Wednesday, July 14, 2010

Lịch Sử Một Trăm Năm Bóng Tròn Việt Nam - Mường Giang



Mường Giang

Dân tộc VN xưa nay vốn có truyền thống thượng võ, nên rất coi trọng việc rèn luyện cơ thể hằng ngày như là phương tiện để mà phát triển quân sự. Đá cầu là một trong những môn chơi rất được mọi tầng lớp xã hội các thời Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn ưa thích và được coi đây là xuất xứ của môn bóng tròn VN, chính thức thành hình hơn 100 năm qua.

Theo tài liệu, thì đội túc cầu đầu tiên của nước ta ra đời vào năm 1906 tại Gia Định. Hai mươi năm chiến tranh (1955 – 1975) với bao nhiêu nỗi buồn bom đạn nhưng cũng là thời kỳ huy hoàng nhất của nền túc cầu Nam VN, chẳng những trong khu vực Đông Nam Á, mà tiếng thơm còn bay bổng tận làng bóng quốc tế, với những tên tuổi Phạm Văn Rạng, Phạm văn Mỹ, Đỗ Thới Vinh, Phạm Huỳnh Tam Lang, Lâm Hồng Châu.

Ở Miền Bắc xã nghĩa, từ năm 1964 các giải bóng tròn thường diễn ra trên các sân vận động Hải Dương, Thái Bình, Bắc Giang mà không tổ chức tại Hà Nội, vì sợ máy bay Mỹ oanh tạc. Năm 1965, đội tuyển Bắc Việt, tham dự Giải Túc Cầu hữu nghị, được tổ chức tại sân vận động Bình Nhưỡng (Bắc Hàn) gồm các đội banh Trung Cộng, Nam Dương, Kampuchia, Guinee, Bắc Cao. Đội Bắc Việt đứng hạng ba. Năm 1966, Liên Xô đá giao hữu và thua Bắc Việt 1- 0. Cũng năm 1966, trong giải Ganefo tổ chức tại Nam Vang, gồm 10 nước tham gia, đội Bắc Việt lãnh huy chương đồng. Nói chung, trước năm 1975, Bắc Việt cũng có một đội bóng tròn, gồm Nguyễn Văn Vĩnh (thủ môn) và các cầu thủ Hiếu, Thêm, Hiền, Hiển, Long, Vinh, Thọ, Ngọc, Phàn, Chinh tuy nói là tham dự nhiều nơi nhưng chẳng đem về cho quê mẹ một chiến thắng nào đáng kể, vì lúc đó Đảng tại Bắc Bộ Phủ, chỉ trăm phương ngàn kế, để mà làm sao cưỡng chiếm cho được Miền Nam, nên đâu còn sức lo cho thể thao, bóng tròn những món hàng được coi là xa xỉ, vô ích trong thế giới các nước xã hội chủ nghĩa.

ĐỘI TUYỂN BÓNG TRÒN MIỀN NAM VIỆT NAM

Năm 1959, lần đầu tiên đội tuyển bóng tròn VNCH đã đoạt được huy chương vàng, tại Đông Nam Á Vận Hội (không có sự tham dự của Nam Dương và Phi Luật Tân). Kỳ đó, phái đoàn thể thao Nam VN tham dự rất nhiều môn thi đấu như Boxing, bơi lội, bóng bàn, bóng chuyền, bóng rổ, xe đạp, điền kinh và bóng tròn. được tổ chức tại Thái Lan. Về đội tuyển VNCH có Phạm Văn Rạng (thủ môn), Nguyễn Văn Cụt, Phạm Văn Hiếu, Nguyễn Ngọc Thanh, Lê Văn Hổ (Myo), Nguyễn Văn Nhung, Đỗ Thới Vinh, Há, Đổ Quang Thách, Nguyễn Văn Tư. Đội tuyển VN vào chung kết hạ đội Thái Lan 3-1 và được chính tay Hoàng Thái Tử Xiêm trao chiếc cúp vàng, tại sân vận động.

Trước đó ở miền Nam, có trung phong đội AJS (Association de la Jeunesse sporttive), tức là Đội Cảnh Sát Quốc Gia sau này, cầu thủ Phạm Văn Mỹ, nổi danh trong làng bóng Đông Nam Á là ‘Cọp Đồng Nai’ qua kỹ thuật chơi bóng, cú sút trời giáng, tốc độ nước rút phi thường. Bên cạnh còn có Phạm Văn Rạng, từng được tạp chí thể thao hàng đầu của Pháp là tờ ‘France Football’ vinh danh là thủ môn số 1 của nền bóng tròn Châu Á, khi đội tuyển VNCH đã thắng đội banh Do Thái 2-0, trong khuôn khổ vòng loại, để được tham dự Thế Vận Hội năm 1964. Trận đấu diễn ra trên sân vận động Cộng Hòa, do công của Ngôn và Quang. Nhờ những thành tích trên, nên đội tuyển túc cầu VNCH đã có 4 cầu thủ là Phạm Văn Rạng, Nguyễn Ngọc Thanh, Đổ Thới Vinh, và Nguyễn văn Ngôn, được vào đội tuyển Châu Á, do Thiết túc cầu đại vường Hương Cảng là Lý Huệ Đường làm huấn luyện viên và Peter Velappan phụ tá.

Năm 1966, đội tuyển VNCH lại lập thêm kỳ tích khi đoạt cúp vàng Merdeka, tổ chức tại Mã Lai Á. Tham dự lúc đó gồm có Lâm Hồng Châu (thủ môn), Lại văn Ngôn, Phạm Văn Lắm, Văn Có, Phạm Huỳnh Tam Lang, Nguyễn Văn Chiêu, Nguyễn Vinh Quang, Nguyễn Văn Ngôn, Dương văn Thà, Đổ Thới Vinh, Nguyễn Văn Mộng, Trên sân cỏ, đội banh VN đã liên tiếp hạ Tân Gia Ba (5-0), Nhật (3-0), Mã Lai Á (5-2), Đài Loan (6-1) và thua Ấn Độ (0-1). Cuối cùng VN vào chung kết với Miến Điện. Trong trận này, đối phương tấn công VN tới tắp và ba lần banh vào khung thành của thủ môn Lâm Hồng Châu nhưng đều bị gạt ra ngoài, nhờ tài nghệ phi thường của cặp trung phong Văn Có – Tam Lang và thủ môn Châu. Đến phút 68, Tam Lang cướp được banh dẫn thẳng vào tuyến địch và sút vào cầu môn Miến, đem về chiếc cúp vàng vô địch cho quê hương.

Tại Đông Nam Á Vận Hội kỳ IV năm 1967, đội bóng tròn VNCH lại đoạt huy chương bạc, khi thắng Lào 5-0, Thái Lan 5-0 và thua Miến Điện 1-2 khi vào chung kết. Trong trận đó, hội tuyển VN có Lâm Hồng Châu (thủ môn), Hồ Thanh Chinh, Lại Văn Ngôn, Nguyễn Văn Mộng, Phạm Huỳnh Tam Lang, Nguyễn Vinh Quang, Dương Văn Thà, Nguyễn Thái Hưng, Đỗ Thới Vinh, Võ Bá Hùng, Lê Văn Đức, Nguyễn Văn Thuận, Hồ Thanh Cang, Quang Kim Phụng, Nguyễn Văn Chiêu, Cù Sinh, Nguyễn Văn Ngôn, Trương Văn Tư. Năm 1973, tại Đông Nam Á Vận Hội ở Tân Gia Ba, đội tuyển VN lại dành Huy chương bạc, sau khi vào chung kết lại thua Miến Điện, khi trận đấu chỉ còn 8 phút thì kết thúc với tỷ số 3-2.

Trong nỗi thăng trầm của túc cầu VNCH từ 1955-1975, chỉ có một điều đáng tiếc được báo chí thời đó ghi nhận,là sự xung đột giữa trung phong Ứng đội CSQG và tiền vệ Tống Mành của đội Tổng Tham mưu. khi tranh dành chức vô địch trên sân cỏ, Mành chẹn gãy chân Ứng. Tuy nhiên đó chỉ là chuyện rất thường trên sân cỏ. Điều quan trọng nhất là hầu như tất cả các cầu thủ của VNCH, hiện còn sống tại Sài Gòn, khi được báo chí thành Hồ phỏng vấn, đều tỏ ra xúc động và luyến tiếc thời vàng son của nền bóng tròn Miền Nam, giờ đây gần như tuyệt vọng, trước tệ nạn tham nhũng và cá độ của cái gọi là đội tuyển quốc gia, khi mang chân tới đá tại các sân cỏ xứ người, mà tỷ số thắng thua đã được định trước bằng tiền thưởng.

Dương Văn Thà, một cầu thủ lừng danh là ‘thần mã’, của đội tuyển Miền Nam từ 1967-1974, cho biết trước năm 1975 là thời kỳ cực thịnh của bóng tròn VN, qua nghệ thuật nhồi bóng cùng với tinh thần kỹ luật, tự giác và sự luyện tập. Còn Lê văn Tâm (cha Lê Huỳnh Đức, trung phong số 1 của VN ngày nay), nhắc lại trận đấu giữa VN và Nam Hàn, trong giải King’s cup ở Thái Lan năm 1970, VN thắng nước này 1-0, qua cú sút phạt của Võ Thành Sơn và Lê văn Tâm đội đầu.

Thế mà ngày nay, đội bóng của VN càng ngày càng sa sút, trong khi đó Nam Hàn, chẳng những lừng lẫy tại Á Châu mà còn được chen chân vào các kỳ Thế Vận Hội,điển hình là kỳ World Cup 2006 tại Đức sắp tới. Riêng Đổ Càu cho biết, cầu thủ VNCH khi dự các cuộc tranh giải ở các quốc gia bạn, đều được đồng bào địa phương, thương mến, trân trọng vì bản chất của cầu thủ VN hiền lành, đứng đắn, biết tôn trọng kỷ luật trên sân cỏ, cũng như đã giao đấu rất dũng mãnh, nhiệt tình, để dành vinh quang danh dự về cho màu cờ, sắc áo của dân tộc. Sau năm 1975, các cựu cầu thủ miền Nam như Phạm Huỳnh Tam Lang, Quảng Trọng Hùng, Cao Cường, Dương Văn Thà làm huấn luyện viên thể thao, Nguyễn Kim Hằng bán cà phê, Tư Lê lái taxi, Nguyễn văn Mộng, Đinh Công Hoàng thì ẩn dật.

Viết chuyện người khiến hồn thêm bồi hồi khi nghĩ tới quê hương và những ngày xa cũ, nhất là Phan Thiết quê tôi, vùng đất đam mê đá banh như là món ăn tinh thần không sao thiếu được. Trước khi Việt Cộng cưỡng chiếm được VNCH ngày 30-4-1975, Bình Thuận là một trong những tỉnh có phong trào thể thao rất mạnh, mà tiêu biểu là môn túc cầu. Từ năm 1962-1968, hàng năm Bình Thuận đều tham gia giải Liên quân khu, gồm 11 đội bóng của các tỉnh Quảng Ngãi, Pleiku, Kontum, Darlac, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Lâm Đồng, Tuyên Đức và hầu như chức vô địch trong những lần tổ chức ấy, khó có đội nào hơn được Bình Thuận.

Năm 1971, tại giải vô địch toàn miền Nam, với sự tham dự của 43 đội từ các tỉnh thị và 4 quân khu, đội bóng Bình Thuận, đã đoạt chức vô địch bóng tròn toàn quốc, sau khi hạ đội Mỹ Tho với tỷ số 2-1 tại sân vận động Cộng Hòa. Ngoài ra đội Bình Thuận còn đá giao hữu với các đội chuyên nghiệp lúc đó tại Sài Gòn như Quan Thuế, Không Quân, Hải Quân và Cảng. Các cầu thủ Tam Lang, Dương văn Thà, Nguyễn văn Ngôn, Võ Thành Sơn, Cù Sinh, Phạm văn Rạng măc dù chơi hay, nổi tiếng và chuyên nghiệp nhưng khi đụng với Phan Thiết, cũng rất e dè và thán phục.

Đó cũng là do công dìu dắt của ông bầu Tăng Khánh (nhà sách Vui Vui), và các ông Quản Đầu, Ba Hoàng (nước mắm Vĩnh Hương), Khánh Cao. Nhưng đặc biệt nhất phải kể tới công của ông Bầu Ba Toại, đã chiêu dụ được nhiều cầu thủ danh tiếng ở tỉnh ngoài về đá cho Phan Thiết như Đổ Thới Vinh, từng đá cho các đội Quân Cụ, Quan Thuế, Tổng Tham Mưu tại Sài Gòn. Với chiếc đầu hói, sống mũi dọc dừa, đôi mắt sâu sâu và nước da ngâm đen, đã tạo cho đồng đội nhiều cơ may dứt điểm khung thành địch. Vinh đang ở trong đội tuyển Miền Nam, thì được chọn vào đội tuyển Quốc Gia tham dự giải Đông Nam Á Vận Hội.

