Saturday, March 6, 2010

Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Cộng Sản Việt Nam




Chúng tôi xin gởi đến đồng bào Việt Nam khắp thế giới nguyên văn lời khai của một nạn nhân vụ Mậu Thân, bà Nguyễn Thị Thái Hòa, nguyên sinh viên trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế, trước ngụ tại đường Hàm Nghi Huế.

Nhân Chứng, Nạn Nhân Tội Ác Việt Gian Cộng Sản Tết Mậu Thân 68
    Kính thưa Ông Liên Thành,
Tôi xin tường thuật lại chi tiết những cái chết đau thương của ông nội tôi, ba người anh, cùng một người bạn của họ, như là một nhân chứng còn sống sót sau tết Mậu Thân như là tiếng kêu oan cho gia đình tôi, cho linh hồn của những người thân trong gia đình, gia tộc tôi cách riêng, và cho những người dân Huế nói chung, thay cho tất cã những ai bị sát hại trong tết Mậu Thân 1968 bây giờ còn kẹt lại VN không có cơ hội để nói lên những oan khiên mà họ đã gánh chịu bởi Đãng Việt Gian Cộng Sãn, và bè lũ tay sai khát máu giết hại dân lành vô tội như anh em Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh v.v…

Thưa Ông,

Năm 1968, tôi đang là sinh viên năm thứ nhất trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế. Ngoài những giờ học lý thuyết chung tại trường, bọn sinh viên chúng tôi được chia thành nhiều toán. Mỗi toán từ 8- đến 10 người, luân phiên thực tập ở các trại bệnh trong BV Trung Ương Huế.

Có những trại bệnh sinh viên thực tập theo giờ hành chánh. Có một vài nơi, như phòng cấp cứu, phòng bệnh nội thương … thì giờ thực tập được chia làm ba ca: sáng, chiều và đêm …

Ca sáng từ 7giờ đến 2 giờ chiều, ca chiều từ 2 giờ đến 9 giờ tối, và ca đêm từ 9 giờ tối cho đến 7giờ sáng hôm sau.

Mỗi một nơi chúng tôi được thực tập từ 2 đến 3 tuần lễ.

Hai tuần trước tết, toán của tôi được chia phiên thực tập ở phòng cấp cứu. Ngày mồng hai, tôi và hai anh bạn vào ca đêm.

Tết năm nay ba tôi bận đi hành quân xa không về kịp ăn tết.

Thường thì mấy anh em tôi năm nào cũng vậy, đều phải về nhà ông bà nội từ trước ngày 30 tết, ở luôn cho hết ngày mồng một, rồi sau đó mới được tự do đi chơi, thăm viếng bạn bè…

Sau bữa cơm tối mồng một tết, khoảng 8 giờ 30 Anh Hai lấy xe Honda của anh đưa tôi tới BV, và nói sáng mai anh sẽ đến đón.

Tối mồng một tết phòng cấp cứu hơi vắng, chúng tôi, mấy anh sinh viên y khoa và hai người nhân viên phòng cấp cứu nói đùa với nhau rằng hôm nay tụi mình… hên! Chúng tôi mang một ít mứt bánh ra vừa ăn vừa nói chuyện, vừa thay nhau thăm chừng những bệnh nhân mới nhập viện từ đêm qua chưa được chuyển trại.

Nhưng qua nữa đêm thì bắt đầu nghe có tiếng súng . Tiếng súng lớn, nhỏ, từ xa rồi mỗi lúc một gần. Chúng tôi thốt giựt mình, băn khoăn nhìn nhau, hoang mang lo sợ. Bầu không khí bắt đầu căng thẳng, mấy anh sinh viên y khoa thì nghe ngóng bàn tán, thắc mắc không biết tiếng súng từ đâu vọng lại …

Lúc đầu chúng tôi tưởng là thành phố Huế và BV bị pháo kích, nhưng không ngờ, chừng 3, 4 giờ sáng, bất thần không biết tứ ngỏ ngách nào có chừng mười mấy người tràn vào phòng cấp cứu, họ xưng chúng tôi là quân giải phóng. Đa số mặc áo quần đen, súng mang vai , bị rết ngang hông. Họ bắt tất cã chúng tôi băng bó cho một số người bị thương, đồng thời hò hét chia nhau lục soát, vơ vét, và lấy đi một số thuốc men, bông băng, dụng cụ y khoa v.v… Họ lấy sạch không chừa lại một món nào, kể cã những bánh mứt chúng tôi để trong phòng trực.

Trong lúc bọn họ đang tranh nhau lục lọi, thì ầm một cái, một tiếng nỗ rớt rất gần, đâu đó trong BV, rồi tiếng thứ hai, thứ ba … rớt ngay con đường phía trước cổng chính BV, kề phòng cấp cứu… Điện trong phòng cấp cứu vụt tắt. Thừa lúc bọn chúng nhốn nháo kéo nhau đi, chúng tôi mạnh ai nấy tìm đường chạy thoát thân.

Ra khỏi phòng cấp cứu tôi cắm đầu chạy, tôi không định hướng được là mình đang chạy đi đâu. Súng nỗ tư bề, cứ nằm xuống trốn đạn, rồi đứng lên chạy, cứ thế mà chạy. Chạy bất kể tả hữu. Cho tới khi tôi đâm sầm vào một người , định thần ngó lại mới biết đó là cha Trung, tuyên úy của BV. Cha từ phía một trại bệnh nào đó tình cờ chạy về phía tôi. Nét mặt cha cũng thất thần, đầy vẻ lo âu, nhận ra tôi, cha hỏi “ con ở mô chạy lại đây?”

Tôi nói “ từ phòng cấp cứu”.

Vừa nói vừa theo cha, chạy về phía nhà nguyện của BV và cũng là chổ ở thường ngày của cha. Đến đó thì đã có hai bà xơ dòng áo trắng và vài người nữa không biết từ trại bệnh nào cũng chạy lại đây. Tôi nhận ra trong số đó có xơ giám thị suốt trong sáu năm tôi nội trú tại trường trung học Jeane d’ Arc.

Cha Trung quen biết ông nội và ba mạ tôi, thỉnh thoảng ngài có ghé đến thăm ông nội nhà ở đường Hàm Nghi, nên ngài biết tôi. Không biết chạy đi đâu nữa tôi ở lại đó với cha hai bà xơ, và mấy người nữa.

Bốn năm ngày liền chúng tôi chui rúc trong nhà nguyện, không dám chạy ra ngoài và cũng không liên lạc được với một ai từ những trại bệnh khác. Súng nỗ tư bề nên ai ở thì cứ đâu ở đó.

Sau khi đám người xưng là “quân giải phóng” ở Cấp Cứu kéo nhau đi chúng tôi không gặp, không thấy bọn VC nào nữa, hay chúng đang lẫn trốn trong những trại bệnh khác thì tôi không biết.

Tới ngày thứ năm, ruột gan như lửa đốt, không biết ông bà nội, mạ và mấy anh em tôi trên đường Hàm Nghi ra sao. Tôi nói với cha Trung, cha ơi con muốn muốn về nhà. Cha bảo, không được, súng đạn tư bề, nguy hiểm lắm, cứ ở đây với cha và mấy xơ đi đã, khi mô có lính mình xuất hiện thì mới đi được. Tôi hỏi, khi mô thì lính mình mới tới, cha nói không sớm thì muộn họ cũng sẽ phản công thôi, cha nói như để trấn an tôi và mọi người thôi chứ trên mặt cha thì vẫn đầy vẻ lo âu.

Không biết nghe tin từ đâu mà một người trong nhóm nói người ta chạy vô ở trong nhà thờ Phủ Cam đông lắm. Tôi nghe càng nóng lòng muốn chạy về nhà. Muốn đi phần vì sốt ruột muốn gặp mạ với mấy anh em tôi, phần vì đói. Đã mấy ngày không có gì ăn ngoài mấy ổ bánh mì cứng còng của Caritas còn sót lại ở nhà nguyện chúng tôi chia nhau gặm … cầm hơi!

Tôi quyết định chạy về tìm gia đình. Tôi liều. Trên người tôi chỉ có bộ đồ đồng phục dính đầy máu, tôi chạy ra phía sau cổng BV, tìm đường về nhà. Vừa chạy vừa lo, ngó tới, ngó lui không một bóng người, nhưng tiếng súng thì nghe rất gần. Không biết mấy lần vấp, tôi té xuống. Té rồi lồm cồm bò dậy, vài bước lại vấp té. Tôi lạnh run , hai hàm răng đánh bò cạp, nhìn cảnh tượng xác người nằm đây đó, máu me đóng vũng. Không biết họ bị thương đâu đó ở bên ngoài chạy vào gục chết ở đây. Quá sợ hải, tôi định chạy trở lại nhà nguyện thì bất thần thấy anh Văn hớt ha hớt hải từ cổng sau BV chạy vô.

Văn là bạn của anh Hải, anh kế tôi, hai người cùng học ở Văn Khoa. Nhà Văn ở miệt trên, gần dòng Thiên An. Mặt mày Văn xanh xao, hai mắt thất thần, trủm lơ, gặp tôi Văn lắp bắp, nói không ra hơi. Ti ơi thằng Hải bị bắn chết rồi. Hắn bị bắn ở bên Văn Khoa. Toàn thân run rẫy, tôi khuỵu xuống . Văn đỡ tôi đứng lên. Lại có tiếng nổ rất gấn. Văn hoảng hốt kéo tôi chạy lại ngồi xuống bên trong bức tường sát cánh cổng sau BV. Hai đứa tôi run rẫy ngồi sát vào nhau. Lát sau, tiếng được tiếng mất, anh lắp bắp kể. Văn nói mấy đêm rồi Văn với mấy người anh của tôi trốn đạn trong nhà thờ Chánh Tòa, { nhà thờ Phủ Cam } nhưng rồi đêm qua có mấy sinh viên của mình dắt một toán VC vô nhà thờ đọc một lô danh sách, họ lùa người đi đông lắm, không biết họ đưa đi đâu. Văn kể một hơi mấy tên “sinh viên của mình” nhưng bây giờ tôi không còn nhớ nổi.

Khi đám người bị lùa đi, thân nhân của họ khóc la thảm thiết.

Sau đó Văn, anh Hải cùng mấy người bạn rủ nhau trốn ra khỏi nhà thờ và mạnh ai nấy tìm đường trốn.

Ra khỏi nhà thờ, không biết trốn chui, trốn nhủi, chạy quanh, chạy co, làm sao mà Văn với anh Hải lại tới được trường y khoa. Anh Lộc, anh Kính đi lạc hướng nào không biết. Hai anh hè nhau chui vô phòng thí nghiêm trốn thì thấy có vài người đã bị bắn chết từ bao giờ mà những vũng máu đọng dưới họ còn tươi lắm. Văn, anh Hải hoảng hồn chạy trở ra.

Chưa ra khỏi cửa thì gặp Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn thị Đoan Trinh cùng mấy sinh viên khác nữa Văn không biết tên, chỉ biết họ đồng bọn với HPNP. Văn biết mặt Phan là vì Văn có người anh học y khoa cùng lớp với Phan.

Gặp Văn, Phan nạt nộ: tụi mi chạy trốn đi mô? Khôn hồn thì chạy qua bên Văn Khoa tập trung ở đó để đi tải thương!

Hải và Văn biết không thể nào thoát khỏi sự kiểm soát của bọn HPNP nên vội vàng chạy bộ xuống Văn Khoa, hy vọng bị bắt đi tải thương chứ không bị giết.

Bọn Trinh, Phan chạy xe Honda nên họ tới trước, và cũng đã bắn trước một số người khác rồi. Hải ,Văn không biết nên lúc thúc chạy đến. Anh Hải chạy vô trước, nghĩ là sẽ gặp được một số bạn bè khác, cùng đi tải thương với nhau như lời HPNP nói.

Vừa vô tới giảng đường thì anh Hải bị HPNP bắn gục ngay. Văn mắc đi cầu, tìm chổ phóng uế nên chạy vô sau anh Hải. Mới tới cửa thì nghe tiến súng, tiếng hét của anh Hải, Văn quay đầu bỏ chạy. Chưa kịp rượt theo Văn thì bỗng ầm, một tiếng nổ đâu đó, trong sân trường đại học, khiến HPNP và đồng bọn hoảng hốt leo lên xe Honda tháo chạy.

Văn thoát chết, chạy như điên, như khùng, chạy vô BV, và tình cờ gặp tôi trong đó.

Nghe anh Hải bị bắn trong sân đại học Văn khoa, tôi bỏ ý định về nhà, tôi muốn chạy qua Văn khoa tìm anh tôi, hy vọng anh chưa chết, tôi nghĩ sẽ tìm cách đưa anh vô BV cấp cứu. Tôi khóc nói với Văn, em tới chổ anh Hải. Văn can, Ti đừng đi, tụi nó có thể trở lại. Tôi mặc kệ Văn ngồi đó, vùa khóc vừa chạy. Một lát nghe tiếng chân Văn sau lưng, miệng thì nói, Ti ơi, vô BV trốn đi, Hải nó chết thiệt rồi, mà chân vẫn bước theo tôi. Tôi như người mất hồn, vừa đi, vừa chạy, vừa khóc. Trời ơi, thật là khủng khiếp, chỉ một đoạn đường từ cổng sau BV tới sân trường VK mà không biết bao nhiêu là xác người, áo quần vung vãi khắp nơi.

