Thursday, May 6, 2010

Nhắn anh Bùi Tín: Món Nợ Không Thể Trả - GS Trần Đình Ngọc

GS Trần Đình Ngọc

Thưa anh Bùi Tín,

Sau đây là những gì tôi suy nghĩ sau khi đọc bài: “Lời xin lỗi chân thành, món nợ 35 năm đến hồi phải trả” của anh.

Trước hết, tôi phải nói với anh điều này. Vài người bạn già (cỡ anh với tôi) bảo tôi khi tôi do dự nửa muốn nửa không viết bài này, rằng Bùi Tín đã đi theo Hồ chí Minh rất lâu, gần suốt cuộc đời, đã được thăng đến Thượng Tá, Phó Tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân, được tín nhiệm cho ra ngoại quốc làm một kẻ trá hàng (ý kiến của họ) hòng giúp đảng CS Việt nhiều chuyện quan trọng. Thân phụ anh Bùi Tín là ông quan Thượng Thư Bộ Lại Bùi bằng Đoàn khi xưa hết lòng với Pháp thực dân từng báo cáo cho Pháp giết cơ man là người chống Pháp giành Độc lập cho Việt Nam, rồi cộng tác với Hồ, nếu Hồ giết Phạm Quỳnh (cùng con cả là Phạm Giao, để Trần huy Liệu cướp vợ Phạm Giao, chơi chán đưa ra Hà Nội giao cho Hồ vì Hồ rất thích chị hoa khôi Đồng Khánh này); giết Ngô đình Khôi (và con trưởng), thì không cách chi Hồ dung thứ Bùi bằng Đoàn, một Việt gian cỡ bự. Nếu Hồ làm phước, lại cho Bùi làm hai nhiệm kỳ Chủ tịch Quốc Hội của CS Việt gian thì chắc là phải có dấu hỏi đặt ở ngay sau. Những vụ này, anh và nhiều người khác rành hơn tôi vì khi HCM cướp công toàn dân ngày Tổng khởi nghĩa 19-8-1945, tôi mới 13 tuổi đầu. Nhờ bố tôi soi sáng cho tôi biết từ ngày ấy nếu không tôi cũng ân hận ngàn đời vì đi theo HCM buôn dân bán nước.

Với cái cốt lõi của anh như thế, người Quốc gia trông mong gì sự hồi tâm phản tỉnh của Bùi Tín để mà thảo luận? Ở đây tôi không muốn nêu lại những gì anh đã viết trong mấy cuốn sách vô giá trị, viết theo cảm tính của anh như Mặt thật, Hoa xuyên tuyết, Mây mù thế kỷ (mà tôi chưa đọc, chỉ coi vài trích đoạn trên báo, Net) một mặt anh khinh bỉ Quân lực Việt Nam Cộng hòa và chính quyền Vì dân, từ Dân, do Dân hoàn toàn Dân chủ, Tự Do của miền Nam, nhất là Tổng Thống Ngô dình Diệm, một lãnh tụ Quốc gia yêu nước thương dân khác hẳn cáo Hồ mà anh vẫn đội lên đầu mà không vạch ra những sai lầm chết người, những tàn ác dã man giết cả thảy 10 triệu đồng bào Việt, máu chảy thành sông, xương chất cao như núi Ba Vì của giặc Hồ, hàng triệu người thân của nạn nhân còn sống nhưng cũng như đã chết, hàng núi của cải, tài sản vừa bị thiêu rụi trong chiến tranh do giặc Hồ gây ra, vừa bị bóc lột chiếm đoạt ngang nhiên do cán bộ tham nhũng, độc ác của giặc Hồ lấy cớ là “giải phóng” và “cách mạng” lột hết của Nhân dân chỉ còn cái khố, đến nỗi ai nhìn vào xã hội VN ngày nay cũng đau xót, dù là người ngoại quốc không chút máu mủ với dân tộc Việt Nam.

Nhưng tôi nghĩ chúng ta, những người Việt Nam sinh trưởng trên giải đất hình chữ S, có quyền đồng đều, tôi xin nhắc lại là đồng đều, trên mảnh đất ông cha chúng ta đã bao đời đổ xương máu, mồ hôi lập nên, chúng ta không nói ra những sai quấy, bạo hành của nhóm người cầm quyền - cả đôi bên - thì ai nói đây? Và tại sao chúng ta phải tránh né? Nếu chúng ta không nói ra những sự thật lịch sử thì chỉ năm, mười năm sau con cháu chúng ta sẽ không còn biết đâu là sự thật lịch sử nữa.

Thêm vào đó, người CS chuyên môn sửa lịch sử theo ý họ, họ bất kể sự di hại thế nào nhưng phải làm sao “thần thánh hóa” những gì thuộc về họ và “tồi tệ hóa” những gì của đối phương. Chắc anh không lạ khi xưa cán bộ CS tuyên truyền ở miền Bắc: Tàu bay của Mỹ là tầu bay giấy, xe tăng bằng cạc-tông. Mất mùa là tại thiên tai. Được mùa là tại thiên tài đảng ta v.v… Sơ qua thế đủ biết người CS nghĩ và làm như thế nào.

Nhưng thế giới ngày nay, mọi người rất ghét sự trí trá, gian dối, bịp lừa. Một đứa trẻ ở Âu châu hay ở Hoa Kỳ đã bị cho là nói dối thì không đứa trẻ nào chơi với nó nữa. Thày cô khinh nó và cha mẹ anh chị em nó cũng khinh nó. Đứa trẻ sẽ cô độc do chính sự gian dối của nó gây ra. Ngược lại, những đứa trẻ thành thực không nói dối là những đứa trẻ ai cũng yêu mến, ai cũng tin tưởng, chúng nói cái chi là người ta tin ngay. Tôi xin anh, với lương tâm một nhà báo, anh đừng nên phát ngôn điều gì mà lương tâm anh thấy xấu hổ. Anh viết rằng dù thế nào ông Hồ chí Minh cũng là một anh hùng dân tộc đã giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Xin anh trả lời cho tôi những câu hỏi sau đây:

1. Nước Việt Nam có cần một cuộc chiến tranh tiêu thổ và ý thức hệ mà HCM gây ra không? Một cuộc chiến tranh, trước sau chết 10 triệu người!

Theo tài liệu trong các Thư viện quốc tế, các nước châu Á Thái bình dương, sau thế chiến II, không phải chiến tranh mà giành được độc lập, tự chủ:

- Malaysia không phải đánh nhau, chính phủ Anh trả độc lập cho nước này năm 1957.

- Phi luật Tân, Hoa Kỳ trả độc lập năm 1946.

- Syria và Liban, do Pháp trả độc lập năm 1946.

- VN, Ai lao và Cao miên do Pháp trả độc lập bằng Sắc lệnh của Tổng thống Pháp Vincent Auriole năm 1949 tức chỉ hơn 2 năm sau khi Hồ Chí Minh (HCM) tuyên chiến với Pháp ngày 19-12-1946. Cuộc chiến 1945-1954 gây thương vong cho cả triệu nhân mạng đôi bên Pháp và Việt Minh mà lẽ ra tránh được.

- Hai nước Ấn và Pakistan do Anh trả độc lập năm 1947.

- Miến (Myanmar) , Sri Lanka, Palestine, 3 nước này đều thuộc Anh đô hộ và Anh đã trả độc lập năm 1948.

- Indonesia do Hà lan trả độc lập năm 1949.

- Nhiều nước ở châu Phi, Mỹ latinh cũng đều như vậy, họ được độc lập mà không tốn một giọt máu, một viên đạn, trong khi VN chết trước sau 10 triệu người (4 cuộc chiến), tài sản nhân dân mồ hôi nước mắt nhiều triệu đời người thiêu ra tro!

- Đó là công lao lớn nhất của Hồ chí Minh và đảng CS đã làm cho dân tộc!!!

Xin anh Bùi Tín trả lời chính xác và công bình câu hỏi này.

Nếu không có HCM, (nước ta quá vô phước có y) cựu hoàng Bảo đại, vốn được người Pháp tín nhiệm, cũng sẽ được Pháp trả Độc lập qua tay Bảo Đại và cái dịch CS, vốn là cái mà toàn dân ghét, sẽ không có người du nhập vào đất nước khốn khổ của chúng ta như mọi người thấy từ 65 năm nay.

Không gây chiến tranh ắt không có Điện biên Phủ, sau đó sẽ không có cuộc cưỡng chiếm miền Nam VN, không có hơn 1 triệu tù cải tạo, không có hơn nửa triệu đồng bào liều thân ra đi vì trốn giặc Hồ và làm mồi cho cá biển Đông, tôi với anh cũng không phải lưu vong nơi xứ người, đất nước không phải là một cái thùng rác như hiện nay, nửa triệu phụ nữ không phải làm đĩ bán trôn nuôi miệng, nạn Hán hóa không đè nặng lên con tim mỗi người VN như hiện tại và VN không phải là một trong 10 nước nghèo đói, khốn khổ, vô văn hóa, văn minh nhất hành tinh!

Mà HCM được cái gì? Chẳng qua y được mấy chục con đàn bà để chơi cho thỏa, nay cũng chết tan xác rồi! Còn dân tộc thì khốn nạn! Xú danh của y lưu truyền đến muôn đời! Y thực là quá dại! Hãy coi dân nguyền rủa Lê Chiêu Thống ra sao thì HCM cũng bị y như thế! Anh chống mắt mà coi!

(Cũng nói thêm: 1989-1991 Đế quốc Liên Sô tan rã, 22 QG bỏ chủ nghĩa CS là:

Đông Âu: Ba lan, Hung, Tiệp, Đông Đức, Albanie, Bulgarie, Roumanie và 15 nước thuộc Liên bang Sô Viết. Xương máu tốn rất ít, chỉ mấy lãnh tụ CS bị đền tội, dân chúng sung sướng, kết quả thu được là vô giá)

Vì sao HCM phải gây ra chiến tranh?

- Vì Hồ phải tuân lệnh Liên Xô và Trung cộng, làm tên xung kích cho quốc tế CS đệ tam..

- Vì có chiến tranh mới đẻ ra “cách mạng” theo chủ thuyết của Lenin; “cách mạng” mới đẻ ra đấu tranh giai cấp, đấu tranh giai cấp mới dễ dàng thực thi chủ nghĩa cộng sản, văn hoa hóa nó gọi là xã hội chủ nghĩa để người ta không nhờm gớm.

- Xã hội Chủ Nghĩa hay Cộng sản chủ nghĩa do Liên Xô và Trung cộng muốn xích hóa cả toàn cầu, Việt Nam là cái nôi, quân đội Nhân dân Việt Nam là lính đánh thuê, xung kích quân đi tiên phong, Trung cộng yểm trợ mọi mặt để “xuất khẩu” chủ nghĩa này đi khắp vùng Đông Nam Á châu và thế giới. Xã hội chủ nghĩa cũng chủ trương bần cùng hóa nhân dân vì nhân dân có đói nghèo thì:

- Mới có sẵn lính để trường chinh chết cho chủ nghĩa CS.

- Vì CS còn cần rất nhiều thanh niên chết cho lá cờ Đỏ (Đỏ một sao vàng cũng được vì cùng anh em với Đỏ 5 sao vàng, 1 lớn bốn nhỏ, hay Đỏ với búa liềm). HCM mơ tưởng một đại đồng thế giới không còn biên giới tổ quốc, tổ cò chi cả mà chỉ còn một QG CS cho toàn cầu, lãnh tụ CS, trong có Hồ, cai trị.

- Cán bộ CS được phép bóc lột công khai dân chúng để làm giầu, cán bộ cần phải giầu từ đời cha tới đời con và cha truyền con nối mới trung thành với đảng, bảo vệ đảng vì bảo vệ đảng là bảo vệ tài sản của chính cán bộ và con cháu cán bộ. Cán bộ được ưu đãi vì cán bộ trung thành với đảng, dân bị cán bộ bóc lột công khai có đảng chống lưng nên dân càng ngày càng nghèo, dân hết đường thì dân sẽ xung phong ôm bom lao vào xe tăng địch nhiều hơn. Cán bộ và con cháu cán bộ quá giầu, càng giầu càng sợ chết nên phải sống để hưởng! Tâm lý này thông thường không có gì khó hiểu cả.Vì vậy đừng ngạc nhiên khi thấy dân trong nước càng ngày càng nghèo và những vụ cướp đất, cướp ruộng, cướp nhà của dân do cán bộ gây ra càng ngày càng nhiều.

2. Cuộc cải cách ruộng đất (1950-1956).

Anh Bùi Tín viết nhiều nhưng thức giả miền Nam và cá nhân chúng tôi nghĩ anh chỉ đánh VGCS qua loa, phủi bụi, lấy lệ. Anh bỏ đi những sự thật lịch sử cực dữ tợn và dã man để chạy tội cho HCM và đảng CS. Khi chúng tôi nêu những điều đó ra thì anh lại bảo: ”Tôi, tức Bùi Tín, đã đứng về phía người Quốc gia nhưng người QG xô tôi trở lại với CS”.

Thực ra chúng tôi không xô anh trở lại hàng ngũ VC, trái lại chúng tôi rất mừng đã có thêm một người bạn, một chiến hữu chống VGCS đắc lực nhưng những hàng chữ của anh, kiểu nửa nạc nửa mỡ, nửa chân trong chân ngoài người nào đọc cũng thấy hoặc là anh trá hàng, hoặc là anh chưa phản tỉnh thật sự về với chính nghĩa dân tộc. Lời bàn ở đầu bài này của mấy ông bạn già của tôi chính là từ những bài viết của anh.

Người Quốc gia từ sau 1945 bị HCM và đảng VM giết hại quá nhiều, họ muốn đánh lại VM như hai khu tự vệ Bùi Chu Phát Diệm nhưng lực họ còn kém trong khi VM được CS quốc tế yểm trợ, nhất là Liên Xô và Trung cộng, họ phải nhờ vào lực lượng Pháp ở Việt Nam để sống còn và tổ chức quân đội để chống VM. Họ không có cách nào khác hơn vì họ biết rõ HCM là cộng sản đệ tam quốc tế. Chính bố tôi đã bảo tôi việc này khi bố con tôi đi coi người Hải Phòng đón tiếp HCM xuống Cảng (khoảng 21-8-1945) để hiệu triệu dân Cảng cùng VM chống Pháp.

Trở lại với Cải Cách Ruộng Đất, anh hãy đọc lại những tài liệu đứng đắn về cuộc Cải Cách Ruộng Đất trong 5, 6 năm trời ở miền Bắc và Bắc Trung Việt. Là một cấp lớn trong QĐ và làm báo như anh, không thể nào anh không biết.

Tại sao phải giết cả nửa triệu nông dân bị qui chụp là địa chủ, phú nông? Nhiều tài liệu nói rằng đó là lệnh từ Moscow và Beijing, phải giết 5% nông dân Bắc Việt cho đủ số nên có nhiều người không phải là địa chủ, phú nông, cường hào, ác bá cũng bị “kích” lên để giết cho đủ số lượng ấn định. Nhiều người có công với HCM và kháng chiến chống Pháp như bà Nguyễn thị Năm (Cát hanh Long, chính tôi đã lui tới nhà bà ở đường Cầu Đất - Paul Doumer - Hải phòng, một tiệm buôn bán sắt rất lớn, chơi với cháu của bà thời gian 1943-1946). Bà đã ủng hộ cho Việt Minh (VM) dịp tuần lễ vàng cả tấn vàng, đã dâng hàng nghìn mẫu ruộng nhưng HCM vẫn đem ra bắn đầu tiên trong đợt I CCRĐ.

Nửa triệu nông dân, cả những người đã có công với VM, đang làm chức việc Hành kháng tỉnh, huyện, xã và công an đã bị nhục hình, chôn sống chỉ để chìa đầu lên, cho trâu cày vào đầu cho chết chậm, bị chặt đầu, bị bắn trong khi họ không có tội gì, hay chỉ có tội đi theo kháng chiến, nhường cơm sẻ áo cho lính ông Hồ, cho con trai con gái thoát ly gia đình phục vụ trong các đoàn thanh niên xung phong, phụ nữ cứu quốc. Có người trước khi bị bắn còn hô: “HCM muôn năm, VN độc lập muôn năm!”

Thế là nghĩa làm sao, anh Bùi Tín? Con người, lại là đồng bào, mà đối xử với nhau ác độc hơn chó sói, beo, hùm, sư tử như vậy có nên được gọi là người hay không? (Nhà văn Dương thu Hương dám viết cả cuốn sách tôn vinh HCM như một vĩ nhân thế giới và dân tộc!!. Tôi thật phục sự can đảm và trơ trẽn của chị!)

Toàn dân tin theo HCM từ ngày 19-8-1945 mà chỉ dăm năm sau, ông ta đang tâm giết 5% theo lệnh quan thầy để làm cuộc “cách mạng”. “Cách mạng” này là cách mạng gì vậy anh Bùi Tín, không giết sống 5% nông dân vô tội này thì cuộc “cách mạng” Liên xô không thành được sao? Máu của người VN sao đổ dễ dàng quá thế? Ở Hoa Kỳ, người ta rất khó lòng và tốn kém để giết một con chó già nuôi lâu ngày, nay bệnh hoạn không thể sống được nữa. Trẻ con người lớn trong gia đình rất đau đớn khi phải giao nó cho thú y sĩ chích thuốc ngủ, có đứa trẻ khóc thương nó cả tháng! Thế mà ở VN, HCM giết cả triệu người đồng chủng dễ dàng hơn người Hoa Kỳ giết một con chó! Quả là một bậc vĩ nhân có một không hai!

Polpot giết gần 2 triệu người Cam bốt chắc cũng chỉ ác độc dã man đến thế! Mà tại sao phải giết? Giết người Việt chỉ vì phải theo lệnh quan thầy là Liên Xô và Trung cộng, giết như thế để làm gì? Xin anh trả lời cho biết. Anh có biết Luật pháp Anh-Mỹ-Pháp, khi giết một người thì phải giả tử nghĩa là lên ghế điện ra sao không?

Ngoài nửa triệu nạn nhân, còn cả triệu thân nhân vợ con, chồng con, cháu chắt cũng bị giết từ từ vì phong tỏa kinh tế họ, vì những đau thương tinh thần không có bút nào để tả. Vợ nhà thơ Hữu Loan là một thí dụ điển hình. Cuốn sách nhỏ: ”Ba người khác” của Nhà văn Tô Hoài chính là một nhân chứng sống dù nó chỉ nói lên được một phần nghìn những sự thực. Đội xuống thôn ấp kiếm rễ, chuỗi tố cáo địa chủ để giết người vô tội nhưng chính các đội là những ổ dâm đãng, bậy bạ, tạo ra những lý do không-có-lý-do để giết người bằng được theo lệnh trên. Trường Chinh, TBT đảng đã nhẫn tâm giết cả cha mẹ dù hai ông bà này chưa bao giờ là địa chủ. Tội ác của HCM và đảng CS lấy bút nào mà tả cho hết được? Một lời xin lỗi với anh là đủ?

Rồi sau đó, nỗi ai oán của nhân dân ngùn ngụt bay lên làm mờ cả nhật nguyệt, HCM hèn nhát cho Trường Chinh ra nhận tội có sai lầm trong CCRĐ, nói rằng chính sách thì không sai lầm nhưng cán bộ tắc trách.

Giết nửa triệu người vô tội, đày đọa cả triệu toàn đàn bà con nít vô tội mà khi phát giác chỉ có một lời xin lỗi? Tôi nghĩ chỉ có chế độ của HCM mới có. Và ngày nay, anh Bùi Tín, anh lại bắt chước cái mửng đó để bảo VGCS xin lỗi nhân dân vì món nợ đã đến ngày phải trả! Người miền Nam rất lạ cho cái sự suy nghĩ nhảm nhí của anh, đã làm đến Thượng tá và Phó TBT báo Quân đội nhân dân.

Một bọn cướp đột nhập vào nhà anh, lấy thí dụ, giết mấy đứa con anh, cướp của, phóng hỏa đốt nhà anh khiến vợ chồng anh dở sống dở chết, nay có người bắt bọn cướp xin lỗi vợ chồng anh. Anh nghĩ được không, anh tha tội cho chúng không? Đây không phải là một gia đình bị chết mà 10 triệu người bị chết thảm thương, thân nhân còn sống nay vẫn chưa quên được những mất mát đau đớn đó!

Hitler là một nhà độc tài khát máu Đức đã làm mưa làm gió từ 1940-1945 ở Âu châu, một tay y giết không ít hơn hàng chục triệu người Âu châu nhưng y chỉ giết những giống người không phải người Nhật nhĩ Man (Đức). Trái lại, y rất trân trọng và bao bọc ngưòi Đức.

Còn HCM, y chỉ giết người Việt Nam nhưng sợ và quỳ mọp trước ngoại bang. Chửi Mỹ tàn tệ vậy vì lúc đó Liên Xô và Trung cộng ghét Mỹ nhưng nay lại nịnh bợ o bế Mỹ hơn ai hết!

