Monday, July 5, 2010

Tuổi trẻ Việt hải ngoại xây dựng mạng điện toán OneVietnam - Minh Anh


    Tuổi trẻ Việt hải ngoại xây dựng mạng điện toán OneVietnam (Một Việt Nam) kết nối người Việt toàn cầu


Minh Anh
Source: http://rfvn.com/?p=17000

Gần đây một nhóm các chuyên gia người Mỹ gốc Việt ở California đã thành lập một mạng lưới điện tử mang tên OneVietnam để kết nối người Việt trên khắp thế giới. OneVietnam mong muốn tạo cơ hội cho mọi người tìm hiểu và tham gia các hoạt động cộng đồng và kết nối họ với các dự án từ thiện mà họ quan tâm thông qua một hệ thống tin học hữu hiệu.

Rất tình cờ, trong cuộc trò chuyện vào một lần đi ăn món Phở Việt Nam, các bạn trẻ trong nhóm cựu sinh viên người Mỹ gốc Việt, những người đã tốt nghiệp từ những trường đại học danh tiếng ở Hoa Kỳ như Havard và Berkeley, cùng có chung một suy nghĩ rằng kể từ thập niên 1960, hàng triệu người Việt đã di cư và sống ở hơn 30 nước trên khắp thế giới nhưng chưa hề có một mạng lưới nào kết nối họ với nhau. Hơn nữa, khoảng cách giữa các thế hệ đang trở nên ngày càng lớn và những rào cản về mặt địa lý đã khiến cho bản sắc văn hóa ngày càng phai nhạt. Theo họ, giới trẻ lớn lên tại nước ngoài vì thế trở nên lạc lõng và thiếu dần sự quan tâm đến cộng đồng và quê hương. Từ suy nghĩ chung đó mà ý tưởng thành lập OneVietnam ra đời.

Cô Uyên Nguyễn là người đồng sáng lập OneVietnam, cô từng tốt nghiệp hạng xuất sắc ngành kinh tế tại đại học UC Berkeley và hiện tại đang là một nhà tư vấn về kinh tế. Uyên cho biết thêm về ý tưởng thành lập mạng lưới này:

“Mấy bạn nói với nhau là mình đã ra trường lâu rồi và bây giờ mình muốn làm cái gì đó để giúp Việt Nam, nhưng mà nhìn lại thì thấy là không có một cái hướng nào dễ dàng để cho các bạn trẻ biết về những hội từ thiện khác nhau để tham gia giúp Việt Nam và giúp cho cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Nhóm bạn này đã quyết định làm ra một mạng lưới để kết nối cộng đồng người Việt ở thế giới và giúp đỡ những thế hệ trẻ sau này để liên hệ với cộng đồng và Việt Nam dễ dàng hơn.”

Cô Isabella Lại là một trong những thành viên ban đầu của mạng lưới. Isabella đã tốt nghiệp đại học Havard và hiện đang là phụ tá nghiên cứu tại viện khoa học Jules Stain Eye Institute của trường đại học UCLA. Isabella chia sẻ:

“Isabella thấy là cộng đồng Việt Nam cần một cách thức mới để kết nối lại với nhau, tại vì bên Mỹ tất cả mấy cộng đồng Việt Nam rất xa xôi với nhau, một nhóm thì ở Nam California, một nhóm ở Bắc California, ở Boston, ở Washington, DC, hay ở Houston cũng có các nhóm khác nhau, nhưng không có nhiều sự trao đổi liên lạc với nhau. Vì vậy, Isabella thấy là OneVietnam là một ý tưởng rất hay, Isabella rất vui được tham gia với một nhóm bạn trẻ người Việt rất muốn giúp đỡ cộng đồng Việt Nam.”

Theo cô Uyên Nguyễn mục đích của mạng lưới là để kết nối tất cả mọi người Việt không phân biệt tuổi tác, quan điểm hay vị trí địa lý.

“Chúng tôi không phân biệt ai có thể tham gia, chúng tôi thiết kế mạng lưới này với mục đích kết nối mọi người trên khắp thế giới, cho dù bạn là người Bắc hay người Nam, bạn đến từ Đức, Pháp, Mỹ, Australia hay bất cứ nơi nào, điều chúng tôi quan tâm là việc bảo tồn nền văn hóa của Việt Nam. Là thế hệ thứ hai ở Mỹ, chúng tôi thấy giới trẻ ngày càng thiếu quan tâm đến cộng đồng, đến văn hóa và đến đất nước Việt Nam, vì vậy chúng tôi muốn tạo một cổng thông tin, nơi mọi người có thể học hỏi lẫn nhau, mở các cuộc đối thoại với nhau, và điều quan trọng nhất là giúp đỡ các tổ chức phi chính phủ vốn phụ thuộc rất nhiều vào sự hỗ trợ của cộng đồng chúng ta.”

Các bạn trẻ trong mạng lưới OneVietnam cũng mong muốn khẳng định lại ý nghĩa của danh từ “người Việt Nam”. Họ muốn chứng minh cho mình và cho thế giới biết rằng họ không còn là nạn nhân, hay là con cháu của nạn nhân chiến tranh, mà họ là những người có thể vượt qua tất cả. OneVietnam xác định không hỗ trợ cho bất cứ tổ chức chính trị nào và họ cũng yêu cầu các thành viên của mình cùng làm như vậy.

Isabella nói: “Gần đây OneVietnam đã rất thành công trong việc kết nối những người có mối quan tâm về Việt Nam và văn hóa Việt Nam và đó là quan điểm chính của OneVietnam. Chúng tôi không muốn đề cập đến vấn đề chính trị hay sự cay đắng của quá khứ. Chúng tôi muốn xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn, một tương lai mà tất cả mọi người cùng tự hào rằng mình là người Việt Nam và tự hào về ý nghĩa của danh từ “người Việt Nam”.

Để thực hiện được ý tưởng kết nối này, OneVietnam tận dụng công nghệ Web 2.0 nhằm tạo điều kiện tối đa cho mọi người cùng tương trợ lẫn nhau trong tình đồng bào. Thay vì thành lập một mạng lưới xã hội giống như facebook, những người sáng lập OneVietnam tập trung vào việc gây dựng những mối liên hệ giữa các cộng đồng người Việt với nhau và là nơi để các thế hệ người Việt sau này có thể đóng góp tiếng nói của họ. Uyên Nguyễn nói tiếp:

“OneVietnam tập trung vào lĩnh vực nhân đạo và tổ chức đỡ đầu của chúng tôi là Tổ chức Đông Tây hội ngộ, một trong những tổ chức từ thiện lớn nhất đang hoạt động tại Việt Nam. Khi hình thành khái niệm về OneVietnam, chúng tôi nhận ra rằng các tổ chức phi lợi nhuận vẫn còn tụt hậu trong việc sử dụng công nghệ cũng như khả năng tiếp cận cộng đồng để tìm kiếm sự hỗ trợ. Vì lẽ đó, OneVietnam muốn trở thành một công cụ để các tổ chức phi lợi nhuận đang phục vụ cộng đồng người Việt ở khắp nơi trên thế giới có thể tiếp cận với cộng đồng, tiếp cận với các nguồn tài chính và hàng ngày họ có thể truyền tải những thông điệp quan trọng về những hoạt động có ý nghĩa của họ tới cộng đồng.”

Mặc dù chưa chính thức ra mắt, tuy nhiên tới nay trên trang mạng xã hội facebook của mạng lưới OneVietnam đã có 6.000 người kết nối.

Uyên và Isabella hy vọng sẽ tiếp tục nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của cộng đồng Việt Nam ở khắp nơi trên thế giới đối với hoạt động của OneVietnam. Uyên nói:

“Quý vị có thể vào trang onevietnam.org để đăng ký. Nhưng tới ngày 19 tháng 7, OneVietnam mới bắt đầu mở cho khắp cả thế giới, ai lên mạng cũng có thể tạo một tài khoản và bắt đầu nói chuyện với cộng đồng mình ở trên cả thế giới. Còn bây giờ thì OneVietnam vẫn còn đang xây dựng, thành thử nếu quí vị lên OneVietnam có thể tìm hiểu thêm chi tiết về mạng lưới và các thành viên của nhóm.”

Được biết không chỉ dừng lại ở việc giúp đỡ cộng đồng người Việt mà một trong những mục đích lâu dài của OneVietnam là chia sẻ nền tảng kỹ thuật với các cộng đồng sắc tộc khác có cùng hoàn cảnh và cùng mong muốn được kết nối thông qua một hệ thống mạng lưới điện toán toàn cầu. Các thành viên OneVietnam tin rằng dù ở đâu các bạn cũng có thể kết nối với quê hương và tham gia các hoạt động cộng đồng và các hoạt động nhân đạo vì lợi ích chung của xã hội.

Minh Anh
......

Ý kiến:

_ Ý kiến hay nhưng ... đừng để việt gian cộng sản xâm nhập lợi dụng. teolangthang
......

From: nguyennbich37726@aol.com
Date: 2010/7/5

Rất tiếc là tôi chưa thể chia xẻ được với các em làm ra mạng "OneVietnam" này!

Lý-do:

1/ Các em muốn phi chính-trị song làm gì có cuộc đời phi chính-trị, nhất là khi trước mặt mình lại là người CS. Văn-hóa mà không "cần" biết đến lịch-sử thì là một thứ văn-hóa ngu muội, một thứ văn-hóa chết. Các em sẽ tự chôn các em thôi!

2/ Các em cũng nói ngay đấy là các em muốn theo gương tổ-chức East Meets West, mà các em nói khống (nghĩa là bịa đặt) lên là "Tổ chức Đông Tây hội ngộ, một trong những tổ chức từ thiện lớn nhất đang hoạt động tại Việt Nam."

3/ Các em có biết đâu (hay là các em biết mà giả đò không biết) tổ-chức East Meets West là của bà Lệ Lý Hayslip, một tác-giả phản-chiến đã từng viết (ngay nơi trang đầu cuốn sách nổi tiếng của bà When Heaven and Earth Change Places) Việt-nam chỉ có một "bà Trưng." Đó là thứ văn-hóa không có lịch-sử.

4/ Đừng nghĩ là các em học các trường lớn (Harvard, Berkeley...) là hay, là giỏi. Học trường lớn mà mù lòa về lịch-sử thì còn thua xa các em học trường nhỏ mà thuộc lịch-sử của VN, lịch-sử của cha ông mình, của bố mẹ mình, lịch-sử của dân-tộc mình và nhất là những đau thương do CS đã và ĐANG gây ra (ngay giờ) cho các thành-phần dân-chủ ở trong nước (tù tội), với các dân oan, với các tôn-giáo, v.v. chưa kể là cũng đang bán nước, bán biển, bán tài-nguyên (bauxite, rừng, cá ...) cho ngoại-bang, cho Trung-Cộng.

Hãy tỉnh dậy đi các em! Các em chưa xứng đáng là người Việt trừ phi các em muốn thành chuối (vàng ngoài, trắng trong), nghĩa là những con người mất gốc!

Rất tiếc.

Nguyễn Ngọc BÍCH
7/5/2010

Anton Vũ Huy Chương chưa đọc hết hay cố tình quên?



Sunday, July 4, 2010

Thư Ngỏ Kính Gửi Hồng Y Phạm minh Mẫn - BX Trần Công Tử



    Thư Ngỏ Kính Gửi
    Hồng Y Phạm minh Mẫn

    Thưa Hồng Y, luật nào là luật Chúa
    Linh mục độc thân hay Linh mục có vợ con?
    Luật đặt ra, mục tử có làm tròn
    Để xứng đáng danh hiệu là mục tử?

    Bốn mươi năm nay, Phan khắc Từ quá bựa
    Y công khai lấy vợ đẻ con
    Y bôi nhơ bôi nhuốc, gậm nhấm Giáo hội còm
    Xấu danh Đạo, làm gương mù gương xấu!

    Vợ y, mụ Liên Béo, mạnh miệng loài trư cẩu
    Thị thách Giáo hội treo chén thằng chồng
    Một con đàn bà mất nết, đĩ nhiều phương
    Đã tóm gọn linh hồn tên cha xứ!

    Giáo dân nhục, thưa Hồng Y, lỗi này quá bự!
    Sao Hồng Y cứ ngơ mắt miệng im
    Chúa dạy Hồng Y phải chịu nhục, im lìm
    Để chúng muốn làm dơi, làm chuột?

    Quỷ hỏa ngục khắp nơi giơ nanh vuốt
    Chúng sẵn sàng tiêu diệt Giáo hội ta
    Hồng Y nghĩ sao mà cứ lo ra
    Không giải quyết vụ tên Từ khốn nạn?

    Thằng Việt gian này từ xưa kia bầu bạn
    Với những tên cán bộ Đỏ nằm vùng
    Ra cái điều đi hốt rác, xung phong
    Nhưng chính y tên tay sai Cộng sản!