Chúng tôi chạy mới tới trường trung học Jeane d’Arc, thì gặp bọn HPNP lấp ló trước cổng trường với một nhóm bộ đội Bắc Việt. Người nào mặt mày đằng đằng sát khí. Gặp lại Phan, Văn run rẩy, Phan chưa kịp nói thì Văn đã lắp bắp phân trần, em qua BV kiếm con Ti chớ em không có trốn mô, và xin xỏ, anh cho em với con Ti đem xác thằng Hải về nhà rồi em trở lại đi… tải thương!

Phan không trả lời Văn, hắn nhìn tôi ác độc: mi về nhà kêu thằng Lộc, thằng Kính xuống đây mà đem thằng Hải về.

Tôi líu lưỡi, em không biết hai anh em ở mô mà kêu. Trước đây tôi không hề biết mặt HPNP, mà cũng chưa hề nghe nói tới tên người này vì trước năm 68 tôi còn là học sinh trung học. Có thể các người anh của tôi thì biết, vì họ là những lớp sinh viên đàn anh, đã từng qua những khó khăn đối đầu với đám sinh viên theo phe “tranh dấu, lên đường xuống đường” của những năm trước.

HPNP to nhỏ gì với những người đồng bọn rồi quay lại ra lệnh cho tôi với anh Văn đem xác anh Hải về nhà. Chưa biết nghĩ cách nào để đem xác anh Hải về thì Văn thấy một chiếc xích lô của ai bị bể bánh xe sau, nằm chơ vơ cạnh vách tường trường Jeane d’Arc.

Văn gọi tôi theo anh. Chúng tôi đẩy chiếc xích lô sứt cọng gẫy càng về phía Văn khoa. Có chừng 10 xác người trong đó. Tôi không dám nhìn lâu. Chúng tôi hè hụi khiêng Hải bỏ lên xích lô. Xác anh đã cứng. Đùm ruột lòi ra ngoài trông rất khủng khiếp. Hai mắt vẫn còn mở trừng. Miệng vẫn còn há ra.

HPNP vừa đánh anh Văn bằng báng súng vừa chửi: Chuyến ni mi trốn nữa, mi gặp lại tau là mi chết!

Văn run rẫy lắp bắp: dạ lạy anh, em không dám nữa mô. Rồi chúng tôi hè hụi đẩy chiếc xích lô mang xác người anh xấu số của tôi nhắm hướng cầu Kho Rèn đi lên. Nhà tôi ở trên đường Hàm Nghi. Qua khỏi cầu một chút. Suốt quảng đường từ đó về đến nhà, có rất nhiều đám lính bộ đội Bắc Việt đứng tụm năm, tụm ba. Chúng tôi không bị bắt giữ lại vì có HPNP chạy đi trước ra dấu cho họ để cho chúng tôi đi.

Khúc đường ngang trường Thiên Hựu cũng có rất nhiều xác người nằm rải rác. Nhiều vũng máu cũng như xác người bị ruồi bu đen. Đã mấy ngày không có gì trong bụng, tôi vừa đi vừa ói khan. Văn cũng vậy. Chúng tôi rán sức đẩy chíếc xích lô, trong lúc HPNP cùng hai người đàn bà nữa cứ chạy xe đảo tới, đảo lui hối chúng tôi mau lên. Tôi nghe chúng nó hỏi nhau, bên Lý Thường Kiệt, Nguyễn Huệ còn ai nữa không? Có mấy chiếc xe Honda chở gạo, bánh tét, đã tịch thu của nhà ai đó chạy thẳng vô trường Thiên Hựu.

Lúc đó bỗng dưng có mấy chiếc trực thăng xuất hiện trên trời nhã đạn xuống,Văn nói như reo bên tai tôi, Ti ơi, máy bay của mình. Mừng chưa kịp no, thì trời ơi, từ những cửa sổ trên lầu của trường Thiên Hựu những họng súng lớn nhỏ nhả đạn, nhắm hai chiếc trực thăng mà bắn, lúc đó chúng tôi mới biết là VC đang ở trong trường Thiên Hựu quá nhiều.

Hoảng hồn tôi, Văn chạy lại ngồi sụp xuống bên tường rào của trường tránh đạn.

Phan và đồng bọn biến đâu mất. Tụi nó như ma, khi ẩn, khi hiện. Nhưng chỉ được một lát, hai chiếc trực thang bay đâu mất. Chúng tôi thất vọng, khi thấy Phan với đồng bọn xuất hiện hối chúng tôi đi.

Lên tới cầu Kho Rèn, thấy một đám người, đàn ông, đàn bà, con nít bị bắt trói chung với nhau ngồi trên đầu cầu. Họ ngồi gục đầu xuống hai đầu gối. Tiếng con nít khóc, tiếng mấy bà mẹ dỗ con: nín đi con ơi.

Đi ngang qua họ mà chúng tôi không dám nhìn. Có tiếng người trong đám gọi tôi Ti ơi, quay lại tôi nhận ra chị giúp việc của mẹ tôi và vợ của một chú cùng đơn vị với ba tôi ở tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Tôi đoán họ là những người từ trên Phủ Cam, chung quanh cầu Kho Rèn, Hàm Nghi và những con đường chung quanh đó chạy xuống tìm đường trốn lên Phú Lương thì bị bắt giữ.

Tôi định dừng lại hỏi thăm thì HPNP trờ xe tới nạt nộ: “đi, mau ngó chi!”

Trên đoạn đường từ Văn Khoa ngang qua trường Thiên Hựu, cầu Kho Rèn, lên tới nhà nội chúng tôi thấy nhiều người bị trói dính chùm vào với nhau đi trước mấy người mặc đồ đen đi dép râu, mang súng.

Súng nỗ tư bề mà sao không thấy bóng dáng lính mình ở đâu cã. Chỉ thấy lính bộ dội Bắc Việt khắp nơi.

Trên đường Hàm Nghi, Nguyễn thị Đoan Trinh chạy ngang nhà nào mà y thị gật đầu là y như rằng trong nhà đó có người bị bắt đem ra, người thì bị bắn tại trước nhà, người thì bị dắt đi, mấy ông bà cụ trong nhà chạy theo nằm lăn ra đường khóc la thảm thiết. Bọn lính Bắc thì cứ chửi thề luôn miệng, đéo mẹ câm mồm, ông bắn bỏ mẹ bây giờ …

Hai chúng tôi cứ nghiến răng, cúi mặt, lầm lủi đẩy chiếc xích lô mang xác Hải đi tới.

Khi gần tới nhà tôi ở số 24 đường Hàm Nghi thì HPNP và con hồ ly Trinh rà xe lại gần bảo tôi: không được đẩy vô nhà mi. Đẩy lên trên tê!

Đẩy lên trên tê, tôi hiểu đây là đẩy lên nhà ông bà nội tôi. Cũng trên đường Hàm Nghi nhưng nhà nội tôi ở trên dốc, hướng đi lên Phủ Cam. Nhà ba mạ tôi thì ở gần cầu Kho Rèn.

Tôi cũng không hề biết mặt Nguyễn thị Đoan Trinh trước đó. Trong hoàn cãnh này tôi mới biết mặt y thị là nhờ anh Văn nói. Tội nghiệp anh Văn, cứ tưỏng khi HPNP biểu cùng tôi đẩy xác anh Hải về là được tha chết. Anh Văn và tôi cũng không ngờ rằng đoạn đường từ Văn Khoa lên tới nhà nội trên đường Hàm Nghi là đoạn đường sau cùng chúng tôi đi chung với nhau trong cuộc đời này.

Lên tới nhà nội, chúng tôi đẩy Hải vô bên trong hàng rào chè tàu, bỏ Hải ngoài sân tôi với Văn chạy vào nhà, nhà vắng ngắt, đi từ trước ra sau bếp gọi ông ơi, mệ ơi.

Nghe tiếng ông nội yếu ớt từ trong buồng vọng ra, ai đó, đứa mô đó? Con đây, ông nội. Nghe tiếng tôi, ông tôi hấp tấp chạy ra, bước chân xiêu xiêu, ông tôi chạy lại ôm tôi, ông khóc, ông nói, lạy Chúa lạy Mẹ cháu tui con sống. Tôi không khóc được, tôi run rẫy trong tay ông nội. Ông tưởng tôi sợ nên an ủi, con còn sống mà về được đây là phúc lắm rồi, ở đây với ông nội, không can chi mô! Nghe nói mạ mi đưa ba thằng em mi chạy lên Phú Lương rồi, không biết đi tới mô rồi, có thoát được không ? Lạy Chúa , lạy Mẹ phù hộ.

Tôi không nói vì quá mệt, kéo tay ông nội ra ngoài, thấy Văn ngồi bệt dưới nền nhà, ông hỏi, đứa mô giống thằng Văn rứa bây?

Văn òa khóc, tôi khóc theo, kéo ông nội ra sân. Nhìn thấy xác Hải ông nội tôi khuỵu xuống, miệng thì kêu trời ơi, trời ơi, răng mà ra nông nổi ni.

Chúng tôi đem Hải vào nhà, đặt anh trên divan. Ông nội lấy mền đắp lên xác Hải.

Hai người anh tôi đang trốn trên trần nhà đòi xuống nhìn mặt Hải. Ông nội không cho. Anh Lộc giở nắp trần nhà sát góc tường, thò đầu xuống vừa khóc vừa nói, Ti, đẩy cái ghế đẩu qua cho anh. Tôi nghe lời ra đằng sau bếp lấy cái ghế đẩu mang lên để ngay góc phòng cho anh Lộc nhẩy xuống. Ông nội ngó lên, quơ quơ hai tay, giọng ông lạc đi, đừng xuống, ông nội lạy con, đừng xuống, ở trên đó đi mà… Anh Kính đang ở trên đó, cũng đang khóc. Lộc chưa kịp nhẩy xuống thì nghe tiếng nói, tiếng chân người ngoài sân. Anh vội vàng đóng miếng ván lại thì bọn HPNP cũng vừa vào đến.

Thấy Phan bước vô, mặt Văn biến sắc, anh lắp bắp nói với ông nội, anh Phan cho tụi con đem xác về đó ông ơi. Ông nội đứng im không nói. Hai mắt cú vọ của nó ngó ông nội hỏi: thằng Lộc, thằng Kính ở mô?

Ông nội nói tui không biết. Phan gằn giọng: ông thiệt không biết tụi hắn ở mô? Tụi hắn năm mô cũng về ăn tết ở đây mà ông không biết răng được?

Ông nội nói, ba ngày tư ngày tết, ăn xong thì tụi hắn đi chơi, đi thăm bà con họ hàng chứ chẳng lẻ ở nhà hoài răng? Chừ thì tui biêt tụi hắn ở nhà mô mà chỉ!

Mắt Phan ngó láo liên khắp nơi, chợt thấy cái ghế đẩu ngay góc phòng, nó cười khan một tiếng.

Tôi đứng núp sau lưng ông nội, HPNP hung hăng bước tới, xô ông nội qua một bên, nó nắm lấy tóc tôi kéo tôi ra về phía hắn. Ngó lên trần nhà la lớn: Lộc, Kính, Hiệp, tụi mày không xuống tau bắn con Ti!

Nó vừa nói, vừa xoáy mái tóc dài của tôi trong tay, nó đẩy tới, đẩy lui. Tôi đau điếng, tôi sợ, tôi run lẩy bẩy, nước mắt ứa ra nhưng không dám la thành tiếng. Ông nội tôi chấp tay lạy nó như tế sao: tui lạy anh tha cháu tui, con gái con lứa, hắn biết chi mô.

Thằng Phan càng la lớn: tau biết tụi mi trên đó, có xuống không thì nói, tau bắn con Ti.

Phan xô tôi té xuống, lấy chân đạp lên lưng. Chĩa mũi súng lên đầu tôi hô một, hai, ba…

Lập tức anh Lộc mở nắp trần nhà thò đầu xuống la to: đừng, đừng bắn em tau, tau xuống, để tau xuống.

Ông nội tôi chạy lại giữ cái ghế cho anh bước xuống, hai chân ông run, ông té sấp, đang lúc Anh Lộc tìm cách tuột xuống, thò hai chân xuống trước, hai tay còn vịn trần nhà, khi đôi chân vừa chạm chiếc ghế đẩu thì HPNP đã nỗ súng, đạn trúng ngay chính giửa cổ, máu phọt ra, Lộc lăn xuống sàn nhà toàn thân anh dẫy dụa mấy cái rồi nằm im.

Mặc ông nội tôi la hét thất thanh, Phan chĩa súng bắn lên trần nhà, nghe tiếng anh Kính lăn tới đâu, nó bắn tới đó, bắn nát trần nhà, hết đạn nó dành lấy cây súng của một thằng khác bắn tiếp, cho tới khi anh Kính tôi rớt xuống theo mấy miếng ván.

Anh Văn ngồi bệt xuống đất, nhắm mắt, bịt tai, run lẫy bẩy, ngồi kề bên cạnh anh người tôi tê cóng, đái ỉa ra cã quần, ông nội tôi nhào tới ôm anh Kính, hai mắt trợn trừng, anh đang thều thào những lời sau cùng, ông khóc, ông chửi rủa thằng Phan, nó say máu, bắn luôn ông nội tôi. Ông tôi đỗ xuống bên cạnh anh Kính.

