Saturday, July 3, 2010

Tổng Thống Nga Dmitry Medvedev nói về CS Liên Sô - Giao Tiên



Giao Tiên

Ngày 7 tháng 5 năm 2010, Tổng Thống Nga Dmitry Medvedev đã trả lời câu phỏng vấn của tờ nhật báo Nga Isvestiai rằng: “Chế độ chính quyền ở Liên Xô khi trước không thể diễn tả bằng cách nào khác hơn là một chế độ độc tài toàn trị. Thực không may, đây là một chế độ đàn áp các quyền tự do cơ bản không những chỉ người dân của nước mình, mà còn cho nhân dân các nước nằm trong khối CS, tôi muốn nói tới các nước XHCN khác, trong gần nửa thế kỷ nay. Và vết nhơ này không thể nào bôi xóa trong lịch sử”.

Lời phát biểu của vị nguyên thủ Nga đã gây chấn động hệ thống truyền thông Nga và nhiều nước trên thế giới. Vị Tổng Thống 45 tuổi đời, sau 2 năm cầm quyền đã can đảm nói lên một sự kiện mà từ trước tới nay không ai dám lên tiếng. Sự can trường và quả quyết của ông còn được thể hiện khi ông quyết định tới Ba Lan để tham dự tang lễ của cố TT Ba Lan, Lech Kaczynski và 94 nhân viên tháp tùng, đã thiệt mạng trong tai nạn máy bay tại rừng Katyn ngày 4/10/2010. Cuộc hành trình tới Ba Lan thực vô cùng nguy hiểm do khói và bụi núi lửa phun ra mù mịt trên bầu trời. Nhiều nguyên thủ quốc gia đã huỷ bỏ chuyến tham dự tang lễ này vì sợ chuyến bay không an toàn, nhưng ông Medvedev đã tới Ba Lan bằng máy bay, bay tầm thấp dưới 10 ngàn mét. Sự hiện diện của ông trong tang lễ làm người Ba Lan rất xúc động và thế giới cảm phục. Ông Dmitry Medvedev muốn chứng tỏ với nhân dân và chính quyền Ba Lan thiện chí của Nga trong việc hòa hợp hòa giải và đoàn kết dân tộc giữa 2 nước.
70 năm trước đây, vào năm 1940, 22 ngàn sĩ quan Ba Lan đã bị Staline ra lệnh thảm sát tại rừng Katyn và cơ quan an ninh Liên Xô đã bưng bít và bóp méo sự thật về vụ này. Mãi sau này, chính quyền Ba Lan mới đưa vụ thảm sát ra tòa án Nhân Quyền Âu Châu tại Strasbourg với những bằng chứng. Thân nhân những người bị sát hại đã đòi chính phủ Nga phải bồi thường.

Tháng 3/2010, Viện Công tố Quân Sự Nga đã trả lời Tòa Án Nhân Quyền Âu Châu rằng: “Vụ thảm sát xảy ra từ năm 1940, tới nay đã vượt qua thời hiệu pháp lý. Nước Nga, ngày hôm nay, không thể chịu trách nhiệm cho một chính quyền 70 năm về trước”.

Tuy nhiên, quan điểm của ông Dmitry Medvedev thì ngược lại. Ông nói: “Nếu ngày hôm nay, nhắm mắt trước những tội ác này, thì trong tương lai, những tội ác như vậy sẽ còn lập lại, ở dạng này hay dạng khác, ở nước này hay nước kia. Vì vậy, thời gian khiếu nại tuy khá xa, nhưng tội ác tày trời như vậy không bao giờ mất thời hạn. Những người gây tội ác, bất cứ là ai, bất kể thời gian là bao nhiêu năm, cũng phải gánh trách nhiệm ! Đây là vấn đề trách nhiệm và đạo đức, một sự kiện đáng để cho các thế hệ tương lai rút kinh nghiệm”.

Ông Medvedev cũng tố cáo: “Stalin đã giết dân mình hàng loạt. Ông ta là kẻ sát nhân với số lượng lớn. Tội ác đó không thể tha thứ được”.

Giới truyền thông rất ngạc nhiên vì lời tố cáo tội ác của Stalin từ cửa miệng TT Medvedev. Ông nói một cách tự nhiên, không hề bị một áp lực từ bên trong hay bên ngoài. TT Medvedev đã nhìn ra và nói lên cái chế độ tàn bạo của Liên Bang Xô Viết dưới thời Stalin, một bạo chúa. Ông cũng chỉ trích các tổ chức CS vẫn còn tôn thờ Stalin, muốn treo hình Stalin nhân dịp kỷ niệm 65 năm chiến thắng phát xít Đức. Ông khẳng định: “Điện Kremlin sẽ không xử dụng các biểu tượng như vậy. Sự trở lại của chủ nghĩa Stalin đã hoàn toàn bị loại trừ. Và ông kết luận: Tôi đã phải chờ đợi quá lâu để nói lên sự thật này”.

Việc công khai tố cáo tội ác của Stalin đã gây tranh cãi trong công chúng Nga. Một số người đề cao công lao của ông ta trong việc chiến thắng phát xít Đức, nhưng các tổ chức nhân quyền đã đưa ra bằng chứng về sự sát hại hang triệu người Nga trong 3 thập niện cầm quyền. của Stalin. Những trại tù Gulag khủng khiếp gây kinh hoàng cho dân chúng. Các cuộc cưỡng ép di dân và nạn đói năm 1932-1933 đã gây thiệt mạng cho 6 triệu người.

Từ lời tố cáo của TT Medvedev, tờ báo Novaya Gazeta và đài phát thanh Echo Moskvy đã trưng ra tài liệu về mật lệnh giết người của Stalin, trong đó, ngay cả các trẻ em từ 12 tuổi cũng phải chịu tử hình. Lịch sử Nga đang mở lại những trang sử đen tối nhất. Và Stalin chính là tên tội đồ của dân tộc Nga.

Ngày 9/5/2010 nước Nga tổ chức một lễ kỷ niệm ăn mừng 65 năm ngày chiến thắng phát xít Đức Đây là lần đầu tiên các lãnh đạo Tây phương tới tham dự lễ kỷ niệm tại Nga. Đặc biệt, cuộc diễn hành được tổ chức tại Quảng trường Đỏ, Moscova, có sự tham gia của các quân đội Anh, Mỹ, Pháp, và Ba Lan . Theo dự kiến, có 10,500 quân nhân tham dự, và cùng một ngày 70 thành phố lớn ở Nga cùng tổ chức lễ duyệt binh mừng chiến thắng. Đại diện cho VN, Nguyễn Minh Triết sẽ lên đường tham dự lễ kỷ niệm này.

Từ gần một thế kỷ nay, tại VN, Stalin được Hồ Chí Minh coi như là một thần tượng, một vĩ nhân. Trong các bài diễn văn, Hồ đề cập tới Stalin với một giọng tôn kính, gọi Stalin là “cha già của thế giới XHCN …” HCM tạc tượng Stalin đặt ngay giữa công viên Hà Nội. Các bài ca ngợi công ơn Stalin được đem vào sách giáo khoa bậc Trung, Tiểu học.

HCM cũng cho Tố Hữu viết những lời thơ khóc lóc thảm thiết khi Stalin chết:

Thương cha, thương mẹ, thương chồng. Thương mình thương một, thương ông thương mười.

Cái khó của Nguyễn Minh Triết trong kỳ đi họp lần này là không biết đóng góp ý kiến ra sao trước lời phát biểu của TT Medvedev “Stalin là tội đồ của dân tộc”. Thực là “há miệng mắc quai”. Tội đồ của dân tộc Nga lại là thần tượng của CHXHCN VN ?

Lần này đi họp về, Nguyễn Minh Triết hết còn … ba hoa chích choè trước đám Đại Biểu Quốc Hội chỉ thích gật gù và vỗ tay cổ võ.

Giao Tiên

Friday, July 2, 2010

Các Lực Lượng Nước Ngoài Tham Dự Chiến Tranh 1960-1975 - Trần Gia Phụng

Trần Gia Phụng

Ngay trước khi ký hiệp định Genève (20-7-1954), đảng Lao Động (LĐ) đã chủ trương tiếp tục chiến tranh để bành trướng thế lực. Vì chủ trương nầy, đảng LĐ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) hay Bắc Việt Nam đã cầu viện Trung Quốc, Liên Xô và các nước cộng sản khác, nhằm bảo vệ hậu cứ Bắc Việt Nam và cung cấp võ khí tối tân để Bắc Việt Nam tấn công Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) hay Nam Việt Nam. Ở thế yếu và để tự bảo vệ, Nam Việt Nam đành phải nhờ Hoa Kỳ và các nước đồng minh giúp đỡ nhằm chống lại cuộc xâm lăng của Bắc Việt Nam. Đó là lý do sự hiện diện của quân đội nước ngoài ở cả hai phía tại Việt Nam.

1. LỰC LƯỢNG HOA KỲ

Ngày 4-2-1950, Hoa Kỳ thừa nhận Quốc Gia Việt Nam do quốc trưởng Bảo Đại đứng đầu. Military Assistance and Advisory Group-Indochina (MAAG-I) tức Đoàn Cố vấn Viện trợ Quân sự Mỹ chính thức thành lập ngày 17-9-1950, nhằm mục đích cố vấn và huấn luyện quân đội Việt Miên Lào.

Trong chiến tranh lạnh sau thế chiến thứ hai, (1) trước sự bành trướng của cộng sản, đại diện ba nước Australia, New Zealand, United States of Anmerica họp tại San Francisco (Hoa Kỳ) ngày 1-9-1951, ký hiệp ước thành lập khối quân sự ANZUS, nhằm hợp tác phòng thủ nếu xảy ra các cuộc tấn công trên Thái Bình Dương được xem là ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh của mỗi nước và các nước khác trong khu vực. Khối ANZUS không lập lực lượng riêng, chỉ họp hằng năm cấp bộ trưởng ngoại giao để duyệt xét tình hình và họp bất thường khi một trong ba nước thành viên yêu cầu vì an ninh bị đe dọa.

Sau hiệp định Genève (20-7-1954), lo ngại sự bành trướng của cộng sản tại vùng Đông Nam Á, Hoa Kỳ vận động ký kết Hiệp ước Hỗ tương Phòng thủ Đông Nam Á (Southeast Asia Collective Defence Treaty) tại Manila, thủ đô Phi Luật Tân, ngày 8-9-1954. Từ đó ra đời Tổ chức Liên phòng Đông Nam Á (Southeast Asia Treaty Organization viết tắt là SEATO), gồm các nước (theo thứ tự ABC) Australia (Úc), France (Pháp), New Zealand (Tân Tây Lan) Pakistan (Hồi Quốc), Philippines (Phi Luật Tân), Thailand (Thái Lan), United Kingdom (Anh), và United States of America (Hoa Kỳ).

Trong phụ bản của hiệp ước nầy, ba nước Cambodia (Cao Miên), Laos (Lào) và Việt Nam được liệt kê trong vùng lãnh thổ được bảo vệ. Hoa Kỳ dựa vào văn bản hiệp ước nầy để minh chứng sự ủng hộ của họ đối với các chế độ chống cộng ở Đông Nam Á.

Sau khi Pháp rút lui, Hoa Kỳ thiết lập đoàn MAAG-Việt Nam tháng 10-1955, để trực tiếp cố vấn và huấn luyện quân đội Việt Nam, nhằm xây dựng cho miền Nam Việt Nam một đội quân có thể tự bảo vệ an ninh lãnh thổ. Theo đà phát triển của quân đội VNCH, đoàn MAAG-Việt Nam được chuyển thành Military Assistance Command, Vietnam (MACV) tức Bộ Tư lệnh Quân viện Việt Nam ngày 8-2-1962. Nhân số MACV lúc đó khoảng 3,000 người.

Bộ Tư lệnh Quân viện Việt Nam (MACV) là bộ chỉ huy liên quân Mỹ tại Việt Nam, nằm dưới sự chỉ huy của Pacific Command (PACCOM) tức Bộ Tư lệnh Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương. Dưới quyền MACV là tất cả các lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam, gồm có: Bộ chỉ huy Lục quân (United States Army Vietnam – USARV), Bộ tư lệnh Hải quân (Naval Forces Vietnam -NAVFORV), Không lực 7 (Seventh Air Force – 7AF), Lực lượng Thủy bộ số 3 (III Marine Amphibious Force – IIIMAF), Lực lượng Dã chiến số 1 (I Field Force, Vietnam – I FFV), Lực lượng Dã chiến số 2 (II Field Force, Vietnam – II FFV), Quân đoàn 24 (XXIV Corps), Lực lượng Đặc biệt số 5 (5th. Special Forces Group), Cơ quan Điều phối Dân sự vụ và Phát triển Nông thôn (Civil Operations and Rural Development Support – CORDS), Nhóm Nghiên cứu và Quan sát (Studies and Observations Group – SOG). (2)

Các Tư lệnh MACV là đại tướng Paul D. Harkins (từ tháng 2-1962), William C. Westmoreland (từ tháng 6-1964), Creighton W. Abrams (từ tháng 7-1968) và Frederick C. Weyand (từ tháng 6-1972). Vai trò của MACV càng ngày càng quan trọng khi Hoa Kỳ tung quân vào Việt Nam từ năm 1965.