    Huỳnh công Minh, Trương bá Cần, Thiện Cẩm…
    Cùng nhiều tên đội lốt bộ áo dòng
    Mặt ngoài thì chúng dâng lễ nghiêm trang
    Nhưng bên trong chúng làm tan Giáo hội!

    Hồng Y nghĩ sao, Chúa sẽ xét phúc tội!
    Vào một ngày phải tính sổ trần gian
    Kẻ lành thì, Chúa thưởng phúc thiên đàng
    Kẻ độc dữ chịu hình phạt muôn kiếp!

    Giáo dân mong Hồng Y không hối tiếc
    Đã làm ngơ vụ cha xứ Khắc Từ!
    Treo chén y và cả bọn y như
    Tổng Wielgus, ở Balan, cộng sản! (1)

    Lành mạnh hóa con người,
    phải diệt trừ giun, sán
    Chúng chính là giun sán Giáo hội ta
    Dù triệu người đi gặt lúa phương xa (2)

    Dăm con sán làm tiêu tan tất cả!
    Bọn Việt gian đang vô cùng hể hả
    Còn giáo dân nhục mặt với đạo người (3)
    Cha xứ gì chẳng khác loại đười ươi
    Con khốn nạn cất cao lời thách thức!

    Hồng Y làm ngơ thì Hồng Y cũng nhục!
    Wielgus kia cũng phải chịu chế tài
    Linh mục làm sai thì phải chịu sửa sai
    Có vợ con thì ra ngoài cho sớm!

    Để cho thấy Giáo hội là tinh tấn
    Để làm gương cho người trẻ thời nay
    Muốn vợ con thì đừng có giang tay
    Thề trước Chúa là nên một mục tử!

    Cha xứ vợ con, là một sự dữ
    Nay chúng công khai, thách thức toàn cầu
    Xin Hồng Y hãy nhớ lấy câu:
    “Lời lãi cả, mất linh hồn, vô phúc!”


    Giáo dân Vườn Xoài đã nhiều phen nhục
    Nhưng phải im vì chẳng có quyền hành
    Giở giói ra thì Liên Béo, con ranh
    Đi báo cáo công an, còng số 8!

    Xin Hồng Y chỉnh sửa những sai phạm!

    Giáo dân hải ngoại: BX Trần Công Tử

* GM Wielgus, Balan bị mất chức ngay trước buổi lễ phong TGM vì làm ăng-ten cho CS Balan giết hại nhiều giáo sĩ và giáo dân Balan. Vụ truất chức kịp thời do ĐGH Benoit XVI.

(2) cánh đồng truyền giáo (3) người ngoài đạo CG.

Cước chú: Đề nghị giáo dân hải ngoại đề thư sang Vatican về việc này vì đã 40 năm rồi. Ông Từ nay đã 75 tuổi, còn bà vợ, Liên Béo, nay cũng 70 rồi, có cháu nội ngoại rồi!



Khi Ông Tân Giám Mục Vinh Trả Bài Thuộc Lòng Bên Giòng Thời Cuộc - Ts Hồng Lĩnh

Ts Hồng Lĩnh

Lời Mở Đầu

Các tôn giáo, tuy khác nhau tại lãnh vực tín điều, luôn có những sứ vụ căn bản. Mục tiêu của các sứ vụ ấy tập trung vào cách đối xử giữa con người đối với Thần Quyền khi sinh thời và con người đối với con người tại trần thế. Hầu có sự bằng an trong tâm hồn cho con người và có trật tự giữa con người với nhau.

Nhưng trong khi thi hành các sứ vụ ấy, con người luôn gặp phải một số hoàn cảnh đặc biệt nào đó. Nên Vị Cứu Thế hay những Vị đã tạo ra các tôn giáo ấy đã để lại cho con người tại trần gian, một số bài học gọi là bài học thích ứng với hoàn cảnh đặc biệt ấy hay một số nguyên tắc nên áp dụng trong hoàn cảnh ấy. Hầu có thể chu toàn những sứ vụ đã được mặc khải hay đã được đặt ra tùy theo tôn giáo ấy.

Nếu những sứ vụ căn bản được xem như chiến lược, thời những bài học hay nguyên tắc thích ứng không thể được xem là chiến lược. Trái lại chỉ là những chiến thuật thích ứng.

Nhưng Tôn Tử phương Tây Carl Philip Gottfried (hay Gottlieb) von Clausewitz (sinh vào ngày 01/06/1780 sinh tại Magdebourg và qua đời tại Breslau vào ngày 16/11/1831) có căn dặn: «Ưu thế chiến thuật có thể dùng để bổ túc khiếm khuyết chiền lược». Phải nhấn mạnh hai cụm từ: «Bổ túc và khiếm khuyết».

Chiến lược thường là lãnh vực của kẻ lãnh đạo, còn chiến thuật thường cho kẻ lãnh đạo và tất cả. Những kẻ lãnh đạo, theo đúng nghĩa, là những kẻ phải bơi lội và hụp lặn ngay trong giòng thời cuộc hay tạo ra thời cuộc.

Nhưng tại đất nước Việt Nam hôm nay, phần đông trí thức cũng như thành phần lãnh đạo, nhất là lãnh đạo GHCGVN, lại đứng bên giòng thời cuộc hay chạy vòng quanh giòng thời cuộc. Nên đã có những hiện tượng cuốn cờ bỏ chạy qua hô hoán vu vơ những bài học của Thánh hiền để lại chỉ được xem như là những chiến thuật thích ứng thôi!

Nhưng các Ngài ấy quên rằng khi chiến lược không khiếm khuyết, các Ngài không được đi vào gian lận hô hoán ưu thế chiến thuật để tránh thi hành chiến lược. Đó là vấn đề hiện nay của GHCGVN và cũng là vấn đề của Ngài tân Giám mục Vinh.

Như để chứng minh cách hành xử thiếu tư thế lãnh đạo, các bình luận sau đây về bài phỏng vấn của Ngài Nguyễn Thái Hợp xin được gửi tới bạn đọc. Vì qua các trả lời phóng vấn. Người ta đã thấy tất cả đường lối của Ngài trong vai trò sắp tới của Ngài tại Giáo phận Vinh. Một màn hô hóan các thích ứng để chối bỏ sứ vụ. Một vấn đề rất trầm trọng cho tương lai của GHCGVN nói chung và cho Giáo phận Vinh nói riêng!

Một Trận Mưa Rào Khái Niệm

Nghiêng nghiêng nét bút hay lời nói với hoài niệm tâm tư học trò để vào đề, Ngài thần học giải phóng cho nổ ngay khẩu hiệu: ”Sự thật và tình yêu”. Không khác một chàng sinh viên năm đầu triết học, Ngài tung ra một rừng âm u khái niệm, làm mờ mắt bà con Nghệ Tĩnh Bình. Nào là thao thức, loan báo tin mừng, những chia sẽ, gợi mở giới truyền thông công giáo.

Trời Xã Đoài nay vào mùa nắng hạ với gió nam lồng lộng. Đột nhiên có sấm ngược đời nổ rền, làm mấy “con vịt” trong vườn nhà chung Xã Đoài hết biết mô tê, trong màn hỏa mù lý thuyết ơi là lý thuyết!

Tại vòng một, Ngài đầy khái niệm rồi tới vòng hai Ngài cũng chứa chan toàn khái niệm. “Sự thật và tình yêu” tại vòng đầu, nay rơi vào tình trạng nửa tỉnh nửa mơ của thi sĩ Lamartine với khái niệm: ”Sự thật khách quan”.

Thật thế, tuy sự vật không có cảm xúc để có thể đặt vấn đề khách quan hay chủ quan cho nó. Nên Ngài bắt chuớc Lamartine (giống như thi sĩ Thái Can qua câu: “Em nên xóa dấu thề non nước. Bên gốc thông già ta lỡ ghi”, khi thi sĩ nầy thấy lại gốc cây xưa và xem đó là người tình năm cũ và ông đã thốt lên: un seul être me manque, tout est dépeuplé), thổi vào nó một linh hồn mang nặng ái ố hỉ nộ, để nó thành một con người. Hầu bắt sự vật phải khách quan và không được chủ quan. Bục giảng đại học hóa ra điên giữa muôn vàn khái niệm trời ơi đất hỡi!

Lướt theo con sóng của câu thơ Thi Xã và con thuyền Nghệ An, Ngài cởi áo Thánh Phê Rô và mặc lại cho Thánh Phao Lồ. Gọi tên cực trọng Tôma Aquinô về chứng giám một trận mưa rào khái niệm, như nước nguồn tuôn đổ trên đầu dân quê. Về chân lý Ngài phán: “Kiếm tìm và phục vụ Chân Lý”. Còn tin mừng, sao Ngài không phán: ”Rao giảng và sống Tin Mừng”?. Đối với Ngài, tại lãnh vực chân lý luôn có khái niệm phục vụ. Còn tại lãnh vực tin mừng, trả bài thuộc lòng phúc âm tại bục giảng nhà thờ là xong! Nhưng thực ra phải sống tin mừng mới là căn bản.

Kể ra cũng lạ! Theo định nghiã, loan báo tin mừng là đưa tin mừng cho những kẻ chưa biết tin ấy. Xã Đoài là đất của Giáo dân, đã là Giáo dân nên đã biết tin mừng. Thời sao lại đặt vấn đề báo tin mừng cho những kẻ đã biết tin mừng?. Không lẽ Ngài nói mà không biết định nghiã của câu nói của Ngài?

Nếu muốn báo tin mừng, hãy về những vùng khỉ ho cò gáy, không có đạo mà báo tin. Sao lại trả bài tin mừng với Giáo dân tại nhà thờ làm chi?. Ngài xây dựng Câu Lạc Bộ Nguyễn Văn Bình tại Sài Gòn, chứ đâu tại suối máu mà bảo rao giảng tim mừng?. Một GM Nguyễn Văn Bình số II trước CSVN?

Tại làng mạc cóc hay gặp đống rơm và phải di chuyển theo mô hình đống rơm, nên dân Nghệ Tĩnh Bình có câu tục ngữ: “Cóc nhảy đống rơm thưa Ngài”.

Nay văn minh hơn một chút có chiếc máy bay chuồn chuồn lên thẳng, hầu không cần biết của con đường có liên tục hay không. Nên vừa tới trạm “sự vật khách quan”, Ngài dùng trực thăng vượt qua sông không cầu để tới trạm: “Lấy oán báo hay lấy ân báo oán”, làm Khổng Tử phải đội mồ giậy và la lối om sòm: “Không áp dụng bừa bãi bài học tui cho”.

Tam Tòa và Cầu Rầm ơi!. Để yên cho VC lấy nhà thờ là lấy ân báo oán!. VC đánh người tới và không đánh người chạy đi. Nhất định không đánh ông nghè gà ướt bẩm sinh ấy, cuốn cờ bỏ chạy với mê man trong các khái niệm. Thấy VC tới và bỏ chạy cũng như kệ đàn chiên giữa đàn sói cũng là ân báo oán đối với VC! Thần học giải phóng hiện rõ hình hài. VC cần đất xây khách sạn làm giàu. Hãy theo gương Ngài Bình năm cũ, lấy đất của GH cho chúng là diễn tả yêu thương chúng. Nếu làm như thế, VC sẽ không bách hại và Ngài đã diễn tả được yêu thương VC. Lợi cả trăm bề riêng cho Ngài tân Giám mục Vinh! Vì trong bài trả lời phóng vấn. Ngài không một dấu phẩy trước các đau thương của Giáo phận Vinh hiện nay!

Giòng thời cuộc đang cuốn chìm Tam Tòa hay Cầu Rầm và các em sinh viên ĐHSP. Bóng cha già Cao Đình Thuyên mà tất cả mến thương, sắp khuất dưới rặng liễu và màn sương. Còn Ông “mục tử”, từ trời rơi xuống, một phần do phép lạ của tam vô, nhất định không làm gì hết, ngoài việc nêu lên những trừu tượng lý thuyết, để biện minh cái bất cử bất động của Ngài bên giòng thời cuộc.

Một Màn Mờ Mắt Văn Hóa Và Đức Tin

Ai chẳng lạ trò chơi của khoa bảng. Đề tránh phản đối, phải trình bày vấn đề một cách thật khó hiểu với nhiều sáo ngữ nổ thật lớn. Không hiểu gì cả, nên lấy gì mà phản đối. Vòng vo Tam Quốc là chiến thuật hay nhất. Nên Ngài kêu tên cực trọng văn hóa để biện minh hay dùng như một điểm tựa để diễn giải. Nhưng Ngài không cho định nghiã mà Ngài dùng. Nhất là khi Ngài đã nêu vấn đề tương quan giữa văn hóa và đức tin. Nhưng tương quan qua yếu tố nào? Ngài không nói ra!

Thật ra trong tóm gọn. Văn hóa là tổng hợp của phong tục và truyền thống của một chủng tộc, được góp lại từ bao thế hệ. Còn vấn đề đức tin cũng giống như các nguyên lý của khoa học thực nghiệm.