29-4-2010
GS Trần Đình Ngọc
(cựu Dân Biểu VNCH)
----------------------------

Bài 2

Anh Bùi Tín,

Ở bài I, tôi đã đưa ra những câu hỏi để anh trả lời:

- Ông Hồ chí Minh có cần gây ra một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, bì oa chử nhục để phục vụ tham vọng của hai đế quốc Cộng sản Liên Xô và Trung cộng là xích hóa toàn cầu không? Một học sinh VN lớp 6 có ý thức cũng trả lời là Không. Hoàn toàn Không!

Vì sao? Vì nếu không tốn một giọt máu, một viên đạn mà cũng có Độc lập, tự do, hạnh phúc thì ăn cái gì mà ngu đến nỗi phải đem hàng triệu quân đi “nướng” chứ? Một mạng người cũng là quí, nó không quí với Hồ chí Minh (HCM) và đảng Cộng sản Việt mình nhưng rất quí cho chính đương sự và gia đình đương sự. HCM có hiểu được điều đó không? Xua dân vào chỗ chết thì dễ muôn vạn lần hơn là chính mình xung phong vào chỗ chết! HCM đã bao giờ sẵn sàng ôm bom làm gương chưa hay chỉ xúi trẻ ăn cứt gà, xua chó vào bụi rậm? Võ nguyên Giáp và các tướng của y cũng như thế! Anh đã từng đi lính đánh thuê cho HCM và Quốc tế CS, lên tới chức Thượng tá ắt anh quá rõ!

Một thí dụ rất tầm thường. Đứa trẻ phá cái tổ chim bắt ba con chim con. Vì còn quá nhỏ, ba con con này chỉ vài ba ngày thiếu bố mẹ, thiếu ăn thiếu uống là chết. Hai con bố mẹ đứng trên cành, cạnh cái tổ, kêu lên những tiếng nhớ thương thảm thiết rồi người ta khám phá ra chúng tuyệt thực và chết ở góc vườn. Loài vật còn thế huống chi người. Quen dã man với đồng chủng, HCM không hề biết đến nỗi đau xót của người thân khi nhìn thấy cha mẹ, ông bà, con cháu mình bị chôn sống và bị hành hình. Chắc anh Bùi Tín, với chức nghiệp là nhà báo và Phó tổng biên tập, hẳn đã nhìn thấy những cảnh thực đấu tố CCRĐ, Hồ đang đứng nhìn cảnh đấu tố với con mắt ngạo mạn, thỏa mãn và chính tay y xúc đất lấp huyệt chôn sống nông dân vô tội, hầu như 100% là những nông dân đã hoan hô y như một vị đại anh hùng dân tộc ngày 19-8-1945 và phất cao lá cờ máu của y, thề chết cho y và đảng Việt Minh!

Tại sao lại phải giết người? Và những cái chết đau thương đó đã mang lại đất biển để mở mang bờ cõi, vàng bạc châu báu, danh dự tiếng tăm hay những lợi lộc lớn lao gì cho đất nước chúng ta, cho cuộc đổi đời mạt rệp mà HCM và thủ hạ cường điệu là cuộc “cách mạng”?

Không mang lại cái gì hết hay chỉ mang những đau thương, tang tóc cho cả triệu gia đình, mang sự căm hờn, chia rẽ vì bọn sát nhân, thủ hạ của Hồ như những đội trưởng Bối (Tô Hoài), đội trưởng Đình, đội trưởng Cự, nữ đội trưởng du kích kiêm nhân tình của Bối, Đình, Cự như cái Duyên, cháu rễ chuỗi như cái Đơm nhờ được dịp chó nhảy bàn độc, làm mưa làm gió, làm ông trời (nhất đội nhì trời) trong các thôn ấp tha hồ dâm loạn, cướp của giết người. Đó là một phía của sân khấu và phía kia là hàng trăm nông dân, già có, trẻ có đau thương ngơ ngác, hoang mang, không thể hiểu được vì sao mà lại có cái cuộc “cách mạng” đất lở trời long quá vô lý này?

Vô lý hiển nhiên là những kẻ bị giết chẳng phạm một tội gì đối với chính phủ, nhà nước và nhân dân cả! Còn những địa chủ bị mang ra bắn, như địa chủ Thìn, như cha mẹ của thằng đại bất hiếu Tổng bí thư Trường Chinh? Nào những người này giầu có gì! Cha mẹ của Trường Chinh Đặng xuân Khu đang ở Hành Thiện, Xuân Trường, Nam định, đã già, chỉ có mấy sào ruộng cho cấy rẽ lấy thóc ăn bị chính thằng con khốn nạn quy chụp là địa chủ cho đội giết. Giả sử họ giầu thực nhưng giầu bằng cách làm ăn lương thiện, không tham nhũng hối lộ, bóc lột dân nghèo thì cái giầu ấy sao lại bị qui kết thành tội được? Giầu như những lãnh đạo đảng VC hiện nay, hàng vài tỉ đôla mỗi tên, mới là giầu ăn cắp của dân, nếu những địa chủ thời đó bị bắn một lần thì bọn Tư bản Đỏ ngày nay đáng bị bắn một ngàn lần! Tôi nói như thế anh thấy đúng hay sai, anh Bùi Tín?

Địa chủ Thìn trong “Ba người khác” một nhân vật tượng trưng của Tô Hoài cho hàng trăm ngàn địa chủ thực khác ở ngoài đời, chỉ đủ bát ăn nhưng không còn ai nữa thì bắt buộc rễ, chuỗi thôn Chuôm là anh Diệc và con gái anh ta là cái Đơm (một trong những nữ hộ lý hay nhân tình của các đội Bối, đội Cự và đội Đình) phải tố và kích lão Thìn lên thành địa chủ để mà giết. Giết để có cái báo cáo lên huyện, báo cáo về Trung ương! Đội không báo cáo được thì mất chức hoặc là bị đưa ra đấu tố và bị giết, chết thay cho địa ác. Muốn đàng nào?

Diệc không phải ai xa lạ mà chính là con rể lão Thìn và cái Đơm là cháu gọi lão Thìn bằng ông ngoại. Đây là nguyên văn một đoạn ngắn trong Ba Người Khác, tôi đây là Tô Hoài:

Lão Thìn lả người, lăn quay ra giữa bãi. Đống văn tự, giấy tờ, sổ sách chữ Tây, chữ ta trong nhà lão khuân ra đốt, khói um lên, tàn than lả tả bay như đàn bướm đen. Nhưng tiếng quát xô lên: Không cho nó nằm! Nó nằm sập gụ cả đời rồi! Bắt nó đứng! Bắt nó. Địa chủ Thìn bị xốc lên, trói hẳn vào cái cọc đã chôn sẵn. Đầu lão ngật đi. Chốc chốc lại ỉa tháo ra cái quần đã tụt vòng hẳn xuống hai ống chân bằng cái ống nứa.

… Giữa những tiếng lao nhao hô đả đảo, bác Diệc run run bước lên. Mặt tái ngoét như con gà cắt tiết. Tổ dân quân mấy xóm dàn hàng ngang. Đơm khoác súng, đứng hàng đầu. Duyên mặt đỏ hây, cúp mắt nhìn xuống hai đầu vú đương cương cong tớn. Thấy thế tôi mới nhớ vẫn Duyên ấy. Đơm thì nước mắt ròng ròng nhìn lên tôi. Có phải những giọt nước mắt nói: ông em ngày trước đấy.

Bác Diệc chỉ tay vào địa chủ Thìn:

Tao thù mày! Tao thù …
Rồi khóc rống lên, chạy xuống …

Chỉ một cảnh ngắn cho thấy cái man rợ không bút nào tả xiết của HCM. Diệc phải đấu tố bố vợ, người đã giúp đỡ Diệc rất nhiều lại gả con gái cho. Cố gắng lắm mới nói được: Tao thù mày, tao thù mày rồi khóc rống lên, chạy xuống. Khóc rống vì cái lương tâm ông trời phú cho chưa ngủ hoàn toàn như đám đội, còn nghĩ ta đang làm điều quá sai quấy. Cái Đơm phải theo đội để đấu tố ông ngoại nhưng nước mắt ròng ròng. Có còn hoạt cảnh nào của nhân gian nói lên được cái đểu cáng, phi đạo đức, phi luân lý và mọi rợ hơn những cảnh đấu tố CCRĐ này?

HCM cắm đầu làm theo lệnh Liên Xô và Trung cộng nhưng không hề nghĩ đến nỗi đau xót cùng cực của nhân dân. Có lẽ Hồ chí Minh muốn tập tành cho mọi người dân Việt, giới làm báo như anh thì càng thấm nhuần, là học tập thói man rợ giết người và đày đọa người càng độc ác càng được bình nghị là xuất sắc. Đến nỗi có những đứa con gái phải tập chửi bố nó cho nhuyễn, vu vạ cho bố nó đã ngủ với nó bao nhiêu lần để được đội cấp cho mẫu ruộng nhất đẳng điền của làng như nữ đội trưởng du kích Duyên.

Nguyễn văn Đô, tên thực việc thực, bí thư huyện ủy Ô Cầu Giấy ngoại thành Hà Nội, ngay đợt CCRĐ đầu, bị đứa con gái lên tố là bị cha hiếp 177 lần. Đô trả lời: Thưa bà, bà còn quên, tôi đã hiếp mẹ bà để đẻ ra bà đấy!

Những chuyện ấy chỉ có trong Xã hội chủ nghĩa man rợ của HCM, không đâu khác, và chỉ nghĩ tới, là con người, ai cũng ói đến mật xanh mật vàng. Luân lý, đạo đức hàng ngàn năm do ông cha tập thành cho dân tộc ta nay bị HCM và đảng Việt cộng phá tan tành. Con người không còn là con người mà đã trở thành những con thú, thua con thú!

Trở lại với các nước Á Phi tôi nêu ra ở trên đều được các đế quốc đã đô hộ họ là Anh, Pháp, Mỹ, Hà lan, Tây ban Nha v.v… trả Độc lập tự chủ toàn vẹn lãnh thổ không tốn một giọt máu, lại được mời vào các Khối Thị trường chung hay Thịnh vượng chung do các nước lớn này đứng đầu. Như nước Việt Nam sau khi được trao trả Độc lập vào năm 1949 bằng Sắc lệnh, Tổng Thống Pháp Vincent Auriole cũng mời Việt Nam gia nhập Khối Đông Dương do Pháp đứng đầu.

Đó không phải là cái may của dân tộc nhưng là một xu thế chính trị thời đại sau Thế chiến II. Chế độ thực dân đế quốc đã cáo chung, các quốc gia dân tộc đều được bình đẳng với nhau (Hội nghị Bandung).

Nếu những cuộc đấu tranh đòi Độc lập ấy, không phải gây chiến tranh, tiết kiệm được một mạng người, dù chỉ một mạng thôi, cũng là quí. Trong trường hợp nước Việt Nam, HCM và đảng VC có thể tiết kiệm được nhiều triệu nhân mạng cho dân ta. Đáng tiếc cho Hồ chí Minh và đảng Việt Minh và thương thay cho những đồng bào Việt miền Bắc mê lầm nghe theo HCM cũng như những đồng bào kém may mắn miền Nam, vì phải chống lại sự xâm lược thô bạo từ miền Bắc mà phải chết ! Trong số này có những người thân trong gia đình và bè bạn của tôi!

Một cơ hội nghìn năm một thuở như ngày 19-8-1945, nếu là người có thực tâm yêu nước, không xung phong làm tay sai cho đế quốc CS, HCM có thể làm cho nước ta ngày nay không thua gì Hoa Lục khiến Mao trạch Đông và nhiều lãnh tụ châu Á phải nể vì, đất nước phú cường, nhân dân hạnh phúc không thua gì các nước Âu châu và Mỹ châu. Nhưng tiếc thay Hồ đã quá mê muội với chủ nghĩa hoang tưởng Marx-Engels, không còn nhìn thấy gì khác, lại sẵn tính ích kỷ, máu tham, ham hưởng thụ, chỉ muốn vơ vào cho cá nhân mình và đảng của mình, cam tâm làm nô lệ cho những thế lực CS quốc tế mà nước VN bị trầm luân trong chế độ lỗi thời, đưa con người xuống tận cùng của đống xình, phí phạm biết bao nhiêu tâm lực, tài hoa, tim óc, của cải của nhân dân!.

Giải Pháp Cho Cả Hai Miền Đều Phồn Vinh thực sự

Sau Hiệp định Genève 20-7-1954, nếu HCM và đảng VC chỉ lo phát triển kinh tế cho miền Bắc, không quấy rối miền Nam thì cả hai miền đua nhau tiến bộ về các mặt Kinh tế, Nông nghiệp, Giáo dục, Y tế, Xã hội, Giao thương, Ngoại giao và nhiều mặt khác. Không cần phải suy nghĩ nhiều, người ta cũng thấy một tương lai huy hoàng mở ra cho nước Việt Nam. Khi chính mình cố gắng vươn lên thì các nước đàn anh của đôi bên sẽ không ngại ngùng viện trợ. Công ăn việc làm nhiều, dân giầu nước mạnh, trẻ em nào cũng được cắp sách đến trường vì miễn học phí (trong Nam trường công đã miễn từ 1954) các trường Cao đẳng và Đại học đào tạo chuyên viên cho các ngành. Tương lai huy hoàng chắc chắn mở ra với nước Việt Nam mà người chết vì chiến tranh, nhà bị thiêu hủy vì chiến tranh như trước 5-1954 không còn nữa.

Trước 30-4-1975, Sàigòn đã làm được xe hơi LaDalat, mọi cơ phận do VNCH sản xuất ngoại trừ cái máy của Pháp. Nhưng với cái đà ấy, chắc chẳng bao lâu kỹ sư Sàigòn cũng sẽ chế ra được máy và hộp số xe hơi cho các loại xe hạng nhẹ.

HCM và đảng CS chỉ cần làm như thế và để yên cho VNCH sống, là đủ cho nước mạnh dân giầu. Mười triệu người không phải chết oan ức như đã thấy mà không chừng ngày nay, nước VN đã có trên trăm triệu dân, cả hai miền thái bình an lạc, hạnh phúc biết là bao nhiêu! Điều ấy không phải là mơ ước viển vông mà toàn dân ta có thể thực hiện được miễn là HCM không quá tham lam, dã man độc ác giết người như ngoé và cúi đầu làm tay sai cho Quốc tế Cộng sản!

Trong khi XHCNVN chưa làm được một con đinh ốc (báo Tuổi Trẻ trong nước) thì ngày nay, theo tài liệu IMF, nước CHXHCN Việt Nam thua Singapore 197 năm nếu Singapore cứ đứng ở đó không tiến thêm; Việt Nam thua Malaysia, thua Thái Lan có ít cũng dăm chục năm, thua Đài Loan, Nam Hàn cả trăm năm. Mã và Thái, ngay cả Đại Hàn, trước năm 1975, vẫn đứng sau Việt Nam Cộng hòa trên nhiều phương diện. Lao công Đại Hàn sang Saìgòn làm công rất nhiều, chính tôi đã có nhà cho họ mướn. Việt Nam ngày nay chỉ hơn Lào nhưng thua cả Căm bốt. Căm bốt có bầu cử dân chủ từ cấp xã trở lên và người dân Căm bốt vẫn dễ thở hơn ở VN nhiều!

Vụ Thảm Sát Tết Mậu Thân

Anh Bùi Tín, trong bài này, mục đích của tôi là nêu lên những biến cố quan trọng đã xẩy ra tại nước ta (mà không đi ngay vào bài viết của anh) là để anh và toàn dân thấy lời đề nghị một lời xin lỗi của anh là thiếu suy nghĩ và nhảm nhí, đứa con nít không chấp nhận được.

Vụ tổng tấn công tết Mậu Thân (1968) sáng sớm mồng một Tết là do chính Hồ chí Minh ngồi ở Hà Nội điều khiển bằng đọc một bài thơ làm hiệu lệnh khai hỏa trên vô tuyến. Hồ ký HĐ hưu chiến 3 ngày để đôi bên ăn Tết theo truyền thống. VNCH tin thật cho quân sĩ về quê ăn Tết với gia đình. Hồ xảo trá thừa cơ đánh úp vào đúng ngày giờ thiêng liêng dân tộc đón năm mới, đón ông bà về vui Xuân với con cháu. Thực không ai có thể tin được Vẹm!

Dân miền Nam chết khoảng 12 ngàn, kể cả 7 ngàn dân Huế vô tội bị chôn sống (sau khi ăn một cán cuốc vào sọ) nhưng đám lính non choẹt 14, 15 tuổi của HCM, lính sinh Bắc tử Nam của HCM thì bị quân đội Mỹ và QLVNCH giết trong những cuộc phản công cũng cả trăm ngàn tên, xác phơi đầy đồng, đầy đường, đầy xung quanh vòng rào kẽm gai các đồn bót. Đám thiếu niên vị thành niên này nào có biết chủ nghĩa CS là cái gì mà bị ép buộc cầm súng đánh biển người hi sinh một cách lãng nhách. Mỗi đêm một đại đội VC bơi qua sông Thạch Hãn đánh Quảng Trị nhưng lúc về chỉ còn dăm ba tên, có khi không còn tên nào! Đó là chính tài liệu của VC báo cáo đấy!

Tin tình báo VNCH nói HCM muốn mượn tay quân sĩ miền Nam và quân đội Mỹ giết đám lính này vì hết cơm gạo nuôi. Có những gia đình cả ba, bốn người con trai và ông bố đã chết vì bị ép đi lính sinh Bắc tử Nam cho Hồ. Bà mẹ còn lại được lãnh một bằng ban khen gia đình liệt sĩ! Có những làng ở Bắc Việt sau chiến tranh không còn một người đàn ông, khi có ông già bà cả chết không có người khiêng hòm. Có một số nhỏ đàn ông còn lại nhưng vì quá nghèo, họ đã phải đi xa, vào rừng vào rú kiếm ăn.

Nhiều làng ở Bắc Việt, toàn thể đàn bà đã trở thành góa phụ, nhiều phụ nữ đi hộ lý “để các anh lên tinh thần mà xung phong đánh biển người” vì nghe theo những lời tâng bốc đường mật của cán bộ tuyên truyền. Chính sách cai trị bằng công an và hộ khẩu cực độc ác đã giết tất cả những ý chí không muốn cộng tác, du con người, kể cả công an, cán bộ, vào đường cùng. Buộc phải nghe theo và dua nịnh để sống hay là chết, chết cả gia đình. Đã rất nhiều gia đình chết hết không còn một ai. Những Nguyễn mạnh Tường, Dương quỳnh Hoa, Nguyễn hữu Thọ nói lời ân hận vào phút chót nhưng tiếng nói bị dập liền! Dân tộc VN chưa từng bao giờ có kinh nghiệm về một bọn cai trị độc ác và tàn bạo như VGCS, ngay cả giặc Minh khi xưa và giặc Pháp. Và chính anh, anh Bùi Tín, anh cũng đang phải dua nịnh để sống đấy! Nhiều bọn khác cũng đang phải dua nịnh, kể cả các Nhà Văn, Nhà thơ, Bình luận gia, Khoa học gia. Tất nhiên cũng có một số dua nịnh vì kiếm ăn, chức tước, bọn này (như bọn Chuột kiều hải ngoại) thì quốc dân đã nhổ bọt vào mặt chúng từ lâu rồi!

Sau chiến tranh, cha mẹ, anh chị em những phụ nữ đáng thương đi hộ lý đã chết hết cả, họ phải sống một cuộc đời cô độc, nghèo đói, buồn thảm như những cái xác còn thở. Độc lập, tự do, hạnh phúc là chôn sống, là giết chóc, thù hận, căm hờn, trả thù tàn ác hay sao? Những ngôn từ ấy, ngay từ 1945, chỉ là những cái bánh vẽ khổng lồ cho tới ngày nay vẫn còn dùng chiêu bài để bịp. Những tội ác tày trời ấy, một lời xin lỗi là đủ sao, anh Bùi Tín?

Anh đã sống ở Pháp nhiều năm, ắt anh nhìn thấy các sắc dân Âu châu người ta sống, cũng như tôi đã thấy các sắc dân sống ở Hoa Kỳ. Tôi hỏi thật anh, có người dân châu Âu nào sống khổ, bất công, mất hết tự do, dân quyền, tủi nhục, cay đắng, nghèo đói, thất học, bị bóc lột, bị chà đạp danh dự như người Việt Nam suốt 65 năm nay trong chế độ CS của HCM hay không? Xin anh thành thật trả lời! Cũng là một con người sao dân người ta sung sướng thế mà người Việt Nam đau khổ lầm than quá thế? Mà lên được Sao Hỏa, Mặt Trăng gì cho cam! Đất nước chìm xuống đáy địa ngục và nay đang thấy trước mắt nạn “Tây Tạng hóa” không xa!

