ chức thành những phong trào rầm rộ dưới hình thức từ thiện mang tiền về nước cống nạp cho CSVN là chuyện phải chống vì vi phạm luật lệ VN và không phục vụ lợi ích đích thực của cộng đồng hải ngoại. Luật lệ CHXHVN ghi rõ không tổ chức nào trong nước và ngoài được phân phối tiền cứu trợ tại Việt Nam ngoại trừ cơ quan Cứu trợ có thẩm quyền từ Trung Ương tới địa phương do Mặt Trận Tổ quốc lãnh đạo (Thông tư số 72/2008/TT-BTC của Bộ Tài chính & Nghị định số 64/2008/NĐ-CP ngày 14/05/2008 của Chính phủ). Những tổ chức vận động lạc quyên hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn mà nói rằng có thể mang về mua quà cứu trợ trao tận tay nạn nhân hết số tiền này, đó là vấn đề cần đưọc các tổ chức khác nhau trong Cộng đồng Người Việt Hải Ngoại nghiên cứu và tìm hiểu thích đáng.

Thay vì mang tiền về! Chúng ta chỉ giải quyết ngọn mà không giải quyết gốc.

Tại sao chúng ta không vận động chính phủ, vận động các nhà hảo tâm, vận động các nhà tư bản đỏ trong nước để họ tự đùm bọc giúp đỡ nhau?

Tại sao không vận động chính phủ tổ chức cứu trợ đúng mức cho nạn nhân trong nước?
Việc cứu trợ có thể giải quyết thỏa đáng bằng quy hoạch của chính phủ chứ không bằng các vận động ồn ào bòn rút của cải hải ngoại. VN trước 1975 không cần xin hải ngoại như hiện nay để giải quyết thiên tai, thế nhưng người dân vẫn no ấm và “phồn vinh giả tạo”.

35 năm qua chúng ta chưa làm tròn trách nhiệm của chúng ta đối với đồng bào ruột thịt của mình tại hải ngoại và cho tổ quốc mới của chúng ta.

Đừng nên quá ôm đồm. Cộng đồng VN hải ngoại còn nhiều người “mù vi tính”. VN sắp sang giai đoạn xoá mù vi tính.

Cộng đồng VN hải ngoại chưa dám mơ mọi người tốt nghiệp cử nhân. VN đã tính chuyện mọi nhân viên Bộ Sở trung ương từ quét dọn trở lên phải đạt bằng Tiến Sĩ.

Cộng đồng VN hải ngoại đang trên đà tụt hậu so với sự tiến bộ vượt bực trong nước. Chúng ta đã giúp VN từ 1975 đến nay.

35 năm cũng đã quá tròn tình nghĩa đối với người đã đưa tiễn chúng ta khi ra đi bằng đại liên trực xạ và trìu mến gọi ta bằng “ngụy quân, ngụy quyền, ham mê bơ thừa sữa cặn của đế quốc, chây lười lao động, vượt biên phản quốc, ...”

Đã qua thời 20 năm mở cửa (1989 – 2010).

Chúng ta đã làm đủ mọi thứ cho Việt Nam.

Xây cầu. Cất trường. Nuôi dạy trẻ mồ côi. Nuôi dưỡng người tàn tật. Giúp đỡ người nghèo, người bệnh. Xây chùa, nhà thờ, …

Thời gian 35 năm qua Bộ Thương Binh Xã hội VN đã báo cáo nhiều thành tích tốt mà không cần động đến móng tay và không cần quan tâm chăm sóc phúc lợi người dân trong nước vì ... mọi thứ đã có “bò sữa” hải ngoại chăm lo. Thời gian qua đảng Cộng Sản Việt Nam bồi dưỡng sức mình tung Nghị Quyết 36, cán bộ, đảng viên, tu sĩ vào Cộng đồng hải ngoại (CĐHN) để rồi ngày nay CĐHN đang dần dần tan ra từng mảnh. Đổi khách thành chủ. CSVN đang dần nắm ưu thế trong nhiều lãnh vực tại căn cứ địa vững chắc của chúng ta.

Nếu không khéo, chỉ mươi năm sau, chúng ta không còn con đường để vượt biên lần thứ hai!
Nhìn chung, theo quan điểm những nhà “pro-VietNam” hiện chúng ta còn hai việc lớn chúng ta chưa làm.

Một là dồn sức hải ngoại về VN, mỗi ngày hốt rác từ Bắc vào Nam để tư bản đỏ và cán bộ đảng viên mỗi chiều bia rượu cho thơm miệng.

Hai là tiếp tay nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam dâng nốt mảnh đất còn lại cho Hán triều để tổ quốc Việt Nam thêm một lần nữa nghìn năm nô lệ giặc Tàu.

35 năm qua đã đủ dài để chúng ta nên nhìn lại, phản tỉnh.

Chúng ta không nên ôm đồm làm thay mà cần giao trách nhiệm chăm sóc phúc lợi xã hội trong nước cho Đảng và Chính phủ “bách chiến bách thắng” của Việt Nam làm tròn sứ mạng của mình đối với đất nước và dân tộc mà họ muốn dành độc quyền cai trị.

Chúng ta cần làm tốt hơn vai trò đòn bẩy để giúp VN tiến nhanh tiến mạnh trên con đường mở cửa, hội nhập WTO và hội nhập trào lưu tự do - dân chủ - nhân quyền đang rộ nở trên mọi ngỏ ngách của địa cầu ngõ hầu cứu thoát Việt Nam một tai họa nghìn năm bắc thuộc lần thứ hai và chúng ta cũng không phải vượt biên thêm một lần nữa từ hải ngoại.

3G Macken

Sunday, September 12, 2010

Cảm nghĩ sau khi xem đoạn quảng cáo phim "LÝ CÔNG UẨN - ĐƯỜNG TỚI THÀNH THĂNG LONG" - GS Nguyễn Đăng Hưng (Liège)


    ..... Trời ! Ai có thể ngờ Việt Nam ngày nay có thể như vậy!
    Đậm đà bản sắc dân tộc mà như thế ư?

“Mới xem qua thôi mà tôi đã thấy hãi, nếu không nói kinh hoàng!

Từ trang phục cho đến cảnh quan, từ áo mão cho đến búi tóc, hình ảnh toát ra cho ta thấy:

Đây là một phim Trung Quốc, chẳng khác gì những phim lịch sử Trung Quốc khác mà đông đảo người Việt Nam quen xem.

Lời bình nhắc nhở diễn viên là người Việt Nam nhưng bất cứ ai chưa thấy họ trên phim Việt Nam đều nghĩ ngay họ là người Tàu, chỉ trừ cô gái và chiếc áo tứ thân. Đậm đà bản sắc dân tộc mà như thế ư?”
. GS Nguyễn Đăng Hưng


Chi tiết nhỏ này không thể cứu vãn được tính bao trùm của bản sắc Trung Quốc!
    Trời ! Ai có thể ngờ Việt Nam ngày nay có thể như vậy!
    Đậm đà bản sắc dân tộc mà như thế ư?
Vì thiếu kỹ thuật, thiếu điều kiện, thiếu tài năng (hay không muốn người thật tài thực hiện!), ai đó đã chọn giải pháp dễ dãi nhờ đến “Công ty Cổ phần Truyền thông Trường Thành”, một cái tên gợi ý rất rõ: đây là sản phẩm của Trung Quốc!

Than ôi, người ta vô tình (hay cố ý ai biết!), đang dẫn dắt dân Việt chúng ta tiến nhanh tiến mạnh đến bóng đêm của ngàn năm lệ thuộc!

Chúng ta đang thấy nhan nhản ngày nay văn hóa Thăng Long cổ kính, trong sáng, thanh lịch ngày càng phai nhạt.

Chúng ta than trách tại sao người lo bảo tồn văn hóa không thể hiện nét văn hóa cần thiết. Sơn phết màu mè, pha trộn, giả cổ là phổ biến.

Chỉ có mấy phút hình ảnh thôi mà những điều nhiều các nhà văn hóa đích thực thường trăn trở, lo âu bấy lâu nay, như được mở toang ra, một sự kiện có sức tố cáo đanh thép trước công luận: Từ chỗ vô văn hóa đến chỗ văn hóa nô dịch chỉ là khoản cách những bước đi nhỏ... Phim nhắc đến trên đây là một trong những bước đi ấy.
    Vô văn hóa mà làm văn hóa thì chỉ là người đào mồ chôn văn hóa đích thực!
    Mà mất văn hóa là mất hết, than ôi !

    Một nghìn năm Thăng Long,
    một nghìn năm văn hóa dân tộc,
    ai sẽ chịu trách nhiệm cho những tổn thương này?
Tp Hồ Chí Minh, 18h45 ngày 10 tháng 9 năm 2010.

Ý kiến của Thiếu tướng việt cộng Nguyễn Trọng Vĩnh
    "Thật không thể được! Nếu tôi là Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch, tôi sẽ cấm chiếu bộ phim này trên toàn cõi Việt Nam, bất kể trên truyền hình hay rạp".
*****
Mời quý vị xem đoạn phim

LÝ CÔNG UẨN - ĐƯỜNG TỚI THÀNH THĂNG LONG











Mẹ Việt Nam ơi ! Dân ta có tội tình gì
Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Ba mươi lăm năm, giặc cộng cướp nước
Gia tài của mẹ, một bọn lai căng
Gia tài của mẹ, một lũ PHẢN QUỐC, BÁN NƯỚC.




Saturday, September 11, 2010

Phản Ứng Từ Việt Nam Về Tuyên Bố Của Đảng Việt Tân

Thanh Quang, phóng viên RFA
2010-09-11
Đảng Việt Tân trụ sở tại Hoa Kỳ hôm thứ Năm ra thông cáo báo chí cho biết, 4 người bị công an Việt Nam bắt giam gần đây là những thành viên của đảng chính trị này.

Câu hỏi được nêu lên là lời tuyên bố đó gây phản ứng ra sao trong số thân nhân, chức sắc, tín hữu Hội Thánh Tư gia “Chuồng Bò” ?

Tuyên bố của Việt Tân

Lên tiếng với Đài Á Châu Tự Do hôm thứ Năm, ông Hoàng Tứ Duy, phát ngôn viên đảng Việt Tân trụ sở tại Hoa Kỳ trước hết cho biết 4 thành viên của Việt Tân đang bị VN giam giữ hiện giờ gồm giáo sư Phạm Minh Hoàng, từng giảng dạy tại Đại học Bách Khoa Saigòn, Mục sư Dương Kim Khải, Quản nhiệm Hội Thánh Tin Lành Tư gia, còn có tên thân mật là “Hội Thánh Chuồng Bò”, tân tín hữu Tin Lành Nguyễn Thành Tâm ở Bến Tre, và tiểu thương Trần Thị Thúy.