Tháng 8-1964 xảy ra biến cố Vịnh Bắc Việt. Nguyên vào ngày 2-8-1964, khu trục hạm Maddox (Hoa Kỳ) đang tuần tra trong hải phận quốc tế trong vịnh Bắc Việt ở ngoài khơi Thanh Hóa, thì bị ba ngư lôi đĩnh Bắc Việt tấn công. Theo các tài liệu cũ của Hoa Kỳ, hai ngày sau, chiều tối 4-8-1964 hai chiến hạm Maddox và Turney Joy bị tấn công lần nữa, trong khi thi hành nhiệm vụ trong hải phận quốc tế. Tuy nhiên, ngày nay, nhiều tài liệu cho thấy lần tấn công thứ hai vào tối 4-8-1964 không có thật. (Đỗ Cẩm, ) Ngày 7-8, theo yêu cầu của tổng thống Hoa Kỳ, Quốc hội Hoa Kỳ cho phép ông được sử dụng mọi biện pháp cần thiết để đánh trả, nghĩa là cho phép ông có thể đưa quân qua Việt Nam và mở rộng chiến tranh.

Trong thời gian thủ tướng Phan Huy Quát cầm quyền (từ 16-2-1965 đến 19-6-1965), những báo cáo của các giới chức Hoa Kỳ cho thấy tình hình quân sự VNCH càng ngày càng bi đát, nhất là báo cáo ngày 24-2-1965 của Cơ quan Trung ương tình báo (CIA), báo cáo vào đầu tháng 3 của tướng Westmoreland và báo cáo của cố vấn McGeorge Bundy sau khi từ Việt Nam trở về. (3) Bundy đề nghị thực hiện ngay kế hoạch “trả đũa liên tục” chống lại miền Bắc. Tổng thống Johnson liền quyết định mở chiến dịch oanh tạc thường xuyên Bắc Việt, đặt tên là Rolling Thunder, chính thức bắt đầu vào ngày 2-3-1965.

Do hoạt động của không quân Hoa Kỳ càng ngày càng gia tăng, phi trường Đà Nẵng được dùng làm nơi xuất phát các phản lực cơ bay đi oanh tạc Bắc Việt. Ngày 22-2-1965, tướng Westmoreland, tư lệnh MACV, yêu cầu tổng thống Johnson cho đổ bộ hai tiểu đoàn Thủy quân lục chiến (TQLC) Hoa Kỳ, nhằm bảo vệ căn cứ Đà Nẵng. Johnson đồng ý đề nghị nầy với điều kiện phải có sự ưng thuận của chính phủ Việt Nam.

Được lệnh của bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, ngày 1-3-1965, đại sứ Taylor và phó đại sứ Alexis Johnson gặp thủ tướng Phan Huy Quát, đưa đề nghị về việc Hoa Kỳ gởi hai tiểu đoàn TQLC đến Đà Nẵng. Thủ tướng Quát chấp thuận. Ngày hôm sau, 2-3-1965, tướng Westmoreland gặp và thông báo cho các tướng Nguyễn Văn Thiệu, tổng trưởng Quân lực và Trần Văn Minh, tổng tư lệnh quân đội. Người Mỹ còn ra Đà Nẵng, gặp thiếu tướng Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh Quân đoàn I để thảo luận kế hoạch đổ bộ. Cần nhấn mạnh là quyết định tối quan trọng nầy chỉ được thỏa thuận bằng lời chứ không bằng văn bản, giữa các giới chức Hoa Kỳ với thủ tướng Phan Huy Quát và một số tướng lãnh Việt Nam chứ, không có ý kiến của Hội đồng chính phủ hay của HĐQL.

Cuối cùng, ngày 8-3-1965, tiểu đoàn 9 TQLC Hoa Kỳ là đơn vị chiến đấu Mỹ đầu tiên đổ bộ vào bãi biển Nam Ô, phía bắc Đà Nẵng khoảng 10 cây số. (4) Các đơn vị còn lại đến Đà Nẵng bằng không vận. Việc người Mỹ bắt đầu đổ quân chiến đấu vào Việt Nam là một biến cố quan trọng, ảnh hưởng đến toàn bộ tình hình Việt Nam.

Quân số Hoa Kỳ tại Việt Nam từ tháng 4-1965 là 32,000 người. Cuối năm 1965, số quân nầy tăng thành 186,000. Cuối năm 1966 là 376,800 quân. Cuối năm 1967 lại tăng nữa: 486,000 quân. (5) (6) Sau biến cố Mậu Thân vào đầu năm 1968, quân số Hoa Kỳ lên cao điểm là 536,100 người. Sau đó, từ giữa năm 1969, tổng thống Richard Nixon thay đổi sách lược, rút quân dần dần theo kế hoạch mà người Mỹ gọi là “Việt Nam hóa” và dự tính sẽ còn 405,000 vào 1972.

Sau hiệp định Paris (27-1-1973), toàn bộ quân Mỹ triệt thoái khỏi Việt Nam, MACV bị giải thể ngày 29-3-1973. Cơ quan Defense Attach Office (DAO) tức Phòng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ được thành lập do thiếu tướng John Murray chỉ huy và trong năm sau (1974), thiếu tướng Homer Smith thay thế, cho đến tháng 4-1975. Số quân nhân Hoa Kỳ hy sinh tại chiến trường Việt Nam lên khoảng 58, 217 người và 19 dân sự; 153,452 bị thương và 1,740 người mất tích. (7)

Cần chú ý, chính phủ các nước trên thế giới đều chỉ lo phục vụ quyền lợi nước họ, nên khi quyết định giúp đỡ một nước khác, cũng chỉ vì quyền lợi gần hay xa của nước họ. Người Hoa Kỳ rất thực dụng. Do đó, chính phủ Hoa Kỳ quyết định can thiệp vào Việt Nam vì chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ chứ không phải chỉ vì giúp đỡ VNCH. Khi đến vì quyền lợi, thì cũng vì quyền lợi người Hoa Kỳ ra đi, sẵn sàng bỏ rơi VNCH khi cần.

2. LỰC LƯỢNG CÁC NƯỚC TRONG KHỐI TỰ DO THAM CHIẾN

Hoa Kỳ là thành viên của khối ANZUS và tổ chức SEATO, nên Hoa Kỳ kêu gọi, thúc đẩy các nước đồng minh Đông Á giúp đỡ Việt Nam. Lúc đầu là những toán chuyên viên dân sự. Dần dần nhiều nước gởi quân chiến đấu đến giúp VNCH.

Năm 1962, Australia (Úc) gởi qua Việt Nam một biệt đội cố vấn chiến tranh rừng rậm khoảng 30 người. Số quân Úc tăng dần lên đến 7,672 năm 1969 và từ năm 1970 giảm xuống trở lại (6,763 quân). (8) Khi rút hết quân về nước tháng 12-1972, Úc chỉ để lại một trung đội bảo vệ sứ quán Úc tại Sài Gòn. Số quân Úc tử trận tại Việt Nam là 521 người. (9)

New Zealand (Tân Tây Lan) gởi quân giúp Việt Nam từ tháng 6-1964 đến tháng 12-1972. Đầu tiên là một toán cố vấn 30 người năm 1964 tăng dần theo từng năm. Số quân New Zealand cao nhất vào năm 1970 là 441 người. (10) Tổng số quân tử trận tại Việt Nam là 36 người. (11)

Năm 1964, Republic of Korea (South Korea) tức Cộng Hòa Đại Hàn (hay Nam Hàn) gởi sang Việt Nam 200 quân, nhưng ngay từ năm sau (1965), quân Đại Hàn tăng lên 20,620 người, rồi lại tăng thành 45,566 quân năm 1966. Cao điểm vào năm 1969, quân Đại Hàn hiện diện ở Việt Nam là 48, 869 người. Sau đó quân số giảm dần cho đến khi rút lui đầu năm 1973. Quân Đại Hàn đóng giữ các tỉnh duyên hải từ Quảng Ngãi vào đến Bình Thuận. Các dơn vị nổi tiếng là Sư đoàn Mãnh Hổ (bản doanh ở Bình Định), Lữ đoàn Thủy quân lục chiến Thanh Long (bản doanh ở Cam Ranh) và sư đoàn Bạch Mã (bản doanh ở Tuy Hòa). Số quân tử trận khoảng 5,099, bị thương 11,232 và mất tích 4. (12)

Ngày 29-9-1964, 16 quân nhân viên Không lực Thái Lan đến Sài Gòn để giúp Không quân Việt Nam. Dần dần quân Thái Lan lên đến 6 tiểu đoàn với 11,586 quân năm 1970, đóng bản doanh trong vùng tỉnh Biên Hòa. Thái Lan bắt đầu rút quân từ tháng 3-1971 và chấm dứt giữa năm 1972. (13a) Thái Lan mất 351 quân nhân và bị thương 1,358 người.

Nước Philippines gởi Đoàn Công tác Dân vụ (Civic Action Group) qua giúp VNCH từ năm 1964. Cao điểm năm 1967, quân Philippines lên đến 534 người. Sau đó giảm xuống dần dần và chỉ còn 74 người năm 1970. Quân Philippines đảm trách các công tác dân vụ như y tế, làm đường sá, xây cầu cống, dựng nhà giúp dân tái định cư tại các tỉnh Hậu Nghĩa, Bình Dương và Tây Ninh. (13b) Số thiệt hại quân nhân Phi Luật Tân không đáng kể, 7 người chết, 2 người bị thương.

Ngoài ra, còn hai nước chỉ gởi chuyên viên kỹ thuật và y tế sang giúp VNCH là Trung Hoa Dân Quốc (Republic of China) và Tây Ban Nha (Spain). Trung Hoa Dân Quốc tức Đài Loan (Taiwan) gởi 20 người năm 1964 và 31 người năm 1970. Tây Ban Nha gởi 13 chuyên viên năm 1966 và chỉ còn 7 người năm 1970. (14)

DIỄN BIẾN QUÂN SỐ ĐỒNG MINH TỰ DO (14)
Quốc Gia1964196519661967196819691970
Australia200
1,557
4,525
6,818
7,611
7,672
6,763
New Zealand30
119
155
534
516
552
441
Republic
of Korea
200
20,620
45,566
47,828
50,003
48,869
48,537
Thái Lan
16
240
2,205
6,005
11,568
11,586
Philippines 17
72
20,61
2,020
1,576
189
74
Republic of China20
20
23
31
29
29
31
Tây Ban
Nha



13 12 10 07

3. LỰC LƯỢNG CÁC NƯỚC CỘNG SẢN THAM CHIẾN

Quân đội Hoa Kỳ và các nước đồng minh trong khối Tự do đến giúp VNCH (Nam Việt Nam) có tính cách công khai, nên chẳng những người Việt Nam biết, mà cả thế giới đều biết. Ngược lại, lực lượng các nước trong khối Cộng sản đến giúp VNDCCH (Bắc Việt Nam) hết sức bí mật và được giấu kín trong thời gian chiến tranh. Sau năm 1975, tin tức dần dần mới được tiết lộ.

Để chuẩn bị chiến tranh, đầu tháng 7-1959 Hồ Chí Minh qua Moscow đề nghị Liên Xô yểm trợ Bắc Việt Nam trong cuộc chiến mà đảng LĐ đang sửa soạn tấn công miền Nam Việt Nam, nhưng Liên Xô khuyên Hồ Chí Minh nên tiếp tục mưu tìm sự thống nhất trong hòa bình. (15)

Vào lúc nầy, Nikita Khrushchev đang cầm quyền ở Liên Xô từ năm 1953. Năm 1956, trong Đại hội đảng lần thứ 20 đảng Cộng Sản Liên Xô (CSLX) tháng 2-1956, ông đưa ra chủ trương “chung sống hòa bình” giữa các nước không cùng chế độ chính trị.

Một thành tựu quân sự quan trọng của LX dưới thời Khrushchev là Liên Xô đã phóng thành công vệ tinh Sputnik lên quỹ đạo ngày 4-10-1957, mở đầu kỷ nguyên chinh phục không gian. Sau những cuộc thương lượng kéo dài, ngày 5-8-1963, ngoại trưởng Liên Xô (Andrei Gromyko), ngoại trưởng Anh Quốc (Alec Douglas Home) và ngoại trưởng Hoa Kỳ (Dean Rusk) ký thỏa hiệp giới hạn thử nghiệm bom nguyên tử trên khí quyển và ngoài biển khơi, chỉ được thử nghiệm trên đất liền. Thỏa hiệp nầy chính thức có hiêu lực từ ngày 10-10-1963.

Khi Leonid Brezhnev lên làm thư ký thứ nhất đảng CSLX thay Nikita Khrushchev vào tháng 10-1964, thì LX thay đổi thái đô, viện trợ và gởi người sang giúp Bắc Việt Nam. Quân đội Liên Xô đến Bắc Việt khoảng 3,000 người, thuộc Phòng Tùy viên Quân sự Tòa đại sứ Liên Xô tại Hà Nội, đều là những chuyên viên không quân, kỹ thuật phòng không và hỏa tiễn (Bắc Việt gọi là tên lửa). Nhiệm vụ của chuyên viên LX là huấn luyện lắp ráp tại chỗ các loại máy bay chiến đấu MIG-21 và SU, huấn luyện phi công Bắc Việt lái máy bay, lắp ráp các bệ phóng hỏa tiễn và điều khiển hỏa tiễn. Ngoài ra còn có một số chuyên gia về hải quân và các binh chủng khác.