Cũng nói thêm, 21 năm miền Nam từ 1954-1975 của hai nền đệ nhất và đệ nhị VNCH, dù không ngày nào là không bị Vẹm quấy phá từ 1956, cột điện Đa Nhim bị giật mìn hàng đêm, chế độ của VNCH đã tạo ra một thiên đàng hạ giới cho dân miền Nam. Có Dân chủ, tự do, nhân quyền, dân chúng no cơm ấm áo, trẻ em học hành đầy đủ, chỉ Singapore và Nam Hàn ngày nay mới so sánh được. Dĩ nhiên vẫn còn những lạm quyền, tham nhũng, hối lộ (ngay Mỹ, Pháp, Nga, Ukraine, Anh, Tây ban Nha, Nhật ngày nay vẫn còn có những tệ trạng này) nhưng chỉ là quá nhỏ so với CHXHCNVN từ 1975 đến nay. Không lãnh đạo miền Nam nào có đến vài triệu đô la, dù là của chính họ và gia đình làm ra. Ông Ngô đình Diệm tài sản chưa tới 3,000 đô. Dăm bộ quần áo, cái khăn xếp, đôi giầy, cái vali, tất cả chỉ đáng giá vài ba trăm. Ông Diệm luôn luôn không có tiền bỏ túi để tiêu vặt, theo những người thân cận của ông cho biết. Ông Nguyễn văn Thiệu đào thoát ra ngoại quốc không có tiền, bà Thiệu hiện còn sống ở Nam Cali, có thể đến hỏi bà ấy là biết một phần. Nguyễn cao Kỳ phải đi vay nợ ở Mỹ, nhiều tướng lãnh khác nghèo đi làm lao công, gác dan kiếm sống ở Mỹ, ở Âu châu; một số những người này có thể xà xẻo trong số 16 tấn vàng dự trữ trong Ngân Khố VNCH nhưng họ đã không tơ hào một mảy.

Mười sáu tấn vàng y đó, anh biết quá rõ, đã chia chác cho các chóp bu lãnh đạo VC từ Lê Duẩn, Trường Chinh, Đỗ Mười, Lê đức Anh, Võ văn Kiệt, Võ nguyên Giáp trở xuống mỗi tên bao nhiêu nghìn lạng? Những phần chia ấy đã góp không nhỏ vào tài sản mấy tỉ đô la của họ hiện nay. Cũng còn thêm một sự thật cần được bạch hóa. Tướng Dương văn Minh sau khi được bầu làm Tổng Thống VNCH, ngày 30-4-1975 DVM ký một Sự vụ lệnh cho Dân biểu Trần cảnh Chung sang Tổng Ngân Khố Sàigòn ra lệnh cho Thống đốc Uyển và Phó Thủ tướng Nguyễn văn Hảo phải giao 16 tấn vàng này cho Chung để anh ta đem xuống con tầu Việt Nam Thương Tín đem ra ngoại quốc. Ý của DVM là giữ cho miền Nam hay muốn cướp số tiền đó cho riêng mình, chưa ai rõ. Nhưng giới hữu trách ở Tổng Ngân Khố Sàigòn không giao cho Chung và Chung phải ra tay không. Vì thế 16 tấn vàng này mới lọt vào tay Lê Duẩn và đồng bọn! Mười sáu tấn vàng ấy, kẻ thủ đắc, chỉ là niềm ô nhục muôn đời mà thôi!

Tôi xin nhắc lại: HCM muốn cán bộ giầu để trung thành và bảo vệ đảng (vì bảo vệ đảng là bảo vệ tài sản của chính mình). Dân phải nghèo mạt rệp, càng đói khổ càng tốt để có thêm nhiều kẻ ôm bom lao vào xe tăng địch. Đó là lý thuyết cơ bản bất biến của đảng VC. Sông Hồng hà có thể cạn, núi Ba vì có thể lở, nhưng nguyên tắc bất di bất dịch ấy là muôn đời!

Không người Việt nào không khốn nạn vì Hồ chí Minh

Có thể nói ba bốn thế hệ nay, không một người Việt nào không chịu ảnh hưởng ít hoặc nhiều chết chóc, tang tóc, đau thương, tàn phá do chiến tranh gây ra bởi giặc Hồ. Anh với tôi đang lưu vong ở nước ngoài cũng là do giặc Hồ. Ba triệu đồng bào đang tị nạn CS ở hải ngoại cũng là do giặc Hồ. Những người bạn đồng đội của tôi đã chết, bỏ lại vợ con thê lương tang tóc nghèo đói bệnh hoạn, cúi mặt một đời cũng là do giặc Hồ! Một bà lão già như mẹ tôi ở ngoài Bắc bị cản trở và bị công an nhốt khi bà trốn từ làng quê lên Hà Nội (cuối năm 1954) để vào Nam với tôi. Bà không được đi nên đã khóc nhiều năm lòa cả mắt vì thương nhớ tôi, cho tới lúc gần chết còn khóc, anh chị tôi nói lại vậy, cũng là nạn nhân của giặc Hồ.

Nền Tư Pháp, Y tế, Giáo dục, Đạo lý, Luân lý ở nước ta ngày nay có đi xuống tới đáy đống xình không? Bọn tham quan cửa quyền, công an nhũng nhiễu dân đen coi dân như trâu ngựa vậy thì dân oan ức biết kêu vào đâu?

Những người bị chúng bắt tù cũng bị chúng chích thuốc, hành hạ, bỏ đói, tra tấn, mua chuộc, làm cho họ mất trí khôn không còn là con người nữa. Sau khi ra tù, những người này có thể điên loạn, nói những điều mâu thuẫn với chính mình trước kia. Vẹm không từ một thủ đoạn tàn ác, đẩu cáng nào để giết dần những người phản đối chúng. Có những kẻ vô liêm sỉ hung hăng ở hải ngoại nhưng giả sử chúng bị Vẹm tù đầy vài tuần là biết ngay sự thực!

Những lời hứa của HCM, những bản Hiến pháp 1986, 1992 của Nhà nước Xã nghĩa rốt lại chỉ là những mảnh giấy lộn dùng trong nhà vệ sinh sao? Có Nhà nước nào, lãnh tụ nào hứa một đàng, làm một nẻo như nhà cầm quyền của HCM?

Lính của Nguỵ quyền Việt gian Cộng Sản chết bao nhiêu?

Nếu anh Bùi Tín không tin con số những người chết, xin anh đọc mấy dòng này, tác giả là Ký giả Xuân Hồng, đài BBC. Sau đây là bài viết của Ký giả Xuân Hồng:

Nhưng con số thiệt hại về nhân mạng của miền Bắc là bao nhiêu?

Tên trá hàng Bùi Tín, trong một tác phẩm tuyên truyền hạng bét, văn chương sọt rác, (Mây mù thế kỷ, Hoa xuyên tuyết ...) đãviết:

“Lê Duẫn từng khoe: Tôi gặp ông Mao, tôi nói thẳng rằng Trung Quốc chi viện cho chúng tôi thì chúng tôi thắng Mỹ với những hi sinh thấp hơn, còn như Trung Quốc không chi viện, thì chúng tôi sẽ phải hi sinh thêm 1 đến 2 triệu người, chúng tôi không sợ và cuối cùng chúng tôivẫnthắng!!!”.

Kinh khiếp thay đồng chí Lê Duẫn, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh. Xem vài triệu mạng sống của đồng bào, đồng chí, bộ đội, thanh niên xung phong ... như số lẻ, như mấy xu trong túi quần, có móc ra vất đi cũng khôngbậntâm.

Nhưng câu nói trên của Lê Duẫn đã bị bóp méo, cắt xén phần quan trọng nhất. Đó là con số nhân mạng “đã” thiệt hại là bao nhiêu triệu?

“Đồng chí” Bảy Vân, vợ Lê Duẫn, trong cuộc phỏng vấn ngày 23 tháng 12 năm 2008, đã trả lời Xuân Hồng, phóng viên đài BBC rằng:

- Anh Ba (Duẫn) nói với lãnh đạo Trung Quốc rằng: Chúng tôi đã hi sinh 10 triệu người rồi, nếu Trung Quốc chi viện cho chúng tôi thì chúng tôi thắng Mỹ với những hi sinh thấp hơn, còn như Trung Quốc không chi viện, chúng tôi dù phải hi sinh vài triệu người nữa, chúng tôi vẫn thắng Mỹ”.

Tôi (Dép Râu) lại xin lạc đề vài câu nữa. Ông Xuân Hồng đài BBC hỏi bà Bảy Vân, đại ý rằng, có nên tiếp tục “xã hội chủ nghĩa không? Đồng chí Bảy Vân kính mến trả lời rằng:

- Phải tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa, vì chênh lệch giàu nghèo ngày càng lớn”.

Tại sao ông Xuân Hồng không hỏi tiếp:

- Thế giai cấp giàu là những người nào? Còn bọn nghèo khổ là những ai?”. Giai cấp giàu là đảng viên (riêng đồng chí Bảy Vân “phải” chui rúc trong “túp lều” giá trên hai triệu đô la Mỹ), còn giai cấp nghèo là lũ dân đen mà các đồng chí đảng viên đang ngồi trên đầu đó!

Như thế, trong chiến tranh chống Mỹ, phải trên mười triệu người dân vô tội miền Bắc Việt Nam đã bị đảng ta đẩy vào Trường Sơn cho B52 dội bom. Một con số khủng khiếp. Lê Duẫn đem số lẻ vài triệu (bổ sung) vào Nam không phải để đánh nhau, mà để cho B52 dội bom, số sống sót mới thực sự đối diện với quân miền Nam mà đánh nhau.

Vẫn lời Xuân Hồng:Bạn muốn biết con số đó khủng khiếp đến bực nào thì thử rải mười triệu xác chết lên một nghìn cây số từ Bắc vô Nam, trên đường mòn Hồ Chí Minh (con đường Bác đi là con đường bi đát). Mỗi cây số có bao nhiêu xác bộ đội nhân dân anh hùng? Mười nghìn xác rải trên 1km. Mỗi mét 10 xác bộ đội. (Bài của Dép Râu - trích Huyết Hoa).

Ý kiến của Bút Xuân: Sau chiến tranh, nhiều báo Trung cộng đăng rằng tổng số chết trong các cuộc chiến tại VN là 14 triệu người. Tiếc rằng BX đã lưu giữ trong Computer nhưng bị tin tặc nuốt mất.

Hơn một triệu quân, cán, chánh VNCH bị đi tù cải tạo, bỏ thây hàng trăm ngàn trong các trại tù.

Mời anh Bùi Tín và quý bạn đọc bài “Hậu quả của việc Hoa Kỳ bỏ rơi Đông Dương” của Giáo Sư Robert F. Turner, trích đoạn sau đây. GS Turner hiện thuộc Trung Tâm An ninh Luật pháp Quốc gia, Đại học Luật Khoa Virginia, Hoa Kỳ. (Toàn bài tại: bacaytruc.com)

“Ông bạn Giáo sư R.J. Rummel của tôi (một người từng được tuyển liên tiếp cho giải Nobel Hoà Bình) ước lượng là tổng số người bị giết sau khi miền Nam được "giải phóng" lên tới 643 ngàn.

- Khoảng 100 ngàn bị xử tử qua quít ngay sau khi Cộng sản nắm quyền. Qua quít vì cũng chẳng có một hình thức tạm bợ về "tiến trình hợp pháp" hay một toà án.

- Giáo sư Rummel cho là 400 ngàn là "thuyền nhân" bị chết ngoài biển cả khi muốn thoát khỏi chế độ độc tài và đàn áp đã trùm lên quê hương. Cao ủy Tỵ nạn của Liên hiệp quốc thì cho là một phần ba những người vượt biên bằng thuyền đã chết ngoài biển - một số là vì tầu quá đông người bị chìm, hoặc chết vì đói, vì khát, nhiều người tử nạn sau thì bị hải tặc cướp bóc và cưỡng hiếp. Cao ủy cũng tường trình rằng có khoảng 840 ngàn người tới được Hong Kong hay các nước không Cộng sản ở Đông Nam Á. Nếu áp dụng tỷ số "chết một phần ba" cho con số này thì ta đoán là có một triệu 300 ngàn người vượt biên bằng thuyền và khoảng 420 ngàn người đã chết trên đường tìm tự do. Con số không xa với ước lượng của Giáo sư Rummel.

- Giáo sư Lewia Sorley, tác giả cuốn sách có giá trị của một dấu mốc là "A Better War" - một Cuộc Chiến Khá Hơn - mà tôi ân cần giới thiệu đến quý vị, cho rằng có chừng 250 ngàn sĩ quan và binh lính của miền Nam cũ đã chết trong các "Trại Cải Tạo" do chế độ Cộng sản lập ra.

- Khoảng một triệu rưởi người dân miền Nam bị đẩy vào các khu "Kinh Tế Mới" để sống trong những điều kiện nghiệt ngã và chừng 48 ngàn đã chết tại đấy. Tôi biết rằng rất đông người trong cộng đồng này có thể kể lại những kinh nghiệm thật về "Trại Cải Tạo" và khu "Kinh Tế Mới" và khuyên các sinh viên ở đây nên tìm ra họ, ghi nhận câu chuyện của họ để làm chứng liệu cho lịch sử.

Vợ con của họ sau 3 đợt đổi tiền bị bóc lột sạch rồi bị ném lên vùng Kinh tế mới sơn lam chướng khí, không lều trại, không thực phẩm, không nước uống, không nông cụ để cho chết từ từ. Một số không thể sống được ở VN nên phải dâng nhà đất, có kẻ phải dâng cả thân thể mình và con gái cho cán bộ để liều chết ra đi tìm tự do. (ngưng trích)

Kết quả là chỉ 2/3 đến được bến bờ tự do còn 1/3 làm mồi cho hải tặc, cho cá hay beo sấu, thổ phỉ trong những khu rừng già biên giới Cam bốt, Việt, Lào, Thái. Một phần ba ấy khoảng 600,000-800, 000 người Việt mà sau đó có nhiều bia dựng ở các trại tỵ nạn Đông Nam Á, nhà cầm quyền VGCS đã nhẫn tâm liên lạc với các CP liên hệ để phá bỏ. Ai cũng nhìn thấy ngay sự đối xử quá dã man của VGCS ngay cả với những người đã chết!

Nhân chứng sống về hải tặc và chết đói chết khát giữa biển thì rất nhiều. Chỉ xin kể vài trường hợp: Vợ chồng anh Hoa Ph. làm nghề gửi tiền, đang ở Nam Cali. Chiếc tầu có anh chị đã hết thực phẩm và nước uống. Rất nhiều người trên tầu đã chết. Bữa đó có một đứa trẻ chết, anh Hoa Ph. đòi xẻ đứa bé ra ăn nhưng cha mẹ nó nhất định không chịu vì thương con. Vài ngày sau mới có tầu ngoại quốc cứu. Cha mẹ đứa trẻ vẫn còn giận vợ chồng Hoa Ph. đến bây giờ!

Chiếc tầu khác chở gần 300 người đa số thuộc dân Ngã Ba Ông Tạ. Tầu lạc vào một đảo san hô rồi chết máy. Người ta ăn thịt những kẻ chết để mong sống nhưng chết gần hết, còn được ba người sống sót vì tầu ngoại quốc cứu đưa vào HongKong, sang Mỹ kể lại, hiện còn sống ở Nam Cali.

Dù chết như thế chứ chết nữa, dân VN không muốn sống với Hồ tàn bạo!

Làm nhà cai trị mà để dân khinh bỉ như thế, than ôi là “cách mạng” với “giải phóng”!

Vụ Hoàng Sa - Trường Sa

Ngày 17-1-1974, hải quân Việt Nam Cộng hòa đang canh giữ Hoàng Sa thì đột nhiên một hạm đội hải quân của Trung cộng, với tầu chiến và hỏa lực gấp 4 lần Hải quân VNCH, đến tấn công thình lình dù hải quân VNCH ra hiệu không được tiến thêm vào vùng lãnh hải của VNCH nhưng hải quân Trung cộng đã có định kiến và ỷ sức mạnh cứ tiến bừa và khai hỏa. Hải quân VNCH chiến đấu dũng mãnh để đuổi kẻ thù ra khỏi lãnh hải của mình, cương quyết bảo vệ từng tấc biển, tấc đất của tiền nhân đã giao lại và QLVNCH đã canh giữ từ 20 năm nay, trước đó Pháp cai trị VN nên thuộc quyền trông coi và bảo vệ của Pháp.

Trung tá Ngụy văn Thà và 58 chiến sĩ Hải quân đã anh dũng hi sinh cho tổ quốc cùng với chiến hạm HQ 10 bị địch đánh đắm giữa biển Đông.

Những ngày đó, tôi (BX) đang là Dân Biểu Chủ tịch Ủy ban Phát triển Nông Thôn Hạ Nghị Viện, Quốc hội VNCH được cấp báo ngay, nhiều đồng viện và tôi đã lên Diễn Đàn HNV ngày hôm sau để tố cáo với quốc tế sự xâm lăng thô bạo của Trung cộng vào đảo Hoàng Sa. Hoàng Sa và Trường Sa vốn là quần đảo của Việt Nam hàng ngàn năm nay. Quân dân tại Sàigòn và nhiều thành phố lớn miền Nam đã tổ chức biểu tình phản đối Trung cộng, đòi Trung cộng phải rút ra khỏi Hoàng Sa. Hành pháp VNCH, TT Nguyễn văn Thiệu, cũng lớn tiếng phản đối cuộc xâm lăng của Trung cộng và đòi QLVNCH phải đi chiếm lại.

Chỉ có Đài phát thanh Hà Nội là còn ra rả: “Chẳng thà Hoàng Sa vào tay đàn anh là đồng chí Trung cộng còn hơn để cho Mỹ-Ngụy xài!”

Đó là lòng yêu nước của HCM!

Hải quân VNCH dù không đối địch nổi với Hải quân Trung cộng nhiều hơn 4 lần nhưng đã hi sinh đến người chiến sĩ cuối cùng có mặt trên biển thời gian đó để bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải của cha ông để lại. Sự hi sinh này sẽ là mẫu gương quả cảm cho thanh niên các thế hệ hiện tại và sau này để giữ nước khỏi sa vào tay ngoại bang. Nhà thơ Trần mạnh Hảo, Hà Nội, tác giả tiểu thuyết đối kháng “Ly Thân”, đã làm thơ vinh danh các Chiến sĩ Hải quân VNCH.

Ngày nay Trung cộng xây sân bay trên hai đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tổ chức thành nơi du lịch, cho xây tượng đài, cho quân đến canh giữ như hai đảo ấy là đất hương hỏa của họ!. Đề nghị một lời xin lỗi của anh Bùi Tín nó chỉ chứng tỏ cái đầu óc của anh có lẽ đã quá già hoặc là bị tâm thần, hết biết đúng sai!

Ngoài Hoàng Sa và Trường Sa, nước Việt Nam còn bị mất hàng nghìn km2 ở biên giới với người Tàu, mất ải Nam quan, mất 1/3 Bản Giốc, hồi chiến tranh Việt-Trung mất núi Lão Sơn, mất rất nhiều bản thượng giáp giới giữa đôi bên do họ bị mua chuộc bởi Trung cộng và do chính sách của HCM đối xử tồi tệ dã man với dân thiểu số.

Cũng cần nói lại việc Phạm văn Đồng, theo lệnh của HCM, ngày 14-9-58 đã gửi công hàm cho Tổng lý quốc vụ viện Chu ân Lai công nhận chủ quyền của Trung cộng ở 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để đổi lấy vũ khí dùng xâm lược VNCH. Các Hiệp định bí mật năm 1999 và 2000 cắt đất dâng biển cho Trung Cộng để dựa hơi bảo vệ chế độ bạo tàn và thối nát.

Khi dân chúng và học sinh, Sinh viên biểu tình phản đối Trung cộng chiếm Hoàng Sa và Trường Sa thì công an bạo quyền Vẹm dùng vòi rồng xịt nước, còng 8, chó săn, roi điện và xe xúc đàn áp thẳng tay, vứt họ lên xe chở ra bỏ ngoài cánh đồng. Lãnh thổ, lãnh hải bị xâm chiêm, người dân biểu tình phản đối và đòi lại, lẽ ra phải khuyến khích người dân, VGCS lại cho công an dẹp những tấm lòng yêu nước. Nếu không phải là tay sai của HCM đã bán nước cho Trung cộng thì không ai có thể hiểu nổi vụ việc này.

Tôi chợt nhớ hồi năm 1946, một chị nông dân làng tôi đi chợ mua một quả gấc, vài củ cải trắng và một mớ rau cải bắp già (xanh đậm). Về dọc đường, công an và du kích xã khám thấy 3 thứ này trong cái thúng nhỏ đậy cái vỉ. Thế là chúng lôi chị này vào trụ sở công an đánh thừa sống thiếu chết, bắt phải khai là dùng ba thứ đó như mầu cờ tam tài của Pháp để báo cho máy bay Pháp đến bỏ bom trụ sở xã! Chị bị đánh xẩy thai và khoảng tháng sau thì chết bỏ lại chồng và hai con thơ!