Ông Hoàng Tứ Duy đề cập tới lý do đảng Việt Tân công khai hóa tư cách thành viên của những người này:

"Lý do chúng tôi lên tiếng là tại vì trước sự kiện các anh em Việt Tân bị bắt một cách âm thầm, gia đình của họ bị khủng bố tinh thần và nhà nước VN không đưa ra một bằng chứng cụ thể nào là tại sao họ bị bắt, thì đảng Việt Tân cảm thấy đây là lúc chúng tôi phải lên tiếng để làm sao vận động dư luận ủng hộ và đòi tự do cho 4 anh chị em này".

Trước lời tuyên bố xác nhận tư cách thành viên đảng Việt Tân của số người vừa nói, chúng tôi tìm hiểu phản ứng của thân nhân và đạo hữu của những người này.

Từ Sàigòn, bà Lê Thị Kiều Oanh, vợ Giáo sư Phạm Minh Hoàng cho biết: "Thực sự trước đây tôi không biết việc đó. Nhưng tôi là người tôn trọng ý kiến của mỗi cá nhân, nhất là ý của chồng tôi. Nếu đó là sự chọn lựa của chồng tôi thì tôi nghĩ rằng anh ấy cũng có lý do của ảnh".

Khi được hỏi liệu lời xác nhận vừa nói của đảng Việt Tân có thể ảnh hưởng ra sao tới tình cảnh của giáo sư Phạm Minh Hoàng, bà Lê Thị Kiều Oanh nhận xét:

"Tôi nghĩ một tổ chức nào đó khi làm một việc gì cũng chắc là có một ý định của họ. Chính quyền VN cho đảng Việt Tân là một tổ chức phản động, và đang cố ghép chồng tôi vào cái tội là tham gia “tổ chức phản động Việt Tân để âm mưu lật đổ chính quyền.

Thì việc đảng Việt Tân lên tiếng nói như vậy, tôi vẫn tôn trọng. Tôi nghĩ là họ có ý gì đó mà thực sự tôi không biết. Nhưng, như tôi nói lúc đầu, là lúc nào tôi cũng tôn trọng ý của người khác, nhất là ý của chồng tôi".


Bà Kiều Oanh khẳng định chồng bà vô tội, và nhân tiện kêu gọi các tổ chức nhân quyền thế giới giúp can thiệp với chính phủ VN để chồng bà được sớm đoàn tụ với gia đình.

“Tôi được biết VN đã ký vào 2 văn kiện rất quan trọng: Văn kiện thứ nhất là Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và văn kiện thứ hai là Hiệp ước về Quyền Dân sự và Chính trị. Tôi nghĩ khi VN đã ký 2 văn kiện quan trọng như vậy, tức đã có sự cam kết, thì VN nên giữ đúng với lời cam kết đó.

Việc chồng tôi cho dù có tham gia một đảng phái nào, cho tới bây giờ tôi vẫn nghĩ là anh ấy vô tội. Vì tôi biết chồng tôi là người đấu tranh chống tiêu cực, lúc nào cũng với thái độ hết sức ôn hòa. Bằng chứng là cho tới nay việc làm của anh ấy chỉ đơn giản là viết những bài báo dưới bút danh Phan Kiến Quốc.

Tôi nghĩ chẳng lẽ việc anh ấy viết những bài báo nói lên suy nghĩ của mình, về vấn đề xã hội, đất nước VN, thì phải chăng đó là âm mưu lật đổ chính quyền như cơ quan an ninh điều tra đang gán tội đó cho chồng tôi? Tôi muốn kêu gọi mọi tổ chức nhân quyền thấy sự việc của chồng tôi là một nỗi oan ức, thì lên tiếng nói để giúp gia đình chúng tôi sớm đoàn tụ”.

Từ Bến Tre, bà Chuyển, vợ tín hữu Tin Lành Nguyễn Thành Tâm vừa bị bắt, cũng lên tiếng sau khi đảng Việt Tân xác nhận ông Tâm là 1 thành viên của tổ chức này:

“Nói liên quan đảng Việt Tân thì tôi không khẳng định là chồng tôi làm việc đó. Tôi đâu có biết chuyện anh ấy gia nhập đảng Việt Tân. Chúng tôi là nông dân ở tỉnh Bến Tre, bức xúc những vụ đất đai.

Chính quyền ở VN lấy hết đất đai của người dân, cho tới mồ mả ông bà họ cũng lấy nữa. Họ còn gạt gẫm anh Tâm phải đóng tiền đo đạt. Rồi mới gạt nữa hồi tháng 10 năm 2009 khiến anh ấy bức xúc quá mới lên Saigòn nhờ Mục sư Dương Kim Khải tư vấn giấy tờ.

Theo ý của tôi – của một người dân, tôi cũng muốn dư luận thấy nỗi bức xúc của người dân mà lên tiếng giúp. Tôi là người dân, tôi muốn làm sao ở đất nước VN, người dân phải có nhân quyền. Và tài sản của người dân ở VN thì giới cầm quyền phải trả cho nông dân VN, trả cho nông dân ở tỉnh Bến Tre”.

Liên quan trường hợp MS Dương Kim Khải và tín hữu Tin Lành Nguyễn Thành Tâm, Chấp sự Nguyễn Mạnh Hùng, đang tạm thời thay thế MS Khải quản nhiệm hội thánh có tên thân mật là “Hội Thánh Chuồng Bò” ở ven sông Saigòn, lên tiếng như sau:

“Nói chung, Mục sư Dương Kim Khải và tín hữu Nguyễn Thành Tâm có tham gia đảng Việt Tân hay không thì đó là quyền tự do của mỗi người. Việc người ta có thể tham gia đảng phái nào thì đó là quyền của người ta.

Đúng ra thì bên Tin Lành, MS Khải cũng là một Mục sư rồi, tôi nghĩ tâm huyết chính của MS Khải, đời sống của MS Khải thật sự cũng chỉ để hầu Việc Chúa và tất cả để giúp cho Chúa, dâng hiến cuộc đời còn lại của mình cho Chúa.

Dù trong hoàn cảnh rất khó khăn, nhất là MS mới ở tù về, nhưng MS rất quan tâm đến đời sống tâm linh của anh em. MS đã đưa từ đời sống tâm linh vào đời sống thực tế của các anh em Cơ Đốc nhân rất nhiều. Hơn nữa MS cũng đã giúp đỡ dân oan trong vấn đề khiếu kiện đất đai.

Nếu như MS có tham gia đảng Việt Tân, thì điều đó cũng là nhằm đấu tranh để làm sao người dân VN có được nhân quyền như hiến pháp VN thừa nhận. Đối với anh em chúng tôi trong Hội Thánh, khi nhận được tin này thì, nói chung, chúng tôi không phản ứng gì cả, vì đó là quyền của mỗi người”.

Thầy Nguyễn Mạnh Hùng cũng đề cập tới trách nhiệm của đảng Việt Tân sau lời công bố vừa nói, đồng thời kêu gọi nhà cầm quyền VN trả tự do cho MS Dương Kim Khải và tín hữu Nguyễn Thành Tâm.

Thầy Nguyễn Mạnh Hùng cũng đề cập tới trách nhiệm của đảng Việt Tân sau lời công bố vừa nói, đồng thời kêu gọi nhà cầm quyền VN trả tự do cho MS Dương Kim Khải và tín hữu Nguyễn Thành Tâm.

“Nếu như MS Dương Kim Khải và tín hữu Nguyễn Thành Tâm thật sự là người của đảng Việt Tân, thì tôi nghĩ đảng Việt Tân bên Mỹ cần có trách nhiệm về việc hai người nầy, là người trong đảng, bị bắt. Đảng Việt Tân cần quan tâm đấu tranh cho họ được ra.

Trong khi đó, nhà nước VN cũng phải thấy được việc người ta tham gia đảng Việt Tân là không phạm tội. Vì theo pháp luật VN, cũng như VN đã ký kết với công ước quốc tế, công dân có quyền tự do bày tỏ chính kiến, tham gia đảng phái. Điều 9 của Hiến pháp VN quy định rõ ràng là công dân VN có quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do biểu tình, tự do hội họp và lập hội.

Do đó nhà nước VN cần xem xét lại để nhanh chóng thả MS Khải với tín hữu Tâm, là anh em Cơ Đốc nhân của chúng tôi. Về phía tôn giáo của chúng tôi, thì anh em trong Hội Thánh và Hội Thánh Mennonite VN vẫn lên tiếng đấu tranh theo góc độ tôn giáo”.

Diễn biến vừa nói khiến MS Thân Văn Trường, Cố vấn “Hội Thánh Chuồng Bò” lên tiếng như sau:

“Thưa, tôi cảm thấy đột ngột khi được tin MS Khải là đảng viên đảng Việt Tân. Nhưng theo quan điểm của tôi, tôi nghĩ rằng MS Dương Kim Khải cũng là một công dân VN nên việc ông có quả thực tham gia đảng Việt Tân thì cũng bình thường thôi. Cũng như người ta vào đảng CS cũng là việc bình thường nếu ai muốn vào phải phù hợp với điều lệ của đảng ấy.

Tôi nghĩ đó là chuyện bình thường. Một việc không bình thường là công an đã bắt MS Dương Kim Khải với lý do tham gia đảng Việt Tân. Tôi phản đối lệnh bắt đó”.

Nhưng, theo MS Thân Văn Trường, thì tuyên bố vừa nói của phát ngôn viên Việt Tân Hoàng Tứ Duy gây bất lợi không những cho MS Dương Kim Khải, tín hữu Nguyễn Thành Tâm, mà còn cho những người trong Hội Thánh, nói chung.

“Tôi nghĩ rất là bất lợi. Vì theo tôi biết, cộng sản VN luôn bắt những người tham gia đảng phái như vậy và đem ra xử với những bản án rất nặng. Do đó tôi nghĩ đây cũng là việc bất lợi cho MS Khải, cho tân tín hữu Tâm và cũng bất lợi cho một số Mục sư và anh em trong Hội Thánh của chúng tôi nữa.

Trên một phương diện, theo chỗ tôi biết, thì các Mục sư của Giáo Hội Mennonite có chủ trương không tham gia đảng phái. Cho nên Mục sư Dương Kim Khải tham gia đảng phái như vậy thì cũng không tốt cho Hội Thánh, nói chung”.