Khi phục vụ tại Bắc Việt, các quân nhân LX đều dùng thường phục, chỉ trong những buổi lễ mới dùng quân phục, sinh sống tập trung nhiều nhất ở trong một số khu vực ở Hà Nội và ở các phi trường lớn có trang bị hỏa tiễn phòng không tại Bắc Việt. (16)

Nước cộng sản lớn thứ hai đưa quân vào Bắc Việt Nam là Trung Quốc (TQ). Bắc Việt Nam nằm sát phía nam TQ. Ngày 4-9-1958, Quốc Vụ Viện TQ ra nghị quyết về ranh giới biển của TQ là 12 hải lý kể từ bờ biển, áp dụng cho toàn thể lãnh thổ TQ, bao gồm các hải đảo, trong đó có cả Hoàng Sa và Trường Sa. Để lấy lòng TQ, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt, với sự đồng ý của Hồ Chí Minh và bộ Chính trị đảng LĐ, ký quốc thư ngày 14-9-1958, tán thành quyết định trên của TQ ngày 4-9-1958, nghĩa là mặc nhiên thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc.

Cần chú ý thêm TQ đã thử nghiệm thành công quả bom nguyên tử đầu tiên ngày 16-10-1964, phóng hỏa tiễn nguyên tử đầu tiên ngày 25-10-1966 và thử nghiệm quả bom khinh khí đầu tiên ngày 14-6-1967. (17) Sự thành công nầy làm tăng giá trị vị thế của TQ trong bang giao quốc tế.

Trước đây, chỉ có Liên Xô là nước cộng sản duy nhất thủ đắc bom nguyên tử, có thể đối trọng với Hoa Kỳ. Nay Trung Quốc cũng có bom nguyên tử nên càng làm cho Bắc Việt tin tưởng thêm hơn trong cuộc đối đầu với Hoa Kỳ. Mối bang giao Liên Xô-Trung Quốc rạn nứt từ năm 1956, khi Nikita Khrushchev chủ trương “sống chung hòa bình” giữa các nước không cùng chế độ chính trị. Nay có bom nguyên tử, TQ càng tỏ ra khiêu khích đối với Liên Xô. Riêng Hoa Kỳ, sau khi TQ nắm được bom nguyên tử, Hoa Kỳ cũng phải tính toán lại sách lược bang giao đối với Trung Quốc, tạo nhiều hệ lụy trong chiến tranh Việt Nam.

Trong khi đó, vào đầu tháng 8-1964 xảy ra biến cố Vịnh Bắc Việt. Quốc hội Hoa Kỳ liền đưa ra “Quyết nghị vịnh Bắc Việt” (Gulf of Tonkin Resolution) ngày 7-8-1964, cho phép tổng thống Hoa Kỳ thi hành các biện pháp cần thiết, kể cả việc dùng võ lực, để đối phó với tình hình tại Đông Nam Á. Trung Quốc tỏ ra quan ngại, cho rằng chẳng những Hoa Kỳ tấn công Bắc Việt mà Hoa Kỳ sẽ có thể giúp Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) đổ bộ lục địa Trung Quốc. Một mặt, Trung Quốc tái bố trí lực lượng nội địa để phòng thủ, một mặt Trung Quốc tăng cường giúp đỡ VNDCCH nhằm chống lại Hoa Kỳ. (18)

Các lãnh tụ Bắc Việt là Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, Văn Tiến Dũng liên tục qua Trung Quốc hội họp và thương lượng với các lãnh tụ Trung Quốc. Ngoài việc gởi quân viện, từ tháng 6-1965 đến tháng 3-1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt Nam 320,000 quân, trú đóng ở các tỉnh và thành phố phía bắc Hà Nội, điều khiển các súng phòng không, sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, xây dựng các hãng xưởng, bảo vệ các tỉnh phía bắc nhằm giúp Bắc Việt kéo hết quân xuống tấn công miền Nam. Khi Trung Quốc rút quân về nước vào tháng 8-1973 (7 tháng sau hiệp định Paris), tổng số lính Trung Quốc thiệt mạng tại Việt Nam là 1,100 người và bị thương là 4,200 người. (19)

Cuối năm 1966, Cộng Hòa Nhân Dân Triều Tiên (Bắc Hàn) gởi hai trung đoàn pháo binh phòng không và hai phi đội sang Bắc Việt Nam giúp bảo vệ Hà Nội. Kim Nhật Thành đã nói với các phi công Bắc Hàn là hãy chiến đấu trên bầu trời Bắc Việt giống như tại Triều Tiên. Khi rút về vào 1972, Bắc Hàn để lại khoảng vài chục quân nhân bị giết trong các cuộc dội bom của phi cơ Hoa Kỳ. (20)

Ngoài ra, Cuba, một nước ở Trung Mỹ theo cộng sản, cũng gởi người đến giúp Bắc Việt, qua hình thức dân sự thuộc Tòa đại sứ Cuba ở Hà Nội. Đó là những chuyên viên phụ trách khai thác tù binh Hoa Kỳ bị Bắc Việt bắt được. Đa số quân nhân Hoa Kỳ bị bắt là phi công. Theo lời kể của những tù binh Hoa Kỳ còn sống sót và trở về Hoa Kỳ sau hiệp định Paris năm 1973, các chuyên viên Cuba tra tấn một cách tàn nhẫn và có khi đánh đập đến chết một số tù binh Hoa Kỳ. (21)

KẾT LUẬN

Sau khi đất nước bị chia hai, miền Nam Việt Nam muốn sống yên ổn, hòa bình để phát triển kinh tế, nhưng lại bị Bắc Việt Nam khiêu khích và tấn công vì cho rằng miền Nam Việt Nam không thi hành việc tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo hiệp định Genève (20-7-1954). Lý do nầy hoàn toàn không hợp lý vì hiệp định Genève chỉ là một hiệp định đình chỉ chiến sự, không nói gì đến giải pháp chính trị. Việc dự tính tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước chỉ được đề cập đến trong điều 7 bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”. Bản tuyên bố nầy lại không có chữ ký của các nước tham dự hội nghị nên không có giá trị cưỡng hành.

Quân đội các nước cộng sản kín đáo đến giúp Bắc Việt Nam, được ngụy trang dưới hình thức chuyên viên kỹ thuật dân sự. Truyền thông Bắc Việt hoàn toàn do nhà nước kiểm soát, nên không đưa tin về việc nầy. Bắc Việt bưng bít tin tức rất kỹ, thế giới hoàn toàn không hay biết về sự hiện diện của quân đội các nước cộng sản tại Bắc Việt.

Trong khi đó, Hoa Kỳ cùng đồng minh công khai đổ quân ồ ạt vào Nam Việt Nam. Cộng sản Bắc Việt lợi dụng sự hiện diện công khai của quân nhân nước ngoài tại miền Nam Việt Nam để tuyên truyền chống VNCH và chống “đế quốc xâm lược Mỹ”, chẳng những trong dân chúng Việt Nam ở cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam, mà cả trưóc dư luận thế giới.

Quân đội Hoa Kỳ và đồng minh vào miền Nam Việt Nam khá nhanh từ năm 1965 và cũng rút nhanh vào đầu thập niên 70. Tuy vậy, quân đội VNCH vẫn một mình chiến đấu bảo vệ miền Nam Việt Nam, và chỉ phải buông súng vì thiếu đạn dược do Hoa Kỳ cắt quân viện, trong khi Bắc Việt Nam được toàn khối cộng sản yểm trợ mạnh mẽ cho đến khi thành công năm 1975. (Trích Việt sử đại cương tập 6.)

Trần Gia Phụng
(phungtrangia@yahoo.com)

CHÚ THÍCH

1. Sau thế chiến thứ hai, thế giới chia thành hai khối rõ rệt. Khối tư bản do Hoa Kỳ đứng đầu và khối cộng sản do Liên Xô lãnh đạo. Hoa Kỳ thử thành công bom nguyên tử lần đầu tiên ngày 16-7-1945, và đã dùng bom nguyên tử thả xuống hai thành phố Nhật Bản là Hiroshima (6-8-1945) và Nagasaki (9-8-1945), kết thúc thế chiến thứ hai. Liên Xô thử nghiệm thành công bom nguyên tử đầu tiên ngày 29-8-1949. Vì cùng thủ đắc võ khí nguyên tử, hai nước Hoa Kỳ và Liên Xô, tuy tranh chấp nhau quyết liệt, nhưng tránh trực tiếp đụng độ nhau. Tình trạng nầy gọi là chiến tranh lạnh Trong chiến tranh lạnh, Liên Xô và khối cộng sản dựa vào chiêu bài giải phóng dân tộc để tuyên truyền và bành trướng thế lực. Hoa Kỳ và khối tư bản cho rằng khi một nước bị cộng sản chiếm quyền, thì các nước lân bang dần dần sẽ bị mất vào tay cộng sản, nghĩa là một quân cờ domino sụp đổ, thì các quân cờ domino khác cũng sụp theo. Đó là nguồn gốc thuyết domino tại các nước Tây phương, nhất là Hoa Kỳ. Vận dụng thuyết địa lý chính trị nầy, Hoa Kỳ can thiệp vào các nước Đông Nam Á, hầu ngăn chận sự bành trướng của cộng sản.
2. Wikipedia, The free encyclopedia, “Military Assistance Advisory Group”.
3. Lâm Vĩnh Thế trích dịch, Bạch hóa tài liệu mật của Hoa Kỳ về Việt Nam Cộng Hòa, Hamilton, Ontario: Hoài Việt, 2008, tt. 162-166. Đọc thêm: William Westmoreland, A Soldier’s Report, Duy Nguyên dịch, Hồi ký cựu đại tướng Westmoreland, San Jose: Nxb. Thế Giới, 1996, chương VII, “Quyết định khó khăn nhất”, tt. 171-206.
4. Làng Nam Ô nằm ven vịnh Đà Nẵng, dân địa phương gọi là Vũng Thùng. Trước đó hơn 100 năm, những TQLC Pháp đầu tiên cũng đã đổ bộ ở Vũng Thùng năm 1856. Ca dao Quảng Nam có câu: “Tai nghe súng nổ cái đùng/ Tàu Tây đã đến Vũng Thùng hôm qua.” Làng Nam Ô thuộc huyện Hòa Vang, tiếp giáp với Liên Chiểu, ngay dưới chân phía nam đèo Hải Vân.
5. Đoàn Thêm, Việc từng ngày 1965, Việc từng ngày 1966, Việc từng ngày 1967, California: Nxb. Xuân Thu tái bản, mục cuối mỗi sách: “Quân số Hoa Kỳ”.
6. Wikipedia, The Free Encyclopedia, “Việt nam War”, mục “Strenght”.()
7. Wikipedia, the Free Encyclopedia, “Vietnam War” “Casualities” [Thương vong trong chiến tranh Việt Nam]. (http://en.wikipedia.org/wiki/Vietnam_War_casualties)
8. Trung tướng Stanley Robert Larson và Thiếu tướng James Lawton Collins, Jr., Allied Participation in Vietnam, Washingtong D.C.: Department of Army, 1985, tr. 23.
9. Australian War Memorial, “Vietnam War 1962-1975”.()
10. Robert Larson và Lawton Collins, Jr., sđd. tr. 23.
11. Wikipedia, The Free Encyclopedia, “New Zealand in the Vietnam War”.
12. Robert Larson và Lawton Collins, Jr., sđd, chương: “The Republic of Korea”, tt. 120-156; và Wikipedia, The free encyclopedia, “Vietnam War Casualities”.
13. Robert Larson và Lawton Collins, Jr., sđd, tt.. 23, 51 (13a), 23, 63 (13b).
14. Robert Larson và Lawton Collins, Jr., sđd. tr. 23.
15. Mark Moyar, Triumph Forsaken, The Vietnam War, 1954-1965, New York: Cambridge University Press, 2006, tr. 83.
16. http://www.russiatoday.ru/news/news/21019 “USSR ’secret’ Vietnam soldiers speak out”, 16-2-2008. Xem thêm: Bản tin đài RFA (Radio Free Asia) ngày 20-2-2008. RFA còn phỏng vấn nhà báo Bùi Tín, cựu đại tá Bộ đội cộng sản Bắc Việt. Ngoài ra, tham khảo thêm BBC Vietnamese ngày 19-11-2008.
17. Google: “China Nuclear Forces”.(Trích ngày 4-6-2008.)
18. Lorenz Luthi, “The Vietnam War and Chinas Third-Line Defense Planning before the Cultural Revolution, 1964-1966″ Journal of Cold War Studies, Vol. 10, No. 1, Winter 2008, pp. 26-51, bản dịch của Trần Quốc Tân, “Chiến tranh Việt Nam và kế hoạch phòng tuyến ba của Trung Quốc trước Cách mạng Văn hóa, 1964-1966, (Nguồn: Tạp chí Thời Đại Mới, số 13, tháng 03-2008. (tapchithoidai.org/ThoiDai13/2008).
19. Qiang Zhai, China & Vietnam Wars, 1950-1975, The University of North Carolina Press, 2000, tr. 135.
20. Wikipedia, The Free Encyclopedia, “Koreans in Vietnam”, “Vietnam War casualties”, và BBC NEWS (Anh ngữ) các ngày 31-3-2000, 7-7-2001, và 12-7-2001.
21. http://www2.fiu.edu/~fcf/warcrimes.cuba.vietnam.html. “War Crimes: The Cuban-Vietnam Connection”, 20-2-1997. http://webcache.googleusercontent.com/ “Cuban Torturers in Viet Nam-Eye-Witness Report, 12-Apr-2004”.



