Sunday, September 12, 2010

Cảm nghĩ sau khi xem đoạn quảng cáo phim "LÝ CÔNG UẨN - ĐƯỜNG TỚI THÀNH THĂNG LONG" - GS Nguyễn Đăng Hưng (Liège)


    ..... Trời ! Ai có thể ngờ Việt Nam ngày nay có thể như vậy!
    Đậm đà bản sắc dân tộc mà như thế ư?

“Mới xem qua thôi mà tôi đã thấy hãi, nếu không nói kinh hoàng!

Từ trang phục cho đến cảnh quan, từ áo mão cho đến búi tóc, hình ảnh toát ra cho ta thấy:

Đây là một phim Trung Quốc, chẳng khác gì những phim lịch sử Trung Quốc khác mà đông đảo người Việt Nam quen xem.

Lời bình nhắc nhở diễn viên là người Việt Nam nhưng bất cứ ai chưa thấy họ trên phim Việt Nam đều nghĩ ngay họ là người Tàu, chỉ trừ cô gái và chiếc áo tứ thân. Đậm đà bản sắc dân tộc mà như thế ư?”
. GS Nguyễn Đăng Hưng


Chi tiết nhỏ này không thể cứu vãn được tính bao trùm của bản sắc Trung Quốc!
    Trời ! Ai có thể ngờ Việt Nam ngày nay có thể như vậy!
    Đậm đà bản sắc dân tộc mà như thế ư?
Vì thiếu kỹ thuật, thiếu điều kiện, thiếu tài năng (hay không muốn người thật tài thực hiện!), ai đó đã chọn giải pháp dễ dãi nhờ đến “Công ty Cổ phần Truyền thông Trường Thành”, một cái tên gợi ý rất rõ: đây là sản phẩm của Trung Quốc!

Than ôi, người ta vô tình (hay cố ý ai biết!), đang dẫn dắt dân Việt chúng ta tiến nhanh tiến mạnh đến bóng đêm của ngàn năm lệ thuộc!

Chúng ta đang thấy nhan nhản ngày nay văn hóa Thăng Long cổ kính, trong sáng, thanh lịch ngày càng phai nhạt.

Chúng ta than trách tại sao người lo bảo tồn văn hóa không thể hiện nét văn hóa cần thiết. Sơn phết màu mè, pha trộn, giả cổ là phổ biến.

Chỉ có mấy phút hình ảnh thôi mà những điều nhiều các nhà văn hóa đích thực thường trăn trở, lo âu bấy lâu nay, như được mở toang ra, một sự kiện có sức tố cáo đanh thép trước công luận: Từ chỗ vô văn hóa đến chỗ văn hóa nô dịch chỉ là khoản cách những bước đi nhỏ... Phim nhắc đến trên đây là một trong những bước đi ấy.
    Vô văn hóa mà làm văn hóa thì chỉ là người đào mồ chôn văn hóa đích thực!
    Mà mất văn hóa là mất hết, than ôi !

    Một nghìn năm Thăng Long,
    một nghìn năm văn hóa dân tộc,
    ai sẽ chịu trách nhiệm cho những tổn thương này?
Tp Hồ Chí Minh, 18h45 ngày 10 tháng 9 năm 2010.

Ý kiến của Thiếu tướng việt cộng Nguyễn Trọng Vĩnh
    "Thật không thể được! Nếu tôi là Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch, tôi sẽ cấm chiếu bộ phim này trên toàn cõi Việt Nam, bất kể trên truyền hình hay rạp".
*****
Mời quý vị xem đoạn phim

LÝ CÔNG UẨN - ĐƯỜNG TỚI THÀNH THĂNG LONG











Mẹ Việt Nam ơi ! Dân ta có tội tình gì
Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Ba mươi lăm năm, giặc cộng cướp nước
Gia tài của mẹ, một bọn lai căng
Gia tài của mẹ, một lũ PHẢN QUỐC, BÁN NƯỚC.




Saturday, September 11, 2010

Phản Ứng Từ Việt Nam Về Tuyên Bố Của Đảng Việt Tân

Thanh Quang, phóng viên RFA
2010-09-11
Đảng Việt Tân trụ sở tại Hoa Kỳ hôm thứ Năm ra thông cáo báo chí cho biết, 4 người bị công an Việt Nam bắt giam gần đây là những thành viên của đảng chính trị này.

Câu hỏi được nêu lên là lời tuyên bố đó gây phản ứng ra sao trong số thân nhân, chức sắc, tín hữu Hội Thánh Tư gia “Chuồng Bò” ?

Tuyên bố của Việt Tân

Lên tiếng với Đài Á Châu Tự Do hôm thứ Năm, ông Hoàng Tứ Duy, phát ngôn viên đảng Việt Tân trụ sở tại Hoa Kỳ trước hết cho biết 4 thành viên của Việt Tân đang bị VN giam giữ hiện giờ gồm giáo sư Phạm Minh Hoàng, từng giảng dạy tại Đại học Bách Khoa Saigòn, Mục sư Dương Kim Khải, Quản nhiệm Hội Thánh Tin Lành Tư gia, còn có tên thân mật là “Hội Thánh Chuồng Bò”, tân tín hữu Tin Lành Nguyễn Thành Tâm ở Bến Tre, và tiểu thương Trần Thị Thúy.

Ông Hoàng Tứ Duy đề cập tới lý do đảng Việt Tân công khai hóa tư cách thành viên của những người này:

"Lý do chúng tôi lên tiếng là tại vì trước sự kiện các anh em Việt Tân bị bắt một cách âm thầm, gia đình của họ bị khủng bố tinh thần và nhà nước VN không đưa ra một bằng chứng cụ thể nào là tại sao họ bị bắt, thì đảng Việt Tân cảm thấy đây là lúc chúng tôi phải lên tiếng để làm sao vận động dư luận ủng hộ và đòi tự do cho 4 anh chị em này".

Trước lời tuyên bố xác nhận tư cách thành viên đảng Việt Tân của số người vừa nói, chúng tôi tìm hiểu phản ứng của thân nhân và đạo hữu của những người này.

Từ Sàigòn, bà Lê Thị Kiều Oanh, vợ Giáo sư Phạm Minh Hoàng cho biết: "Thực sự trước đây tôi không biết việc đó. Nhưng tôi là người tôn trọng ý kiến của mỗi cá nhân, nhất là ý của chồng tôi. Nếu đó là sự chọn lựa của chồng tôi thì tôi nghĩ rằng anh ấy cũng có lý do của ảnh".

Khi được hỏi liệu lời xác nhận vừa nói của đảng Việt Tân có thể ảnh hưởng ra sao tới tình cảnh của giáo sư Phạm Minh Hoàng, bà Lê Thị Kiều Oanh nhận xét:

"Tôi nghĩ một tổ chức nào đó khi làm một việc gì cũng chắc là có một ý định của họ. Chính quyền VN cho đảng Việt Tân là một tổ chức phản động, và đang cố ghép chồng tôi vào cái tội là tham gia “tổ chức phản động Việt Tân để âm mưu lật đổ chính quyền.

Thì việc đảng Việt Tân lên tiếng nói như vậy, tôi vẫn tôn trọng. Tôi nghĩ là họ có ý gì đó mà thực sự tôi không biết. Nhưng, như tôi nói lúc đầu, là lúc nào tôi cũng tôn trọng ý của người khác, nhất là ý của chồng tôi".


Bà Kiều Oanh khẳng định chồng bà vô tội, và nhân tiện kêu gọi các tổ chức nhân quyền thế giới giúp can thiệp với chính phủ VN để chồng bà được sớm đoàn tụ với gia đình.

“Tôi được biết VN đã ký vào 2 văn kiện rất quan trọng: Văn kiện thứ nhất là Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và văn kiện thứ hai là Hiệp ước về Quyền Dân sự và Chính trị. Tôi nghĩ khi VN đã ký 2 văn kiện quan trọng như vậy, tức đã có sự cam kết, thì VN nên giữ đúng với lời cam kết đó.

Việc chồng tôi cho dù có tham gia một đảng phái nào, cho tới bây giờ tôi vẫn nghĩ là anh ấy vô tội. Vì tôi biết chồng tôi là người đấu tranh chống tiêu cực, lúc nào cũng với thái độ hết sức ôn hòa. Bằng chứng là cho tới nay việc làm của anh ấy chỉ đơn giản là viết những bài báo dưới bút danh Phan Kiến Quốc.

Tôi nghĩ chẳng lẽ việc anh ấy viết những bài báo nói lên suy nghĩ của mình, về vấn đề xã hội, đất nước VN, thì phải chăng đó là âm mưu lật đổ chính quyền như cơ quan an ninh điều tra đang gán tội đó cho chồng tôi? Tôi muốn kêu gọi mọi tổ chức nhân quyền thấy sự việc của chồng tôi là một nỗi oan ức, thì lên tiếng nói để giúp gia đình chúng tôi sớm đoàn tụ”.

Từ Bến Tre, bà Chuyển, vợ tín hữu Tin Lành Nguyễn Thành Tâm vừa bị bắt, cũng lên tiếng sau khi đảng Việt Tân xác nhận ông Tâm là 1 thành viên của tổ chức này:

“Nói liên quan đảng Việt Tân thì tôi không khẳng định là chồng tôi làm việc đó. Tôi đâu có biết chuyện anh ấy gia nhập đảng Việt Tân. Chúng tôi là nông dân ở tỉnh Bến Tre, bức xúc những vụ đất đai.

Chính quyền ở VN lấy hết đất đai của người dân, cho tới mồ mả ông bà họ cũng lấy nữa. Họ còn gạt gẫm anh Tâm phải đóng tiền đo đạt. Rồi mới gạt nữa hồi tháng 10 năm 2009 khiến anh ấy bức xúc quá mới lên Saigòn nhờ Mục sư Dương Kim Khải tư vấn giấy tờ.

Theo ý của tôi – của một người dân, tôi cũng muốn dư luận thấy nỗi bức xúc của người dân mà lên tiếng giúp. Tôi là người dân, tôi muốn làm sao ở đất nước VN, người dân phải có nhân quyền. Và tài sản của người dân ở VN thì giới cầm quyền phải trả cho nông dân VN, trả cho nông dân ở tỉnh Bến Tre”.

Liên quan trường hợp MS Dương Kim Khải và tín hữu Tin Lành Nguyễn Thành Tâm, Chấp sự Nguyễn Mạnh Hùng, đang tạm thời thay thế MS Khải quản nhiệm hội thánh có tên thân mật là “Hội Thánh Chuồng Bò” ở ven sông Saigòn, lên tiếng như sau:

“Nói chung, Mục sư Dương Kim Khải và tín hữu Nguyễn Thành Tâm có tham gia đảng Việt Tân hay không thì đó là quyền tự do của mỗi người. Việc người ta có thể tham gia đảng phái nào thì đó là quyền của người ta.

Đúng ra thì bên Tin Lành, MS Khải cũng là một Mục sư rồi, tôi nghĩ tâm huyết chính của MS Khải, đời sống của MS Khải thật sự cũng chỉ để hầu Việc Chúa và tất cả để giúp cho Chúa, dâng hiến cuộc đời còn lại của mình cho Chúa.

Dù trong hoàn cảnh rất khó khăn, nhất là MS mới ở tù về, nhưng MS rất quan tâm đến đời sống tâm linh của anh em. MS đã đưa từ đời sống tâm linh vào đời sống thực tế của các anh em Cơ Đốc nhân rất nhiều. Hơn nữa MS cũng đã giúp đỡ dân oan trong vấn đề khiếu kiện đất đai.

Nếu như MS có tham gia đảng Việt Tân, thì điều đó cũng là nhằm đấu tranh để làm sao người dân VN có được nhân quyền như hiến pháp VN thừa nhận. Đối với anh em chúng tôi trong Hội Thánh, khi nhận được tin này thì, nói chung, chúng tôi không phản ứng gì cả, vì đó là quyền của mỗi người”.

Thầy Nguyễn Mạnh Hùng cũng đề cập tới trách nhiệm của đảng Việt Tân sau lời công bố vừa nói, đồng thời kêu gọi nhà cầm quyền VN trả tự do cho MS Dương Kim Khải và tín hữu Nguyễn Thành Tâm.

Thầy Nguyễn Mạnh Hùng cũng đề cập tới trách nhiệm của đảng Việt Tân sau lời công bố vừa nói, đồng thời kêu gọi nhà cầm quyền VN trả tự do cho MS Dương Kim Khải và tín hữu Nguyễn Thành Tâm.

“Nếu như MS Dương Kim Khải và tín hữu Nguyễn Thành Tâm thật sự là người của đảng Việt Tân, thì tôi nghĩ đảng Việt Tân bên Mỹ cần có trách nhiệm về việc hai người nầy, là người trong đảng, bị bắt. Đảng Việt Tân cần quan tâm đấu tranh cho họ được ra.