Nếu muốn có các trả lời về các hiện tượng thiên nhiên của môi trường bao quanh, bằng các định luật dưới dạng phương trình toán học, trước tiên các khoa học gia phải chấp nhận 9 nguyên lý bảo toàn như: bảo toàn năng lượng hay nhiệt chỉ tự động chuyển đi từ nguồn nóng tới nguồn lạnh và không ngược lại và v.v. Từ đó quan sát và đi tới việc lập ra các phương trình gói gém định luật. Các định luật ấy không được chống lại các nguyên lý đã phải chấp nhận tại điểm đi.

Về lãnh vực tôn giáo cũng thế. Đức tin là một cần thiết, chứ không phải là một xa xỉ, để từ đó có thể giải đáp được các khắc khoải của con người. Trong khoa học thực nghiệm, nếu không chấp nhận các nguyên lý, thời không trả lời được các hiện tượng thiên nhiên. Trong cuộc sống, nếu không có đức tin thời không thể giải đáp được khắc khoải của con người trước các câu hỏi chính đáng.

Mẫu số chung của nguyên lý và đức tin là phải chấp nhận hay phải tin. Tuy không chứng minh được nguyên lý hay đức tin. Cho nên văn hóa và đức tin chỉ có mẫn số chung ấy thôi, tuy rất khác nhau.

Đang nói đức tin, tự nhiên Ngài đem khái niệm tôn giáo vào. Thực ra đức tin chỉ là phần của một tôn giáo (Tôn Giáo = Tín lý+ Giáo lý + Tổ Chức). Tuy tín lý (phải tin) là phần căn bản nhất. Cho nên không thể đồng hóa đức tin với tôn giáo cũng như không thể đồng hóa cái đầu con voi với con voi. Vì con voi còn có các phần khác. Nhưng Ngài nhất định đồng hóa.

Nhưng vì Ngài muốn luồn vấn đề trả bài thuộc lòng sứ vụ loan báo tin mừng vào, nên cho cả khái niệm vào cùng một thúng. Vấn đề không phải ở chổ tương quan giữa văn hóa và đức tin, trái lại làm sao cho đức tin mang nét tự động trong xuất phát giống như nét văn hóa nơi con người trong giao tế. Văn hóa có hai yếu tố: nét đẹp và đã ăn vào tiềm thức. Khi đã có tại tiềm thức, nhất cử và nhất động, nét đẹp ấy tự động và nhanh như chớp tung ra. Nghĩa là sống có văn hóa ra sao, thời phải sống có đức tin như vậy. Đó là mong uớc của Jean-Paul II. Lối sống nầy cùng chung một vẻ đẹp của lối sống có văn hóa. Nếu có tương quan, thời tương quan không nằm giữa đức tin và văn hóa. Trái lại tương quan nằm tại ước mơ lối sống của văn hóa cho lối sống của đức tin. Nay còn là ước mơ chưa thành đạt thưa Ngài. Ngài muốn diễn tả cái tương quan đã có sẵn hay cái mơ ước sẽ có tương quan giữa văn hóa và đức tin? Hai vấn đề khác nhau! Cớ sự làm sao mà phải vòng vo Tam Quốc rối như tơ vò? Đã đứng bên giòng thời cuộc chưa đủ, Ngài còn nhất định phải thêm tơ vò rối rắm mới được!

Ngài Định Chiếm Lòng Người Bằng Nắng Nhạt

Cho câu hỏi: “Đâu là định hướng mục vụ ưu tiên của Đức Cha sau khi nhận chức”.

Ngài bắt đầu nổ ngay những câu có tính cách gây cảm xúc tâm lý (pathétiques): “máu chảy về tim” để chiếm hồn người bằng nắng nhạt. Nhưng thực ra máu chảy từ tim ra mới có kết quả. Vì nó mang chất dinh dưỡng cho thân thể cũng như mang dưỡng khí cho các tế bào. Còn khi về tim, chỉ toàn phế thải thưa Ngài (đùa Ngài một phút¨). Như vậy Ngài mang phế thải về cho Giáo phận Vinh mất rồi!

Trong các phát biểu của Ngài. Có lẽ Ngài chưa đủ tự tin để lãnh đạo, nên phải kêu tên cực trọng các Thánh (từ Thánh Tôma Aquinô tới Thánh Ausgustinô) để các Thánh ủng hộ Ngài hay chứng giám cho Ngài. Nhưng thật ra chỉ là những giải thích riêng tư của Ngài về lới nói của các Thánh. Giải thích theo ý mình hay cố xuyên tạc theo ý mình để biện minh các lời Ngài nói không xa nhau cho mấy!

Tại phân khoa Thần Học của Đại Học Lausanne, một cựu viện trưởng kể lại câu chuyện 19 Giáo sư Thần Học dịch một bản Thánh thư như sau: “Tới nay, tuy chỉ có một Thánh thư bằng tiến Hy Lạp, đã có tới 19 bản dịch khác nhau tại Đại học nầy. Nay có một Giáo sư mới và ông bắt đầu dịch lại. Vì ông bảo là các bản dịch khác không chính xác. Cho nên sẽ có bản dịch mang số 20. Nhưng sẽ là 20 bản dịch không đồng ý với nhau, từ một bản Thánh thư!. Dùng các lời của các Thánh thần học cũng thế thôi.

Liên quan vấn đề kỹ năng làm Giám mục. Ngài đã quên rằng: Trời sinh con bò để cày và sinh con ngựa để chạy. Tuy không có trường nào dạy con bò kéo cày hay con ngựa để chạy. Nhưng không vì thế mà bắt con bò ra chạy và con ngựa ra cày. Dầu cày hay chạy, con bò vẫn là con bò và con ngựa vẫn là con ngựa.

Dầu cho con gà ướt được thả dù xuống Xã Đoài hay nơi khác, con gà ướt luôn vẫn là con gà ướt cố tình lầm lẫn chiến lược với chiến thuật. Một bất hạnh!

Những giảng dạy tại Đại chủng viện không phải là những lon lá lấy tại địa bàn thực nghiệm kỹ năng Giám mục. Tại địa bàn thực nghiệm ấy, nếu không có kỹ năng Giám mục, thời đã bị thực nghiệm xóa sổ ngay tại một trong các đoạn của con đường phải đi qua. Hơn nữa lãnh đạo phải có một ít thiên bẩm. Tự nhiên được thả dù không nói lên các thực nghiệm có tính cách trắc nghiệm kỹ năng và cái thiên bẩm lãnh đạo cần phải có.

Đối với GHCGVN, một vấn đề muôn thuở vẫn là vấn đề “Loan bóa tin mừng và đào tạo nhân sự” như Ngài đã phán trong bài phỏng vấn. Nhưng mỗi giai đoạn, luôn có những ưu tiên cho một vấn đề. Nay ưu tiên của GHCGVN là phải nói lên sự thực. Một căn bản sứ vụ có tính cách chiến lược mà Ngài không đặt ra. Ngài lại vớ vẫn tại cái cố hữu và trường kỳ ấy, không nhất thiết là ưu tiên của hiện tại, là nghĩa gì? Rao giảng tin mừng tuy quan trọng, nhưng còn cái quan trọng hơn, đó là Sống Tin Mừng bằng những hành động thực tiễn có tính cách thuyết phục.

Nhĩa là loan báo tin mừng bằng hành động. Còn trả bài thuộc lòng tin mừng, trong hoàn cảnh của GH hôm nay với lối nói cho qua hay hỏa mù, không ích lợi gì cả và kết quả chỉ đuổi hết những ai đã biết tin mừng đi chỗ khác vì quá nhàm tai. Vì thấy cái giả dối của cách loan báo ấy! Như Vị Cứu Thế đã phán: “Hãy xem chúng làm và đừng nghe chúng nói”.

Hiện nay, tuy HĐGMVN luôn hô hoán loan báo tin mừng qua các thông cáo, nhưng chẳng mấy ai còn tin tưởng cái HĐGMVN ấy nữa! Trước một thực tế phũ phàng như vậy. Cần phải thức tỉnh nhận định tình hình. Sao lại vẫn còn cách trả bài thuộc lòng ấy, nó không hữu ích và không thuyết phục được ai nữa. Một bám víu chiến thuật phản tác dụng.

Lời Kết

1. - Đối với một bài phỏng vấn có tính cách trình bày chiến luợc hay hướng đi của một vị tới đảm nhiệm chức vụ có tính cách dìu dắt hay lãnh đạo. Khi các nét chiến lược cũng như cách hành xử đã được tìm ra ngay tại đoạn đầu của bài phỏng vấn. Thời một tiếp tục đọc tiếp các đoạn sau của bài phỏng vấn, nhất là những đoạn mang nặng nét tạo cảm xúc tâm lý, để che lấp sự việc chối bỏ sứ vụ căn bản, thời không cần thiết nữa.

2. - Qua các trình bày phía trên, một vấn đề rõ ràng là phần đông lãnh đạo của GHCGVN hôm nay, không riêng gì Ngài tân Giám mục Vinh, có thề may mắn hơn một số Giám mục khác về học vấn, đã đứng bên giòng thời cuộc và chỉ tập trung vào hô hoán những chiến thuật có tính cách thức ứng để chối bỏ sứ vụ căn bản của GHCGVN: Phải nói lên sự thật hầu bảo vệ công bằng cho người dân nói chung và cho Giáo Hội cũng như Giáo dân nói riêng.

3. - Phản đối các vị nầy là một cần thiết trong việc giúp GHCGVN có can đảm nhận lãnh nhiệm vụ bảo vệ người dân trong một thể chế vô thần và gian ác. Nhiệm vụ ấy là một trong hai sứ vụ của GHCGVN: «Công bằng và Bác ái». Rao giảng tin mừng chỉ là mở nước Chúa cho hai sứ vụ ấy. Không lấy phương tiện làm mục tiêu. Và mục tiêu là Công Bằng và Bác Ái.

4. - Khi có chủ trương làm thinh trước bất công của thời cuộc. Thời có nhiều nhân sự nhất định làm thinh về sứ vụ hay nói bâng quơ là để làm gì ? Và rao giảng tin mừng với chủ trương «làm thinh» chỉ là lời nói của người Pharisiêu. Những nguời nầy đã bị Chúa chỉ mặt cũng như cảnh cáo, trong lúc Chúa Con hiện diện tại trần thế tại Do Thái !

5. - Khi một đường lối xem ra sáng tỏ cũng như các hướng tiến xem ra rõ ràng. Những vòng vo Tam Quốc như trong bài phỏng vấn không cần thiết. Nên đi thẳng vào vấn đề một cách ngắn gọn.

6. - Nhưng khi vòng vo Tam Quốc phải dùng tới. Nó tố cáo những bóng tối mà người phỏng vấn cần che đậy. Một hiển nhiên mà bao người đã hiểu. Nhất là đối với những Giáo dân cũng có những kiến thức tương đương về phân tích. Nhưng kẻ được phỏng vấn cố quên sự kiện nầy và vẫn tưởng đọc giả, nhất là đọc giả Giáo phận Vinh, là đàn cừu chứ không phải là đàn chiên. Nói sao sẽ được các con cừu tin vậy. Tuy đó không phải là tội trọng, nhưng là ảo tưởng. Nên nhìn nhận và cần thay đổi!

7. - Nhân loại đóng ghế đóng bàn cho ai học hành là để «hiểu biết» trở lại giúp ích cho đời và cho người cũng như bày tỏ một biết ơn qua sự giúp ích. Chứ không phải để dùng hiểu biết vào việc lừa phỉnh bằng ngôn ngữ có sách và mách có chứng với lý sự. Văn bằng và lương tâm ngay thẳng ít khi đi đôi với nhau !

Ts Hồng Lĩnh

Tham chiếu:
    Bài phỏng vấn Tân Giám mục Nguyễn Thái Hợp
29.06.2010

GPVO 29/6/2010 - Chỉ còn hơn 3 tuần lễ, ngày 23/7/2010 sẽ diễn ra Thánh lễ tấn phong Giám mục Giáo phận Vinh. Thiệp mời đã được gửi đi. Các công việc chuẩn bị đang được tiến hành với nhịp độ khẩn trương. Tuy đang bận rộn với việc "học nghề" (từ ngữ Đức cha Phaolô dùng), nhưng Đức Tân Giám mục vẫn ưu ái dành cho Web Giáo phận một cuộc trao đổi thân tình. Ngài nói về châm ngôn mục vụ, về những thao thức loan báo Tin Mừng, những chia sẻ, gợi mở cho giới truyền thông Công giáo, v.v.. Đằng sau con người thông thái, uyên bác, lịch lãm..., người ta luôn gặp thấy bóng dáng của một "ông đồ Nghệ" với tất cả ý nghĩa của từ ngữ này...

Sau đây là toàn văn bài phỏng vấn Đức Giám mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp do Web Giáo Phận Vinh (GPVO) thực hiện:

1. "Sự thật và Tình yêu" là châm ngôn mục vụ được Đức cha lựa chọn. Châm ngôn này được gợi hứng từ đâu?