Ai chống lại Giáo hội Công giáo - Đaminh Phan văn Phước



Đaminh Phan văn Phước

Để chứng minh điều vừa nói là có tình, có lý, tôi xin nêu lên các danh ngôn sau đây:
    a. Của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan XXIII: ”Ai phê bình, thậm chí chỉ trích tôi, người ấy là bạn. Còn ai tâng bốc tôi, người ấy là thù!”

    b.
    Của Thánh Hiền: ”Gạo bỏ vào cối, có đâm, có giã, có sứt, có mẻ, có nát, mới trắng tựa bông!”

    c.
    Của Sainte-Beuve: ”Đối với tôi, được phê bình là điều thú vị để biết tư tưởng của người khác, chứ không phải là để khống chế các tư tưởng ấy”.

    d.
    Của Heinrich Heine: ”Người muốn được khen là người coi trọng lời phê bình”.

    e.
    Của Abbé Prévost: ”Không nhất thiết tác giả hiểu được ngay những gì mình viết. Người phê bình sẽ đảm nhận việc giải thích cho tác giả những điều ông ta đã viết”.

    g.
    Erik Satie: ”Mọi lời phê bình đều có tác dụng”. Như lời nhận định của Đức Cha Nguyễn Chí Linh: ”Đó là điểm tích cực!”
”Kitô hữu công giáo” có bổn phận xây dựng Giáo Hội Tông Truyền và phải chịu trách nhiệm với lương tâm, với tha nhân, và nhất là với Đấng có Quyền Bính Tối Cao là Thiên Chúa về ba chức năng: ”tư tế, ngôn sứ, quân vương” ”thánh hóa” mình và người đồng Đạo để thắng Satan, hiển trị với Chúa và mở mang Nước Ngài khắp nơi như lời nguyện trong Kinh Lạy Cha. Vì vậy, nhiều Ki-tô hữu trong và ngoài Nước đã, đang và sẽ còn góp ý thẳng thắn, bằng cách này hay khác, với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về tư cách và khả năng Ngôn Sứ của các Ngài giữa lòng Dân Tộc vì, hơn ai hết, các Ngài là Mục Tử có nhiệm vụ tiên phong làm ”chứng nhân đi công bố Tin Mừng”!

Ấy là ”Tin Mừng về Hồng Ân của Chúa cho người nghèo khó, người bị tù đày, người đui mù, người bị áp bức!”. Tin Mừng cũng chính là ”Đạo” hay là ”Đường về Thiên Quốc” mà Chúa Giê-su đã chỉ cho người giàu có: ”Bán hết của cải, lấy tiền cho người nghèo, và sẽ có một kho tàng trên trời, rồi đến theo Ta”. Chàng thanh niên giàu có này không nhận ra ”cái nghèo xơ, nghèo xác” về Tin Mừng nơi tâm hồn mình vì tiếc của! Việt Nam ”Ta” chỉ có hơn sáu triệu người công giáo trong tổng số gần chín mươi triệu dân thì quả là một trong những nước nghèo nhất thế giới về Lời Chúa!. Nhiều Ngài Mục Tử Việt Nam chưa mạnh dạn làm theo lời dạy của Thánh Phao-lô: ”Trong (ơn) khôn ngoan, hãy đi đến người ngoài. – In sapientia ambulate ad eos qui foris sunt”. Ơn ‘Khôn Ngoan” của Thánh Linh khác với sự ”khôn khéo” không thật lòng ”con cái thế gian khôn lanh hơn con cái Sự Sáng!” của Dale Carnégie trong ”Đắc Nhân Tâm” vẫn còn là cuốn ”Best Seller” bởi vì ”con cái thế gian khôn lanh hơn con cái Sự Sáng!”

Điều thật đáng buồn là ”người lên tiếng góp ý vì yêu Giáo Hội” thì lại bị chụp mũ là ”phỉ báng các Đấng thay mặt Chúa cùng các Đấng làm Thầy, chống Cha, chống Chúa, chống Giáo Hội!”. Cũng vì ”Bác Ái, Từ Bi, tình nghĩa đồng bào và lòng yêu Nước nồng nàn” mà bà con đã lên tiếng phê phán cụ thể thành phần làm gương mù trong Công Giáo thì lại bị hiểu lầm là ”cố tình phá Đạo”!. Đáng ra chúng ta phải cảm ơn Kitô hữu ngoài Công Giáo (Chính Thống Giáo và Tin Lành), bà con Bên Lương hay là đồng bào đã chỉ cho chúng ta thấy được khuyết điểm của mình.

Để chứng minh điều vừa nói là có tình, có lý, tôi xin nêu lên các danh ngôn sau đây:
    a. của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan XXIII: ”Ai phê bình, thậm chí chỉ trích tôi, người ấy là bạn. Còn ai tâng bốc tôi, người ấy là thù!”.
    b. Của Thánh Hiền: ”Gạo bỏ vào cối, có đâm, có giã, có sứt, có mẻ, có nát, mới trắng tựa bông!”
    c. Của Sainte-Beuve: ”Đối với tôi, được phê bình là điều thú vị để biết tư tưởng của người khác, chứ không phải là để khống chế các tư tưởng ấy”
    d. Của Heinrich Heine: ”Người muốn được khen là người coi trọng lời phê bình”
    e. Của Abbé Prévost: ”Không nhất thiết tác giả hiểu được ngay những gì mình viết. Người phê bình sẽ đảm nhận việc giải thích cho tác giả những điều ông ta đã viết”
    g. Erik Satie: ”Mọi lời phê bình đều có tác dụng” như lời nhận định của Đức Cha Nguyễn Chí Linh: ”Đó là điểm tích cực!”
Kinh Mùa Chay Thánh cũng dạy như sau: ”Con xin Đức Chúa Giêsu hôm nay, cùng hằng ngày, cùng trọn đời con, cho linh hồn con, cùng lòng mình con, cùng mọi sự ý con, cùng cha mẹ, anh em, bạn hữu thân thích con, con lại xin cho kẻ nghịch cùng con đặng mọi sự lành”.

”Kẻ nghịch” tức là người ”chẳng thuận với ý của mình”! Mà đã cầu nguyện cho họ thì họ không phải là Satan chống phá Giáo Hội! Chẳng ai cầu nguyện cho Satan vì nó đã bị phạt đời đời, mà còn nuôi ảo tưởng sẽ ngồi trên Ngai của Thiên Chúa! (Ysaya 13, 11-15) Còn Cộng Sản thì vô thần, coi Tôn Giáo là thuốc phiện, đã cho viết vào Thánh Giá hàng chữ: ”Ma túy! Hãy tránh xa!”. Cho nên họ vô tình kết bạn với Satan! Họ không bao giờ chống, mà lại ”để yên” hay là ”gài bẫy” cho Mục Tử và con chiên tha hồ sa ngã!. Nhưng người có Tín Ngưỡng và Việt Đạo thì thấy mình cần phải góp ý cho đồng bào, trong đó có Kitô hữu và Đảng viên cộng sản vì họ quan niệm: ”Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ! Một người làm xấu, cả bậu mang nhơ!”. Tôi đau một ngón tay là toàn thân tôi đau!. Tôi có tội, tức là đau phần hồn thì Chúa Giêsu là Đầu của Hội Thánh và Hội Thánh là Thân Mình Mầu Nhiệm của Ngài cũng đau theo!. Người Bên Lương thấy nỗi đau của đồng bào tin Đạo Chúa thì ”họ” cũng xót xa theo nghĩa Từ Bi!. Chúng ta cũng chạnh lòng với Tôn Giáo Bạn theo nghĩa Bác Ái!. Góp ý cho đồng loại, tức là muốn người khác cũng sống ngay lành mà được phúc!. Hạnh phúc chính là cảm giác khi ta chạnh lòng thương, kính trọng và chiêm ngưỡng nỗi đau của người khác!. Chạnh lòng mà không ra tay cứu giúp khi mình có khả năng thì là bất nhân!. Cho nên, không được phép gọi người phê bình, chỉ trích Giáo Hội là thành phần ”phá Giáo Hội” nếu như người ta nói đúng!. Định danh không tốt cho ”người làm ơn” là lỗi bác ái và đức công bằng!. Còn đối với người công giáo thì Giáo Hội được ví như Con Thuyền giữa biển khơi đầy sóng gió. Giáo Hoàng như là Thuyền Trưởng, Hoa Tiêu; giáo dân như là thủy thủ của Con Thuyền ”Giáo Hội”. Chính vì thế, bài hát ”Lạy Mẹ là Ngôi Sao Sáng” (Sao Biển) dạy chúng ta cầu xin như sau: ”Sóng va tứ bề! Thuyền con sắp hòng chìm theo nước xuôi dòng! Thân lạy Nữ Vương! Mẹ thấu tình con! Giúp con yên hàn chèo, bơi, bát, cạy! Mẹ thương đến con cùng!”

Rõ ràng ”Thuyền Trưởng Giáo Hoàng” rất cần ”cộng tác viên” là Mục Tử, là giáo dân!. Tất cả phải ra sức ”chèo, chống, bơi, bát, cạy, tát nước…” thì Mẹ Hằng Cứu Giúp mới nhậm lời nài van của mình!. Trong Con Thuyền Giáo Hội Việt Nam cũng vậy: Mục Tử như là người giữ mái chèo; giáo dân như người giữ mái dầm (chầm). Đôi bên cùng ra sức, chống đỡ nhau để đưa ”Con Thuyền Giáo Hội địa phương lướt nhanh” như tục ngữ Việt Nam có dạy: ”Buông tay dầm, cầm tay chèo!””cả hai” đều quan trọng, giúp thuyền tiến lên!. Công dân yếu thì vận Nước điêu linh!. Giáo dân mạnh thì Danh Cha cả sáng!. Vì thế mà Sách Giáo Lý khẳng định như sau: ”Giáo dân ở tuyến đầu của Giáo Hội!”. Bởi vì họ được ”trang bị” bằng Sức Mạnh vô biên của Thánh Linh để bảo vệ Thành Trì của Giáo Hội, tức là đánh tan được ba thù: ”Ma quỷ, thế gian, xác thịt” như lời ca nhập Lễ: ”Tứ vi dịch thù vây hãm! Lo gì! Có Chúa trong Thành: Dịch thù tan nát hết! Chúa trong lòng ta! Lo lắng gì! Hồn tôi ơi!”

Cho nên, xét cho cùng, cái mũ ”chống Giáo Hội” chụp lên đầu những Kitô hữu kính sợ Chúa chính là thành kiến ”cản mũi kỳ đà” chức năng tư tế, ngôn sứ, quân vương của Hàng Giáo Dân bởi vì thành kiến ấy lại phá Đạo ác liệt hơn cả Satan, bởi vì Satan rất ghét những người công chính!. Vậy thì nên hiểu ba chữ ”chống Giáo Hội” theo nghĩa tích cực là ”nâng đỡ, giúp đỡ, chống đỡ Giáo Hội”. Ngoài chữ ”đỡ”, người mình còn dùng chữ ”chống” như sau: ”lấy cột tre, cây gỗ để chống buồng chuối, giàn bí…; cột chống mái nhà…”. Chúng ta chỉ ”chống đỡ” Mục Tử và con chiên nào có quan điểm và việc làm ngược với Lời Chúa dạy. Chúng ta cộng tác trong việc chống Con Thuyền Giáo Hội Việt Nam đi đúng hướng với Giáo Hội Hoàn Vũ bởi vì chúng ta thương Giáo Hội là Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu, bởi vì Giáo Hội phải vinh Danh Chúa giữa mọi người!

Maisen xin Chúa chỉ cho ông ta thấy vinh quang của Ngài thì Ngài trả lời như sau: ”Ta sẽ cho ngang qua trước mặt con tất cả sự tốt lành của Ta và Ta sẽ kêu Danh Chúa trước mặt con; Ta sẽ đoái thương người nào thương Ta, và Ta sẽ xót thương người nào thương xót Ta.” (X. Hành 33, 19)

Thương xót Giáo Hội chính là thương xót Chúa!. Người ”chống” là cầm sào mà ”thọc, tì” thật mạnh vào vật cứng để đẩy thuyền, ghe, bè, xuồng … đi tới!. Giáo dân sử dụng SÀO ĐỨC TIN, ”bám, tựa” vào Lời Chúa để cùng với Mục Tử CHỐNG THUYỀN GIÁO HỘI ra khơi!. Vâng Lời Thầy Chí Thánh, giáo dân có tội tình gì trong việc góp ý khi thấy Mục Tử chưa, thậm chí có khi là không ”kết hợp chặt chẽ” với Cây Nho là Thầy?. Con cái thấy nhà mình bị dột, đứng khoanh tay mà nhìn, rồi để ”mặc kệ nó”, là bất hiếu, vô ơn với đấng sinh thành, dưỡng dục. Thấy Giáo Hội Việt Nam đã có tuổi đời hằng mấy trăm năm, chỉ ”chiếm” tỷ lệ quá thấp vì nhiều lý do, trong đó lỗi lầm của Mục Tử và con chiên cũng là nguyên nhân chính ngăn cản Nước Cha trị đến, mà giáo dân khác không lên tiếng góp ý xây dựng thì có nghĩa là đồng tình, là vô trách nhiệm, hay là nhân danh chủ nghĩa ”mặc kệ” (mackéïsme, Mackeïsmus) cho khỏi bị rầy rà, khỏi mang tiếng ”phá Đạo”!