Trong khi đó, nhà nước VN cũng phải thấy được việc người ta tham gia đảng Việt Tân là không phạm tội. Vì theo pháp luật VN, cũng như VN đã ký kết với công ước quốc tế, công dân có quyền tự do bày tỏ chính kiến, tham gia đảng phái. Điều 9 của Hiến pháp VN quy định rõ ràng là công dân VN có quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do biểu tình, tự do hội họp và lập hội.

Do đó nhà nước VN cần xem xét lại để nhanh chóng thả MS Khải với tín hữu Tâm, là anh em Cơ Đốc nhân của chúng tôi. Về phía tôn giáo của chúng tôi, thì anh em trong Hội Thánh và Hội Thánh Mennonite VN vẫn lên tiếng đấu tranh theo góc độ tôn giáo”.

Diễn biến vừa nói khiến MS Thân Văn Trường, Cố vấn “Hội Thánh Chuồng Bò” lên tiếng như sau:

“Thưa, tôi cảm thấy đột ngột khi được tin MS Khải là đảng viên đảng Việt Tân. Nhưng theo quan điểm của tôi, tôi nghĩ rằng MS Dương Kim Khải cũng là một công dân VN nên việc ông có quả thực tham gia đảng Việt Tân thì cũng bình thường thôi. Cũng như người ta vào đảng CS cũng là việc bình thường nếu ai muốn vào phải phù hợp với điều lệ của đảng ấy.

Tôi nghĩ đó là chuyện bình thường. Một việc không bình thường là công an đã bắt MS Dương Kim Khải với lý do tham gia đảng Việt Tân. Tôi phản đối lệnh bắt đó”.

Nhưng, theo MS Thân Văn Trường, thì tuyên bố vừa nói của phát ngôn viên Việt Tân Hoàng Tứ Duy gây bất lợi không những cho MS Dương Kim Khải, tín hữu Nguyễn Thành Tâm, mà còn cho những người trong Hội Thánh, nói chung.

“Tôi nghĩ rất là bất lợi. Vì theo tôi biết, cộng sản VN luôn bắt những người tham gia đảng phái như vậy và đem ra xử với những bản án rất nặng. Do đó tôi nghĩ đây cũng là việc bất lợi cho MS Khải, cho tân tín hữu Tâm và cũng bất lợi cho một số Mục sư và anh em trong Hội Thánh của chúng tôi nữa.

Trên một phương diện, theo chỗ tôi biết, thì các Mục sư của Giáo Hội Mennonite có chủ trương không tham gia đảng phái. Cho nên Mục sư Dương Kim Khải tham gia đảng phái như vậy thì cũng không tốt cho Hội Thánh, nói chung”.

Thưa quý vị, nhận xét của MS Thân Văn Trường khiến người ta liên tưởng tới một số đảng viên Việt Tân từng bị nhà cầm quyền VN bắt giữ. Trong số này, những người có quốc tịch ngoại quốc thường lâm vào vòng lao lý một thời gian ngắn rồi bị trục xuất, trong khi những đảng viên Việt Tân là dân trong nước thì lãnh những án tù dài lâu.

Source: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/interview-hoang-tu-duy-spokesman-of-viet-tan-party-VL%20-09102010152410.html


Lời thề Độc Lập - Trần Gia Phụng

Trần Gia Phụng

Trên trang báo điện tử của Ban Chỉ Đạo Quốc Gia Kỷ Niệm 1000 Năm Thăng Long từ thành phố Hà Nội, bài “Thăng Long - Hà Nội, ngàn năm văn hiến”, mở đầu bằng câu “... vang mãi lời thề độc lập ...”. (http://www.thanglonghanoi.gov.vn//). Lời thề độc lập do trang báo nầy nhắc đến chính là lời thề do Hồ Chí Minh đưa ra ngày 2-9-1945 sau khi tuyên bố thành lập chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Hà Nội.

1.- LỜI THỀ ĐỘC LẬP

Lời thề ngày 2-9-1945 do Hồ Chí Minh đưa ra gồm có hai phần: “Lời thề của chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” và “Lời thề của Quốc dân”.

Sau đây là nguyên văn “Lời thề của chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”:

“Chúng tôi, Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, do Quốc dân đại biểu đại hội cử lên, xin thề rằng:

Chúng tôi sẽ kiên quyết lĩnh đạo toàn dân giữ vững nền độc lập cho Tổ quốc và thực hiện bản chương trình của Việt Minh, đang mang lại tự do, hạnh phúc cho dân tộc.

Trong lúc giữ nền độc lập, chúng tôi quyết vượt mọi khó khăn, nguy hiểm dù phải hy sinh tính mệnh cũng không từ.”

Lời thề của Quốc dân, cũng do Hồ Chí Minh đọc:

“Chúng tôi, toàn thể dân Việt Nam xin thề: kiên quyết một lòng ủng hộ Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ủng hộ chủ tịch Hồ Chí Minh. Xin thề!

Chúng tôi xin thề cùng chính phủ giữ quyền độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc, chống mọi mưu mô xâm lược, dù có phải chết cũng cam lòng. Xin thề!

Nếu Pháp đến xâm lăng lần nữa thì chúng tôi xin thề: không đi lính cho Pháp, không làm việc cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không đưa đường cho Pháp. Xin thề! “. (Tô Tử Hạ và nhiều tác giả, 60 năm chính phủ Việt Nam [sách song ngữ Việt-Anh], Hà Nội: Nxb.Thông Tấn, 2005, tr. 26.)

Trước khi theo dõi Hồ Chí Minh đã thực hiện những lời thề trên như thế nào, xin quay lại bối cảnh xuất hiện chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Hồ Chí Minh vốn là một cán bộ và điệp viên của Đệ tam Quốc tế Cộng sản. Ông ta cũng là một đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhờ nguồn tin tình báo quốc tế, Hồ Chí Minh biết trước Nhật sắp sụp đổ và đầu hàng sau khi bị Hoa Kỳ thả hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima ngày 6-8 và Nagasaki ngày 9-8-1945.

Hồ Chí Minh liền triệu tập Đại hội đảng Cộng sản Đông Dương (CSĐD) ở Tân Trào (thuộc tỉnh Tuyên Quang) từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945, thành lập “Uỷ Ban Khởi Nghĩa Toàn Quốc” và ra quân lệnh số 1, phát động cuộc tổng khởi nghĩa, cướp chính quyền ở khắp các tỉnh trong nước. Lúc đó, đảng CSĐD do Hồ Chí Minh lãnh đạo, chưa có Bộ chính trị, chỉ có Ban chấp hành trung ương đảng, khoảng dưới 20 người, tổng bí thư là Đặng Xuân Khu, bí danh là Trường Chinh và số đảng viên trên toàn quốc khoảng dưới 5,000 người. (Philippe Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952, Editions Du Seuil, Paris 1952, tr. 182.)

Sau hội nghị của đảng CSĐD, cũng tại Tân Trào, Hồ Chí Minh tổ chức “Đại hội đại biểu quốc dân” ngày 16-8-1945, gồm khoảng 60 đại biểu. Những đại biểu nầy là những người do đảng CSĐD lựa chọn, gồm đại đa số là đảng viên đảng CSĐD, mà Việt Minh thậm xưng là đại diện các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo, các sắc dân trên toàn quốc. Đại hội tuyên bố tán thành chủ trương phát động tổng khởi nghĩa của đảng CSĐD, và thành lập “Uỷ Ban Dân Tộc Giải Phóng Việt Nam”, có tính cách như chính phủ Cách mạng Lâm thời, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Trần Huy Liệu phó chủ tịch, và đại đa số là đảng viên cộng sản.

Chỉ với 5,000 đảng viên nòng cốt mà đảng CSĐD cướp được chính quyền từ chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945 sau khi Nhật đầu hàng vì các lý do sau đây:

1. Chính phủ Trần Trọng Kim không có bộ Binh hay bộ Quốc phòng, không có quân đội.

2. Về phía vua Bảo Đại, khi đại sứ Nhật ở Huế là Massayuki Yokoyama đến gặp nhà vua, đề nghị dùng lực lượng của Nhật tiêu diệt Việt Minh, vì tuy thất trận trên thế giới, quân đội Nhật vẫn còn nguyên vẹn ở Đông Dương, đủ sức đàn áp Việt Minh. Lo sợ nội chiến xảy ra trước sự lợi dụng của ngoại bang, vua Bảo Đại từ chối đề nghị của Yokoyama. Người Nhật còn đề nghị với thủ tướng Trần Trọng Kim. Sau đây là lời trong hồi ký của Trần Trọng Kim: “Lúc bấy giờ người Nhật có đến bảo tôi: “Quân đội Nhật còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân Đồng minh đến thay. Nếu chính phủ Việt Nam công nhiên có lời mời quân Nhật giúp, quân Nhật còn có thể giữ trật tự”. Tôi nghĩ quân Nhật đã đầu hàng, quân Đồng minh sắp đến, mình nhờ quân Nhật đánh người mình còn nghĩa lý gì nữa, và lại mang tiếng “cõng rắn cắn gà nhà”. Tôi từ chối không nhận.” (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, chương 4: “Ra Huế lập chính phủ”).

Ngoài ra, quân đội Nhật trên toàn Đông Dương bất động vì đã được lệnh hạ khí giới và đầu hàng. Quân Pháp bị quân Nhật bắt cầm tù, vẫn còn bị nhốt, cũng không làm gì được. Nhờ thế, cán bộ Việt Minh cộng sản và quân đội cộng sản mới tự do hoành hành, cướp chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim mà không bị một chống đối nào cả.

2.- HỒ CHÍ MINH NUỐT LỜI THỀ

Trong lời thề của mình, Hồ Chí Minh đã nói: “Chúng tôi sẽ kiên quyết lĩnh đạo toàn dân giữ vững nền độc lập cho Tổ quốc …” Thế mà chẳng bao lâu sau đó, Hồ Chí Minh nhanh chóng nuốt vội lời thề một cách thật dễ dàng.

Nguyên sau khi thế chiến thứ hai chấm dứt tại Âu Châu ngày 7-5-1945, Nhật Bản vẫn tiếp tục chiến đấu tại Á Châu. Đại diện các nước Anh, Hoa Kỳ và Liên Xô họp tại Potsdam (Đức) từ ngày 17-7-1945 để bàn về những vấn đề hậu chiến ở Đức. Nhân đó, ngày 26-7-1945, Anh, Hoa Kỳ và Trung Hoa (không họp nhưng đồng ý qua truyền thanh), cùng ký một tối hậu thư gởi cho Nhật Bản, theo đó, sau khi Nhật Bản đầu hàng, phụ trách giải giới quân Nhật tại Việt Nam ở phía bắc vĩ tuyến 16 là quân đội Trung Hoa (Quốc Dân Đảng) và ở nam vĩ tuyến 16 là quân đội Anh. (Liên Xô chưa tham chiến ở Á Châu nên không ký vào tối hậu thư nầy.)

Sau khi Nhật đầu hàng ngày 14-8-1945, Pháp theo chân quân đội Anh vào đầu tháng 9-1945, tái chiếm miền nam vĩ tuyến 16. Muốn tái chiếm miền bắc vĩ tuyến 16, Pháp phải thương lượng thẳng với Trung Hoa. Ngày 28-2-1946 tại Trùng Khánh, ngoại trưởng Trung Hoa là Vương Thế Kiệt và đại sứ Pháp tại Trung Hoa là Jacques Meyrier ký kết Hiệp ước Pháp-Hoa về việc quân Pháp thay thế quân Trung Hoa ở phía bắc vĩ tuyến 16 tại Đông Dương, theo đó Trung Hoa rút quân ra khỏi Việt Nam từ ngày 1 đến 15-3, và chậm nhất là ngày 31-3-1946. Ngược lại, Pháp trả và nhường cho Trung Hoa nhiều quyền lợi kinh tế ở Trung Hoa và ở Đông Dương.

Ngay trước khi Hiệp ước Trùng Khánh được ký kết, ngày 27-2-1946, đô đốc D'Argenlieu vội vàng phát động cuộc hành quân Bentré, chuyển 21,000 quân từ miền Nam Việt Nam ra Hải Phòng, để tái chiếm Bắc Kỳ. Chiều ngày 5-6-1946, hạm đội Pháp xuất hiện ở ngoài khơi Hải Phòng và chuẩn bi đổ bộ vào sáng hôm sau (6-3-1946). Tại Hà Nội, Hồ Chí Minh được tin nầy ngay chiều hôm đó (5-3). Hồ Chí Minh vội báo cho đại diện Pháp ở Bắc Kỳ là Jean Sainteny biết là ông ta đồng ý ký hiệp ước với Pháp, mà Pháp đã bí mật giao bản dự thảo ngày 7-12-1945.