Thưa quý vị, nhận xét của MS Thân Văn Trường khiến người ta liên tưởng tới một số đảng viên Việt Tân từng bị nhà cầm quyền VN bắt giữ. Trong số này, những người có quốc tịch ngoại quốc thường lâm vào vòng lao lý một thời gian ngắn rồi bị trục xuất, trong khi những đảng viên Việt Tân là dân trong nước thì lãnh những án tù dài lâu.

Source: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/interview-hoang-tu-duy-spokesman-of-viet-tan-party-VL%20-09102010152410.html


Lời thề Độc Lập - Trần Gia Phụng

Trần Gia Phụng

Trên trang báo điện tử của Ban Chỉ Đạo Quốc Gia Kỷ Niệm 1000 Năm Thăng Long từ thành phố Hà Nội, bài “Thăng Long - Hà Nội, ngàn năm văn hiến”, mở đầu bằng câu “... vang mãi lời thề độc lập ...”. (http://www.thanglonghanoi.gov.vn//). Lời thề độc lập do trang báo nầy nhắc đến chính là lời thề do Hồ Chí Minh đưa ra ngày 2-9-1945 sau khi tuyên bố thành lập chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Hà Nội.

1.- LỜI THỀ ĐỘC LẬP

Lời thề ngày 2-9-1945 do Hồ Chí Minh đưa ra gồm có hai phần: “Lời thề của chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” và “Lời thề của Quốc dân”.

Sau đây là nguyên văn “Lời thề của chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”:

“Chúng tôi, Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, do Quốc dân đại biểu đại hội cử lên, xin thề rằng:

Chúng tôi sẽ kiên quyết lĩnh đạo toàn dân giữ vững nền độc lập cho Tổ quốc và thực hiện bản chương trình của Việt Minh, đang mang lại tự do, hạnh phúc cho dân tộc.

Trong lúc giữ nền độc lập, chúng tôi quyết vượt mọi khó khăn, nguy hiểm dù phải hy sinh tính mệnh cũng không từ.”

Lời thề của Quốc dân, cũng do Hồ Chí Minh đọc:

“Chúng tôi, toàn thể dân Việt Nam xin thề: kiên quyết một lòng ủng hộ Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ủng hộ chủ tịch Hồ Chí Minh. Xin thề!

Chúng tôi xin thề cùng chính phủ giữ quyền độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc, chống mọi mưu mô xâm lược, dù có phải chết cũng cam lòng. Xin thề!

Nếu Pháp đến xâm lăng lần nữa thì chúng tôi xin thề: không đi lính cho Pháp, không làm việc cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không đưa đường cho Pháp. Xin thề! “. (Tô Tử Hạ và nhiều tác giả, 60 năm chính phủ Việt Nam [sách song ngữ Việt-Anh], Hà Nội: Nxb.Thông Tấn, 2005, tr. 26.)

Trước khi theo dõi Hồ Chí Minh đã thực hiện những lời thề trên như thế nào, xin quay lại bối cảnh xuất hiện chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Hồ Chí Minh vốn là một cán bộ và điệp viên của Đệ tam Quốc tế Cộng sản. Ông ta cũng là một đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhờ nguồn tin tình báo quốc tế, Hồ Chí Minh biết trước Nhật sắp sụp đổ và đầu hàng sau khi bị Hoa Kỳ thả hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima ngày 6-8 và Nagasaki ngày 9-8-1945.

Hồ Chí Minh liền triệu tập Đại hội đảng Cộng sản Đông Dương (CSĐD) ở Tân Trào (thuộc tỉnh Tuyên Quang) từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945, thành lập “Uỷ Ban Khởi Nghĩa Toàn Quốc” và ra quân lệnh số 1, phát động cuộc tổng khởi nghĩa, cướp chính quyền ở khắp các tỉnh trong nước. Lúc đó, đảng CSĐD do Hồ Chí Minh lãnh đạo, chưa có Bộ chính trị, chỉ có Ban chấp hành trung ương đảng, khoảng dưới 20 người, tổng bí thư là Đặng Xuân Khu, bí danh là Trường Chinh và số đảng viên trên toàn quốc khoảng dưới 5,000 người. (Philippe Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952, Editions Du Seuil, Paris 1952, tr. 182.)

Sau hội nghị của đảng CSĐD, cũng tại Tân Trào, Hồ Chí Minh tổ chức “Đại hội đại biểu quốc dân” ngày 16-8-1945, gồm khoảng 60 đại biểu. Những đại biểu nầy là những người do đảng CSĐD lựa chọn, gồm đại đa số là đảng viên đảng CSĐD, mà Việt Minh thậm xưng là đại diện các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo, các sắc dân trên toàn quốc. Đại hội tuyên bố tán thành chủ trương phát động tổng khởi nghĩa của đảng CSĐD, và thành lập “Uỷ Ban Dân Tộc Giải Phóng Việt Nam”, có tính cách như chính phủ Cách mạng Lâm thời, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Trần Huy Liệu phó chủ tịch, và đại đa số là đảng viên cộng sản.

Chỉ với 5,000 đảng viên nòng cốt mà đảng CSĐD cướp được chính quyền từ chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945 sau khi Nhật đầu hàng vì các lý do sau đây:

1. Chính phủ Trần Trọng Kim không có bộ Binh hay bộ Quốc phòng, không có quân đội.

2. Về phía vua Bảo Đại, khi đại sứ Nhật ở Huế là Massayuki Yokoyama đến gặp nhà vua, đề nghị dùng lực lượng của Nhật tiêu diệt Việt Minh, vì tuy thất trận trên thế giới, quân đội Nhật vẫn còn nguyên vẹn ở Đông Dương, đủ sức đàn áp Việt Minh. Lo sợ nội chiến xảy ra trước sự lợi dụng của ngoại bang, vua Bảo Đại từ chối đề nghị của Yokoyama. Người Nhật còn đề nghị với thủ tướng Trần Trọng Kim. Sau đây là lời trong hồi ký của Trần Trọng Kim: “Lúc bấy giờ người Nhật có đến bảo tôi: “Quân đội Nhật còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân Đồng minh đến thay. Nếu chính phủ Việt Nam công nhiên có lời mời quân Nhật giúp, quân Nhật còn có thể giữ trật tự”. Tôi nghĩ quân Nhật đã đầu hàng, quân Đồng minh sắp đến, mình nhờ quân Nhật đánh người mình còn nghĩa lý gì nữa, và lại mang tiếng “cõng rắn cắn gà nhà”. Tôi từ chối không nhận.” (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, chương 4: “Ra Huế lập chính phủ”).

Ngoài ra, quân đội Nhật trên toàn Đông Dương bất động vì đã được lệnh hạ khí giới và đầu hàng. Quân Pháp bị quân Nhật bắt cầm tù, vẫn còn bị nhốt, cũng không làm gì được. Nhờ thế, cán bộ Việt Minh cộng sản và quân đội cộng sản mới tự do hoành hành, cướp chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim mà không bị một chống đối nào cả.

2.- HỒ CHÍ MINH NUỐT LỜI THỀ

Trong lời thề của mình, Hồ Chí Minh đã nói: “Chúng tôi sẽ kiên quyết lĩnh đạo toàn dân giữ vững nền độc lập cho Tổ quốc …” Thế mà chẳng bao lâu sau đó, Hồ Chí Minh nhanh chóng nuốt vội lời thề một cách thật dễ dàng.

Nguyên sau khi thế chiến thứ hai chấm dứt tại Âu Châu ngày 7-5-1945, Nhật Bản vẫn tiếp tục chiến đấu tại Á Châu. Đại diện các nước Anh, Hoa Kỳ và Liên Xô họp tại Potsdam (Đức) từ ngày 17-7-1945 để bàn về những vấn đề hậu chiến ở Đức. Nhân đó, ngày 26-7-1945, Anh, Hoa Kỳ và Trung Hoa (không họp nhưng đồng ý qua truyền thanh), cùng ký một tối hậu thư gởi cho Nhật Bản, theo đó, sau khi Nhật Bản đầu hàng, phụ trách giải giới quân Nhật tại Việt Nam ở phía bắc vĩ tuyến 16 là quân đội Trung Hoa (Quốc Dân Đảng) và ở nam vĩ tuyến 16 là quân đội Anh. (Liên Xô chưa tham chiến ở Á Châu nên không ký vào tối hậu thư nầy.)

Sau khi Nhật đầu hàng ngày 14-8-1945, Pháp theo chân quân đội Anh vào đầu tháng 9-1945, tái chiếm miền nam vĩ tuyến 16. Muốn tái chiếm miền bắc vĩ tuyến 16, Pháp phải thương lượng thẳng với Trung Hoa. Ngày 28-2-1946 tại Trùng Khánh, ngoại trưởng Trung Hoa là Vương Thế Kiệt và đại sứ Pháp tại Trung Hoa là Jacques Meyrier ký kết Hiệp ước Pháp-Hoa về việc quân Pháp thay thế quân Trung Hoa ở phía bắc vĩ tuyến 16 tại Đông Dương, theo đó Trung Hoa rút quân ra khỏi Việt Nam từ ngày 1 đến 15-3, và chậm nhất là ngày 31-3-1946. Ngược lại, Pháp trả và nhường cho Trung Hoa nhiều quyền lợi kinh tế ở Trung Hoa và ở Đông Dương.

Ngay trước khi Hiệp ước Trùng Khánh được ký kết, ngày 27-2-1946, đô đốc D'Argenlieu vội vàng phát động cuộc hành quân Bentré, chuyển 21,000 quân từ miền Nam Việt Nam ra Hải Phòng, để tái chiếm Bắc Kỳ. Chiều ngày 5-6-1946, hạm đội Pháp xuất hiện ở ngoài khơi Hải Phòng và chuẩn bi đổ bộ vào sáng hôm sau (6-3-1946). Tại Hà Nội, Hồ Chí Minh được tin nầy ngay chiều hôm đó (5-3). Hồ Chí Minh vội báo cho đại diện Pháp ở Bắc Kỳ là Jean Sainteny biết là ông ta đồng ý ký hiệp ước với Pháp, mà Pháp đã bí mật giao bản dự thảo ngày 7-12-1945.