Những vụ án mạng VM giết người hiền lương như thế kể có nhiều trăm ngàn nhưng không ai giải quyết những nỗi oan khuất ấy cho gia đình nạn nhân. HCM phóng tay cho đám thủ hạ giết người vô tội! Anh Bùi Tín nên đưa những vụ việc oan ức thấu trời xanh của người dân này vào trong những đề nghị “xin lỗi” rất sáng giá của anh!

(còn tiếp)

GS Trần Đình Ngọc
(cựu Dân Biểu VNCH)
-------------------------------------
    Lời xin lỗi chân thành, món nợ 35 năm đến hồi phải trả!
Bùi Tín

Ngày 30 tháng 4 lại đến. Tuần trước, tại cuộc họp Đông Nam Á (ASEAN), ông Nguyễn Tấn Dũng nhân danh chủ tịch luân lưu của khối này đã lên tiếng yêu cầu nhóm quân phiệt cầm quyền ở Miến Điện cần thực hiện ngay hòa hợp dân tộc và để cho mọi đảng chính trị tham gia cuộc bầu cử sắp đến.

Ở hải ngoại và trong nước, nhiều bà con ta kháo nhau theo câu nói dân gian: ông Nguyễn Tấn Dũng và nhóm cầm quyền hãy sờ lên gáy mình đã! Nói người hãy nghĩ đến ta.

Vì trong những năm từ 1968 đến 1973, tại cuộc hội đàm Paris, đại diện đảng CS không ngừng nói đến “hòa hợp hòa giải dân tộc“, “hóa giải thù hận”, “Bắc Nam là con dân một nước, sẽ sát cánh dựng xây đất nước”. Dân ta nghe bùi tai, hy vọng.

35 năm nay, lời hứa hòa hợp hòa giải dân tộc ấy vẫn còn là món nợ lưu cữu, món nợ toàn dân, dân ta ở miền Nam cũng như dân ta ở miền Bắc.

Mà đâu chỉ có một món quịt “hòa hợp và hòa giải dân tộc”. Còn món nợ đày đọa người thua trận, bỏ tù hàng chục vạn sỹ quan viên chức cũ không hề xét xử, làm cho biết bao người bị chết oan uổng trong tù, bao nhiêu gia đình tan vỡ, ly tán, dẫn đến 2 triệu dân bỏ nước do bị phân biệt đối xử, bao nhiêu sinh mạng chết trên biển cả, mà vẫn cứ ba hoa lấy được là chính sách sau 30 tháng tư của họ là khoan hồng và nhân đạo!

Món nợ gây chết chóc, đau thương tang tóc cho hàng triệu gia đình, hàng triệu con người như vậy là không sao làm sống lại, hồi phục được. Mọi người yêu cầu nhà cầm quyền cộng sản công khai thành khẩn xin lỗi toàn dân, và từ đó làm một số việc cần thiết phải đạo nhằm xoa dịu những đau thương chồng chất của đồng bào ta, như cùng toàn dân tổ chức một cuộc cầu nguyện, cầu siêu trong toàn quốc để tưởng nhớ chiến sỹ và đồng bào cả nước đả bỏ mình trong thời chiến, không phân biệt thuộc phiá nào; sửa sang mọi nghĩa trang, không phân biệt người chết từng thuộc bên nào; từ nay chủ trương không dung từ “ngụy quân, ngụy quyền”trong các văn kiện, sách giáo khoa; quan tâm đến nạn nhân chiến tranh, thương binh thuộc cả các bên tham chiến…

Lẽ ra những việc này được đưa ra ngay sau khi chiến tranh kết thúc thì đẹp đẽ, xúc động bao nhiêu, nhưng chậm còn hơn không. Cuộc họp Quốc hội sắp tới có ai nêu lên được vấn đề này không ?
Đã đến lúc cần làm rồi. Một lời xin lỗi quá ư là cần rồi, không thể để chậm thêm một tháng, thêm một năm nữa.

Nhật Hoàng đã xin lỗi nhân dân Triều Tiên, Trung Quốc, Đông Nam Á về tội ác chiến tranh của quân Nhật trong Thế chiến II. Giáo Hoàng đã xin lỗi toàn thế giới vì đã cộng tác với tên phát xít Hitler. Tổng thống Nga đã xin lỗi nhân dân Balan về cuộc tàn sát hơn 20 ngàn sỹ quan Ba Lan trong khu rừng Katyn năm 1939 theo lệnh của Stalin.

Xin lỗi là một nếp xử sự văn minh. Đi đường đụng phải người khác đã cần xin lỗi, huống gì là gây chết, đau thương cho hàng triệu triệu con người. Huống gì xin lỗi ở nước ta lúc này là đạo lý, là hàn gắn chia rẽ dân tộc, là kêu gọi, đề xướng thương yêu thật lòng trên tình anh chị em ruột thịt, bỏ qua cho nhau những sai lầm trong quá khứ, để cùng nhau cố kết dân tộc trước đại họa của kẻ bành trướng ngoại xâm. Hòa hợp dân tộc là nước cờ chính trị thông minh, tuyệt vời để nhân lên nội lực dân tộc về sức người, sức của, kiến thức, kinh nghiệm… nhằm xây dựng Tổ quốc phồn vinh cho toàn dân mau chung hưởng.

Tình hình quả đã chín, vì lòng dân đang đòi hỏi cấp bách. Có bao nhiêu là chỉ dấu cho thấy lòng dân trong nước đã động, và động mạnh. Luật sư Cù Huy Hà Vũ lên tiếng yêu cầu toàn dân ghi công hơn 70 binh sỹ hải quân Việt nam Cộng hòa đã hy sinh cuối năm 1974 để bảo vệ đảo Trường Sa trước quân xâm lược Trung quốc, sau khi ông đưa đơn kiện thủ tướng Nguyễn tấn Dũng về sai lầm ra quyết định khai thác quy mô lớn mỏ bôxít khi chưa có ý kiến của quốc hội, theo dụ dỗ của bọn bành trướng, gây thảm họa cho đất nước.

Về quần đảo Hoàng Sa bị đánh chiếm 36 năm trước, không còn người Việt chân chính nào có thể chấp nhận lời giải thích hồi ấy của cơ quan tuyên giáo trung ương Cộng sản: “Các đồng chí yên tâm. Hoàng Sa trong tay Quân Giải Phóng Trung quốc anh em của ta là tin đáng mừng. Còn hơn là nằm trong tay bọn Mỹ - Ngụy, kẻ thù không đội trời chung của chúng ta”. Não trạng của lãnh đạo CS hồi ấy là thế! Lãnh đạo thời nay vẫn như thế. Nhưng nhân dân lúc này đã mở mắt không còn chịu nổi nữa.

Hồi ấy, ở mọi cơ quan chính quyền, từ xã lên huyện tỉnh, lên đến trung ương đều phải treo ảnh Mác, Lênin, Stalin, Mao to đùng, trên cao nhất. Hàng dưới, nhỏ hơn mới là ảnh ông Hồ.

Cán bộ đi Moscow, Bắc Kinh được lãnh đạo, tuyên huấn đảng huênh hoang bảo là được đi “Thủ đô phe ta » đấy! Một thời ấu trĩ, lầm lẫn. Nay lãnh đạo vẫn giữ kiểu não trạng ấy đối với Bắc Kinh, nhưng người dân và cả đảng viên CS ở cơ sở bịt mũi, không ngửi được!

Nhận thức của người dân thường thời mở cửa hội nhập thay đổi nhanh, mạnh, sâu, trước cả lãnh đạo. Đó là cái linh tính bén nhạy tinh tế của quần chúng, không diễn giải được mà sâu đậm vô cùng.

Nhân dịp 30-4 năm nay, nhà thơ - chiến sỹ Nguyễn Thái Sơn đưa ra một trường ca bi hùng « Chiến tranh – Chín khúc tưởng niệm » nói lên số phận bi đát của dân ta, phụ nữ ta, trai tráng ta ở cả 2 miền bị xô đẩy vào cuộc nội chiến đẫm máu dai dẳng. Anh em ruột thịt mà giết nhau hăng say, có khi thích thú « như mở hội », bên kia chết càng nhiều thì bên này được phong anh hùng, khoe trên mặt báo, tới tấp được huân chương. Nhìn lại cả một thời lầm lỡ, ngu dại, bị một học thuyết bất nhân thúc đầy, sùng bái bạo lực, kích động căm thù giai cấp, cổ vũ nội chiến dân tộc.

Nhà thơ viết về cái chết của người lính của cả 2 bên:

không ai từ cõi sinh chìm vào cõi tử
dễ như người lính
nhanh như người lính
nhiều như người lính
đương nhiên
mặc nhiên
tất nhiên
hồn nhiên như lính
từ nòng súng người lính bên kia sang trái tim người lính bên này
đạn bay chỉ mấy phần nghìn giây

Nhà thơ đau xót trước thảm cảnh hai bên đều là người Việt, nói tiếng Việt:

Người Việt thắng trận huy hoàng
bại trận
cũng là người Việt
Người chết dù phía nào Mẹ Việt nam vẫn phải nhận nỗi đau chết chóc!
Năm Nhâm Tý bảy hai
máu binh sỹ Sài Gòn
máu quân Giải phóng
đỏ sông Thạch Hãn
ướt sũng gạch vụn cổ thành

Trường ca Chín Khúc Tưởng Niệm là lời kêu gọi tha thiết hãy nhận ra bi kịch của chiến tranh quân ta giết quân mình, nội bộ anh em chém giết nhau, nội bộ dân tộc hận thù nhau, mãi không hòa giải, vậy để đến bao giờ nữa mới nhìn nhận ra nhau là anh em ruột thịt?

Người lãnh đạo phải nhìn xa trông rộng, có viễn kiến, việc tốt mà khó cũng quyết tâm vượt khó mà làm, thuyết phục người chưa thông suốt. Kẻ không chịu thông suốt chỉ vì vị kỷ lại càng cần thuyết phục.

Cần thấy cái đạo lý gắn bó dân tộc là thiêng liêng, cái lợi ích hòa hợp dân tộc là lợi ích cực kỳ lớn lao bền vững, toàn xã hội được lợi về mọi mặt, là một cuộc thay đổi tận gốc lịch sử, nội lực dân tộc trong ngoài nước bật dậy, sỹ nông công thương binh khoác vai nhau, kinh thượng chan hòa, lương Giáo, Phật, Cao đài, Hòa hảo chung lòng yêu nước làm việc thiện, đẩy lùi điều ác, lòng tham, thói vị kỷ, tệ tham nhũng.

Lãnh đạo hãy lắng nghe và hãy suy nghĩ, bàn luận cho sâu, đắn đo cho chin, cân nhắc cho đến nơi đến chốn. Đừng vội chủ quan, chớ theo nếp bịt tai, bịt mắt, vội chụp mũ là những ý xây dựng trên đây là do động cơ bất mãn, bị kẻ phản động xui dại, bị đế quốc lợi dụng…

Hãy chịu nghe Ts Đỗ Xuân Thọ đề nghị từ bỏ học thuyết Mác Lênin, trong khi mấy hôm nay ông Tô Huy Rứa cầm đầu cơ quan Tuyên giáo của đảng lại tỏ quyết tâm theo và bảo vệ tư tưởng Lênin đến cùng.

Lãnh đạo là có tư tưởng chiến lược, như ông Đặng Quốc Bảo từng chỉ ra, phải có tư duy đột phá, có ý chí đổi thay, xoay chuyển thời cuộc. Hãy chọn mặt gửi vàng, hỏi ý kiến những người cao kiến, vô tư, mà xã hội đang lắng nghe, quý trọng, tạo nên một Diên Hồng mới. Tôi xin đề xuất:

Các ông Hoàng Tụy, Nguyễn Quang A, Nguyễn Trọng Vĩnh, Nguyễn Hữu An, Đồng Sỹ Nguyên, Nguyễn Văn Cương, Đặng Quốc Bảo, Hoàng Minh Thảo, Nguyên Ngọc, Đỗ Xuân Thọ, Cù Huy Hà Vũ, Phạm Đình Trọng, Nguyễn Đông Hải, Nguyễn Thành Sơn, Nguyễn Thái Sơn, Trần Lâm, Trần Đình Triển, Phạm Viết Đào, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Toàn, Hồ Ngọc Đại, Nguyễn Trung, Hà Văn Thịnh.

Xin đề xuất chỉ nên trao đổi trước hết 2 vấn đề then chốt:

1. Có nên thực hiện Hòa giải và Hòa hợp dân tộc một cách trọn vẹn không ? Sẽ có lợi những gì? Lãnh đạo, nhà nước nên làm những việc gì? Cộng đồng trong và ngoài nước nên làm những việc gì? Cứ để như hiện nay có nên không?

2. Có nên thực hiện đa nguyên đa đảng không ? cứ duy trì độc đảng như hiện nay là tốt? Nên chuyển từ độc đảng lên đa đảng sao cho ổn định, có trật tự, trong luật pháp, không rơi vào hỗn loạn hay nội chiến. Nên lập đảng mới ra sao? Vị thế của đảng CS? Kinh nghiệm của các nước đã chuyển từ một đảng lên nhiều đảng, ta nên học những điều gì?

Mở đầu mọi sự là yêu cầu lãnh đạo hãy cố gắng, thay mặt cho các lớp lãnh đạo cũ tỏ một lời xin lỗi chân thành đến nhân cả nước, đặc biệt là đồng bào miền Nam, các thành viên của chính quyền, đảng phái và quân đội Việt Nam Cộng hòa về sự đối xử quá đáng 35 năm trước.

Bùi Tín


Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương - GS Robert F. Turner


    Trung tâm An ninh Luật pháp Quốc gia, Đại học Luật khoa Virginia
GS Robert F. Turner
Source: vietbao.com

(Lời Việt Báo. Cuộc Hội Luận Kỷ Niệm 35 Năm Lưu Vong đã thực hiện hôm Thứ Tư 28-4-2010 tại Westminster, Calif. Sau đây là bài thuyết trình của Robert F. Turner đã được dịch ra Việt ngữ. Ông quan tâm về VN từ khi còn học bậc cử nhân ở đaị học Indiana University, nơi ông viết luận án dày 450 trang về cuộc chiến và được điểm danh dự, và thường xuyên tranh luận với phe phản chiến khắp hoa Kỳ. Ông vào Bộ Binh năm 1968 và tình nguyện sang VN. Từ 1968 tới 1975, ông thăm Đông Dương 5 lần, đi thăm nhiều nơi ở Nam VN, Lào và Cam Bốt. Ông viết nhiều sách về VN.)

Xin kính chào quý vị.

Tôi xin được ngợi ca ban tổ chức buổi hội thảo quan trọng này và những người đã bỏ thời giờ đến tham dự một sinh hoạt tôi cho là rất quan trọng để suy nghiệm về một phần bi thảm mà cũng hệ trọng của lịch sử Hoa Kỳ.

Cách đây đúng 35 năm cũng vào ngày này, tôi rời Việt Nam lần cuối trong đợt di tản sau cùng tại Sàigon. Tôi khởi sự học hỏi về Chiến tranh Việt Nam năm 1965 khi là sinh viên đại học. Tôi là một sinh viên trong số tương đối ít ỏi đã thực tin rằng việc bảo vệ người dân Đông Dương chống Cộng sản xâm lược là việc đúng, và trong ba năm kế tiếp, tôi tham gia hàng trăm cuộc "hội thảo ngoài trời" của các đại học, hay đấu lý hoặc nhiều chương trình tranh luận.

Tôi lần đầu đến Việt Nam trong một giai đoạn ngắn khi là phóng viên năm 1968, rồi trở lại đó hai lần khi là sĩ quan Bộ binh được biệt phái vào một bộ phận của toà Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, là Văn phòng Nghiên cứu về Bắc Việt và Việt Cộng. Sau đấy, tôi còn qua Việt Nam nhiều lần khi làm cố vấn về an ninh quốc gia cho Ủy ban Ngoại giao Thượng viện Hoa Kỳ. Là một thành viên của "Viện Hoover về Chiến tranh, Cách mạng và Hoà bình" thuộc Đại học Stanford ở California, hơn 35 năm trước, tôi đã viết cuốn sử quan trọng đầu tiên bằng tiếng Mỹ về "Cộng sản Việt Nam". Trong hơn hai chục năm, tôi đã có nhiều khóa giảng dạy tại viện Đại học Virginia về Chiến tranh Việt Nam.

Vì thời giờ có hạn, tôi phải nói ngắn, nhưng trước khi đề cập tới chủ điểm của bài thuyết trình, tôi xin có thêm một lời cảnh báo. Rằng đa số lập luận ngày nay cứ coi là sự "sáng suốt phổ biến" về Chiến tranh Việt Nam thật ra lại không đúng. Rất đáng tiếc rằng điều ấy có nghĩa là đa số những gì được giảng dạy tại cấp trung và đại học lại gần với thần thoại hơn là lịch sử.

Tôi chỉ xin đơn cử hai thí dụ:

1. - Ngày nay, chúng ta được nghe rằng cuộc chiến Việt Nam là "bất khả thắng". Tôi xin được góp tiếng bên cạnh nhiều sử gia thuộc loại xuất sắc nhất ngày nay khi nêu lập luận ngược rằng chúng ta không chỉ hy vọng thắng mà thực tế đã thắng vào đầu thập niên 1970. (Và khi nói "chúng ta", tôi không nghĩ rằng đấy là quân lực Hoa Kỳ mà là nỗ lực chung của hai quân đội miền Nam Việt Nam và Hoa Kỳ, cùng với người dân miền Nam). Đáng buồn là dưới áp lực của cái gọi là "phong trào hòa bình", Tháng Năm năm 1973, Quốc hội Hoa Kỳ đã biểu quyết một đạo luật cấm Tổng thống chi tiền bảo vệ nạn nhân của Cộng sản xâm lược tại Đông Dương. Làm như vậy, Quốc hội đã chuyển thắng thành bại. Quốc hội cũng ngăn cản nỗ lực tự vệ của Quân lực và người dân miền Nam khi cắt viện trợ tài chánh, xăng dầu, cơ phận và đạn dược cần thiết cho họ có thể chống đạo quân xâm lược theo lối chiến tranh quy ước đi sau các chiến xa chế tạo tại Liên Xô. Khi Quốc hội phản bội lời cam kết lịch sử của Hoa Kỳ là bảo vệ các nước không Cộng sản tại Đông Dương thì Liên bang Xô viết và Trung Quốc gia tăng viện trợ cho Hà Nội.

2.- Huyền thoại thứ hai mà tôi muốn nói sơ qua là Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến "phi lý" tiến hành không lý do chính đáng. Nhiều người Mỹ thành thật tin rằng chúng ta lâm chiến tại Đông Dương do hiểu lầm về vụ đụng độ ở Vịnh Bắc Bộ vào đầu tháng Tám năm 1964. Thật ra, như tôi có trình bày trong luận án đạt giải danh dự năm 1966 và trong cuốn sách "Cộng sản Việt Nam" xuất bản năm 1975, đảng Lao động của Cộng sản Việt Nam đã quyết định từ Tháng Năm năm 1959 là mở ra đường mòn Hồ Chí Minh và gửi vào Nam nhiều ngàn lính và vô số chiến cụ với mục đích lật đổ chính phủ trong Nam. Sau khi chiến tranh kết thúc, Hà Nội đã nhiều lần xác nhận sự thực đó.

Nói cho đơn giản thì Hoa Kỳ tham chiến để giúp người dân miền Nam tự vệ vì cùng một lý do như việc chúng ta tham chiến tại Cao Ly năm 1950: nhằm bảo vệ tự do của con người và thực thi việc chống xâm lược đã được ghi trong Hiến chương Liên hiệp quốc. Chuyện ấy cũng hoàn toàn phù hợp với những lý do khiến chúng ta chiến đấu trong hai cuộc Thế chiến. Tôi không có thời giờ khai triển luận điểm pháp lý này nhưng cho rằng việc ngăn chặn cộng sản tại Đông Dương cũng quan trọng như việc chống xâm lược trong các cuộc chiến khác, và nếu chúng ta không thể đương cự vào năm 1964 thì Hoa Kỳ đã thua cuộc Chiến Tranh Lạnh.

HẬU QUẢ CỦA VIỆC BỎ RƠI ĐÔNG DƯƠNG

Bây giờ, xin trở lại đề tài tôi được giao phó: là hậu quả của việc Hoa Kỳ bỏ rơi Đông Dương cho quân Cộng sản.