Cầu thủ Trần Ta, em ruột cầu thủ Trần Néo, sinh tại Phú Trinh, Phan Thiết, năm 18 tuổi là cầu thủ của đội trường trung học Phan Bội Châu, giúp đội đá bại trường trung học Võ Tánh, Nha Trang, đoạt chức vô địch bóng tròn cấp tỉnh miền Trung. Sau Trần Ta về đầu quân cho đội Thương Khẩu của Bầu Quyền. Rồi được tuyển chọn vào Đội túc cầu Thanh Thiếu Niên Miền Nam, tham dự nhiều nước Đông Nam Á như Phi, Mã và Nam Dương. Từ năm 1961 trở về sau, tài năng của cầu thủ Trần Ta người Phan Thiết đang lên vùn vụt, thì đột nhiên anh bị tử nạn năm 1966, trên đường từ Sài Gòn đi Đà Lạt. Người ta đã tìm thấy xác Ta và chiếc xe gắn máy hiệu Sprint dưới lũng sâu của đèo Blao, quốc lộ 20.

Tuy nhiên cũng có nguồn tin nói là Trần Ta bị Việt Cộng chận đường giết, rồi xô xuống đèo làm như là một tai nạn giao thông, câu chuyện xì xào một thời gian rất lâu trong giới mộ điệu thể thao tại Phan Thiết. Hai anh em Trần Mai và Trần Đáng cũng được Bầu Toại chiêu mộ từ Huế vào, đá cho đội banh Phan Thiết. Nhiều năm liền, cả hai rất được hâm mộ, vì đều là trụ cột làm bàn, sát bóng manh, lừa giỏi, đưa đội bóng Bình Thuận đoạt được nhiều giải tại miền Trung và toàn quốc. Sau năm 1957, hai anh vì lý do gia cảnh, nên trở về Huế và gia nhập đội tuyển miền Trung từ giai đoạn 1961-1963.

Tóm lại, ngoài các cầu thủ trên, thành phần đội túc cầu Bình Thuận-Phan Thiết gồm có: Thủ môn Đại, Du (thập niên 50,60). Hậu vệ Xây, Bụt (sau bị hư một mắt), Lâu (được mệnh danh là trụ đồng), Ngọ (búa). Hàng tiền vệ có Thơm, Néo (anh ruột Trần Ta), Phối, Nhiều, Minh. Tiền đạo Mỉn (chết trong tù cải tạo VC năm 1975), Phê, Tùng (năm 1970 được tuyển vào Đội Thanh Thiếu Niên Miền Nam, tham dự các giải Đông Nam Á), Quang. Hàng Trung phong có Hoan dù chỉ thuận chân mặt nhưng là một trong những kiện tướng làm bàn hàng đầu của Đội.

Phan Thiết còn có Huyền Vũ, là một ký giả thể thao nổi tiếng, qua những bài tường thuật cũng như bình luận, các trận cầu quốc tế tại sân cỏ, trên làn sóng phát thanh Sài Gòn, được phóng đi cùng khắp. Do trên nhiều người không có thì giờ vì bận rộn sinh kế, công vụ, chỉ cần mở máy thu thanh cũng đủ cảm thấy như mình đang tham dự trận đá một cách thích thú. Giọng tường thuật của ông rất truyền cảm, thu hút được nhiều người nghe cũng như ái mộ.

Ông cũng là ký giả của nhiều tờ báo, viết nhiều bài tường thuật rất có giá trị. Theo Đinh văn Ngọc, vì ông với bản tính ăn ngay nói thật của người Phan Thiết, thấy sao nói vậy, không bưng bợ hay phe cánh cá nhân, do trên bị va chạm nhiều người, nhất là giới thể thao và đồng nghiệp. Tên thật là Nguyễn Ngọc Nhung, sinh tại Phú Trinh Phan Thiết, chủ bút tạp chí thể thao hàng tuần và báo Nguồn Sống trước năm 1975. Ngoài ra cũng kể thêm một ký giả thể thao khác của Bình Thuận là Thanh Điều kiêm Trọng tài các trận túc cầu giao hữu trên sân cỏ Phan Thiết Huyền Vũ vừa qua đời tại Hoa Kỳ.

Trước năm 1975, những ông bầu túc cầu nổi tiếng của Phan Thiết như Tăng Khánh, Ba Hoàng, Khánh Cao, Ba Toại là những nhà Mạnh Thường Quấn, rất quan tâm tới đội tuyển của tỉnh nhà. Tiệm cà phê Phú Ngữ là nơi thường trực tập trung các cầu thủ cũng như giới hâm mộ, mỗi buổi sáng, để bàn chuyện thể thao. Trong những khi có trận đấu, trước khi đội ra sân, các cầu thủ tập trung tại Phú Ngữ, vừa uống cà phê, vừa lắng nghe Huấn Luyện Viên Nguyễn Văn Quới, người Hóc Môn, Gia Định, đã từng đá cho các đội AJS, Cảnh Sát Quốc Gia và Đội tuyển Miền Nam. Ông Quới được Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, chọn về làm huấn luyện viên trưởng cho đội tuyển bóng tròn Phan Thiết, nhờ vậy mới đạt được nhiều thành quả tốt đẹp.

Vậy mà cũng bốn chục năm rồi đó, nhưng không làm sao quên được, những tháng sáu mùa hè, ngồi trong lớp học hay đi dọc theo con đường Nguyễn Hoàng, bất chợt nhìn thấy hoa phượng chúm chím nở hoa, là lòng lại bồi hồi xúc động và vui tới rớm lệ khi giờ cuối cùng đã hết, học trò lớn nhỏ, ai cũng nhắp nhỏm chờ lên tàu, để trở về quê củ, có thầy me đợi em trông, trên đường làng huyết lệ nở thành bông và vườn rộng nhiều trái cây ngon ngọt, như Xuân Tâm đã viết, mà bọn học trò nhỏ ngày xưa ai cũng thuộc.

‘Kiểm soát kỹ có khi còn thiếu sót
Rương chật rồi khó nhốt cả niềm riêng’

Nhưng làm sao quên được những niềm vui ấu thơ, những ngày theo bạn bè đá banh hay leo tường vào sân vận động, để mà xem chui những trận giao đấu banh, giữa các đội học sinh Trung Học Phan Bội Châu với đội tuyển Phan Thiết và các đội banh danh tiếng tại Sài Gòn.

Nhật Trường Trần Thiện Thanh trước khi trở thành ca nhạc sĩ nổi tiếng của VN, từng là thủ môn của đội bóng tròn Trung Học Phan Bội Châu-Phan Thiết.

Mường Giang


Saturday, July 10, 2010

Paul The Octopus Has Spoken: Viva España



http://www.worldcupblog.org/world-cup-2010/paul-the-octopus-has-spoken-viva-espana.html
    Viva Espana, says Paul the 'psychic' octopus

(AFP)
Source: http://www.google.com/hostednews/afp/article/ALeqM5i6J6qgAWIIgYRitTdafEI0cE4f9A
Paul correctly predicted all six Germany games in the World Cup
OBERHAUSEN, Germany — Let the fiesta begin. Spain will win the football World Cup for the first time in their history on Sunday, according to Paul, the "psychic" octopus with a perfect prediction record.

The eight-legged oracle, who has become a World Cup sensation by correctly predicting all six Germany games, very quickly plumped for Spain on Friday carried live on national German television.

Earlier, the two-year-old mollusc medium also said that Germany, his country of residence, would defeat Uruguay in the third-place play-off game on Saturday.

In the now familiar routine, two boxes were lowered into his tank, each containing a mussel and the flags of the two opposing teams.

The tentacled tipster went straight to the Spanish box, wrenched open the lid and gobbled the tasty morsel.

But the art of football predicting has become a dangerous job for the English-born clairvoyant cephalopod with some bitter German fans threatening to turn him into sushi after he predicted a semi-final defeat for the German team.

Paul's home, an aquarium in western Germany, has received death-threat emails saying "we want Paul for the pan," said entertainment supervisor Daniel Fey.

"Since yesterday our colleagues have kept a very close eye on Paul," Fey added.

No less an authority than Spanish Prime Minister Jose Luiz Rodriguez Zapatero has hinted at octopus bodyguards.

"I am concerned for the octopus ... I am thinking of sending him a protective team," joked Zapatero on Radio Cadena Ser.

Spanish Industry Minister Miguel Sebastian has called for the creature to be given an "immediate" free transfer to Spain to "ensure his protection."

Stung by Paul's "treachery" at picking Spain over Germany in the semi-final, some sections of the 350,000-strong crowd watching the game on giant screens in Berlin sang anti-octopus songs.

The honour of Paul's mother was called into question, according to witnesses.

Friday's prediction is expected to be the last for Paul, who in octopus terms is a pensioner, at the grand old age of two-and-a-half. Octopuses generally live three years at the latest.



Tuesday, July 6, 2010

Cờ biểu hiệu Sài Gòn Nhỏ (Little Saigon) trên đường El Cajon, San Diego




Thông Báo

v/v Cờ biểu hiệu Sài Gòn Nhỏ (Little Saigon) trên đường El Cajon, San Diego


Kính thưa quý đồng hương,

Trong những tuần lễ gần đây, có rất nhiều đồng hương đã tiếp xúc, điện thoại hỏi ý kiến Hiệp Hội Người Việt San Diego về những lá cờ vừa được treo trên đại lộ El Cajon, San Diego với danh nghĩa là biểu tượng cho Sài Gòn Nhỏ (Little Saigon), một khu phố thương mại của người Việt Nam. Chúng tôi xin được trình bày cùng quý đồng hương quan điểm của Hiệp Hội Người Việt San Diego như sau:

1. Lá cờ Việt Nam Cộng Hòa, màu vàng ba sọc đỏ, đã được ghi rõ trong Hiến Pháp của Việt Nam Cộng Hòa, là biểu tượng thiêng liêng nhất của người Việt tự do tỵ nạn cộng sản trên toàn thế giới. Dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ, hàng triệu dân quân cán chính đã phải bỏ mình trong cuộc chiến Quốc Cộng. Vì thế, Hiệp Hội Người Việt San Diego tuyệt đối không chấp nhận bất cứ một thay đổi nào về hình thức của lá cờ này vì bất cứ lý do gì. Ngoài ra, Hiệp Hội Người Việt San Diego cũng không chấp nhận các hình thức biểu hiện, trưng bày lá cờ Việt Nam Cộng Hòa với tính cách cẩu thả, bôi nhọ, hoặc không đúng tiêu chuẩn trang trọng dành cho một lá cờ biểu tượng cho một quốc gia.

2. Sài Gòn là thủ đô của nước Việt Nam Cộng Hòa cho đến ngày Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam và cưỡng xóa cái danh xưng này. Trải qua hơn 35 năm qua, hai chữ Sài Gòn vẫn là biểu tượng cho sự quyết tâm của tập thể người Việt tỵ nạn Việt Cộng hải ngoại, tuyệt đối không chấp nhận chế độ phản dân tộc, vô thần, bán nước Việt Cộng hiện đang cai trị nước Việt Nam thân yêu của chúng ta. Vì thế, Hiệp Hội Người Việt San Diego nhiệt thành ủng hộ các nỗ lực đặt tên cho các khu phố có đông đảo những sinh hoạt và cơ sở thương mại của người Việt tỵ nạn trên toàn thế giới là khu Sài Gòn Nhỏ. Sự hiện diện của Sài Gòn Nhỏ tại một thành phố đánh dấu sự thành công và tinh thần quốc gia của tập thể người Việt tự do tại nơi đó.

3. Hiệp hội Người Việt San Diego nhận thấy những lá cờ biểu hiệu Sài Gòn Nhỏ hiện đang treo ở một khu phố trên đường El Cajon không những không thỏa mãn được những nguyên tắc căn bản trình bày ở trên mà còn gây ra nhiều phẫn nộ trong tập thể người Việt tỵ nạn cộng sản tại San Diego. Hiệp Hội xin đưa vài bằng chứng cụ thể như sau. Lá cờ Việt Nam Cộng Hòa đã bị sửa đổi với sọc đỏ ở giữa bị ngắt quãng để dành chỗ cho những chữ có tính cách quảng cáo. Lá cờ Việt Nam Cộng Hòa đã được đặt dưới cùng trong tất cả các cờ biểu hiệu Sài Gòn Nhỏ; một cờ biểu hiệu Sài Gòn Nhỏ đã khiến cho người xem có ấn tượng lá cờ Việt Nam Cộng Hòa đang bị hai người đạp lên. Thành phố Sài Gòn có nhiều hình ảnh đặc thù như Chợ Bến Thành, công trường Tháp Rùa, Nhà Thờ Đức Bà, Viện Bảo tàng trong Thảo Cầm Viên v.v… mà những ai đã từng ghé đến Sài Gòn đều không thể quên được. Vậy mà lá cờ Sài Gòn Nhỏ lại được biểu hiện tượng trưng bằng hình vẽ của Chùa Một Cột, tọa lạc tại Hà Nội, hiện là thủ đô của Việt Nam dưới chế độ Việt Cộng.