Tình mến là ”thước đo lòng người”! Alphonse Kaar phát biểu: ”Tình yêu là cuộc đi săn mà thợ săn phải để cho thú săn theo mình”. Sau khi phạm tội ”tày trời” là chối Chúa tới ba lần, rồi hiểu được ý nghĩa khổ nạn, sự chết và việc phục sinh của Chúa, Phêrô cũng được Ngài ”vặn hỏi” tới ba lần: ”Con có mến Ta không?” Chúa như là Thợ Săn; còn Phêrô như là thú săn chạy theo Thợ Săn tuyệt vời! Cho nên ông buồn khi được Chúa hỏi tới lần thứ ba để rồi phải xác tín như sau: ”Lạy Chúa, Chúa biết hết mọi sự. Chúa biết con mến Chúa!”

Lòng mến chẳng những đã cứu Phêrô khỏi tội chối Thầy, mà còn là ”tiêu chuẩn số một” để ông được Chúa chọn làm Giáo Hoàng Tiên Khởi, tức là Chủ Chăn Đàn Chiên là Giáo Hội của Chúa! Léonard de Vinci nói: ”Càng nhận biết thì càng yêu”. Thật vậy, được Chúa trả lời cho câu hỏi ”Thưa Chúa, Chúa đi đâu? – Quo vadis, Domine?”, Phêrô làm theo Lời Chúa là trở về Roma, xin ”được đóng đinh, mà đầu lộn ngược” để làm vinh Danh Thầy bởi vì ông đã quán triệt Sứ Mạng Cứu Rỗi mà Thầy truyền lại cho mình! Ý nghĩa của Sứ Mạng ấy đã được ghi lại trong Thánh Ca, theo Tin Mừng Thánh Gioan 15,13 như sau: ”Còn tình yêu nào cao quý hơn là tình yêu người liều mạng sống vì người mình yêu!”. Ở đoạn khác, Thánh nhân còn ghi lại Lời Chúa dạy thế này: ”Ta ban cho các con một điều răn mới: Hãy yêu mến nhau. Ta đã yêu các con như thể nào thì các con hãy yêu mến nhau như vậy. Theo dấu này, mọi người sẽ nhận ra các con là môn đệ của Ta: Đó là các con có tình thương mến nhau.” (Gioan 13,34-35) Mà đã thương thì phải sửa lỗi cho người mình thương!

Hồi còn bé, tôi được nghe kể chuyện thế này: Khi đến tuổi già, Thánh Gioan chỉ lặp đi, lặp lại bài giảng ngắn gọn như sau: ”Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen. Các con hãy yêu thương nhau. Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.” Bài giảng nghe hoài, chán tai, nhưng đó là ”linh hồn” của Giáo Hội! Cho nên người không có Đức Mến thì ”nguy hiểm” hơn cả Xatan bởi vì ”họ” ích kỷ và kiêu ngạo, mà lại ở ngay trong lòng Giáo Hội!. Chính họ còn tệ hơn cỏ lùng mọc chung với lúa bởi vì ”nhất cự ly, nhì cường độ”! Câu ”Gần mực thì đen” nói lên sự tác hại của gương xấu! Còn câu ”Gần đèn thì sáng” nói về ảnh hưởng tốt của gương lành! Nhưng ”đèn” không có ”lửa”, không ”cháy” rực lòng mến thì ”sáng” làm sao được? Chính Chúa Giêsu đã báo động người lớn như sau: ”Ai là cớ vấp phạm cho một trong những đứa trẻ này đang tin Ta thì thà buộc cối đá xay vào cổ nó và quăng nó xuống biển còn hơn.” (Marcô, 9, 42) Chúa còn dạy: ”Các con là muối đất. Nếu muối mà nhạt thì lấy gì làm nó mặn lại? Nó chẳng còn ích gì, chỉ đem đổ ra ngoài cho người ta dẫm đạp. Các con là ánh sáng thế gian… Ánh sáng của các con phải chói lọi trước mặt người đời ngõ hầu họ thấy việc lành các con làm mà tôn vinh Cha các con ở trên trời.” (Mathêô, 5, 13-16) Chúa dùng chữ ”chói lọi” khác với ”leo lét”!

Chúng ta thường đọc: ”Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con đặng biết việc phải làm, cùng khi làm, xin Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh, mỗi việc chúng con từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen.” Trong Cựu Ước, Ysaya 60, 19 nói về Thiên Chúa là Ánh Sáng như sau: ”Ngươi sẽ không cần nhờ mặt trời soi chiếu ban ngày, ngươi sẽ không cần nhờ vầng trăng soi chiếu ban đêm. Chúa sẽ là ánh sáng cho ngươi muôn đời. Chúa sẽ là vinh quang của ngươi.” (Thánh Ca Việt) Còn Khải Huyền thì viết: ”Và Thành không cần mặt trời, mặt trăng soi chiếu vì vinh quang Thiên Chúa chói lọi trên Thành; và đèn soi trên Thành là Chiên Con.”

Người cộng sản vô thần không tin có Đấng Hóa Công vì chẳng biết gì về Ngài, tức là ”vô tri!””vô tri” thì ”bất mộ!” Đã ”bất mộ Đạo mà họ coi là thuốc phiện” thì việc phải phá Đạo là chuyện đương nhiên!. Nhưng người đã tin, đã biết rõ Xatan là ai, mà còn ”làm lợi” cho nó bằng cách này hay cách khác, bằng lời lẽ ngụy biện dối trá vì tư lợi, chức quyền, danh vọng, tức là chẳng tuân giữ Mười Điều Răn nên cũng lờ đi việc người cộng sản đang xúc phạm đến Mười Điều Răn thì những người đó đáng ”bị phạt nặng hơn mà chớ!” bởi vì không thực hiện chức năng tư tế, ngôn sứ, quân vương giữa lòng Dân Tộc!

Ngày xưa, đi chân không, mà Mục Tử đến tận những nơi không được an toàn, vùng đèo heo hút gió, xa xôi, xa thẳm, xaxa, mà lại đi gần! Nơi xa dễ đến là những nước có cuộc sống xa hoa, xa phí, có nhiều xa xỉ phẩm! Nhiều VỊ có đôi chân khỏe, mà cứ ru rú ở nhà, trong ”khuôn viên” của mình, chỉ muốn ngồi yên trên xa-lông thành ra xa lìa con chiên là xa rời thực tế! Lời rao giảng của các NGÀI tưởng chừng được lan xa, nhưng lại trở thành xa vời, xa cách với lòng người! (Xin xem VietCatholic: ”Ưu Tư Truyền Giáo tại một vùng ở Việt Nam” ”Suy tư về nghịch lý trong vùng đất truyền giáo”.) tít! Còn ngày nay, nhiều VỊ có phương tiện để được đi xa, mà lại đi gần! Nơi xa dễ đến là những nước có cuộc sống xa hoa, xa phí, có nhiều xa xỉ phẩm! Nhiều VỊ có đôi chân khỏe, mà cứ ru rú ở nhà, trong ”khuôn viên” của mình, chỉ muốn ngồi yên trên xa-lông thành ra xa lìa con chiên là xa rời thực tế! Lời rao giảng của các NGÀI tưởng chừng được lan xa, nhưng lại trở thành xa vời, xa cách với lòng người! (Xin xem VietCatholic: ”Ưu Tư Truyền Giáo tại một vùng ở Việt Nam” ”Suy tư về nghịch lý trong vùng đất truyền giáo”.)

Sống dưới chế độ tự xưng là ”lương tri của thời đại, đỉnh cao của trí tuệ”, người yêu Nước, thương. Nói mà ”thẳng thắn, thành thật, thiết tha thì thường thành thiếu thốn, thua thiệt thê thảm!”. Còn ai ”lách luồn, len lỏi, lương lẹo, lạy lục, liếm láp lại lên lương lẹ làng!”. Xin hiểu Lời Chúa: ”Nước TA không thuộc về thế gian này!” cho đúng nghĩa là: ”Quyền Năng của Ta không bởi loài người, không có bạo lực bất nhân trong Nước Ta!” Và xin đừng quên câu tiếp theo: ”Ta là Vua như ông đã nói! Vì thế Ta đã sinh ra, đã đến trong thế gian để làm chứng cho sự thật.” (Gioan 18, 36, 37). Ước gì Dân Chúa cứ an tâm, mạnh dạn làm theo Lời Ngài dạy: ”Hãy nói có, có, không, không. Thêm thắt điều là do Ác Tà!” (Math. 5, 37). Xin Chúa ”trả công” cho những người có lòng ngay:
    BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO NGƯỜI THIỆN TÂM!
Đaminh Phan văn Phước (Düsseldorf, 01.7. 2010)



Thursday, July 1, 2010

'Sadistic' priest jailed for abusing 39 boys

By court reporter Jamelle Wells
Source: http://www.abc.net.au/news/stories/2010/07/02/2943303.htm

The public gallery of a Sydney court has burst into applause as a Catholic priest was sentenced to at least 13 years and 10 months in jail for abusing 39 schoolboys whose complaints about him were mostly ignored.

John Sidney Denham, 67, pleaded guilty to sexually abusing the boys at schools in Sydney, Newcastle, the Hunter Valley and Taree between 1968 and 1986.

Most of the students were from Newcastle's St Pius X High School, where Denham was a teacher from 1975 to 1980.

In sentencing today, District Court judge Helen Syme said some of the offences were "sadistic" and "contributed to a culture of fear and depravity" in the schools he taught at.

Justice Syme said many complaints about the former priest were not acted on and students left school early to avoid his attentions.

She said the priest showed some of his victims pornographic movies and gave others chocolates, alcohol and money.

Downing Centre District Court heard Denham had asked one of his victims, who was then aged between 11 to 13, to be his "special friend".

Justice Syme said while Denham had forgiven himself for what he had done, she was not satisfied he was genuinely remorseful.

Denham sat hunched over looking at the ground and avoiding the gaze of his victims and their families, as he was sentenced to a maximum sentence of 19 years and 10 months, with a non-parole period of 13 years and 10 months for 135 offences.

His victims and their supporters in the public gallery burst into applause.

Abuse well-known

Some of his victims left the court at times today while Denham was being sentenced.

Afterwards, one of them said the abuse was well-known among students at his school. He said when the former priest walked past them, they would say, "Denham's on the crawl".

He said there were probably other victims who had not come forward.

The mother of one of the victims said the abuse had "ruined families" and the Catholic Church should have done something sooner.

"It's disgusting, the hierarchy in the Catholic Church. I can't believe it," she said. "I can't believe I sent my children to a school like that."

Another of the victims said, "My only hope from the result we achieved today is that other abuse victims have the strength and courage to come forward and achieve justice as we've seen today."

'Mere scumbag paedophile'

Yesterday, Denham told the court he had spent the past 25 years trying to work out why he abused the boys.

"All I can say is, I am so sorry," he said. "I see myself as a mere scumbag paedophile who took advantage of a situation and used my power to abuse young people."

Denham said he could only put the crimes down to hubris, telling the court, "It was as if I thought no-one could resist me".

He said he preyed on the boys because he felt sorry for them.

Under cross examination from the Crown Prosecutor, the court heard Denham said the children were "little bastards who were already in trouble from their teachers."

He said they were sent to him to be disciplined.

The former priest said he realised he was attracted to power and had convinced himself the children were consenting.

A psychiatrist told the court, despite the guilty plea, Denham was still in denial about being a paedophile.

Denham has been in custody since he was arrested in August, 2008. His arrest stemmed from an initial complaint in April that year.

XÉT LẠI VẤN ĐỀ CHA LÝ CHỐNG CỘNG - Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Đề cập đến vấn đề này, cầm chắc cái là bọn Việt Tân, dân chủ cuội, và bè lũ chống cộng bịp sẽ gầm gừ, tru tréo lên inh ỏi, bởi vì người viết đã dám đụng đến thần tượng. Còn người hiểu biết, tôi tin rằng họ sẽ đồng tình, vì đây là một việc làm nên làm. Kẻ chửi bới không lạ gì, bởi vì thần tượng hoặc thánh nữ, sư tổ chúng đã đặt lên bàn thờ rồi thì đệ tử đứa nào dám hạ xuống? Bọn tôn thờ thần tượng có hiểu rằng người viết cũng đã từng thờ tượng thần như chúng? Ngay từ khi Lm Nguyễn Văn Lý vừa trương lên tấm bảng “Tự Do Tôn Giáo Hay Là Chết”, kẻ hèn này đã đưa lên nhiều trang Net 4 bài viết để ủng hộ cuộc đấu tranh của ngài. Sự thể nói lên rằng người viết cũng đã từng coi cha Lý là thần tượng. Thế nhưng càng về sau, nhiều việc cha Lý làm, nhiều lời cha Lý tuyên bố cho thấy ngài có vấn đề. Vấn đề là gì, trong khi người viết chưa hình dung ra được, thì ngẫu nhiên, ông Võ Đình Chương đã nói huỵch toẹt: “ … Cha Lý là nạn nhân của những con buôn chính trị mà thôi”. (Võ Đình Chương: Thông Cáo Báo Chí ngày 20-4-2010. Xin xem Attached file). Đấy là người đồng chí của cha Lý nói, chứ chẳng phải ai xa la.