Vào chiều ngày 6-3-1946, tại số 38 đường Lý Thái Tổ, Hà Nội, Hồ Chí Minh, với tư cách chủ tịch chính phủ Liên hiệp kháng chiến, ký thỏa ước Sơ bộ với đại diện Pháp là Jean Sainteny. Theo thỏa ước nầy, Pháp thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (état libre), có chính phủ riêng, nghị viện riêng và tài chính riêng trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp (điều 1); Việt Nam sẵn sàng tiếp đón quân đội Pháp đến thay thế quân đội Trung Hoa để giải giáp quân đội Nhật (điều 2).

Bên cạnh đó, cũng trong ngày 6-3-1946, hai bên ký một phụ ước quân sự, minh định hoạt động quân đội mỗi bên. Theo điều 1 của phụ ước nầy, Việt Minh đồng ý để quân đội Pháp thay quân đội Trung Hoa ở phía bắc vĩ tuyến 16, nghĩa là quân đội Trung Hoa sẽ rời khỏi Việt Nam, dầu Việt Nam không ký kết thỏa ước với Trung Hoa. Lực lượng Pháp lên đến 15,000 quân. Như thế Việt Minh không chống Pháp mà Việt Minh lại chính thức hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Pháp tại Việt Nam.

Điều nầy hoàn toàn trái ngược với lời thề chống Pháp của Hồ Chí Minh khi trình diện chính phủ vào ngày 2-9-1945 (đã viết ở trên). Nói cách khác, Hồ Chí Minh đã nuốt lời thề “chống mọi mưu mô xâm lược, dù có phải chết cũng cam lòng.” Hành động của Hồ Chí Minh gây sự bất bình mạnh mẽ trong các đảng phái chính trị và trong đại đa số quần chúng. Các đảng phái và dân chúng tố cáo rằng Hồ Chí Minh và Việt Minh đã rước thực dân Pháp trở lại Việt Nam.

3.- HỒ CHÍ MINH VƯỢT KHÓ KHĂN NHƯ THẾ NÀO?

Trong lời thề tiếp theo, Hồ Chí Minh thề: “Trong lúc giữ nền độc lập, chúng tôi quyết vượt mọi khó khăn, nguy hiểm dù phải hy sinh tính mệnh cũng không từ.” Xin hãy theo dõi cách Hồ Chí Minh thực hiện lời thề nầy.

Ngày 13-11-1946, đô đốc Georges Thierry d'Argenlieu rời Sài Gòn về Pháp. Trong khi tân chính phủ thiên tả tại Paris thành lập từ ngày 16-11-1946 do Léon Blum lãnh đạo, đang dự tính mở những cuộc thương thuyết mới với chính phủ Việt Minh, thì trung tướng Jean Valluy, giữ chức quyền cao ủy Pháp tại Đông Dương (cao ủy D'argenlieu vắng mặt), đã cố tình kiếm cách gây hấn để đánh chiếm Bắc Việt.

Với một lực lượng mạnh mẽ tại Bắc Việt sau thỏa ước Sơ bộ (6-3-1946), giới quân sự Pháp tìm cách kiêu khích cho Việt Minh tấn công trước, nhằm lấy cớ để quân đội Pháp đánh chiếm Bắc Việt mà không sợ bị chính phủ Paris khiển trách.

Nhận thấy Việt Minh hoạt động mạnh mẽ, dựng nhiều rào cản trong thành phố Hà Nội, ngày 18-12-1946 Pháp giao cho Việt Minh hai tối hậu thư. Tối hậu thư thứ nhất, Pháp đòi Việt Minh hủy bỏ những chướng ngại vật ở Hà Nội. Tối hậu thư thứ hai, Pháp cho biết nếu Việt Minh không duy trì được an ninh ở Hà Nội, thì Pháp sẽ phụ trách an ninh kể từ 20-12-1946. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, tập A: 1939-1946, Houston: Nxb Văn Hóa, 1996, tr. 370.)

Nếu quân đội Pháp nắm giữ an ninh Hà Nội, nghĩa là kiểm soát cả lực lượng võ trang Việt Minh, thì sinh mệnh của chính phủ Hồ Chí Minh, lãnh đạo mặt trận Việt Minh và đảng CSĐD hoàn toàn nằm trong tay quân đội Pháp. Đó là điều Việt Minh không thể chấp nhận được. Hồ Chí Minh liền họp trung ương đảng CSĐD (TƯĐCSĐD) để quyết định.

Đảng CSĐD đã được Hồ Chí Minh tuyên bố giải tán ngày 11-11-1945, và thay bằng Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mã Khắc Tư [Mác-xít] do Trường Chinh (Đặng Xuân Khu) làm tổng thư ký. Tuy nhiên, theo lời Hồ Chí Minh “dù là bí mật, đảng [CSĐD] vẫn lãnh đạo chính quyền và nhân dân.” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tr. 161.) Trung ương đảng CSĐD họp trong hai ngày 18 và 19-12-1946, tại Vạn Phúc (Hà Đông).

Không thể để Pháp bắt, cũng không thể âm thầm nhục nhã bỏ trốn khỏi Hà Nội, Việt Minh và đảng CSĐD không còn chọn lựa nào khác là phải quyết định tấn công Pháp, nhưng Việt Minh không đủ sức đánh Pháp nên ph ải kêu gọi toàn quốc kháng chiến, để Hồ Chí Minh và Việt Minh có lý do chính đáng thoát thân khỏi Hà Nội trong danh dự.

Hồ Chí Minh không hỏi ý kiến quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao của người Việt lúc đó, hay ban thường vụ quốc hội, đại diện cho quốc hội, gồm những người luôn luôn có mặt ở Hà Nội, mà chỉ hỏi ý kiến trung ương đảng CSĐD để phát động chiến tranh.

Theo điều thứ 29 của Hiến Pháp ngày 9-11-1946, thì “muốn tuyên chiến thì phải có hai phần ba số nghị viện có mặt bỏ phiếu thuận”. Sau đó, điều thứ 38 ghi rằng: “Khi Nghị viện không họp được, Ban thường vụ cùng với Chính phủ có quyền quyết định tuyên chiến hay đình chiến”. Tuy hiến pháp nầy không được ban hành và bị bãi bỏ ngày 14-11-1946, tức 5 ngày sau khi được quốc hội thông qua, nhưng lúc đó ban thường trực quốc hội đã được bầu lên.

Ban thường trực quốc hội có mặt thường xuyên ở Hà Nội, nhưng không được Hồ Chí Minh tham khảo ý kiến về một việc trọng đại ảnh hưởng đến vận mệnh của toàn dân, mà Hồ Chí Minh chỉ hội ý riêng với TƯĐCSĐD, rồi quyết định tấn công Pháp. Điều nầy có nghĩa là không phải quốc hội Việt Nam hay ban thường trực quốc hội Việt Nam, tức không phải đại biểu nhân dân Việt Nam quyết định chiến tranh với Pháp, mà Hồ Chí Minh, mặt trận Việt Minh, TƯĐCSĐD tự ý quyết định mở cuộc tấn công Pháp, rồi áp đặt chiến tranh lên dân tộc Việt Nam.

Nhớ lại lịch sử nước ta thời nhà Trần (1226-1400), vào tháng 11 năm giáp thân (1284), được tin nhà Nguyên (Trung Hoa) gởi quân tấn công nước ta, vua Trần Nhân Tông (trị vì 1279-1293) triệu mời các bô lão khắp nước đến điện Diên Hồng ở kinh đô Thăng Long để tham khảo ý kiến. Tất cả những người có mặt đồng thanh trả lời là: "Phải đánh" (Quyết chiến). Vào thế kỷ 13, việc đi lại khó khăn, triệu mời đại biểu dân chúng không dễ, Trần Nhân Tông còn hỏi ý dân để chống ngoại xâm. Trong khi đó, giữa thế kỷ 20, Hồ Chí Minh chỉ hỏi ý đảng của ông ta tức đảng CSĐD, mà không cần hỏi ý dân, cũng không cần hỏi ý quốc hội hay ban thường vụ quốc hội đang có mặt tại Hà Nội.

Cần chú ý là khi Pháp nhờ người Anh, đưa quân tái chiếm miền Nam từ tháng 9-1945, rồi lại đưa quân tiến ra miền Trung và miền Bắc, tổ quốc Việt Nam đã thực sự lâm nguy từ lúc đó. Dầu vậy, Việt Minh không kêu gọi toàn dân chống Pháp, mà VM kiếm cách thương thuyết với Pháp để duy trì quyền bính. Nay không còn thương thuyết được nữa, hết cách thỏa thuận, Việt Minh mới quyết định đánh Pháp vì Việt Minh lâm nguy chứ không phải vì tổ quốc lâm nguy.

Ủy ban TƯĐCSĐD quyết định đánh Pháp nhằm tạo ra lý do chính đáng để rút lui khỏi Hà Nội. Như thế chiến tranh bùng nổ tối 19-12-1946 là chiến tranh giữa Việt Minh và đảng CSĐD với Pháp, chứ không phải giữa dân tộc Việt Nam và Pháp.

Khi cầm quyền, gần 10 ngày sau khi chính phủ VNDCCH ra mắt, hội nghị Trung ương đảng CSĐD tại Hà Nội ngày 11-9-1945, đưa ra nguyên tắc căn bản là đảng CSĐD nắm độc quyền điều khiển mặt trận Việt Minh, và một mình thực hiện cách mạng.(Philippe Devillers, sđd. tr. 143.) Đảng CSĐD nắm độc quyền mặt trận Việt Minh. Mặt trận Việt Minh đang nắm chính quyền, cai trị đất nước. Như thế có nghĩa là đảng CSĐD độc quyền cai trị đất nước.

Trong sách Một cơn gió bụi, chương 6, Trần Trọng Kim viết: “Theo chính sách của Việt Minh, lập ra một chính phủ, đem những người các đảng phái khác hay không đảng phái vào làm bộ trưởng là cốt làm bình phong che mắt người ngoài, chứ không có thực quyền làm được việc gì cả”. Như thế, khi cầm quyền, Việt Minh cương quyết nắm chặt chính quyền trong tay, không chia sẻ quyền lực cho bất cứ ai, bất cứ tổ chức nào. Chẳng những thế, Việt Minh còn tiêu diệt tất cả những thành phần không theo Việt Minh. Nay gặp khó khăn, bị Pháp dồn vào đường cùng, Việt Minh không đối phó nổi với Pháp một mình, thì lại chia sẻ chiến tranh cho toàn dân, kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

Chống ngoại xâm là truyền thống lâu đời của người Việt Nam. Từ khi người Pháp đặt nền bảo hộ năm 1884, người Việt Nam liên tục nổi lên chống Pháp. Nay nghe được lời kêu gọi kháng chiến chống Pháp, dân chúng Việt Nam nô nức hưởng ứng ngay vì lòng yêu nước, thương nòi, chứ dân chúng hoàn toàn không nghi ngờ và không hay biết những âm mưu và thủ đoạn mà lúc đó Việt Minh giấu kín. Nhờ vậy, Hồ Chí Minh, mặt trận Việt Minh và đảng CSĐD mới thoát khỏi nguy cơ có thể bị Pháp tiêu diệt vào năm 1946.