Tôi làm việc trong chính phủ vào mấy năm cuối của Chiến tranh Việt Nam tới hầu hết thập niên 80. Tôi phục vụ trong Thượng viện, Ngũ giác đài, bộ Ngoại giao và tòa Bạch Cung. Sau đó trong nhiều năm tôi giảng dạy về "Chánh sách Ngoại giao Hoa Kỳ" tại Phân khoa Chính quyền và Ngoại giao của viện Đại học Virginia. Tôi có thể nói trong nhiều tiếng đồng hồ nữa về hậu quả địa dư chiến lược của việc Hoa Kỳ xoá bỏ lời cam kết bảo vệ miền Nam và các lân bang của Việt Nam. Liên bang Xô viết đã thấy ra là Hoa Kỳ có những mâu thuẫn tệ hại trong nội bộ và mất ý chí bảo vệ các đồng minh. Vì vậy, Liên Xô đã hành động:

1. - Họ bắt đầu bốc "chí nguyện quân" từ Cuba thả qua Angola để giúp phe cộng sản tại đây có thể cướp chính quyền trước các kỳ hạn bầu cử của xứ Angola. Vị Nghị sĩ của Tiểu bang của tôi đã tích cực ngăn cản các đồng viện không biểu quyết một tu chính án cắt hết ngân khoản cho mọi hoạt động của cơ quan CIA có mục tiêu yểm trợ các phe không cộng sản tại Angola. Những người chống lại quan điểm ấy - hầu hết là trong đảng đa số đã vừa trao Nam Việt Nam, Lào và Căm Bốt cho Sộng sản - thì trấn an đồng viện của họ rằng, nếu như có người Cuba tại Angola, thì sau khi ta rút quân, nhân dân Phi Châu sẽ mau chóng quăng họ ra ngoài. Trong thập niên sau đó, số cán bộ Cuba tại Phi châu da đen đã tăng tới khoảng bốn năm chục ngàn. Và nạn nhân bị tử vong ở đấy được ước lượng là không dưới trăm ngàn người.

2. - Tin rằng Hoa Kỳ sẽ chẳng làm gì hết, năm 1979, Liên Xô xâm chiếm Afghanistan khiến cả triệu người chết và gây ra lực lượng Taliban ở tại đây.

3.- Và lần đầu tiên trong sáu chục năm, Moscow bảo với tay sai của họ ở Mỹ châu La tinh rằng tiến hành "đấu tranh võ trang" để cướp chính quyền thì cũng được, từ đấy mới xảy ra nội chiến tại El Salvador, Nicaragua, Honduras, Guatemala, Costa Rica và các nước khác trong vùng. Vô số người lại thiệt mạng vì chuyện đó.

Nhưng hôm nay tôi không muốn tập trung về các vấn đề dù rất quan trọng là địa dư chiến lược. Tôi muốn nói về hậu quả của quyết định của Hoa Kỳ đối với con người.

"Phong trào hòa bình" - của phe phản chiến - trấn an chúng ta rằng Hoa Kỳ chỉ cần rút quân và chấm dứt chiến tranh thì mình sẽ phát huy "nhân quyền" và "ngăn nạn tàn sát". Tôi rất ngại nói về những gì xảy ra tại Việt Nam sau khi Hoa Kỳ triệt thoái, vì trong hội trường này và tại khu "Little Sàigon" có nhiều người đã trực tiếp nếm mùi và biết rõ hơn những gì mà mọi "học giả" Mỹ có thể muốn biết. Nhưng có một số sự thật thì đã rõ ràng.

Hãy trước tiên nói về nhân quyền. Tháng Tư năm 1975, khi sự chiến thắng của Cộng sản đã thành hiển nhiên cho mọi người, Đệ nhất Bí thư đảng Lao Động là Lê Duẩn đã tuyên bố rằng, sau khi "giải phóng" Miền Nam, "chúng ta sẽ biến nhà tù thành trường học". Tới Tháng 10 năm 1978, nhật báo Times đầy uy tín tại Luân Đôn đã báo cáo sự thật: Cộng sản Việt Nam đã biến nhà trường và cô nhi viện thành nhà tù vì họ có quá nhiều tù nhân.

Điều 11 của Hiệp định Paris ký kết năm 1973 cấm "mọi hành vi trả thù hay kỳ thị các cá nhân hay tổ chức đã hợp tác với một phe bên này hay bên kia," và còn rõ ràng bảo đảm quyền tự do báo chí, tôn giáo, tự do sinh hoạt chính trị và một loạt những quyền thiêng liêng khác. Vậy mà Tháng Năm năm 1977, tờ Quân đội Nhân dân công khai thông báo: "triệt để cấm mọi hành vi chống lại chế độ và tước hết mọi quyền tự do của những kẻ không tin vào xã hội chủ nghĩa." Bài báo tuyên bố: "Với bọn phản cách mạng ... nhân dân ta dứt khoát xoá bỏ quyền tự do ngôn luận và trừng phạt đích đáng."

Sau đó, một dân biểu duy nhất của Quốc hội Việt Nam Cộng Hoà được phép tham gia cái gọi là Quốc hội Thống nhất" đã tuyên bố: "Chế độ mới cai trị bằng bạo lực và khủng bố... Không có tự do di chuyển hay lập hội; không có tự do báo chí, hay tự do tôn giáo, hay... cả quyền tự do có ý kiến riêng ... Sự sợ hãi tràn ngập khắp nơi."

QUYỀN TỰ DO BÁO CHÍ

Tháng Chín năm 1970, Trưởng phòng Sàigon của tờ Christian Science Monitor là Daniel Sutherland - ông bạn của tôi vào thời ấy - có viết một bài dài về "quyền tự do báo chí" trong Nam. Ông viết: "Dưới bộ luật báo chí mới, Miền Nam bây giờ có một nền báo chí thuộc loại tự do nhất Đông Nam Á ...". Tôi tin chắc rằng mình không là người duy nhất trong hội trường này có thể xác nhận điều ấy. Riêng Sàigòn thì đã có hơn ba chục tờ báo, và nhiều tờ trong số đó kịch liệt chống chính phủ.

Dĩ nhiên là để thu thập dữ kiện về quyền tự do ấy, tôi thường cầm máy ảnh lang thang trong Sàigòn vào những chiều Chủ Nhật được nghỉ. Tôi thấy bày bán công khai những quyển sách như "Chiến tranh Nhân dân và Quân đội Nhân dân" của Tướng Võ Nguyên Giáp là cuốn chỉ nam về nổi dậy của Việt Cộng, vài cuốn của lãnh tụ cộng sản Cuba là Ché Guevarra, và cả các cuốn sách về hay của Mao Trạch Đông.

Sau ngày gọi là "giải phóng", người Cộng sản chiếm đóng đã "tạm thời" đình chỉ xuất bản mọi tờ báo hay tạp chí độc lập. Chưa đầy một tháng sau, mọi tiệm sách báo đều bị đóng cửa và việc mua bán hay tàng trữ các văn hoá phẩm xuất hiện "dưới chế độ cũ" đều bị cấm.

TÙ CHÍNH TRỊ

Một trong các vấn đề nặng nề nhất là những người chống Việt Nam thường nêu ra, là cái gọi là "chế độ phát xít" tại miền Nam đã giam giữ hơn 200 ngàn "tù chính trị". Khi trở lại Đông Dương vào Tháng Năm 1974 - cũng là dịp thăm viếng Cam Bốt và Lào, tôi chú trọng đến việc điều tra những lời cáo giác trên.

Tôi ghé thăm Linh mục Chân Tín, nổi danh lãnh tụ của "lực lượng thứ ba" nhưng có lẽ là một cán bộ của Hà Nội. Tôi hỏi ông ta là tìm đâu ra con số "202 ngàn tù nhân chính trị?" Ông ta bảo rằng mình đã hỏi các tù nhân cũ và gia đình thân nhân của họ là họ nghĩ xem có bao nhiêu tù nhân. (Tôi nghi là họ đã cộng lại tổng số của các câu trả lời). Sự thật thì thời đó chỉ có khoảng 35 ngàn tù nhân trong tất cả các nhà tù của Miền Nam.

Tôi cũng gặp một lãnh tụ khác của "lực lượng thứ ba" là bà Ngô Bá Thành, người nói với tôi rằng định nghĩa của bà về "tù nhân chính trị" có thể gồm cả người như Sirhan Sirhan, là tay cán bộ người Palestine đã ám sát Nghị sĩ Robert Kennedy vào tháng Sáu năm 1968. Mục đích của hắn, bà Ngô Bá Thành giải thích, là "chính trị" khi hắn ám sát một ứng cử viên Tổng thống rất nổi tiếng của Hoa Kỳ.

Rồi còn vụ "chuồng cọp" đầy tai tiếng tại Côn Sơn, được họ mô tả như sau:

- "... xà lim chôn dưới mặt đất, với các dóng sắt đóng trên trần thay vì ở dưới. Mà trần xây thấp đến nỗi tù nhân không thể đứng được ..."

- "... những hố nhỏ được đào dưới đất và che bằng chấn song sắt."
- "[Mấy hầm đó] quá hẹp cho những người Việt Nam dù thấp bé cũng không thể nằm duỗi thẳng và trần quá thấp nên tù nhân khó có thể đứng thẳng người."

Thật ra, tôi có đến đảo Côn Sơn và thăm những "chuồng cọp" này. Tôi nghĩ rằng chúng ta cùng đồng ý là tôi hơn cao hơn đa số người Việt Nam. Vậy mà tôi chưa thể với tới các chấn song trên trần - vốn cao tới ba thước (khoảng 10 bộ) kể từ mặt đất lên.

Ngay cả lực sĩ Nghiêu Minh (Yao Minh) người Tầu - tay trung phong của đội bóng rổ Rocket's ở Houston bên Texas - cũng chỉ cao tới bảy bộ và sáu phân - hơn hai thước hai - nên anh ta cũng chẳng gặp khó khăn gì để duỗi dài trong căn xà lim một bề thước rưỡi một bề ba thước của cái gọi là "chuồng cọp".

Ít nhất, một số cán bộ chống Việt Nam đã từng cáo giác chuyện "chuồng cọp" biết là họ nói láo. Trước khi qua Việt Nam năm 1974, tôi nói với một người trong số này rằng tôi dự tính sẽ tới nhà tù Côn Sơn để tự mình xem tận mắt, và anh ta có vẻ khó chịu - có lẽ biết rằng tôi sẽ thấy sự thật. Anh ta nói rằng vấn đề thật bây giờ chính là tại nhà tù Chí Hoà ở Sàigon.

Vì vậy, sau khi thăm Côn Sơn, tôi xin phép vào xem nhà tù Chí Hoà và chưa đầy 48 tiếng sau đã được tới đó trong mấy tiếng đồng hồ. Đây không là nơi mà mình thích sống, nhưng cũng chẳng tệ hơn đa số các nhà tù và bên trong tôi không thấy dấu vết gì của những sự lạm dụng phổ biến. Tôi nói riêng với vài người Mỹ đã từng ở trong này và họ nói rằng dù có nghe nhiều lời tố cáo nhưng tất cả đều cho biết là họ không hề nghe thấy "tiếng gào thét trong đêm vắng" hoặc được báo cáo về nạn tra tấn hay hành hạ tù nhân.

NGĂN CHẶN TÀN SÁT

Bi thảm nhất của những người chống Việt Nam là lý luận của họ, rằng cắt viện trợ cho Miền Nam là Hoa Kỳ sẽ "ngăn được nạn tàn sát". Họ sai lầm tới chừng nào.

Ông bạn Giáo sư R.J. Rummel của tôi (một người từng được tuyển liên tiếp cho giải Nobel Hoà Bình) ước lượng là tổng số người bị giết sau khi miền Nam được "giải phóng" lên tới 643 ngàn.

- Khoảng 100 ngàn bị xử tử qua quít ngay sau khi Cộng sản nắm quyền. Qua quít vì cũng chẳng có một hình thức tạm bợ về "tiến trình hợp pháp" hay một toà án.

- Giáo sư Rummel cho là 400 ngàn là "thuyền nhân" bị chết ngoài biển cả khi muốn thoát khỏi chế độ độc tài và đàn áp đã trùm lên quê hương. Cao ủy Tỵ nạn của Liên hiệp quốc thì cho là một phần ba những người vượt biên bằng thuyền đã chết ngoài biển - một số là vì tầu quá đông người bị chìm, hoặc chết vì đói, vì khát, nhiều người tử nạn sau thì bị hải tặc cướp bóc và cưỡng hiếp. Cao ủy cũng tường trình rằng có khoảng 840 ngàn người tới được Hong Kong hay các nước không Cộng sản ở Đông Nam Á. Nếu áp dụng tỷ số "chết một phần ba" cho con số này thì ta đoán là có một triệu 300 ngàn người vượt biên bằng thuyền và khoảng 420 ngàn người đã chết trên đường tìm tự do. Con số không xa với ước lượng của Giáo sư Rummel.

- Giáo sư Lewia Sorley, tác giả cuốn sách có giá trị của một dấu mốc là "A Better War" - một Cuộc Chiến Khá Hơn - mà tôi ân cần giới thiệu đến quý vị, cho rằng có chừng 250 ngàn sĩ quan và binh lính của miền Nam cũ đã chết trong các "Trại Cải Tạo" do chế độ Cộng sản lập ra.

- Khoảng một triệu rưởi người dân miền Nam bị đẩy vào các khu "Kinh Tế Mới" để sống trong những điều kiện nghiệt ngã và chừng 48 ngàn đã chết tại đấy. Tôi biết rằng rất đông người trong cộng đồng này có thể kể lại những kinh nghiệm thật về "Trại Cải Tạo" và khu "Kinh Tế Mới" và khuyên các sinh viên ở đây nên tìm ra họ, ghi nhận câu chuyện của họ để làm chứng liệu cho lịch sử.

CĂM BỐT

Và còn chuyện xứ Căm Bốt nữa. Khi Tổng thống Nixon gửi quân đội Hoa Kỳ sang Cam Bốt vào năm 1970 để yểm trợ các đơn vị Việt Nam Cộng Hoà, khuôn viên các Đại học Mỹ bị đóng vì những cuộc phản đối đầy bạo động chống lại vụ xâm lược "phi pháp". Thật ra, về pháp lý thì y như Việt Nam, Căm Bốt là "quốc gia thành viên của Nghị định thư" - Protocole States - đã được cam kết bảo vệ chống Cộng sản xâm lăng trong khuôn khổ Hiệp ước SEATO năm 1954. Mười năm sau, và với tỷ lệ đầu phiếu là 99,6%, khi Quốc hội Hoa Kỳ cho phép Tổng thống Johnson tham chiến tại Đông Dương, quy chế ấy hoàn toàn có thể áp dụng cho Căm Bốt như cho Việt Nam và Lào. Nghị quyết ấy của Quốc hội chỉ cần dẫn chiếu "Protocole States" của Hiệp ước SEATO (South East Asia Treaty Organization) .

Tôi thăm viếng Căm Bốt nhiều lần trong năm 1974 và trong nhiều năm đã viết về Khờme Đỏ. Thời ấy, việc họ là những kẻ sắt máu có dự tính tàn sát không tưởng tượng nổi với đồng bào Khờme của họ thật ra chẳng còn là bí mật. Và dĩ nhiên, khi tôi trở lại Việt Nam vào Tháng Tư năm 1975, một trong những mục tiêu chính của tôi là để cố gắng cứu lấy đám trẻ cô nhi tại Căm Bốt. Tôi đến quá trễ và có lẽ những đứa trẻ tôi hy vọng cứu được chắc là đã chết.

Không hề có một cuộc khảo sát dân số tại Căm Bốt và chẳng ai biết thực sự có bao nhiêu người đã sống tại nơi ấy. Con số ước đoán về nạn nhân có những dị biệt lớn, với một số chuyên gia thì cho là có hơn hai triệu. Tài liệu khảo cứu khá nhất mà tôi được đọc là của Đại học Yale, nơi mà Chương trình của Yale về nạn Diệt chủng Căm Bốt ước tính là Pol Pot và bọn đao phủ của hắn đã thảm sát một triệu bảy trăm ngàn người - hơn 20% dân số toàn quốc.

Một bài báo về "các vùng thảm sát" của Căm Bốt trên tạp chí National Geographic Today trong số tháng Giêng năm 2004 cho chúng ta những chi tiết này: "Nhân viên hướng dẫn giải thích rằng đạn quá quý để dùng cho việc tàn sát. Rìu, dao và gậy tre thì đắc dụng hơn. Còn về trẻ em thì bọn đồ tể chỉ đơn giản giọng chúng vào thân cây."

Ông Douglas Pike đã quá vãng, người mà tôi hoán đổi công vụ nhiều lần trong Sứ quán Hoa Kỳ, có viết như sau về hậu quả nhân sinh của việc Hoa Kỳ bội ước sự cam kết của mình là sẽ bảo vệ người dân của các nước không cộng sản ở Đông Dương: "Dù có ước lượng dè dặt nhất, có nhiều thường dân Đông Dương bị bạo sát sau Chiến tranh Việt Nam hơn là tổng số nạn nhân trong thời chiến, ít ra là hơn hai triệu ... Nỗi khổ đau lên tới mức chưa từng thấy, còn thê thảm hơn những ngày chinh chiến".

Thật bi đát vì tôi nghĩ rằng ông Pike có lý. Và tôi lại càng tin rằng cộng đồng tại đây, đôi khi ngay trong hội trường, có những người có thể cung cấp những dữ kiện trực kiến về thảm kịch nếu như ta muốn tìm đến họ và ghi nhận lời chứng của họ. Việc này thì chẳng ai có tâm trí bình thường lại thích làm, nhưng là điều mà những ai muốn truy lùng sự thật tới cùng vẫn có nhiệm vụ thực hiện. Chúng ta phải kể lại chuyện này - một cách chính xác và cẩn trọng - để người khác sẽ biết rất lâu về sau, khi các nhân chứng cuối cùng không còn tại thế nữa. Chúng ta phải kể lại, nếu không chuyện đó sẽ lại tái diễn.

Những ai thấy bàng hoàng về những chuyện đã xảy ra khi Cộng sản khống chế người dân Miền Nam và của Căm Bốt hay Lào thật ra không hiểu gì về lịch sử hiện đại. Nếu quý vị muốn biết rõ hơn về thảm kịch, tôi xin đề nghị tập sách do nhà Harvard University Press xuất bản có tên là "The Black Book of Communism" - "Cuốn Hắc thư về Chủ nghĩa Cộng sản". Do một nhóm trí thức Âu châu thuộc khuynh hướng trung tả biên soạn, cuốn sách kết luận là trong thế kỷ 20, chủ nghĩa cộng sản quốc tế đã gây ra cái chết cho từ 80 đến 100 triệu sinh linh.

Những ai muốn biết sâu xa hơn về Chiến tranh Việt Nam có thể còn bị lầm lạc lớn nếu không chịu khó tìm đọc các cuốn sách do chư vị diễn giả nơi đây hoặc bằng hữu của chúng tôi đã biên soạn.

Đây là một vinh dự cho tôi khi được thuyết trình trước một cử toạ quan trọng như hôm nay và trong cơ hội long trọng này. Với những người giận dữ về sự bội phản của nước tôi 35 năm về trước, xin cho tôi được nói rằng sự giận dữ này cũng là sự giận dữ của bản thân tôi. Tôi yêu quý Hoa Kỳ và tin rằng đây là một xứ tuyệt vời nhất trên địa cầu. Nhưng khi đa số của Quốc hội phản bội nạn nhân của Cộng sản xâm lược, họ cũng phản bội 58 ngàn 200 lính Bộ binh, Hải quân và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đã dâng hiến mạng sống trong sự hy sinh cao quý nhất cho chính nghĩa này. Họ cũng phản bội sự hy sinh của hai triệu bảy trăm ngàn người Mỹ đã từng phục vụ tại Việt Nam từ năm 1959 cho đến 1975.

Chúng ta không cải sửa được điều ác đã xảy ra. Nhưng chúng ta có thể nghiên cứu nó và có thể hành động để người Mỹ chúng ta lánh xa truyện thần thoại sai lạc mà hiểu rõ thảm kịch lớn lao của sự bội tín. Tôi thiết tha kêu gọi giới trẻ trong cử toạ nơi đây là hãy tự nguyện giành một chút cố gắng để học hỏi trang sử này và chia sẻ với người khác. Quan trọng nhất, hãy chú ý đến các cựu chiến binh và những người sống sót trong cộng đồng, hãy ghi lại lời kể của họ khi mình còn cơ hội. Nếu mình làm được như vậy thì may ra những hy sinh lớn lao của thảm kịch bi đát này sẽ không bị uổng phí.

Xin cảm tạ quý vị và cầu cho Thượng Đế sẽ phù hộ chúng ta.

GS Robert F. Turner


Wednesday, May 5, 2010

Nữ Trung Tá Lục Quân Hoa Kỳ - Phạm Tín An Ninh



Phạm Tín An Ninh

Người Việt hải ngoại, có lẽ ít ai được biết: Người phụ nữ Mỹ gốc Việt mang cấp bậc Trung Tá đầu tiên của Quân Lực Hoa Kỳ, là phu nhân của một cựu Thiếu Tá Hải Quân VNCH, di tản sang Mỹ cùng chồng và ba đứa con vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam: Trung Tá Lục Quân Lang Phan Phạm (đã nhận thông báo sẽ thăng cấp Đại Tá, trước khi xin về hưu).