Với bài viết này, dựa trên những chứng liệu khả tín đã được phổ biến, chúng tôi muốn làm công việc xét nghiệm lại những suy nghĩ của mình trước đây về Lm Nguyễn Văn Lý. Việc làm này nếu được coi là một thiện ý thì đã là điều may mắn cho người viết lắm rồi.

Người Ôm Giấc Mộng Buôn Vua

Theo Sử Ký Tư Mã Thiên, Tần Thủy Hoàng đế là con của Trang Tương Vương nước Tần. Trang Tương Vương lúc còn là hoàng tử Tử Sở bị thất sủng, được gởi sang làm con tin ở nước Triệu. Tử Sở thấy người thiếp của Lã Bất Vi tên là Hạ Cơ xinh đẹp nên đem lòng yêu thích. Lã Bất Vi, một con buôn rất nhiều mánh lới, thuận nhượng vợ để ôm mộng buôn vua kiếm lời. Khi Hạ Cơ lấy Tử Sở thì đã có mang với Lã Bất Vi. Hạ Cơ đẻ con đặt tên là Chính. Sau này Chính lên ngôi hoàng đế nước Tần là Tần Thủy Hoàng. Như vậy về danh nghĩa, Thủy Hoàng đế là con Trang Tương Vương, nhưng thực tế lại là con ruột của Lã Bất Vi. Tử Sở lên làm vua nước Tần, cho Lã Bất Vi làm Thừa Tướng, phong là Văn Tín Hầu, ăn thuế mười vạn hộ ở Hà Nam, Lạc Dương. Trang Tương Vương làm vua được ba năm thì mất, thái tử Chính lên nối ngôi hiệu là Thủy Hoàng Đế, phong Lã Bất Vi làm tướng quốc, gọi là trọng phụ. Người đời sau gọi Lã Bất Vi là kẻ buôn vua.

Lm Nguyễn Văn Lý đang là người ôm mộng buôn vua giống như Lã Bất Vi. Trong Thông Cáo Báo Chí thượng dẫn, ông Võ Đình Chương viết về một cuộc điện đàm giữa ông với Lm Lý như sau: “Tôi đề cập đến Ban Đại Diện của Đảng Thăng Tiến (Anh Nguyễn Phong và Anh Nguyễn Bình Thành). Cha Lý trả lời rằng (nguyên văn): Những người bị bắt đó là người ta xung kích ra như vậy để xem coi thử bên kia họ đối xử như thế nào, để từ đó mà ứng xử, chứ những người này là những cái …. cái vật tế thần! Họ là những cái người hy sinh thế thôi, không phải là cái người điều hành thực sư Còn cái người điều hành thực sự thì người ta lại thông giỏi hơn nhiều … Cần cái người sau này để làm việc chứ lệ, chứ mấy anh đó thì có gì đâu … ”.

Trước hết cần minh xác một điều. Bởi vì ông Võ Đình Chương đã viết rõ trong Thông Cáo rằng những điều cha Lý nói đều đã được ông thu âm làm tài liệu, từ hơn hai tháng nay, người ta không thấy cha Lý lên tiếng bác bỏ hoặc giải thích những tố cáo của ông Chương, như vậy Thông Cáo Báo Chí của ông Võ Đình Chương là một tài liệu hoàn toàn xác thực và đáng tin cậy. Đem Thông Cáo Báo Chí, và đặc biệt là trích đoạn trên đây quy chiếu vào các hoạt động đấu tranh của Lm Nguyễn Văn Lý cho thấy, ngài là một chính khách nhiều tham vọng, thủ đoạn, và tàn ác.

Trước hết cha Lý là một chính khách. Thật vậy, khi dựng lên tấm bảng “Tự Do Tôn Giáo Hay Là Chết”, cha Lý là một linh mục hiền hậu và nhân ái. Ngài chỉ là một cá nhân đứng lên hô hào toàn dân đấu tranh đòi quyền tự do tôn giáo và các quyền tự do công dân khác. Thế Nhưng chẳng bao lâu, ngài biến thành một chánh khách từ lúc nào. Từ mục tiêu đấu tranh cho tự do tôn giáo và nhâm quyền, ngài chuyển sang tranh đấu chính trị đảng phải. Chính thức thì ngài chỉ thành lập và trực tiếp điều hành Khối 8406 như trong bản tiểu sử của ngài do Ls Hoàng Duy Hùng viết, hoặc như ngài trả lời phỏng vấn nhà báo Mạc Việt Hồng ngày 12-6-2010: “Thực sự, tôi có tuyên bố với cơ quan an ninh rằng, quý vị muốn cho tôi ra khỏi trại giam chữa bệnh hay không thì tùy quý vị, nhưng khi tôi ra ngoài, tôi sẽ tiếp tục điều hành khối 8406 ngay”. Cũng nên nói cho rõ là Lm Lý không minh danh thành lập đảng chính trị, nhưng ngài đứng mũi chịu sào và là linh hồn của các đảng Thăng Tiến, đảng Vì Dân, và Liên Đảng Lạc Hồng.

Một công dân đứng lên lập đảng tranh đấu chống cộng là việc làm chính đáng. Nhưng một linh mục thành lập tổ chức cho mục đích làm chính trị sẽ rơi vào cái thế bất lợi ít nữa là về hai phương diện. Thứ nhất là vi phạm luật Giáo Hội nên sẽ không được GH ủng hộ. Thứ hai là động lực chính trị thúc đẩy khó đúng đường. Chính khách hoạt động cho mục tiêu nhắm tới là quyền lợi. Trong khi linh mục làm việc do lương tâm thúc đẩy một cách vô vị lợi. Hai động cơ khác nhau, từ đó khẳng định rằng ông linh mục đấu tranh để phục vụ cho những mục tiêu chính trị đảng phái sẽ hỏng việc. Không những thế, Lm Nguyễn Văn Lý còn cho thấy ở ngài có nhiều đặc điểm của một chính khách khá dầy dạn:

- Tham vọng - Cha Lý sử dụng đảng Thăng Tiến như một con bài cho những mưu tính thầm kín nào đó trong lúc ban lãnh đạo đảng đang ở trong tù. Ngài còn để lộ ra một mưu đồ lớn là tự mình sẽ chỉ định những người lãnh đạo đất nước sau này: “Còn cái người điều hành thực sự thì người ta lại thông giỏi hơn nhiều … Cần cái người sau này để làm việc chứ lệ, chứ mấy anh đó thì có gì đâu…”. Tóm lại, cha Lý có tham vọng trở thành một siêu lãnh tụ, hay như một thái thượng hoàng thời phong kiến, nghĩa là người có quyền tự ý lập hay phế vua, thời nay là những người nắm vận mệnh đất nước. Tham vọng buôn vua của cha Lý hiện rõ ở điểm này.

- Độc ác - cha Lý đẩy Nguyễn Phong, Nguyễn Bình Thành, và Hoàng Thị Anh Đào là những người vừa là con chiên, vừa là đồng chí của ngài vào tay VGCS để đo lường phản ứng của chúng. Những nạn nhân này đều là người có học, có người đi làm lương khá cao, dám bỏ tất cả để bán mạng cho cha Lý. Họ đã bị dư luận bỏ quên, còn cha Lý thì không được một lần nhắc tới, nên gia đình hiện nay thật khốn đốn. Họ đúng là những con dê tế thần như cha Lý nói. Trong khi đó ngài dành tất cả ưu ái cho bọn dân chủ cuội, tay chân của ngài nhởn nhơ bên ngoài vòng kềm tỏa của công an.

- Thủ đoạn - Cha Lý từng trực tiếp nói với nhà thơ Chinh Nguyên: “Tôi sẽ làm mọi cách để họ bắt tôi. Đó là tôi đã chứng minh cho thế giới biết chế độ độc tài CS ở VN không có tự do tôn giáo và nhân quyền ….. CS nhất định phải bắt tôi.” (Xem cuộc đời đấu tranh cho tôn giáo và dân chủ nhân quyền - Tập I trang 5-6). Thủ đoạn này của Lm Lý là cao kiến, không có gì đáng phê phán. Cha Lý dùng thủ đoạn để vô tù, nhưng ngài cũng đã dùng thủ đoạn để ra khỏi nhà tù. Đây mới là chuyện đáng nói, bởi vì cái thủ đoạn cha Lý sử dụng để ra tù là một hành vi đầu hàng hết sức ô nhục. Một linh mục đấu tranh cho một lý tưởng cao cả không thể hành xử như vậy đối với kẻ thù của tôn giáo là CS. Một linh mục phải sống như một linh mục, và nếu chết cũng phải chết như một linh mục. Linh mục không được phép khuất phục những kẻ gian ác làm hại xã hội.

Trong thời gian nằm tù lần trước, Lm Lý đã viết hai lá tâm thư. Thư thứ nhất ngày 17-4-2003 gởi Hội Đồng Giám Mục VN để tỏ lòng ăn năn xám hối về việc tranh đấu đã làm bận tâm đến các giám mục. Thư thứ hai viết ngày 27-6-2003 gởi Quốc Hội Hoa Kỳ để xin hủy bỏ Dự Luật Nhân Quyền và Dự Luật Tự Do Tôn Giáo cho VN. Cha Lý cho rằng với hai Dự Luật đó, QH Mỹ đã xâm phạm chủ quyền của VN. Theo Lm Nguyễn Văn Lý, VN đã đạt được 4 thành tựu cơ bản là độc lập thống nhất, công bằng xã hội, không nô lệ nước ngoài, và an ninh ổn định vững chắc. VN đang nỗ lực thực hiện cải cách trên tất cả mọi mặt, đặc biệt về nhân quyền và tôn giáo. Cha Lý nhấn mạnh: nhà nước VN không đàn áp tôn giáo (xin xem attached file Tâm Thư).

Ngày 19-10-2001, cha Lý bị kết án 15 năm tù. Sau khi viết hai lá thư đầu hàng trên, ngài được VGCS thả trước thời hạn vì lý do học tập tốt, cải tạo tốt. Ngài ra tù tháng 2-2005. Qua lá thư này, đặc biệt với câu “nhà nước VN không đàn áp tôn giáo”, cha Lý đã tự phủ nhận chính mình và tất cả công cuộc đấu tranh của mình. Ngài không còn tư cách gì và mặt mũi nào để đấu tranh nữa. Nếu có ai cho rằng cha Lý bắt chước Hàn Tín dùng hạ sách này để nín thở qua sông, thì cũng nên hiểu rằng Hàn Tín chui háng anh chàng bán thịt cốt được sống để kiếm công danh. Không lý một linh mục công giáo cũng dễ dàng hàng phục những kẻ gian ác hầu được sống mà mưu cầu công danh như Hàn Tín?

Con Đường Vô Định

Cha Lý đấu tranh chống cộng với cách thức có thể nói là bá đạo như trên đáng được kể là người có chút bản lãnh chính trị. Nhưng với CS mà bấy nhiêu bản lãnh thôi chưa đủ. Cần rất nhiều hơn nữa. CS giết người không run tay. Cha Lý phải là người một ngày không nhìn thấy máu ăn cơm không ngon. CS lưu manh thủ đoạn. Cha Lý phải thủ đoạn lưu manh hơn chúng gấp bội v.v. Tóm lại mặt nào cha Lý cũng phải trên cơ CS thì mới thắng được chúng. Còn nếu không chủ thắng CS bằng con đường bá đạo, thì một linh mục đấu tranh cho công lý và công bằng xã hội có lẽ nên tìm con đường khác mà đi thì tốt hơn. Bởi vì con đường nửa chừng “xuân” là một con đường vô định. Để minh chứng rằng đường lối đấu tranh của Lm Nguyễn Văn Lý là con đường vô định, chúng tôi xin nêu ra tấm gương linh mục Jerzy Popieluszko để quý bạn đọc có cơ sở đối chiếu. Lịch sử Balan chứng minh đường lối chống cộng của cha Jerzy đã đem lại thành quả tốt đẹp.

Trên đời này, đối với một người đàn bà, không có đau khổ nào to lớn bằng sự đau khổ bà phải chịu khi nhìn thấy tận mắt đứa con của mình bị giết chết. Cũng trên đời này, đối với một bà mẹ công giáo, không có gì vui sướng nào bằng sự vui sướng khi bà còn sống được tham dự buổi lễ phong thánh cho người con yêu quí của mình.

Trong thời đại chúng ta, một người đàn bà có lẽ duy nhất từng trải qua cả nỗi bất hạnh lẫn niềm vui vô cùng lớn lao kia là cụ bà Marianna, thân mẫu linh mục Popieluszko. Cha Jerzy Popieluszko được Tòa Thánh tôn phong chân phước ngày 6-6-2010 vừa qua. Buổi lễ tôn phong cử hành tại công trường Pilsudski, Warsaw, thủ đô của Balan, với khoảng 150.000 ngàn người tham dự, cùng với sự hiện diện của bà mẹ của Thánh Nhân là cụ bà Marianna, chị, và các anh em trai của ngài.