Vào chiều ngày 6-3-1946, tại số 38 đường Lý Thái Tổ, Hà Nội, Hồ Chí Minh, với tư cách chủ tịch chính phủ Liên hiệp kháng chiến, ký thỏa ước Sơ bộ với đại diện Pháp là Jean Sainteny. Theo thỏa ước nầy, Pháp thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (état libre), có chính phủ riêng, nghị viện riêng và tài chính riêng trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp (điều 1); Việt Nam sẵn sàng tiếp đón quân đội Pháp đến thay thế quân đội Trung Hoa để giải giáp quân đội Nhật (điều 2).

Bên cạnh đó, cũng trong ngày 6-3-1946, hai bên ký một phụ ước quân sự, minh định hoạt động quân đội mỗi bên. Theo điều 1 của phụ ước nầy, Việt Minh đồng ý để quân đội Pháp thay quân đội Trung Hoa ở phía bắc vĩ tuyến 16, nghĩa là quân đội Trung Hoa sẽ rời khỏi Việt Nam, dầu Việt Nam không ký kết thỏa ước với Trung Hoa. Lực lượng Pháp lên đến 15,000 quân. Như thế Việt Minh không chống Pháp mà Việt Minh lại chính thức hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Pháp tại Việt Nam.

Điều nầy hoàn toàn trái ngược với lời thề chống Pháp của Hồ Chí Minh khi trình diện chính phủ vào ngày 2-9-1945 (đã viết ở trên). Nói cách khác, Hồ Chí Minh đã nuốt lời thề “chống mọi mưu mô xâm lược, dù có phải chết cũng cam lòng.” Hành động của Hồ Chí Minh gây sự bất bình mạnh mẽ trong các đảng phái chính trị và trong đại đa số quần chúng. Các đảng phái và dân chúng tố cáo rằng Hồ Chí Minh và Việt Minh đã rước thực dân Pháp trở lại Việt Nam.

3.- HỒ CHÍ MINH VƯỢT KHÓ KHĂN NHƯ THẾ NÀO?

Trong lời thề tiếp theo, Hồ Chí Minh thề: “Trong lúc giữ nền độc lập, chúng tôi quyết vượt mọi khó khăn, nguy hiểm dù phải hy sinh tính mệnh cũng không từ.” Xin hãy theo dõi cách Hồ Chí Minh thực hiện lời thề nầy.

Ngày 13-11-1946, đô đốc Georges Thierry d'Argenlieu rời Sài Gòn về Pháp. Trong khi tân chính phủ thiên tả tại Paris thành lập từ ngày 16-11-1946 do Léon Blum lãnh đạo, đang dự tính mở những cuộc thương thuyết mới với chính phủ Việt Minh, thì trung tướng Jean Valluy, giữ chức quyền cao ủy Pháp tại Đông Dương (cao ủy D'argenlieu vắng mặt), đã cố tình kiếm cách gây hấn để đánh chiếm Bắc Việt.

Với một lực lượng mạnh mẽ tại Bắc Việt sau thỏa ước Sơ bộ (6-3-1946), giới quân sự Pháp tìm cách kiêu khích cho Việt Minh tấn công trước, nhằm lấy cớ để quân đội Pháp đánh chiếm Bắc Việt mà không sợ bị chính phủ Paris khiển trách.

Nhận thấy Việt Minh hoạt động mạnh mẽ, dựng nhiều rào cản trong thành phố Hà Nội, ngày 18-12-1946 Pháp giao cho Việt Minh hai tối hậu thư. Tối hậu thư thứ nhất, Pháp đòi Việt Minh hủy bỏ những chướng ngại vật ở Hà Nội. Tối hậu thư thứ hai, Pháp cho biết nếu Việt Minh không duy trì được an ninh ở Hà Nội, thì Pháp sẽ phụ trách an ninh kể từ 20-12-1946. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, tập A: 1939-1946, Houston: Nxb Văn Hóa, 1996, tr. 370.)

Nếu quân đội Pháp nắm giữ an ninh Hà Nội, nghĩa là kiểm soát cả lực lượng võ trang Việt Minh, thì sinh mệnh của chính phủ Hồ Chí Minh, lãnh đạo mặt trận Việt Minh và đảng CSĐD hoàn toàn nằm trong tay quân đội Pháp. Đó là điều Việt Minh không thể chấp nhận được. Hồ Chí Minh liền họp trung ương đảng CSĐD (TƯĐCSĐD) để quyết định.

Đảng CSĐD đã được Hồ Chí Minh tuyên bố giải tán ngày 11-11-1945, và thay bằng Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mã Khắc Tư [Mác-xít] do Trường Chinh (Đặng Xuân Khu) làm tổng thư ký. Tuy nhiên, theo lời Hồ Chí Minh “dù là bí mật, đảng [CSĐD] vẫn lãnh đạo chính quyền và nhân dân.” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tr. 161.) Trung ương đảng CSĐD họp trong hai ngày 18 và 19-12-1946, tại Vạn Phúc (Hà Đông).

Không thể để Pháp bắt, cũng không thể âm thầm nhục nhã bỏ trốn khỏi Hà Nội, Việt Minh và đảng CSĐD không còn chọn lựa nào khác là phải quyết định tấn công Pháp, nhưng Việt Minh không đủ sức đánh Pháp nên ph ải kêu gọi toàn quốc kháng chiến, để Hồ Chí Minh và Việt Minh có lý do chính đáng thoát thân khỏi Hà Nội trong danh dự.

Hồ Chí Minh không hỏi ý kiến quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao của người Việt lúc đó, hay ban thường vụ quốc hội, đại diện cho quốc hội, gồm những người luôn luôn có mặt ở Hà Nội, mà chỉ hỏi ý kiến trung ương đảng CSĐD để phát động chiến tranh.

Theo điều thứ 29 của Hiến Pháp ngày 9-11-1946, thì “muốn tuyên chiến thì phải có hai phần ba số nghị viện có mặt bỏ phiếu thuận”. Sau đó, điều thứ 38 ghi rằng: “Khi Nghị viện không họp được, Ban thường vụ cùng với Chính phủ có quyền quyết định tuyên chiến hay đình chiến”. Tuy hiến pháp nầy không được ban hành và bị bãi bỏ ngày 14-11-1946, tức 5 ngày sau khi được quốc hội thông qua, nhưng lúc đó ban thường trực quốc hội đã được bầu lên.

Ban thường trực quốc hội có mặt thường xuyên ở Hà Nội, nhưng không được Hồ Chí Minh tham khảo ý kiến về một việc trọng đại ảnh hưởng đến vận mệnh của toàn dân, mà Hồ Chí Minh chỉ hội ý riêng với TƯĐCSĐD, rồi quyết định tấn công Pháp. Điều nầy có nghĩa là không phải quốc hội Việt Nam hay ban thường trực quốc hội Việt Nam, tức không phải đại biểu nhân dân Việt Nam quyết định chiến tranh với Pháp, mà Hồ Chí Minh, mặt trận Việt Minh, TƯĐCSĐD tự ý quyết định mở cuộc tấn công Pháp, rồi áp đặt chiến tranh lên dân tộc Việt Nam.

Nhớ lại lịch sử nước ta thời nhà Trần (1226-1400), vào tháng 11 năm giáp thân (1284), được tin nhà Nguyên (Trung Hoa) gởi quân tấn công nước ta, vua Trần Nhân Tông (trị vì 1279-1293) triệu mời các bô lão khắp nước đến điện Diên Hồng ở kinh đô Thăng Long để tham khảo ý kiến. Tất cả những người có mặt đồng thanh trả lời là: "Phải đánh" (Quyết chiến). Vào thế kỷ 13, việc đi lại khó khăn, triệu mời đại biểu dân chúng không dễ, Trần Nhân Tông còn hỏi ý dân để chống ngoại xâm. Trong khi đó, giữa thế kỷ 20, Hồ Chí Minh chỉ hỏi ý đảng của ông ta tức đảng CSĐD, mà không cần hỏi ý dân, cũng không cần hỏi ý quốc hội hay ban thường vụ quốc hội đang có mặt tại Hà Nội.

Cần chú ý là khi Pháp nhờ người Anh, đưa quân tái chiếm miền Nam từ tháng 9-1945, rồi lại đưa quân tiến ra miền Trung và miền Bắc, tổ quốc Việt Nam đã thực sự lâm nguy từ lúc đó. Dầu vậy, Việt Minh không kêu gọi toàn dân chống Pháp, mà VM kiếm cách thương thuyết với Pháp để duy trì quyền bính. Nay không còn thương thuyết được nữa, hết cách thỏa thuận, Việt Minh mới quyết định đánh Pháp vì Việt Minh lâm nguy chứ không phải vì tổ quốc lâm nguy.

Ủy ban TƯĐCSĐD quyết định đánh Pháp nhằm tạo ra lý do chính đáng để rút lui khỏi Hà Nội. Như thế chiến tranh bùng nổ tối 19-12-1946 là chiến tranh giữa Việt Minh và đảng CSĐD với Pháp, chứ không phải giữa dân tộc Việt Nam và Pháp.

Khi cầm quyền, gần 10 ngày sau khi chính phủ VNDCCH ra mắt, hội nghị Trung ương đảng CSĐD tại Hà Nội ngày 11-9-1945, đưa ra nguyên tắc căn bản là đảng CSĐD nắm độc quyền điều khiển mặt trận Việt Minh, và một mình thực hiện cách mạng.(Philippe Devillers, sđd. tr. 143.) Đảng CSĐD nắm độc quyền mặt trận Việt Minh. Mặt trận Việt Minh đang nắm chính quyền, cai trị đất nước. Như thế có nghĩa là đảng CSĐD độc quyền cai trị đất nước.

Trong sách Một cơn gió bụi, chương 6, Trần Trọng Kim viết: “Theo chính sách của Việt Minh, lập ra một chính phủ, đem những người các đảng phái khác hay không đảng phái vào làm bộ trưởng là cốt làm bình phong che mắt người ngoài, chứ không có thực quyền làm được việc gì cả”. Như thế, khi cầm quyền, Việt Minh cương quyết nắm chặt chính quyền trong tay, không chia sẻ quyền lực cho bất cứ ai, bất cứ tổ chức nào. Chẳng những thế, Việt Minh còn tiêu diệt tất cả những thành phần không theo Việt Minh. Nay gặp khó khăn, bị Pháp dồn vào đường cùng, Việt Minh không đối phó nổi với Pháp một mình, thì lại chia sẻ chiến tranh cho toàn dân, kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

Chống ngoại xâm là truyền thống lâu đời của người Việt Nam. Từ khi người Pháp đặt nền bảo hộ năm 1884, người Việt Nam liên tục nổi lên chống Pháp. Nay nghe được lời kêu gọi kháng chiến chống Pháp, dân chúng Việt Nam nô nức hưởng ứng ngay vì lòng yêu nước, thương nòi, chứ dân chúng hoàn toàn không nghi ngờ và không hay biết những âm mưu và thủ đoạn mà lúc đó Việt Minh giấu kín. Nhờ vậy, Hồ Chí Minh, mặt trận Việt Minh và đảng CSĐD mới thoát khỏi nguy cơ có thể bị Pháp tiêu diệt vào năm 1946.

Như thế “Lời thề độc lập” năm 1945 của Hồ Chí Minh vang không xa và vang không lâu, vì chỉ khoảng nửa năm sau, Hồ Chí Minh và đảng CSĐD đã vội vàng nuốt lại lời thề, phản bội tổ quốc, rước Pháp trở lại Việt Nam. Kỷ niệm ngàn năm Thăng Long lịch sử, lời thề đó của Hồ Chí Minh đâu có còn giá trị nữa mà vang, nhất là khi đảng CSVN mưiợn cớ kỷ niệm ngàn năm Thăng Long nhằm mừng quốc khánh Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc vào ngày 1-10.

Lời thơ hùng tráng thay tiếng kèn thúc quân của danh tướng Lý Thường Kiệt tại Thăng Long năm 1077 mới chính là lời thề độc lập vàng son chói lọi, vang vọng mãi mãi như nhạc hồn đất nước mà dân tộc Việt đời đời ghi nhớ:
    "Nam quốc sơn hà nam đế cư,
    Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
    Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
    Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư."


    (Có người dịch là:

      "Sông núi nước Nam vua Nam ở,
      Rành rành định phận ở sách trời.
      Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
      Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời"
      )
Trần Gia Phụng
(Toronto, 9-9-2010, ngày tiễn đưa bạn Trần Công Nghị)



Đối thoại? Đối đầu?

Phạm Hương Sơn chuyển ngữ

Đây là bài viết trả lời của ĐHY Giuse Trần Nhật Quân (nguyên giám mục Hong Kong) về bài viết của Cha Jeroom Heyndrickx [1]: “Đừng giết hại các ngôn sứ tại Trung Quốc. Họ là những Ricci Matteo ngày nay”.


Đức Hồng Y Joseph Zen (Giuse Trần Nhật Quân)

Ngày 8 Tháng 9 Năm 2010

Tôi ý thức được tôi là một người tội lỗi. Tôi không có mục đích đổ lỗi cho người khác. Nhưng tôi cũng không muốn phạm thêm một tội nữa vào trong số đã nhiều những tội lỗi của tôi, đó là làm một con chó câm khi nó phải sủa.