Bắn ông tôi xong chúng kéo nhau đi bắt anh Văn theo. Còn lại một mình, tôi bò lại ôm lấy ông nội, tôi khóc không ra tiếng, tôi thở không ra hơi, hai bàn tay tôi ướt đẩm máu, máu của ông nội tôi, tôi bò sang anh Lộc, bò sang anh Kính, tôi lay, tôi gọi, tôi gào, không ai nghe tôi hết, anh tôi không trả lời tôi , hai con mắt, bốn con mắt, sáu con mắt

đều mắt mở trừng, ông nội tôi nằm im, máu trong ngực ông vẫn tuôn ra từng vòi. Tôi gục đầu xuống xác ông lịm đi. Không biết bao lâu thì tôi tỉnh lại, nhưng không ngồi dậy nổi. Cứ nằm ôm lấy xác ông nội. Tóc tôi bết đầy máu, toàn thân tôi, máu,

phân và nước tiểu đẩm ướt. Tôi không còn sức đễ ngồi lên. Không biết tôi nằm bên cạnh xác ông tôi với ba người anh như vậy là bao lâu.

Khi tỉnh dậy thì thấy hai vợ chồng bác Hậu, vài người lối xóm nữa của với ông nội đang ở trong nhà.

Họ dọn dẹp, khiêng bộ ngựa trong nhà bếp ra trước phòng khách, đặt xác ông nội cùng với ba người anh tôi nằm chung với nhau. Hai bác gái đem tôi vào phòng tắm, phụ nhau tắm rửa cho tôi như một đứa con nít, bác Hậu lấy áo quần của bác mặc cho tôi. Tâm trí tôi hoàn toàn tê liệt. Tôi không còn khóc được, không còn mở miệng nói được câu nào. Ngày cũng như đêm ngồi rủ rượi bên cạnh xác của ông tôi, các anh tôi. Tôi không còn sợ chết. Nhưng sao tụi nó không giết luôn tôi? Trời hởi, trời ơi!

Nhìn thấy tôi tiều tụy, mỗi ngày bác Hậu gái khuấy cho tôi vài muổng bộ bích chi ép tôi uống.

Thiệt ra nhà nội cũng chẳng còn chi. Gạo cơm, bánh mứt thì bị tụi nó khiêng đi hết rồi. Bác Hâu còn dấu được ít gạo, ít than nấu cháo uống cầm hơi với nhau.

Ngày hôm sau thằng Phan trở lại. Bác Hâu xin phép được chôn ông tôi và mấy người anh sau vườn nhà nhưng nó không cho, nói cứ để đó.

Đã hơn bảy ngày, xác đã bắt đầu sình lên và nặng mùi. Mà Phan không trở lại.

Một buổi tối tụi bộ đội Bắc Việt đến lục lọi kiếm gạo. Bác Hậu xin chúng nó đào huyệt sau nhà để chôn ông nội và ba người anh tôi. Chúng nó bảo ừ thối quá rồi thì chôn đi, nhưng chỉ được đào một lỗ huyệt.

Vợ chồng bác Hậu khóc lóc năn nĩ: mấy anh ơi, người chết rồi biết chi, anh cho tụi tui dào 4 huyệt. Chúng không cho. Chúng nó phụ bác Hậu đào huyệt. Bảo đem cã bốn người bỏ xuống chung một lỗ. Lấp lẹ đi, thối quá. Bác Hậu với mấy người trong nhà không ai muốn làm, ngó nhau mà khóc.

Chiều tối hôm đó Văn trở lại với Phan và mấy thằng bộ đội. Chúng nó bắt Văn phụ với mấy thằng bộ đội khiêng từng người ra bỏ xuống huyệt. Hai vợ chồng bác Hậu theo ra vườn.

Tôi kiệt sức nằm vùi một chổ nhưng tai tôi vẫn nghe rỏ những lời đối thoại trong nhà. Tôi không đũ can đãm theo ra vườn chứng kiến cảnh vùi lấp những người thân yêu của tôi. Nằm trong buồn ông bà nội nhưng tôi nghe rỏ từng tiếng cuổng xẻng đang đào đất. Tâm rí tôi quay cuồng, ruột gan tôi đòi đoạn. Trời ở đâu, đất ở đâu ? Tôi gọi ông tôi, gọi anh Lộc, anh Kính, anh Hải, không ai nghe tôi hết.

Khi bốn cái xác người được bỏ xuống, miệng lỗ chưa được lấp,thì tôi nghe tiếng súng nỗ, tiếng kêu gào của vợ chồng bác Hậu, nhưng không nghe tiếng của Văn. Tiếng bác Hậu kêu Văn ơi, Văn ơi giọng bác đòi đoạn, thì tôi biết chuyện gì đã xẩy ra cho Văn. Toàn thân tôi lẩy bẩy, tôi cảm thấy khó thở, một lần nữa cứt và nước đái trong người tôi túa ra.

Tôi nghe tiếng mấy thắng bộ đội hò hét bảo lấp đất lại. Bác Hậu và những người hàng xóm của nội tôi đành phải làm theo.

Khi tụi bộ đội VC bỏ đi, bác Hậu chạy vào buồng vò đầu, bức tai, giọng tức tửởi: thằng Văn nằm chung với ba thằng anh mi rồi con ơi! Trời ơi, là trời ơi. bác Hậu đấm ngực: không biết thằng Văn đã chết chưa mà hắn bắt tui lấp. Văn ơi là Văn ơi, con tha tội cho bác, trời ơi người mô mà ác như rứa.

Tôi lặng người, nghe bác Hậu khóc anh Văn.

Sau lần đó không đứa nào trong bọn chúng trở lại, kễ cã tụi bộ đội.

Chắc nhà ông tôi chẳng còn người để mà giết, chẳng còn của cãi chi dễ mà cướp nữa.

Hơn hai mươi ngày, tôi nằm liệt lào trong nhà nội. Bên ngoài súng đạn vẫn tư bề.

Hai vợ chồng bác Hậu không nỡ bỏ tôi lại một mình, trong lúc bác nghe ngóng và biết đa số dân Phủ cam đã tìm đường chạy thoát được xuống Phú Lương. Bác năn nĩ tôi: rán ăn uống thêm một chút để có sức mà chạy, không lẽ con nằm đây chờ chết? Con không muốn tìm mạ con răng?

Hôm sau nữa tôi theo gia đình bác Hậu tìm đường chạy lên Phú Lương vì nghe nói lính Mỹ, lính mình đã thấy xuất hiện chung quanh đây rồi.

Đi xuống ngã cầu Kho Rèn thì cầu đã bị sập, bác theo đoàn người đi hướng khác, tôi đi theo như người mất hồn, họ đi đâu tôi theo đó, tôi không còn nhớ là mình đã đi qua được những nơi đâu. Có điều tôi lấy làm lạ, trên đường chạy giặc, mỗi khi đạn pháo bắn khắp nơi mà người ta cứ gồng gánh nhau mà đi, không ai chịu dừng lại kiếm chổ tránh đạn, người ta nói với nhau: khi mô mà có mọc chê hay đạn pháo chi đó thì bọnVC chui vô nhà dân để trốn đạn, chúng nó không ra đường để chặn bắt dân lại, vì vậy người ta cứ chạy bất kể, dưới lằn mưa đạn người ta càng chạy đi đông hơn. Ôi những người dân tội nghiệp của xứ Huế thà chết dưới bom đạn còn hơn để bị lọt vô tay quân sát nhân ác độc.

Cuối cùng thì tôi cũng về đến được Phú Lương gặp mạ và ba đứa em trai của tôi. Quá đau khổ, Mạ tôi bị phát điên khi hay tin cái chết của ba người anh và ông nội.

Ít lâu sau ba tôi trở về sau một đợt hành quân nào đó của tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Thấy mạ tội như vậy, biết không thể trở lại đường Hàm Nghi ông mướn nhà ở tạm tại Phú Lưong.

Sau khi Huế được giải thoát. Ba tôi nhờ bà con lối xóm cãi táng Văn, ba người anh, và ông nội tôi, tang lễ được cữ hành tại nhà thờ Phủ Cam do cha Nguyễn Phùng Tuệ chủ tế.

Gia đình anh Văn đồng ý cho anh Văn đươc nằm lại trong miếng vườn nhà ông nội tôi cùng với ba người anh của tôi.

Ba tôi được giải ngủ khoảng giữa năm 69. Mạ tôi vẫn trong cơn điên loạn không thuyên giảm. Ba tôi quyết định bỏ Huế đem hết gia đình vào Long Khánh sinh sống. Nhà nội giao lại nhờ hai bác Hậu coi chừng. Nhà ở 24 Hàm Nghi { gần dường rầy xe lửa } thì bán cho ai đó tôi không rỏ.

Thưa ông Liên Thành,

Đó là những cái chết oan khiên của những người ruột thịt thân yêu mà tôi phải chứng kiến tận mắt với muôn ngàn đau dớn. Trong bà con thân tộc nội ngoại hai bên của tôi có rất nhiều người bị bắt đi ở nhà thờ Phủ Cam, một số bị bắt ở nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế. Số người bị chôn sống, mất tích lên tới 70 người. Tất cã đều là học sinh, sinh viên, thường dân, nông dân , buôn bán ở chợ An Cựu.

Sau Tết Mậu Thân, những người bà con còn lại của tôi quá đau khổ, sợ hãi, họ đã âm thầm bỏ Huế, tãn mác khắp nơi, thay tên đổi họ mà sống…

Sau biến cố tháng 4 đen 75, gia đình tôi lại là những nạn nhân của lũ Việt Gian Cộng Sãn ác độc, vô luân. Ba tôi và những đứa em trai còn lại cũng đã chết sau mười mấy năm bị đày đọa trong lao tù CS.

Đã 40 năm qua, những vết thương đó vẫn còn tươi rói trong tôi. Nỗi đau mỗi ngày một đầy. Đó là những cái chết oan khiên trong muôn ngàn cái oan khiên của người dân Huế.

Tôi là người con duy nhất trong gia đình còn sống sót sau tết mậu Thân cũng như sau những ngày mất nước. Nay viết lại những cái chết thương tâm của những người Thân Yêu trong Gia đình tôi với tư cách là một nhân chứng và nạn nhân, để tố cáo Tội Ác của Việt Gian Cộng Sãn, có như thế, oan hồn của ông nội và anh em tôi mới có thể siêu thoát

Tôi sẳn sàng ra làm nhân chứng trước tòa án quốc tế, cũng như xuất hiện trước các phương tiện truyền thông khi cần thiết

Xin trình ông tên tuổi ông nội tôi, và của ba người anh bị sát hại:

Tên ông nội:

- Nguyễn Tín, 70 tuổi.

Ba người anh:

- Nguyễn Xuân Kính, sinh viên y khoa, sinh năm 1942.

- Nguyễn Xuân Lộc, sinh viên luật, sinh năm 1946

- Nguyễn Thanh Hải, sinh viên Văn Khoa, sinh năm 1949

- Lê Tuấn Văn, sinh viên Văn Khoa, bạn của anh Hải tôi.

Địa chỉ hiện tại của tôi:
Nguyễn thị Thái Hòa
xxxxxxxxxxxxxxxxxx

Phone: xxxxxxxxxxxxxxx

Cell: xxxxxxxxxxxxxxxxx


Người con gái phi thường Lê Thị Công Nhân - Nguyễn Triệu Việt




Nguyễn Triệu Việt

Giữa cao điểm của chế độ toàn trị CSVN hôm nay có một người con gái phi thường vượt khỏi mọi sợ hãi, đã dám đứng lên đương đầu với cả hệ thống bạo lực, người con gái có tên rất gần gũi với những người VN cùng khồ: đó là cô Lê Thị Công Nhân, 31 tuổi.

Chúng tôi xin được tổng hợp câu chuyện của nữ luật sư trẻ tuổi Lê Thị Công Nhân tại VN qua các bài viết của một số tác giả tên tuổi trong thời gian gần đây để chúng ta cùng có một niềm tin sắt son về một ngày mai tươi sáng của tuổi trẻ VN cũng như dân tộc VN. Trước hết chúng tôi xin giới thiệu bài viết của tác giả Trần Phong Vũ có tựa đề "Lê Thị Công Nhân - Người con cưng của Thượng Đế".

Cho đến hôm nay, Lê Thị Công-Nhân đã trở thành một tên tuổi lớn. Không phải lớn vì cô là một luật sư trẻ tuổi, tài ba. Cũng không phải lớn vì cô đã được cả thế giới biết đến, nhưng chính cái nhân cách phi thường ẩn giấu đàng sau vóc dáng mảnh mai, yếu đuối một trái tim nhân hậu, một thái độ can đảm, một ý chí kiên cường, bất khuất của một con người có niềm tin son sắt nơi Thượng Đế, đã khiến cho tên tuổi của cô trở nên vĩ đại, lẫy lừng và sáng chói. Tên Công-Nhân của cô được ghép lại bởi hai từ: Công-Bằng và Nhân-Ái.