Như thế “Lời thề độc lập” năm 1945 của Hồ Chí Minh vang không xa và vang không lâu, vì chỉ khoảng nửa năm sau, Hồ Chí Minh và đảng CSĐD đã vội vàng nuốt lại lời thề, phản bội tổ quốc, rước Pháp trở lại Việt Nam. Kỷ niệm ngàn năm Thăng Long lịch sử, lời thề đó của Hồ Chí Minh đâu có còn giá trị nữa mà vang, nhất là khi đảng CSVN mưiợn cớ kỷ niệm ngàn năm Thăng Long nhằm mừng quốc khánh Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc vào ngày 1-10.

Lời thơ hùng tráng thay tiếng kèn thúc quân của danh tướng Lý Thường Kiệt tại Thăng Long năm 1077 mới chính là lời thề độc lập vàng son chói lọi, vang vọng mãi mãi như nhạc hồn đất nước mà dân tộc Việt đời đời ghi nhớ:
    "Nam quốc sơn hà nam đế cư,
    Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
    Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
    Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư."


    (Có người dịch là:

      "Sông núi nước Nam vua Nam ở,
      Rành rành định phận ở sách trời.
      Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
      Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời"
      )
Trần Gia Phụng
(Toronto, 9-9-2010, ngày tiễn đưa bạn Trần Công Nghị)



Đối thoại? Đối đầu?

Phạm Hương Sơn chuyển ngữ

Đây là bài viết trả lời của ĐHY Giuse Trần Nhật Quân (nguyên giám mục Hong Kong) về bài viết của Cha Jeroom Heyndrickx [1]: “Đừng giết hại các ngôn sứ tại Trung Quốc. Họ là những Ricci Matteo ngày nay”.


Đức Hồng Y Joseph Zen (Giuse Trần Nhật Quân)

Ngày 8 Tháng 9 Năm 2010

Tôi ý thức được tôi là một người tội lỗi. Tôi không có mục đích đổ lỗi cho người khác. Nhưng tôi cũng không muốn phạm thêm một tội nữa vào trong số đã nhiều những tội lỗi của tôi, đó là làm một con chó câm khi nó phải sủa.

Cha Jeroom Heyndrickx đã một lần nữa viết một bài báo bắt đầu bằng những lời này:

“Chính sách mở cửa của Trung Quốc cho phép một Giáo hội Công giáo hoàn toàn trưởng thành phát triển”.

Sau khi đọc toàn bộ bài viết và cùng với môt luận văn khác dài hơn Một Cuộc Chạm Trán Mới giữa Giáo Hội Công Giáo và Trung Quốc [A New Encounter between Catholic Church and China (trong bộ Thắp Một Ngọn Nến của tuyển tập Collectanea Serica)], tôi có thể hiểu rằng các tiên tri được đặt ra trong vấn đề là những người Công giáo ở Trung Quốc đang đối thoại với chính phủ Trung Quốc và rằng những người muốn giết họ là những người đang khuyến khích họ chọn đối đầu thay vì đối thoại.

Tôi sợ rằng vị Cha già này đang đấu với một địch thủ tưởng tượng. Đâu là đối thoại? Đâu là đối đầu?

Cha Heyndrickx đã hưởng nhiều cơ hội để đối thoại: với những người bạn Công giáo của mình tại Trung Quốc, với ông Liu Bainian (Lưu Bá Niên) [2], với những nhân viên trong Chính phủ Trung Quốc, với các Tu Hội Truyền giáo cho Nhân Dân. Tuy nhiên, các giám mục của chúng tôi ở Trung Quốc có một mảy may cơ hội nào để đối thoại không? Giữa họ với nhau? Không! Chính phủ đã canh chừng chặt chẽ để ngăn ngừa họ làm như vậy. Với chính phủ? Chắc chắn là không! Họ chỉ được lắng nghe và tuân hành. Họ được ra lệnh để đi đến những nơi mà họ không biết. Họ được triệu tập tham gia các cuộc hội họp mà không biết chương trình nghị sự. Họ được đem cho các bài diễn văn để đọc mà họ đã không viết và thậm chí họ không được cho xem qua trước.

Chẳng lẽ Cha Jeroon không biết rằng các giám mục của chúng tôi, tôi muốn nói đến những GM trong cộng đồng chính thức (công khai), được đối xử như là nô lệ, hoặc thậm chí tệ hơn, như là đàn chó bị dắt bởi một sợi dây xích.

Trong thư của Đức Giáo Hoàng gửi cho Giáo Hội tại Trung Quốc điều đã nói tới là thẩm quyền của hội đồng giám mục đang bị làm nhục tại Trung Quốc (”phỉ báng – vilified”).

Và đối đầu? Ai đang đối đầu ai? Có thể nào nhìn bất kỳ phản ứng nào của một con chiên trước con sư tử là đối đầu ư? Nếu chúng ta bảo con chiên, “Escape” Chạy thoát đi! Thì chúng tôi đã phạm tội kích động để đối đầu ư?

Vị Cha già tốt lành của chúng ta, hiểu biết thực tại, thừa biết rằng ngày hôm nay vẫn còn đàn áp và sách nhiễu cho cả hai cộng đồng Giáo Hội (hầm trú và công khai) tại Trung Quốc. Như vậy, làm sao ông có thể nói, qua cách ông nói, như cách ông đang nói về một thế giới khác?

Đúng thật là các phương pháp khủng bố đã được cải tiến. Bây giờ các nạn nhân được mời đến dùng bữa tối, để tham quan du lịch, quà tặng được dội khắp trên từng người và tước vị danh dự (như được nâng lên làm thành viên của Quốc hội Nhân dân ở các cấp độ khác nhau).

Họ được nhiều hứa hẹn là lương tâm của họ sẽ được tôn trọng. Nhưng chúng ta thừa biết rằng trong chủ nghĩa Mác chính thống, hứa hẹn là vô nghĩa. Dối trá là phương tiện hợp pháp để đạt được thành công.

Trong những ngày gần đây chúng ta biết rằng họ đã thả Giám Mục Julius Jia Zhiguo ra khỏi nhà tù và rằng họ sẽ sớm làm điều tương tự với Đức Giám mục James Su Zhimin. Nhưng kế hoạch đàng sau là chính phủ sẽ ngay cả công nhận các vị là các giám mục, trong khi Tòa Thánh lại sẽ yêu cầu họ nghỉ hưu, để nhường chỗ cho một người kế vị được lựa chọn có “thỏa thuận (?!)”

Trong mọi trường hợp, kết quả cuối cùng sẽ là những gì được thực hiện là những gì đảng muốn.

Chúng tôi nói: “Điều Đảng muốn không phải là điều Đức Giáo Hoàng muốn”.

Chỉ bởi nói như vậy, chúng tôi bị kết tội đối đầu (guilty of confrontation). Tuy nhiên, do một “cơ may nào đó,” ngày nay, những gì đảng muốn lại có vẻ trùng hợp dễ dàng với những gì các Tu Hội Truyền giáo cho Nhân Dân muốn. Vì vậy, Alleluia! Mọi người nên vui vẻ hạnh phúc!

Cha Heyndrickx nói về những người Công Giáo “trưởng thành”. Những người Công giáo “trưởng thành” này cũng giống như các sứ giả của triều đình cũ. Họ không cần phải can đảm. Họ chẳng có nguy cơ mất mát bất cứ điều gì. Họ chỉ cần tinh lanh biết điều. Các sứ giả hiện đại của triều đình được hạnh phúc du hành trên các toa xe hoàng gia của Giáo Hội độc lập và thỉnh thoảng họ lại kêu to lên, “Vạn tuế Giáo hoàng!”

Các tiên tri thực sự, thay vào đó, lại là điều bất tiện (không chỉ riêng cho kẻ thù của họ) và họ bị loại bỏ, hoặc, như cách dùng từ của Cha Heyndrickx, “giết chết”. Nhưng họ không sợ. Họ sẵn sàng cho điều đó. Tuy nhiên, điều đáng buồn là những người đó, anh em của chúng ta trong cộng đoàn hầm trú, những người đã sống sót lâu như vậy bất chấp những nỗ lực của kẻ thù, giờ đây lại chết bởi bàn tay của anh em của mình. *(cf. Em Ngươi Đâu? – Pascal also, Họ giết Cha rồi, bằng nhát kiếm sau lưng – Tôma Thùy Nhân)

Cha Jeroom cũng thẳng thắn đủ để nói rằng người anh em của chúng ta tại Trung Quốc phải thực hành đức tin “trong hệ thống hiện tại” của Trung Quốc, rằng họ bắt buộc phải được “hội nhập tốt vào trong xã hội Trung Quốc xã hội chủ nghĩa của ngày hôm nay”. Tôi hy vọng ông hiểu rằng điều này có nghĩa là trở nên thành phần của một Giáo Hội độc lập. Thật không may, anh em của chúng tôi ở Trung Quốc không đối mặt, như Matteo Ricci, với một hoàng đế khoan dung, nhưng là một chế độ muốn kiểm soát luôn cả lương tâm của người dân.

Đức Giáo Hoàng đã thường được nhắc đến bởi Cha Heyndrickx, như thể ông ở cùng phía với Đức Giáo Hoàng hay là Đức Giáo Hoàng cũng ở về phía của ông. Hầu như điếu này đối với tôi (có thể tôi đã phán đoán khắt khe quá chăng?), vừa là đạo đức giả và vừa là bất kính.

Cha Jeroom quả là đạo đức giả, bởi vì ông, với tánh lãnh đạm đáng ngạc nhiên, đã chỉ trích gay gắt tất cả các Giáo hoàng gần đây trong bài viết dài của mình trong bộ Thắp Một Ngọn Nến. Tôi không nghĩ là ông có một sự kính trọng cao về quyền bính của giáo hoàng.