Cha Jeroom Heyndrickx đã một lần nữa viết một bài báo bắt đầu bằng những lời này:

“Chính sách mở cửa của Trung Quốc cho phép một Giáo hội Công giáo hoàn toàn trưởng thành phát triển”.

Sau khi đọc toàn bộ bài viết và cùng với môt luận văn khác dài hơn Một Cuộc Chạm Trán Mới giữa Giáo Hội Công Giáo và Trung Quốc [A New Encounter between Catholic Church and China (trong bộ Thắp Một Ngọn Nến của tuyển tập Collectanea Serica)], tôi có thể hiểu rằng các tiên tri được đặt ra trong vấn đề là những người Công giáo ở Trung Quốc đang đối thoại với chính phủ Trung Quốc và rằng những người muốn giết họ là những người đang khuyến khích họ chọn đối đầu thay vì đối thoại.

Tôi sợ rằng vị Cha già này đang đấu với một địch thủ tưởng tượng. Đâu là đối thoại? Đâu là đối đầu?

Cha Heyndrickx đã hưởng nhiều cơ hội để đối thoại: với những người bạn Công giáo của mình tại Trung Quốc, với ông Liu Bainian (Lưu Bá Niên) [2], với những nhân viên trong Chính phủ Trung Quốc, với các Tu Hội Truyền giáo cho Nhân Dân. Tuy nhiên, các giám mục của chúng tôi ở Trung Quốc có một mảy may cơ hội nào để đối thoại không? Giữa họ với nhau? Không! Chính phủ đã canh chừng chặt chẽ để ngăn ngừa họ làm như vậy. Với chính phủ? Chắc chắn là không! Họ chỉ được lắng nghe và tuân hành. Họ được ra lệnh để đi đến những nơi mà họ không biết. Họ được triệu tập tham gia các cuộc hội họp mà không biết chương trình nghị sự. Họ được đem cho các bài diễn văn để đọc mà họ đã không viết và thậm chí họ không được cho xem qua trước.

Chẳng lẽ Cha Jeroon không biết rằng các giám mục của chúng tôi, tôi muốn nói đến những GM trong cộng đồng chính thức (công khai), được đối xử như là nô lệ, hoặc thậm chí tệ hơn, như là đàn chó bị dắt bởi một sợi dây xích.

Trong thư của Đức Giáo Hoàng gửi cho Giáo Hội tại Trung Quốc điều đã nói tới là thẩm quyền của hội đồng giám mục đang bị làm nhục tại Trung Quốc (”phỉ báng – vilified”).

Và đối đầu? Ai đang đối đầu ai? Có thể nào nhìn bất kỳ phản ứng nào của một con chiên trước con sư tử là đối đầu ư? Nếu chúng ta bảo con chiên, “Escape” Chạy thoát đi! Thì chúng tôi đã phạm tội kích động để đối đầu ư?

Vị Cha già tốt lành của chúng ta, hiểu biết thực tại, thừa biết rằng ngày hôm nay vẫn còn đàn áp và sách nhiễu cho cả hai cộng đồng Giáo Hội (hầm trú và công khai) tại Trung Quốc. Như vậy, làm sao ông có thể nói, qua cách ông nói, như cách ông đang nói về một thế giới khác?

Đúng thật là các phương pháp khủng bố đã được cải tiến. Bây giờ các nạn nhân được mời đến dùng bữa tối, để tham quan du lịch, quà tặng được dội khắp trên từng người và tước vị danh dự (như được nâng lên làm thành viên của Quốc hội Nhân dân ở các cấp độ khác nhau).

Họ được nhiều hứa hẹn là lương tâm của họ sẽ được tôn trọng. Nhưng chúng ta thừa biết rằng trong chủ nghĩa Mác chính thống, hứa hẹn là vô nghĩa. Dối trá là phương tiện hợp pháp để đạt được thành công.

Trong những ngày gần đây chúng ta biết rằng họ đã thả Giám Mục Julius Jia Zhiguo ra khỏi nhà tù và rằng họ sẽ sớm làm điều tương tự với Đức Giám mục James Su Zhimin. Nhưng kế hoạch đàng sau là chính phủ sẽ ngay cả công nhận các vị là các giám mục, trong khi Tòa Thánh lại sẽ yêu cầu họ nghỉ hưu, để nhường chỗ cho một người kế vị được lựa chọn có “thỏa thuận (?!)”

Trong mọi trường hợp, kết quả cuối cùng sẽ là những gì được thực hiện là những gì đảng muốn.

Chúng tôi nói: “Điều Đảng muốn không phải là điều Đức Giáo Hoàng muốn”.

Chỉ bởi nói như vậy, chúng tôi bị kết tội đối đầu (guilty of confrontation). Tuy nhiên, do một “cơ may nào đó,” ngày nay, những gì đảng muốn lại có vẻ trùng hợp dễ dàng với những gì các Tu Hội Truyền giáo cho Nhân Dân muốn. Vì vậy, Alleluia! Mọi người nên vui vẻ hạnh phúc!

Cha Heyndrickx nói về những người Công Giáo “trưởng thành”. Những người Công giáo “trưởng thành” này cũng giống như các sứ giả của triều đình cũ. Họ không cần phải can đảm. Họ chẳng có nguy cơ mất mát bất cứ điều gì. Họ chỉ cần tinh lanh biết điều. Các sứ giả hiện đại của triều đình được hạnh phúc du hành trên các toa xe hoàng gia của Giáo Hội độc lập và thỉnh thoảng họ lại kêu to lên, “Vạn tuế Giáo hoàng!”

Các tiên tri thực sự, thay vào đó, lại là điều bất tiện (không chỉ riêng cho kẻ thù của họ) và họ bị loại bỏ, hoặc, như cách dùng từ của Cha Heyndrickx, “giết chết”. Nhưng họ không sợ. Họ sẵn sàng cho điều đó. Tuy nhiên, điều đáng buồn là những người đó, anh em của chúng ta trong cộng đoàn hầm trú, những người đã sống sót lâu như vậy bất chấp những nỗ lực của kẻ thù, giờ đây lại chết bởi bàn tay của anh em của mình. *(cf. Em Ngươi Đâu? – Pascal also, Họ giết Cha rồi, bằng nhát kiếm sau lưng – Tôma Thùy Nhân)

Cha Jeroom cũng thẳng thắn đủ để nói rằng người anh em của chúng ta tại Trung Quốc phải thực hành đức tin “trong hệ thống hiện tại” của Trung Quốc, rằng họ bắt buộc phải được “hội nhập tốt vào trong xã hội Trung Quốc xã hội chủ nghĩa của ngày hôm nay”. Tôi hy vọng ông hiểu rằng điều này có nghĩa là trở nên thành phần của một Giáo Hội độc lập. Thật không may, anh em của chúng tôi ở Trung Quốc không đối mặt, như Matteo Ricci, với một hoàng đế khoan dung, nhưng là một chế độ muốn kiểm soát luôn cả lương tâm của người dân.

Đức Giáo Hoàng đã thường được nhắc đến bởi Cha Heyndrickx, như thể ông ở cùng phía với Đức Giáo Hoàng hay là Đức Giáo Hoàng cũng ở về phía của ông. Hầu như điếu này đối với tôi (có thể tôi đã phán đoán khắt khe quá chăng?), vừa là đạo đức giả và vừa là bất kính.

Cha Jeroom quả là đạo đức giả, bởi vì ông, với tánh lãnh đạm đáng ngạc nhiên, đã chỉ trích gay gắt tất cả các Giáo hoàng gần đây trong bài viết dài của mình trong bộ Thắp Một Ngọn Nến. Tôi không nghĩ là ông có một sự kính trọng cao về quyền bính của giáo hoàng.

Cha Jeroom quả là bất kính vì ông đã làm cho Đức Giáo Hoàng đồng lõa với mình bằng cách chọn lọc những văn từ trong thư của Đức Giáo Hoàng:

Ông đề cập rằng Đức Giáo Hoàng đã để cho cá nhân các giám mục hầm trú tự quyết định có nên tìm kiếm sự công nhận của chính phủ hay không, nhưng ông đã bỏ qua sự khuyến cáo nghiêm trọng khi Đức Giáo hoàng nói rằng “không chỉ trong một vài trường hợp đặc biệt, tuy nhiên, thật vậy, hầu như luôn luôn, trong quá trình của việc công nhận, sự can thiệp của các cơ quan nhất định buộc những người liên hệ phải chấp nhận những thái độ, hoặc tỏ ra các cử chỉ, và thực hiện các cam kết trái ngược với các đòi buộc lương tâm của người Công Giáo“ (số 7).

Ông trích dẫn từ đoạn cuối cùng của Phần số 4 trong Thư của Đức Giáo Hoàng, nơi nói nói rằng “giải pháp cho các vấn đề hiện tại không thể theo đuổi thông qua một cuộc xung đột đang diễn ra với chính quyền hợp pháp dân sự,” nhưng ông bỏ qua những gì sau đó: “đồng thời, tuy vậy, tuân thủ với nhà cầm quyền không chấp nhận được khi họ can thiệp một cách vô lối trong các vấn đề về đức tin và kỷ luật của Giáo Hội. ”

Thật là khó hiểu cho tôi là làm cách nào mà Cha Heyndrickx có thể bỏ qua một trích đoạn mang tính chỉ thị từ Bức Thư của Đức Giáo Hoàng liên quan sâu sắc đến bạn bè của ông. Đức Giáo Hoàng, trong số 8 đoạn 11 của Bức Thư của ngài, nói: “Thật không may, … một số giám mục đã được hợp pháp hoá lại đã không cống hiến bất kỳ dấu hiệu rõ ràng nào để chứng minh rằng họ đã được hợp pháp hoá. Vì lý do này, điều không thể thiếu được, và vì lợi ích tinh thần tốt đẹp cho các cộng đồng giáo phận liên quan, là các giám mục đã được hợp pháp hoá phải cống hiến và gia tăng các dấu hiệu hiệp thông đầy đủ không nhầm lẫn được với Đấng Kế Vị Thánh Phêrô.”

Trong kết luận, tôi xin đặt câu hỏi cho tất cả những người biết thực trạng của Trung Quốc ngày nay phải chăng cái gọi là “Chính Sách Cởi Mở – Open Policy” cũng có nghĩa là có một sự thay đổi thực sự trong chính sách tôn giáo.

Tôi sợ rằng Cha Jeroom có thể nói “có”. Tôi cảm thấy bắt buộc phải nói “không.”

Thật là rất buồn cho tôi để phải bất đồng ý với người bạn cũ của mình, một người yêu mến Trung Quốc chân thành, trên một điểm quan trọng như vậy.

Tôi dám cho rằng vấn đề của Cha Jeroom là ông ấy đã quá mực ưu ái với những thành công của ông – và những thành công rất nhiều và tất cả chúng ta đã hoan nghênh vào lúc đó.

Nhưng bây giờ chúng ta có thể thấy là tai hại biết chừng nào các phản ứng phụ của những sáng kiến thành công đó đã ngày càng tạo thêm nhiều uy tín hơn nữa cho ông Lưu Bách Niên (Liu Bainian) và các giám mục của chúng ta lại ngày càng trở thành nô lệ nhiều hơn nữa trong tiến trình này.

Hãy làm ơn, lạy Cha, hãy dừng lại và lắng nghe nhiều người anh em, những người đã đánh giá cao những gì ngài đã làm trong quá khứ và bây giờ họ đang van xin ngài thay đổi chiến lược.

Bức Thư của Đức Giáo Hoàng gửi cho Giáo Hội tại Trung Quốc phải phát tín hiệu khởi đầu của một kỷ nguyên mới của những mong muốn xác thực và chân thành theo hướng đi tới bình thường hóa thực sự theo tín điều giáo hội học Công giáo và những thực hành phổ quát của Giáo Hội trên toàn thế giới.

Vào ngày mà 55 năm trước (vào đêm 8 Tháng Chín 1955, Lễ Sinh Nhật Đức Maria), chế độ cộng sản đã tung ra chính sách khủng bố Giáo Hội trên quy mô lớn, bằng cách bắt giữ trong chưa đầy một tháng, hơn một ngàn người Công giáo tại Thượng Hải.

Hôm nay, chúng tôi vẫn còn tràn đầy niềm tin rằng Đức Mẹ có một kế hoạch cho sự giải thoát của chúng ta. Nhưng trong khi chờ đợi chúng ta phải sẵn sàng để mất tất cả, như Chân Phước Mẹ Teresa nói, “Thiên Chúa muốn chúng ta trung thành, chứ không phải thành công”, và như Đức Giáo Hoàng đã nói nhiều lần đến Giáo Hội bị đàn áp, “ngay cả khi mà tất cả mọi thứ trong hiện tại có vẻ là một thất bại, sự đau khổ vì đức tin của chúng ta chắc chắn sẽ mang lại chiến thắng cho Giáo Hội“.