4. Vì những lý do nêu trên, Hiệp Hội Người Việt San Diego yêu cầu các hội đoàn và cá nhân đã góp phần thực hiện và trưng bày những lá cờ biểu hiệu Sài Gòn Nhỏ ngưng ngay việc trưng bày những lá cờ không chính xác và có tính cách xuyên tạc này. Hiệp Hội Người Việt San Diego đồng thời đã gởi thơ chính thức tới các vị dân cử của thành phố San Diego cũng như tới cơ quan có thẩm quyền cho phép trưng bày các cờ, biểu ngữ trên khu phố El Cajon để giải thích quan điểm của Hiệp Hội và yêu cầu rút lại giấy phép trưng bày.

5. Hiệp Hội tin rằng trong tương lai gần, tập thể người Việt tự do tại San Diego sẽ tạo được một lá cờ biểu hiệu Sài Gòn Nhỏ khác, có thể nói lên được sự thành công và tình yêu thương tự do, dân tộc của tập thể người Việt tỵ nạn Việt cộng tại San Diego.

Trân trọng kính chào quý đồng hương,










Cộng Đồng sẽ không biểu tình chống các đoàn văn công Việt cộng

Có thể Cộng Đồng sẽ không biểu tình chống các đoàn văn công VC!

Cái gì?!

Đúng vậy (you've heard it right)! Có thể Cộng Đồng sẽ không tổ chức biểu tình chống các đoàn văn công VC!

Tại sao?

Tại vì không muốn cho bọn Việt gian và Việt cộng lợi dụng cái thể chế Tự Do, Dân Chủ để kiện cáo Cộng Đồng (CĐ) làm hao tốn thì giờ và tiền bạc của Người Việt Hải Ngoại.
    Như vậy thì Người Việt Tỵ Nạn đâu còn xứng đáng với danh nghĩa Tỵ Nạn Cộng Sản!
    Như vậy thì "mặt trận" Nghị Quyết 36, chiến dịch Hoa Hồng Đỏ bất chiến tự nhiên thành!
    Như vậy thì một sớm một chiều chế độ CS sẽ thâu tóm, nắm gọn, nhuộm đỏ cộng đồng Người Việt Hải Ngoại như đã từng cưởng chiếm Miền Nam VN vào năm 1975!
    Như vậy thì Người Việt Tự Do lại một lần nữa đưa tay đầu hàng CS!
Thật ra thì CĐ chúng ta có thể chẳng cần phải biểu tình chống đối các đoàn văn công VC làm gì nếu Người Việt Tỵ Nạn KHÔNG "mau quên", nếu Người Việt Tỵ Nạn ý thức. Có nghĩa là CĐ không cần phải bỏ công tốn sức tổ chức những cuộc biểu tình chống văn công VC nếu Người Việt Tỵ Nạn tỏ ra hiểu biết để có những thái độ, hành động thích nghi và đúng đắn đối với sự xâm nhập của VC núp dưới các bình phong văn hoá, nghệ thuật, dưới các lớp áo "duyên dáng" của các đoàn văn công gởi ra hải ngoại.

Do đó CĐ cần phải tổ chức những cuộc biểu tình không những là để chống đối những đoàn văn công VC, để nêu cao chính nghĩa Quốc Gia mà còn là để cảnh báo và đánh thức lương tâm của những Người Việt Tỵ Nạn "mau quên", ham vui và quá hời hợt. Ngoài ra, sự hiện diện, "giao lưu", trình diễn của các văn công "duyên dáng" và không duyên dáng của VC là những dịp tốt - qua các cuộc biểu tình - để cho Người Việt Tỵ Nạn có lòng mạnh mẽ lên tiếng - nói lên cái thực trạng phi dân chủ, độc tài, đảng trị tại quê nhà, nói lên những ước vọng sâu xa đối với dân tộc và đất nước. Là dịp tốt để lột trần bộ mặt thật của đảng mafia CSVN, để phơi bày những sự trân tráo, gian manh, bạo tàn của chế độ VC trước mặt thế giới. Và nhất là để giúp cho các du học sinh và những Người Việt mới hội nhập vào cộng đồng NVHN sau này thấy rõ sự thật, phân biệt trắng đen, tìm hiểu và so sánh giữa sự Tự Do, Dân Chủ của những đất nước không CS với cái "tự do, dân chủ" của "thiên đường CS".

Nhưng thời gian gần đây lợi dụng sự tôn trọng Nhân Quyền ở các nước Tự Do, Dân Chủ bọn VC đã dùng tiền rừng bạc biển cùng với sự tiếp tay của bọn Việt gian để gây khó khăn cho CĐ qua các vụ thưa kiện. Vậy bọn Việt gian này là ai và bọn chúng có được lợi lộc gì khi phải muối mặt, cúi đầu làm tay sai cho VC?

Những tên Việt gian tiếp tay cho VC là những thành phần có những đặc tính rất dể nhận biết sau đây:
    1. Bất mãn - Là những thành phần bất hảo trong xã hội, tội phạm, hút sách, ăn chơi sa đoạ, thất bại, ... và lại bất chấp phải trái, đúng sai, mang nặng lòng đố kỵ, tị hiềm, nhỏ nhen, cố chấp, đầy sân hận sẵn sàng làm bất cứ điều gì nếu họ được thoả mãn;

    2. Ham danh - Là những người vô tài bất tướng nhưng lại muốn được mọi người biết đến mình, thích được khen, thích được tung hô, thích được trọng vọng, thích gần gũi với những người có tiếng tăm để hưởng xái do đó họ cũng là thành phần thích nịnh bợ, bưng bô cho VC;

    3. Hám lợi - Là những người chỉ biết có tiền bạc, lợi lộc cá nhân, hưởng thụ ăn chơi. Là những người không cần biết đến quốc gia, dân tộc, sẵn sàng bán rẻ lương tri, danh dự để đổi lấy đồng tiền, lợi lộc riêng tư và các thú vui vật chất;

    4. Ngây thơ - Những người "ngây thơ" không nhất thiết là những người còn non trẻ mà là những người không có lập trường vững chắc, lừng khừng giữa lằn ranh Quốc Cộng, là những người chưa biết rõ bản chất của VC, nhẹ dạ, cả tin hay là những người "mau quên".
[Xin được nói rõ là việc "phân loại" và nêu lên các đặc tính trên đây không có nghĩa là tất cả những ai "bất mãn", "ham danh", "hám lợi" và "ngây thơ" đều là Việt gian. Không phải tất cả những ai vì danh, vì lợi hay vì bất mãn, ngây thơ cũng đều làm tay sai cho VC. Vì mọi người trong chúng ta ai ai cũng có đôi lúc gặp khó khăn, sa ngã hay có những ước muốn, những hoài bão và tham vọng về danh thơm, tiếng tốt, về một cuộc sống vật chất đầy đủ nhưng là những người biết tự trọng, có lương tâm. Cũng là những người bất mãn, gặp những nghịch cảnh, khó khăn trong cuộc sống nhưng họ luôn cố gắng vượt qua, không dễ gì để bị lợi dụng, mua chuộc. Cũng là những người muốn có tiếng tăm nhưng chính họ tự tạo lấy uy tín và được mọi người biết đến qua những sự thành công, những tài năng và nỗ lực đóng góp cho xã hội. Cũng là những người muốn được giàu có nhưng họ là những người tự tay tao dựng cho mình một cuộc sống đầy đủ, sung túc bằng mồ hôi và nước mắt. Cũng là những người "ngây thơ" khi bị vấp ngã và biết mình đã bị lừa, lầm đường lạc lối thì tự thức tỉnh và quay đầu trở lại. Tóm lại danh dự, uy tín và nhân phẩm đã giúp cho họ giữ vững được bản tính lương thiện (nhân chi sơ tính bổn thiện) và làm tăng thêm giá trị con người. Ngược lại, bọn Việt gian là những thành phần có những đặc tính nêu trên, nhưng lại là những người bất mãn, ham danh, hám lợi vô liêm sĩ.]

Vì biết rõ đặc tính và sở thích của những thành phần này cho nên VC chỉ cần dùng đến 3 món "mồi ngon": tiền bạc, hư danh (chức vụ, địa vị) và gái đẹp là có thể nắm đầu, sai bảo bọn Việt gian làm bất cứ điều gì chúng muốn. Riêng đối với những người "ngây thơ" thì bọn VC phải dùng thêm loại vũ khí "3 tấc lưỡi" - đưa ra những lý lẽ đánh động lương tâm, những lời nói ngon ngọt để dụ dỗ, mua chuộc tình cảm làm xiêu lòng người.

Để được ban thưởng những lợi lộc đó (từ bọn VC) những tên Việt Gian đã trơ trẽn đứng ra đâm đơn thưa kiện CĐ tại một số quốc gia Dân Chủ Tự Do. Rút tỉa kinh nghiệm qua những bài học, những vụ kiện vừa qua (BCH) Cộng Đồng có thể sẽ không đứng ra tổ chức biểu tình chống văn công VC. NHƯNG cộng đồng Người Việt Hải Ngoại sẽ không bao giờ chịu ngồi yên!

Đúng vậy!

Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản sẽ tự động tổ chức biểu tình chống các đoàn văn công VC nếu CĐ đắn đo, do dự. Khi họ tổ chức và kêu gọi biểu tình thì tất cả các hội đoàn, đoàn thể và đồng hương sẽ sẵn sàng ủng hộ, tham gia. Không những vậy, nếu cần, họ còn sẽ được chỉ dẫn, cố vấn, hỗ trợ và giúp đỡ tối đa về mọi phương diện như: thông dịch, dịch thuật, ghi tên, xin phép chính quyền địa phương, ra thông báo, in bích chương, truyền dơn, khẩu hiệu, cung cấp cờ vàng, biểu ngữ, âm thanh, phương tiện di chuyển, đưa đón, nhân viên an ninh, v.v...

Nhưng những người đó là ai? Họ chỉ là những người dân bình thường, là những Người Việt Tỵ Nạn như mọi người, nhưng là những người nặng lòng với quê hương, đất nước. Nhưng đặc biệt họ là những người "chuyên chính vô sản", là những người hoàn toàn không có tài sản (nhà cửa, tiền bạc, xe cộ ...).

Vậy xin mời mấy tên Việt gian và bọn VC cứ tha hồ đâm đơn thưa kiện. Và dĩ nhiên là kiện những người đứng ra tổ chức biểu tình chứ chẳng lẽ lại kiện hết tất cả những người tham gia biểu tình (nhưng nếu có muốn như vậy thì cũng chẳng làm sao biết được hết tên tuổi, chi tiết của hàng trăm, hàng ngàn người đi biểu tình). Nhưng ở các nước Tự Do, Dân Chủ quyền tự do ngôn luận luôn luôn được tôn trọng tối đa cho nên trên thực tế thì chưa có một ai bị làm khó dễ vì đi biểu tình ngoại trừ có những hành vi bạo động hay vi phạm những luật lệ quy định.

Vậy xin mời mấy tên Việt gian và bọn VC cứ vung tiền núi ra mướn luật sư, trạng sư, hí hửng kéo nhau đi kiện và chắc chắn là sẽ thắng kiện. Nhưng thắng kiện để được ăn cái giải gì ở những người "chuyên chính vô sản", những người mà chỉ có trên răng dưới dế, không có gì để mất, không có tiền mướn luật sư nhưng sẵn sàng vác chiếu ra toà và chấp nhận thua kiện! Sẵn sàng chấp nhận thua ngay từ đầu còn hơn là hung hăng đâm đơn thưa kiện nhưng đến lúc thua kiện thì lại cúp đuôi chạy làng thì còn gì là liêm sĩ!

Điều đáng tự hào và hãnh diện của người Việt Quốc Gia là lúc tung chiêu đánh trả chúng ta vẫn đường đường chính chính, công khai nói cho địch thủ biết trước. Đây là lúc Người Việt Tỵ Nạn tung "vô chiêu" (không tiền) để đánh "hữu chiêu" (có tiền), lấy "vô sản" đánh lại cộng sản (gậy ông đập lưng ông), dùng Tự Do, Dân Chủ chân chính để đập bọn lợi dụng Dân Chủ, Tự Do.

Lấy độc trị độc!