Cái tên đã được nói ra từ cửa miệng của người Mẹ đã cưu mang Lê Thị Công-Nhân,

Khi có kẻ tò mò muốn rõ vì sao một thiếu nữ trí thức có nhân dáng thanh cao, trong suốt và một vẻ đẹp hồn nhiên như thiên thần lại có tên là Công-Nhân, bà Trần Thị Lệ cho biết: vì sống dưới một xã hội lưu manh, gian dối, bất công và độc ác bà kỳ vọng sau này con gái bà ý thức được bổn phận và trách nhiệm của mình nên đã rút gọn hai từ Công-Bằng & Nhân-Ái để đặt tên cho cô là “Công-Nhân”. Từ đấy cái tên định mệnh này đã chi phối trọn vẹn cuộc đời cô bé.

Ra đời năm 1979 tại Tiền Giang, phần đất của miền nam nước Việt, năm nay cô vừa tròn 31 tuổi. Như vậy là trong ngót ba thập niên đầu đời, Lê Thị Công Nhân đã sống và lớn lên trong lòng chế độ cộng sản độc tài, độc đảng, phi nhân và tàn ác. Nhưng giống như bông sen, cô sống “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Được như thế chính là nhờ nhân cách và công lao dưỡng dục của một bà mẹ đạo đức từng thừa hưởng môi trường tự do, dân chủ, phóng khoáng trong suốt nửa đời trước, khi may mắn sống và được giáo dục dưới chế độ miền Nam trước tháng tư năm 1975.

Từ tiểu học đến hết trung và đại học, cô Công Nhân có dịp học ở Hà nội. Ước vọng của cô là trở thành một luật sư giỏi để mai này mang sở học và tâm huyết của mình bên vực giới công nhân, lao động cùng khổ. Cô tốt nghiệp Cử nhân Luật khóa K22 (1997-2001) và sau hai năm chuyên ngành cô trở thành luật sư thực thụ, hành nghề tại Văn Phòng luật sư Thiên Ân (Ơn Trời) của luật sư Nguyễn Văn Đài. Từ đấy, lý tưởng tranh đấu cho một xã hội công bằng và nhân ái đã trở thành niềm đam mê âm thầm nhưng mãnh liệt trong trái tim nhân hậu của người nữ trí thức trẻ.

Trong suốt mấy năm đầu, khi linh mục Nguyễn Văn Lý tái phát động cuộc đấu tranh cho tự do tôn giáo, cho nhân quyền, nhân phẩm Việt Nam, cùng với luật sư Nguyễn Văn Đài và nhiều nhà dân chủ khác, Lê Thị Công-Nhân bắt đầu viết những bài tham luận trực diện chỉ trích chế độ độc tài cộng sản về những hành vi xâm phạm quyền sống, quyền làm người của giới lao động trong nước. Cô kịch liệt tố cáo tổ chức Tổng Công Đoàn Việt Nam , một cơ cấu do đảng và nhà nước bảo trợ để ngầm kiểm soát và khống chế công nhân. Những bài viết của cô đã được loan truyền rộng rãi trên các mạng lưới thông tin toàn cầu cùng với những cuộc phỏng vấn của các đài phát thanh quốc tế dành cho cô. Sự kiện này đã chọc giận chế độ. Và giọt nước cuối cùng đã làm tràn ly: cô chính thức gia nhập Khối 8406 do linh mục Nguyễn Văn Lý khởi xướng, công khai nhận làm phát ngôn nhân đảng Thăng Tiến, được mời qua Ba Lan tham dự hội nghị thành lập tổ chức yểm trợ phong trào bảo vệ người lao động Việt Nam1. Mạng lưới công an, mật vụ bắt đầu khép chặt gọng kìm giám sát quanh cô. Tất cả mọi đường đi nước bước của luật sư Lê Thị Công-Nhân đều được con mắt của đảng và nhà nước cộng sản bám sát từng phút giây. Từ đó, những buổi gọi là “làm việc” với cơ quan an ninh Hà Nội ngày càng nhiều.

“Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Chính những cơn phong ba, bão tố đổ xuống liên tiếp trên thân phận người thiếu nữ nhỏ bé, yếu đuối như cánh hoa trước gió này đã chứng nghiệm giá trị câu tục ngữ trên đây của tiền nhân. Trước những lời vừa phủ dụ vừa hăm dọa của người thẩm vấn tại Sở Công An Hà nội hay trước câu hỏi của phái viên các đài RFI, BBC, VOA, RFA, câu trả lời của người nữ luật sư trẻ Lê Thị Công-Nhân vẫn không hề thay đổi về nội dung cũng như âm sắc. Trầm tĩnh, gan dạ, minh bạch và dứt khoát. Đó là cái gan dạ, minh bạch, dứt khoát phát xuất từ một lập trường quốc gia dân tộc chuyên nhất: nhất quyết không lùi bước trước cường quyền bạo lực, không lý tới sự an toàn sinh mạng của bản thân.

3 giờ 40 phút sáng (giờ Việt Nam) ngày 26-2-2007, nhờ các tổ chức đấu tranh hải ngoại nối mạng, cùng với nhà dân chủ Nguyễn Khắc Toàn, người nữ trí thức trẻ tuổi họ Lê đã có dịp cất lên tiếng nói kiên cường, quả cảm nhưng đầy ắp tình người của cô trong một cuộc biểu tình của đồng hương tại nam California, Hoa Kỳ. Với cách phát ngôn nghiêm trang, chậm rãi như để cân nhắc từng chữ, từng lời khiến người nghe cảm nhận được đến tận cùng nỗi xúc cảm dâng đầy trong tâm hồn người nói, cô cho hay:

“Chỉ còn hơn 3 tiếng đồng hồ nữa thì tôi sẽ bị công an thẩm vấn tại số 87 đường Trần Hưng Đạo, Hà Nội là trụ sở của công an tại đây. Đây là lần công an Hà Nội gửi giấy triệu tập lần thứ bốn so với lần triệu tập gần đây nhất mà tôi đã kiên quyết khước từ không đi, và rất có thể ngày mai họ sẽ đến áp giải tôi đi thẩm vấn …”

Ở một đoạn khác, Lê Thị Công-Nhân phát biểu tiếp:

“Tôi là thành viên cuối cùng trong 4 thành viên công khai của Đảng Thăng Tiến Việt Nam được công an triệu tập làm việc chính thức, tính từ sau Tết âm lịch cho đến nay. Và thật sự tôi cũng không đoán trước được cụ thể những việc gì có thể xảy ra với tôi. Nhưng tôi xin khẳng định bằng tất cả lương tâm, trách nhiệm và tình cảm của mình đối với đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam là: Tôi sẽ chiến đấu tới cùng cho dù chỉ còn một mình tôi, trước hết là giành lấy nhân quyền cho chính mình, và giành lấy nhân quyền, dân chủ và tự do cho người Việt Nam. Và Cộng sản Việt Nam đừng có mong chờ bất kỳ một điều gì dù chỉ là thỏa hiệp, chứ đừng nói là đầu hàng từ phía tôi. Tôi không thách thức nhưng Cộng Sản Việt Nam nếu đã hạ quyết tâm thực hiện những hành vi tội ác bằng cách chà đạp lên nhân quyền của người dân Việt Nam và muốn tiếp tục dìm đất nước Việt Nam trong một sự tăm tối về mặt chính trị, nghèo nàn về mặt kinh tế, lạc hậu về mặt văn hóa kéo dài cho tới tận đời con cháu của chúng ta cũng như của chính người Cộng sản thì tùy họ có quyền hành xử với những cái gì mà họ có. Gia đình tôi đã chuẩn bị cho trường hợp xấu nhất có thể xảy ra, đó là tôi sẽ bị khởi tố và có thể bị đi tù. Nhưng tôi xin khẳng định một lần nữa: đó vẫn chưa phải là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra.”

Ẩn sâu trong lời khẳng định sau chót, hẳn đã được cân nhắc chín chắn, trên đây, người ta đọc được dự phóng xa hơn của Lê Thị Công-Nhân. Tù đày chưa phải là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra thì còn gì khác hơn là cái chết mà chế độ có thể trút xuống tấm thân yếu đuối của cô? Và như thế, hàm ngụ trong đó, người nữ luật sư trẻ đã gián tiếp cho đồng bào trong và ngoài nước, kể cả kẻ thù của cô hiểu rằng: không chỉ tù đày, mà cả khi phải thí mạng sống của chính mình để bảo toàn lập trường và nhân cách, cô cũng dứt khoát không bao giờ chấp nhận thỏa hiệp hay đầu hàng những thế lực của sự ác. Điều này gợi nhớ tới tấm gương kiêu dũng của linh mục Jerzy Popieluszko, linh hướng tình nguyện của tổ chức Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan trong những năm đầu thập niên 1980. Vào những giờ phút căng thẳng bị các lực lượng an ninh vũ trang của chế độ cộng sản Varsovie tìm cách ám hại hòng làm bặt đi tiếng nói đối kháng đầy uy lực của cha, linh mục Popieluszko đã tâm sự với những đoàn viên Công Đoàn Đoàn Kết là: cho dù có phải chấp nhận cái chết thì mọi nỗ lực của cha chỉ có một mục tiêu duy nhất là tiếp tục con đường đấu tranh ôn hòa cho quyền sống và quyền tự do của người dân Ba Lan.

Những động lực thúc đẩy người nữ luật sư mang tên Lê Thị Công-Nhân quyết liệt dấn thân tranh đấu cho nhân quyền, tự do và dân chủ Việt Nam , bất chấp sự an toàn sinh mạng của chính mình, ngoài tư cách con người còn do sự thôi thúc từ lương tâm của người Con Chúa. Cũng trong dịp được nối mạng để lên tiếng tỏ bày ý chí và quyết tâm tranh đấu của mình với công luận trong và ngoài nước sáng sớm hôm 26-02-2007, một thời gian không lâu trước khi bị bắt, cô đã công khai xác định những nhân quyền căn bản mà cô có, không phải ai khác mà chính Thượng Đế đã trao ban cho cô từ thuở lọt lòng. Và vì thế cô quyết tâm bảo vệ. Cho mình cũng như cho hơn 80 triệu đồng bào trong nước. Cô nói:

“Không ai hơn, chính Đấng tạo hóa -Thượng đế đã sinh tôi ra trên cõi đời này nhờ qua một thể xác đó là mẹ tôi và cha tôi, và tôi đã được sinh ra là một con người thì tôi có đầy đủ những nhân quyền cơ bản mà Thượng đế -Đấng tạo hóa đã ban cho tôi, chứ không phải là người mẹ người cha xác thịt đã sinh ta tôi trên đời. Và tôi đấu tranh vì dân chủ, nhân quyền và tự do cho Việt Nam hoàn toàn xuất phát từ niềm tin, từ lương tâm và trách nhiệm của tôi đối với chính tôi, đối với dân tộc Việt Nam và đối với Đấng tạo hóa đã sinh ra tôi.”

Trong một bài nhan đề “Hãy Làm Một Cái Gì Để Không Ân Hận” được phổ biến rộng rãi trên các trang báo điện tử sau khi luật sư Lê Thị Công-Nhân bị cộng sản cầm tù, nhà văn và cũng là chiến sĩ yêu chuộng tự do, dân chủ Nguyễn Xuân Nghĩa ở Hải Phòng đã thố lộ những suy tư của ông khi gặp cô và mẹ cô –bà Trần Thị Lệ như sau:

“Khi Lê Thị Công Nhân xuất hiện, chúng tôi ngắm cô từ xa với thứ tình cảm trộn lẫn giữa kính trọng, quý mến và quan ngại. Nhìn Lê Thị Công-Nhân, tôi ao ước được nhìn thấy cô trên sàn diễn thời trang, trên kịch trường hoặc một cuộc thi hoa hậu chứ không phải giữa vòng vây dày đặc của mật vụ Hà Nội. Một Jeane Darc đã chết như một liệt nữ cho nền tự do của nhân dân Pháp. Lê Thị Công Nhân lọt vào giữa chúng tôi với một chiếc khăn len rộng màu trắng vắt hờ qua đầu, một thân hình nhỏ nhắn trong bộ váy áo màu đen xám sang trọng và nụ cười trẻ trung, tự tin, thông minh cùng một bàn tay dịu dàng. Với riêng tôi cô nói thêm bằng thanh đới trong trẻo, dịu dàng và tin cậy:

Tôi ước được nắm chặt bàn tay cô thật lâu. Đó là một chiếc lá xanh non của một thân cây xanh non nổi bật giữa hàng ngàn thân cây còn xanh mà đã tàn úa tâm hồn và ý chí đang qua lại ngoài kia vì bị đầu độc bởi học thuyết cộng sản từ trong ghế nhà trường hoặc bị ném vào chiếc máng bố thí bổng lộc của chính quyền, hoặc bị nhào nặn thành nô lệ của nỗi sợ cường quyền, thành những viên bi óng ánh trên truyền hình, trên sàn thời trang, trong hộp đêm và các kỳ thi tuyển Speaker... đặng thay tấm khăn voan che đậy một xã hội ô nhục. Tôi không có can đảm để nói với Lê Thị Công Nhân rằng tôi ước có một người con gái như cô; bởi ngoài tư chất là một người con gái dịu dàng, xinh đẹp, thông thái, có học vấn, Lê Thị Công-Nhân còn mang tư chất của một nhân vật của cộng đồng đau khổ và đang biết phản kháng, một thủ lĩnh tinh thần cho ngay cả lớp đã có tuổi như tôi nữa.