Phạm Phan Lang sinh ra và cả một thời tuổi thơ sống cùng gia đình ở Nha Trang, theo học tại trường Nữ Trung Học và Võ Tánh. Nha Trang là thành phố biển thơ mộng, nơi có hai quân trường nổi tiếng: Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân và Hải Quân, với những chàng trai hào hoa theo nghiệp kiếm cung, chọn cuộc đời bay bổng và hải hành. Những chàng trai này đã một thời khốn khổ trái tim bởi bao nhiêu người đẹp của Nha Trang. Thời ấy, dường như những cặp tình nhân SVSQ Hải Quân và Nữ Sinh Trung Học Nha Trang là những đôi tình nhân làm đẹp phố phường nhất. Trong số đó có đôi uyên ương Phạm văn Diên và Phan Thị Lang. Ngày ấy Lang là một cô bé khá xinh, tính tình hiền dịu dễ thương, nên mới học Đệ lục là đã làm mê mệt chàng SVSQ họ Phạm. Cuộc tình kéo dài mãi đến khi Lang đậu xong tú tài 2 (năm1969) hai người mới làm đám cưới.
Anh Phạm văn Diên tốt nghiệp khóa 14 HQ (Đệ Nhị Kim Ngưu), trước ngày 30/4/75 mang cấp bậc Thiếu Tá và chỉ huy một chiến hạm PGM615 (loại nhỏ).

Vào nửa đêm 29.4.75, Thiếu Tá Diên đưa chiến hạm rời khỏi Việt Nam, mang theo vợ, 3 đứa con nhỏ, 1, 3 và 5 tuổi, cùng cha mẹ già trên tuổi 70 và cậu em vợ, đang theo học đại học Luật Khoa Sài Gòn. Ngoài gia đình, trên tàu còn có thủy thủ đoàn và khoảng hơn 150 người tỵ nạn khác. Chiến hạm của Thiếu Tá Diên vừa tham dự các cuộc hành quân tàn khốc cuối cùng tại Huế, Quảng Trị, Vùng I, chưa kịp sửa chữa, bảo trì, nên lúc ra khơi bị hư hỏng và nước tràn vào, nhưng may mắn đã được cứu bởi một tàu HQ khác mà Thiếu Tá Diên đã liên lạc được. Cũng trên chuyến đi này, gia đình bị mất hết tư trang, vàng bạc mang theo, nên lúc lên bờ chỉ còn hai bàn tay trắng.

Cũng như nhiều gia đình khác, thời gian đầu đến Mỹ rất vất vả, vợ chồng Thiếu Tá Diên phải làm đủ nghề để sống: thợ mộc,thợ hồ, rửa bát đĩa cho nhà hàng, tiệm ăn, dạy Anh ngữ cho trẻ em Việt Nam ở một trường Tiểu Học, nhổ cỏ trong những cánh đồng cà, hái trái cây, trông nom một trại gà với hơn 60.000 con. Với tính kiên nhẫn và nghị lực, cả hai vợ chồng và cậu em vừa làm vừa theo học chương trình đại học tại University of Maryland, Eastern Shore.

Đường Vào Binh Nghiệp

Năm 1980, chị Phạm Phan Lang đậu được cùng lúc hai bằng Cử nhân, trong đó có bằng Nutrition and Dietetics (Dinh Dưỡng Học). Muốn làm việc trong ngành này, cần phải qua một khóa Thực Tập Dinh Dưỡng (Dietetic Internship). Chị Phạm Phan Lang đã nộp đơn xin thực tập ở một số trường đại học, trong đó có cả Chương Trình Thực Tập Dinh Dưỡng của Lục Quân Hoa Kỳ (US Army Dietetic Internship).

Lúc bấy giờ, chương trình Thực Tập Dinh Dưỡng của Army đòi hỏi khá nhiều điều kiện khó khăn: điểm trung bình tối thiểu là 3.5, phải là công dân Hoa Kỳ, phải dưới 30 tuổi, phải có ít nhất là 3 lá thư giới thiệu, cùng một số điều kiện khác. Trong số những điều kiện này, ít nhất có hai điều chị Phạm Phan Lang không có, đó là quốc tịch Hoa Kỳ và đã trên tuổi 30. Tuy nhiên, do trường hợp khá đặc biệt và có lẽ do thán phục nghị lực và khả năng của một người đàn bà tỵ nạn, cuối cùng chị đã được chấp nhận vào chương trình này. Đây là một trường hợp ngoại lệ đặc biệt mà theo chị, mãi đến sau này, vị Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng của Army Dietetic Internship đã cho chị biết.

Mặc dù lúc ấy, chị Phạm Phan Lang cũng được nhận vào thực tập ở một số trường đại học khác, nhưng chị đã chọn Chương Trình Army này. Chị cho biết, chị chọn Army không phải vì chị yêu đời lính, hay “muốn đi lính”, mà chỉ vì những lý do rất đơn giản: chương trình thực tập rất tốt, nổi tiếng, dễ dàng tìm việc làm sau khi rời quân đội, cả gia đình được hưởng quyền lợi, và nhất là chỉ phải “đội mũ lính và mang lon” có 3 năm. Sau đó, nếu muốn, có thể xin giải ngũ. Đã có hơn một trăm đơn xin vào chương trình này, nhưng cuối cùng chị nằm trong số 10 người được chọn. Chị khiêm nhường cho là may mắn, nhưng tất nhiên điều quyết định vẫn là do khả năng, kết quả bao năm kiên nhẫn học hành của chị.

Chị Phạm Phan Lang bắt đầu binh nghiệp bằng cấp bậc Thiếu Úy. Hai tháng đầu tiên được thực tập quân sự tại quân trường Fort Sam Houston (FSH), San Antonio, Texas. Vì là ngành Quân Y, nên những thực tập quân sự rất nhẹ so với những binh chủng khác. Tuy nhiên, chị cũng phải tập bắn các loại súng, trèo đồi, lội suối, tập trận, hành quân, đọc bản đồ, sử dụng địa bàn một mình giữa rừng sâu.

Sau một năm thực tập Dinh Dưỡng tại Brooks Army Medical Center (BAMC), FSH, San Antonio, TX, chị tốt ngiệp, được thăng cấp Trung Úy và nhận nhiệm sở đầu tiên tại Moncrief Army Medical Activity, Fort Jackson, Columbia, SC. Và cũng tại đây một biến cố lớn đã xảy ra mang đến điều bất hạnh lớn lao nhất cho cuộc đời của chị sau này.

Columbia là thủ phủ của Tiểu Bang South Carolina, có khoảng 300-400 người Việt định cư lúc bấy giờ. Thời ấy người Việt sống rải rác trong thành phố Columbia và các thành phố phụ cận như Greenville, Charleston, Myrtle Beach, Charlotte, Atlanta. Mọi người đều cố gắng làm việc để hội nhập và thích nghi với đời sống mới, nên chẳng ai quen biết, tiếp xúc nhiều với ai. Vợ chồng anh chị Phạm văn Diên & Phạm Phan Lang đã cùng một số thân hữu tích cực vận động thành lập Hội Ái Hữu Người Việt đầu tiên ở Columbia, mở trường dạy Việt Ngữ, tổ chức những ngày lễ hội truyền thống như Giỗ Tổ Hùng Vương, Tết Trung Thu, Tết Nguyên Đán v.v.., gây quỹ cứu trợ thuyền nhân, tranh đấu cho nhân quyền, tự do ở Việt Nam. Cựu Thiếu Tá Diên hoạt động rất hăng say (chị Phạm Phan Lang chỉ hỗ trợ tích cực sau lưng, vì Quân Đội Hoa Kỳ không cho phép quân nhân tham gia vào bất cứ hoạt động chính trị nào). Phu quân của chị, anh Diên, đi khắp các thành phố lân cận, giao kết bằng hữu, giúp thành lập các Hội Ái Hữu địa phương, nêu cao tinh thần chống Cộng.

Biến Cố Lớn Trong Đời

Hôm đó là ngày lễ Độc Lập Hoa Kỳ, July 4, 1985. Lúc này chị Phạm Phan Lang đang ở trong Quân Đội Hoa Kỳ được gần 5 năm và mang cấp bậc Đại Úy. Khi nhận được Sự Vụ Lệnh thuyên chuyển về lại BAMC, FSH, TX, chị dự định đây sẽ là nhiệm sở cuối cùng của chị. Sau khi chấm dứt quân vụ ở nhiệm sở này, chị sẽ xin giải ngũ. Mấy ngày trước Lễ July 4, gia đình anh chị rất bận rộn tham dự tiệc tùng do các bạn hữu ở Columbia và các thành phố lân cận tổ chức tiễn đưa, hơn nữa chị đang trong thời kỳ học thi tốt ngiệp Thạc sĩ (Master Degree), nên chị khá mệt mỏi. Nhưng vì nể lời mời của một người bạn, cựu Trung Tá HQ ở Charleston, SC, vợ chồng anh chị nhận lời tham dự một buổi tiệc picnic ở bờ biển Foley Beach, SC. Chỗ này cách Columbia, nơi gia đình anh chị ở, khoảng 3 giờ đồng hồ lái xe. Cùng với gia đình anh chị 5 người, còn có 4 gia đình khác. Tổng cộng có 5 cặp vợ chồng và 13 đứa trẻ con, tuổi từ 9-15. Lúc ấy trời còn sớm, khoảng 8 giờ sáng, trên biển không một bóng người, ngoại trừ họ. Và tại nơi đây tại nạn đã xảy ra.

Mười ba đứa trẻ con vừa thấy biển đã nao nức chạy ùa ra bơi lội. Nước bên bờ biển lúc ấy mới cao bằng đầu gối. Các ông bố cũng vội vàng theo mấy đứa nhỏ, vừa để trông chừng vừa sửa soạn mắc mồi câu cua. Đàn bà thì lễ mễ khiêng thức ăn, nước uống từ trên xe xuống. Bỗng có tiếng kêu cấp cứu từ biển vọng vào, chị hoảng hốt nhìn ra, thì hỡi ôi, 13 đứa trẻ đã bị sóng ngầm (undertow) cuốn ra xa, và mấy ông bố đang vội vàng bơi ra để cứu con. Chị Lang không biết bơi, nên vội vã chạy ngược vào bờ một quãng khá dài, kêu cứu. Nhưng trời còn sớm quá, và khu này vì nổi tiếng nguy hiểm sóng ngầm (sau này mọi người mới biết) nên chẳng có ai ra biển. Kêu cứu một lúc không được, chị vội chạy trở lại biển. Lúc ấy một vài đứa trẻ lớn tuổi hơn đã bơi vào hoặc được mấy ông bố đưa vào bờ. Đang lúc dáo dác tìm kiếm mấy đứa con, chị thấy một người đàn bà Mỹ, không biết ra biển lúc nào, đang hì hục kéo anh Diên, chồng chị, lên bờ. Hai mắt anh nhắm chặt, mặt tái nhợt, môi tím ngắt và dường như không còn thở nữa. Dù kinh hoàng, đớn đau và sợ hãi, nhưng với những kinh nghiệm và bình tĩnh của một người lính, chị đã cố gắng làm hô hấp nhân tạo cho anh, được một người bạn bác sĩ trong nhóm phụ giúp, nhưng phu quân của chị vẫn không hồi tỉnh. Khi đưa vào bệnh viện Charlerston, vị bác sĩ cấp cứu, sau khi khám và thử nghiệm EEG (electroencephalogram), đã buồn bã cho chị biết: “Ông nhà đã bị chìm xuống biển khá lâu, trên 10 phút, nên não bộ không còn làm việc nữa ( irreversible brain damage), xin chị đừng nuôi hy vọng”.

Một tháng sau, anh Diên đã trút hơi thở cuối cùng tại bệnh viên quân sự nơi chị làm việc ở Fort Jackson, SC. Anh ra đi để cho đứa con gái út, lúc ấy 11 tuổi, và hai đứa bé nữa, 9 và 12 tuổi, được sống. Nếu chỉ muốn cứu một mình đứa con gái của mình, anh đã có thể làm được, nhưng anh không nỡ lòng bỏ cả bốn đứa bé đang cố bám víu vào nhau để khỏi bị sóng đánh trôi đi. Anh đã cố cầm cự đưa bốn đứa bé vào gần bờ, nhưng bị các em ôm chặt lấy anh, vì uống nước quá nhiều và sợ hãi đến cùng cực, không chịu buông tay chân anh ra. Cuối cùng, không chống chọi được, anh từ từ chìm xuống lòng biển trước đôi mắt đớn đau kinh hoàng của đứa con gái. Và vì không còn chỗ để bám víu, nên một đứa bé gái khác, 11 tuổi, bị sóng biển đánh dạt ra xa, mãi đến mấy tiếng đồng hồ sau mới tìm thấy xác.

Báo chí đã ca tụng, mọi người đều ngậm ngùi ngưỡng mộ anh như một anh hùng. Thượng Nghị Sĩ South Carolina lúc bấy giờ, ông Strom Thurmond, đã ban bằng tưởng thưởng. Nhưng tất cả những thứ ấy đều vô nghĩa đối với chị Lang, bởi chị đã mất vĩnh viễn người chồng yêu quý của chị, ba đứa con trong tuổi dại khờ của chị đã không còn người cha thương yêu gương mẫu. Không có điều gì có thể thay thế được.

Một khúc quanh trong binh nghiệp:

Chị đã xin hủy bỏ Lệnh Thuyên Chuyển về Texas và xin ở lại Fort Jackson thêm một năm nữa để có thể sớm hôm lui tới mộ chồng. Trong quân đội Hoa Kỳ, kể cả ngành Quân Y, thông thường thì cứ mỗi 3 năm, một Sĩ Quan được chuyển đến nhiệm sở mới. Chị được ở lại Fort Jackson đến 5 năm. Đây cũng là một trường hợp ngoại lệ đặc biệt khác. Chị cũng bỏ ý định giã từ quân ngũ. Vì bây giờ, quân đội là nhà của chị, đã che chở và cưu mang chị, cho chị phương tiện tài chánh để nuôi các con ăn học nên người. Quân đội cũng đã rèn luyện chị trở thành một người có can đảm và nghị lực hơn để chống chọi với bao nhiêu thử thách của cuộc đời mà chị vừa mới trải qua cũng như đang chờ trước mặt.

Thời gian thấm thoát trôi qua, chị đã phục vụ trong ngành Quân Y Lục Quân Hoa Kỳ được 22 năm. Trong khoảng thời gian này chị đã thay đổi nhiệm sở 7 lần, Ngoài Fort Sam Houston, TX, và Fort Jackson, SC, chị đã đổi về các bệnh viện ở Fort Gordon,GA; Fort Huachuca,AZ; Fort Ord,CA; Madigan Army Medical Center, WA; Landstuhl Regional Medical Command, Germany; và cuối cùng là Tripler Army Medical Center ở Hawaii. Tại đây, công việc của chị là điều hành Phân Khoa Dinh Dưỡng (Director, Nutrition Care Division) với trên 100 nhân viên dưới quyền, vừa sĩ quan, hạ sĩ quan và dân sự. Ngoài ra, chị còn có nhiệm vụ Cố Vấn và Giám Sát những phần hành Dinh Dưỡng trong các đơn vị Lục Quân trú đóng ở Thái Bình Dương, đặc biệt là Nhật Bản và Nam Hàn (Nutrition Consultant, Pacific Region). Và cũng ở nhiệm sở này, năm 2002, chị Phạm Phan Lang nhận được Thông Báo sẽ thăng cấp Đại Tá. Thông thường thời gian từ lúc nhận Thông Báo đến lúc được thực sự “gắn lon” cho cấp bậc Đại tá trong ngành Quân Y là khoảng từ 6 tháng đến 1 năm. Đến lúc ấy chị đã làm việc tại nhiệm sở Hawaii được 3 năm, nên đã đến lúc phải thuyên chuyển đến một nhiệm sở mới, mà chị biết sẽ là Hoa Thịnh Đốn.

Trung tá Phạm Phan Lang không muốn phải về Hoa Thịnh Đốn, cũng chẳng muốn rời khỏi Hawaii. Bởi ở Hawaii có cây xoài, cây mít, cây mảng cầu, khế, ổi, nhãn lồng Hawaii cũng có những hàng dừa xanh, biển ấm quanh năm và cư dân rất hiền hòa, hiếu khách. Hawaii đã cho chị sống lại với những hình ảnh yêu dấu của Nha Trang, nơi chôn nhau cắt rốn, cũng là nơi chị đã gặp, yêu và làm vợ người lính biển lãng mạn nhưng can đảm hào hùng Phạm văn Diên.

Cuối cùng chị đã không chọn cấp bậc đại tá, mà chọn Hawaii với biển ấm tình nồng, mang bóng dáng miền quê hương thùy dương cát trắng của chị.

Những Chuyện Bên Lề về Tuổi Thơ, Tình Yêu và Cuộc Đời của Cô Nữ Sinh Trường Nữ Trung Học và Võ Tánh Nha Trang.

Phan Thị Lang chào đời vào một buổi sáng mùa thu năm 1950 tại thành phố Nha Trang. Cha mẹ và đặc biệt là bà nội rất đỗi vui mừng, vì đây là đứa con gái đầu tiên của gia đình và cũng là đứa cháu gái đầu tiên của giòng tộc họ Phan. Cha mẹ muốn đặt tên cho con gái mình là Linh Lan, tên một loài hoa mà ông bà rất thích, nhưng bà nội không chịu, vì bà tin rằng, đặt tên cho con gái bằng tên một loài hoa là không tốt, vì hoa sẽ “sớm nở tối tàn”, cho nên bà nội bắt phải đổi tên Linh Lan thành Lang, để biến nghĩa thành cũ khoai… lang. Như vậy đời cô cháu gái sẽ tốt hơn.

Cha mẹ Lang sinh tất cả là 7 người con,nhưng mấy ông anh đầu đã mất đi trong chiến tranh loạn lạc, sau cùng chỉ còn lại ba anh em, người anh là Phan Ngọc Châu, cựu học sinh Võ Tánh, rất chăm chỉ và học giỏi, sau này vào trường Sĩ Quan Thủ Đức và tử trận năm 1968 tại Bình Dương. Anh Phan Ngọc Châu có một chuyện tình thật buồn với một người đẹp ở trường Nữ Trung Học, quê cũng ở Vạn Giã, Hai người không lấy nhau được do một trắc trở về chuyện họ hàng. Anh Châu sống những ngày u buồn và khi chết đi đã mang theo mối u tình này xuống lòng huyệt mộ. Người em trai, Phan Hà, sau khi học xong ở Võ Tánh, theo vợ chồng Lang vào Sài gòn học luật, rồi cùng di tản sang Mỹ vào đêm 29.4.1975. Hiện Hà đang sống ở Columbia, SC.

Ba má Lang là người Vạn Giã. vào Nha Trang làm ăn sinh sống từ thuở thiếu thời, nối nghiệp xây cất của ông nội, rồi làm nghề thầu khoán. Sau này ông trở thành nhà thầu nổi tiếng ở Nha Trang, từng xây nhà cho các tướng Đỗ Mậu, Tôn Thất Đính, và nhiều ngôi biệt thự sang trọng khác trên đường Biệt Thự, Duy Tân.

Cô bé Lang lớn lên trong sự cưng chiều của cả gia đình, nhất là bà nội, nên cô bé rất “hư”, nhõng nhẽo và lười học.Trong nhà, cô bé chỉ sợ có mỗi anh Châu, vì lúc nào anh ấy cũng trầm tĩnh, nghiêm nghị, ít nói và rất chăm học. Cô bé thường cố tình lẫn tránh, vì hễ mỗi lần bắt gặp cô em gái, là anh bắt phải học, một điều mà lúc còn ở tiểu học, cô bé thấy như là một cực hình.

Vì lười học, nên năm lớp Nhì ở trường tiểu học Sinh Trung, cô bé bị ở lại lớp. Cả một năm ở lại lớp Nhì ấy, cô bé thật ê chề và xấu hổ.Vì hễ có một đứa học trò nào lười biếng là cô giáo lại đem Lang ra làm ví dụ. Nhờ vậy mà từ đó, Lang quyết tâm học cho giỏi. Mùa hè đến, Lang theo anh Châu về quê nội ở Vạn Giã, để được ông anh dạy kèm cùng với mấy đứa con ông chú, bà cô, đặc biệt các môn toán đố, hình học.