Source: http://www.lyhuong.net/viet/index.php?option=com_content&view=article&id=2751:2751&catid=37:bandoc&Itemid=56


Monday, July 5, 2010

Tuổi trẻ Việt hải ngoại xây dựng mạng điện toán OneVietnam - Minh Anh


    Tuổi trẻ Việt hải ngoại xây dựng mạng điện toán OneVietnam (Một Việt Nam) kết nối người Việt toàn cầu


Minh Anh
Source: http://rfvn.com/?p=17000

Gần đây một nhóm các chuyên gia người Mỹ gốc Việt ở California đã thành lập một mạng lưới điện tử mang tên OneVietnam để kết nối người Việt trên khắp thế giới. OneVietnam mong muốn tạo cơ hội cho mọi người tìm hiểu và tham gia các hoạt động cộng đồng và kết nối họ với các dự án từ thiện mà họ quan tâm thông qua một hệ thống tin học hữu hiệu.

Rất tình cờ, trong cuộc trò chuyện vào một lần đi ăn món Phở Việt Nam, các bạn trẻ trong nhóm cựu sinh viên người Mỹ gốc Việt, những người đã tốt nghiệp từ những trường đại học danh tiếng ở Hoa Kỳ như Havard và Berkeley, cùng có chung một suy nghĩ rằng kể từ thập niên 1960, hàng triệu người Việt đã di cư và sống ở hơn 30 nước trên khắp thế giới nhưng chưa hề có một mạng lưới nào kết nối họ với nhau. Hơn nữa, khoảng cách giữa các thế hệ đang trở nên ngày càng lớn và những rào cản về mặt địa lý đã khiến cho bản sắc văn hóa ngày càng phai nhạt. Theo họ, giới trẻ lớn lên tại nước ngoài vì thế trở nên lạc lõng và thiếu dần sự quan tâm đến cộng đồng và quê hương. Từ suy nghĩ chung đó mà ý tưởng thành lập OneVietnam ra đời.

Cô Uyên Nguyễn là người đồng sáng lập OneVietnam, cô từng tốt nghiệp hạng xuất sắc ngành kinh tế tại đại học UC Berkeley và hiện tại đang là một nhà tư vấn về kinh tế. Uyên cho biết thêm về ý tưởng thành lập mạng lưới này:

“Mấy bạn nói với nhau là mình đã ra trường lâu rồi và bây giờ mình muốn làm cái gì đó để giúp Việt Nam, nhưng mà nhìn lại thì thấy là không có một cái hướng nào dễ dàng để cho các bạn trẻ biết về những hội từ thiện khác nhau để tham gia giúp Việt Nam và giúp cho cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Nhóm bạn này đã quyết định làm ra một mạng lưới để kết nối cộng đồng người Việt ở thế giới và giúp đỡ những thế hệ trẻ sau này để liên hệ với cộng đồng và Việt Nam dễ dàng hơn.”

Cô Isabella Lại là một trong những thành viên ban đầu của mạng lưới. Isabella đã tốt nghiệp đại học Havard và hiện đang là phụ tá nghiên cứu tại viện khoa học Jules Stain Eye Institute của trường đại học UCLA. Isabella chia sẻ:

“Isabella thấy là cộng đồng Việt Nam cần một cách thức mới để kết nối lại với nhau, tại vì bên Mỹ tất cả mấy cộng đồng Việt Nam rất xa xôi với nhau, một nhóm thì ở Nam California, một nhóm ở Bắc California, ở Boston, ở Washington, DC, hay ở Houston cũng có các nhóm khác nhau, nhưng không có nhiều sự trao đổi liên lạc với nhau. Vì vậy, Isabella thấy là OneVietnam là một ý tưởng rất hay, Isabella rất vui được tham gia với một nhóm bạn trẻ người Việt rất muốn giúp đỡ cộng đồng Việt Nam.”

Theo cô Uyên Nguyễn mục đích của mạng lưới là để kết nối tất cả mọi người Việt không phân biệt tuổi tác, quan điểm hay vị trí địa lý.

“Chúng tôi không phân biệt ai có thể tham gia, chúng tôi thiết kế mạng lưới này với mục đích kết nối mọi người trên khắp thế giới, cho dù bạn là người Bắc hay người Nam, bạn đến từ Đức, Pháp, Mỹ, Australia hay bất cứ nơi nào, điều chúng tôi quan tâm là việc bảo tồn nền văn hóa của Việt Nam. Là thế hệ thứ hai ở Mỹ, chúng tôi thấy giới trẻ ngày càng thiếu quan tâm đến cộng đồng, đến văn hóa và đến đất nước Việt Nam, vì vậy chúng tôi muốn tạo một cổng thông tin, nơi mọi người có thể học hỏi lẫn nhau, mở các cuộc đối thoại với nhau, và điều quan trọng nhất là giúp đỡ các tổ chức phi chính phủ vốn phụ thuộc rất nhiều vào sự hỗ trợ của cộng đồng chúng ta.”

Các bạn trẻ trong mạng lưới OneVietnam cũng mong muốn khẳng định lại ý nghĩa của danh từ “người Việt Nam”. Họ muốn chứng minh cho mình và cho thế giới biết rằng họ không còn là nạn nhân, hay là con cháu của nạn nhân chiến tranh, mà họ là những người có thể vượt qua tất cả. OneVietnam xác định không hỗ trợ cho bất cứ tổ chức chính trị nào và họ cũng yêu cầu các thành viên của mình cùng làm như vậy.

Isabella nói: “Gần đây OneVietnam đã rất thành công trong việc kết nối những người có mối quan tâm về Việt Nam và văn hóa Việt Nam và đó là quan điểm chính của OneVietnam. Chúng tôi không muốn đề cập đến vấn đề chính trị hay sự cay đắng của quá khứ. Chúng tôi muốn xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn, một tương lai mà tất cả mọi người cùng tự hào rằng mình là người Việt Nam và tự hào về ý nghĩa của danh từ “người Việt Nam”.

Để thực hiện được ý tưởng kết nối này, OneVietnam tận dụng công nghệ Web 2.0 nhằm tạo điều kiện tối đa cho mọi người cùng tương trợ lẫn nhau trong tình đồng bào. Thay vì thành lập một mạng lưới xã hội giống như facebook, những người sáng lập OneVietnam tập trung vào việc gây dựng những mối liên hệ giữa các cộng đồng người Việt với nhau và là nơi để các thế hệ người Việt sau này có thể đóng góp tiếng nói của họ. Uyên Nguyễn nói tiếp:

“OneVietnam tập trung vào lĩnh vực nhân đạo và tổ chức đỡ đầu của chúng tôi là Tổ chức Đông Tây hội ngộ, một trong những tổ chức từ thiện lớn nhất đang hoạt động tại Việt Nam. Khi hình thành khái niệm về OneVietnam, chúng tôi nhận ra rằng các tổ chức phi lợi nhuận vẫn còn tụt hậu trong việc sử dụng công nghệ cũng như khả năng tiếp cận cộng đồng để tìm kiếm sự hỗ trợ. Vì lẽ đó, OneVietnam muốn trở thành một công cụ để các tổ chức phi lợi nhuận đang phục vụ cộng đồng người Việt ở khắp nơi trên thế giới có thể tiếp cận với cộng đồng, tiếp cận với các nguồn tài chính và hàng ngày họ có thể truyền tải những thông điệp quan trọng về những hoạt động có ý nghĩa của họ tới cộng đồng.”

Mặc dù chưa chính thức ra mắt, tuy nhiên tới nay trên trang mạng xã hội facebook của mạng lưới OneVietnam đã có 6.000 người kết nối.

Uyên và Isabella hy vọng sẽ tiếp tục nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của cộng đồng Việt Nam ở khắp nơi trên thế giới đối với hoạt động của OneVietnam. Uyên nói:

“Quý vị có thể vào trang onevietnam.org để đăng ký. Nhưng tới ngày 19 tháng 7, OneVietnam mới bắt đầu mở cho khắp cả thế giới, ai lên mạng cũng có thể tạo một tài khoản và bắt đầu nói chuyện với cộng đồng mình ở trên cả thế giới. Còn bây giờ thì OneVietnam vẫn còn đang xây dựng, thành thử nếu quí vị lên OneVietnam có thể tìm hiểu thêm chi tiết về mạng lưới và các thành viên của nhóm.”

Được biết không chỉ dừng lại ở việc giúp đỡ cộng đồng người Việt mà một trong những mục đích lâu dài của OneVietnam là chia sẻ nền tảng kỹ thuật với các cộng đồng sắc tộc khác có cùng hoàn cảnh và cùng mong muốn được kết nối thông qua một hệ thống mạng lưới điện toán toàn cầu. Các thành viên OneVietnam tin rằng dù ở đâu các bạn cũng có thể kết nối với quê hương và tham gia các hoạt động cộng đồng và các hoạt động nhân đạo vì lợi ích chung của xã hội.

Minh Anh
......

Ý kiến:

_ Ý kiến hay nhưng ... đừng để việt gian cộng sản xâm nhập lợi dụng. teolangthang
......

From: nguyennbich37726@aol.com
Date: 2010/7/5

Rất tiếc là tôi chưa thể chia xẻ được với các em làm ra mạng "OneVietnam" này!

Lý-do:

1/ Các em muốn phi chính-trị song làm gì có cuộc đời phi chính-trị, nhất là khi trước mặt mình lại là người CS. Văn-hóa mà không "cần" biết đến lịch-sử thì là một thứ văn-hóa ngu muội, một thứ văn-hóa chết. Các em sẽ tự chôn các em thôi!

2/ Các em cũng nói ngay đấy là các em muốn theo gương tổ-chức East Meets West, mà các em nói khống (nghĩa là bịa đặt) lên là "Tổ chức Đông Tây hội ngộ, một trong những tổ chức từ thiện lớn nhất đang hoạt động tại Việt Nam."

3/ Các em có biết đâu (hay là các em biết mà giả đò không biết) tổ-chức East Meets West là của bà Lệ Lý Hayslip, một tác-giả phản-chiến đã từng viết (ngay nơi trang đầu cuốn sách nổi tiếng của bà When Heaven and Earth Change Places) Việt-nam chỉ có một "bà Trưng." Đó là thứ văn-hóa không có lịch-sử.

4/ Đừng nghĩ là các em học các trường lớn (Harvard, Berkeley...) là hay, là giỏi. Học trường lớn mà mù lòa về lịch-sử thì còn thua xa các em học trường nhỏ mà thuộc lịch-sử của VN, lịch-sử của cha ông mình, của bố mẹ mình, lịch-sử của dân-tộc mình và nhất là những đau thương do CS đã và ĐANG gây ra (ngay giờ) cho các thành-phần dân-chủ ở trong nước (tù tội), với các dân oan, với các tôn-giáo, v.v. chưa kể là cũng đang bán nước, bán biển, bán tài-nguyên (bauxite, rừng, cá ...) cho ngoại-bang, cho Trung-Cộng.

Hãy tỉnh dậy đi các em! Các em chưa xứng đáng là người Việt trừ phi các em muốn thành chuối (vàng ngoài, trắng trong), nghĩa là những con người mất gốc!

Rất tiếc.

Nguyễn Ngọc BÍCH
7/5/2010

Anton Vũ Huy Chương chưa đọc hết hay cố tình quên?



Sunday, July 4, 2010

Thư Ngỏ Kính Gửi Hồng Y Phạm minh Mẫn - BX Trần Công Tử



    Thư Ngỏ Kính Gửi
    Hồng Y Phạm minh Mẫn

    Thưa Hồng Y, luật nào là luật Chúa
    Linh mục độc thân hay Linh mục có vợ con?
    Luật đặt ra, mục tử có làm tròn
    Để xứng đáng danh hiệu là mục tử?

    Bốn mươi năm nay, Phan khắc Từ quá bựa
    Y công khai lấy vợ đẻ con
    Y bôi nhơ bôi nhuốc, gậm nhấm Giáo hội còm
    Xấu danh Đạo, làm gương mù gương xấu!

    Vợ y, mụ Liên Béo, mạnh miệng loài trư cẩu
    Thị thách Giáo hội treo chén thằng chồng
    Một con đàn bà mất nết, đĩ nhiều phương
    Đã tóm gọn linh hồn tên cha xứ!

    Giáo dân nhục, thưa Hồng Y, lỗi này quá bự!
    Sao Hồng Y cứ ngơ mắt miệng im
    Chúa dạy Hồng Y phải chịu nhục, im lìm
    Để chúng muốn làm dơi, làm chuột?

    Quỷ hỏa ngục khắp nơi giơ nanh vuốt
    Chúng sẵn sàng tiêu diệt Giáo hội ta
    Hồng Y nghĩ sao mà cứ lo ra
    Không giải quyết vụ tên Từ khốn nạn?