Tôi hy vọng Fr. Jeroom Heyndrickx có thể đồng ý với tôi về điều này.

Cardinal Joseph Zen
Phạm Hương Sơn chuyển ngữ

Ghi chú:

* Xin xem thêm Em Ngươi Đâu? – Pascal Ofm và Họ giết Cha rồi, bằng nhát kiếm sau lưng – Tôma Thùy Nhân

[1] Linh mục Jeroom Heyndrickx, một nhà truyền giáo người Bỉ 79 tuổi, là người sáng lập Học viện Mục vụ Đài Loan và là giám đốc sáng lập của Quỹ Ferdinand Verbiest, Trường Đại học Công giáo Leuven, Bỉ. Cha là một nhà Hán học giảng dạy tại các trường đại học Trung Quốc, đã vun đắp cho mối quan hệ giữa các thành viên của Giáo hội chính thức (hầm trú) với Hiệp hội Công giáo Ái Quốc Trung Hoa (của chính quyền).

[2] Liu Bai Nian là phó chủ tịch Hiệp hội Công giáo Ái Quốc Trung Hoa.

****
    EM NGƯƠI ĐÂU ?
Linh Mục Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm

Một cảm giác khó tả

Cuối cùng thì hôm nay 22-04-2010, Toà Thánh Vatican đã chính thức loan tin: đức cha Phê-rô Nguyễn Văn Nhơn, giám mục Đàlạt, đương kim Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đã được Toà Thánh bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Phó Hà Nội với quyền kế vị. Chuyện thay thế Đức Tổng Giám Mục Giu-se Ngô Quang Kiệt chỉ là vấn đề thời gian. Bất cứ ai theo dõi tin tức trên mạng trong những tháng gần đây, đều đã được chuẩn bị để đón nhận thông tin này, nên nói là ngạc nhiên thì không đúng. Tuy vậy, bản thân tôi vẫn cảm thấy một cái gì vừa ngột ngạt vừa đăng đắng trong cổ họng. Tôi chợt nhớ đến hình ảnh chiếc xe tăng T54 cách đây 35 năm đã húc vào cổng Dinh Độc Lập Sài-gòn, và bỗng có cảm tưởng chiếc xe tăng đó hôm nay đang húc vào Cổng Toà Tổng Giám Mục Hà Nội. Xin ghi lại sau đây mấy suy nghĩ từ biến cố mới được Toà Thánh loan báo trên đây.

“Vì lý do sức khoẻ”

Nay thì đã rõ là Đức Tổng Kiệt đã nộp đơn lên Toà Thánh xin từ chức “vì lý do sức khoẻ”. Được biết: từ hơn một năm rồi, ngài bị mất ngủ triền miên. Từ đó dẫn đến suy nhược. Và khi thấy không còn có đủ sức khoẻ thể xác và tinh thần để chu toàn trách nhiệm, một trách nhiệm hết sức nặng nề, trong một tình huống muôn phần khó khăn, thì xin từ chức là việc làm hợp lý của người có ý thức trách nhiệm.

Thế nhưng không ai tìm hiểu vấn đề mà không đối mặt với câu hỏi: Đành rằng suy nhược là do mất ngủ, nhưng mất ngủ do đâu? Khỏi cần nhắc lại những năm làm giám mục Lạng Sơn, trên một địa bàn mênh mông bát ngát, một giáo phận không Toà Giám Mục, không chủng viện, rong ruổi hết xứ đạo này tới xứ đạo khác, một mình vừa làm cha xứ, vừa làm giáo lý viên kiêm ca trưởng, kiêm luôn chức ông từ kéo chuông, con người đó không hề biết mệt. Vấn đề sức khoẻ cũng không được đặt ra khi ngài về nhận chức Tổng Giám Mục Hà Nội năm 2005. Ngay trong giai đoạn nổ ra vụ Toà Khâm Sứ, Thái Hà, ta dễ đoán tình trạng căng thẳng ngài phải gánh chịu, thế nhưng không có dấu hiệu gì cho thấy sức khoẻ của ngài có vấn đề. Qua đoạn băng vidéo ghi lại cuộc gặp gỡ giữa phái đoàn Toà Tổng Giám Mục Hà Nội với lãnh đạo Thành phố tại trụ sở UBND/HN ngày 21-09-2008 ta thấy một Đức Tổng Kiệt trẻ trung, lanh lợi, đầy sức sống, ăn nói hoạt bát, phong thái tự tin. Tại đây ngài đã có lời tuyên bố chắc nịch: “Tự do tôn giáo là quyền chứ không phải là ân huệ xin – cho”. Trong một xã hội bình thường thì khẳng định trên đây chẳng có gì là độc đáo đáng cho ta để ý. Nhưng trong chế độ độc tài toàn trị, thì lời tuyên bố này có thể ví như một quả bom. Đó chính là lý do khiến chính quyền cộng sản Hà Nội lồng lộn lên, và từ đó tìm đủ mọi cách để triệt hạ người đã to gan dám đụng tới quyền lực họ đang nắm trong tay.

Đẩy ra khỏi địa bàn Hà Nội

Tiếp theo sau lời tuyên bố của Đức Tổng Kiệt là cả một chiến dịch nhằm triệt hạ uy tín của ngài qua các phương tiện thông tin tuyên truyền của Hà Nội, mà cao điểm hẳn là những gì đã diễn ra tại Đền Thánh Giê-ra-đô Thái Hà đêm 21-09-2008: Một đám người điên loạn, nay được gọi cách trân trọng là “quần chúng tự phát”, tay đập phá tường rào, miệng gào thét “Giết Tổng Giám Mục Kiệt!” Tiếp đến là một việc làm văn minh hơn, đó là văn thư ông Chủ Tịch UBND/Tp. Hà Nội gửi Đức Cha Chủ Tịch HĐGM/VN tố cáo Đức Tổng Kiệt gây xáo trộn xã hội, và đề nghị thuyên chuyển ngài khỏi địa bàn Tp. Hà Nội (xem phụ lục 1). Và ngay sau đó, Đức Cha Chủ tịch HĐGM/VN đã có văn thư trả lời (xem phụ lục 2). Điều đáng ngạc nhiên chính là văn thư trả lời của HĐGM/VN.

Cùng phản đối cơ chế xin – cho

Ở đây tôi chỉ nói đến một điểm mà hình như cho đến giờ này ít ai (hay chưa có người) bàn tới, đó là điểm tương đồng giữa lời tuyên bố của Đức Tổng Kiệt với Thư Ngỏ HĐGM/VN gửi Quốc hội và các cơ quan lập pháp tiếp theo sau đại hội các giám mục năm 2002, mà nội dung căn bản là phản bác cơ chế xin – cho (xem phụ lục 3). Đọc lá Thư ngỏ này, ta có cảm tưởng như đang chứng kiến cảnh một thiên thạch rớt xuống địa cầu. Là vì trong một chế độ độc tài mà lại phản bác cơ chế xin – cho thì có khác gì nói lời tuyên chiến! Và ngay tại Sài-gòn thì Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã trân trọng gửi văn kiện đó cho ông Chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam Tp. HCM sau khi đã gửi cho Đại hội những người Công Giáo Việt Nam Nam xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc lần IV. Thế thì khi phản bác cơ chế xin – cho tại trụ sở UBND Tp Hà Nội, Đức Tổng Kiệt không làm gì khác hơn là lặp lại lập trường của HĐGM/VN qua Thư ngỏ 2002 vừa nói. Chính vì vậy mà trong văn thư trả lời Chủ tịch UBND Tp. HN, lẽ ra HĐGM/VN phải minh định là khi phản bác cơ chế xin – cho, Đức Tổng Kiệt đã phản ánh hoàn toàn đúng lập trường của HĐGM/VN, và do đó HĐGM/VN mạnh mẽ ủng hộ lời tuyên bố của Đức Tổng Kiệt. Thế nhưng việc này đã không xảy ra.

Thư ngỏ 2002 có còn giá trị?

Nay nhắc lại việc này, thiết tưởng HĐGM/VN cần soi sáng cho công luận biết: HĐGM/VN có còn giữ nguyên lập trường phản bác cơ chế xin – cho đã được minh định trong Thư ngỏ 2002 không? Nếu có, tại sao không công khai hỗ trợ Đức Tổng Kiệt? Nếu không, có phải vì đó là một lập trường sai lầm, và sai lầm ở những điểm nào? Bao lâu công luận chưa được soi sáng, thì những chuyện ngờ vực hay hiểu lầm là không tránh khỏi.

Lẻ loi đơn độc

Trở lại với văn thư Đức Cha Chủ Tịch HĐGM/VN trả lời Chủ tịch UBND/Tp. Hà Nội kèm theo bản “Quan điểm”, ta dễ dàng nhận ra vị trí của Đức Tổng Kiệt trong HĐGM/VN. Trước những lời kết án của Chủ tịch UBND/Tp Hà Nội thì HĐGM/VN khẳng định: Đức Tổng Kiệt đã không làm gì trái giáo luật. Và trong khi Đức Tổng Giám Mục Hà Nội, qua vụ Toà Khâm Sứ – Thái Hà, tranh đấu cho công lý hoà bình, thì văn thư của HĐGM/VN xem đó chỉ là chuyện đòi đất. Văn thư đó như lằn ranh phân chia một bên là Đức Tổng Giám Mục Hà Nội và bên kia là các vị khác trong HĐGM/VN. Đọc văn thư đó, ta thấy được Đức Tổng Kiệt lẻ loi đơn độc như thế nào ngay trong hàng ngũ anh em giám mục của mình. Và theo tôi, đây mới là nguyên nhân của căn bệnh mất ngủ triền miên dẫn đến suy nhược. Cuối cùng Đức Cha Kiệt đã đệ đơn xin từ chức Tổng Giám Mục Hà Nội, và nay đã có Tổng Giám Mục Phó với quyền kế vị; theo nhiều nguồn tin khá thông thạo, thì việc chuyển ngôi sẽ không còn xa.

San_juan_Wood_Sculture_By_Santiago_MartinezHình trái: Đầu của Thánh Gioan Tẩy Giả, Tượng gỗ của Santiago Martinez

Trước việc chuyển ngôi tại Toà Tổng Giám Mục Hà Nội, hẳn không có ai hả hê đắc chí bằng chính quyền cộng sản Hà Nội. Nhân dịp mừng Ngàn năm Thăng Long, thiết tưởng đây là món quà quý giá nhất từ phía Giáo Hội Công Giáo. Tôi chợt nghĩ đến tiệc mừng sinh nhật của Hê-rô-đê mà món quà không phải gì khác hơn là cái đầu của Gio-an Tẩy Giả (Mc 6,27).

Những người thừa kế các Tông Đồ

Lúc này đang là Mùa Phục Sinh. Sách Công vụ Tông Đồ đọc mỗi ngày trong Thánh Lễ cho chúng ta thấy các Tông Đồ sau biến cố Phục Sinh, sau khi đón nhận Chúa Thánh Thần, đã thay đổi như thế nào. Trong cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su, một người đã chối Chúa (mà lại là thủ lãnh!), số còn lại thì bỏ Chúa, và với cái chết nhục nhằn thê thảm trên thập giá, cuộc đời Đức Giê-su đã kết thúc trong thất bại ê chề. Nhưng biến cố Phục Sinh đã thay đổi tất cả. Những con người hèn nhát, nay không còn sợ hãi, những con người vốn không chữ nghĩa, xuất thân từ giới bình dân, nay công khai tranh luận với các kinh sư chữ nghĩa cùng mình. Khi đối mặt với nhà cầm quyền, các ông đã khẳng khái tuyên bố: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Nay trước bao nhiêu vấn đề xã hội: bất công, tham nhũng, phá thai, buôn người, nhường đất nhường biển cho ngoại bang, tất cả gói gọn trong một thứ tội tổ tông là độc tài đảng trị, thì sự thinh lặng cũng như thái độ ngoan ngoãn của các giám mục Việt Nam đối với nhà cầm quyền, không theo khuôn vàng thước ngọc của các Tông Đồ ngày xưa: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm”. Và cũng từ đây ta hiểu được tại sao cộng đoàn tín hữu Công Giáo Hà Nội, linh mục, tu sĩ cũng như giáo dân, đã hết lòng trìu mến, thiết tha gắn bó với vị mục tử quyết tình noi gương Chúa Giê-su, vị mục tử sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đoàn chiên: Đức Cha Giu-se Ngô Quang Kiệt.

Kết luận: Em ngươi đâu ?