Sau hè, trở lại trường, Lang được lên lớp Nhất.Và suốt cả năm lớp Nhất, tháng nào Lang cũng được lãnh Bảng Danh Dự, và cuối năm khi thi vào lớp Đệ Thất trường Nữ Trung Học, cô bé đậu hạng thứ 10 trong số rất đông thí sinh ở Nha Trang và từ các nơi khác về dự thí. Lang vào Đệ Thất năm 12 tuổi. Lên Đệ Tam chọn Ban C. Năm 1968, Lang đỗ Tú Tài I hạng Bình Thứ. Anh Châu từ chiến trường xa xôi, nghe tin, vội vã xin phép về thăm gia đình và chúc mừng cô em gái. Không ngờ đó lại là lần cuối cùng hai anh em nhìn thấy mặt nhau. Anh Châu đã tử trận đúng một tuần sau khi trở về đơn vị. Năm Đệ Nhất C, Lang phải chuyển sang học bên trường Võ Tánh, vì trường Nữ Trung Học không đủ lớp. Sau khi đậu Tú Tài II năm 1969, Lang là người đầu tiên trong đám bạn bè cùng lớp “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Anh Châu, người anh duy nhất và rất thương mến Lang, không còn nữa để dự đám cưới của em mình. Đó là sự mất mát và hụt hẫng to lớn của Lang trong ngày bước theo chồng.

Lang gặp anh Diên, Phạm văn Diên, lần đầu tiên vào ngày mồng 6 Tết Âm Lịch, lúc Lang chỉ mới tròn 13 tuổi, đang học lớp Đệ Lục. Hôm đó là ngày Thứ Bảy, nên phố xá đầy dẫy những anh chàng SVSQ Hải Quân và Không Quân. Không hiểu sao lúc ấy Lang “không ưa” Hải Quân, nên khi bị hai anh chàng HQ đi kèm hai bên Lang và một cô bạn, trong lúc dạo phố mua hàng, tán tỉnh, Lang vừa sợ vừa mắc cỡ, vừa ghét nữa, nên không mở miệng nói một lời. Anh Diên đi bên cạnh, biết Lang sợ và e thẹn, nên ôn tồn nhỏ nhẹ gợi chuyện. Anh Diên nói tiếng Bắc, gọi Lang bằng “bé”. Theo Lang về gần đến nhà cô bạn cùng đi, cũng là một tiệm ăn, Diên đã hỏi Lang: “Bé ơi, đường nào ra biển, hở bé”. Nghe hỏi, Lang bỗng phì cười. Hải Quân mà hỏi đường nào ra biển. Nào ai có biết, đó lại là câu nói định mệnh của đời Diên sau này.

Kể từ hôm ấy, cứ mỗi lần “đi bờ” là anh Diên đến ngồi ở quán của cô bạn, chờ bé Lang đạp xe đi qua. Vì quán ăn nằm ngay góc đường đến nhà Lang. Cứ như thế cho mãi đến năm 1965, anh Diên tốt nghiệp Khóa 14 HQ/ Đệ Nhị Kim Ngưu.

Một hôm, Diên ngỏ ý xin phép Lang được đến nhà thăm ba má và ông anh, làm cô bé Lang hoảng sợ đến muốn khóc, lắc đầu lia lịa, vì nghĩ tới sự nghiêm khắc của cha mẹ, đặc biệt là anh Châu của mình, nên bảo là “Anh mà tới nhà, chắc thế nào Lang cũng bị đòn, không được đâu!”. Nghe nói thế, Diên chỉ âu yếm nhìn Lang mỉm cười và bảo là “bé đừng sợ”. Cuối tuần sau, Diên đến nhà thật, gặp ba má và anh Châu của Lang. Và chẳng biết làm thế nào mà Diên thuyết phục được ông anh khó tính của Lang, để được “chính thức” tới thăm gia đình Lang . Dù vậy, Diên cũng chỉ dám tới nhà mỗi tháng một lần và cũng hiếm khi được ngồi riêng để nói chuyện với Lang. Hôm trước ngày tốt nghiệp ra trường, Diên đến thăm để từ giã gia đình Lang. Sau khi nói chuyện với ba má và anh Châu, Diên xin phép được lên lầu để từ giã Lang. Lúc ấy cô bé đang ngồi đan áo trên sân thượng, dưới giàn nho đầy quả chín. Lần đầu tiên, Diên nắm lấy tay Lang, nhìn thật sâu vào mắt Lang, dịu dàng nói “Bé ơi, anh rất yêu bé và muốn cưới bé làm vợ, nhưng bé hãy còn nhỏ quá, nên anh phải đợi cho bé lớn lên. Ngày mai anh đi rồi, không biết bao giờ mới về thăm bé được, nhưng anh sẽ viết cho Bé mỗi ngày một lá thư. Bé ráng đợi anh nghe!”. Nói xong, Diên cúi xuống, nhẹ nhàng hôn lên đôi bàn tay run rẩy và ướt đẫm nước mắt của Lang.

Và chàng đã giữ đúng lời hứa, mỗi ngày một lá thư gởi về cho Lang đều đặn, và chờ Lang lớn lên. Họ đã làm đám cưới vào mùa Thu 1969, sau khi Lang đỗ Tú Tài II. Lúc ấy Lang vừa 19 và Diên đã 27 tuổi đời. Hành trang về nhà chồng của Lang, ngoài một số áo quần, còn lại là một vali chứa đầy những lá thư của Diên.

Hơn mười năm, sau ngày cả nhà di tản sang Mỹ, anh Diên mất đi trong một tai nạn bi thảm, để lại cho Lang ba đứa con dại tuổi chỉ từ 11 đến 15. Lang đã chọn ở lại quân đội để có điều kiện lo lắng cho các con. Sau này cả ba cháu đều thành đạt. Cô gái út, ngày rời Việt Nam vừa đúng 1 năm 1 tháng tuổi. Năm 11 tuổi tận mắt chứng kiến cái chết đau đớn của cha mình. Sau này được vào Stanford University, một đại học nổi tiếng của Hoa Kỳ, và được bầu làm Chủ Tịch Hội Sinh Viên Việt Nam của trường. Sau khi đậu bằng Thạc sĩ ngành Kinh Tế/Phát Triển Điều Luật Quốc Tế (Economics/International Policy Development) năm 1997, cháu lấy thêm bằng Thạc Sĩ Quản Trị Thương Mại (Master of Business Administration) ở University of California at Berkeley (Haas School of Business). Hiện nay là Senior Product Marketing Manager của Google.

Năm 2002, sau khi chu toàn trách nhiệm của một người mẹ với các con, một sĩ quan cao cấp đối với Quân Lực Hoa kỳ, đúng một ngày sau khi về hưu, Phạm Phan Lang làm đám cưới với người chồng mới. Anh là môt người Mỹ, lớn hơn Lang 7 tuổi. Là một người hiền lành, thật thà và độ lương. Trước kia là một Sĩ Quan Không Quân trong Quân Lực Hoa Kỳ. Rời quân ngũ, anh đi học lại và lấy bằng Ph.D rồi dạy tại trường University of Hawaii, và sau này đã làm việc cho US Navy/Submarine, Pearl Harbor Hawaii trong hơn 30 năm với chức vụ Oceanographer/Technical Director cho đến ngày về hưu, cách đây hai năm.

Phạm Phan Lang cùng chồng đang sống những ngày tháng êm đềm ở thành phố Kaneohe trên hòn đảo Oahu / Hawaii thần tiên. Mỗi ngày, trong nắng ấm, nhìn biển trời, nghe sóng biển rì rào, Lang da diết nhớ về Nha Trang, về những ngày tuổi thơ cùng với gia đình, thầy bạn, và hồi tưởng về một quá khứ với biết bao thăng trầm biến đổi của quê hương, của gia đình và của cả một đời người.

Phạm Tín An Ninh

*** Xin đón đọc Hồi Ký viết bằng Anh và Việt Ngữ của Phạm Phan Lang sẽ được xuất bản

Chính quyền CS có muốn hòa giải, hòa hợp hay không? - Lê Nguyên Hồng

Người Việt hải ngoại và đồng bào Miền Nam lâu nay cứ tưởng vết nhục, vết nhơ chiến tranh Nam – Bắc (1954- 1975) sẽ được thời gian hàn gắn trong sự thứ tha lớn lao bằng những tấm lòng quảng đại của người Việt. Và những kẻ gây tội ác với đồng bào của mình rồi sớm hay muộn cũng sẽ phải nhận ra sự thật tội lỗi của họ về cuộc chiến đẫm máu tàn khốc nói trên. Cuộc chiến ấy đã làm cho hàng triệu đồng bào Bắc Việt phải rời bỏ nhà cửa ruộng vườn vào Nam. Có ít nhất hơn 2 triệu người chết, hàng triệu người khác trở thành tàn phế vì thương tích chiến trường, bom rơi đạn lạc, bệnh tật do chiến tranh. Sau này, hàng triệu người khác phải bỏ nước ra đi làm một thứ “thuyền nhân vượt biển”ngậm ngùi, gian nan, cay đắng …

Lê Nguyên Hồng

Năm nay- 2010 – Vào dịp 30/04, nhà nước Việt Nam đã đồng loạt khuyếch trương lễ kỷ niệm cái gọi là “ngày toàn thắng” 30/04 trên khắp cả nước. Nào là trình diễn màn hài kịch bắn pháo hoa, rồi các báo, đài, các kênh truyền hình của chế độ Cộng Sản đua nhau tâng bốc ca ngợi thành tích giết người trong cuộc chiến Nam- Bắc của họ.

Dường như họ cố tình quên một điều rằng: Miền Nam- Một nửa của nước Việt Nam yêu quý- Trước năm 1975 có hàng chục triệu đồng bào bị coi là “phía bên kia” là “Ngụy Quân, Ngụy Quyền”. Những người ấy nay trong thân phận là những kẻ bại trận, mà vì lý lịch có liên quan đến chế độ cũ của Việt Nam Cộng Hòa, các thế hệ con cháu của họ không bao giờ có thể tiến thân (về mặt hành chính) trong chế độ Cộng Sản. Một số ít trong số họ tìm đường vượt biên, may mắn không vùi thây nơi bụng cá thì nay được sống ở nơi “chân trời mới”, nhưng thực ra là đang làm những kẻ xa lạ, tha phương xứ người …

Người Việt hải ngoại và đồng bào Miền Nam lâu nay cứ tưởng vết nhục, vết nhơ chiến tranh Nam – Bắc (1954- 1975) sẽ được thời gian hàn gắn trong sự thứ tha lớn lao bằng những tấm lòng quảng đại của người Việt. Và những kẻ gây tội ác với đồng bào của mình rồi sớm hay muộn cũng sẽ phải nhận ra sự thật tội lỗi của họ về cuộc chiến đẫm máu tàn khốc nói trên. Cuộc chiến ấy đã làm cho hàng triệu đồng bào Bắc Việt phải rời bỏ nhà cửa ruộng vườn vào Nam. Có ít nhất hơn 2 triệu người chết, hàng triệu người khác trở thành tàn phế vì thương tích chiến trường, bom rơi đạn lạc, bệnh tật do chiến tranh. Sau này, hàng triệu người khác phải bỏ nước ra đi làm một thứ “thuyền nhân vượt biển” ngậm ngùi, gian nan, cay đắng …

Khi “nghị quyết 36” của chính quyền CS ra đời. Đồng bào người Việt hải ngoại trước đây từng bị coi là những kẻ tội phạm hình sự vì tội vượt biên giới trái phép, nay đột nhiên được họ gọi bằng hai tiếng thân thương “đồng bào”. Người Việt tha hương bỗng nhiên lại được coi là “khúc ruột ngàn dặm”, và cũng theo nghị quyết 36 của CS, người Việt hải ngoại sẽ được hưởng rất nhiều “đặc ân” mà họ chẳng bao giờ nghĩ rằng mình sẽ có (!) xin trích: Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam, đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách rộng mở và biện pháp cụ thể nhằm tạo điều kiện ngày càng thuận lợi hơn cho đồng bào về thăm đất nước, người thân, đầu tư, kinh doanh, hợp tác khoa học – công nghệ, hoạt động văn hóa – nghệ thuật”.

Thực chất, nếu đồng bào ngừoi Việt hải ngoại không phải là chú “bò sữa” khổng lồ hàng năm cung cấp nguồn dinh dưõng quý báu là hàng chục tỷ USD chảy về Việt Nam, nếu đồng bào người Việt nước ngoài chỉ là một nhóm nhỏ yếu ớt không thành đạt, không phát triển thì chỉ vì tình người, còn lâu CS mới đoái hoài đến họ. Ta thử xét xem trong nghị quyết 36 họ đã nói gì? Thứ nhất là “tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào về thăm nhà”, điều này tất nhiên phù hợp với thông lệ quốc tế, không cần nhà cầm quyền ban phát theo kiểu ơn huệ (!). Thứ hai là “đầu tư kinh doanh, họp tác khoa học, công nghệ, hoạt động văn hóa nghệ thuật”, tức là hãy đem tiền về mà đầu tư, mà vỗ béo cho CS.

Tửong như các “nỗ lực” của chính quyền CS nói trên là hoàn toàn mang tính thiện chí và thiện ý, nhằm hòa họp dân tộc, hòa giải hận thù. Nhưng những “hoạt động” nhân ngày 30/04/2010 này không những chỉ làm tốn kém tiền thuế của dân vào các lễ hội tiệc tùng vô bổ, các màn pháo hoa hoành tráng chỉ làm người ta quên đi thực tại trong giây lát. Và hàng chục triệu người dân Việt trong nước vẫn đang còn sống dưới mức nghèo khổ kia họ sẽ nghĩ gì cho bữa cơm ngày mai?

Bằng những hoạt động “tôn vinh”, phóng đại khuếch trương cái gọi là “tự hào” ngày 30/04, CS đã vô tình cho thấy dã tâm của họ không hề thay đổi. Họ cố tình “quên mất” hàng chục triệu đồng bào người Việt khắp nơi đang cố quên đi nỗi đau dai dẳng, day dứt 35 năm qua. Những màn trình diễn rẻ tiền của Hà Nội đã như những “hạt muối” oan nghiệt cứ chà xát vào nỗi đau chưa lành của những cựu công dân Việt Nam Cộng Hòa mất nước …

Vậy thì ai đang “hòa họp hòa giải” ai đang khắc sâu hận thù? Tại sao chế độ Cộng Sản lại không tôn vinh Vua Nguyễn Phúc Ánh – Người đã có công lần đầu tiên thống nhất đất nước hình chữ S cho Việt Nam? Tại sao họ lại không ghi công các thế hệ cha ông đã “mang gươm đi mỏ cõi” mói có đựoc Miền Trung? Tại sao lại không cảm ơn vua Nguyễn Phúc Ánh và người Pháp đã biến cả một vùng đất rộng lớn sau này có tên gọi “sáu tỉnh Nam Kỳ” về tay Việt Nam?

Hóa ra nhà cầm quyền chỉ muốn tôn vinh chính chế độ Cộng Sản đương thời của họ mà thôi. Họ không cần tôn vinh đến lịch sử của cha ông ta để lại như thế nào. Họ không cần biết đến nỗi đau của hàng chục triệu người thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa thua trận.

Như vậy là, một lần nữa bàn dân thiên hạ lại càng thấy rõ rằng chế độ Cộng Sản chỉ vì quyền lợi, danh vị, tiền tài bổng lộc của họ, chỉ vì một mình họ mà thôi. Còn tình dân tộc, tình nhân dân ư? Cứ việc chờ đấy!

Lê Nguyên Hồng


Tuesday, May 4, 2010

Woman with no arms preparing for black belt

Sheila Radziewicz of Salem, Mass., uses her nunchucks during taekwondo class at Bruce McCorry's Martial Arts Studio in Peabody, Mass., on April 28, 2010. Radziewicz is scheduled to take her test next month for a black belt in taekwondo.

The 32-year-old brown belt, who was born with thrombocytopenia -absent radius, or TAR syndrome, tells The Salem News she's been training in martial arts for three years.
A Massachusetts woman who was born without arms or kneecaps is preparing to test for her black belt in Taekwondo.

Sheila Radziewicz was scheduled to take her test next month at Bruce McCorry's Martial Arts in Peabody.

The 32-year-old brown belt, who was born with thrombocytopenia-absent radius, or TAR syndrome, told The Salem News she's been training in martial arts for three years.

McCorry, her teacher, said he's never seen a student like Radziewicz. Despite her condition, she can use nunchucks and break boards with her kicks.

The Salem resident, who works as an advocate for victims of domestic violence, said she has never let her disability stop her.
At 23, Radziewicz earned her driver's license. She uses a car that she controls with her feet.


Sunday, May 2, 2010

30 Tháng Tư và Hòa giải dân tộc - Trần Trung Đạo

    VOA: 30 Tháng Tư và Hòa giải dân tộc
    (Phỏng vấn nhà thơ Trần Trung Đạo nhân dịp 30-4-2010)
Giới thiệu: Tháng Tư năm nay, cũng như những tháng Tư của hơn 30 năm qua, giới hữu trách Việt Nam đã tưng bừng tổ chức ngày kỷ niệm mà họ gọi là “chiến thắng vĩ đại ngày 30-4-1975. Họ cũng không quên nhắc tới sự kiện mà họ mô tả là “ở một số nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Mỹ, một số nhóm phản động cực đoan thường tổ chức ‘ngày quốc hận’ để hoài niệm một chế độ tàn bạo ở miền nam Việt Nam đã sụp đổ, hoài niệm thời kỳ đất nước bị chia cắt, tìm cách bôi nhọ những gì tốt đẹp đang diễn ra ở Việt Nam”. (Quân Đội Nhân Dân, 18-04-2010).

Trong khi đó, một số văn nghệ sĩ ở Việt Nam mới đây đã cho đăng tải trên mạng internet những bài viết kêu gọi mọi người hãy có một cái nhìn mới về biến cố lịch sử này để tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc hòa giải dân tộc, nổi bật là bài “Tùy Bút Tháng Tư” của nhà văn Vũ Ngọc Tiến được phổ biến rộng rãi trên mạng. Ban Việt Ngữ VOA đã tiếp xúc với nhà thơ Trần Trung Đạo, một blogger ở Mỹ (trantrungdao.com) có nhiều bài bình luận về văn học và chính trị Việt Nam được nhiều người ưa thích, để tìm hiểu thêm về vấn đề đáng chú ý này. Mời quí vị theo dõi cuộc phỏng vấn do Duy Ái thực hiện sau đây.


Duy Ái - Washington D.C Thứ Sáu, 30 tháng 4 2010

VOA: Thưa anh Trần Trung Đạo, là người theo dõi sát tình hình Việt Nam, đặc biệt trong các lãnh vực văn hóa xã hội, chắc anh cũng biết là trong vài tuần nay, các tờ báo do nhà nước kiểm soát đã cho đăng nhiều bài viết dưới dạng “nhìn lại 35 năm” và hô hào cho việc “hòa hợp dân tộc, hàn gắn lòng người”. Trước hết, xin anh chia sẻ với thính giả và độc giả đài Tiếng Nói Hoa Kỳ quan điểm của anh về “hòa giải hòa hợp dân tộc”?

Trần Trung Đạo: Tuần trước tôi có dịp đến thăm viện bảo tàng lịch sử Mỹ tại Washington DC, trong đó có một khu dành riêng cho tổng thống thứ 16 của Mỹ, Tổng Thống Abraham Lincoln. Ngay trước cổng của khu tưởng niệm TT Lincoln, có treo một tấm bảng nhỏ, trong đó ghi một câu trong Tân Ước mà ông yêu thích và thường hay trích dẫn "A house divided against itself cannot stand”, nghĩa là “Một căn nhà phân hóa chống lại chính nó, căn nhà đó không thể đứng vững”.

Tổng Thống Lincoln quan niệm tinh thần đoàn kết, hòa giải giữa các thành phần quốc gia là điều kiện quyết định giúp quốc gia vượt qua những khó khăn, cũng như dẫn đến sự vững mạnh, thăng tiến lâu dài. Sự phát triển vượt bực của Hoa Kỳ, từ thuộc địa của Anh trở thành cường quốc hàng đầu thế giới đã chứng minh câu Tổng Thống Lincoln trích dẫn là một chân lý. Chân lý đó cũng đã được thử nghiệm và xác định tại nhiều quốc gia khác như Nam Phi, Cộng Hòa Đức v.v..

Tổng thống Lincoln nhấn mạnh đến tinh thần hòa giải trong diễn văn nhậm chức tổng thống nhiệm kỳ 2, 1865, nghĩa là sau khi quân đội miền bắc đã kết thúc cuộc nội chiến bằng chiến thắng, và TT Nelson Mandela cũng chỉ lập Ủy Ban Sự Thật Và Hòa Giải Quốc Gia sau khi đã đắc cử Tổng Thống Cộng Hòa Nam Phi. Nếu TT Lincoln bỏ tù hết các cấp sĩ quan, viên chức chính quyền miền nam, chắc chắn quân đội của tướng Robert Lee đã không buông súng dễ dàng, và nước Mỹ có thể không có ngày hôm nay. Tương tự, nếu TT Nelson Mandela bắt thiểu số da trắng phải trả giá bằng những cực hình đầy đọa giống như dân da đen đã từng chịu đựng dưới ách phân biệt chủng tộc Nam Phi thì hòa hợp hòa giải đã không đến cho quốc gia này.