    Thằng Việt gian này từ xưa kia bầu bạn
    Với những tên cán bộ Đỏ nằm vùng
    Ra cái điều đi hốt rác, xung phong
    Nhưng chính y tên tay sai Cộng sản!

    Huỳnh công Minh, Trương bá Cần, Thiện Cẩm…
    Cùng nhiều tên đội lốt bộ áo dòng
    Mặt ngoài thì chúng dâng lễ nghiêm trang
    Nhưng bên trong chúng làm tan Giáo hội!

    Hồng Y nghĩ sao, Chúa sẽ xét phúc tội!
    Vào một ngày phải tính sổ trần gian
    Kẻ lành thì, Chúa thưởng phúc thiên đàng
    Kẻ độc dữ chịu hình phạt muôn kiếp!

    Giáo dân mong Hồng Y không hối tiếc
    Đã làm ngơ vụ cha xứ Khắc Từ!
    Treo chén y và cả bọn y như
    Tổng Wielgus, ở Balan, cộng sản! (1)

    Lành mạnh hóa con người,
    phải diệt trừ giun, sán
    Chúng chính là giun sán Giáo hội ta
    Dù triệu người đi gặt lúa phương xa (2)

    Dăm con sán làm tiêu tan tất cả!
    Bọn Việt gian đang vô cùng hể hả
    Còn giáo dân nhục mặt với đạo người (3)
    Cha xứ gì chẳng khác loại đười ươi
    Con khốn nạn cất cao lời thách thức!

    Hồng Y làm ngơ thì Hồng Y cũng nhục!
    Wielgus kia cũng phải chịu chế tài
    Linh mục làm sai thì phải chịu sửa sai
    Có vợ con thì ra ngoài cho sớm!

    Để cho thấy Giáo hội là tinh tấn
    Để làm gương cho người trẻ thời nay
    Muốn vợ con thì đừng có giang tay
    Thề trước Chúa là nên một mục tử!

    Cha xứ vợ con, là một sự dữ
    Nay chúng công khai, thách thức toàn cầu
    Xin Hồng Y hãy nhớ lấy câu:
    “Lời lãi cả, mất linh hồn, vô phúc!”


    Giáo dân Vườn Xoài đã nhiều phen nhục
    Nhưng phải im vì chẳng có quyền hành
    Giở giói ra thì Liên Béo, con ranh
    Đi báo cáo công an, còng số 8!

    Xin Hồng Y chỉnh sửa những sai phạm!

    Giáo dân hải ngoại: BX Trần Công Tử

* GM Wielgus, Balan bị mất chức ngay trước buổi lễ phong TGM vì làm ăng-ten cho CS Balan giết hại nhiều giáo sĩ và giáo dân Balan. Vụ truất chức kịp thời do ĐGH Benoit XVI.

(2) cánh đồng truyền giáo (3) người ngoài đạo CG.

Cước chú: Đề nghị giáo dân hải ngoại đề thư sang Vatican về việc này vì đã 40 năm rồi. Ông Từ nay đã 75 tuổi, còn bà vợ, Liên Béo, nay cũng 70 rồi, có cháu nội ngoại rồi!



Khi Ông Tân Giám Mục Vinh Trả Bài Thuộc Lòng Bên Giòng Thời Cuộc - Ts Hồng Lĩnh

Ts Hồng Lĩnh

Lời Mở Đầu

Các tôn giáo, tuy khác nhau tại lãnh vực tín điều, luôn có những sứ vụ căn bản. Mục tiêu của các sứ vụ ấy tập trung vào cách đối xử giữa con người đối với Thần Quyền khi sinh thời và con người đối với con người tại trần thế. Hầu có sự bằng an trong tâm hồn cho con người và có trật tự giữa con người với nhau.

Nhưng trong khi thi hành các sứ vụ ấy, con người luôn gặp phải một số hoàn cảnh đặc biệt nào đó. Nên Vị Cứu Thế hay những Vị đã tạo ra các tôn giáo ấy đã để lại cho con người tại trần gian, một số bài học gọi là bài học thích ứng với hoàn cảnh đặc biệt ấy hay một số nguyên tắc nên áp dụng trong hoàn cảnh ấy. Hầu có thể chu toàn những sứ vụ đã được mặc khải hay đã được đặt ra tùy theo tôn giáo ấy.

Nếu những sứ vụ căn bản được xem như chiến lược, thời những bài học hay nguyên tắc thích ứng không thể được xem là chiến lược. Trái lại chỉ là những chiến thuật thích ứng.

Nhưng Tôn Tử phương Tây Carl Philip Gottfried (hay Gottlieb) von Clausewitz (sinh vào ngày 01/06/1780 sinh tại Magdebourg và qua đời tại Breslau vào ngày 16/11/1831) có căn dặn: «Ưu thế chiến thuật có thể dùng để bổ túc khiếm khuyết chiền lược». Phải nhấn mạnh hai cụm từ: «Bổ túc và khiếm khuyết».

Chiến lược thường là lãnh vực của kẻ lãnh đạo, còn chiến thuật thường cho kẻ lãnh đạo và tất cả. Những kẻ lãnh đạo, theo đúng nghĩa, là những kẻ phải bơi lội và hụp lặn ngay trong giòng thời cuộc hay tạo ra thời cuộc.

Nhưng tại đất nước Việt Nam hôm nay, phần đông trí thức cũng như thành phần lãnh đạo, nhất là lãnh đạo GHCGVN, lại đứng bên giòng thời cuộc hay chạy vòng quanh giòng thời cuộc. Nên đã có những hiện tượng cuốn cờ bỏ chạy qua hô hoán vu vơ những bài học của Thánh hiền để lại chỉ được xem như là những chiến thuật thích ứng thôi!

Nhưng các Ngài ấy quên rằng khi chiến lược không khiếm khuyết, các Ngài không được đi vào gian lận hô hoán ưu thế chiến thuật để tránh thi hành chiến lược. Đó là vấn đề hiện nay của GHCGVN và cũng là vấn đề của Ngài tân Giám mục Vinh.

Như để chứng minh cách hành xử thiếu tư thế lãnh đạo, các bình luận sau đây về bài phỏng vấn của Ngài Nguyễn Thái Hợp xin được gửi tới bạn đọc. Vì qua các trả lời phóng vấn. Người ta đã thấy tất cả đường lối của Ngài trong vai trò sắp tới của Ngài tại Giáo phận Vinh. Một màn hô hóan các thích ứng để chối bỏ sứ vụ. Một vấn đề rất trầm trọng cho tương lai của GHCGVN nói chung và cho Giáo phận Vinh nói riêng!

Một Trận Mưa Rào Khái Niệm

Nghiêng nghiêng nét bút hay lời nói với hoài niệm tâm tư học trò để vào đề, Ngài thần học giải phóng cho nổ ngay khẩu hiệu: ”Sự thật và tình yêu”. Không khác một chàng sinh viên năm đầu triết học, Ngài tung ra một rừng âm u khái niệm, làm mờ mắt bà con Nghệ Tĩnh Bình. Nào là thao thức, loan báo tin mừng, những chia sẽ, gợi mở giới truyền thông công giáo.

Trời Xã Đoài nay vào mùa nắng hạ với gió nam lồng lộng. Đột nhiên có sấm ngược đời nổ rền, làm mấy “con vịt” trong vườn nhà chung Xã Đoài hết biết mô tê, trong màn hỏa mù lý thuyết ơi là lý thuyết!

Tại vòng một, Ngài đầy khái niệm rồi tới vòng hai Ngài cũng chứa chan toàn khái niệm. “Sự thật và tình yêu” tại vòng đầu, nay rơi vào tình trạng nửa tỉnh nửa mơ của thi sĩ Lamartine với khái niệm: ”Sự thật khách quan”.

Thật thế, tuy sự vật không có cảm xúc để có thể đặt vấn đề khách quan hay chủ quan cho nó. Nên Ngài bắt chuớc Lamartine (giống như thi sĩ Thái Can qua câu: “Em nên xóa dấu thề non nước. Bên gốc thông già ta lỡ ghi”, khi thi sĩ nầy thấy lại gốc cây xưa và xem đó là người tình năm cũ và ông đã thốt lên: un seul être me manque, tout est dépeuplé), thổi vào nó một linh hồn mang nặng ái ố hỉ nộ, để nó thành một con người. Hầu bắt sự vật phải khách quan và không được chủ quan. Bục giảng đại học hóa ra điên giữa muôn vàn khái niệm trời ơi đất hỡi!

Lướt theo con sóng của câu thơ Thi Xã và con thuyền Nghệ An, Ngài cởi áo Thánh Phê Rô và mặc lại cho Thánh Phao Lồ. Gọi tên cực trọng Tôma Aquinô về chứng giám một trận mưa rào khái niệm, như nước nguồn tuôn đổ trên đầu dân quê. Về chân lý Ngài phán: “Kiếm tìm và phục vụ Chân Lý”. Còn tin mừng, sao Ngài không phán: ”Rao giảng và sống Tin Mừng”?. Đối với Ngài, tại lãnh vực chân lý luôn có khái niệm phục vụ. Còn tại lãnh vực tin mừng, trả bài thuộc lòng phúc âm tại bục giảng nhà thờ là xong! Nhưng thực ra phải sống tin mừng mới là căn bản.

Kể ra cũng lạ! Theo định nghiã, loan báo tin mừng là đưa tin mừng cho những kẻ chưa biết tin ấy. Xã Đoài là đất của Giáo dân, đã là Giáo dân nên đã biết tin mừng. Thời sao lại đặt vấn đề báo tin mừng cho những kẻ đã biết tin mừng?. Không lẽ Ngài nói mà không biết định nghiã của câu nói của Ngài?

Nếu muốn báo tin mừng, hãy về những vùng khỉ ho cò gáy, không có đạo mà báo tin. Sao lại trả bài tin mừng với Giáo dân tại nhà thờ làm chi?. Ngài xây dựng Câu Lạc Bộ Nguyễn Văn Bình tại Sài Gòn, chứ đâu tại suối máu mà bảo rao giảng tim mừng?. Một GM Nguyễn Văn Bình số II trước CSVN?

Tại làng mạc cóc hay gặp đống rơm và phải di chuyển theo mô hình đống rơm, nên dân Nghệ Tĩnh Bình có câu tục ngữ: “Cóc nhảy đống rơm thưa Ngài”.

Nay văn minh hơn một chút có chiếc máy bay chuồn chuồn lên thẳng, hầu không cần biết của con đường có liên tục hay không. Nên vừa tới trạm “sự vật khách quan”, Ngài dùng trực thăng vượt qua sông không cầu để tới trạm: “Lấy oán báo hay lấy ân báo oán”, làm Khổng Tử phải đội mồ giậy và la lối om sòm: “Không áp dụng bừa bãi bài học tui cho”.

Tam Tòa và Cầu Rầm ơi!. Để yên cho VC lấy nhà thờ là lấy ân báo oán!. VC đánh người tới và không đánh người chạy đi. Nhất định không đánh ông nghè gà ướt bẩm sinh ấy, cuốn cờ bỏ chạy với mê man trong các khái niệm. Thấy VC tới và bỏ chạy cũng như kệ đàn chiên giữa đàn sói cũng là ân báo oán đối với VC! Thần học giải phóng hiện rõ hình hài. VC cần đất xây khách sạn làm giàu. Hãy theo gương Ngài Bình năm cũ, lấy đất của GH cho chúng là diễn tả yêu thương chúng. Nếu làm như thế, VC sẽ không bách hại và Ngài đã diễn tả được yêu thương VC. Lợi cả trăm bề riêng cho Ngài tân Giám mục Vinh! Vì trong bài trả lời phóng vấn. Ngài không một dấu phẩy trước các đau thương của Giáo phận Vinh hiện nay!

Giòng thời cuộc đang cuốn chìm Tam Tòa hay Cầu Rầm và các em sinh viên ĐHSP. Bóng cha già Cao Đình Thuyên mà tất cả mến thương, sắp khuất dưới rặng liễu và màn sương. Còn Ông “mục tử”, từ trời rơi xuống, một phần do phép lạ của tam vô, nhất định không làm gì hết, ngoài việc nêu lên những trừu tượng lý thuyết, để biện minh cái bất cử bất động của Ngài bên giòng thời cuộc.

Một Màn Mờ Mắt Văn Hóa Và Đức Tin

Ai chẳng lạ trò chơi của khoa bảng. Đề tránh phản đối, phải trình bày vấn đề một cách thật khó hiểu với nhiều sáo ngữ nổ thật lớn. Không hiểu gì cả, nên lấy gì mà phản đối. Vòng vo Tam Quốc là chiến thuật hay nhất. Nên Ngài kêu tên cực trọng văn hóa để biện minh hay dùng như một điểm tựa để diễn giải. Nhưng Ngài không cho định nghiã mà Ngài dùng. Nhất là khi Ngài đã nêu vấn đề tương quan giữa văn hóa và đức tin. Nhưng tương quan qua yếu tố nào? Ngài không nói ra!