Cha Jeroom quả là bất kính vì ông đã làm cho Đức Giáo Hoàng đồng lõa với mình bằng cách chọn lọc những văn từ trong thư của Đức Giáo Hoàng:

Ông đề cập rằng Đức Giáo Hoàng đã để cho cá nhân các giám mục hầm trú tự quyết định có nên tìm kiếm sự công nhận của chính phủ hay không, nhưng ông đã bỏ qua sự khuyến cáo nghiêm trọng khi Đức Giáo hoàng nói rằng “không chỉ trong một vài trường hợp đặc biệt, tuy nhiên, thật vậy, hầu như luôn luôn, trong quá trình của việc công nhận, sự can thiệp của các cơ quan nhất định buộc những người liên hệ phải chấp nhận những thái độ, hoặc tỏ ra các cử chỉ, và thực hiện các cam kết trái ngược với các đòi buộc lương tâm của người Công Giáo“ (số 7).

Ông trích dẫn từ đoạn cuối cùng của Phần số 4 trong Thư của Đức Giáo Hoàng, nơi nói nói rằng “giải pháp cho các vấn đề hiện tại không thể theo đuổi thông qua một cuộc xung đột đang diễn ra với chính quyền hợp pháp dân sự,” nhưng ông bỏ qua những gì sau đó: “đồng thời, tuy vậy, tuân thủ với nhà cầm quyền không chấp nhận được khi họ can thiệp một cách vô lối trong các vấn đề về đức tin và kỷ luật của Giáo Hội. ”

Thật là khó hiểu cho tôi là làm cách nào mà Cha Heyndrickx có thể bỏ qua một trích đoạn mang tính chỉ thị từ Bức Thư của Đức Giáo Hoàng liên quan sâu sắc đến bạn bè của ông. Đức Giáo Hoàng, trong số 8 đoạn 11 của Bức Thư của ngài, nói: “Thật không may, … một số giám mục đã được hợp pháp hoá lại đã không cống hiến bất kỳ dấu hiệu rõ ràng nào để chứng minh rằng họ đã được hợp pháp hoá. Vì lý do này, điều không thể thiếu được, và vì lợi ích tinh thần tốt đẹp cho các cộng đồng giáo phận liên quan, là các giám mục đã được hợp pháp hoá phải cống hiến và gia tăng các dấu hiệu hiệp thông đầy đủ không nhầm lẫn được với Đấng Kế Vị Thánh Phêrô.”

Trong kết luận, tôi xin đặt câu hỏi cho tất cả những người biết thực trạng của Trung Quốc ngày nay phải chăng cái gọi là “Chính Sách Cởi Mở – Open Policy” cũng có nghĩa là có một sự thay đổi thực sự trong chính sách tôn giáo.

Tôi sợ rằng Cha Jeroom có thể nói “có”. Tôi cảm thấy bắt buộc phải nói “không.”

Thật là rất buồn cho tôi để phải bất đồng ý với người bạn cũ của mình, một người yêu mến Trung Quốc chân thành, trên một điểm quan trọng như vậy.

Tôi dám cho rằng vấn đề của Cha Jeroom là ông ấy đã quá mực ưu ái với những thành công của ông – và những thành công rất nhiều và tất cả chúng ta đã hoan nghênh vào lúc đó.

Nhưng bây giờ chúng ta có thể thấy là tai hại biết chừng nào các phản ứng phụ của những sáng kiến thành công đó đã ngày càng tạo thêm nhiều uy tín hơn nữa cho ông Lưu Bách Niên (Liu Bainian) và các giám mục của chúng ta lại ngày càng trở thành nô lệ nhiều hơn nữa trong tiến trình này.

Hãy làm ơn, lạy Cha, hãy dừng lại và lắng nghe nhiều người anh em, những người đã đánh giá cao những gì ngài đã làm trong quá khứ và bây giờ họ đang van xin ngài thay đổi chiến lược.

Bức Thư của Đức Giáo Hoàng gửi cho Giáo Hội tại Trung Quốc phải phát tín hiệu khởi đầu của một kỷ nguyên mới của những mong muốn xác thực và chân thành theo hướng đi tới bình thường hóa thực sự theo tín điều giáo hội học Công giáo và những thực hành phổ quát của Giáo Hội trên toàn thế giới.

Vào ngày mà 55 năm trước (vào đêm 8 Tháng Chín 1955, Lễ Sinh Nhật Đức Maria), chế độ cộng sản đã tung ra chính sách khủng bố Giáo Hội trên quy mô lớn, bằng cách bắt giữ trong chưa đầy một tháng, hơn một ngàn người Công giáo tại Thượng Hải.

Hôm nay, chúng tôi vẫn còn tràn đầy niềm tin rằng Đức Mẹ có một kế hoạch cho sự giải thoát của chúng ta. Nhưng trong khi chờ đợi chúng ta phải sẵn sàng để mất tất cả, như Chân Phước Mẹ Teresa nói, “Thiên Chúa muốn chúng ta trung thành, chứ không phải thành công”, và như Đức Giáo Hoàng đã nói nhiều lần đến Giáo Hội bị đàn áp, “ngay cả khi mà tất cả mọi thứ trong hiện tại có vẻ là một thất bại, sự đau khổ vì đức tin của chúng ta chắc chắn sẽ mang lại chiến thắng cho Giáo Hội“.

Tôi hy vọng Fr. Jeroom Heyndrickx có thể đồng ý với tôi về điều này.

Cardinal Joseph Zen
Phạm Hương Sơn chuyển ngữ

Ghi chú:

* Xin xem thêm Em Ngươi Đâu? – Pascal Ofm và Họ giết Cha rồi, bằng nhát kiếm sau lưng – Tôma Thùy Nhân

[1] Linh mục Jeroom Heyndrickx, một nhà truyền giáo người Bỉ 79 tuổi, là người sáng lập Học viện Mục vụ Đài Loan và là giám đốc sáng lập của Quỹ Ferdinand Verbiest, Trường Đại học Công giáo Leuven, Bỉ. Cha là một nhà Hán học giảng dạy tại các trường đại học Trung Quốc, đã vun đắp cho mối quan hệ giữa các thành viên của Giáo hội chính thức (hầm trú) với Hiệp hội Công giáo Ái Quốc Trung Hoa (của chính quyền).

[2] Liu Bai Nian là phó chủ tịch Hiệp hội Công giáo Ái Quốc Trung Hoa.

****
    EM NGƯƠI ĐÂU ?
Linh Mục Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm

Một cảm giác khó tả

Cuối cùng thì hôm nay 22-04-2010, Toà Thánh Vatican đã chính thức loan tin: đức cha Phê-rô Nguyễn Văn Nhơn, giám mục Đàlạt, đương kim Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đã được Toà Thánh bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Phó Hà Nội với quyền kế vị. Chuyện thay thế Đức Tổng Giám Mục Giu-se Ngô Quang Kiệt chỉ là vấn đề thời gian. Bất cứ ai theo dõi tin tức trên mạng trong những tháng gần đây, đều đã được chuẩn bị để đón nhận thông tin này, nên nói là ngạc nhiên thì không đúng. Tuy vậy, bản thân tôi vẫn cảm thấy một cái gì vừa ngột ngạt vừa đăng đắng trong cổ họng. Tôi chợt nhớ đến hình ảnh chiếc xe tăng T54 cách đây 35 năm đã húc vào cổng Dinh Độc Lập Sài-gòn, và bỗng có cảm tưởng chiếc xe tăng đó hôm nay đang húc vào Cổng Toà Tổng Giám Mục Hà Nội. Xin ghi lại sau đây mấy suy nghĩ từ biến cố mới được Toà Thánh loan báo trên đây.

“Vì lý do sức khoẻ”

Nay thì đã rõ là Đức Tổng Kiệt đã nộp đơn lên Toà Thánh xin từ chức “vì lý do sức khoẻ”. Được biết: từ hơn một năm rồi, ngài bị mất ngủ triền miên. Từ đó dẫn đến suy nhược. Và khi thấy không còn có đủ sức khoẻ thể xác và tinh thần để chu toàn trách nhiệm, một trách nhiệm hết sức nặng nề, trong một tình huống muôn phần khó khăn, thì xin từ chức là việc làm hợp lý của người có ý thức trách nhiệm.

Thế nhưng không ai tìm hiểu vấn đề mà không đối mặt với câu hỏi: Đành rằng suy nhược là do mất ngủ, nhưng mất ngủ do đâu? Khỏi cần nhắc lại những năm làm giám mục Lạng Sơn, trên một địa bàn mênh mông bát ngát, một giáo phận không Toà Giám Mục, không chủng viện, rong ruổi hết xứ đạo này tới xứ đạo khác, một mình vừa làm cha xứ, vừa làm giáo lý viên kiêm ca trưởng, kiêm luôn chức ông từ kéo chuông, con người đó không hề biết mệt. Vấn đề sức khoẻ cũng không được đặt ra khi ngài về nhận chức Tổng Giám Mục Hà Nội năm 2005. Ngay trong giai đoạn nổ ra vụ Toà Khâm Sứ, Thái Hà, ta dễ đoán tình trạng căng thẳng ngài phải gánh chịu, thế nhưng không có dấu hiệu gì cho thấy sức khoẻ của ngài có vấn đề. Qua đoạn băng vidéo ghi lại cuộc gặp gỡ giữa phái đoàn Toà Tổng Giám Mục Hà Nội với lãnh đạo Thành phố tại trụ sở UBND/HN ngày 21-09-2008 ta thấy một Đức Tổng Kiệt trẻ trung, lanh lợi, đầy sức sống, ăn nói hoạt bát, phong thái tự tin. Tại đây ngài đã có lời tuyên bố chắc nịch: “Tự do tôn giáo là quyền chứ không phải là ân huệ xin – cho”. Trong một xã hội bình thường thì khẳng định trên đây chẳng có gì là độc đáo đáng cho ta để ý. Nhưng trong chế độ độc tài toàn trị, thì lời tuyên bố này có thể ví như một quả bom. Đó chính là lý do khiến chính quyền cộng sản Hà Nội lồng lộn lên, và từ đó tìm đủ mọi cách để triệt hạ người đã to gan dám đụng tới quyền lực họ đang nắm trong tay.