Đó là hình mẫu của người con gái Việt Nam anh hùng và một người mẹ Việt Nam anh hùng trong một tương lai không xa, đạp đổ hình ảnh phi nhân tính và thô lậu của những “người mẹ Việt Nam anh hùng” made in cộng sản mụ mị tiễn con vào chốn nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn trong cuộc nội chiến Bắc–Nam gây bao đau thương di hận.

Bắt giam luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân sau vụ bắt giam linh mục Nguyễn Văn Lý đầu tết Đinh Hợi, khép những nhà hoạt động nhân quyền, dân chủ này vào tội danh “tuyên truyền chống nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” chính quyền cộng sản đã phơi bày bộ mặt nham hiểm, đổi trắng thay đen vi phạm Hiến Pháp, vi phạm Công Ước Nhân Quyền Quốc Tế mà họ đã ký kết.

Như chúng ta đã biết, tất cả các nước (trừ 4 nước cộng sản còn sót lại) không ở đâu và một chính đảng nào được phép dùng bạo lực đàn áp một chính đảng khác; cũng không một chính phủ nào dám coi việc chỉ trích chính phủ là “chống lại nhà nước”. Tương tự như vậy không còn một lực lượng cảnh sát nào và ở đâu là công cụ của một chính đảng đàn áp một đảng đối lập. Ông Nguyễn Xuân Nghĩa kêu gọi ĐCSVN và lực lượng Công an Nhân dân Việt Nam hãy suy nghĩ thật nghiêm túc hành vi họ đang làm để không bị mang tiếng là một chính đảng man rợ cùng một công cụ rừng rú trong sinh hoạt chính trị cộng đồng nhân loại. Bạo lực đang và sẽ bị loại trừ hoàn toàn khỏi đời sống chính trị và xã hội loài người.

Và ông Nguyễn Xuân Nghĩa kêu gọi rằng: “Hãy làm một cái gì đó để không ân hận!”

Phụ họa với nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, cựu chiến binh già CS Vũ Cao Quận đã nói về người thiếu nữ trí thức tài danh này bằng những lời lẽ thấm thía, đầy tình nghĩa dồng bào, nhất là tình nghĩa “cha con”, làm xúc động lòng người như sau:

“Lê Thị Công Nhân chẳng khác nào một chiếc li pha lê, trong suốt, mỏng manh. Với một người hoạt động dân chủ, ông luôn ao ước có một cô gái xinh đẹp, thông minh, can trường trong lực lượng, một bông hoa giữa gió sương phũ phàng để có cái noi gương và có cái bảo vệ. Nhưng với tâm trạng của một người bố, ông không thể đành lòng để Lê Thị Công-Nhân nhiều phen phải “trần trụi giữa bầy sói” khi bước vào con đường hoạt động chính trị. Còn tôi ví Lê Thị Công Nhân như một viên kim cương quý hiếm đã được mài giũa rực sáng lên, cả trong đời thường và trong môi trường chính trị

“Với Lê Thị Công Nhân tôi chỉ là một người dưng, một ông già qua đường. Tôi không được phép dám coi cháu như một đứa con gái của mình. Nhưng khi nghe tin Đài và con bị bắt, lòng tôi quặn đau, căm phẫn và vô cùng lo lắng cho con hơn cả con gái của mình. Vì con gái tôi nó vốn là đứa yếu đuối, nhút nhát. Nếu bị bắt, nó sẽ cam lòng khuất phục.



Còn con, là đứa con gái bé bỏng nhưng đầy lòng can đảm, nhà cầm quyền cộng sản sẽ tiêu diệt đến cùng lòng dũng cảm của con. Vì theo chúng những kẻ đang chăn dắt một đàn cừu, tính dũng cảm không phải là điều cần có của bất cứ một con nào trong bầy cừu. Và nó sẽ thản nhiên đẩy con trần trụi cho bày sói cắn xé.

Nếu tất cả các vị tôn kính còn chút nước mắt xin hãy nhỏ xuống vì Lê Thị Công Nhân, vì một đứa con gái Việt Nam bé bỏng, yếu ớt. Hãy rủ lòng thương nó như thương một đứa con tội nghiệp mà các vị mạnh mẽ lên tiếng buộc nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam phải trả tự do ngay cho nữ luật sư Lê Thị Công Nhân cùng luật sư Nguyễn Văn Đài chỉ vì 2 luật sư này đã”phạm tội” san sẻ truyền đạt những điều cao thượng, bác ái thuộc về “Dân chủ và Nhân quyền” của nước Mỹ, của nước Pháp, của George Washington, Thomas Jefferson, Franklin Roosevelt, Abraham Lincoln, Bill Clinton, George Bush, của Montesquieu… cho thế hệ trẻ Việt Nam tội nghiệp đang bập bõm về dân chủ và về cái quyền được làm người.

Đằng sau lưng tôi dựa chỉ là cái chết, nhân danh cái chết, tôi xin quỳ xuống van xin các vị, van xin lòng nhân ái của bốn phương trời:

“Hãy vì thân phận nhỏ nhoi của một bé gái ở đất nước VN xa xôi còn đầy khốn khổ này!.

Hồi cuối tháng 10 năm 2006, khi cô được mời đến Warszawa, thủ đô Ba Lan, để tham gia Hội nghị yểm trợ Công Đoàn Độc Lập Việt Nam, cô đã chuẩn bị bài tham luận, nhưng đến phút chót kẻ cầm quyền đã ngăn cản, không cho cô lên máy bay. Tại hội nghị, bài tham luận của cô đã được tuyên đọc, trong đó cô phân tích rõ Tổng Công Đoàn Việt Nam tuy mang danh là tổ chức cúa công nhân lao động, nhưng thực ra chẳng bảo vệ gì quyền lợi cho công nhân lao động cả, trái lại hùa theo cán bộ ĐCS để bảo vệ quyền lợi của giới chủ nhân, chính vì thế công nhân lao động cần thành lập tổ chức riêng của mình là các công đoàn tự do để bảo vệ quyền lợi cho mình. Đó là một việc làm hoàn toàn hợp lý và hợp pháp. Cô còn kêu gọi mọi người, mọi tổ chức ra sức yểm trợ cho Công Đoàn Độc Lập mới ra đời trong nước.

Tháng 9-2007, khi bị chủ tịch Quốc hội Ba Lan, ông Bogdan Borusewicz hạch hỏi ráo riết về tình trạng tự do, dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam tiếp tục bị chà đạp, điển hình là những nhà tranh đấu bất bạo động như linh mục Nguyễn Văn Lý, các luật sư Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công-Nhân bị bắt bớ và kết án phi pháp, thủ tướng CS Nguyễn Tấn Dũng đã hứa là sẽ để cho cô Công-Nhân qua sống ở Ba Lan. Rõ ràng là CS đã coi thường các ý nguyện tự do dân chủ của người dân và bạc đãi chính con dân mình như thế. Thật không còn một chính quyền nào hèn hạ và tồi tệ đến như vậy!

Luật sư Lê Thị Công Nhân cũng đã viết một bài công phu, phân tích việc bỏ Nghị định 31 CP về quản chế hành chính, mà thực ra là nhà cầm quyền đã đưa việc quản chế hành chính vào các văn bản pháp lý khác. Đến ngày 06.03.2007, kẻ cầm quyền đã ra lệnh bắt giam cô tại Hà Nội. Sau đó toà án CS đã kết án luật sư Đài 5 năm tù giam, 4 năm “tù” quản chế, luật sư Công Nhân 4 năm tù giam, 3 năm “tù” quản chế!

Nhưng trong nhà tù, Công Nhân vẫn tiếp tục đấu tranh. Những ai đã từng biết nhà tù cộng sản, đều hiểu rõ tính chất độc ác, phi nhân của nó. Vì ĐCS và kẻ cầm quyền muốn dùng nhà tù để đày đoạ tù nhân về thể xác và tinh thần, bắt họ phải sống trong cảnh chật hẹp, bẩn thỉu, nóng bức, mất vệ sinh, bắt phải làm việc vất vả, phải chịu đựng những cảnh bạo hành, đâm chém, cướp giật diễn ra hàng ngày trong tù, lại thường xuyên bị đám cai tù (mệnh danh là quản giáo) trấn áp về mặt tinh thần và tâm lý cốt đè bẹp ý chí phản kháng của tù nhân chính trị, bắt họ phải khuất phục, đầu hàng. Xin các bạn cứ thử hình dung một tù nhân chính trị mà bắt phải sống chung với đám tù hình sự, trong đó không ít kẻ lưu manh tay đã từng nhuốm máu tội ác! Một người con gái mảnh mai như Công Nhân, quen sống trong môi trường có văn hoá, có giáo dục, tâm hồn trong trắng nay bị đày đoạ trong một cuộc sống kinh khủng như vậy thì đủ hiểu thấu tâm trạng của cô khi phải ở tù. Kẻ thù muốn cô cúi đầu khuất phục, nhưng cô vẫn hiên ngang ngẩng cao đầu.

Cô không hề chùn bước, cô vẫn giữ vững khí tiết bất khuất của mình. Những lời nói nồng nhiệt của cô sáng ngày 26.02.2007 vẫn còn mãi mãi âm vang “… Nhưng tôi xin khẳng định bằng tất cả lương tâm, trách nhiệm và tình cảm của mình đối với đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam là: tôi sẽ chiến đấu tới cùng cho dù chỉ còn một mình tôi, trước hết là giành lấy nhân quyền cho chính mình và giành lấy nhân quyền, dân chủ và tự do cho người Việt Nam. Và Cộng sản Việt Nam đừng có mong chờ bất cứ một điều gì dù chỉ là thoả hiệp, chứ đừng nói là đầu hàng về phía tôi…”.

Đúng là trái tim nóng bỏng của cô bơm trong huyết quản dòng máu hào kiệt của Hai Bà Trưng, Bà Triệu và của muôn nghìn vị Anh hùng tiên liệt của Tổ quốc Việt Nam. Dòng máu đó đã giúp cô đứng vững trước cơn bão táp bạo tàn mà ĐCS và giới cầm quyền toàn trị đã trút xuống đầu cô. Giới trẻ Việt Nam ngày nay có quyền tự hào là đã có một nữ anh hùng kiệt xuất trong thời đại đấu tranh cho Tự do, Dân chủ và Nhân quyền để mà noi gương. Dân tộc Việt Nam cũng tự hào đã có một người con trung kiên như thế biết yêu nước, thương dân rất mực.

Chính vì thế, khi được tin Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam đã tiến cử luật sư Lê Thị Công Nhân – người đã từng được Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam trao Giải Nhân Quyền năm 2007 nhân Ngày Quốc Tế Nhân Quyền 10 tháng 12 năm 2007– làm ứng viên Giải Nhân Quyền Gwangju 2008 của Nam Hàn thì mọi người dân chủ trong và ngoài nước đều nhiệt liệt hoan nghênh, đều cầu mong cho ứng viên Lê Thị Công Nhân sẽ được trúng giải.

Trong ngày phát hành tem thư Lê Thị Công Nhân và cuốn sách Nhị Kiều Nước Nam do Cộng đồng NVTD tại Úc châu tổ chức trước đây, tác giả Bảo Giang đã thu thập những bài vở thật giá trị của nhiều tác giả trong và ngoài nước cũng như những bài thơ yêu nước đẫm lệ để cùng nhau nói lên tiếng nói bất khuất của một Nhị Kiều Nước Nam rằng: “Cuộc đấu tranh này sẽ ngày càng phát triển vì đây là một hiện thực khách quan. Hai tiếng Nhị Kiều nước Nam ngày xưa chúng ta vẫn hằng nghe khi nói đến gương anh hùng liệt nữ của Hai Bà Trưng, Bà Triệu”. Ngày nay tác giả Bảo Giang muốn dùng tiếng Nhị Kiều nước Nam để nhân danh hai người phụ nữ, một ở trong nước và một ở ngoài nước cũng song hành tranh đấu cho Tự do dân chủ và Nhân quyền cho VN. Đó là Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh tại Hoa kỳ và luật sư Lê Thị Công Nhân tại VN mà quý đồng hương chắc cũng đã nghe những lời ca ngợi tận đáy lòng của Nhạc sĩ Nam Lộc và Bà Dương Nguyệt Ánh trong cuốn băng Asia 56. Nhạc sĩ Nam Lộc nói: “Trong nỗi khốn cùng của dân tộc, đất nước VN hôm nay đang có một người con gái phi thường mang tên Lê Thi Công Nhân". Bà Dương Nguyệt Ánh phát biểu “Trong bóng tối của đàn áp bất công, họ là những thiên thần đem ánh sáng soi đường cho lương tâm nhân loại. Trong đêm đen của lịch sử VN, họ chính là những bàn tay dẫn dắt dân tộc dành lại Tự do Công bình Bác Ái cho một bình minh VN.”

Theo tác giả Bảo Giang thì đất nước VN hôm nay không thể thiếu một trong Nhị Kiều. Họ có thể là ngọn đuốc soi đường cho dân tộc ta trong giai đoạn này. Chúng tôi xin dùng lời kết luận của tác giả Bảo Giang về cuốn Nhị Kiều Nước Nam để kết thúc đề tài này “Nếu Nhị Trưng xưa, nay lại lên đường, nhất hô vạn ứng thì đường lưu đày sẽ không còn nước mắt. Trái lại toàn dân ta sẽ reo mừng trong ngày Hội Tự do dân chủ và Nhân quyền. Khi ấy ký sinh ở mồ Ba Đình có ngã đổ vật xuống dưới chân Nhị Kiều và toàn dân nước Nam mà nhận lấy án lệnh của công lý thì cũng là lẽ thường, chẳng có gì là lạ".