Thật ra trong tóm gọn. Văn hóa là tổng hợp của phong tục và truyền thống của một chủng tộc, được góp lại từ bao thế hệ. Còn vấn đề đức tin cũng giống như các nguyên lý của khoa học thực nghiệm.

Nếu muốn có các trả lời về các hiện tượng thiên nhiên của môi trường bao quanh, bằng các định luật dưới dạng phương trình toán học, trước tiên các khoa học gia phải chấp nhận 9 nguyên lý bảo toàn như: bảo toàn năng lượng hay nhiệt chỉ tự động chuyển đi từ nguồn nóng tới nguồn lạnh và không ngược lại và v.v. Từ đó quan sát và đi tới việc lập ra các phương trình gói gém định luật. Các định luật ấy không được chống lại các nguyên lý đã phải chấp nhận tại điểm đi.

Về lãnh vực tôn giáo cũng thế. Đức tin là một cần thiết, chứ không phải là một xa xỉ, để từ đó có thể giải đáp được các khắc khoải của con người. Trong khoa học thực nghiệm, nếu không chấp nhận các nguyên lý, thời không trả lời được các hiện tượng thiên nhiên. Trong cuộc sống, nếu không có đức tin thời không thể giải đáp được khắc khoải của con người trước các câu hỏi chính đáng.

Mẫu số chung của nguyên lý và đức tin là phải chấp nhận hay phải tin. Tuy không chứng minh được nguyên lý hay đức tin. Cho nên văn hóa và đức tin chỉ có mẫn số chung ấy thôi, tuy rất khác nhau.

Đang nói đức tin, tự nhiên Ngài đem khái niệm tôn giáo vào. Thực ra đức tin chỉ là phần của một tôn giáo (Tôn Giáo = Tín lý+ Giáo lý + Tổ Chức). Tuy tín lý (phải tin) là phần căn bản nhất. Cho nên không thể đồng hóa đức tin với tôn giáo cũng như không thể đồng hóa cái đầu con voi với con voi. Vì con voi còn có các phần khác. Nhưng Ngài nhất định đồng hóa.

Nhưng vì Ngài muốn luồn vấn đề trả bài thuộc lòng sứ vụ loan báo tin mừng vào, nên cho cả khái niệm vào cùng một thúng. Vấn đề không phải ở chổ tương quan giữa văn hóa và đức tin, trái lại làm sao cho đức tin mang nét tự động trong xuất phát giống như nét văn hóa nơi con người trong giao tế. Văn hóa có hai yếu tố: nét đẹp và đã ăn vào tiềm thức. Khi đã có tại tiềm thức, nhất cử và nhất động, nét đẹp ấy tự động và nhanh như chớp tung ra. Nghĩa là sống có văn hóa ra sao, thời phải sống có đức tin như vậy. Đó là mong uớc của Jean-Paul II. Lối sống nầy cùng chung một vẻ đẹp của lối sống có văn hóa. Nếu có tương quan, thời tương quan không nằm giữa đức tin và văn hóa. Trái lại tương quan nằm tại ước mơ lối sống của văn hóa cho lối sống của đức tin. Nay còn là ước mơ chưa thành đạt thưa Ngài. Ngài muốn diễn tả cái tương quan đã có sẵn hay cái mơ ước sẽ có tương quan giữa văn hóa và đức tin? Hai vấn đề khác nhau! Cớ sự làm sao mà phải vòng vo Tam Quốc rối như tơ vò? Đã đứng bên giòng thời cuộc chưa đủ, Ngài còn nhất định phải thêm tơ vò rối rắm mới được!

Ngài Định Chiếm Lòng Người Bằng Nắng Nhạt

Cho câu hỏi: “Đâu là định hướng mục vụ ưu tiên của Đức Cha sau khi nhận chức”.

Ngài bắt đầu nổ ngay những câu có tính cách gây cảm xúc tâm lý (pathétiques): “máu chảy về tim” để chiếm hồn người bằng nắng nhạt. Nhưng thực ra máu chảy từ tim ra mới có kết quả. Vì nó mang chất dinh dưỡng cho thân thể cũng như mang dưỡng khí cho các tế bào. Còn khi về tim, chỉ toàn phế thải thưa Ngài (đùa Ngài một phút¨). Như vậy Ngài mang phế thải về cho Giáo phận Vinh mất rồi!

Trong các phát biểu của Ngài. Có lẽ Ngài chưa đủ tự tin để lãnh đạo, nên phải kêu tên cực trọng các Thánh (từ Thánh Tôma Aquinô tới Thánh Ausgustinô) để các Thánh ủng hộ Ngài hay chứng giám cho Ngài. Nhưng thật ra chỉ là những giải thích riêng tư của Ngài về lới nói của các Thánh. Giải thích theo ý mình hay cố xuyên tạc theo ý mình để biện minh các lời Ngài nói không xa nhau cho mấy!

Tại phân khoa Thần Học của Đại Học Lausanne, một cựu viện trưởng kể lại câu chuyện 19 Giáo sư Thần Học dịch một bản Thánh thư như sau: “Tới nay, tuy chỉ có một Thánh thư bằng tiến Hy Lạp, đã có tới 19 bản dịch khác nhau tại Đại học nầy. Nay có một Giáo sư mới và ông bắt đầu dịch lại. Vì ông bảo là các bản dịch khác không chính xác. Cho nên sẽ có bản dịch mang số 20. Nhưng sẽ là 20 bản dịch không đồng ý với nhau, từ một bản Thánh thư!. Dùng các lời của các Thánh thần học cũng thế thôi.

Liên quan vấn đề kỹ năng làm Giám mục. Ngài đã quên rằng: Trời sinh con bò để cày và sinh con ngựa để chạy. Tuy không có trường nào dạy con bò kéo cày hay con ngựa để chạy. Nhưng không vì thế mà bắt con bò ra chạy và con ngựa ra cày. Dầu cày hay chạy, con bò vẫn là con bò và con ngựa vẫn là con ngựa.

Dầu cho con gà ướt được thả dù xuống Xã Đoài hay nơi khác, con gà ướt luôn vẫn là con gà ướt cố tình lầm lẫn chiến lược với chiến thuật. Một bất hạnh!

Những giảng dạy tại Đại chủng viện không phải là những lon lá lấy tại địa bàn thực nghiệm kỹ năng Giám mục. Tại địa bàn thực nghiệm ấy, nếu không có kỹ năng Giám mục, thời đã bị thực nghiệm xóa sổ ngay tại một trong các đoạn của con đường phải đi qua. Hơn nữa lãnh đạo phải có một ít thiên bẩm. Tự nhiên được thả dù không nói lên các thực nghiệm có tính cách trắc nghiệm kỹ năng và cái thiên bẩm lãnh đạo cần phải có.

Đối với GHCGVN, một vấn đề muôn thuở vẫn là vấn đề “Loan bóa tin mừng và đào tạo nhân sự” như Ngài đã phán trong bài phỏng vấn. Nhưng mỗi giai đoạn, luôn có những ưu tiên cho một vấn đề. Nay ưu tiên của GHCGVN là phải nói lên sự thực. Một căn bản sứ vụ có tính cách chiến lược mà Ngài không đặt ra. Ngài lại vớ vẫn tại cái cố hữu và trường kỳ ấy, không nhất thiết là ưu tiên của hiện tại, là nghĩa gì? Rao giảng tin mừng tuy quan trọng, nhưng còn cái quan trọng hơn, đó là Sống Tin Mừng bằng những hành động thực tiễn có tính cách thuyết phục.

Nhĩa là loan báo tin mừng bằng hành động. Còn trả bài thuộc lòng tin mừng, trong hoàn cảnh của GH hôm nay với lối nói cho qua hay hỏa mù, không ích lợi gì cả và kết quả chỉ đuổi hết những ai đã biết tin mừng đi chỗ khác vì quá nhàm tai. Vì thấy cái giả dối của cách loan báo ấy! Như Vị Cứu Thế đã phán: “Hãy xem chúng làm và đừng nghe chúng nói”.

Hiện nay, tuy HĐGMVN luôn hô hoán loan báo tin mừng qua các thông cáo, nhưng chẳng mấy ai còn tin tưởng cái HĐGMVN ấy nữa! Trước một thực tế phũ phàng như vậy. Cần phải thức tỉnh nhận định tình hình. Sao lại vẫn còn cách trả bài thuộc lòng ấy, nó không hữu ích và không thuyết phục được ai nữa. Một bám víu chiến thuật phản tác dụng.

Lời Kết

1. - Đối với một bài phỏng vấn có tính cách trình bày chiến luợc hay hướng đi của một vị tới đảm nhiệm chức vụ có tính cách dìu dắt hay lãnh đạo. Khi các nét chiến lược cũng như cách hành xử đã được tìm ra ngay tại đoạn đầu của bài phỏng vấn. Thời một tiếp tục đọc tiếp các đoạn sau của bài phỏng vấn, nhất là những đoạn mang nặng nét tạo cảm xúc tâm lý, để che lấp sự việc chối bỏ sứ vụ căn bản, thời không cần thiết nữa.

2. - Qua các trình bày phía trên, một vấn đề rõ ràng là phần đông lãnh đạo của GHCGVN hôm nay, không riêng gì Ngài tân Giám mục Vinh, có thề may mắn hơn một số Giám mục khác về học vấn, đã đứng bên giòng thời cuộc và chỉ tập trung vào hô hoán những chiến thuật có tính cách thức ứng để chối bỏ sứ vụ căn bản của GHCGVN: Phải nói lên sự thật hầu bảo vệ công bằng cho người dân nói chung và cho Giáo Hội cũng như Giáo dân nói riêng.

3. - Phản đối các vị nầy là một cần thiết trong việc giúp GHCGVN có can đảm nhận lãnh nhiệm vụ bảo vệ người dân trong một thể chế vô thần và gian ác. Nhiệm vụ ấy là một trong hai sứ vụ của GHCGVN: «Công bằng và Bác ái». Rao giảng tin mừng chỉ là mở nước Chúa cho hai sứ vụ ấy. Không lấy phương tiện làm mục tiêu. Và mục tiêu là Công Bằng và Bác Ái.

4. - Khi có chủ trương làm thinh trước bất công của thời cuộc. Thời có nhiều nhân sự nhất định làm thinh về sứ vụ hay nói bâng quơ là để làm gì ? Và rao giảng tin mừng với chủ trương «làm thinh» chỉ là lời nói của người Pharisiêu. Những nguời nầy đã bị Chúa chỉ mặt cũng như cảnh cáo, trong lúc Chúa Con hiện diện tại trần thế tại Do Thái !

5. - Khi một đường lối xem ra sáng tỏ cũng như các hướng tiến xem ra rõ ràng. Những vòng vo Tam Quốc như trong bài phỏng vấn không cần thiết. Nên đi thẳng vào vấn đề một cách ngắn gọn.

6. - Nhưng khi vòng vo Tam Quốc phải dùng tới. Nó tố cáo những bóng tối mà người phỏng vấn cần che đậy. Một hiển nhiên mà bao người đã hiểu. Nhất là đối với những Giáo dân cũng có những kiến thức tương đương về phân tích. Nhưng kẻ được phỏng vấn cố quên sự kiện nầy và vẫn tưởng đọc giả, nhất là đọc giả Giáo phận Vinh, là đàn cừu chứ không phải là đàn chiên. Nói sao sẽ được các con cừu tin vậy. Tuy đó không phải là tội trọng, nhưng là ảo tưởng. Nên nhìn nhận và cần thay đổi!

7. - Nhân loại đóng ghế đóng bàn cho ai học hành là để «hiểu biết» trở lại giúp ích cho đời và cho người cũng như bày tỏ một biết ơn qua sự giúp ích. Chứ không phải để dùng hiểu biết vào việc lừa phỉnh bằng ngôn ngữ có sách và mách có chứng với lý sự. Văn bằng và lương tâm ngay thẳng ít khi đi đôi với nhau !

Ts Hồng Lĩnh

Tham chiếu:
    Bài phỏng vấn Tân Giám mục Nguyễn Thái Hợp
29.06.2010

GPVO 29/6/2010 - Chỉ còn hơn 3 tuần lễ, ngày 23/7/2010 sẽ diễn ra Thánh lễ tấn phong Giám mục Giáo phận Vinh. Thiệp mời đã được gửi đi. Các công việc chuẩn bị đang được tiến hành với nhịp độ khẩn trương. Tuy đang bận rộn với việc "học nghề" (từ ngữ Đức cha Phaolô dùng), nhưng Đức Tân Giám mục vẫn ưu ái dành cho Web Giáo phận một cuộc trao đổi thân tình. Ngài nói về châm ngôn mục vụ, về những thao thức loan báo Tin Mừng, những chia sẻ, gợi mở cho giới truyền thông Công giáo, v.v.. Đằng sau con người thông thái, uyên bác, lịch lãm..., người ta luôn gặp thấy bóng dáng của một "ông đồ Nghệ" với tất cả ý nghĩa của từ ngữ này...