Đẩy ra khỏi địa bàn Hà Nội

Tiếp theo sau lời tuyên bố của Đức Tổng Kiệt là cả một chiến dịch nhằm triệt hạ uy tín của ngài qua các phương tiện thông tin tuyên truyền của Hà Nội, mà cao điểm hẳn là những gì đã diễn ra tại Đền Thánh Giê-ra-đô Thái Hà đêm 21-09-2008: Một đám người điên loạn, nay được gọi cách trân trọng là “quần chúng tự phát”, tay đập phá tường rào, miệng gào thét “Giết Tổng Giám Mục Kiệt!” Tiếp đến là một việc làm văn minh hơn, đó là văn thư ông Chủ Tịch UBND/Tp. Hà Nội gửi Đức Cha Chủ Tịch HĐGM/VN tố cáo Đức Tổng Kiệt gây xáo trộn xã hội, và đề nghị thuyên chuyển ngài khỏi địa bàn Tp. Hà Nội (xem phụ lục 1). Và ngay sau đó, Đức Cha Chủ tịch HĐGM/VN đã có văn thư trả lời (xem phụ lục 2). Điều đáng ngạc nhiên chính là văn thư trả lời của HĐGM/VN.

Cùng phản đối cơ chế xin – cho

Ở đây tôi chỉ nói đến một điểm mà hình như cho đến giờ này ít ai (hay chưa có người) bàn tới, đó là điểm tương đồng giữa lời tuyên bố của Đức Tổng Kiệt với Thư Ngỏ HĐGM/VN gửi Quốc hội và các cơ quan lập pháp tiếp theo sau đại hội các giám mục năm 2002, mà nội dung căn bản là phản bác cơ chế xin – cho (xem phụ lục 3). Đọc lá Thư ngỏ này, ta có cảm tưởng như đang chứng kiến cảnh một thiên thạch rớt xuống địa cầu. Là vì trong một chế độ độc tài mà lại phản bác cơ chế xin – cho thì có khác gì nói lời tuyên chiến! Và ngay tại Sài-gòn thì Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã trân trọng gửi văn kiện đó cho ông Chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam Tp. HCM sau khi đã gửi cho Đại hội những người Công Giáo Việt Nam Nam xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc lần IV. Thế thì khi phản bác cơ chế xin – cho tại trụ sở UBND Tp Hà Nội, Đức Tổng Kiệt không làm gì khác hơn là lặp lại lập trường của HĐGM/VN qua Thư ngỏ 2002 vừa nói. Chính vì vậy mà trong văn thư trả lời Chủ tịch UBND Tp. HN, lẽ ra HĐGM/VN phải minh định là khi phản bác cơ chế xin – cho, Đức Tổng Kiệt đã phản ánh hoàn toàn đúng lập trường của HĐGM/VN, và do đó HĐGM/VN mạnh mẽ ủng hộ lời tuyên bố của Đức Tổng Kiệt. Thế nhưng việc này đã không xảy ra.

Thư ngỏ 2002 có còn giá trị?

Nay nhắc lại việc này, thiết tưởng HĐGM/VN cần soi sáng cho công luận biết: HĐGM/VN có còn giữ nguyên lập trường phản bác cơ chế xin – cho đã được minh định trong Thư ngỏ 2002 không? Nếu có, tại sao không công khai hỗ trợ Đức Tổng Kiệt? Nếu không, có phải vì đó là một lập trường sai lầm, và sai lầm ở những điểm nào? Bao lâu công luận chưa được soi sáng, thì những chuyện ngờ vực hay hiểu lầm là không tránh khỏi.

Lẻ loi đơn độc

Trở lại với văn thư Đức Cha Chủ Tịch HĐGM/VN trả lời Chủ tịch UBND/Tp. Hà Nội kèm theo bản “Quan điểm”, ta dễ dàng nhận ra vị trí của Đức Tổng Kiệt trong HĐGM/VN. Trước những lời kết án của Chủ tịch UBND/Tp Hà Nội thì HĐGM/VN khẳng định: Đức Tổng Kiệt đã không làm gì trái giáo luật. Và trong khi Đức Tổng Giám Mục Hà Nội, qua vụ Toà Khâm Sứ – Thái Hà, tranh đấu cho công lý hoà bình, thì văn thư của HĐGM/VN xem đó chỉ là chuyện đòi đất. Văn thư đó như lằn ranh phân chia một bên là Đức Tổng Giám Mục Hà Nội và bên kia là các vị khác trong HĐGM/VN. Đọc văn thư đó, ta thấy được Đức Tổng Kiệt lẻ loi đơn độc như thế nào ngay trong hàng ngũ anh em giám mục của mình. Và theo tôi, đây mới là nguyên nhân của căn bệnh mất ngủ triền miên dẫn đến suy nhược. Cuối cùng Đức Cha Kiệt đã đệ đơn xin từ chức Tổng Giám Mục Hà Nội, và nay đã có Tổng Giám Mục Phó với quyền kế vị; theo nhiều nguồn tin khá thông thạo, thì việc chuyển ngôi sẽ không còn xa.

San_juan_Wood_Sculture_By_Santiago_MartinezHình trái: Đầu của Thánh Gioan Tẩy Giả, Tượng gỗ của Santiago Martinez

Trước việc chuyển ngôi tại Toà Tổng Giám Mục Hà Nội, hẳn không có ai hả hê đắc chí bằng chính quyền cộng sản Hà Nội. Nhân dịp mừng Ngàn năm Thăng Long, thiết tưởng đây là món quà quý giá nhất từ phía Giáo Hội Công Giáo. Tôi chợt nghĩ đến tiệc mừng sinh nhật của Hê-rô-đê mà món quà không phải gì khác hơn là cái đầu của Gio-an Tẩy Giả (Mc 6,27).

Những người thừa kế các Tông Đồ

Lúc này đang là Mùa Phục Sinh. Sách Công vụ Tông Đồ đọc mỗi ngày trong Thánh Lễ cho chúng ta thấy các Tông Đồ sau biến cố Phục Sinh, sau khi đón nhận Chúa Thánh Thần, đã thay đổi như thế nào. Trong cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su, một người đã chối Chúa (mà lại là thủ lãnh!), số còn lại thì bỏ Chúa, và với cái chết nhục nhằn thê thảm trên thập giá, cuộc đời Đức Giê-su đã kết thúc trong thất bại ê chề. Nhưng biến cố Phục Sinh đã thay đổi tất cả. Những con người hèn nhát, nay không còn sợ hãi, những con người vốn không chữ nghĩa, xuất thân từ giới bình dân, nay công khai tranh luận với các kinh sư chữ nghĩa cùng mình. Khi đối mặt với nhà cầm quyền, các ông đã khẳng khái tuyên bố: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Nay trước bao nhiêu vấn đề xã hội: bất công, tham nhũng, phá thai, buôn người, nhường đất nhường biển cho ngoại bang, tất cả gói gọn trong một thứ tội tổ tông là độc tài đảng trị, thì sự thinh lặng cũng như thái độ ngoan ngoãn của các giám mục Việt Nam đối với nhà cầm quyền, không theo khuôn vàng thước ngọc của các Tông Đồ ngày xưa: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm”. Và cũng từ đây ta hiểu được tại sao cộng đoàn tín hữu Công Giáo Hà Nội, linh mục, tu sĩ cũng như giáo dân, đã hết lòng trìu mến, thiết tha gắn bó với vị mục tử quyết tình noi gương Chúa Giê-su, vị mục tử sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đoàn chiên: Đức Cha Giu-se Ngô Quang Kiệt.

Kết luận: Em ngươi đâu ?

Bổ nhiệm giám mục là quyền tuyệt đối của Đức Giáo Hoàng. Nguyên tắc là như vậy. Thế nhưng trong một nước cộng sản như Việt Nam, thì mọi chuyện không đơn giản như thế. Ai cũng biết lập trường của chính quyền Hà Nội là bằng mọi giá phải thuyên chuyển Đức Tổng Kiệt khỏi địa bàn Hà Nội. Nay việc đó đang diễn ra. Chính quyền cộng sản đã dùng những biện pháp nào, qua những trung gian nào để tác động lên Toà Thánh Vatican và các giám mục thì không ai biết. Trong tư cách là tín hữu Chúa Ki-tô trên đất nước Việt Nam hôm nay, ta chỉ có thể cầu xin cho người sẽ thay thế Đức Tổng Kiệt, được bình an thanh thản vì chỉ vâng lời Đức Thánh Cha để chu toàn một trách nhiệm muôn phần khó khăn nặng nề, và đã không làm bất cứ điều gì để phải đối mặt với câu hỏi xưa Chúa đã hỏi Ca-in: “Em ngươi đâu ?” (St 4,9)

Sài-gòn, ngày 22 tháng 04 năm 2010
Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm
pascaltinh@gmail.com

Phụ lục 1: Thư của Nguyễn Thế Thảo gởi HĐGMVN


Phụ lục 2: Thư phúc đáp của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam


Phụ lục 3: Thư Ngỏ Của Các Giám Mục Việt Nam




Hòa giải dân tộc không chỉ thả tù binh Cọng Hòa mà phải là đại xá toàn dân - Thiên Đức

Thiên Ðức

Trong thời gian gần đây, trên trang mạng Bauxite Việt Nam có phổ biến bài viết với tựa đề: “Kiến nghị trả tự do cho tất cả tù nhân cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, lấy “Việt Nam” làm quốc hiệu để hoa giải dân tộc“.

Bài viết kết thúc như sau:

“Nhân danh con trai Nhà thơ Huy Cận, Bộ trưởng thành viên Chính phủ khai sáng nền Cộng hòa và nhân danh cá nhân, kiến nghị Quốc hội khẩn cấp thực hiện Hòa giải dân tộc bằng:

1. Ðại xá tất cả tù nhân cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam Cộng hòa theo Khoản 10 Ðiều 84 Hiến pháp (Quốc hội quyết định đại xá).

2. Lấy “Việt Nam” làm quốc hiệu thay cho “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Khoản 1 Ðiều 84 Hiến pháp (Quốc hội làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp). (1)

Qua bản kiến nghị trên, hai cụm đại xá và hòa giải dân tộc đã sử dụng một cách ngộ nhận, gây nhiều tranh cãi.

1.- Ðại xá

Trở lại thời điểm lịch sử vào năm 1975, khi những người lính Cộng Hòa miễn cưỡng buông súng theo lệnh của vị chỉ huy đầu đàn là tướng Dương Văn Minh, cũng là lúc chế độ mới thiết lập tại miền Nam Việt Nam. Nhằm hòa giải dân tộc, để thông suốt chánh sách đường lối cai trị mới, nhà cầm quyền đã đề ra chính sách học tập cải tạo toàn bộ quân nhân cán chính miền Nam Việt Nam, mang theo lương thực đủ ăn 10 ngày hoặc một tháng tùy theo cấp bậc. Và thực tế cho đến nay hơn 35 năm, vẫn còn có những người tham gia học tập cải tạo chưa được về với gia đình?