GM-NTH: Châm ngôn mục vụ của tôi là Sự thật và Tình yêu. Châm ngôn này được gợi hứng từ Thánh Kinh và muốn nhấn mạnh hai yếu tố căn bản của Kitô giáo: Sự thật được diễn tả bằng hai màu “đen-trắng”, lấy từ logo của Dòng Đa Minh, còn trái tim bao bọc chung quanh là biểu hiệu của tình yêu. Thấp thoáng bên dưới là hình ảnh con thuyền Giáo Hội đang rẽ sóng tiến về “Sự thật và Tình yêu”. Tất cả được nối kết với nhau và gắn chặt vào thập giá của Đức Kitô. Thật vậy, đối với các Kitô hữu, Đức Kitô chính là “con đường, sự thật và sự sống” (Ga 14,6). Không ai có thể đến với Thiên Chúa mà không ngang qua Người. Và cũng chẳng ai được cứu rỗi, nếu không yêu thương như Người đã yêu thương chúng ta.

Châm ngôn có hai vế. Vế đầu nhấn mạnh đến trách nhiệm kiếm tìm và phục vụ Chân lý. Thánh Đa Minh đã lấy việc loan báo Tin Mừng và phục vụ chân lý như ơn gọi của Dòng Giảng thuyết. Đòi hỏi đầu tiên của ơn gọi này là phải tôn trọng phản ánh chính xác của sự vật khách quan, cũng như các quy luật và giá trị của chúng. Yêu cầu tôn trọng sự thật khách quan vẫn được coi là thái độ lương thiện trí thức. Đức Giêsu cũng thường căn dặn các môn đệ: “Hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37). Theo thánh Tôma Aquinô, việc truy tầm chân lý đòi hỏi thái độ chân thành và biết mở rộng tâm hồn để đón nhận sự thật “bất cứ từ đâu tới và bất kỳ do ai nói”.

Đối với các Kytô hữu, ngoài sự thật tự nhiên nói trên còn phải kiếm tìm sự thật siêu nhiên, có sức cứu độ và giải thoát con người. Đó chính “Anh sáng vĩnh cửu chiếu soi trần gian”, mà Đức Kitô đem đến. Chính Ngài đã tuyên bố với người Do Thái: Sự thật sẽ giải phóng các ông và làm cho các ông được tự do, trái lại tội lỗi và lầm lạc sẽ nô lệ hóa con người, làm cho họ bị vong thân, băng hoại, khốn khổ (x. Ga 8, 31-36).

Thánh Phaolô đã diễn tả một cách thật sắc nét phần thứ hai của châm ngôn qua Bài ca đức ái (1Cor 13,1-14). Vị Tông đồ dân ngoại, mà tôi được hân hạnh nhận làm thánh quan thầy, quả quyết: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi…”.

Lấy oán báo oán vẫn được coi là điều dĩ nhiên ở thời đại ấy. Chỉ một số hiền nhân hiếm hoi mới vượt khỏi cái lẽ thường tình và bắt đầu đặt vấn đề về hiện tượng “oán báo oán, oán chập chùng”. Lần kia, một môn sinh hỏi Khổng Tử: “Lấy ân báo oán được chăng?”. Vị vạn thế sư biểu trả lời: “Nếu lấy ân báo oán thì lấy gì báo ân?”. Và ngài đề nghị: “Lấy chính nghĩa báo oán và lấy ân báo ân”. Phải công nhận rằng đây là một quan niệm triết lý chính trị nhân bản và tiên bộ mà suốt mấy ngàn năm qua nhân loại đã cố gắng thể hiện.

Tuy nhiên, từ viễn ảnh tôn giáo, thánh Phaolô mời gọi các Kitô hữu cố gắng đi xa hơn lẽ thường tình và ngay cả triết lý chính trị tiến bộ ấy. Ngài tha thiết nhắn nhủ: “Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa (…). Đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt (…). Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12, 14,17, 21).

Chính Đức Giêsu đã coi “yêu thương” là điều răn căn bản của Kitô giáo: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em trên Trời” (Mt. 5,43-45). Bài giảng trên núi khai triển giáo lý căn bản này và trở thành một thứ Hiến chương Nước Trời: “…Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương… Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 7-10).

Thánh Gioan đã dám định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu” và quả quyết “ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8). Đây là mạc khải tối cao và nét đặc trưng của niềm tin Kitô giáo. Trong diễn văn từ biệt, chính Đức Giêsu cũng long trọng tuyên bố: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau … như Thầy đã yêu thương anh em”. Kể từ đó “yêu thương” trở thành dấu chỉ để nhân loại nhận diện người môn đệ của Đức Kitô (x. Ga 13, 34-35).

2. Trong bài phát biểu ngày về với Giáo phận (27/5/2010), Đức cha đã nói: "Cho đến nay, tôi dấn thân hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục xã hội...", và trong bài trả lời phỏng vấn của Trang tin HĐGMVN, Đức cha tâm sự rằng cho đến thời điểm hiện tại, "vẫn còn lại 1 hội nghị quốc tế, 2 cuộc tọa đàm, 2 khóa thường huấn và hai cuộc tuần tĩnh tâm". Là Giám mục giáo phận, với gánh nặng mục vụ, liệu Đức cha có phải "hy sinh" những nghiên cứu, suy tư...?

GM-NTH: Càng ngày tôi càng ý thức tầm quan trọng của mối tương quan giữa đức tin và văn hóa trong sứ vụ loan báo Tin Mừng ở thời đại chúng ta. Khá nhiều văn kiện của Tòa Thánh và của các Hội đồng Giám mục đề cập đến vấn đề nóng bỏng này. Để loan báo Tin Mừng cho thời đại đa phức tôn giáo và đa văn hóa hôm nay, chúng ta phải tích cực dấn thân đối thoại với con người thời đại, với các trào lưu tư tưởng, với các tôn giáo và các nền văn hóa. Công đồng Vatican II chính thức công nhận: “Có nhiều mối tương quan giữa sứ điệp cứu độ và văn hóa. Bởi vì, từ khi mạc khải cho dân Ngài tới khi biểu lộ tròn đầy trong Chúa Con Nhập thể, Thiên Chúa đã nói với con người qua các loại văn hóa riêng biệt của từng thời đại. Cũng thế, trải qua những hoàn cảnh khác nhau của lịch sử, Giáo Hội đã sử dụng tài nguyên của các nền văn hóa khác nhau để phổ biến và trình bày sứ điệp của Đức Kitô cho muôn dân, qua lời rao giảng”.

Trên nguyên tắc, Tin Mừng không cần một mảnh đất riêng nào để sống và cũng chẳng đồng hóa với bất cứ nền văn hóa nào, nhưng trong thực tại lịch sử, công cuộc loan báo Tin Mừng không thể tách rời các nền văn hóa. Theo các Giám mục Á Châu, “văn hóa là không gian sống trong đó con người đến với Tin Mừng, mặt giáp mặt. Nếu đích thực văn hóa là thành quả của cuộc sống và hoạt động của một nhóm người, thì những người thuộc nhóm đó cũng được uốn nắn một phần bởi nền văn hóa trong đó họ đang sống (...). Từ viễn cảnh đó, ta nhận thức rõ hơn tại sao Tin Mừng hóa và hội nhập văn hóa tương quan với nhau cách tự nhiên và mật thiết. Tin Mừng và công cuộc loan báo Tin Mừng chắc chắn không đồng nhất với văn hóa. Tuy nhiên, Nước Thiên Chúa đến với những con người gắn bó sâu xa với một nền văn hóa, và do đó, công cuộc xây dựng Vương Quốc không tránh khỏi việc vay mượn các yếu tố rút ra từ các nền văn hóa nhân loại”.

Chỉ có thể gọi là một cuộc loan báo Tin Mừng thành công khi chất men Tin Mừng thực sự đi vào lòng người, hội nhập vào truyền thống dân tộc và biến thành văn hóa. Trong văn thư thành lập “Hội Đồng Giáo hoàng về Văn hóa”, Đức Gioan Phaolô II diễn tả một cách sâu sắc mối tương quan mật thiết giữa Tin Mừng và văn hóa như sau: “Một đức tin mà chưa biến thành văn hóa, là đức tin chưa được đón nhận trọn vẹn, chưa thực sự suy tư, chưa sống một cách chân thành”.

Chính trong ý nghĩa đó, tôi nghĩ rằng loan báo Tin mừng trong lãnh vực văn hóa - giáo dục phải là một trong những sứ vụ ưu tiên của Giáo Hội chúng ta. Nhưng làm sao kết hợp hài hòa trách nhiệm mục vụ truyền thống của một giám mục với việc dấn thân trong lãnh vực văn hóa và giáo dục? Hiện nay tôi đang cố gắng kiếm tìm một câu trả lời thỏa đáng cho thách đố này.

3. Giáo phận Vinh là một giáo phận rộng lớn (với địa bàn rộng thứ nhì và số giáo dân đông nhất trong Giáo tỉnh Hà Nội) và là giáo phận giàu truyền thống. Đâu là định hướng mục vụ ưu tiên của Đức cha sau khi nhậm chức?

GM-NTH: Trở về với giáo phận Vinh tôi cảm thấy nguồn vui được trở lại môi trường tự nhiên, như người con xa quê được quay về miền Đất Mẹ, như máu chảy về tim. Theo kiểu nói của thánh Augustinô, cùng với giáo dân Vinh tôi là một Kitô hữu mang đậm dấu ấn Nghệ-Tĩnh-Bình và vì giáo dân Vinh tôi đang cố gắng phấn đấu để trở thành một giám mục của Giáo Hội Công giáo tại Vinh, theo phong cách Nghệ-Tĩnh-Bình và mang tâm tình yêu thương của Đức Kitô.

Tôi là một linh mục Dòng Đa Minh và được đào tạo để loan báo Tin Mừng trong lãnh vực văn hóa - giáo dục - xã hội. Tôi không biết trên thế giới có trường nào dành riêng để đào tạo giám mục hay chăng? Riêng bản thân tôi chưa từng ghi tên theo học “kỹ năng làm giám mục”. Cũng chưa có dịp thực tập cách thức điều hành giáo phận. Hơn nữa, phải nói rằng hoạt động mục vụ của giám mục là một thế giới khá xa lạ với sinh hoạt bình thường của tôi. Chắc chắn trong thời gian đầu sẽ vác gậy và mũ đi theo “Đức cha già” Cao Đình Thuyên để học nghề.

Trong mấy năm vừa qua tôi đã có dịp giảng dạy ở Đại Chủng viện Vinh Thanh và thăm một số họ đạo. Nhưng giáo phận Vinh là một giáo phận rộng lớn và giàu truyền thống, nên dĩ nhiên phải tiếp tục học hỏi, và tiếp cận thực tế nhiều hơn nữa. Trước mắt, tôi cố gắng tiếp tục và kiện toàn những gì đang có. Sau đó sẽ cùng với các linh mục, tu sĩ và giáo dân kiếm tìm một chương trình mục vụ thích hợp cho giáo phận. Tuy nhiên, nếu hỏi về yếu tố ưu tiên trong chương trình mục vụ thì, đối với tôi, luôn luôn vẫn là sứ vụ loan báo Tin Mừng và đào tạo nhân sự.

4. Vào lúc này, Đức cha muốn chia sẻ điều gì với cộng đồng Dân Chúa tại Nghệ-Tĩnh-Bình?

GM-NTH: Một linh mục giáo phận Vinh đã diễn tả cái khắc nghiệt của Nghệ – Tĩnh- Bình như sau: “Quê tôi gạt sỏi tìm cơm/Hết mưa, thôi hạn lại cơn bão gần”.

Như một quy luật bù trừ của Tạo hóa, chính từ vùng đất khô cằn đó đã xuất phát nhiều con người tài năng, can trường, khí tiết và đầy cá tính. Hình như trong điều kiện thiên nhiên nghiệt ngã đó, con người chỉ có thể vươn lên nhờ năng lực của trí tuệ, sự kiên nhẫn và phấn đấu của bản thân.

Người ta đã kể quá nhiều giai thoại về cái ngang, bướng, bộc trực và kiên cường của người dân xứ Nghệ. Có người xếp dân Nghệ vào loại dân có “máu cách mạng”, gàn bát sách, hung hăng tiết vịt, liều lĩnh và đôi khi thích cầm đèn chạy trước ô tô. Rất tiếc phạm vi giới hạn của bài phỏng vấn không cho phép kể lại tất cả, chỉ xin trích dẫn một vài nhận định.

Sau một thời gian sống và giảng dạy tại Vinh, Gs. Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận định về người Nghệ như sau: “Tôi cho rằng dân Nghệ Tĩnh sống quá khắc khổ và có một ý chí rất quyết liệt. Họ đã muốn gì thì phải tranh đoạt bằng được. Và quá tự hào, tự phụ về quê hương mình. Cãi nhau với người Nghệ Tĩnh là dại. Vì họ tự cho là đúng nhất, giỏi giang nhất và vì thế cãi đến cùng, lý sự đến cùng, căng thẳng, quyết liệt đến cùng, khiến đối phương mệt quá, đành phải bỏ cuộc. Dân Nghệ Tĩnh nói chung có tật hay khoe khoang. Khoe tài, khoe giỏi, khoe quê hương cái gì cũng nhất, từ chính trị đến văn hoá nghệ thuật. Ở đâu, trên xe lửa, trong ôtô bus, hay ở những cuộc gặp mặt đông người nào đó, tiếng Nghệ Tĩnh cứ oang oang như muốn lấn át tất cả”.