Jerzy là một linh mục người Balan sanh ngày 14-9-1947. Tháng 5-1972 thanh niên Jerzy chịu chức linh mục. Sau đó ngài đảm trách nhiều công việc mục vụ khác nhau và sau cùng là nhiệm vụ tuyên úy cho Công Đoàn Đoàn Kết, một công đoàn độc lập tại Ba Lan. Cuối năm 1981, cuộc đấu tranh đòi cải cách chính trị, xã hội và chống độc tài của Công Đoàn dâng cao, nhà cầm quyền ban bố lệnh thiết quân luật và đàn áp Công Đoàn. Cha Jerzy luôn là niềm an ủi cho những công nhân bị bắt bớ và gia đình của họ. Nói chung, ngài là chỗ dựa tinh thần của tất cả mọi công nhân. Trước tình trạng cuộc đàn áp càng ngày càng khốc liệt, hàng chục người bị giết chết hoặc bị thủ tiêu. Hàng ngàn người bị tù đầy hoặc bị khống chế. Cha Jerzy đi đến tận nơi công nhân đình công để dâng thánh lễ và giảng thuyết. Ngài nẩy sinh ra sáng kiến mỗi tháng dâng một thánh lễ cầu cho đất nước. Các thánh lễ này qui tụ hàng chục ngàn công nhân tham dự. Trong các bài giảng, ngoài khía cạnh thiêng liêng, ngài còn lên tiếng chống đối những chính sách bất công của CS. Ngài khuyến khích và thúc dục mọi người can đảm đứng lên đấu tranh cho công lý và nhân quyền. Đường lối đấu tranh của ngài là “lấy việc thiện để thắng sự gian tà”. Lm Popieluszko không tham dự vào việc lãnh đạo hay điều hành Công Đoàn. Việc đó đã có công nhân lo. Nhưng các công nhân tin rằng cha Jerzy mới chính là linh hồn của Công Đoàn Đoàn Kết. Con người ta sẽ không thể sống nếu không có linh hồn. Công Đoàn cũng thế, nếu không có Lm Popieluszko, nó sẽ không tồn tại.

Chính vì cha Popieluszko là linh hồn của Công Đoàn Đoàn Kết, nói khác đi là của phong trào đấu tranh, nên CS Balan nhất định phải tiêu diệt ngài. Chúng tưởng rằng giết chết ngài, Công Đoàn Đoàn Kết sẽ chết theo. Nhưng chúng đã lầm vì linh hồn bất tử, không thể giết chết được. Cha Jerzy trở thành cái gai trong con mắt bon CS Balan. Để loại trừ đi cái gai này, chúng tìm mọi cách, mọi thủ thuật để trừ khử ngài, từ dụ dỗ cho đi du học, dùng bề trên áp lực, đến các hình thức sách nhiễu, vu cáo, thóa mạ, ngụy tạo chứng cớ để truy tố, kết tội, khám xét, tra hỏi, bắt bớ, đánh đập, ngụy tạo đụng xe để giết chết nhưng ngài thoát nạn v.v. Tất cả mọi biện pháp không làm được cho cha Jerzy chùn bước, vì ngài cho rằng bổn phận của linh mục là phải công bố và làm chứng cho sự thật. Sự thật đó là nhân dân Balan bị CS đàn áp. Họ không có tự do.

Cuối cùng mật vụ Balan cũng làm được cho cha Jerzy phải im tiếng được bằng cách chúng chận xe bắt cóc ngài. Sau khi đánh đập cha Jerzy thật tàn nhẫn đến ngất xỉu, chúng liệng xác ngài xuống sông, 11 ngày sau người ta mới vớt được xác ngài. Một điều mà bọn CS Balan không thể ngờ được là sau cái chết của cha Popieluszko, tinh thần đấu tranh của Công Đoàn Đoàn Kết càng ngày càng lên cao, và cuối cùng đã đem lại cuộc giải phóng đất ngước Balan khỏi bàn tay của CS. 25 năm sau khi bị thủ tiêu, ngày 6-6-2010, cha Jerzy Popieluszko được Tòa Thánh tôn vinh lên bậc Chân Phước, bước đầu của việc ngài được phong thánh.

Như đã thấy, trong công cuộc cách mạng giải phóng Balan khỏi ách độc tài CS, Công Đoàn Đoàn kết có cái linh hồn là Lm Jerzy Popieluszko. Đó là điểm cần nhấn mạnh. Bọn VGCS ý thức rất rõ điều này. Do đó, chúng tiêu diệt tức khắc và thẳng tay bất cứ vị lãnh đạo tinh thần nào có khả năng trở thành linh hồn cho cuộc đấu tranh. Lm Popieluszko chỉ làm nhiệm vụ tuyên úy. Vũ khí của ngài là những bài giảng và chăm lo săn sóc đời sống tinh thần của công nhân. Đường lối của ngài là dấn thân phục vụ và quyết tâm thắng cái ác bằng cái thiện với tinh thần vượt trên mọi sợ hãi. Kết quả của cuộc chiến đấu không ồn ào của Lm Popieluszko là nước Balan được giải phóng, và ngài được Giáo Hội công nhận là một vị Thánh Tử Đạo.

Điều thiệt thòi cho Lm Nguyễn Văn Lý là ngài không có được môi trường thuận lợi để đấu tranh như Lm Popieluszko. Trong khi cha Popieluszko có Công Đoàn Đoàn Kết thì cha Lý phải tự tao ra môi trường là Khối 8406 và các đảng phái. Nhưng như chúng tôi đã phân tích trên, việc làm này không những không thích hợp cho một linh mục, mà còn có thể gây tai hại nữa như chúng ta đã thấy tại VN và ở nhiều nước khác. Cha Lý ở trong tù, hoặc chỉ ngồi một chỗ nên bị bao vây bởi vòng trong vòng ngoài là những tên công an trá hình và lũ dân chủ cuội. Ở hải ngoại ngài bị bọn Việt Tân và chống cộng bịp thổi ống đu đủ nên cứ tưởng mình là thần tượng, là lãnh tụ. Thực ra ngài đã bị chúng lợi dụng, đúng như ông Võ Đình Chương nói. Vì thế người ta không ngạc nhiên khi thấy đường lối đấu tranh của ngài không khác gì con đường hòa hợp hòa giải của Việt Tân. Cách thức đấu tranh của ngài còn lại đến lúc này chỉ là tuyên truyền đánh bóng cá nhân. Nó có những đặc điểm như sau:

- Hướng ngoại - Cuộc đấu tranh đúng lý chủ yếu phải là vận động quần chúng trong nước như Lm Popieluszko đã làm mới phải. Trọng tâm của vấn đề lật đổ CS là vận động đồng bào trong nước, chứ không phải chủ yếu tranh thủ dư luận người tỵ nạn và của thế giới bên ngoài. Thưc sự không mấy người dân trong nước biết cha Lý, cha Lợi là ai, bọn Thanh Giang, Trần Khuê, Đỗ Nam Hải, Nguyễn Khắc Toàn v.v. là thằng chó nào. Thế nhưng cha Lý và có thể nói là tất cả mọi nhân vật tranh đấu cuội trong nước đều hướng tiếng nói ra bên ngoài, nghĩa là chỉ chống cộng sản ở chỗ không có CS. Một thí dụ cụ thể là tờ báo bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận chủ yếu là phát hành trên internet cho người tỵ nạn ở hải ngoại đọc. Trong nước có ai biết và đọc nó đâu. Đường lối chống cộng hướng ngoại chỉ có tác dụng gây xúc động tâm lý người tỵ nạn hầu đánh bóng các thần tượng, thánh nữ ở trong nước, để từ đó, bọn con buôn chính trị lừa bịp những người ngu ngơ hầu dễ dàng móc túi họ. Chẳng có quốc tế nào còn quan tâm đến vấn đề CS tại VN nữa. Lý do là vì, theo cách đánh giá của người ngoại quốc, VN đã ổn định rồi. Ông Michalak, đại sứ Mỹ, không từng ca tụng VN đạt được tiến bộ về mọi mặt đấy sao!

- Nói nhiều - Nói nhiều nên hố nhiều. Trong Lời Kêu Gọi số 7 ngày 28-1-2001, Cha Lý công nhận VGCS đã góp công dành độc lập từ tay thực dân Pháp. Sao cha Lý giống Việt Tân thế. Báo của Việt Tân viết: Hồ Chí Minh là người yêu nước và đảng CSVN có công với Dân Tộc. Chẳng trách cha Lý luôn nạt những người bên cạnh hay phê phán Việt Tân: Đừng có chụp mũ cho người ta. Về điểm này, có thể nói rằng cha Lý không biết lịch sử. Hiệp Ước Élysées ký kết giữa Quốc Trưởng Bảo Đại và TT Pháp Vincent Auriol ngày 8-3-1949 đã đem lại độc lập cho VN. Nền độc lập này tuy chưa hoàn chỉnh, nhưng là một bước khởi đầu tốt đẹp. Người đuổi tên lính Pháp cuối cùng ra khỏi VN là TT Ngô Đình Diệm. Đảng VGCS là một chi bộ của Đệ III QTCS, chúng vâng lênh QTCS chiếm VN cho đế quốc Liên Sô chứ không hề đem độc lập lại cho Dân Tộc VN. Cha Lý còn nói rằng nếu thay đổi mà mất ổn đinh thì thà rằng cứ để cho đảng CS lãnh đạo còn hơn. Ngài cứ đọc lịch sử xem, có cuộc cách mạng nào không lâm vào tình trạng ít nhiều mất kiểm soát lúc ban đầu. Cha Lý luôn luôn đề cao đường lối tranh đấu bất bạo động. Đấu tranh bất bạo động luôn là điều đáng mơ ước. Nhưng giả sử rằng, trong một cuộc biểu tình tự phát mà sự phẫn nộ của quần chúng không còn kiểm soát nổi, đã trở thành cái gọi là bạo lực cách mạng, họ đình công, bãi thị, phá công ốc, giết cán bộ v.v. cha Lý có ra đấy mà ngăn cản quần chúng không, mà ngăn nổi sao? Nếu cuộc bạo động lật đổ được chế độ thì liệu cha Lý có thừa nhận cái thành quả đó không, hay ngài nói: tôi không chấp nhận bởi vì tôi chủ trương tranh đấu bất bạo động? Cho nên nhiều lời thường dễ bị hố. Chúng ta chỉ nên hiểu rằng ngài nói thể để tránh bị công an làm khó dễ. Cũng vô ích. Nếu cần, công an có thể đẻ ra một ngàn lẻ một lý do để còng tay cha Lý. Ngài không thể cãi lại chúng: tôi tranh đấu bất bạo động.

- Hoang tưởng - Thông Cáo Báo Chí của ông Võ Đình Chương có đoạn viết: Trong cuộc điện đàm với Cha Lý, ngài có đọc cho tôi nghe một lá thư của cán bộ đảng CSVN gữi cho Ngài như sau (nguyên văn): “Những người cộng sản càng ngày càng ủng hộ chúng ta. Tôi vừa nhận được lá thư, họ nói rằng: chúng tôi là những người vô thần 90% là đảng viên, nhưng nay nhờ ơn Chúa và nhờ cha, chúng tôi đã từ từ giác ngộ. Chúng tôi luôn luôn sát cánh với 8406 và âm thầm ủng hộ 8406. Chúng tôi là một tập thể đông lắm, hàng vạn người, và chúng tôi đang phải âm thầm như thế. Ngày cha chiến thắng, chúng tôi sẽ công khai xuất hiện và chúc mừng cha …”. Khi nghe cha Lý đọc lá thư này, tôi chợt nhớ đến hơn ba năm trước khi chưa bị vô tù, Ngài cũng đã nói với tôi là có sáu Uỷ viên Bộ chính trị CSVN ủng hộ ngài và 8406 ….

Đọc trích đoạn trên, người có trí khôn bình thường cứ coi như là chuyện Tề Thiên Đại Thánh đi để khỏi phải bận tâm thắc mắc. Người viết chỉ có một trong hai cách giải thích, một là cha Lý bị bệnh hoang tưởng quá nặng, hai là 6 thằng Ủy viên Bộ Chính Trị là 6 thằng điên, không điên thì cũng khùng.

Kết Luận

Ngày 8-6 vừa qua, cha Lý gởi đơn kiện VGCS lên Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc (United Nations Human Rights Council) về các tội chúng vi phạm nhân quyền đối với tù nhân. Sau đó, ngài lên diễn đàn Paltalk cổ động cho vụ kiện cáo của mình. Thế giới không biết CSVN dã man sao? Mà Liên Hiệp Quốc nào xử cho cha Lý. Lại là chuyện cái kiến kiện củ khoai thôi. Chẳng có tác dụng thực tế nào cả. Nhưng khi trả lời phỏng vấn của phóng viên Mạc Việt Hồng ngày 12-6-2010, cha Lý lại nói rằng (nguyên văn): “ tình hình tự do ngôn luận hiện nay cũng có những tiến bộ nhất định so với trước kia. Việc phát tán hay chuyển giao tài liệu hiện nay được thực hiện thoải mái hơn, công an họ cũng có kiêng dè hơn, ngần ngại hơn. Hay, tự do internet và điện thoại có tiến bộ hơn, anh em ít bị kiểm soát hay cắt điện thoại hơn so với trước kia”. Vấn đề đặt ra là, nếu tình hình VN mỗi ngày mỗi sáng sủa hơn, xã hội mỗi ngày mỗ tự do hơn như cha Lý nhận định, thì hà tất ngài còn phải nhọc công tranh đấu làm chi nữa cho mệt. Chịu khó chờ thêm tí nữa. Một xã hội hoàn chỉnh thế nào rồi cũng nắm trong bàn tay. Như thế cha Lý nên nghe theo lời khuyên của ông Võ Đình Chương: “Con chỉ mong cha yên tâm trị bệnh, như lời cha đã nói với con trong cuộc điện đàm là tòa giám mục nhận lãnh cha về để trị bệnh, chứ không phải về để lãnh đạo Khối 8406”.