Từ những bài học quý giá đó, tôi quan niệm hòa giải không chỉ là một tình cảm mà phải dựa trên các nền tảng chính trị, kinh tế, xã hội cần thiết, và các nền tảng đó chính là sự thật, tự do, dân chủ và bình đẳng giữa những con người cũng như giữa các thành phần trong xã hội.

Giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam có tất cả những phương tiện để thực thi hòa giải hòa hợp dân tộc nhưng họ đã không làm. Lý do, nếu làm thì họ đã không phải là Cộng Sản. Hòa giải hòa hợp dân tộc đặt cơ sở trên sự bao dung, bình đẳng vốn đi ngược lại mục tiêu Cộng Sản hóa Việt Nam bằng các phương tiện bạo lực mà đảng đã và đang dùng.

Do đó, ngày nào chế độc độc tài đảng trị, dù tồn tại dưới bất cứ hình thức nào tại Việt Nam, ngày đó chuyện hòa giải chỉ là một chuyện để bàn cho có và cũng sẽ qua đi theo mỗi tháng Tư.

VOA: Thưa anh Trần Trung Đạo, một câu nói của ông Võ Văn Kiệt liên quan đến vấn đề “hòa giải hòa hợp” được các bên trích dẫn khá nhiều là “một triệu người vui, một triệu người buồn”. Xin anh chia sẻ về câu nói này của ông Võ Văn Kiệt cũng như các ý kiến tương tự khác mà anh đọc trong dịp 30 tháng 4 năm nay?

Trần Trung Đạo: Câu nói của ông Võ Văn Kiệt, ngày 30 tháng 4 “có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn” có lẽ là câu nói tích cực nhất mà chúng ta được nghe từ một người từng đóng vai trò lãnh đạo đảng và nhà nước Cộng Sản Việt Nam trong một thời gian dài sau 1975.

Như tôi đã có lần viết trong một tiểu luận về những lời phát biểu của ông Võ Văn Kiệt, tôi tin đó là một câu nói chân thành, kết quả của nhiều đêm trăn trở.

Tôi vui mừng bởi vì ông đã góp phần tạo nên một môi trường thảo luận những vấn đề sinh tử của đất nước mà trước đây không có được. Các thế hệ trẻ Việt Nam, qua những lời phát biểu của ông, có cơ hội biết đến một quãng lịch sử dân tộc đen tối do chính một trong những người chịu trách nhiệm lớn nhất của đảng và nhà nước trong giai đoạn đó kể ra. Con đường mà dân tộc đã trải qua trong suốt hơn 30 năm không phải là “con đường vinh quang” như các em đang học ở trường, những ngày mà cha chú các em đã sống không phải là “những ngày đẹp nhất dù mai sau đời vạn lần hơn”, nhưng là con đường nhuộm bằng máu và nước mắt, trong đó, “có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn” như ông Võ Văn Kiệt đã nhắc lại.

Ngoài ông Võ Văn Kiệt đã qua đời, một số cán bộ Cộng Sản nổi bật trong giai đoạn chiến tranh như cựu đại sứ Cộng Sản Việt Nam tại Pháp Võ Văn Sung trong buổi phỏng vấn dành cho VietNamNet mới đây cũng nhấn mạnh đến tinh thần hòa giải bằng những câu phát biểu thật “thắm thía”: “Lúc này nếu ai đó trong chúng ta dù từng đứng từ phía nào mà vẫn nuôi lòng thù hận, cản trở hòa hợp dân tộc thì sẽ dần trở nên lạc lõng và thật sự có lỗi với tương lai của chính con cháu mình.”

Thế nhưng cả ông Võ Văn Kiệt lẫn ông Võ Văn Sung, về khái niệm, đều lầm lẫn giữa hòa giải và đầu hàng, giữa hòa hợp và phục tùng, giữa bao dung dân tộc và thương xót người chiến bại. Hòa giải hòa hợp là con đường hai chiều, là chiếc cầu nhiều nhịp. Và như tôi đã phát biểu ở trên, phải dựa trên nền tảng bình đẳng, tự do, dân chủ. Không ai có quyền bắt người khác phải bơi qua sông để hòa giải với mình. Những người lính miền nam cần công lý chứ không cần thương xót.

VOA: Trong hai tuần qua, nhiều độc giả của các trang blog không do nhà nước kiểm soát đã xôn xao bàn tán về bài viết “Tùy Bút Tháng Tư” của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, cũng như mới đây bài viết của nhà văn Nguyễn Trọng Tạo “Đừng Thêm Những Tháng Tư”. Xin anh cho biết ý kiến của anh về hai bài viết này?

Trần Trung Đạo: Trong lúc tôn trọng sự khác biệt về cách giải thích nguyên nhân của cuộc chiến Việt Nam, tôi thông cảm những trăn trở của nhà văn Vũ Ngọc Tiến trong bài viết mới đây Tùy Bút Tháng Tư “Trong số 3,2 triệu người Việt định cư ở hải ngoại hiện nay, số ra đi trước ngày 30/4/1975, kể cả số di cư từ thời thuộc Pháp chỉ khoảng 1 triệu, số còn lại hơn 2 triệu người chủ yếu rời bỏ đất nước từ nửa cuối thập niên 70 và cả thập niên 80 của thế kỷ trước. Thế hệ chúng tôi “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, sao những người được chúng tôi giải phóng lại ào ào bỏ nước mà đi đông đến vậy?”

Tôi nghĩ câu hỏi này nhà văn đặt ra cho giới lãnh đạo đảng chứ không phải cho độc giả của ông. Tuy nhiên, với tư cách là một trong số hơn hai triệu người ra đi sau 1975, tôi nghĩ, lý do cũng rất là đơn giản. Họ ra đi sau 1975 là vì tự do. Nếu Liên Hiệp Quốc và các quốc gia Đông Nam Á không đóng cửa các trại tỵ nạn đầu thập niên 90 thì không chỉ 2 triệu mà có thể 4 triệu, 6 triệu hay nhiều hơn nữa đã bỏ xứ ra đi.

Quê hương Việt Nam sau 1975 là quê hương để nhớ, để thương nhưng không phải để sống.

Và sau 35 năm, ngoài trừ một số rất ít, 300 ngàn người thành đạt như nhiều nguồn ước tính và nhà văn Vũ Ngọc Tiến có trích dẫn trong bài viết của ông, đã không về phục vụ đất nước. Nhà văn thắc mắc tại sao họ lại không về. Câu trả lời cũng không khó lắm. Thứ nhất, dù chia rẽ, kèn cựa, chống đối lẫn nhau, về căn bản họ vẫn là những người chống lại chế độ độc tài Cộng Sản, và thứ hai, họ không muốn thấy những đóng góp của họ chỉ để làm giàu thêm giai cấp tư sản đỏ đang như dòi bọ sinh sôi từ xương máu nhân dân chứ không đem lại lợi ích gì cụ thể cho đại đa số đồng bào đang sống trong nghèo khó.

Tôi cũng rất tâm đắc với suy nghĩ của nhà văn Nguyễn Trọng Tạo trong bài viết Đừng Thêm Những Tháng Tư: “Một dân tộc mà lũ trẻ không biết mơ mộng và người già không biết sám hối, đó là một dân tộc bất hạnh. Hãy trân trọng sự sám hối.” và “Hòa giải là nguyện vọng cấp thiết của người Việt Nam dù trong hay ngoài nước”.

Đúng vậy, những ai có trách nhiệm cho điêu tàn, đổ nát, đói nghèo, lạc hậu, mất đất, mất biển phải sám hối trước tiên linh ông bà và xin lỗi trước nhân dân.

Về hòa hợp hòa giải. Trải qua một cuộc chiến dài với quá nhiều những hy sinh xương máu, tôi tin, không một người Việt Nam yêu nước nào không muốn sống trong cảnh hòa bình, không mong đất nước mình cường thịnh, hội nhập vào dòng phát triển của cộng đồng nhân loại. Không chỉ những người lính miền nam, người dân miền nam mà ngay cả những người lính miền bắc, người dân miền bắc, cũng chỉ mong có cơ hội được trở về căn nhà xưa, với ruộng lúa nương dâu, với cha mẹ già đang chờ đợi.

Cuối cùng, như các chúng ta thấy, không ai thương dân tộc Việt Nam bằng chính người Việt Nam. Bên trong những vòng hoa chiến thắng, mặt trái của những tấm huân chương là máu thịt của hàng triệu người Việt Nam đổ xuống, là đói nghèo lạc hậu.

Việt Nam phải vượt qua. Việt Nam phải thăng tiến. Nhưng chướng ngại lớn nhất trên con đường dẫn tới một tương tốt đẹp, tự do, dân chủ, giàu mạnh không phải vì thiếu hòa giải, hòa hợp mà quan trọng hơn vì cơ chế độc tài đảng trị như một bức tường đang chắn ngay trước lối đi lên. Một khi cơ chế độc tài sụp đổ, hòa giải hòa hợp tự nhiên sẽ đến dù lúc đó chưa chắc còn cần thiết nữa.

VOA: Xin cám ơn anh Trần Trung Đạo

Source: http://www1.voanews.com/vietnamese/news/vietnam/30thang4-hoa-giai-dan-toc-04-30-2010-92493984.html


Saturday, May 1, 2010

30-4: Virgil Night tại Hyde Park, Sydney NSW Úc châu



    Sydney: Ðêm thắp nến tưởng niệm 35 năm biến cố Tháng Tư Đen
Trong tiết trời se lạnh cuối thu, một rừng cờ vàng bên cạnh 3,000 ngọn nến lung linh được thắp lên, tạo nên một bầu không khí trang nghiêm. Đó là khung cảnh của buổi Tưởng niệm 35 năm biến cố Tháng Tư Đen: 30/04/1975 - 30/40/2010 tại Hyde Park, thành phố Sydney ngày hôm nay 30/04.

Mặc dầu chương trình được dự trù bắt đầu lúc 7pm, nhưng mới khoảng 6.30pm mà các quan khách và nhiều đồng hương tỵ nạn đã có mặt, quây quần bên cạnh bục lễ đài và màn hình chiếu Slide. Tranh thủ thời gian, hai MC chương trình là Luật sư Thân và cô Vivi Nguyễn đã giới thiệu đến đồng hương một danh sách dài các quan khách hiện diện.

Đại diện chính quyền và các hội đoàn Úc gồm có:
    • Dân biểu Liên bang Laurie Ferguson (đơn vị Reid tai thành phố Sydney) - Thứ trưởng đặc trách Đa Văn hóa Sự vụ và các vấn đề định cư cộng đồng.
    • Dân biểu Liên bang Chris Hayes, đại diện đơn vị Werriwa (Tây nam thành phố Sydney)
    • Dân biểu Liên bang Jason Claire, Thứ trưởng đặc trách Nhân dụng.
    • Bà Barbara Perry, dân biểu tiểu bang đơn vị Auburn của NSW, và là Bộ trưởng đặc trách chính quyền địa phương
    • Ông Nick Lalich, dân biểu tiểu bang đơn vị Fairfield của NSW, và cũng là thị trưởng thành phố Fairfield.
    • Ông Clive Mitchell Taylor, chủ tịch Hội Cựu chiến binh Úc tham chiến tại VN, phân bộ tiểu bang NSW.
Về phía đại diện các tôn giáo có:
    • Thượng tọa Thích bảo Lạc, Phó Hội chủ GHPGVNTNHN Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan
    • Thượng tọa Thích Phước Nhơn, đại diện GHPGVNTNHN Úc Đại Lợi
    • Ông Nguyễn Văn Paul, đại diện Giáo hội Phật giáo Hòa hảo Úc Châu
    • Ông Nguyễn Văn Bán, đại diện Cao Đài Úc Châu
    • Linh mục Nguyễn Khoa Toàn, Tuyên Úy trưởng Cộng đồng Công giáo VN NSW
    • Linh mục Chu Văn Chi, Ban Tuyên Úy Cộng đồng Công giáo VN NSW
    • Đặc biệt ghi nhận có sự hiện diện của Đức Giám Mục Julian Porter, Giám mục địa phận Sydney
Cùng các vị tiền nhiệm chủ tịch cộng đồng Việt Nam tiểu bang NSW cũng như Liên bang, và đại diện các hội đoàn, đoàn thể, cùng đại diện báo chí truyền thanh Úc - Việt.

Sau phần nghi thức chào cờ Úc - Việt và phút mặc niệm, ông Nguyễn Văn Thanh, chủ tịch Cộng đồng Việt Nam NSW có bài diễn văn khai mạc bằng hai ngôn ngữ Anh - Việt. Ông nói mục đích của buổi lễ là để vinh danh các anh hùng tử sĩ của QL VNCH và đồng minh Úc đã bỏ mình trong cuộc chiến tranh Việt Nam vì hai chữ Tự Do, cũng như những người đã liều mình trốn chạy khỏi chế độ cộng sản trong suốt 35 năm qua. Theo thống kê của Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ thì có khoảng 1.6 triệu người Việt đã bỏ nước ra đi, mà đa số là thuyền nhân, thì chỉ có được gần 1 triệu đến được bến bờ tự do, và tạo dựng nên các cộng đồng người Việt tỵ nạn trên khắp thế giới trong suốt 35 năm qua. Và 35 năm sau, chính dòng người tỵ nạn đó đã hình thành nên một cộng đồng người Việt lớn mạnh tại Úc.

Ông kêu gọi đồng bào tỵ nạn đừng quên những đồng bào còn lại tai quê nhà vẫn khao khát tự do, và các nhà đấu tranh dân chủ nhân quyền vẫn đang ngày đêm bị chính quyền đàn áp trù dập, bởi vì “Tự Do là điều vô cùng cao quý,... và phải trả giá đắt mới có được”.

Tiếp theo là phần chia sẻ ngắn gọn của Dân biểu Liên bang Laurie Ferguson. Ông minh định rằng sự hy sinh của 521 quân nhân Úc trong cuộc chiến Việt Nam là vì hai chữ Tư Do. Với tư cách đại diên chính quyền liên bang, ông ca ngợi sự lớn mạnh của Cộng đồng Việt Nam và công nhận sự đóng góp to lớn vào xã hội Úc. Kinh nghiệm về sự hòa nhập và lớn mạnh của cộng đồng Việt Nam đã được chính phủ Úc dùng để dẫn dắt các cộng đồng tỵ nạn non trẻ đến sau như Afghanistan, Sudan,...

Ông là người vẫn luôn theo dõi các diễn biến tại Việt Nam, như các cuộc biểu tình ôn hòa về Hoàng Sa - Trường Sa, các vụ bắt bớ 17 nhà bất đồng chính kiến vào tháng 10 năm ngoái, việc ngăn chận kiểm soát internet của nhà cầm quyền Việt Nam, và luôn luôn đặt vấn đề nhân quyền làm điều kiện trong các khoản viện trợ cho VN.

Ngay sau phần Slide show đầu tiên trình chiếu các hình ảnh trắng đen và màu về các diễn tiến chính trị và quân sự đưa đến biến cố Tháng Tư Đen, Ca Đoàn Lê Bảo Tịnh trình bày bài “Việt Nam ơi, quê hương ơi” với lời lẽ tha thiết:
    Ôi quê hương tôi xa người lâu rồi.
    Khóc hết nước mắt để nhớ thương người,
    Ôi quê hương tôi không bao giờ quên,…
Trong tiếng trống chiêng vang dội, giọng của MC LS.Thân vang vọng:

35 năm dưới sự cai trị hà khắc của cộng sản, người Việt Nam không có tự do nhân quyền,...
Và MC Vivi nối tiếp bằng tiếng Anh:

Việt Nam hiện nay không có tự do ngôn luận, hội họp, không có tự do tôn giáo.
Mong rằng thế giới sẽ hỗ trợ để có được một Việt Nam tươi đẹp hơn.

Trong phần cầu nguyện, Giám Mục Julian Porter đã cùng với các đại diện, lãnh đạo tôn giáo thắp nén nhang tưởng niệm các vong linh anh hùng tử sĩ và đồng bào đã hy sinh vì hai chữ Tự Do, và dâng lời cầu nguyện an bình cho đất nước Việt Nam.

Ngay sau đó, giọng ca trầm ấm của nam ca sĩ Trường Giang đã làm thổn thức lòng người nghe qua lời ca xúc động của “Đêm Nguyện Cầu”:
    Thượng Đế hỡi hãy lắng nghe người dân hiền.
    Vì đất nước đang còn ưu phiền.
    Còn tiếng khóc đi vào đêm tường triền miên.
Và Ca đoàn Lê Bảo Tịnh tiếp nối với “Một Ngày Việt Nam”:
    Từ nghìn trùng xa, ai vẫn hát vang lời Việt Nam.
    Nhìn về đại dương, ta nhớ hướng quê nhà ở đó.
    Còn nhiều lầm than, sau phút súng gươm buồn lặng im,…
Đức Giám Mục Julian Porter, vị chủ chăn Công giáo của địa phận Sydney đã hồi tưởng lại các hình ảnh trên Tivi của 35 năm trước: cảnh chiến tranh, chết chóc, chạy loạn,.. rồi sau đó là dòng người tỵ nạn ồ ạt được mệnh danh là “Thuyền Nhân”, với những cảnh cước bóc hãm hiếp của hải tặc Thái Lan. Ngài cho biết nước Úc đã giang rộng vòng tay đón người tỵ nạn Việt Nam, để rồi ngày nay có được Cộng đồng Việt Nam là một trong những cộng đồng mạnh nhất, cũng như cộng đồng Công giáo VN cũng phát triển vượt bực với nhiều ơn gọi, đã đóng góp to lớn vào sự phát triển xã hội đa văn hóa Úc.

Dân biểu Liên bang Chris Hayes, một khuôn mặt quen thuộc của cử tri Việt Nam vùng Liverpool, cho biết ngày 30/04/1975 là ngày đau buồn đối với Nam Việt Nam nói riêng, và thế giới tự do nói chung. Cũng chính vì ngày này mà hàng triệu thuyền nhân Việt đã vượt biển tìm tự do, để rồi hình thành những cộng đồng tỵ nạn Việt Nam lớn mạnh tại hầu hết các quốc gia phương Tây. Ông cũng không quên cầu nguyện cho các nhà đấu tranh dân chủ và gloggers tại Việt Nam, đặc biệt là Linh mục Nguyễn Văn Lý và 3 nữ nhi bị bắt gần đây. Ông cho biết là sẽ luôn luôn cùng đồng nghiệp tại quốc hội liên bang đặt vấn đề tự do - nhân quyền trong các đối thoại với Việt Nam.

Dân biểu Liên bang Jason Claire là người bạn thân thiết với cộng đồng Việt Nam, cũng là vị chính trị gia có lời sâu sắc hơn cả. Ông kêu gọi mọi người hãy đặt mình vào vị trí của 521 quân nhân Úc tử trận tại Việt Nam, 3.2 triệu người Việt bỏ mình trong cuộc chiến cũng như 1.2 triệu Thuyền Nhân đã liều mình vượt biển, để có thể cảm nhận được sự hy sinh vì hai chữ Tự Do cao quý. Ông chấm dứt với lời kết bằng tiếng Việt: “Quê hương của bạn, quê hương của tôi là của chúng ta”.

Vị đại diện Hội Cựu chiến binh Úc tham chiến tại VN, ông Clive Mitchell Taylor đã lập lại sự hy sinh cao quý của các quân nhân Úc và VNCH để bảo vệ nền tự do non trẻ tại miền Nam Việt Nam. Kể cả sự hy sinh của các Thuyền Nhân, thì tất cả đã trả giá vì hai chữ Tư Do.

Xen kẻ với phần phát biểu của bà Barbara Perry, dân biểu tiểu bang đơn vị Auburn của NSW, là phần chiếu Slide Show các hình ảnh, diễn biến trong Tháng Tư Đen 1975.

Ông Nick Lalich đã cám ơn sự đóng góp của cộng đồng Việt Nam vào xã hội đa văn hóa Úc. Ông cũng cho rằng “CSVN sẽ không thể tồn tại lâu được, bởi vì chế độ độc tài nhất định sẽ phải sụp đổ”.

Sau phần Slide “đấu tranh dân chủ” là âm thanh dồn dập, mãnh liệt của những “Bước chân Việt Nam”:

Khắp nơi trên địa cầu, giờ in dấu bước chân Việt Nam
Những đôi chân miệt mài, đang vươn tới dưới ánh ban mai
..................
Khắp nơi trên địa cầu, giờ in dấu bước chân Việt Nam

và “Đáp lời sông núi”.

Chương trình kết thúc lúc 9.30g cũng là lúc những giọt mưa đầu tiên bắt đầu rơi nhẹ trên bãi cỏ công viên Hyde Park. Giòng người ra về với những ký ức khó quên của 35 năm trước, mà cứ tưởng như mới xảy ra hôm qua vậy.

Tường trình tại chỗ, đêm 30/04/2010 từ Công viên Hyde Park, Sydney

Lê Minh
(Hình ảnh do thuythu cung cấp)