Gs. Hoàng Ngọc Hiến, gốc Nghệ Tĩnh và cũng có phong cách rất ư là “Nghệ”, đã nói về đồng hương của mình như sau: “Người Nghệ Tĩnh cái gì cũng biết, trừ hạnh phúc”.

Linh mục thừa sai Abgrall, quen gọi là Cố Đoài, từng giữ chức Cha Chính Giáo phận và cũng là một ứng viên sáng giá giám mục Đại diện Tông Tòa ở Vinh, sau nhiều năm truyền giáo tại vùng đất Nghệ-Tĩnh-Bình, đã đưa ra một nhận định thật sâu sắc: “Những người dân ở đây luôn đi đầu trong nổi loạn và đi sau cùng khi phải đầu hàng”. Nhiều người đã mỉm cười và gật gù đắc chí khi đọc nhận định này, vì trên tổng thể, nó vẫn còn đúng cho đến hôm nay.

Nhưng cũng chính nhờ cá tính và chí khí bất khuất đó mà người Nghệ-Tĩnh-Bình luôn kiên cường, hăng say dấn thân và dám đương đầu với những nghịch cảnh. Về mặt tôn giáo, Vinh là một giáo phận lớn, nhiều truyền thống, nhân lực dồi dào và tổ chức chặt chẽ. Có lẽ ít ở nơi nào người ta gặp thấy các tín hữu yêu mến Giáo Hội và gắn bó với các giám mục như ở giáo phận Vinh. Những sinh viên Công giáo hăng say dấn thân nhất tại Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Sàigòn phải chăng cũng là nhóm sinh viên gốc Vinh? Giới trẻ gốc giáo phận Vinh cũng đang hiện diện đông đảo tại hầu hết các Dòng tu ở Việt Nam, đến độ nhiều người đã ví von: “Trời đất đầy Vinh ..... quang Chúa”.

Nhân dịp Năm Thánh 2010 này, ước mong sao cộng đồng Dân Chúa tại Vinh biết cùng với Giáo Hội Việt Nam “ôn cố tri tân” để tích cực loan báo Tin Mừng. Thiết tưởng cũng nên nhìn lại chính mình để phát huy hơn nữa sở trường và cố gắng giảm thiểu khía cạnh tiêu cực. Đặc biệt, trong thời đại hôm nay làm sao gia tăng đối thoại, đa diện hơn trong cách nhìn và mềm dẻo hơn trong phê phán cũng như đường lối ứng xử.

5. Sau cùng, là một người có nhiều duyên nợ và cũng đã từng dấn thân trong lĩnh vực truyền thông, Đức cha có điều gì muốn chia sẻ với độc giả Web Giáo phận?

GM-NTH: Theo luật lệ hiện hành, tại Việt Nam truyền thông xã hội vẫn hoàn toàn trực thuộc Nhà nước. Vì vậy, mặc dù, cả nước có tới 702 cơ quan báo chí và hầu như tỉnh nào cũng có truyền thanh hay truyền hình, nhưng tất cả báo đài hiện nay đều trực thuộc cơ quan công quyền. Trước mắt, xã hội dân sự chưa hình thành và chưa thực sự đóng góp phần tích cực của mình cho truyền thông.

Riêng đối với giới Công giáo, trên cả nước, chỉ vỏn vẹn hai tờ báo dành riêng cho giới Công giáo. Tờ “Người Công giáo Việt Nam” ở Hà Nội, chỉ phát hành vài ngàn tờ một tuần và có ảnh hưởng rất hạn chế. Tờ “Công giáo và Dân tộc” có hai ấn bản: Tuần báo với gần 15.000 tờ và Nguyệt san với khoảng 3.000 tờ. Nhưng cả hai đều là cơ quan ngôn luận của Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam, một tổ chức thành viên của UBMTTQVN. Về mặt pháp lý, Giáo Hội Công giáo chỉ có tờ Hiệp Thông, và cũng chỉ mới xuất hiện từ 10 năm nay (12-1998), dưới hình thức một “Bản tin”, lưu hành nội bộ, với số lượng theo giấy phép chỉ vỏn vẹn 100 bản (trong thực tế, số lượng in nhiều hơn) và hai tháng mới ra một kỳ. Rất tiếc là Giáo Hội cũng chưa tận dụng và khai thác tối đa phương tiện ít ỏi này.

Vì không có phương tiện truyền thông nên nhiều lần giới Công giáo bị nhiều thiệt thòi. Đức Hồng y Phạm Minh Mẫn than: “Thực tế cho thấy cơ quan truyền thông xã hội nơi này nơi khác thông truyền có khi là sự thật thật, có khi là sự thật ảo, có khi là sự thật bị cắt xén, bị bóp méo, thêm râu ria, có khi là sự thật một chiều, một mặt. Phải chăng nguyên nhân là do quan điểm cho rằng sự thật chỉ là những gì có lợi cho mình? Hoặc do cái nhìn bị giới hạn bởi hoàn cảnh? Hoặc do nỗi sợ hãi nào đó thường núp bóng sau lưng những hình thức bạo lực? Và hậu quả trước mắt là dễ tạo ra mâu thuẫn đối kháng, hoặc gây nhiễu và làm biến chất những mối quan hệ xã hội”.

Các Giám mục Việt Nam cũng đã nhận định về thực trạng truyền thông tại Việt Nam như sau: “Trong tiến trình giải quyết những tranh chấp, một số phương tiện truyền thông thay vì là nhịp cầu liên kết và cảm thông thì lại gieo rắc hoang mang và nghi kỵ. Quả thật chưa bao giờ các phương tiện truyền thông phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng như ngày nay, nhờ đó, con người được gia tăng hiểu biết và phát triển tình liên đới. Tuy nhiên, các phương tiện truyền thông chỉ thực sự mang lại lợi ích cho con người và cho cộng đồng xã hội khi phục vụ sự thật và phản ánh thực tại cách trung thực. Ngày nay, một trong những điều gây nhức nhối lương tâm là sự gian dối trong nhiều lãnh vực, kể cả trong môi trường cần đến sự thật nhiều nhất là giáo dục học đường. Chắc chắn tất cả những ai tha thiết với tiền đồ của đất nước và dân tộc, không thể không quan tâm đến vấn đề này”.

Các Giám mục đề nghị giải pháp khắc phục là: “Đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi những người làm công tác truyền thông phải tôn trọng sự thật. Trong thực tế, đã có những méo mó cắt xén, như trong trường hợp tranh chấp đất đai tại Tòa Khâm sứ cũ. Vì thế, chúng tôi đề nghị những người làm công tác truyền thông đại chúng phải hết sức cẩn trọng khi đưa tin tức và hình ảnh, nhất là khi liên quan đến danh dự và uy tín của cá nhân cũng như tập thể. Nếu đã phổ biến những thông tin sai lạc thì phải cải chính. Chỉ khi tôn trọng sự thật, truyền thông mới thực sự hoàn thành chức năng của mình là thông tin và giáo dục nhằm xây dựng một xã hội công bằng và văn minh”.

Tình trạng yếu kém về truyền thông xã hội của giới Công giáo Việt nam ngoài lý do “pháp lý” nêu trên, phải chăng còn có yếu tố nội bộ, do sự thiếu nhiệt thành, thiếu năng động, ít sáng tạo và tổ chức yếu kém? Chúng ta đang sống trong giai đoạn thông tin kỹ thuật số: Thông tin không chỉ được phổ biến trên nguyệt san, tuần san hay nhật báo, mà trên mạng, với nhịp độ từng giờ, từng phút và từng giây.

Thật vậy, cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã tạo cơ hội ngàn năm một thuở để bùng nổ thông tin qua các trang web và các blog cá nhân. Đây là một hình thức thông tin mới, hấp dẫn, năng động, đa dạng, vừa bằng chữ viết, vừa kèm theo hình ảnh hay minh họa. “Kể từ buổi sơ khai năm 1997 đến nay, blog đã tăng vùn vụt về số lượng và ngày càng chứng minh sức ảnh hưởng to lớn của mình. Thế giới hiện có hơn 70 triệu trang blog tồn tại, với hơn 1,5 triệu bài viết mới mỗi ngày, trong đó, blog sử dụng tiếng Việt đã lên đến con số hơn 3 triệu. Với webblog cá nhân, người đưa tin có trang web để tự thể hiện mình, nối kết chia sẻ hình thành mạng xã hội, giải phóng sự thật ra khỏi những rào cản và lăng kính của các thiết chế quyền lực truyền thống, thách thức ngay cả các tập đoàn truyền thông đang áp đặt thông tin ở qui mô quốc gia hay toàn cầu”.

Nếu truyền thông là “diễn đàn hàng đầu của thời hiện đại” mà chúng ta cần khai thác để phục vụ công tác loan báo Tin Mừng, thì “Giáo Hội sẽ cảm thấy sai lỗi trước mặt Chúa nếu không sử dụng các phương tiện truyền thông cho sứ vụ Phúc âm hóa”. Nếu báo viết bị hạn chế, tại sao không phát triển báo mạng? Các trang web hiện nay không phải là công cụ thông tin hiện đại, hữu hiệu, năng động và nhanh nhất? Có bao nhiêu người Công giáo sử dụng blog cá nhân này để thông tin, giáo dục và loan báo Tin Mừng? Mấy năm gần đây cũng đã xuất hiện một số trang Web Công giáo, nhưng chất lượng của các trang web đó như thế nào và được độc giả đón nhận ra sao?

Trong tinh thần trách nhiệm và xây dựng tương lai, xin được kết thúc bài phỏng vấn này với tâm nguyện của Giáo chủ Biển Đức XVI gửi giới trẻ: “Các bạn trẻ rất quý mến, các con hãy dấn thân đem vào nền văn hóa truyền thông và phương tiện thông tin mới mẻ này những giá trị mà cuộc sống của các con dựa vào! Vào thời sơ khai của Giáo Hội, các Tông đồ và các môn đệ của các ngài đã mang Tin Mừng của Chúa Giêsu đến cho thế giới Hy-La: khi đó, công tác Phúc âm hóa, để được phong nhiêu, đòi hỏi phải hiểu biết cách chăm chú nền văn hóa và các phong tục của các dân ngoại này với mục đích chạm đến tâm trí của họ. Ngày nay cũng thế, việc loan báo Chúa Kitô trong thế giới công nghệ kỹ thuật mới giả thiết sự hiểu biết sâu xa về chúng để sử dụng chúng cách đúng đắn. Chính nơi những người trẻ các con, hầu như tự nhiên đồng cảm với các phương tiện truyền thông mới mẻ này, mà đặc biệt bổn phận Phúc âm hóa “lục địa kỹ thuật số” này thuộc về các con. Các con hãy biết gánh lấy cách nhiệt tình sứ vụ loan báo Tin Mừng cho những người đương thời với các con!”

Ước mong sao gia trang (trang Web) của giáo phận có thêm cộng tác viên trẻ và phát triển hơn nữa về mọi phương diện. Để thực hiện được điều đó, đã đến lúc cộng đồng Dân Chúa cần ý thức hơn nữa vai trò của truyền thông và tích cực hỗ trợ trang Web của giáo phận chúng ta.

GPVO thực hiện



Saturday, July 3, 2010

Tổng Thống Nga Dmitry Medvedev nói về CS Liên Sô - Giao Tiên



Giao Tiên

Ngày 7 tháng 5 năm 2010, Tổng Thống Nga Dmitry Medvedev đã trả lời câu phỏng vấn của tờ nhật báo Nga Isvestiai rằng: “Chế độ chính quyền ở Liên Xô khi trước không thể diễn tả bằng cách nào khác hơn là một chế độ độc tài toàn trị. Thực không may, đây là một chế độ đàn áp các quyền tự do cơ bản không những chỉ người dân của nước mình, mà còn cho nhân dân các nước nằm trong khối CS, tôi muốn nói tới các nước XHCN khác, trong gần nửa thế kỷ nay. Và vết nhơ này không thể nào bôi xóa trong lịch sử”.