Nguyễn Triệu Việt

@ Tài liệu tham khảo:
- Bảo Giang, "Nhị Kiều Nước Nam ", Úc châu 2008
- Gs Nguyễn Thanh Trang, Mạng lưới Nhân Quyền, Bài phỏng vấn 3/2008

- Trần Phong Vũ, "Lê Thị Công Nhân - Người con cưng của Thượng Đế", Nguyệt san Diễn Đàn Giáo Dân số 72, Little Saigon, CA,11/2007.
- Trần Thị Lệ, "Đôi nét về Ls Lê Thị Công Nhân", Hà nội, 7/2007
- Trung Tâm Băng Nhạc Asia 56, USA , 2008



Lê Thị Công Nhân trả lời phỏng vấn RFA ngay sau khi ra tù

Gia Minh, phóng viên RFA
2010-03-06

Nữ luật sư bất đồng chính kiến tại Việt Nam, Lê thị Công Nhân, hôm nay mãn hạn ba năm tù về tội tuyên truyền chống Nhà Nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, theo điều 88 Bộ Luật Hình sự.


Lê Thị Công Nhân (áo đỏ) tại phiên tòa phúc thẩm ở hà Nội hôm 27/11/2007.

Sau khi về đến nhà, luật sư Lê Thị Công Nhân dành cho quí thính giả Ban Việt Ngữ Đài Á Châu Tự do cuộc nói chuyện sau đây.
    Âm thanh
    Lấy về máy để nghe
Source: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Interview-jailed-dissident-lawyer-LeThiCongNhan-GMinh-03062010110313.html

Chào Mừng người em gái Lê Thị Công Nhân - Trần Bình Nam



Lê Thị Công Nhân

Trần Bình Nam

Ngày Thứ Bảy 6/3/2010, chị Lê Thị Công Nhân được trả tự do từ một trại giam tại Thanh Hóa. Chị mãn án tù 3 năm do một bản án của cường quyền bất chấp dư luận quốc tế. Chị bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam bắt ngày 6/3/2007 với tội danh tuyên truyền chống phá nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam theo điều 88 của bộ luật hình sự. Chị đã không làm gì khác hơn là đấu tranh công khai cho lý tưởng tự do theo luật pháp thành văn của chính kẻ cầm quyền .

Chị là người em gái của những vị cha anh, chị là người chị của những thanh niên trẻ tuổi và là người mẹ của các em nhi đồng. Nhưng trên hết chị là người con yêu của dân tộc. Chị đã theo gót tiền nhân trong đó có nhiều chiến sĩ qua suốt chiều dài lịch sử đã hy sinh tính mạng, vào tù ra khám, đấu tranh cho công lý và cho nền độc lập của nước nhà. Chị xứng đáng được trân trọng trong trái tim của mỗi người Việt Nam.

Chị Lê Thị Công Nhân năm nay 31 tuổi, sinh ngày 20 tháng 7 năm 1979 tại thị trấn Gò Công Tây tỉnh Tiền Giang, một tỉnh nằm phía nam cách thành phố Sài gòn chừng 100 km, và từ thời thơ ấu chị theo mẹ, bà Trần Thị Lệ và người cha đỡ đầu là giáo sư Hoàng Phương ra Hà Nội sống. Tỉnh Tiền Giang nép mình bên bờ tả ngạn sông Tiền, một trong hai nhánh sông lớn của sông Cửu Long trước khi đổ ra biển. Tỉnh Tiền Giang cũng như các tỉnh khác ở miền Nam nổi tiếng là vùng đất có những người phụ nữ can trường, tận tụy với gia đình và khi đã dấn thân cho một lý tưởng họ sẵn sàng hy sinh tất cả kể cả bản thân để theo đuổi mục tiêu tới cùng.

Từ một gia đình nề nếp, một bà mẹ gương mẫu, nên cái truyền thống tốt của người phụ nữ Việt Nam đã có cơ hội nẩy nở và chiếm một chỗ vững chắc trong suy tư của chị khi chị lớn lên.

Năm 1986 khi đảng Cộng sản Việt Nam quyết định đổi mới để sống còn trước cơn lốc báo hiệu những biến chuyển trong khối Xô viết, không khí xã hội bớt bức xúc và dễ thở hơn chị Lê Thị Công Nhân vừa lên 7 tuổi, tuổi bắt đầu biết nhận thức.

Nhưng trong cái dễ thở đó chị thấy mầm mống của bất công xã hội vẫn còn, và nhất là sự trống vắng của dân chủ và nhân quyền trong đó quyền tự do ngôn luận, một quyền chị coi là căn bản của mọi thứ quyền, tuyệt đối bị cấm cản. Theo chị không có tự do ngôn luận thì tất cả đều xây trên bãi cát. Chị bắt đầu với ý niệm dân chủ phổ cập trên thế giới là xã hội phải được xây dựng trên một hệ thống pháp chế ràng buộc bởi luật lệ thành văn và mọi người từ người cầm quyền đến người dân đều phải tuân hành luật pháp.

Sau khi tốt nghiệp trung học chị vào trường luật tại Hà Nội. Năm 2001 chị tốt nghiệp cử nhân luật chuyên ngành công pháp quốc tế và kinh tế. Sau hai năm qua các lớp đào tạo luật sư, năm 2003 chị trở thành luật sư thực thụ có chân trong luật sư đoàn Hà Nội và là thành viên của luật sư đoàn quốc tế. Chị chọn Hà Nội làm nơi sống và chiến đấu vì Hà Nội là cái nôi văn hóa của dân tộc, vừa là thủ đô hành chánh của đất nước.

Đầu năm 2007, trước những cuộc thẩm vấn liên miên của công an cộng sản Việt Nam chị biết trước sẽ bị bắt và chị đã xác định lập trường tranh đấu qua điện thoại viễn liên truyền thanh trước đồng bào hải ngoại tụ tập tại Nam California ngày 25/2/2007 rằng:

“Tôi cũng không đoán trước được cụ thể những việc gì có thể xẩy ra với tôi. Nhưng tôi xin khẳng định bằng tất cả lương tâm, trách nhiệm và tình cảm của mình đối với đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam là: tôi sẽ chiến đấu tới cùng cho dù chỉ còn một mình tôi, trước hết là giành lấy nhân quyền cho chính mình và giành lấy nhân quyền, dân chủ và tự do cho người Việt Nam. Và Cộng sản Việt Nam đừng có mong chờ bất cứ một điều gì dù chỉ là thỏa hiệp, chứ đừng nói là đầu hàng về phía tôi. Tôi không thách thức, nhưng Cộng sản Việt Nam nếu đã hạ quyết tâm thực hiện những hành vi tội ác bằng cách chà đạp lên nhân quyền của người dân Việt Nam và muốn tiếp tục dìm đất nước Việt Nam trong một sự tăm tối về mặt chính trị, nghèo nàn về mặt kinh tế, lạc hậu về mặt văn hóa kéo dài cho tới tận đời con cháu của chúng ta cũng như của chính người Cộng sản thì tùy họ và họ có quyền hành xử với những cái gì họ có. Gia đình tôi đã chuẩn bị cho trường hợp xấu nhất có thể xảy ra, đó là tôi có thể bị khởi tố và có thể đi tù.”

Và chị đã đi tù.

Và chị đã không khoan nhượng.

Tháng 9/2007 thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng công du Âu châu. Tại Ba Lan trước áp lực của quốc hội Ba Lan yêu cầu trả tự do cho chị Công Nhân ông Dũng hứa trả tự do cho Công Nhân nếu Ba Lan nhận chị. Nhưng chị đã từ chối đời sống lưu vong. Chị cương quyết ở lại chia xẻ cơ cực với đồng bào.

Ra tù chị còn 3 năm quản chế.

Và sau 3 năm quản chế là những ngày bị theo dõi của cơ quan an ninh để triệt tiêu mọi nỗ lực đấu tranh của chị.

Nhưng với sự hiện diện của chị ở trong nước, ngọn lửa đấu tranh của toàn dân sẽ được thắp sáng và cường quyền không thể dập tắc được.

Cùng với bác sĩ Nguyễn Đan Quế và bao nhiêu nhà đấu tranh dân chủ trong nước đang ở trong hay ngoài nhà tù, người em gái Lê Thị Công Nhân sẽ nuôi dưỡng ngọn lửa chờ ngày bùng sáng.

Trần Bình Nam

Source: http://tranbinhnam.com/binhluan/Lethi_CongNhan_ChaoMung.htm


TUYÊN BỐ CHUNG NHÂN DỊP LUẬT SƯ LÊ THỊ CÔNG NHÂN ĐƯỢC TRẢ TỰ DO

TUYÊN BỐ CHUNG NHÂN DỊP LUẬT SƯ LÊ THỊ CÔNG NHÂN ĐƯỢC TRẢ TỰ DO



Hôm nay, ngày 6 tháng 3 năm 2010, Luật sư Lê Thị Công Nhân, 31 tuổi, được trả tự do từ nhà giam ở Thanh Hóa sau ba năm bị cầm tù vì bị cáo buộc vu khống là tuyên truyền chống chính phủ. Sau khi ra tù, cô vẫn còn phải chịu ba năm quản chế và trong thời gian này, cô còn bị mất quyền công dân. Chúng tôi chia xẻ với gia đình cô tin vui này, nhất là đối với mẹ và chị của cô, song chúng tôi thấy cần phải nêu ra những trường hợp vi phạm nhân quyền trắng trợn trong vụ án của LS. Lê Thị Công Nhân.

Ngay từ nguyên thủy, trường hợp của LS. Lê Thị Công Nhân cho thấy rõ sự giới hạn trong chính sách cởi mở của nhà cầm quyền CSVN trong khi Việt Nam phải hội nhập thế giới văn minh của nhân loại. Một bộ mặt trẻ trung và sáng sủa, được nuôi dưỡng và hun đúc hoàn toàn dưới chế độ Cộng Sản, LS. Lê Thị Công Nhân đã chứng tỏ bản lĩnh của mình bằng cách thách đố chế độ qua một số bài viết vững vàng chỉ trích những biện pháp đàn áp, áp bức người dân của chính quyền – qua việc tham gia Khối 8406 (gồm những tiếng nói dân chủ ra công khai vào ngày 8 tháng 4 năm 2006), làm thành viên của Đảng Thăng Tiến VN, giảng dạy một lớp về Nhân Quyền (cùng với Luật sư Nguyễn Văn Đài, người thành lập Ủy Ban Nhân Quyền VN), tham gia Công Đoàn Độc Lập, và xin đi ngoại quốc (Ba Lan) để dự một hội nghị nhằm thành lập Ủy Ban Bảo Vệ Người Lao Động Việt Nam.

Làm như vậy, LS. Lê Thị Công Nhân chỉ hành xử quyền tự do ngôn luận, quyền tự do lập hội, quyền tự do rao giảng những điều mà lương tâm (Tin Lành) cô tin là phải, cũng như quyền tự do đi lại (ra nước ngoài) của cô –tất cả là những quyền được long trọng công nhân trong Hiến Pháp 1992 của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (Điều 69) cũng như đã được qui định trong Điều 19 của Quy Ước Quốc Tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị, mà Cộng Hòa Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa đã ký tham gia từ tháng 9 năm 1982.

Vì Lê Thị Công Nhân hoàn toàn làm những điều mà cô có quyền, việc bắt giữ cô, rồi tạm giam, thẩm vấn cũng như phiên tòa xử cô sau đó, đã được báo chí truyền thông thế giới đưa tin rộng rãi, bị phản đối mãnh liệt bởi các tổ chức bảo vệ nhân quyền trên khắp thế giới như Hội Ân Xá Quốc Tế hay Tổ Chức Theo Dõi Nhân Quyền. Ủy Ban Văn Nghệ Sĩ bị cầm tù của Văn Bút Quốc Tế cũng đòi phải thả cô ra mỗi khi Văn Bút Quốc Tế họp. Hà Nội cũng liên tiếp bị lên án trong tòa án dự luận thế giới (từ Âu Châu, Úc Châu đến Quốc Hội Hoa Kỳ) vì không chịu thả cô, cũng như các tù nhân lương tâm khác, như LM Nguyễn Văn Lý, LS. Nguyễn Văn Đài, v.v...

Dù nhà cầm quyền CSVN đã trả tự do cho Luật sư Lê Thị Công Nhân sau ba năm bị cấm cố nhưng chúng tôi vẫn coi việc cầm tù đó là bất công, oan uổng. Cũng vì lý do đó mà chúng tôi, một số cộng đồng, hội đoàn và đoàn thể hải ngoại, nhân đây cũng đòi hỏi là án quản chế ba năm của cô phải được hủy bỏ và các quyền công dân của cô phải được phục hồi. Ngoài ra, cô cũng cần phải được lấy lại quyền hành nghề luật sư của cô.