Ðiều này nói lên một thực tế là đảng cộng sản Việt Nam đã phản bội lại chính mình, đã lợi dụng chính sách học tập cải tạo để trả thù đê tiện những người từng phục vụ dưới chế độ Cộng Hòa, với một lý do duy nhất là những người này không bao giờ tự nhận là người có tội với tổ quốc và dân tộc.

Thật vậy họ là những người bảo vệ tổ quốc, bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa không để rơi vào tay ngoại bang, họ là những người đã từng cưu mang một triệu người miền Bắc chạy trốn chế độ cộng sản miền Bắc vào năm 1954. Thì làm sao có thể buộc họ có tội với tổ quốc và nhân dân? Họ là những người từng cầm súng bảo vệ quê hương làng mạc nơi họ đang sống để chống lại mọi cuộc xâm lăng bất cứ từ đâu tới. Họ chưa từng cầm súng chiếm đoạt một vùng đất nào ngoài lãnh thổ của họ, nhưng cũng chưa để mất một tấc đất nào của tổ tiên để lại.

Theo lời kể của cựu tù chính trị Nguyễn Ngọc Quang về cựu đại úy địa phương quân Nguyễn Hữu Cầu, quân lực VNCH hiện đang bị học tập cải tạo 34 năm nay như sau:

Sống trong tù với anh Nguyễn Hữu Cầu một thời gian không dài lắm, tôi cảm phục chí khí bất khuất kiên cường của anh Nguyễn Hữu Cầu. Anh đã gần 500 lần viết những lá đơn để kháng cáo tội bị gán cho mình. Nhà tù đã dùng biết bao cực hình để khuất phục ý chí của anh. Nhưng chưa một lần nào viết bản kiểm điểm mà anh ghi vào đó rằng “tôi nhận tội” cả. Mà anh ghi như thế này, “Tôi luôn luôn giữ quan điểm của mình là tôi vô tội. Người có tội chính là đảng CSVN”. Vì vậy anh luôn luôn bị biệt giam, bị cùm.

Ðối với người tù bất khuất Trương Văn Sương với thời gian 33 năm 4 tháng trong trại cải tạo vừa ra trai đã tuyên bố:

“Trong những ngày bị lao tù, tôi cũng mong một ngày nào đó có được một giải pháp chính trị để họ thả tôi ra. Thật ra, tôi không nghĩ rằng họ có nhân đạo thả tôi, hoặc tôi cũng không nghĩ rằng tôi là người cải tạo tiên tiến để được đặc xá hay giảm án, tha án gì. Tôi mong rằng có một giải pháp chính trị nào đó để giúp giải quyết cho những người tù chính trị.” (2)

Giả thiết, đảo ngược lại, có một đội quân ngoại nhập nào đó đến cướp đất đai, mồ mả làng xóm của những người cộng sản nói chung, hay của gia đình ls. Cù Huy Hà Vũ nói riêng, rồi bắt cha, ông những người dân trong vùng này đi biệt tích trong 35 năm, ép buộc họ nhận tội mới được thả ra có hợp lý không? Mong ông Cù Huy Hà Vũ trả lời theo lương tâm của một người con yêu của đất nước và theo lương tri của một người đã thành đạt trong ngành luật.

Ðảng csvn và nhà nước đã từng kêu gọi xếp lại quá khứ hướng về tương lai, thế mà giờ này vẫn còn giam giữ tù binh Cộng Hòa với bất cứ lý do gì, cũng là một điều nghịch lý đáng phê phán. Những người tù này phải được trả tự do vô điều kiện, và hành vi thả tù binh này không mang ý nghĩa hòa giải dân tộc như đã chứng minh trên, mà chỉ là một hành vi của lương tâm và đạo lý giữa con người Việt Nam với nhau.

Sự việc gán ghép hành vi trả tự do toàn bộ những người phục vụ chế độ Việt Nam Cọng Hòa sau ba mươi lăm năm giam giữ với ý nghĩa hòa giải dân tộc là một hành vi không trong sáng, cố tình đánh tráo lịch sử.

2.- Hòa giải dân tộc

Khi đất nước chấm dứt tiếng súng, hai miền Nam Bắc nối liền nhau, đảng csvn đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng, đó là dựa trên lý tưởng “Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại” để chia dân tộc Việt Nam ra hai thành phần “Vô sản và không vô sản”.

Ðặc biệt thành phần “không vô sản” phải bị tiêu diệt dưới mọi hình thức. Là người Việt Nam không ai không biết hậu quả của chính sách cải cách ruộng đất, “trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ, cải cách công thương nghiệp, tổ chức bán dân, bán bãi xô đẩy người dân vào lòng biển cả …”, chính sách mở rộng cửa tù cho những người có tiếng nói khác biệt. Tất cả đó chính là nguồn gốc của hận thù dân tộc.

Hận thù Quốc Cộng (nếu có?) xảy ra trong chiến tranh và đang tàn lụi theo thời gian. Hận thù dân tộc do đảng cs gây nên xảy ra trong hòa bình, kéo dài từ khi có đảng cho đến ngày nay.

Những người phục vụ chế độ Việt Nam Cộng Hòa không gây hận thù dân tộc, mà chính đảng cộng sản gây ra và nuôi dưỡng hận thù dân tộc.

Nội hàm này người viết đã từng nhiều lần trình bày rõ ràng qua nhiều loạt bài viết như:

- Ðối thoại với ông Võ Văn Kiệt và đảng csvn: Xếp lại quá khứ? (3)

- Hòa hợp hòa giải dân tộc (4)

- Phong thủy tính sổ ngày tàn chế độ cọng sản Việt nam. (5)

Không ai có thể nhập nhằng và đánh tráo lịch sử giữa hòa giải dân tộc và hòa giải “Quốc Cộng” để trốn tránh trách nhiệm trước lịch sử.

Muốn hòa giải dân tộc chỉ có một con đường duy nhất đó là đảng cộng sản Việt Nam phải biết tôn trọng dân tộc Việt Nam thể hiện qua hai bước:
    - Thứ nhất: Ðại xá toàn dân tộc vô điều kiện những người đang bị giam giữ tại quốc nội hoặc lưu đày ngoại quốc, không phân biệt chính kiến, tôn giáo, thành phần giai cấp, địa vị xã hội.

    - Thứ hai: mọi người Việt Nam đều có quyền bình đẳng ngang nhau, có nghĩa là đảng cọng sản Việt nam phải hoạt động trong vòng hiến pháp và luật pháp, ngang bằng với toàn dân tộc Việt.
Không thể có hòa giải dân tộc khi toàn dân tộc bị áp bức tù đày, bất công của luật pháp tồi tệ hơn cả thời kỳ Pháp thuộc, trong khi đảng csvn ngồi xổm trên hiến pháp và luật pháp như chính ông Nông Ðức Mạnh đã tuyên bố:

Theo Vietnamnet ngày 26/6/2010, Tổng Bí thư Nông Ðức Mạnh khẳng định: “Bộ máy Nhà nước ở Việt Nam không hoạt động theo nguyên tắc tam quyền phân lập mà có sự phân định nhiệm vụ, hoạt động thống nhất dưới sự lãnh đạo của Ðảng”. (6)

Mọi người Việt Nam phải được thủ đắc quyền và nghĩa vụ được ghi rõ ràng trong hiến pháp. Ðảng csvn chỉ là một bộ phận của dân tộc chứ không phải là một ngoại lệ để có quyền đứng trên và ngoài hiến pháp. Dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc bị trị dưới quyền của đảng csvn. Ðảng Cộng sản Việt Nam chỉ là con dân, chứ không phải là cha mẹ dân tộc Việt Nam.

Bao lâu đảng cộng sản Việt Nam chưa thể hiện được hai bước căn bản này thì hận thù dân tộc sẽ ngày càng chồng chất theo thời gian, và hòa hợp hòa giải dân tộc chỉ là cái bong bóng nước bọt trên đầu môi của mỗi người dân Việt mà thôi.

Luật sư Cù Huy Hà Vũ nói riêng và giới sĩ phu Việt Nam nói chung mong muốn Việt Nam có hòa giải dân tộc nên nhìn thẳng vào thực tế để thực hiện một bước cụ thể trong thời gian sắp tới nhân dịp sửa đổi hiến pháp đó là:

- Ðề nghị chính sách hòa giải hòa hợp dân tộc trở thành quốc sách, phải được ưu tiên thi hành trong hiến pháp, trước tiên đại xá toàn dân, ngăn chận mọi hành vi trả thù phát xuất từ nhiều phía, và mọi công dân Việt Nam đều được quyền bình đẳng và hưởng mọi quyền lợi và nghĩa vụ ghi rõ trong hiến pháp không có ngoại lệ. Ðảng cọng sản Việt Nam cũng chỉ là một bộ phận dân tộc phải nằm trong hiến pháp.

Sự dũng cảm và đấu tranh nói lên sự thật là đáng khen ngợi, thế nhưng đánh tráo sự thật hay chỉ nói lên một nửa sự thật sẽ không bao giờ có kết quả như một sự thật đáng có.

Thiên Đức

Ghi chú:

1.- Kiến nghị trả tự do cho tất cả tù nhân cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam Cọng Hòa, lấy “Việt Nam” làm quốc hiệu để hòa giải dân tộc
http://boxitvn.blogspot.com/2010/08/kien-nghi-tra-tu-do-cho-tat-ca-tu-nhan_31.html
2.- Còn biết bao người tù chính trị bất khuất trong cảnh đọa đày
http://www.rfa.org/vietnamese/vietnam/chinh-tri/Plight-of-long-term-political-prisoners-in-vn-tquang-07252010125719.html
3.- Ðối thoại với ông Võ Văn Kiệt và đảng csvn: Xếp lại quá khứ?
http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=45&nid=107413
4.- Ðối thoại với ông Võ Văn Kiệt và đảng csvn: Ðể hòa giải hòa hợp dân tộc
http://anhduong.net/binhluan/May07/bai_viet_doi_thoai_voi_ong_vo_van_kiet_2__unicode_.htm
5.- Phong thủy tính sổ ngày tàn chế độ cọng sản Việt nam.
http://thongtinberlin.de/diendan/tinhsongaytanchedocsvn03.htm
6.- Nhà nước CHXHCNVN không phải là nhà nước pháp quyền
http://boxitvn.blogspot.com/2010/06/nha-nuoc-chxhcn-viet-nam-không-phai-la.html