Lời phát biểu của vị nguyên thủ Nga đã gây chấn động hệ thống truyền thông Nga và nhiều nước trên thế giới. Vị Tổng Thống 45 tuổi đời, sau 2 năm cầm quyền đã can đảm nói lên một sự kiện mà từ trước tới nay không ai dám lên tiếng. Sự can trường và quả quyết của ông còn được thể hiện khi ông quyết định tới Ba Lan để tham dự tang lễ của cố TT Ba Lan, Lech Kaczynski và 94 nhân viên tháp tùng, đã thiệt mạng trong tai nạn máy bay tại rừng Katyn ngày 4/10/2010. Cuộc hành trình tới Ba Lan thực vô cùng nguy hiểm do khói và bụi núi lửa phun ra mù mịt trên bầu trời. Nhiều nguyên thủ quốc gia đã huỷ bỏ chuyến tham dự tang lễ này vì sợ chuyến bay không an toàn, nhưng ông Medvedev đã tới Ba Lan bằng máy bay, bay tầm thấp dưới 10 ngàn mét. Sự hiện diện của ông trong tang lễ làm người Ba Lan rất xúc động và thế giới cảm phục. Ông Dmitry Medvedev muốn chứng tỏ với nhân dân và chính quyền Ba Lan thiện chí của Nga trong việc hòa hợp hòa giải và đoàn kết dân tộc giữa 2 nước.
70 năm trước đây, vào năm 1940, 22 ngàn sĩ quan Ba Lan đã bị Staline ra lệnh thảm sát tại rừng Katyn và cơ quan an ninh Liên Xô đã bưng bít và bóp méo sự thật về vụ này. Mãi sau này, chính quyền Ba Lan mới đưa vụ thảm sát ra tòa án Nhân Quyền Âu Châu tại Strasbourg với những bằng chứng. Thân nhân những người bị sát hại đã đòi chính phủ Nga phải bồi thường.

Tháng 3/2010, Viện Công tố Quân Sự Nga đã trả lời Tòa Án Nhân Quyền Âu Châu rằng: “Vụ thảm sát xảy ra từ năm 1940, tới nay đã vượt qua thời hiệu pháp lý. Nước Nga, ngày hôm nay, không thể chịu trách nhiệm cho một chính quyền 70 năm về trước”.

Tuy nhiên, quan điểm của ông Dmitry Medvedev thì ngược lại. Ông nói: “Nếu ngày hôm nay, nhắm mắt trước những tội ác này, thì trong tương lai, những tội ác như vậy sẽ còn lập lại, ở dạng này hay dạng khác, ở nước này hay nước kia. Vì vậy, thời gian khiếu nại tuy khá xa, nhưng tội ác tày trời như vậy không bao giờ mất thời hạn. Những người gây tội ác, bất cứ là ai, bất kể thời gian là bao nhiêu năm, cũng phải gánh trách nhiệm ! Đây là vấn đề trách nhiệm và đạo đức, một sự kiện đáng để cho các thế hệ tương lai rút kinh nghiệm”.

Ông Medvedev cũng tố cáo: “Stalin đã giết dân mình hàng loạt. Ông ta là kẻ sát nhân với số lượng lớn. Tội ác đó không thể tha thứ được”.

Giới truyền thông rất ngạc nhiên vì lời tố cáo tội ác của Stalin từ cửa miệng TT Medvedev. Ông nói một cách tự nhiên, không hề bị một áp lực từ bên trong hay bên ngoài. TT Medvedev đã nhìn ra và nói lên cái chế độ tàn bạo của Liên Bang Xô Viết dưới thời Stalin, một bạo chúa. Ông cũng chỉ trích các tổ chức CS vẫn còn tôn thờ Stalin, muốn treo hình Stalin nhân dịp kỷ niệm 65 năm chiến thắng phát xít Đức. Ông khẳng định: “Điện Kremlin sẽ không xử dụng các biểu tượng như vậy. Sự trở lại của chủ nghĩa Stalin đã hoàn toàn bị loại trừ. Và ông kết luận: Tôi đã phải chờ đợi quá lâu để nói lên sự thật này”.

Việc công khai tố cáo tội ác của Stalin đã gây tranh cãi trong công chúng Nga. Một số người đề cao công lao của ông ta trong việc chiến thắng phát xít Đức, nhưng các tổ chức nhân quyền đã đưa ra bằng chứng về sự sát hại hang triệu người Nga trong 3 thập niện cầm quyền. của Stalin. Những trại tù Gulag khủng khiếp gây kinh hoàng cho dân chúng. Các cuộc cưỡng ép di dân và nạn đói năm 1932-1933 đã gây thiệt mạng cho 6 triệu người.

Từ lời tố cáo của TT Medvedev, tờ báo Novaya Gazeta và đài phát thanh Echo Moskvy đã trưng ra tài liệu về mật lệnh giết người của Stalin, trong đó, ngay cả các trẻ em từ 12 tuổi cũng phải chịu tử hình. Lịch sử Nga đang mở lại những trang sử đen tối nhất. Và Stalin chính là tên tội đồ của dân tộc Nga.

Ngày 9/5/2010 nước Nga tổ chức một lễ kỷ niệm ăn mừng 65 năm ngày chiến thắng phát xít Đức Đây là lần đầu tiên các lãnh đạo Tây phương tới tham dự lễ kỷ niệm tại Nga. Đặc biệt, cuộc diễn hành được tổ chức tại Quảng trường Đỏ, Moscova, có sự tham gia của các quân đội Anh, Mỹ, Pháp, và Ba Lan . Theo dự kiến, có 10,500 quân nhân tham dự, và cùng một ngày 70 thành phố lớn ở Nga cùng tổ chức lễ duyệt binh mừng chiến thắng. Đại diện cho VN, Nguyễn Minh Triết sẽ lên đường tham dự lễ kỷ niệm này.

Từ gần một thế kỷ nay, tại VN, Stalin được Hồ Chí Minh coi như là một thần tượng, một vĩ nhân. Trong các bài diễn văn, Hồ đề cập tới Stalin với một giọng tôn kính, gọi Stalin là “cha già của thế giới XHCN …” HCM tạc tượng Stalin đặt ngay giữa công viên Hà Nội. Các bài ca ngợi công ơn Stalin được đem vào sách giáo khoa bậc Trung, Tiểu học.

HCM cũng cho Tố Hữu viết những lời thơ khóc lóc thảm thiết khi Stalin chết:

Thương cha, thương mẹ, thương chồng. Thương mình thương một, thương ông thương mười.

Cái khó của Nguyễn Minh Triết trong kỳ đi họp lần này là không biết đóng góp ý kiến ra sao trước lời phát biểu của TT Medvedev “Stalin là tội đồ của dân tộc”. Thực là “há miệng mắc quai”. Tội đồ của dân tộc Nga lại là thần tượng của CHXHCN VN ?

Lần này đi họp về, Nguyễn Minh Triết hết còn … ba hoa chích choè trước đám Đại Biểu Quốc Hội chỉ thích gật gù và vỗ tay cổ võ.

Giao Tiên

Friday, July 2, 2010

Các Lực Lượng Nước Ngoài Tham Dự Chiến Tranh 1960-1975 - Trần Gia Phụng

Trần Gia Phụng

Ngay trước khi ký hiệp định Genève (20-7-1954), đảng Lao Động (LĐ) đã chủ trương tiếp tục chiến tranh để bành trướng thế lực. Vì chủ trương nầy, đảng LĐ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) hay Bắc Việt Nam đã cầu viện Trung Quốc, Liên Xô và các nước cộng sản khác, nhằm bảo vệ hậu cứ Bắc Việt Nam và cung cấp võ khí tối tân để Bắc Việt Nam tấn công Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) hay Nam Việt Nam. Ở thế yếu và để tự bảo vệ, Nam Việt Nam đành phải nhờ Hoa Kỳ và các nước đồng minh giúp đỡ nhằm chống lại cuộc xâm lăng của Bắc Việt Nam. Đó là lý do sự hiện diện của quân đội nước ngoài ở cả hai phía tại Việt Nam.

1. LỰC LƯỢNG HOA KỲ

Ngày 4-2-1950, Hoa Kỳ thừa nhận Quốc Gia Việt Nam do quốc trưởng Bảo Đại đứng đầu. Military Assistance and Advisory Group-Indochina (MAAG-I) tức Đoàn Cố vấn Viện trợ Quân sự Mỹ chính thức thành lập ngày 17-9-1950, nhằm mục đích cố vấn và huấn luyện quân đội Việt Miên Lào.

Trong chiến tranh lạnh sau thế chiến thứ hai, (1) trước sự bành trướng của cộng sản, đại diện ba nước Australia, New Zealand, United States of Anmerica họp tại San Francisco (Hoa Kỳ) ngày 1-9-1951, ký hiệp ước thành lập khối quân sự ANZUS, nhằm hợp tác phòng thủ nếu xảy ra các cuộc tấn công trên Thái Bình Dương được xem là ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh của mỗi nước và các nước khác trong khu vực. Khối ANZUS không lập lực lượng riêng, chỉ họp hằng năm cấp bộ trưởng ngoại giao để duyệt xét tình hình và họp bất thường khi một trong ba nước thành viên yêu cầu vì an ninh bị đe dọa.

Sau hiệp định Genève (20-7-1954), lo ngại sự bành trướng của cộng sản tại vùng Đông Nam Á, Hoa Kỳ vận động ký kết Hiệp ước Hỗ tương Phòng thủ Đông Nam Á (Southeast Asia Collective Defence Treaty) tại Manila, thủ đô Phi Luật Tân, ngày 8-9-1954. Từ đó ra đời Tổ chức Liên phòng Đông Nam Á (Southeast Asia Treaty Organization viết tắt là SEATO), gồm các nước (theo thứ tự ABC) Australia (Úc), France (Pháp), New Zealand (Tân Tây Lan) Pakistan (Hồi Quốc), Philippines (Phi Luật Tân), Thailand (Thái Lan), United Kingdom (Anh), và United States of America (Hoa Kỳ).

Trong phụ bản của hiệp ước nầy, ba nước Cambodia (Cao Miên), Laos (Lào) và Việt Nam được liệt kê trong vùng lãnh thổ được bảo vệ. Hoa Kỳ dựa vào văn bản hiệp ước nầy để minh chứng sự ủng hộ của họ đối với các chế độ chống cộng ở Đông Nam Á.

Sau khi Pháp rút lui, Hoa Kỳ thiết lập đoàn MAAG-Việt Nam tháng 10-1955, để trực tiếp cố vấn và huấn luyện quân đội Việt Nam, nhằm xây dựng cho miền Nam Việt Nam một đội quân có thể tự bảo vệ an ninh lãnh thổ. Theo đà phát triển của quân đội VNCH, đoàn MAAG-Việt Nam được chuyển thành Military Assistance Command, Vietnam (MACV) tức Bộ Tư lệnh Quân viện Việt Nam ngày 8-2-1962. Nhân số MACV lúc đó khoảng 3,000 người.

Bộ Tư lệnh Quân viện Việt Nam (MACV) là bộ chỉ huy liên quân Mỹ tại Việt Nam, nằm dưới sự chỉ huy của Pacific Command (PACCOM) tức Bộ Tư lệnh Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương. Dưới quyền MACV là tất cả các lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam, gồm có: Bộ chỉ huy Lục quân (United States Army Vietnam – USARV), Bộ tư lệnh Hải quân (Naval Forces Vietnam -NAVFORV), Không lực 7 (Seventh Air Force – 7AF), Lực lượng Thủy bộ số 3 (III Marine Amphibious Force – IIIMAF), Lực lượng Dã chiến số 1 (I Field Force, Vietnam – I FFV), Lực lượng Dã chiến số 2 (II Field Force, Vietnam – II FFV), Quân đoàn 24 (XXIV Corps), Lực lượng Đặc biệt số 5 (5th. Special Forces Group), Cơ quan Điều phối Dân sự vụ và Phát triển Nông thôn (Civil Operations and Rural Development Support – CORDS), Nhóm Nghiên cứu và Quan sát (Studies and Observations Group – SOG). (2)

Các Tư lệnh MACV là đại tướng Paul D. Harkins (từ tháng 2-1962), William C. Westmoreland (từ tháng 6-1964), Creighton W. Abrams (từ tháng 7-1968) và Frederick C. Weyand (từ tháng 6-1972). Vai trò của MACV càng ngày càng quan trọng khi Hoa Kỳ tung quân vào Việt Nam từ năm 1965.

Tháng 8-1964 xảy ra biến cố Vịnh Bắc Việt. Nguyên vào ngày 2-8-1964, khu trục hạm Maddox (Hoa Kỳ) đang tuần tra trong hải phận quốc tế trong vịnh Bắc Việt ở ngoài khơi Thanh Hóa, thì bị ba ngư lôi đĩnh Bắc Việt tấn công. Theo các tài liệu cũ của Hoa Kỳ, hai ngày sau, chiều tối 4-8-1964 hai chiến hạm Maddox và Turney Joy bị tấn công lần nữa, trong khi thi hành nhiệm vụ trong hải phận quốc tế. Tuy nhiên, ngày nay, nhiều tài liệu cho thấy lần tấn công thứ hai vào tối 4-8-1964 không có thật. (Đỗ Cẩm, ) Ngày 7-8, theo yêu cầu của tổng thống Hoa Kỳ, Quốc hội Hoa Kỳ cho phép ông được sử dụng mọi biện pháp cần thiết để đánh trả, nghĩa là cho phép ông có thể đưa quân qua Việt Nam và mở rộng chiến tranh.