Nhân dịp này, chúng tôi cũng long trọng kêu gọi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hãy trả tự do cho tất cả các tù nhân lương tâm hiện còn đang bị giam giữ trong các nhà tù ở Việt Nam. Chúng tôi nguyện tiếp tục tranh đấu cho đến khi nào nhà cầm quyền CS tại Việt Nam chấm dứt vi phạm nhân quyền, không chỉ đối với hàng trăm tù nhân lương tâm hiện còn trong tù mà cả đối với các giáo hội, tôn giáo cũng như những người bất đồng chính kiến và dân oan ở ngoài các nhà tù nữa.

Ngày 6 tháng 3 năm 2010
Đồng ký tên
    1. Đại Việt Cách Mạng Đảng (Nguyễn Văn Lung, Phó Chủ tịch)
    2. Đảng Dân Chủ Nhân Dân (Đỗ Thành Công, Phát ngôn nhân)
    3. Đoàn Thanh Niên Dân Chủ Việt Nam (VN -Phát Tâm, Trưởng Đoàn)
    4. Khối 8406 (LM Phan Văn Lợi, Đỗ Nam Hải, Nguyễn Chính Kết, Đại diện).
    5. Liên Minh Dân Chủ Việt Nam (Nguyễn Quốc Nam, Phó Chủ tịch UBCHTƯ)
    6. Liên Minh Dân Chủ Việt Nam Thuần Túy (Lý Hiền Tài, Chủ tịch)
    7. Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam (Nguyễn Bá Tùng, Trưởng Ban Phối Hợp)
    8. Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền (VN – LM Chân Tín, Đại diện)
    9. Nhóm Thanh Hương (VN – Thanh Hương, Đại diện)
    10. Nghị Hội Người Việt Tại Hoa Kỳ (Nguyễn Ngọc Bích, Chủ tịch)
    11. Phong Trào Giáo Dân (Đỗ Như Điện, Điều Hợp Viên)
    12. Phong Trào Lao Động Việt (Vương Minh Hoàng, Đại Diện)
    13. Phong Trào Saigon (LM Nguyễn Hữu Lễ, Đại diện)
    14. Tập Hợp Vì Công Lý (Trương Sinh, Đại Diện)
    15. Tổ Chức Dân Chủ Việt Nam (Nguyễn Thanh Trang, Chủ Tịch)
    16. Tổ Chức Phục Hưng Việt Nam (Trần Quốc Bảo, Chủ tịch)
    17. Tổ Chức Quốc Tế Yểm Trợ Cao Trào Nhân Bản (Nguyễn Quốc Quân, Chủ tịch)
    18. Trung Tâm Việt Nam về Nhân Quyền (Trần Thanh Hiệp, Chủ tịch)
    19. Ủy Ban Bảo Vệ Người Lao Động (Trần Ngọc Thành, Chủ Tịch)
    20. Viện Quốc Tế Vì Việt Nam (Đoàn Viết Hoạt, Chủ tịch)
    21. Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng (Đỗ Hoàng Điềm, Chủ tịch)
    22. Việt Nam Quốc Dân Đảng (Trần Tử Thanh, Chủ tịch Hội Đồng Điều Hợp Các Cơ Sở VNQDĐ tại Hải Ngoại)

Lê Thị Công Nhân

    Tường Trình Buổi Đi Đón Luật Sư Lê Thị Công Nhân
Lê Thị Kim Thu tường trình


Bà Trần Thị Lê - thân mẫu của luật sư Lê Thị Công Nhân

Khi bài này được đăng là 5:30AM sáng giờ Hà Nội ngày 6 tháng 03, 2010, bà Trần Thị Lệ - thân mẫu luật sư Lê Thị Công Nhân đã đến cộng trại tù để đón luật sư. Ngoài trời vẫn còn sương mù, xin mời quý bạn đọc nghe buổi nói chuyện ngắn do chị Lê Thị Kim Thu gổi về.

Audio: 5:30 sáng giờ Hà Nội ngày 6 tháng 03 2010

Source: http://vietnamexodus.org/vne0508/modules.php?name=News&file=article&sid=4422

***

Khi bài này lên khuôn là 9:00AM giờ Hà Nội, thân mẫu luật sư Lê Thị Công Nhân cùng với chi Lê Thị Kim Thu đã đến cổng trại giam Thanh Hoá để đón luật sư Công Nhân. Xin mời quý bạn đọc theo dõi phần từơng trình ngắn của chị Kim Thu từ Thanh Hoá

Audio: 9:00 sáng giờ Hà Nội ngày 6 tháng 03 2010

Source: http://vietnamexodus.org/vne0508/modules.php?name=News&file=article&sid=4422

***

9:30 sáng giờ Hà Nội, thân mẫu luật sư Lê Thị Công Nhân ra về tay không. Công an không đồng ý để thân mẫu đón luật sư Lê Thị Công Nhân tại cổng trại. Xin mời quý bạn đọc theo dõi phần tường trình ngắn từ Thanh Hoá

Audio: 9:30 sáng giờ Hà Nội ngày 6 tháng 03 2010

Source: http://vietnamexodus.org/vne0508/modules.php?name=News&file=article&sid=4425

***

Lúc này là 3 giờ chiều giờ Hà Nội ngày 6 tháng 03, 2010, bà Trần Thị Lệ và chị Lê Thị Kim Thu đã từ Thanh Hóa trở về đến nhà, nhưng vẫn không thấy tăm hơi luật sư Lê Thị Công Nhân đâu cả .... Xin mời quý bạn đọc theo dõi buổi tường trình ngắn.

Audio: 3 giờ chiều Hà Nội ngày 6 tháng 03 2010

Source: http://vietnamexodus.org/vne0508/modules.php?name=News&file=article&sid=4427

***
Bây giờ là 17:15 phút chiều giờ Hà Nội, nhân viên an ninh cộng sản Việt Nam đã đưa luật sư Lê Thị Công Nhân về đến nhà. Xin mời quý bạn đọc theo dõi phần tường trình ngắn

Audio: 17:15 Phút giờ Hà Nội

Source: http://vietnamexodus.org/vne0508/modules.php?name=News&file=article&sid=4428

***

Chúng tôi đã liên lạc được với luật sư Lê Thị Công Nhân sau khi luật sư đã về đến nhà, và sau đây là phần nói chuyện của luật sư.

Audio: 17:45 phút ngày 6 tháng 03, 2010 giờ Hà Nội

Source: http://vietnamexodus.org/vne0508/modules.php?name=News&file=article&sid=4429

***

Hình Ảnh Ngày Trở Về Của Luật Sư Lê Thị Công Nhân


Ảnh lúc 8 giờ tối Lê Thị Công Nhân dùng cơm chiều.
Đang nói chuyện với Bác Sỹ Nguyễn Đan Quế



Ảnh lúc 6 giờ 30 sáng giờ VN Bà Trần Thị Lệ Thân Mẫu của Lê Thị Công Nhân tay xách giỏ,
bắt đầu vào hỏi thăm công an về thủ tục đón LTCN.
Chú ý: Cột tường ở của trại có ô vuông màu trắng ngay cổng là bản mới dán Cấm quay phim chụp ảnh



Từ trái đếm sang là hai bó hoa của chị Hồ Thị Bích Khương
đã gửi
cho bà Lệ Tặng Lê Thị Công Nhân trước cổng trại giam số 5 -
Thị Trấn
Thống Nhất - Yên Định - Thanh Hoá.



Lê Thị Công Nhân ôm cháu trai con của chị gái Lệ Minh


Lê Thị Công Nhân ôm hai bó hoa của chị Hồ Thị Bích Khương tặng, có một bó
hoa của Linh Mục Phan Văn Lợi gửi tặng và một lẵng hoa do một người
gửi tặng vào trưa ngày 5/3


Source: http://vietnamexodus.org/vne0508/modules.php?name=News&file=article&sid=4430

***

Nói Chuyện Với Luật Sư Lê Thị Công Nhân

Trích đăng lại từ đài truyền hình SBTN - phần tin buổi sáng

Luật sư Lê Thị Công Nhân đang nói chuyện qua điện thoại


http://www.youtube.com/watch?v=aF0ABlwCELE

Source: http://vietnamexodus.org/vne0508/modules.php?name=News&file=article&sid=4431


Wednesday, March 3, 2010

Yểm trợ CĐNVTD-VIC về phương diện chi phí tòa án

THÔNG BÁO CỦA CỘNG ÐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO ÚC CHÂU

V/V: YỂM TRỢ CỘNG ÐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO VICTORIA VỀ PHƯƠNG DIỆN CHI PHÍ TOÀ ÁN

Trong phiên họp định kỳ ngày 01/3/2010 của CÐNVTD/UC gồm các chủ tịch của các tiểu bang và lãnh thổ cùng các vị cựu chủ tịch cộng đồng liên bang trong Ban Cố Vấn, sự việc Ban Chấp Hành CÐNVTD/Vic và ông Nguyễn Thế Phong (cựu Chủ tịch CÐNVTD/Vic nhiệm kỳ 2007-2009) bị một số cá nhân đưa ra toà khiếu nại về vấn đề sử dụng công quỹ không rõ ràng và phỉ báng đã được bàn thảo và nhận được sự giải thích chi tiết và tường tận từ BCH Victoria.

Ðại diện Ban Chấp Hành các Tiểu bang và Lãnh Thổ Úc Châu và Ban Chấp Hành Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Liên bang Úc Châu đã đồng thuận yểm trợ Ban Chấp Hành CÐNVTD/Vic hầu có đủ khả năng tài chánh trong việc biện hộ một cách công bằng tại các toà án của tiểu bang Victoria. BCH/CĐNVTD Liên Bang Úc Châu cùng các BCH/CĐNVTD tại các Tiểu Bang và Lãnh Thổ kêu gọi các hội đoàn, đoàn thể và toàn thể quý đồng hương trên toàn Úc khẩn cấp và tích cực hổ trợ cho CĐNVTD/VIC trong vấn đề này.

Úc Châu ngày 02/03/2010
    • Ông Nguyễn Thế Phong, Chủ tịch BCH/CÐNVTD/UC
    • Ông Nguyễn Văn Thanh, Chủ tịch BCH/CÐNVTD/NSW
    • Ông Nguyễn Văn Bon, Chủ tịch BCH/CÐNVTD/VIC
    • Bs. Bùi Trọng Cường , Chủ tịch BCH/CÐNVTD/QLD
    • Ông Ðoàn Công Chánh Phú Lộc, Chủ tịch BCH/CÐNVTD/SA
    • Bà Trần Văn Tuyền, Chủ tịch BCH/CÐNVTD/WA
    • Ông Lê Công, Chủ tịch BCH/CÐNVTD/ACT
    • Ông Lê Tấn Thiện, Chủ tịch BCH/CÐNVTD/NT
    • Bà Nguyễn Thị Kim Dung, Chủ tịch BCH/CÐNVTD/Wollongong


Tuesday, March 2, 2010

Tên đồ tể Võ nguyên Giáp - BS Nguyễn Lương Tuyền



Tên đại đồ tể Võ Nguyên Giáp

BS Nguyễn Lương Tuyền

Võ Nguyên Giáp là một tên khốn kiếp, đã đẩy hàng triệu thanh niên đất Việt vào chỗ chết từ năm 1946 tới năm 1975, để thực hiện cho được việc áp đặt chủ nghĩa Cộng Sản sắt máu trên toàn quê hương. Nhưng Y có là một thiên tài hay không, dù là một thiên tài khốn nạn của quê hương, thì cần phải xét lại (Phan nhật Nam đã rất ngu khen y là thiên tài quê hương! Chú của Trần Công Tử). Sau mấy chục năm, các tài liệu về chiến tranh tại Việt Nam, các dữ kiện lịch sử đã được giải mật. "Huyền thoại Võ Nguyên Giáp" đã hết còn là một huyền thoại.

Võ Nguyên Giáp sanh ngày 25 tháng 8 năm 1911 tại làng An xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Cha Y là Võ Quang Nghiêm, một hương sư dạy chữ Nôm, chữ Quốc Ngữ và hành nghề Đông Y như phần lớn các nhà nho lỡ vận. Khi cuộc chiến Việt-Pháp bùng nổ, Ông Nghiêm bị Pháp bắt đưa về giam ở Huế rồi chết trong tù. Mẹ Giáp là Bà Nguyễn Thị Kiên.

Võ Nguyên Giáp là con thứ 6 trong số 8 người con của Ông Bà Võ Quang Nghiêm. Năm 14 tuổi (1925), Giáp vào Huế học trường Quốc Học. Hai năm sau, bị đuổi học, Giáp về quê tham gia Tân Việt Cách mệnh Đảng – một đảng có mầu sắc Cộng Sản được thành lập năm 1924 ở miền Trung.

Đầu tháng 10 năm 1930, Giáp bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phú ( Huế ). Năm 1931, Giáp được thả ra khỏi nhà tù, ra Hà Nội học tại trường Albert Sarraut cho tới khi đỗ Tú tài.

Năm 1937, Giáp tốt nghiệp trường Luật tại Hà Nội.

Năm 1934, Giáp kết hôn cùng Nguyễn Thị Quang Thái, một đồng chí của ông. Bà Thái có với Giáp một người con gái, Võ Thị Hồng Anh. Năm 1943, Bà Thái bị Pháp bắt giam ở nhà tù Hỏa Lò ở Hà Nội. Bà chết trong tù.