Sau đây là toàn văn bài phỏng vấn Đức Giám mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp do Web Giáo Phận Vinh (GPVO) thực hiện:

1. "Sự thật và Tình yêu" là châm ngôn mục vụ được Đức cha lựa chọn. Châm ngôn này được gợi hứng từ đâu?

GM-NTH: Châm ngôn mục vụ của tôi là Sự thật và Tình yêu. Châm ngôn này được gợi hứng từ Thánh Kinh và muốn nhấn mạnh hai yếu tố căn bản của Kitô giáo: Sự thật được diễn tả bằng hai màu “đen-trắng”, lấy từ logo của Dòng Đa Minh, còn trái tim bao bọc chung quanh là biểu hiệu của tình yêu. Thấp thoáng bên dưới là hình ảnh con thuyền Giáo Hội đang rẽ sóng tiến về “Sự thật và Tình yêu”. Tất cả được nối kết với nhau và gắn chặt vào thập giá của Đức Kitô. Thật vậy, đối với các Kitô hữu, Đức Kitô chính là “con đường, sự thật và sự sống” (Ga 14,6). Không ai có thể đến với Thiên Chúa mà không ngang qua Người. Và cũng chẳng ai được cứu rỗi, nếu không yêu thương như Người đã yêu thương chúng ta.

Châm ngôn có hai vế. Vế đầu nhấn mạnh đến trách nhiệm kiếm tìm và phục vụ Chân lý. Thánh Đa Minh đã lấy việc loan báo Tin Mừng và phục vụ chân lý như ơn gọi của Dòng Giảng thuyết. Đòi hỏi đầu tiên của ơn gọi này là phải tôn trọng phản ánh chính xác của sự vật khách quan, cũng như các quy luật và giá trị của chúng. Yêu cầu tôn trọng sự thật khách quan vẫn được coi là thái độ lương thiện trí thức. Đức Giêsu cũng thường căn dặn các môn đệ: “Hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37). Theo thánh Tôma Aquinô, việc truy tầm chân lý đòi hỏi thái độ chân thành và biết mở rộng tâm hồn để đón nhận sự thật “bất cứ từ đâu tới và bất kỳ do ai nói”.

Đối với các Kytô hữu, ngoài sự thật tự nhiên nói trên còn phải kiếm tìm sự thật siêu nhiên, có sức cứu độ và giải thoát con người. Đó chính “Anh sáng vĩnh cửu chiếu soi trần gian”, mà Đức Kitô đem đến. Chính Ngài đã tuyên bố với người Do Thái: Sự thật sẽ giải phóng các ông và làm cho các ông được tự do, trái lại tội lỗi và lầm lạc sẽ nô lệ hóa con người, làm cho họ bị vong thân, băng hoại, khốn khổ (x. Ga 8, 31-36).

Thánh Phaolô đã diễn tả một cách thật sắc nét phần thứ hai của châm ngôn qua Bài ca đức ái (1Cor 13,1-14). Vị Tông đồ dân ngoại, mà tôi được hân hạnh nhận làm thánh quan thầy, quả quyết: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi…”.

Lấy oán báo oán vẫn được coi là điều dĩ nhiên ở thời đại ấy. Chỉ một số hiền nhân hiếm hoi mới vượt khỏi cái lẽ thường tình và bắt đầu đặt vấn đề về hiện tượng “oán báo oán, oán chập chùng”. Lần kia, một môn sinh hỏi Khổng Tử: “Lấy ân báo oán được chăng?”. Vị vạn thế sư biểu trả lời: “Nếu lấy ân báo oán thì lấy gì báo ân?”. Và ngài đề nghị: “Lấy chính nghĩa báo oán và lấy ân báo ân”. Phải công nhận rằng đây là một quan niệm triết lý chính trị nhân bản và tiên bộ mà suốt mấy ngàn năm qua nhân loại đã cố gắng thể hiện.

Tuy nhiên, từ viễn ảnh tôn giáo, thánh Phaolô mời gọi các Kitô hữu cố gắng đi xa hơn lẽ thường tình và ngay cả triết lý chính trị tiến bộ ấy. Ngài tha thiết nhắn nhủ: “Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa (…). Đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt (…). Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12, 14,17, 21).

Chính Đức Giêsu đã coi “yêu thương” là điều răn căn bản của Kitô giáo: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em trên Trời” (Mt. 5,43-45). Bài giảng trên núi khai triển giáo lý căn bản này và trở thành một thứ Hiến chương Nước Trời: “…Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương… Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 7-10).

Thánh Gioan đã dám định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu” và quả quyết “ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8). Đây là mạc khải tối cao và nét đặc trưng của niềm tin Kitô giáo. Trong diễn văn từ biệt, chính Đức Giêsu cũng long trọng tuyên bố: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau … như Thầy đã yêu thương anh em”. Kể từ đó “yêu thương” trở thành dấu chỉ để nhân loại nhận diện người môn đệ của Đức Kitô (x. Ga 13, 34-35).

2. Trong bài phát biểu ngày về với Giáo phận (27/5/2010), Đức cha đã nói: "Cho đến nay, tôi dấn thân hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục xã hội...", và trong bài trả lời phỏng vấn của Trang tin HĐGMVN, Đức cha tâm sự rằng cho đến thời điểm hiện tại, "vẫn còn lại 1 hội nghị quốc tế, 2 cuộc tọa đàm, 2 khóa thường huấn và hai cuộc tuần tĩnh tâm". Là Giám mục giáo phận, với gánh nặng mục vụ, liệu Đức cha có phải "hy sinh" những nghiên cứu, suy tư...?

GM-NTH: Càng ngày tôi càng ý thức tầm quan trọng của mối tương quan giữa đức tin và văn hóa trong sứ vụ loan báo Tin Mừng ở thời đại chúng ta. Khá nhiều văn kiện của Tòa Thánh và của các Hội đồng Giám mục đề cập đến vấn đề nóng bỏng này. Để loan báo Tin Mừng cho thời đại đa phức tôn giáo và đa văn hóa hôm nay, chúng ta phải tích cực dấn thân đối thoại với con người thời đại, với các trào lưu tư tưởng, với các tôn giáo và các nền văn hóa. Công đồng Vatican II chính thức công nhận: “Có nhiều mối tương quan giữa sứ điệp cứu độ và văn hóa. Bởi vì, từ khi mạc khải cho dân Ngài tới khi biểu lộ tròn đầy trong Chúa Con Nhập thể, Thiên Chúa đã nói với con người qua các loại văn hóa riêng biệt của từng thời đại. Cũng thế, trải qua những hoàn cảnh khác nhau của lịch sử, Giáo Hội đã sử dụng tài nguyên của các nền văn hóa khác nhau để phổ biến và trình bày sứ điệp của Đức Kitô cho muôn dân, qua lời rao giảng”.

Trên nguyên tắc, Tin Mừng không cần một mảnh đất riêng nào để sống và cũng chẳng đồng hóa với bất cứ nền văn hóa nào, nhưng trong thực tại lịch sử, công cuộc loan báo Tin Mừng không thể tách rời các nền văn hóa. Theo các Giám mục Á Châu, “văn hóa là không gian sống trong đó con người đến với Tin Mừng, mặt giáp mặt. Nếu đích thực văn hóa là thành quả của cuộc sống và hoạt động của một nhóm người, thì những người thuộc nhóm đó cũng được uốn nắn một phần bởi nền văn hóa trong đó họ đang sống (...). Từ viễn cảnh đó, ta nhận thức rõ hơn tại sao Tin Mừng hóa và hội nhập văn hóa tương quan với nhau cách tự nhiên và mật thiết. Tin Mừng và công cuộc loan báo Tin Mừng chắc chắn không đồng nhất với văn hóa. Tuy nhiên, Nước Thiên Chúa đến với những con người gắn bó sâu xa với một nền văn hóa, và do đó, công cuộc xây dựng Vương Quốc không tránh khỏi việc vay mượn các yếu tố rút ra từ các nền văn hóa nhân loại”.

Chỉ có thể gọi là một cuộc loan báo Tin Mừng thành công khi chất men Tin Mừng thực sự đi vào lòng người, hội nhập vào truyền thống dân tộc và biến thành văn hóa. Trong văn thư thành lập “Hội Đồng Giáo hoàng về Văn hóa”, Đức Gioan Phaolô II diễn tả một cách sâu sắc mối tương quan mật thiết giữa Tin Mừng và văn hóa như sau: “Một đức tin mà chưa biến thành văn hóa, là đức tin chưa được đón nhận trọn vẹn, chưa thực sự suy tư, chưa sống một cách chân thành”.

Chính trong ý nghĩa đó, tôi nghĩ rằng loan báo Tin mừng trong lãnh vực văn hóa - giáo dục phải là một trong những sứ vụ ưu tiên của Giáo Hội chúng ta. Nhưng làm sao kết hợp hài hòa trách nhiệm mục vụ truyền thống của một giám mục với việc dấn thân trong lãnh vực văn hóa và giáo dục? Hiện nay tôi đang cố gắng kiếm tìm một câu trả lời thỏa đáng cho thách đố này.

3. Giáo phận Vinh là một giáo phận rộng lớn (với địa bàn rộng thứ nhì và số giáo dân đông nhất trong Giáo tỉnh Hà Nội) và là giáo phận giàu truyền thống. Đâu là định hướng mục vụ ưu tiên của Đức cha sau khi nhậm chức?

GM-NTH: Trở về với giáo phận Vinh tôi cảm thấy nguồn vui được trở lại môi trường tự nhiên, như người con xa quê được quay về miền Đất Mẹ, như máu chảy về tim. Theo kiểu nói của thánh Augustinô, cùng với giáo dân Vinh tôi là một Kitô hữu mang đậm dấu ấn Nghệ-Tĩnh-Bình và vì giáo dân Vinh tôi đang cố gắng phấn đấu để trở thành một giám mục của Giáo Hội Công giáo tại Vinh, theo phong cách Nghệ-Tĩnh-Bình và mang tâm tình yêu thương của Đức Kitô.

Tôi là một linh mục Dòng Đa Minh và được đào tạo để loan báo Tin Mừng trong lãnh vực văn hóa - giáo dục - xã hội. Tôi không biết trên thế giới có trường nào dành riêng để đào tạo giám mục hay chăng? Riêng bản thân tôi chưa từng ghi tên theo học “kỹ năng làm giám mục”. Cũng chưa có dịp thực tập cách thức điều hành giáo phận. Hơn nữa, phải nói rằng hoạt động mục vụ của giám mục là một thế giới khá xa lạ với sinh hoạt bình thường của tôi. Chắc chắn trong thời gian đầu sẽ vác gậy và mũ đi theo “Đức cha già” Cao Đình Thuyên để học nghề.

Trong mấy năm vừa qua tôi đã có dịp giảng dạy ở Đại Chủng viện Vinh Thanh và thăm một số họ đạo. Nhưng giáo phận Vinh là một giáo phận rộng lớn và giàu truyền thống, nên dĩ nhiên phải tiếp tục học hỏi, và tiếp cận thực tế nhiều hơn nữa. Trước mắt, tôi cố gắng tiếp tục và kiện toàn những gì đang có. Sau đó sẽ cùng với các linh mục, tu sĩ và giáo dân kiếm tìm một chương trình mục vụ thích hợp cho giáo phận. Tuy nhiên, nếu hỏi về yếu tố ưu tiên trong chương trình mục vụ thì, đối với tôi, luôn luôn vẫn là sứ vụ loan báo Tin Mừng và đào tạo nhân sự.

4. Vào lúc này, Đức cha muốn chia sẻ điều gì với cộng đồng Dân Chúa tại Nghệ-Tĩnh-Bình?

GM-NTH: Một linh mục giáo phận Vinh đã diễn tả cái khắc nghiệt của Nghệ – Tĩnh- Bình như sau: “Quê tôi gạt sỏi tìm cơm/Hết mưa, thôi hạn lại cơn bão gần”.

Như một quy luật bù trừ của Tạo hóa, chính từ vùng đất khô cằn đó đã xuất phát nhiều con người tài năng, can trường, khí tiết và đầy cá tính. Hình như trong điều kiện thiên nhiên nghiệt ngã đó, con người chỉ có thể vươn lên nhờ năng lực của trí tuệ, sự kiên nhẫn và phấn đấu của bản thân.