Trong thời gian thủ tướng Phan Huy Quát cầm quyền (từ 16-2-1965 đến 19-6-1965), những báo cáo của các giới chức Hoa Kỳ cho thấy tình hình quân sự VNCH càng ngày càng bi đát, nhất là báo cáo ngày 24-2-1965 của Cơ quan Trung ương tình báo (CIA), báo cáo vào đầu tháng 3 của tướng Westmoreland và báo cáo của cố vấn McGeorge Bundy sau khi từ Việt Nam trở về. (3) Bundy đề nghị thực hiện ngay kế hoạch “trả đũa liên tục” chống lại miền Bắc. Tổng thống Johnson liền quyết định mở chiến dịch oanh tạc thường xuyên Bắc Việt, đặt tên là Rolling Thunder, chính thức bắt đầu vào ngày 2-3-1965.

Do hoạt động của không quân Hoa Kỳ càng ngày càng gia tăng, phi trường Đà Nẵng được dùng làm nơi xuất phát các phản lực cơ bay đi oanh tạc Bắc Việt. Ngày 22-2-1965, tướng Westmoreland, tư lệnh MACV, yêu cầu tổng thống Johnson cho đổ bộ hai tiểu đoàn Thủy quân lục chiến (TQLC) Hoa Kỳ, nhằm bảo vệ căn cứ Đà Nẵng. Johnson đồng ý đề nghị nầy với điều kiện phải có sự ưng thuận của chính phủ Việt Nam.

Được lệnh của bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, ngày 1-3-1965, đại sứ Taylor và phó đại sứ Alexis Johnson gặp thủ tướng Phan Huy Quát, đưa đề nghị về việc Hoa Kỳ gởi hai tiểu đoàn TQLC đến Đà Nẵng. Thủ tướng Quát chấp thuận. Ngày hôm sau, 2-3-1965, tướng Westmoreland gặp và thông báo cho các tướng Nguyễn Văn Thiệu, tổng trưởng Quân lực và Trần Văn Minh, tổng tư lệnh quân đội. Người Mỹ còn ra Đà Nẵng, gặp thiếu tướng Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh Quân đoàn I để thảo luận kế hoạch đổ bộ. Cần nhấn mạnh là quyết định tối quan trọng nầy chỉ được thỏa thuận bằng lời chứ không bằng văn bản, giữa các giới chức Hoa Kỳ với thủ tướng Phan Huy Quát và một số tướng lãnh Việt Nam chứ, không có ý kiến của Hội đồng chính phủ hay của HĐQL.

Cuối cùng, ngày 8-3-1965, tiểu đoàn 9 TQLC Hoa Kỳ là đơn vị chiến đấu Mỹ đầu tiên đổ bộ vào bãi biển Nam Ô, phía bắc Đà Nẵng khoảng 10 cây số. (4) Các đơn vị còn lại đến Đà Nẵng bằng không vận. Việc người Mỹ bắt đầu đổ quân chiến đấu vào Việt Nam là một biến cố quan trọng, ảnh hưởng đến toàn bộ tình hình Việt Nam.

Quân số Hoa Kỳ tại Việt Nam từ tháng 4-1965 là 32,000 người. Cuối năm 1965, số quân nầy tăng thành 186,000. Cuối năm 1966 là 376,800 quân. Cuối năm 1967 lại tăng nữa: 486,000 quân. (5) (6) Sau biến cố Mậu Thân vào đầu năm 1968, quân số Hoa Kỳ lên cao điểm là 536,100 người. Sau đó, từ giữa năm 1969, tổng thống Richard Nixon thay đổi sách lược, rút quân dần dần theo kế hoạch mà người Mỹ gọi là “Việt Nam hóa” và dự tính sẽ còn 405,000 vào 1972.

Sau hiệp định Paris (27-1-1973), toàn bộ quân Mỹ triệt thoái khỏi Việt Nam, MACV bị giải thể ngày 29-3-1973. Cơ quan Defense Attach Office (DAO) tức Phòng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ được thành lập do thiếu tướng John Murray chỉ huy và trong năm sau (1974), thiếu tướng Homer Smith thay thế, cho đến tháng 4-1975. Số quân nhân Hoa Kỳ hy sinh tại chiến trường Việt Nam lên khoảng 58, 217 người và 19 dân sự; 153,452 bị thương và 1,740 người mất tích. (7)

Cần chú ý, chính phủ các nước trên thế giới đều chỉ lo phục vụ quyền lợi nước họ, nên khi quyết định giúp đỡ một nước khác, cũng chỉ vì quyền lợi gần hay xa của nước họ. Người Hoa Kỳ rất thực dụng. Do đó, chính phủ Hoa Kỳ quyết định can thiệp vào Việt Nam vì chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ chứ không phải chỉ vì giúp đỡ VNCH. Khi đến vì quyền lợi, thì cũng vì quyền lợi người Hoa Kỳ ra đi, sẵn sàng bỏ rơi VNCH khi cần.

2. LỰC LƯỢNG CÁC NƯỚC TRONG KHỐI TỰ DO THAM CHIẾN

Hoa Kỳ là thành viên của khối ANZUS và tổ chức SEATO, nên Hoa Kỳ kêu gọi, thúc đẩy các nước đồng minh Đông Á giúp đỡ Việt Nam. Lúc đầu là những toán chuyên viên dân sự. Dần dần nhiều nước gởi quân chiến đấu đến giúp VNCH.

Năm 1962, Australia (Úc) gởi qua Việt Nam một biệt đội cố vấn chiến tranh rừng rậm khoảng 30 người. Số quân Úc tăng dần lên đến 7,672 năm 1969 và từ năm 1970 giảm xuống trở lại (6,763 quân). (8) Khi rút hết quân về nước tháng 12-1972, Úc chỉ để lại một trung đội bảo vệ sứ quán Úc tại Sài Gòn. Số quân Úc tử trận tại Việt Nam là 521 người. (9)

New Zealand (Tân Tây Lan) gởi quân giúp Việt Nam từ tháng 6-1964 đến tháng 12-1972. Đầu tiên là một toán cố vấn 30 người năm 1964 tăng dần theo từng năm. Số quân New Zealand cao nhất vào năm 1970 là 441 người. (10) Tổng số quân tử trận tại Việt Nam là 36 người. (11)

Năm 1964, Republic of Korea (South Korea) tức Cộng Hòa Đại Hàn (hay Nam Hàn) gởi sang Việt Nam 200 quân, nhưng ngay từ năm sau (1965), quân Đại Hàn tăng lên 20,620 người, rồi lại tăng thành 45,566 quân năm 1966. Cao điểm vào năm 1969, quân Đại Hàn hiện diện ở Việt Nam là 48, 869 người. Sau đó quân số giảm dần cho đến khi rút lui đầu năm 1973. Quân Đại Hàn đóng giữ các tỉnh duyên hải từ Quảng Ngãi vào đến Bình Thuận. Các dơn vị nổi tiếng là Sư đoàn Mãnh Hổ (bản doanh ở Bình Định), Lữ đoàn Thủy quân lục chiến Thanh Long (bản doanh ở Cam Ranh) và sư đoàn Bạch Mã (bản doanh ở Tuy Hòa). Số quân tử trận khoảng 5,099, bị thương 11,232 và mất tích 4. (12)

Ngày 29-9-1964, 16 quân nhân viên Không lực Thái Lan đến Sài Gòn để giúp Không quân Việt Nam. Dần dần quân Thái Lan lên đến 6 tiểu đoàn với 11,586 quân năm 1970, đóng bản doanh trong vùng tỉnh Biên Hòa. Thái Lan bắt đầu rút quân từ tháng 3-1971 và chấm dứt giữa năm 1972. (13a) Thái Lan mất 351 quân nhân và bị thương 1,358 người.

Nước Philippines gởi Đoàn Công tác Dân vụ (Civic Action Group) qua giúp VNCH từ năm 1964. Cao điểm năm 1967, quân Philippines lên đến 534 người. Sau đó giảm xuống dần dần và chỉ còn 74 người năm 1970. Quân Philippines đảm trách các công tác dân vụ như y tế, làm đường sá, xây cầu cống, dựng nhà giúp dân tái định cư tại các tỉnh Hậu Nghĩa, Bình Dương và Tây Ninh. (13b) Số thiệt hại quân nhân Phi Luật Tân không đáng kể, 7 người chết, 2 người bị thương.

Ngoài ra, còn hai nước chỉ gởi chuyên viên kỹ thuật và y tế sang giúp VNCH là Trung Hoa Dân Quốc (Republic of China) và Tây Ban Nha (Spain). Trung Hoa Dân Quốc tức Đài Loan (Taiwan) gởi 20 người năm 1964 và 31 người năm 1970. Tây Ban Nha gởi 13 chuyên viên năm 1966 và chỉ còn 7 người năm 1970. (14)

DIỄN BIẾN QUÂN SỐ ĐỒNG MINH TỰ DO (14)
Quốc Gia1964196519661967196819691970
Australia200
1,557
4,525
6,818
7,611
7,672
6,763
New Zealand30
119
155
534
516
552
441
Republic
of Korea
200
20,620
45,566
47,828
50,003
48,869
48,537
Thái Lan
16
240
2,205
6,005
11,568
11,586
Philippines 17
72
20,61
2,020
1,576
189
74
Republic of China20
20
23
31
29
29
31
Tây Ban
Nha



13 12 10 07

3. LỰC LƯỢNG CÁC NƯỚC CỘNG SẢN THAM CHIẾN

Quân đội Hoa Kỳ và các nước đồng minh trong khối Tự do đến giúp VNCH (Nam Việt Nam) có tính cách công khai, nên chẳng những người Việt Nam biết, mà cả thế giới đều biết. Ngược lại, lực lượng các nước trong khối Cộng sản đến giúp VNDCCH (Bắc Việt Nam) hết sức bí mật và được giấu kín trong thời gian chiến tranh. Sau năm 1975, tin tức dần dần mới được tiết lộ.

Để chuẩn bị chiến tranh, đầu tháng 7-1959 Hồ Chí Minh qua Moscow đề nghị Liên Xô yểm trợ Bắc Việt Nam trong cuộc chiến mà đảng LĐ đang sửa soạn tấn công miền Nam Việt Nam, nhưng Liên Xô khuyên Hồ Chí Minh nên tiếp tục mưu tìm sự thống nhất trong hòa bình. (15)

Vào lúc nầy, Nikita Khrushchev đang cầm quyền ở Liên Xô từ năm 1953. Năm 1956, trong Đại hội đảng lần thứ 20 đảng Cộng Sản Liên Xô (CSLX) tháng 2-1956, ông đưa ra chủ trương “chung sống hòa bình” giữa các nước không cùng chế độ chính trị.

Một thành tựu quân sự quan trọng của LX dưới thời Khrushchev là Liên Xô đã phóng thành công vệ tinh Sputnik lên quỹ đạo ngày 4-10-1957, mở đầu kỷ nguyên chinh phục không gian. Sau những cuộc thương lượng kéo dài, ngày 5-8-1963, ngoại trưởng Liên Xô (Andrei Gromyko), ngoại trưởng Anh Quốc (Alec Douglas Home) và ngoại trưởng Hoa Kỳ (Dean Rusk) ký thỏa hiệp giới hạn thử nghiệm bom nguyên tử trên khí quyển và ngoài biển khơi, chỉ được thử nghiệm trên đất liền. Thỏa hiệp nầy chính thức có hiêu lực từ ngày 10-10-1963.

Khi Leonid Brezhnev lên làm thư ký thứ nhất đảng CSLX thay Nikita Khrushchev vào tháng 10-1964, thì LX thay đổi thái đô, viện trợ và gởi người sang giúp Bắc Việt Nam. Quân đội Liên Xô đến Bắc Việt khoảng 3,000 người, thuộc Phòng Tùy viên Quân sự Tòa đại sứ Liên Xô tại Hà Nội, đều là những chuyên viên không quân, kỹ thuật phòng không và hỏa tiễn (Bắc Việt gọi là tên lửa). Nhiệm vụ của chuyên viên LX là huấn luyện lắp ráp tại chỗ các loại máy bay chiến đấu MIG-21 và SU, huấn luyện phi công Bắc Việt lái máy bay, lắp ráp các bệ phóng hỏa tiễn và điều khiển hỏa tiễn. Ngoài ra còn có một số chuyên gia về hải quân và các binh chủng khác.

Khi phục vụ tại Bắc Việt, các quân nhân LX đều dùng thường phục, chỉ trong những buổi lễ mới dùng quân phục, sinh sống tập trung nhiều nhất ở trong một số khu vực ở Hà Nội và ở các phi trường lớn có trang bị hỏa tiễn phòng không tại Bắc Việt. (16)

Nước cộng sản lớn thứ hai đưa quân vào Bắc Việt Nam là Trung Quốc (TQ). Bắc Việt Nam nằm sát phía nam TQ. Ngày 4-9-1958, Quốc Vụ Viện TQ ra nghị quyết về ranh giới biển của TQ là 12 hải lý kể từ bờ biển, áp dụng cho toàn thể lãnh thổ TQ, bao gồm các hải đảo, trong đó có cả Hoàng Sa và Trường Sa. Để lấy lòng TQ, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt, với sự đồng ý của Hồ Chí Minh và bộ Chính trị đảng LĐ, ký quốc thư ngày 14-9-1958, tán thành quyết định trên của TQ ngày 4-9-1958, nghĩa là mặc nhiên thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc.