Bổ nhiệm giám mục là quyền tuyệt đối của Đức Giáo Hoàng. Nguyên tắc là như vậy. Thế nhưng trong một nước cộng sản như Việt Nam, thì mọi chuyện không đơn giản như thế. Ai cũng biết lập trường của chính quyền Hà Nội là bằng mọi giá phải thuyên chuyển Đức Tổng Kiệt khỏi địa bàn Hà Nội. Nay việc đó đang diễn ra. Chính quyền cộng sản đã dùng những biện pháp nào, qua những trung gian nào để tác động lên Toà Thánh Vatican và các giám mục thì không ai biết. Trong tư cách là tín hữu Chúa Ki-tô trên đất nước Việt Nam hôm nay, ta chỉ có thể cầu xin cho người sẽ thay thế Đức Tổng Kiệt, được bình an thanh thản vì chỉ vâng lời Đức Thánh Cha để chu toàn một trách nhiệm muôn phần khó khăn nặng nề, và đã không làm bất cứ điều gì để phải đối mặt với câu hỏi xưa Chúa đã hỏi Ca-in: “Em ngươi đâu ?” (St 4,9)

Sài-gòn, ngày 22 tháng 04 năm 2010
Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm
pascaltinh@gmail.com

Phụ lục 1: Thư của Nguyễn Thế Thảo gởi HĐGMVN


Phụ lục 2: Thư phúc đáp của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam


Phụ lục 3: Thư Ngỏ Của Các Giám Mục Việt Nam




Hòa giải dân tộc không chỉ thả tù binh Cọng Hòa mà phải là đại xá toàn dân - Thiên Đức

Thiên Ðức

Trong thời gian gần đây, trên trang mạng Bauxite Việt Nam có phổ biến bài viết với tựa đề: “Kiến nghị trả tự do cho tất cả tù nhân cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, lấy “Việt Nam” làm quốc hiệu để hoa giải dân tộc“.

Bài viết kết thúc như sau:

“Nhân danh con trai Nhà thơ Huy Cận, Bộ trưởng thành viên Chính phủ khai sáng nền Cộng hòa và nhân danh cá nhân, kiến nghị Quốc hội khẩn cấp thực hiện Hòa giải dân tộc bằng:

1. Ðại xá tất cả tù nhân cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam Cộng hòa theo Khoản 10 Ðiều 84 Hiến pháp (Quốc hội quyết định đại xá).

2. Lấy “Việt Nam” làm quốc hiệu thay cho “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Khoản 1 Ðiều 84 Hiến pháp (Quốc hội làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp). (1)

Qua bản kiến nghị trên, hai cụm đại xá và hòa giải dân tộc đã sử dụng một cách ngộ nhận, gây nhiều tranh cãi.

1.- Ðại xá

Trở lại thời điểm lịch sử vào năm 1975, khi những người lính Cộng Hòa miễn cưỡng buông súng theo lệnh của vị chỉ huy đầu đàn là tướng Dương Văn Minh, cũng là lúc chế độ mới thiết lập tại miền Nam Việt Nam. Nhằm hòa giải dân tộc, để thông suốt chánh sách đường lối cai trị mới, nhà cầm quyền đã đề ra chính sách học tập cải tạo toàn bộ quân nhân cán chính miền Nam Việt Nam, mang theo lương thực đủ ăn 10 ngày hoặc một tháng tùy theo cấp bậc. Và thực tế cho đến nay hơn 35 năm, vẫn còn có những người tham gia học tập cải tạo chưa được về với gia đình?

Ðiều này nói lên một thực tế là đảng cộng sản Việt Nam đã phản bội lại chính mình, đã lợi dụng chính sách học tập cải tạo để trả thù đê tiện những người từng phục vụ dưới chế độ Cộng Hòa, với một lý do duy nhất là những người này không bao giờ tự nhận là người có tội với tổ quốc và dân tộc.

Thật vậy họ là những người bảo vệ tổ quốc, bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa không để rơi vào tay ngoại bang, họ là những người đã từng cưu mang một triệu người miền Bắc chạy trốn chế độ cộng sản miền Bắc vào năm 1954. Thì làm sao có thể buộc họ có tội với tổ quốc và nhân dân? Họ là những người từng cầm súng bảo vệ quê hương làng mạc nơi họ đang sống để chống lại mọi cuộc xâm lăng bất cứ từ đâu tới. Họ chưa từng cầm súng chiếm đoạt một vùng đất nào ngoài lãnh thổ của họ, nhưng cũng chưa để mất một tấc đất nào của tổ tiên để lại.

Theo lời kể của cựu tù chính trị Nguyễn Ngọc Quang về cựu đại úy địa phương quân Nguyễn Hữu Cầu, quân lực VNCH hiện đang bị học tập cải tạo 34 năm nay như sau:

Sống trong tù với anh Nguyễn Hữu Cầu một thời gian không dài lắm, tôi cảm phục chí khí bất khuất kiên cường của anh Nguyễn Hữu Cầu. Anh đã gần 500 lần viết những lá đơn để kháng cáo tội bị gán cho mình. Nhà tù đã dùng biết bao cực hình để khuất phục ý chí của anh. Nhưng chưa một lần nào viết bản kiểm điểm mà anh ghi vào đó rằng “tôi nhận tội” cả. Mà anh ghi như thế này, “Tôi luôn luôn giữ quan điểm của mình là tôi vô tội. Người có tội chính là đảng CSVN”. Vì vậy anh luôn luôn bị biệt giam, bị cùm.

Ðối với người tù bất khuất Trương Văn Sương với thời gian 33 năm 4 tháng trong trại cải tạo vừa ra trai đã tuyên bố:

“Trong những ngày bị lao tù, tôi cũng mong một ngày nào đó có được một giải pháp chính trị để họ thả tôi ra. Thật ra, tôi không nghĩ rằng họ có nhân đạo thả tôi, hoặc tôi cũng không nghĩ rằng tôi là người cải tạo tiên tiến để được đặc xá hay giảm án, tha án gì. Tôi mong rằng có một giải pháp chính trị nào đó để giúp giải quyết cho những người tù chính trị.” (2)

Giả thiết, đảo ngược lại, có một đội quân ngoại nhập nào đó đến cướp đất đai, mồ mả làng xóm của những người cộng sản nói chung, hay của gia đình ls. Cù Huy Hà Vũ nói riêng, rồi bắt cha, ông những người dân trong vùng này đi biệt tích trong 35 năm, ép buộc họ nhận tội mới được thả ra có hợp lý không? Mong ông Cù Huy Hà Vũ trả lời theo lương tâm của một người con yêu của đất nước và theo lương tri của một người đã thành đạt trong ngành luật.

Ðảng csvn và nhà nước đã từng kêu gọi xếp lại quá khứ hướng về tương lai, thế mà giờ này vẫn còn giam giữ tù binh Cộng Hòa với bất cứ lý do gì, cũng là một điều nghịch lý đáng phê phán. Những người tù này phải được trả tự do vô điều kiện, và hành vi thả tù binh này không mang ý nghĩa hòa giải dân tộc như đã chứng minh trên, mà chỉ là một hành vi của lương tâm và đạo lý giữa con người Việt Nam với nhau.

Sự việc gán ghép hành vi trả tự do toàn bộ những người phục vụ chế độ Việt Nam Cọng Hòa sau ba mươi lăm năm giam giữ với ý nghĩa hòa giải dân tộc là một hành vi không trong sáng, cố tình đánh tráo lịch sử.

2.- Hòa giải dân tộc

Khi đất nước chấm dứt tiếng súng, hai miền Nam Bắc nối liền nhau, đảng csvn đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng, đó là dựa trên lý tưởng “Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại” để chia dân tộc Việt Nam ra hai thành phần “Vô sản và không vô sản”.

Ðặc biệt thành phần “không vô sản” phải bị tiêu diệt dưới mọi hình thức. Là người Việt Nam không ai không biết hậu quả của chính sách cải cách ruộng đất, “trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ, cải cách công thương nghiệp, tổ chức bán dân, bán bãi xô đẩy người dân vào lòng biển cả …”, chính sách mở rộng cửa tù cho những người có tiếng nói khác biệt. Tất cả đó chính là nguồn gốc của hận thù dân tộc.

Hận thù Quốc Cộng (nếu có?) xảy ra trong chiến tranh và đang tàn lụi theo thời gian. Hận thù dân tộc do đảng cs gây nên xảy ra trong hòa bình, kéo dài từ khi có đảng cho đến ngày nay.

Những người phục vụ chế độ Việt Nam Cộng Hòa không gây hận thù dân tộc, mà chính đảng cộng sản gây ra và nuôi dưỡng hận thù dân tộc.

Nội hàm này người viết đã từng nhiều lần trình bày rõ ràng qua nhiều loạt bài viết như:

- Ðối thoại với ông Võ Văn Kiệt và đảng csvn: Xếp lại quá khứ? (3)

- Hòa hợp hòa giải dân tộc (4)

- Phong thủy tính sổ ngày tàn chế độ cọng sản Việt nam. (5)

Không ai có thể nhập nhằng và đánh tráo lịch sử giữa hòa giải dân tộc và hòa giải “Quốc Cộng” để trốn tránh trách nhiệm trước lịch sử.

Muốn hòa giải dân tộc chỉ có một con đường duy nhất đó là đảng cộng sản Việt Nam phải biết tôn trọng dân tộc Việt Nam thể hiện qua hai bước:
    - Thứ nhất: Ðại xá toàn dân tộc vô điều kiện những người đang bị giam giữ tại quốc nội hoặc lưu đày ngoại quốc, không phân biệt chính kiến, tôn giáo, thành phần giai cấp, địa vị xã hội.

    - Thứ hai: mọi người Việt Nam đều có quyền bình đẳng ngang nhau, có nghĩa là đảng cọng sản Việt nam phải hoạt động trong vòng hiến pháp và luật pháp, ngang bằng với toàn dân tộc Việt.
Không thể có hòa giải dân tộc khi toàn dân tộc bị áp bức tù đày, bất công của luật pháp tồi tệ hơn cả thời kỳ Pháp thuộc, trong khi đảng csvn ngồi xổm trên hiến pháp và luật pháp như chính ông Nông Ðức Mạnh đã tuyên bố:

Theo Vietnamnet ngày 26/6/2010, Tổng Bí thư Nông Ðức Mạnh khẳng định: “Bộ máy Nhà nước ở Việt Nam không hoạt động theo nguyên tắc tam quyền phân lập mà có sự phân định nhiệm vụ, hoạt động thống nhất dưới sự lãnh đạo của Ðảng”. (6)

Mọi người Việt Nam phải được thủ đắc quyền và nghĩa vụ được ghi rõ ràng trong hiến pháp. Ðảng csvn chỉ là một bộ phận của dân tộc chứ không phải là một ngoại lệ để có quyền đứng trên và ngoài hiến pháp. Dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc bị trị dưới quyền của đảng csvn. Ðảng Cộng sản Việt Nam chỉ là con dân, chứ không phải là cha mẹ dân tộc Việt Nam.

Bao lâu đảng cộng sản Việt Nam chưa thể hiện được hai bước căn bản này thì hận thù dân tộc sẽ ngày càng chồng chất theo thời gian, và hòa hợp hòa giải dân tộc chỉ là cái bong bóng nước bọt trên đầu môi của mỗi người dân Việt mà thôi.

Luật sư Cù Huy Hà Vũ nói riêng và giới sĩ phu Việt Nam nói chung mong muốn Việt Nam có hòa giải dân tộc nên nhìn thẳng vào thực tế để thực hiện một bước cụ thể trong thời gian sắp tới nhân dịp sửa đổi hiến pháp đó là:

- Ðề nghị chính sách hòa giải hòa hợp dân tộc trở thành quốc sách, phải được ưu tiên thi hành trong hiến pháp, trước tiên đại xá toàn dân, ngăn chận mọi hành vi trả thù phát xuất từ nhiều phía, và mọi công dân Việt Nam đều được quyền bình đẳng và hưởng mọi quyền lợi và nghĩa vụ ghi rõ trong hiến pháp không có ngoại lệ. Ðảng cọng sản Việt Nam cũng chỉ là một bộ phận dân tộc phải nằm trong hiến pháp.

Sự dũng cảm và đấu tranh nói lên sự thật là đáng khen ngợi, thế nhưng đánh tráo sự thật hay chỉ nói lên một nửa sự thật sẽ không bao giờ có kết quả như một sự thật đáng có.