Thiển nghĩ, đây là một lời khuyên chân tình, bởi vì ông Chương không muốn nhìn thấy cha Lý là nạn nhân của những con buôn chính trị. Còn nếu như cha Lý nhất quyết tiếp tục con đường đấu tranh, thì ngài nên lấy gương Lm Jerzy Popieluszko mà học hỏi. Biết đâu đấy cha Jerzy có thể đem cơ hội thành công đến cho cha Lý.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất


THÔNG CÁO BÁO CHÍ
    Ngày 20 tháng 4 năm 2010

    Kính gửi : Quý Vị Thân Hào Nhân Sĩ

    Quý Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước

    Quý Cơ quan truyền thông, Báo Chí

    Kính thưa Quý Vị:
Tôi, Võ Đình Chương : Cộng tác viên với LM Nguyễn Văn Lý khi khối 8406 ra đời. Kể từ khi tôi gữi TỐI HẬU THƯ ngày 14.02.2010 yêu cầu lảnh đạo nhà nước csVN trả tự do cho Cha Lý để ngài được trở về nhà chữa bệnh, tôi đã hoàn toàn im lặng cho đến nay. Sau khi csVN tạm cho Cha Lý về nhà chung Tổng giáo phận Huế để trị bệnh, tôi đã trực tiếp nói chuyện với Ngài qua điện thoại 3 lần.

Lần thứ nhất, Ngài gọi cho tôi bằng máy di động từ VN để thăm hỏi sức khoẻ tôi. Tôi vô cùng xúc động trước sự bất ngờ được nghe lại giọng nói của Ngài vẫn còn như ngày nào. Trước đây hơn 3 năm, hầu như mỗi ngày, hoặc mỗi hai ngày, cha Lý và tôi ít nhất phải có một lần điện đàm trao đổi tin tức, tình hình, hoặc phỏng vấn thu âm để phát thanh trên đài Radio Hải ngoại. Vì tinh thần trách nhiệm cùng với tình cảm gắn bó với Ngài, tôi luôn luôn ủng hộ Ngài hết mình, không ngoài mục đích mong muốn cho quê hương và đồng bào VN được Độc lập, Tự do, Dân chủ và Nhân quyền.

Lần thứ hai, tôi trực tiếp gọi phone về cho cha Lý để kiểm chứng nguồn tin thân cận cho tôi biết là trong nước định sẽ giao quyền lảnh đạo (chức vụ Chủ tịch) của đảng Thăng Tiến VN cho một người khác (không cho biết tên). Còn anh Nguyễn Phong khi csVN thả về thì chỉ giữ nhiệm vụ là cán bộ của đảng mà thôi.

Sau khi trao đổi tình hình chung trong và ngoài nước giữa cha Lý và tôi, những vấn đề tiếp theo là:

1. Tôi đề cập đến Ban Đại Diện của Đảng Thăng Tiến (Anh Nguyễn Phong và Anh Nguyễn Bình Thành ). Cha Lý trả lời rằng (nguyên văn): “NHỮNG NGƯỜI BỊ BẮT ĐÓ LÀ NGƯỜI TA XUNG KÍCH RA NHƯ VẬY ĐỂ XEM COI THỬ BÊN KIA HỌ ĐỐI XỬ NHƯ THẾ NÀO, ĐỂ TỪ ĐÓ MÀ ỨNG XỬ. CHỨ NHỮNG NGƯỜI NÀY LÀ NHỮNG CÁI ..... CÁI VẬT TẾ THẦN! HỌ LÀ NHỮNG CÁI NGƯỜI HY SINH THẾ THÔI, KHÔNG PHẢI LÀ CÁI NGƯỜI ĐIỀU HÀNH THỰC SỰ. CÒN CÁI NGƯỜI ĐIỀU HÀNH THỰC SỰ THÌ NGƯỜI TA LẠI THÔNG GIỎI HƠN NHIỀU … CẦN CÁI NGƯỜI SAU NÀY ĐỂ LÀM VIỆC CHỨ LỆ, CHỨ MẤY ANH ĐÓ THÌ CÓ GÌ ĐÂU ....”(Hết trích)

2. Khi đề cập đến tình hình đảng Thăng Tiến, cha Lý nói (nguyên văn: “CẢ MỘT CÁI KHỐI TOÀN LÀ NHỮNG TRÍ THỨC CAO CẤP. TRƯỚC ĐÓ ĐÃ CÓ NHIỀU LẦN CÔNG NHÂN ( Lê Thị Công Nhân) NÓI RẰNG LÀ: THĂNG TIẾN ĐÃ CÓ KHOẢNG 700 TIẾN HỮU. ĐÚNG ! CŨNG CÓ NHƯ VẬY THẬT, NHƯNG HỌ VẪN NẰM IM, CHO ĐẾN BÂY GIỜ HỌ VẪN NẰM YÊN ….” (hết trích)

3. Khi cha Lý nói tiếp về Liên đảng Lạc Hồng, tôi hỏi ngài: “BÂY GIỜ AI ĐẠI DIỆN CHO LIÊN ĐẢNG LẠC HỒNG?” Ngài trả lời: “ĐẾN LÚC MÀ ANH PHONG ĐÃ BỊ BẮT RỒI Á! Ở TRONG NƯỚC LÀ COI NHƯ CŨNG TÊ LIỆT, THÌ TẠM THỜI ĐỂ YÊN ….” ( hết trích )

Dỉ nhiên trong các cuộc điện đàm này, có nhiều vấn đề khác nữa, nhưng vì có liên quan đến danh tánh của anh em trong nước, nên tôi chỉ trích một vài vấn đề quan trọng này thôi. Và như đã nói ở phần trên, tất cã các cuộc điện đàm với Cha Lý từ trước nay, tôi đều ghi âm để lưu hồ sơ làm chứng tích lịch sử. Các email liên hệ quan trọng tôi cũng in ra để lưu giữ. Nhờ đó, tôi đã mở nghe lại nhiều lần và không khỏi ngạc nhiên về những điều mờ ám và mâu thuẩn như sau:

- Trong phần 1 nêu trên, ở cuối câu, Cha Lý nói: “…CHỨ MẤY ANH ĐÓ (anh Phong và anh Thành ) THÌ CÓ GÌ ĐÂU”.

- Trong phần 3, cha Lý lại nói ngược lại: “ĐẾN LÚC MÀ ANH PHONG ĐÃ BỊ BẮT RỒI Á! Ở TRONG NƯỚC LÀ COI NHƯ CŨNG TÊ LIỆT, THÌ TẠM THỜI ĐỂ YÊN.”

Như vậy chính Cha Lý đã xác nhận: Anh Nguyễn Phong là người lảnh đạo quan trọng của đảng Thăng Tiến VN! Cho nên khi anh Phong bị bắt rồi thì Ở TRONG NƯỚC LÀ COI NHƯ CŨNG TÊ LIỆT!

- Trong phần 2, Cha Lý lại khẳng định: “CẢ MỘT CÁI KHỐI TOÀN LÀ NHỮNG TRÍ THỨC CAO CẤP”. Như vậy cả một cái khối trí thức cao cấp đó tại sao không làm được gì như anh Phong mà CHO ĐẾN BÂY GIỜ VẪN NẰM YÊN? Phải chăng vì không có Anh Phong lảnh đạo, hay là những trí thức cao cấp “CÒ MỒI” sau khi lùa anh em vô tù hết rồi thì xong việc ngồi chơi hưởng lộc?

Đối với tôi, những ai đồng lỏa trong việc chủ trương dùng anh Nguyễn Phong, anh Nguyễn Bình Thành làm cái VẬT TẾ THẦN , là những kẽ độc ác và thủ đọan, trong khi chúng ta là những người có TÂM LINH thì càng không thể tha thứ!

Tôi là người trung thành với Cha Lý lâu nay, nhưng sau nhiều ngày suy nghĩ và đắn đo, hôm nay tôi quyết định phải đưa tin tức này lên DĐ báo chí để cảnh báo những ai còn lầm lẩn , hãy tránh mang họa vào thân. Vẫn biết rằng, đưa những việc này ra ánh sáng sẽ làm phật lòng Cha Lý , nhưng tôi nghĩ Cha Lý cũng là nạn nhận của những con buôn chính trị mà thôi. Tôi thà làm mất lòng ít người mà cứu được nhiều người, mà trong đó đa số là những người thơ ngây chính trị, sẽ tiếp tục sa lưới như anh em đảng TTVN.

Lần thứ ba trong cuộc điện đàm với Cha Lý, ngài có đọc cho tôi nghe một lá thư của cán

bộ đảng csVN gữi cho Ngài như sau (nguyên văn): “NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN CÀNG NGÀY CÀNG ỦNG HỘ CHÚNG TA. TÔI VỪA NHẬN ĐƯỢC LÁ THƯ, HỌ NÓI RẰNG: CHÚNG TÔI LÀ NHỮNG NGƯỜI VÔ THẦN 90% LÀ ĐẢNG VIÊN, NHƯNG NAY NHỜ ƠN CHÚA VÀ NHỜ CHA, CHÚNG TÔI ĐÃ TỪ TỪ GIÁC NGỘ. CHÚNG TÔI LUÔN LUÔN SÁT CÁNH VỚI 8406 VÀ ÂM THẦM ỦNG HỘ 8406. CHÚNG TÔI LÀ MỘT TẬP THỂ ĐÔNG LẮM, HÀNG VẠN NGƯỜI, VÀ CHÚNG TÔI ĐANG PHẢI ÂM THẦM NHƯ THẾ. NGÀY CHA CHIẾN THẮNG, CHÚNG TÔI SẼ CÔNG KHAI XUẤT HIỆN VÀ CHÚC MỪNG CHA …” (hết trích)

Khi nghe cha Lý đọc lá thư này, tôi chợt nhớ đến hơn ba năm trước khi chưa bị vô tù, Ngài cũng đã nói với tôi là có sáu Uỷ viên Bộ chính trị csVN ủng hộ ngài và 8406. Nhưng sự thật trả lời là họ đã nhử cha Lý và anh em lảnh đạo đảng Thăng Tiến ra mặt để thộp cổ cho vô tù ! Vậy mà hôm nay Cha lý chưa sáng mắt sáng lòng, vẫn còn nuôi ảo vọng!

Tôi nghĩ rằng, những hy vọng và tin tưởng của Cha Lý đối với những tên cò mồi SỜ SỜ TRƯÓC MẮT rất có hại cho những người thật tình đấu tranh cho Tự Do và Dân Chủ của VN, nên tôi không thể im lặng để nhiều người sa lưới công an VGCS. Vì vậy, tôi đã kết luận: “THÀ MẤT LÒNG ÍT NGƯỜI ĐỂ GIÚP ĐƯỢC NHIỀU NGƯỜI!”

Riêng ở Hải ngoại, tôi thiết tha kêu gọi Quý Đồng Hương, nhất là Quý Niên trưởng, Quý chiến Hửu QLVNCH hảy mau tập hợp lại thành một lực lượng NGƯỜI VIỆT QUỐC GIA để tìm ra một giãi pháp mới, tiếp tục đấu tranh cho một nước VN được ĐỘC LẬP, TỰ DO, DÂN CHỦ.

Đối với Đồng Bào trong nước , không nhất thiết đòi hỏi chỉ có trí thức cao cấp , không phân biệt tầng lớp Nhân dân . Vấn đề là muôn ngưòi như một , cùng đồng tâm nhất trí đứng lên đòi hỏi nhà cầm quyền csVN phải trả lại Tự do - Dân Chủ và Độc lập cho Quốc Dân Việt Nam. Không chấp nhận bất cứ thoả hiệp , liên hiệp nào với bọn bành trướng Bắc kinh !!!

Những bài học Cách Mạng tại Ba Lan , nhà Cách mạng Walensa Lech chỉ là một anh Thợ điện tại xưởng đóng tàu Ba Lan , người đã lãnh đạo phong trào đấu tranh Tự do - Dân chủ cho nước Ba Lan thành công rực rỡ và lên làm Tổng Thống đầu tiên, cả Thế giới kính phục .

Cha Lý kính mến!

Con thật lòng xin lỗi cha, khi đưa bản tin này lên DĐ báo chí, mong Cha hảy xem đó như một hy sinh, hy sinh tình cảm riêng tư để cứu giúp mọi người. Trước khi cha ra khỏi nhà tù, con đã gữi nhìều hồ sơ quan trọng về trong đó nhờ người chuyển cho cha, nhưng có lẻ cha không cần biết. Vì vậy con không thể nói nhiều hơn với cha những gì con chứng kiến trong thời gian cha ngồi trong tù. Đến lúc này cha vẫn chưa nhận ra hậu quả LẦM NGƯỜI. Con chỉ mong cha yên tâm trị bệnh, như lời cha đã nói với con trong cuộc điện đàm là: “TOÀ GIÁM MỤC NHẬN LẢNH CHA VỀ TRỊ BỆNH, CHỨ KHÔNG PHẢI VỀ ĐỂ LẢNH ĐẠO KHỐI 8406.”

Những lời nói đó rất đúng, cha nên tuyên bố cho mọi người cùng biết để họ lo liệu. Nhất là đừng để bọn xôi thịt, bọn đấu tranh DC cuội trong và ngoài nước lợi dụng danh nghỉa của cha mà làm nhục và làm hại những người đấu tranh chân chính cho Tự Do, Dân Chủ của Việt nam .

Trọng kính

Võ Đình Chương