Cần chú ý thêm TQ đã thử nghiệm thành công quả bom nguyên tử đầu tiên ngày 16-10-1964, phóng hỏa tiễn nguyên tử đầu tiên ngày 25-10-1966 và thử nghiệm quả bom khinh khí đầu tiên ngày 14-6-1967. (17) Sự thành công nầy làm tăng giá trị vị thế của TQ trong bang giao quốc tế.

Trước đây, chỉ có Liên Xô là nước cộng sản duy nhất thủ đắc bom nguyên tử, có thể đối trọng với Hoa Kỳ. Nay Trung Quốc cũng có bom nguyên tử nên càng làm cho Bắc Việt tin tưởng thêm hơn trong cuộc đối đầu với Hoa Kỳ. Mối bang giao Liên Xô-Trung Quốc rạn nứt từ năm 1956, khi Nikita Khrushchev chủ trương “sống chung hòa bình” giữa các nước không cùng chế độ chính trị. Nay có bom nguyên tử, TQ càng tỏ ra khiêu khích đối với Liên Xô. Riêng Hoa Kỳ, sau khi TQ nắm được bom nguyên tử, Hoa Kỳ cũng phải tính toán lại sách lược bang giao đối với Trung Quốc, tạo nhiều hệ lụy trong chiến tranh Việt Nam.

Trong khi đó, vào đầu tháng 8-1964 xảy ra biến cố Vịnh Bắc Việt. Quốc hội Hoa Kỳ liền đưa ra “Quyết nghị vịnh Bắc Việt” (Gulf of Tonkin Resolution) ngày 7-8-1964, cho phép tổng thống Hoa Kỳ thi hành các biện pháp cần thiết, kể cả việc dùng võ lực, để đối phó với tình hình tại Đông Nam Á. Trung Quốc tỏ ra quan ngại, cho rằng chẳng những Hoa Kỳ tấn công Bắc Việt mà Hoa Kỳ sẽ có thể giúp Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) đổ bộ lục địa Trung Quốc. Một mặt, Trung Quốc tái bố trí lực lượng nội địa để phòng thủ, một mặt Trung Quốc tăng cường giúp đỡ VNDCCH nhằm chống lại Hoa Kỳ. (18)

Các lãnh tụ Bắc Việt là Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, Văn Tiến Dũng liên tục qua Trung Quốc hội họp và thương lượng với các lãnh tụ Trung Quốc. Ngoài việc gởi quân viện, từ tháng 6-1965 đến tháng 3-1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt Nam 320,000 quân, trú đóng ở các tỉnh và thành phố phía bắc Hà Nội, điều khiển các súng phòng không, sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, xây dựng các hãng xưởng, bảo vệ các tỉnh phía bắc nhằm giúp Bắc Việt kéo hết quân xuống tấn công miền Nam. Khi Trung Quốc rút quân về nước vào tháng 8-1973 (7 tháng sau hiệp định Paris), tổng số lính Trung Quốc thiệt mạng tại Việt Nam là 1,100 người và bị thương là 4,200 người. (19)

Cuối năm 1966, Cộng Hòa Nhân Dân Triều Tiên (Bắc Hàn) gởi hai trung đoàn pháo binh phòng không và hai phi đội sang Bắc Việt Nam giúp bảo vệ Hà Nội. Kim Nhật Thành đã nói với các phi công Bắc Hàn là hãy chiến đấu trên bầu trời Bắc Việt giống như tại Triều Tiên. Khi rút về vào 1972, Bắc Hàn để lại khoảng vài chục quân nhân bị giết trong các cuộc dội bom của phi cơ Hoa Kỳ. (20)

Ngoài ra, Cuba, một nước ở Trung Mỹ theo cộng sản, cũng gởi người đến giúp Bắc Việt, qua hình thức dân sự thuộc Tòa đại sứ Cuba ở Hà Nội. Đó là những chuyên viên phụ trách khai thác tù binh Hoa Kỳ bị Bắc Việt bắt được. Đa số quân nhân Hoa Kỳ bị bắt là phi công. Theo lời kể của những tù binh Hoa Kỳ còn sống sót và trở về Hoa Kỳ sau hiệp định Paris năm 1973, các chuyên viên Cuba tra tấn một cách tàn nhẫn và có khi đánh đập đến chết một số tù binh Hoa Kỳ. (21)

KẾT LUẬN

Sau khi đất nước bị chia hai, miền Nam Việt Nam muốn sống yên ổn, hòa bình để phát triển kinh tế, nhưng lại bị Bắc Việt Nam khiêu khích và tấn công vì cho rằng miền Nam Việt Nam không thi hành việc tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo hiệp định Genève (20-7-1954). Lý do nầy hoàn toàn không hợp lý vì hiệp định Genève chỉ là một hiệp định đình chỉ chiến sự, không nói gì đến giải pháp chính trị. Việc dự tính tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước chỉ được đề cập đến trong điều 7 bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”. Bản tuyên bố nầy lại không có chữ ký của các nước tham dự hội nghị nên không có giá trị cưỡng hành.

Quân đội các nước cộng sản kín đáo đến giúp Bắc Việt Nam, được ngụy trang dưới hình thức chuyên viên kỹ thuật dân sự. Truyền thông Bắc Việt hoàn toàn do nhà nước kiểm soát, nên không đưa tin về việc nầy. Bắc Việt bưng bít tin tức rất kỹ, thế giới hoàn toàn không hay biết về sự hiện diện của quân đội các nước cộng sản tại Bắc Việt.

Trong khi đó, Hoa Kỳ cùng đồng minh công khai đổ quân ồ ạt vào Nam Việt Nam. Cộng sản Bắc Việt lợi dụng sự hiện diện công khai của quân nhân nước ngoài tại miền Nam Việt Nam để tuyên truyền chống VNCH và chống “đế quốc xâm lược Mỹ”, chẳng những trong dân chúng Việt Nam ở cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam, mà cả trưóc dư luận thế giới.

Quân đội Hoa Kỳ và đồng minh vào miền Nam Việt Nam khá nhanh từ năm 1965 và cũng rút nhanh vào đầu thập niên 70. Tuy vậy, quân đội VNCH vẫn một mình chiến đấu bảo vệ miền Nam Việt Nam, và chỉ phải buông súng vì thiếu đạn dược do Hoa Kỳ cắt quân viện, trong khi Bắc Việt Nam được toàn khối cộng sản yểm trợ mạnh mẽ cho đến khi thành công năm 1975. (Trích Việt sử đại cương tập 6.)

Trần Gia Phụng
(phungtrangia@yahoo.com)

CHÚ THÍCH

1. Sau thế chiến thứ hai, thế giới chia thành hai khối rõ rệt. Khối tư bản do Hoa Kỳ đứng đầu và khối cộng sản do Liên Xô lãnh đạo. Hoa Kỳ thử thành công bom nguyên tử lần đầu tiên ngày 16-7-1945, và đã dùng bom nguyên tử thả xuống hai thành phố Nhật Bản là Hiroshima (6-8-1945) và Nagasaki (9-8-1945), kết thúc thế chiến thứ hai. Liên Xô thử nghiệm thành công bom nguyên tử đầu tiên ngày 29-8-1949. Vì cùng thủ đắc võ khí nguyên tử, hai nước Hoa Kỳ và Liên Xô, tuy tranh chấp nhau quyết liệt, nhưng tránh trực tiếp đụng độ nhau. Tình trạng nầy gọi là chiến tranh lạnh Trong chiến tranh lạnh, Liên Xô và khối cộng sản dựa vào chiêu bài giải phóng dân tộc để tuyên truyền và bành trướng thế lực. Hoa Kỳ và khối tư bản cho rằng khi một nước bị cộng sản chiếm quyền, thì các nước lân bang dần dần sẽ bị mất vào tay cộng sản, nghĩa là một quân cờ domino sụp đổ, thì các quân cờ domino khác cũng sụp theo. Đó là nguồn gốc thuyết domino tại các nước Tây phương, nhất là Hoa Kỳ. Vận dụng thuyết địa lý chính trị nầy, Hoa Kỳ can thiệp vào các nước Đông Nam Á, hầu ngăn chận sự bành trướng của cộng sản.
2. Wikipedia, The free encyclopedia, “Military Assistance Advisory Group”.
3. Lâm Vĩnh Thế trích dịch, Bạch hóa tài liệu mật của Hoa Kỳ về Việt Nam Cộng Hòa, Hamilton, Ontario: Hoài Việt, 2008, tt. 162-166. Đọc thêm: William Westmoreland, A Soldier’s Report, Duy Nguyên dịch, Hồi ký cựu đại tướng Westmoreland, San Jose: Nxb. Thế Giới, 1996, chương VII, “Quyết định khó khăn nhất”, tt. 171-206.
4. Làng Nam Ô nằm ven vịnh Đà Nẵng, dân địa phương gọi là Vũng Thùng. Trước đó hơn 100 năm, những TQLC Pháp đầu tiên cũng đã đổ bộ ở Vũng Thùng năm 1856. Ca dao Quảng Nam có câu: “Tai nghe súng nổ cái đùng/ Tàu Tây đã đến Vũng Thùng hôm qua.” Làng Nam Ô thuộc huyện Hòa Vang, tiếp giáp với Liên Chiểu, ngay dưới chân phía nam đèo Hải Vân.
5. Đoàn Thêm, Việc từng ngày 1965, Việc từng ngày 1966, Việc từng ngày 1967, California: Nxb. Xuân Thu tái bản, mục cuối mỗi sách: “Quân số Hoa Kỳ”.
6. Wikipedia, The Free Encyclopedia, “Việt nam War”, mục “Strenght”.()
7. Wikipedia, the Free Encyclopedia, “Vietnam War” “Casualities” [Thương vong trong chiến tranh Việt Nam]. (http://en.wikipedia.org/wiki/Vietnam_War_casualties)
8. Trung tướng Stanley Robert Larson và Thiếu tướng James Lawton Collins, Jr., Allied Participation in Vietnam, Washingtong D.C.: Department of Army, 1985, tr. 23.
9. Australian War Memorial, “Vietnam War 1962-1975”.()
10. Robert Larson và Lawton Collins, Jr., sđd. tr. 23.
11. Wikipedia, The Free Encyclopedia, “New Zealand in the Vietnam War”.
12. Robert Larson và Lawton Collins, Jr., sđd, chương: “The Republic of Korea”, tt. 120-156; và Wikipedia, The free encyclopedia, “Vietnam War Casualities”.
13. Robert Larson và Lawton Collins, Jr., sđd, tt.. 23, 51 (13a), 23, 63 (13b).
14. Robert Larson và Lawton Collins, Jr., sđd. tr. 23.
15. Mark Moyar, Triumph Forsaken, The Vietnam War, 1954-1965, New York: Cambridge University Press, 2006, tr. 83.
16. http://www.russiatoday.ru/news/news/21019 “USSR ’secret’ Vietnam soldiers speak out”, 16-2-2008. Xem thêm: Bản tin đài RFA (Radio Free Asia) ngày 20-2-2008. RFA còn phỏng vấn nhà báo Bùi Tín, cựu đại tá Bộ đội cộng sản Bắc Việt. Ngoài ra, tham khảo thêm BBC Vietnamese ngày 19-11-2008.
17. Google: “China Nuclear Forces”.(Trích ngày 4-6-2008.)
18. Lorenz Luthi, “The Vietnam War and Chinas Third-Line Defense Planning before the Cultural Revolution, 1964-1966″ Journal of Cold War Studies, Vol. 10, No. 1, Winter 2008, pp. 26-51, bản dịch của Trần Quốc Tân, “Chiến tranh Việt Nam và kế hoạch phòng tuyến ba của Trung Quốc trước Cách mạng Văn hóa, 1964-1966, (Nguồn: Tạp chí Thời Đại Mới, số 13, tháng 03-2008. (tapchithoidai.org/ThoiDai13/2008).
19. Qiang Zhai, China & Vietnam Wars, 1950-1975, The University of North Carolina Press, 2000, tr. 135.
20. Wikipedia, The Free Encyclopedia, “Koreans in Vietnam”, “Vietnam War casualties”, và BBC NEWS (Anh ngữ) các ngày 31-3-2000, 7-7-2001, và 12-7-2001.
21. http://www2.fiu.edu/~fcf/warcrimes.cuba.vietnam.html. “War Crimes: The Cuban-Vietnam Connection”, 20-2-1997. http://webcache.googleusercontent.com/ “Cuban Torturers in Viet Nam-Eye-Witness Report, 12-Apr-2004”.