Thiên Đức

Ghi chú:

1.- Kiến nghị trả tự do cho tất cả tù nhân cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam Cọng Hòa, lấy “Việt Nam” làm quốc hiệu để hòa giải dân tộc
http://boxitvn.blogspot.com/2010/08/kien-nghi-tra-tu-do-cho-tat-ca-tu-nhan_31.html
2.- Còn biết bao người tù chính trị bất khuất trong cảnh đọa đày
http://www.rfa.org/vietnamese/vietnam/chinh-tri/Plight-of-long-term-political-prisoners-in-vn-tquang-07252010125719.html
3.- Ðối thoại với ông Võ Văn Kiệt và đảng csvn: Xếp lại quá khứ?
http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=45&nid=107413
4.- Ðối thoại với ông Võ Văn Kiệt và đảng csvn: Ðể hòa giải hòa hợp dân tộc
http://anhduong.net/binhluan/May07/bai_viet_doi_thoai_voi_ong_vo_van_kiet_2__unicode_.htm
5.- Phong thủy tính sổ ngày tàn chế độ cọng sản Việt nam.
http://thongtinberlin.de/diendan/tinhsongaytanchedocsvn03.htm
6.- Nhà nước CHXHCNVN không phải là nhà nước pháp quyền
http://boxitvn.blogspot.com/2010/06/nha-nuoc-chxhcn-viet-nam-không-phai-la.html


Friday, September 10, 2010

Biểu dương cờ Vàng - Lên án Việt gian tại Melbourne

Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu
Vietnamese Community in Australia
PO Box 2115 Footscray VIC 3011
Tel: 0411 756 552
Email: sicmaa.nguyen@gmail.com


THÔNG BÁO

V/V: “BIỂU DƯƠNG CỜ VÀNG – LÊN ÁN VIỆT GIAN” tại Melbourne

Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu (CĐNVTD-LBUC) kêu gọi quý đồng hương, các hội đoàn, đoàn thể và Cộng Đồng Người Việt Tự Do mọi nơi cùng phản đối cái gọi là “Hội Doanh Nhân Việt Kiều Úc Châu” do CSVN và Việt gian tiếp tay thành lập tại Melbourne trong tháng 7 vừa qua tại Melbourne.

CĐNVTD-LBUC nhận định rằng “Tích cực hưởng ứng, hỗ trợ và tham dự cuộc biểu tình “BIỂU DƯƠNG CỜ VÀNG – LÊN ÁN VIỆT GIAN” vào Ngày Thứ Bảy 25-9-2010 do CĐNVTD-Victoria tổ chức là biểu dương chánh nghĩa quốc gia và bày tỏ quyết tâm đập tan mọi âm mưu nhuộm đỏ cộng đồng người Việt tỵ nạn tại Úc Châu của tà quyền CSVN và tay sai”.

CĐNVTD-LBUC xin kêu gọi Cộng Đồng Người Việt Tự Do mọi nơi tiếp tục cảnh giác, và có những ứng phó kịp lúc đối với những âm mưu bành trướng cái gọi là “Hội Doanh Nhân Việt Kiều Úc Châu” do CSVN và Việt gian tiếp tay thành lập trong tương lai tại các nơi khác ở Úc Châu.

TM. BCH/CĐNVTD/UC

Nguyễn Thế Phong
Chủ tịch
5-9-2010

***
    Thông báo và lời kêu gọi quan trọng của Cộng Đồng Người Việt Tự Do Victoria.

    V/v: Tham gia cuộc xuống đường biểu dương cờ vàng và phản đối Việt gian tại Footscray ngày thứ Bảy 25-9-2010.

    Kính thưa:
    - Quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo,
    - Quý vị đại diện và thành viên các hội đoàn đoàn thể,
    - Quý cơ quan truyền thông Việt ngữ,
    - Cùng toàn thể đồng bào tỵ nạn Úc châu và Victoria
Nhà cầm quyền CSVN qua Nghị Quyết 36 của chúng đã dùng mọi thủ đoạn, mọi hình thức và mọi phương tiện, từ văn hoá, văn nghệ, truyền thông, báo chí, đặc biệt là tiền bạc và chức tước hảo để chiêu dụ và xách động những thành phần tham danh, hám lợi, phản bội chánh nghĩa quốc gia và tỵ nạn hoặc không hiểu bản chất gian tà độc ác của CSVN đứng ra làm công cụ đánh phá và tạo mâu thuẫn, chia rẽ và nghi kỵ trong cộng đồng người Việt tỵ nạn khắp nơi trong đó có Úc Châu và tại Victoria.

Sau nhiều năm cài người và chuẩn bị, nay CSVN cho rằng chúng đã đủ mạnh để chính thức thách đố và thành lập những cơ sở và tổ chức, hội đoàn của chúng ngay tại thủ phủ của người Việt tỵ nạn Cộng Sản đang sinh sống và làm ăn. Điển hình là việc Toà Đại Sứ CSVN đã chính thức cho thành lập và làm lễ ra mắt một tổ chức lấy tên là: Hội Doanh Nhân Việt Kiều Úc Châu (Vietnamese Overseas Business Association in Australia) vào tháng 7 vừa qua tại Melbourne do một số thành phần Việt gian ở vùng Footscray đứng ra ghi danh và điều hành, trong đó có Trần Bá Phúc làm Chủ tịch, Phan Văn Danh làm Phó Chủ tịch và Tony Huy Le làm Tổng Thư ký v.v…

Sự ra đời của cái gọi là Hội Doanh Nhân Việt Kiều Úc Châu do Trần Bá Phúc, một thành viên của Mặt trận Tổ Quốc CSVN đứng ra thành lập và ra mắt đưới sự tham dự và bảo trợ của toà đại sứ CS là bước thử lửa và lời thách thức đầu tiên của Tà quyền CSVN đối với cộng đồng người Việt tỵ nạn Úc Châu nói chung và CĐNVTD-Victoria nói riêng.

Kính thưa quý vị và toàn thể đồng bào người Việt tỵ nạn CS,

Đứng trước tình trạng xâm nhập ngày càng lộ liễu và những thái độ thách đố ngày càng nhiều và công khai của nhà cầm quyền CSVN và bọn tay sai nằm vùng của chúng tại Úc châu, Ban Chấp Hành Cộng Đồng Người Việt Tự Do Victoria, với sự hỗ trợ của các BCH Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Úc, Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH và các Hội Đoàn, Đoàn Thể tại Victoria sẽ tổ chức một cuộc biểu tình và diễn hành quy mô để:

“VINH DANH CỜ VÀNG, PHẢN ĐỐI VIỆT GIAN”

Tại: Khu vực trung tâm thị tứ của Footscray
Tập trung và phát xuất từ Ngân Hàng Commonwealth Bank
đường Nicholson St, Footscray
Vào ngày: Thứ Bảy 25-9-2010
Vào lúc: 11 giờ sáng

Kính thưa quý vị và đồng bào,

CSVN đã xâm nhập tận nhà của chúng ta và thách thức cộng đồng tỵ nạn chúng ta và con cháu của chúng ta. Chúng ta không thể ngồi yên nhìn chúng “múa gậy như thể vườn hoang và coi đây là đất nhà của CSVN”.

Đã đến lúc vì tương lai con cháu của chúng ta, vì hai chữ “Tự Do” mà chúng ta đã thí mạng sống để đi tìm và có được ngày hôm nay tại Úc châu, vì chúng ta không muốn con cháu chúng ta bị nhuộm đỏ một lần nữa

CHÚNG TA NHẤT QUYẾT PHẢI BIỂU TÌNH THẬT ĐÔNG VÀ BÀY TỎ LẬP TRƯỜNG DỨT KHOÁT KHÔNG CHẤP NHẬN SỰ HIỆN DIỆN CỦA CSVN VÀ TAY SAI TẠI ÚC CHÂU vào ngày THỨ BẢY 25-9-2010 tại FOOTSCRAY tới đây.

Mọi thắc mắc xin quý vị và đồng bào liên lạc với cô Nguyễn Lê Thanh Trúc (0432 898 898) hoặc ông Nguyễn văn Bon (0411 616 453).

Trân trọng kính báo và kính mời,
TM. BCH-CĐNVTD-VIC

Nguyễn văn Bon
Chủ tịch
Ngày 26-8-10

****
    Melbourne: Quyết Chiến - Thề Quyết Chiến
    NGƯỜI VIỆT CỦA TÔI - QUYẾT CHIẾN – THỀ QUYẾT CHIẾN
Nguyễn Khắp Nơi
    Quyết chiến! Thề quyết chiến! Quyết chiến!
    Đánh cho cùng dù mình phải chết
    Để mai này về sau con cháu ta sống còn
    (Thề Không Phản Bội Quê Hương,nhạc Cục Chính Huấn)
Vào những năm 1973 – 1974 là những năm cực thịnh của chính sách “Xây Dựng Nông Thôn”. Hàng đoàn những thanh niên thiếu nữ trong quân phục mầu đen được đưa về nông thôn để đấu tranh dành đất dành dân với Việt cộng, trong từng xóm làng, từng ngôi nhà, ngay chiến trường nông thôn mà bọn Việt cộng từng cho là cái nôi của cách mạng của chúng.

Họ vừa đi vừa hát vang bài hát “Thề Không Phản Bội Quê Hương”. Họ đi tới đâu là cắm Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tới đó, họ đi tới đâu là rạng danh chính nghĩa Tự Do tới đó.

Tôi rất thích bài hát này, vì nó thể hiện tinh thần quyết chiến quyết thắng của chúng ta. Trong cái tinh thần quyết chiến thắng đó, nó bao gồm cái chính danh, cái đại nghĩa, cái hùng anh của người dân Việt.

Sau hơn ba mươi năm, cái cảm giác, cái tinh thần “Quyết Chiến Quyết Thắng” lại trở về với tôi: Buổi trưa chủ nhật tuần qua, tôi đang ngồi ăn trưa, chợt nghe computer báo có điện thơ tới. Tôi vội mở ra đọc ngay.

Đó là thơ của Cộng Đồng Người Việt Tự Do Victoria gởi cho tôi.

Đó cũng không phải là lá thơ thường, mà là một thông báo:

THÔNG BÁO VÀ LỜI KÊU GỌI QUAN TRỌNG CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO VICTORIA.
V/V: THAM GIA CUỘC XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU DƯƠNG CỜ VÀNG VÀ PHẢN ĐỐI VIỆT GIAN TẠI FOOTSCRAY NGÀY THỨ BẢY 25-9-2010

... Sự ra đời của cái gọi là Hội Doanh Nhân Việt Kiều Úc Châu do Trần Bá Phúc, một thành viên của Mặt trận Tổ Quốc Cộng Sản Việt Nam đứng ra thành lập và ra mắt đưới sự tham dự và bảo trợ của toà đại sứ Cộng Sản là bước thử lửa và lời thách thức đầu tiên của Tà quyền Cộng Sản Việt Nam đối với cộng đồng người Việt tỵ nạn Úc Châu nói chung và Cộng Đồng Người Việt Tự Do-Victoria nói riêng.

Kính thưa quý vị và toàn thể đồng bào người Việt tỵ nạn Cộng Sản,

Đứng trước tình trạng xâm nhập ngày càng lộ liễu và những thái độ thách đố ngày càng nhiều và công khai của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam và bọn tay sai nằm vùng của chúng tại Úc châu,

Ban Chấp Hành Cộng Đồng Người Việt Tự Do Victoria, với sự hỗ trợ của các Ban Chấp Hành Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Úc, Hội Cựu Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và các Hội Đoàn, Đoàn Thể tại Victoria sẽ tổ chức một cuộc biểu tình và diễn hành quy mô để:
    “VINH DANH CỜ VÀNG, PHẢN ĐỐI VIỆT GIAN”
    Tại: Khu vực trung tâm thị tứ của Footscray
    Tập trung và phát xuất từ Ngân Hàng Commonwealth Bank
    đường Nicholson St, Footscray
    Vào ngày: Thứ Bảy 25-9-2010 - Vào lúc: 11 giờ sáng
Đọc xong bản thông báo của Cộng Đồng Người Việt Tự Do Victoria, tôi có cảm tưởng thật là sảng khoái, vì Cộng đồng đã đại diện cho người dân để nói lên tiếng nói bất khuất của người Việt Tự Do: Thề quyết chiến để bảo vệ cho Ngọn Cờ Vàng, cho sự sinh tồn của chính chúng ta cà con cháu chúng ta sau này.


Đâu đây quanh tôi, như còn vang vọng câu hát:
    “Một cánh tay đưa lên, Hàng ngàn cánh tay đưa lên
    Hàng vạn cánh tay đưa lên ...
    Quyết đấu tranh cho một nền hòa bình công chính”
Quyết định biểu tình tuần hành của Cộng Đồng Người Việt Tiểu Bang Victoria đã đưa ra thật là đúng với Thiên thời – Địa Lợi - Nhân Hòa.

THIÊN THỜI

Sau hơn ba chục năm định cư ở nước ngoài, người dân tỵ nạn đã có một đời sống ổn định, nhưng bọn Việt cộng vẫn không để cho chúng ta yên, chúng cứ đi lần từng bước muốn triệt hạ tất cả người dân Việt Tự Do chúng ta.

Miệng thì chúng nói người Việt Hải ngọai là ... “Khúc Ruột Ngàn Dặm” là ... “Việt Kiều Yêu Nước”

Nhưng bàn tay và đầu óc của chúng luôn luôn tập trung vào những phương cách triệt hạ chúng ta.

1. Người Việt Tỵ Nạn chúng ta mới xây lên những đài kỷ niệm để tưởng nhớ cuộc đời tỵ nạn ở Mã Lai và Nam Dương, là chúng đả phản đối và buộc các quốc gia nói trên phải phá bỏ đi.

2. Chúng ta xây nên những đài tưởng niệm Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa và Đồng Minh đã hy sinh trong cuộc chiến dành Tự Do cho Miền Nam Việt Nam, thì bọn chúng đã làm áp lực với chính phủ Úc không cho treo cờ Vàng Ba Sọc Đỏ.