Người ta đã kể quá nhiều giai thoại về cái ngang, bướng, bộc trực và kiên cường của người dân xứ Nghệ. Có người xếp dân Nghệ vào loại dân có “máu cách mạng”, gàn bát sách, hung hăng tiết vịt, liều lĩnh và đôi khi thích cầm đèn chạy trước ô tô. Rất tiếc phạm vi giới hạn của bài phỏng vấn không cho phép kể lại tất cả, chỉ xin trích dẫn một vài nhận định.

Sau một thời gian sống và giảng dạy tại Vinh, Gs. Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận định về người Nghệ như sau: “Tôi cho rằng dân Nghệ Tĩnh sống quá khắc khổ và có một ý chí rất quyết liệt. Họ đã muốn gì thì phải tranh đoạt bằng được. Và quá tự hào, tự phụ về quê hương mình. Cãi nhau với người Nghệ Tĩnh là dại. Vì họ tự cho là đúng nhất, giỏi giang nhất và vì thế cãi đến cùng, lý sự đến cùng, căng thẳng, quyết liệt đến cùng, khiến đối phương mệt quá, đành phải bỏ cuộc. Dân Nghệ Tĩnh nói chung có tật hay khoe khoang. Khoe tài, khoe giỏi, khoe quê hương cái gì cũng nhất, từ chính trị đến văn hoá nghệ thuật. Ở đâu, trên xe lửa, trong ôtô bus, hay ở những cuộc gặp mặt đông người nào đó, tiếng Nghệ Tĩnh cứ oang oang như muốn lấn át tất cả”.

Gs. Hoàng Ngọc Hiến, gốc Nghệ Tĩnh và cũng có phong cách rất ư là “Nghệ”, đã nói về đồng hương của mình như sau: “Người Nghệ Tĩnh cái gì cũng biết, trừ hạnh phúc”.

Linh mục thừa sai Abgrall, quen gọi là Cố Đoài, từng giữ chức Cha Chính Giáo phận và cũng là một ứng viên sáng giá giám mục Đại diện Tông Tòa ở Vinh, sau nhiều năm truyền giáo tại vùng đất Nghệ-Tĩnh-Bình, đã đưa ra một nhận định thật sâu sắc: “Những người dân ở đây luôn đi đầu trong nổi loạn và đi sau cùng khi phải đầu hàng”. Nhiều người đã mỉm cười và gật gù đắc chí khi đọc nhận định này, vì trên tổng thể, nó vẫn còn đúng cho đến hôm nay.

Nhưng cũng chính nhờ cá tính và chí khí bất khuất đó mà người Nghệ-Tĩnh-Bình luôn kiên cường, hăng say dấn thân và dám đương đầu với những nghịch cảnh. Về mặt tôn giáo, Vinh là một giáo phận lớn, nhiều truyền thống, nhân lực dồi dào và tổ chức chặt chẽ. Có lẽ ít ở nơi nào người ta gặp thấy các tín hữu yêu mến Giáo Hội và gắn bó với các giám mục như ở giáo phận Vinh. Những sinh viên Công giáo hăng say dấn thân nhất tại Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Sàigòn phải chăng cũng là nhóm sinh viên gốc Vinh? Giới trẻ gốc giáo phận Vinh cũng đang hiện diện đông đảo tại hầu hết các Dòng tu ở Việt Nam, đến độ nhiều người đã ví von: “Trời đất đầy Vinh ..... quang Chúa”.

Nhân dịp Năm Thánh 2010 này, ước mong sao cộng đồng Dân Chúa tại Vinh biết cùng với Giáo Hội Việt Nam “ôn cố tri tân” để tích cực loan báo Tin Mừng. Thiết tưởng cũng nên nhìn lại chính mình để phát huy hơn nữa sở trường và cố gắng giảm thiểu khía cạnh tiêu cực. Đặc biệt, trong thời đại hôm nay làm sao gia tăng đối thoại, đa diện hơn trong cách nhìn và mềm dẻo hơn trong phê phán cũng như đường lối ứng xử.

5. Sau cùng, là một người có nhiều duyên nợ và cũng đã từng dấn thân trong lĩnh vực truyền thông, Đức cha có điều gì muốn chia sẻ với độc giả Web Giáo phận?

GM-NTH: Theo luật lệ hiện hành, tại Việt Nam truyền thông xã hội vẫn hoàn toàn trực thuộc Nhà nước. Vì vậy, mặc dù, cả nước có tới 702 cơ quan báo chí và hầu như tỉnh nào cũng có truyền thanh hay truyền hình, nhưng tất cả báo đài hiện nay đều trực thuộc cơ quan công quyền. Trước mắt, xã hội dân sự chưa hình thành và chưa thực sự đóng góp phần tích cực của mình cho truyền thông.

Riêng đối với giới Công giáo, trên cả nước, chỉ vỏn vẹn hai tờ báo dành riêng cho giới Công giáo. Tờ “Người Công giáo Việt Nam” ở Hà Nội, chỉ phát hành vài ngàn tờ một tuần và có ảnh hưởng rất hạn chế. Tờ “Công giáo và Dân tộc” có hai ấn bản: Tuần báo với gần 15.000 tờ và Nguyệt san với khoảng 3.000 tờ. Nhưng cả hai đều là cơ quan ngôn luận của Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam, một tổ chức thành viên của UBMTTQVN. Về mặt pháp lý, Giáo Hội Công giáo chỉ có tờ Hiệp Thông, và cũng chỉ mới xuất hiện từ 10 năm nay (12-1998), dưới hình thức một “Bản tin”, lưu hành nội bộ, với số lượng theo giấy phép chỉ vỏn vẹn 100 bản (trong thực tế, số lượng in nhiều hơn) và hai tháng mới ra một kỳ. Rất tiếc là Giáo Hội cũng chưa tận dụng và khai thác tối đa phương tiện ít ỏi này.

Vì không có phương tiện truyền thông nên nhiều lần giới Công giáo bị nhiều thiệt thòi. Đức Hồng y Phạm Minh Mẫn than: “Thực tế cho thấy cơ quan truyền thông xã hội nơi này nơi khác thông truyền có khi là sự thật thật, có khi là sự thật ảo, có khi là sự thật bị cắt xén, bị bóp méo, thêm râu ria, có khi là sự thật một chiều, một mặt. Phải chăng nguyên nhân là do quan điểm cho rằng sự thật chỉ là những gì có lợi cho mình? Hoặc do cái nhìn bị giới hạn bởi hoàn cảnh? Hoặc do nỗi sợ hãi nào đó thường núp bóng sau lưng những hình thức bạo lực? Và hậu quả trước mắt là dễ tạo ra mâu thuẫn đối kháng, hoặc gây nhiễu và làm biến chất những mối quan hệ xã hội”.

Các Giám mục Việt Nam cũng đã nhận định về thực trạng truyền thông tại Việt Nam như sau: “Trong tiến trình giải quyết những tranh chấp, một số phương tiện truyền thông thay vì là nhịp cầu liên kết và cảm thông thì lại gieo rắc hoang mang và nghi kỵ. Quả thật chưa bao giờ các phương tiện truyền thông phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng như ngày nay, nhờ đó, con người được gia tăng hiểu biết và phát triển tình liên đới. Tuy nhiên, các phương tiện truyền thông chỉ thực sự mang lại lợi ích cho con người và cho cộng đồng xã hội khi phục vụ sự thật và phản ánh thực tại cách trung thực. Ngày nay, một trong những điều gây nhức nhối lương tâm là sự gian dối trong nhiều lãnh vực, kể cả trong môi trường cần đến sự thật nhiều nhất là giáo dục học đường. Chắc chắn tất cả những ai tha thiết với tiền đồ của đất nước và dân tộc, không thể không quan tâm đến vấn đề này”.

Các Giám mục đề nghị giải pháp khắc phục là: “Đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi những người làm công tác truyền thông phải tôn trọng sự thật. Trong thực tế, đã có những méo mó cắt xén, như trong trường hợp tranh chấp đất đai tại Tòa Khâm sứ cũ. Vì thế, chúng tôi đề nghị những người làm công tác truyền thông đại chúng phải hết sức cẩn trọng khi đưa tin tức và hình ảnh, nhất là khi liên quan đến danh dự và uy tín của cá nhân cũng như tập thể. Nếu đã phổ biến những thông tin sai lạc thì phải cải chính. Chỉ khi tôn trọng sự thật, truyền thông mới thực sự hoàn thành chức năng của mình là thông tin và giáo dục nhằm xây dựng một xã hội công bằng và văn minh”.

Tình trạng yếu kém về truyền thông xã hội của giới Công giáo Việt nam ngoài lý do “pháp lý” nêu trên, phải chăng còn có yếu tố nội bộ, do sự thiếu nhiệt thành, thiếu năng động, ít sáng tạo và tổ chức yếu kém? Chúng ta đang sống trong giai đoạn thông tin kỹ thuật số: Thông tin không chỉ được phổ biến trên nguyệt san, tuần san hay nhật báo, mà trên mạng, với nhịp độ từng giờ, từng phút và từng giây.

Thật vậy, cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã tạo cơ hội ngàn năm một thuở để bùng nổ thông tin qua các trang web và các blog cá nhân. Đây là một hình thức thông tin mới, hấp dẫn, năng động, đa dạng, vừa bằng chữ viết, vừa kèm theo hình ảnh hay minh họa. “Kể từ buổi sơ khai năm 1997 đến nay, blog đã tăng vùn vụt về số lượng và ngày càng chứng minh sức ảnh hưởng to lớn của mình. Thế giới hiện có hơn 70 triệu trang blog tồn tại, với hơn 1,5 triệu bài viết mới mỗi ngày, trong đó, blog sử dụng tiếng Việt đã lên đến con số hơn 3 triệu. Với webblog cá nhân, người đưa tin có trang web để tự thể hiện mình, nối kết chia sẻ hình thành mạng xã hội, giải phóng sự thật ra khỏi những rào cản và lăng kính của các thiết chế quyền lực truyền thống, thách thức ngay cả các tập đoàn truyền thông đang áp đặt thông tin ở qui mô quốc gia hay toàn cầu”.

Nếu truyền thông là “diễn đàn hàng đầu của thời hiện đại” mà chúng ta cần khai thác để phục vụ công tác loan báo Tin Mừng, thì “Giáo Hội sẽ cảm thấy sai lỗi trước mặt Chúa nếu không sử dụng các phương tiện truyền thông cho sứ vụ Phúc âm hóa”. Nếu báo viết bị hạn chế, tại sao không phát triển báo mạng? Các trang web hiện nay không phải là công cụ thông tin hiện đại, hữu hiệu, năng động và nhanh nhất? Có bao nhiêu người Công giáo sử dụng blog cá nhân này để thông tin, giáo dục và loan báo Tin Mừng? Mấy năm gần đây cũng đã xuất hiện một số trang Web Công giáo, nhưng chất lượng của các trang web đó như thế nào và được độc giả đón nhận ra sao?

Trong tinh thần trách nhiệm và xây dựng tương lai, xin được kết thúc bài phỏng vấn này với tâm nguyện của Giáo chủ Biển Đức XVI gửi giới trẻ: “Các bạn trẻ rất quý mến, các con hãy dấn thân đem vào nền văn hóa truyền thông và phương tiện thông tin mới mẻ này những giá trị mà cuộc sống của các con dựa vào! Vào thời sơ khai của Giáo Hội, các Tông đồ và các môn đệ của các ngài đã mang Tin Mừng của Chúa Giêsu đến cho thế giới Hy-La: khi đó, công tác Phúc âm hóa, để được phong nhiêu, đòi hỏi phải hiểu biết cách chăm chú nền văn hóa và các phong tục của các dân ngoại này với mục đích chạm đến tâm trí của họ. Ngày nay cũng thế, việc loan báo Chúa Kitô trong thế giới công nghệ kỹ thuật mới giả thiết sự hiểu biết sâu xa về chúng để sử dụng chúng cách đúng đắn. Chính nơi những người trẻ các con, hầu như tự nhiên đồng cảm với các phương tiện truyền thông mới mẻ này, mà đặc biệt bổn phận Phúc âm hóa “lục địa kỹ thuật số” này thuộc về các con. Các con hãy biết gánh lấy cách nhiệt tình sứ vụ loan báo Tin Mừng cho những người đương thời với các con!”

Ước mong sao gia trang (trang Web) của giáo phận có thêm cộng tác viên trẻ và phát triển hơn nữa về mọi phương diện. Để thực hiện được điều đó, đã đến lúc cộng đồng Dân Chúa cần ý thức hơn nữa vai trò của truyền thông và tích cực hỗ trợ trang Web của giáo phận chúng ta.

GPVO thực hiện