3. Sau đó, chúng tới tấp đem những đoàn văn công ra ngoại quốc để truyền bá cái gọi là văn hóa Cộng sản của chúng.

4. Thêm vào đó, một số người Việt tỵ nạn, trong đó có cả những thành phần quân đội, thành phần chống cộng của chúng ta, điển hình là Trần Bá Phúc và Phan Văn Danh, đã trở cờ theo Cộng sản để lập ra những hội đoàn Doanh Nhân mà mục đích chính là đem lá cờ đỏ qua hoạt động ngay trong lòng người Việt Tỵ Nạn.

Đây là thời cơ chín mùi mà ông Trời đã dành cho người dân Việt Tỵ Nạn, để chúng ta đoàn kết lại mà ngăn chặn bước xâm nhập của bọn Việt cộng vào đời sống an lành của chúng ta ở Úc, ở Mỹ, ở Canada và ở khắp nơi trên thế giới.

Lê Kim, một độc giả của Việt Luận, đã viết trong Mục “Ý Kiến Độc Giả”, gợi lại hình ảnh của ngày 30 tháng Tư năm 1974, khi Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng Việt Cộng, rất nhiều chiến sĩ của chúng ta đã không đông ý đầu hàng, đòi phải đánh một trận sống mái với Việt cộng, rồi có chết cũng cam lòng.

Bây giờ lịch sử lại tái diễn, bọn Việt cộng lại một lần nữa đang muốn khởi động cuộc tấn công vào mảnh đất dung thân cuối cùng của chúng ta. Đây là cơ hội ngàn năm một thủa để chúng ta hợp lực lại mà đánh tan bọn Việt cộng, giữ vững mảnh đất Tự Do thân yêu, để con cháu chúng ta còn được sống còn:
    “Nào cùng sát vai bên nhau ... Thề nguyền với vung tay cao
    Quyết đấu tranh đến khi nào đạt thành mong ước ...”
Cộng Đồng Người Việt Tự Do Brisbane, Tiểu Bang Queensland diễn hành trong “NGÀY CỰU QUÂN NHÂN ÚC - ANZAC DAY 26 - 04 - 2010” vừa qua.

ĐỊA LỢI

Người Việt Tỵ Nạn ở Tiểu Bang Victoria tập trung nhiều nhất ở thành phố Melbourne. Trong thành phố này, người Việt chúng ta sống tập trung lại ở những vùng như St Albans, Preston, Sunshine, Braybrook, Footscray, Richmond, Springvale, Dandenong ...

Footscray được coi là nơi người Việt chúng ta cư ngụ và mở ra nhiều cửa tiệm, hãng xưởng, văn phòng nhiều nhất.

Footscray cũng là nơi đặt văn phòng của Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang và Tiểu Bang.
Footscray cũng là nơi đặt trụ sở của Hội Cựu Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Tiểu Bang Victoria (đại hội Cựu Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ được tổ chức tại đây vào tháng 12 sắp tới).

Vì tầm quan trọng của Footscray với người Việt Tỵ Nạn, nên Footscray được coi như là “Sàigòn” của người dân Việt.

Cũng chính vì tầm quan trọng này mà Trần Bá Phúc và Phan Văn Danh đã chọn nơi này để làm chiến trường đầu tiên với cộng đồng tỵ nạn chúng ta: Lập Hội Doanh Nhân Việt Nam Australia, cắm cờ đỏ đầy phòng họp, mời hẳn Hoàng Vĩnh Thanh, Đại sứ Việt cộng ở Úc tới khai mạc.

Chúng ta hãy tham gia cuộc biểu tình cho thật đông, biểu dương lực lượng thật hùng hậu, chặn đứng âm mưu đem cờ đỏ nhuộm khắp Footscray của bọn Cộng sản và tay sai.

Đánh thắng trận này, chúng ta đã rửa mặt lại cho Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 30 04 1975.

Đánh thắng trận này, vạch mặt chỉ tên bọn tay sai, kể rõ mục đích chính trị của bọn Việt cộng núp sau lưng doanh nhân, bọn chúng sẽ ê càng, tự rút lui về Việt Nam mà sinh sống với nhau.

Đánh thắng trận này, không phải chỉ để diệt tan bọn Việt cộng và tay sai của chúng ở Úc, mà còn làm cho những Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn ở khắp mọi nơi lên tinh thần, cũng hợp lại với nhau mà dẹp tan những hội doanh nhân ở mọi nơi trên thế giới.
    “Liều thân thoát cũi sổ lồng
    Tránh xa cộng phỉ để mong làm người
    Bây giờ cộng phỉ giăng mồi
    Súc sinh cúi cổ quy hồi cũi xưa" (SR)
NHÂN HÒA

Qua mục “Ý Kiến Độc Giả”, người dân Việt đã nói lên quyết tâm gia nhập đoàn bỉểu tình do Cộng Đồng Người Việt Tự Do Victoria tổ chức, để nói lên tiếng nói quyết giữ Footscray khỏi mầu cờ đỏ của Việt cộng.

Chúng ta đã không sống được với chế độ độc tài đảng trị của Việt cộng, chúng ta đã vì muốn huởng độc lập tự do mà đã phải liều chết vượt biên ra ngoại quốc sinh sống. Gia tài mà người Việt chúng ta mang theo, CHỈ CÒN LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ, những tưởng chúng ta sẽ có cuộc sống tự do vĩnh cửu.

Nhưng chỉ 35 năm sau đó, bọn Việt cộng lại đuổi theo chúng ta, cố gắng tiêu diệt lá cờ của chúng ta.
    Vì tinh thần quốc gia dân tộc,
    vì chính nghĩa Tự Do Cộng Hòa,
    vì tương lai của con cháu chúng ta sau này,
    chúng ta phải tham gia biểu tình, chặn đứng con dường xâm nhập của Việt cộng vào cộng đồng Người Việt Hải Ngoại:

      “Ta thà chết chớ không hề lui
      Quyết không hề phản bội quê hương”
Hội “Doanh Nhân Việt Nam Australia” có phải là một hội đoàn thuần túy buôn bán? Và do các Việt kiều lập ra hay không?

Xin thưa rõ ràng, mạch lạc:

HỘI DOANH NHÂN DO VIỆT CỘNG LẬP RA, VỚI MỤC ĐÍCH CHÍNH TRỊ, SAU ĐÓ CHỈ THỊ CHO CÁC TAY SAI Ở MỌI NƠI THỰC HIỆN.


Buổi họp tiếp Vũ Trọng Kim của “Mặt Trận Tổ Quốc” Kim ngồi trước lá cờ Đỏ,
Trần Bá Phúc mang kiếng ngồi bên tay phải của Kim

Chúng ta hãy xem dưới đây, hai quyết định về thành lập “Hiệp Hội Doanh Nhân Việt Nam Ờ Nước Ngoài" của Việt cộng:

“Ra mắt Hiệp hội doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài(VTC News) - Trên 250 doanh nhân từ nhiều nước và vùng lãnh thổ trên thế giới đang có các dự án đầu tư lớn trong và ngoài nước đã về tham dự Đại hội thành lập Hiệp hội doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài được tổ chức trong hai ngày 9 - 10 tháng 8 tại Hà Nội. Sau khi thành lập các Hiệp hội doanh nhân của từng nuớc, bản danh sách các hội được đệ trình lên Bộ Ngọai Giao, ngày 04/09/2009, bộ này đã ra quyết định công nhận Ban chấp hành, Ban Kiểm Tra và Tổng Thư Ký Hiệp Hội Doanh Nhân Việt Nam ở nước ngoài. Chủ trương và phương hướng công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong thời gian tới:

1. Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài cần thể hiện đầy đủ truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc ...

2. Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị. Đảng và Nhà nước mong muốn, khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài hội nhập và thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp nước sở tại, . Điều 2 của Quyết Định do Bộ Nội Vụ cấp nói rất rõ: “… Hoạt động của Hiệp hội chiụ sự quản lý nhà nước của Bộ Ngoại Giao và các Bộ, ngành khác có liên quan về lĩnh vực Hiệp hội họat động ...” . Nơi nhận quyết định: Bộ Quốc Phòng (Tổng Cục II) và Bộ Công An (Tổng Cục V, C 13). Tổng Cục II và Tổng Cục V là hai cơ quan tình báo cộng sản.

Ở nước Úc tự do nay, bất cứ ai cũng có quyền buôn bán làm ăn, miễn là đừng buôn bán những thứ quốc cấm, miễn là đừng có hỗ trợ những đám khủng bố là được rồi.

Người Việt trong chúng ta, ai muốn về Việt Nam buôn bán làm ăn, cứ việc quyết đinh tùy theo từng cá nhân, chứ đừng đem Việt cộng qua đây, đừng đem lá cờ đỏ qua đây.

Lập ra hội doanh nhân để dùng lá cờ đỏ làm biểu tượng buôn bán là một hình thức trá hình lợi dụng buôn bán để làm chính trị.

Chúng ta không thể chấp nhận những hội doanh nhân kiểu này.

Đã có rất nhiều hội đoàn từ các Tiểu bang khác trên toàn nước Úc lên tiếng hỗ trợ và xuống tận Footscray để cùng đi biểu tình hỗ trợ cho cộng đồng chúng ta.

Chiến sĩ Võ Đại Tôn, người hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã từng lập đoàn quân tình nguyện về giải phóng trở lại đất nước Việt Nam thân yêu, đã xác nhận sẽ xuống Melbourne để tham dự cuộc biểu tình chống sự xâm nhập của Việt cộng vào Cộng Đồng Tỵ Nạn Việt Nam.

Hội Cựu Quân Nhân Queensland đã cho Victoria mượn lá “ĐẠI KỲ VIỆT NAM CỘNG HÒA” để diễn hành trong buổi biểu tình.

Không những cho muợn cờ, anh Huỳnh Bá Phụng, chủ tịch Hội Cựu Quân Nhân Queensland còn hướng dẫn một phái đoàn đông đảo Cựu Quân Nhân xuống tận Melbourne để cùng tham gia cuộc biểu tình.

Tin mới nhất, nếu kịp chuyến bay, một Đại Úy Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, con của một chiến hữu Thiết Giáp Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, sẽ bay tới Melbourne để cùng tham dự cuộc biểu tình chống Cộng sản xâm nhập vào Úc Đại Lợi.

Các hội đoàn khác cũng đang chuẩn bị hành trang, vì tất cả cùng có một ý nghĩ như nhau:
    Chống lại sự bành trướng của Cộng sản.
    Thế Hệ Thứ năm của Cộng Đồng Người Việt Tự Do Tại Melbourne.
    Cuộc biểu tình có thành công hay không?
    Chúng ta có giữ vững chiến tuyến cuối cùng của Cộng Đồng Người Việt Tự Do hay không?
Câu trả lời do tất cả các thành viên trong Cộng Đồng Người Việt chúng ta cùng trả lời.

Hãy tham gia cuộc biểu tình tuần hành do Cộng Đồng Người Việt Tự Do Victoria tổ chức vào lúc
11 giờ sáng ngày Thứ Bẩy 25 09 2010, tại Footscray Mall, góc đường Nicholson và Hopkins Footscray VIC 3011, để chứng tỏ sức mạnh đoàn kết của chúng ta, để đánh bại âm mưu nhuộm đỏ vùng Footscray của Cộng sản.

Nếu chúng ta, trước tới nay chỉ có dịp nói về Cộng sản, chỉ chống Cộng sản mỗi khi có phái đoàn của chúng từ xa tới đây hội họp, đây là dịp may duy nhất để chúng ta thể hiện thái độ chống cộng của mình.

Nếu chúng ta trước đây đã từng mặc quân phục đi diễn hành trong các buổi lễ, đã từng lên diễn đàn kể lại những chiến công oanh liệt của mình, của đơn vị mình trong thời chiến, đây là dịp may muôn thủa để chúng ta chứng tỏ cho mọi người biết rằng: chúng ta là người Lính Việt Nam Cộng Hòa, chúng ta chống cộng khi còn ở trong quân ngũ, và bây giờ vẫn còn chống cộng. Người dân Việt Nam sẽ nghĩ sao khi chúng ta không thể bảo vệ họ ngay tại mảnh đất cuối cùng này?

Các cơ quan báo chí, truyền thông, hãy cùng giúp phổ biến tin tức, kêu gọi mọi người tham gia biểu tình chống sự bành trướng của Cộng sản. Nếu Cộng sản tới được nơi đây, không phải chỉ người dân bị thiệt thòi, chính cơ quan truyền thông sẽ chịu hậu quả nhiều nhất.
    “Quyết chiến! Thề quyết chiến! Quyết chiến!
    Đánh cho cùng dù mình phải chết
    Để mai này về sau con cháu ta sống còn”
NGƯỜI VIỆT CỦA TÔI, LÀ THẾ ĐẤY!

Nguyễn Khắp Nơi