Tháng 5 năm 1939, Giáp bắt đầu dạy môn Sử tại trường tư thục Thăng Long tại Hà Nội. Theo lời thuật của một số người, Giáp là một giáo sư Sử giỏi và hùng biện.

Từ năm 1936 đến năm 1939, Giáp tham gia phong trào Mặt trận Dân Chủ Đông Dương. Võ Nguyên Giáp vào Đông Dương Cộng Sản đảng vào năm 1940, bắt đầu các hoạt động dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh. Giáp tham gia gây dựng cơ sở và huấn luyện quân sự ở Cao Bằng dù Giáp chưa từng được huấn luyện về quân sự. Trong đảng Cộng Sản Đông Dương, có lẽ chỉ có Phùng Chí Kiên được theo học một thời gian tại trường Võ bị Hoàng Phố ở Trung Hoa.

Ngày 22 tháng 12 năm 1944, theo sự phân bố của Hồ Chí Minh, Giáp thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân với 34 người. Theo tài liệu của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đó là khởi thủy của đạo quân Cộng Sản Việt Minh sau này.

Tháng 8 năm 1945, Giáp được bầu vào Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương.

Tháng 1 năm 1948, Giáp được Hồ Chí Minh phong quân hàm Đại Tướng. Cùng được phong Tướng có một số tên như Văn Tiến Dũng, Vương Thừa Vũ, Nguyễn Chí Thanh, Đinh Đức Thiện, Lê Trọng Tấn, Trần Đăng Ninh …

Ngày 19 tháng 12 năm 1946, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ kéo dài cho tới năm 1954 và chấm dứt ở trận Điện Biên Phủ.

Từ năm 1945 cho đến năm 1991( năm Giáp nghỉ hưu, hết còn là ủy Viên Trung Ương Đảng) Giáp đã giữ những chức vụ như sau:

- Ủy Viên Bộ Chánh trị

- Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng

- Tổng Tư lệnh Quân Đội

- Phó Thủ Tướng

- Chủ Nhiệm Ủy Ban Khoa học nhà nước.

- Năm 1983, Chủ tịch Ủy Ban sanh đẻ có kế hoạch.

Chức vụ Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng kiêm Tổng Tư lệnh Quân đội là những chức vụ Giáp ở lâu nhất, từ năm 1945 đến năm 1980.

Chức vụ coi về sanh đẻ năm 1983 là môt hình thức hạ nhục Giáp do đám Lê Duẩn, Lê Đức Thọ chủ trương. Để nói về việc hạ nhục này, trong dân gian có truyền tụng hai câu thơ diễu cợt đượm đầy mỉa mai:

    Ngày xưa Đại tướng cầm quân
    Ngày nay Đại tướng cầm quần chị em

Sau trận Điện Biên Phủ năm 1954, sự hiện diện của người Pháp cáo chung, Võ Nguyên Giáp nổi tiếng như cồn. Sau cái gọi là Đại thắng mùa xuân năm 1975 – một may mắn bất ngờ cho đảng Cộng Sản Việt Nam ( một bất hạnh cho dân tộc Việt ) chiếm được miền Nam – trước mắt người ngoại quốc mù tịt về cơ cấu tổ chức của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Võ Nguyên Giáp trở thành một huyền thoại.

Một số sách viết về Giáp như:

- General Giáp: Politician and Strategist của Robert j. O'Neil (Australia)

- Giáp: the Victor in Vietnam của Thiếu tướng hồi hưu Peter McDonald In năm 1993 ( British )

- Các bài viết rải rác của Douglas Pike thuộc University of California, Berkeley (USA)

Xin mở một dấu ngoặc ở đây về các sách viết về các lãnh tụ Công Sản Việt Nam cũng như các lãnh tụ của các nước Cộng Sản khác trên thế giới. Tác giả phải được sự chấp nhận của Bộ Chính trị và chỉ được viết những gì mà cơ quan quyền lực tối cao của Cộng Sản đưa ra mà thôi.

Giáp được các tác giả ca tụng như một thiên tài quân sự, một chiến lược gia tài tình của thế giới ( genius strategist, geniusgeneral of the world ). Từ mấy năm gần đây, các tài liệu mật về 2 cuộc chiến tại Việt Nam (1946-1954 và 1954-1975 ) được giải mật khiến ta thấy rằng "thiên tài Võ Nguyên Giáp" đã được các đồng chí nặn ra như các đồng chí đã nặn ra anh hùng Lê Văn Tám, chú Kim Đồng …. trong suốt chiều dài của cuộc chiến xâm nhập của chủ nghĩa Cộng Sản man rợ lên quê hương mà đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ là một lũ thừa sai.

Bản chất của những người lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam, kể từ Hồ Chí Minh trở xuống, là gian hùng, dối trá, thâm độc và tàn bạo. Giáp có đầy đủ các "đức tính" đó.

Năm 1946, Hồ Chí Minh ký hòa ước với Pháp để quân Pháp trở lại Việt Nam. Các lãnh tụ Công Sản, trong đó có Giáp, đã thẳng tay tiêu diệt các người quốc gia (Losers are Pirates by James Banerian1984, p.69)

Năm 1946, khi cuộc chiến tranh Việt – Pháp sắp xẩy ra, Giáp là Bộ Trưởng Quốc phòng trong Chánh phủ liên hiệp. Tại Hà Nội, trong khi quân Pháp và Tự Vệ Thành đang gầm ghè nhau, Giáp và đồng bọn hứa hẹn là quân chánh qui của họ tức các đơn vị Vệ Quốc Đoàn tinh nhuệ đã kéo về đóng chung quanh Hà Nội, sẵn sàng làm cỏ quân Pháp.

Ngày 19 tháng 12, chiến tranh bùng nổ tại Hà Nội. Nhóm lãnh đạo Cộng Sản đã rút về Hà Đông từ mấy ngày trước. Vệ Quốc Đoàn đâu chẳng thấy, chỉ thấy các Tự Vệ Thành đánh vùi với quân Pháp trong các đường phố Hà Nội. Họ đã cầm cự với quân Pháp trong gần 2 tháng, thời gian đủ để dân chúng rời thành phố lánh nạn, đủ để đám Cộng Sản rút vào các an toàn khu Việt Bắc. Giáp và đồng bọn muốn mượn tay quân Pháp để thủ tiêu các thanh niên Hà Nội. Quả thực, Tự Vệ Thành là những thanh niên tiểu tư sản, phần lớn xuất thân từ các gia đình khá giả. Đám tiểu tư sản này là những thành phần không có chỗ đứng trong chế độ Cộng Sản. Càng lợi cho việc thiết lập chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam nếu họ bị Pháp tiêu diệt, bớt đi càng nhiều càng tốt cho chủ nghĩa Mac Xít Léninist dễ phát triển ở Việt Nam.

Giáp đã viết sách về chiến tranh nhân dân, quân đội nhân dân (được dịch ra tiếng Pháp; Guerre du peuple, l'Armée du peuple ), tự cho rằng mình và đảng Cộng Sản Việt Nam là nguồn gốc của quan niệm chiến lược, chiến thuật này.

Sự thực, quan niệm về chiến tranh nhân dân đã được Tướng Trần Canh, một trong ngũ hổ tướng của Mao Trạch Đông, du nhập vào Việt Nam kể từ trận chiến biên giới Cao Bằng Lạng Sơn năm 1950.

Giáp thực sự không phải là cha đẻ của quân đội Cộng Sản Việt Nam, tuy rằng cuối năm 1944, theo lệnh Hồ Chí Minh, Giáp thành lập đoàn Võ Trang tuyên truyền gồm 34 thành viên với trang bị rất thô sơ. Quân đội Trung Cộng mới thực sự là cha đẻ của quân đội nhân dân của Cộng Sản Việt Nam.

Tháng 3 năm 1946, 1 Trung Đoàn quân Cộng Sản Trung Hoa tràn qua biên giới, vào Việt Nam để tránh bị các Lộ Quân 46, 64 của Tưởng Giới Thạch tiêu diệt. Chính Trung đoàn quân Cộng Sản Trung Hoa này đã giúp Cộng Sản Việt Nam huấn luyện Quân đội. Tình báo của Mỹ đã đánh hơi thấy việc Trung Cộng huấn luyện quân đội Cộng sản Việt Nam từ những năm này.

Từ năm 1950, Trung Cộng không ngừng cung cấp người, võ khí và tiếp liệu cho Công Sản Việt Nam. Chính Võ Nguyên Giáp, trong cuốn Đường tới Điện Biên Phủ đã viết: Trong một buổi làm việc ở Moscou với Staline, Mao Trạch Đông, Mao đã hứa trang bị cho Việt Nam 10 sư đoàn. Mao nói: Việt Nam cần trang bị 10 đại đoàn (sư đoàn) để đánh Pháp. Trước mặt hãy trang bị 6 đại đoàn có mặt ở miền Bắc Việt Nam. Có thể đưa ngay một số đơn vị sang Trung Hoa nhận vũ khí. Tỉnh Quảng Tây sẽ là hậu phương trực tiếp của Việt Nam. Sau đó các đơn vị của quân đội nhân dân lần lượt được đưa sang Tầu để thụ huấn và nhận vũ khí.

Theo Giáp: những đơn vị sang Trung Quốc, ngoài việc trang bị lại vũ khí còn được huấn luyện thêm về chiến thuật công kiên, đặc biệt là kỹ thuật đánh bộc phá. Trước đây, vì chưa có thuốc nổ, ta chưa hề xử dũng kỹ thuật này.

Cũng theo Giáp, chính Hồ Chí Minh đã yêu cầu Tầu Cộng gửi qua Việt Nam một đoàn cố vấn. Theo lời yêu cầu đó, một đoàn cố vấn Trung Cộng khoảng 80 người đã sang Việt Nam, giúp quân Cộng Sản Việt Nam: Lã Quí Ba, Ủy Viên Trung ương đảng Cộng Sản Trung Quốc, Trưởng đoàn Cố vấn; Vi Quốc Thanh, Trưởng đoàn Cố vấn về Quân sự: Mai Gia Sinh, cố vấn về công tác tham mưu; Mã Tây Phu, Cố vấn về công tác hậu cần. Chính các Cố vấn Trung Cộng đã giúp Công Sản Việt Nam tổ chức 3 (ba) cơ chế chánh trong quân đội: Bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Cục chánh trị và Tổng cục hậu cần. Tóm lại ngay trong công việc tổ chức quân đội của Cộng Sản Việt Namm, Giáp chỉ là người thừa hành.

Giáp là một tên hèn.

Năm 1983, Giáp bị đám Lê Đức Thọ, Lê Duẩn hạ nhục bằng cách cho đi làm Chủ tịch Ủy Ban sanh đẻ có kế hoạch. Giáp đã ngậm bồ hòn làm ngọt, ngoan ngoãn vâng lời. Trong vụ Nhân văn Giai phẩm xẩy ra tại miền Bắc năm 1955, nhiều người đã ở trong Quân Đội Nhân dân của Giáp như Trần Dần, Hoàng Cầm, Quang Dũng, Phùng Quán … bị đem ra đấu tố, tù đầy. Giáp vẫn giữ im lặng. Trong vụ án chống đảng do đám Lê Duẩn, Lê Đức Thọ chủ mưu, các tướng Cộng sản đàn em của Giáp như Lê Liêm, Đặng Kim Giang, Nguyễn Văn Vịnh, các Đại tá thuộc cấp của Giáp như Lê Minh Nghĩa, Lê Vinh Quốc, Văn Dzoãn … bị hãm hại; Giáp vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Khi các tướng Lê Trọng Tấn, Hoàng Văn Thái (cũng là thông gia của Giáp) bị đột tử sau khi miền Nam đã bị cộng sản hóa. Giáp vẫn ngậm miệng, im lặng là vàng. Giáp đã để lộ rõ cái hèn, thủ khẩu như bình.

Giáp kệ mặc đàn em bị thảm sát, tù đày. Theo Bùi Tín, cựu Phó Tổng Biên tập của báo Cộng Sản Quân Đội Nhân dân, sở dĩ Giáp không bị đám Lê Đức Thọ, Lê Duẩn thủ tiêu vì Giáp biết thủ nghĩa là Giáp biết cách tránh né để bảo toàn mạng sống.

Khi được một ký giả ngoại quốc hỏi Giáp có hối tiếc gì về số 3-4 triệu người Việt Nam chết vì các cuộc chiến tranh, gọi là chiến tranh ý thức hệ, Giáp đã trả lời là y không hối tiêc gì cả (Non, pas du tout).

Mạng sống của thanh niên Việt Nam bị họ Võ coi như cỏ rác. Giáp sẵn sàng thí quân trong các trận chiến. Trong trận chiến tranh biên giới Cao Bằng, Lạng Sơn năm 1950, để tiêu diệt cứ điểm Đồng Khê do 262 lính Pháp trấn đóng, Giáp đã dùng tới 10.000 quân (đông hơn quân trú phòng 40 lần). Sau trận đánh, hơn 500 quân Việt tử trận, không kể số bị thương hàng ngàn. Trong trận đồng bằng Phủ Lý, Ninh Bình, Vĩnh Yên vào tháng giêng năm 1951, chiến thuật biển người của Giáp đã bị Tướng Pháp De Lattre de Tassigny dùng bom Napalm tiêu diệt. Quân Cộng sản, dưới sự chỉ huy của Giáp, đã bị nhiều tử vong, thất bại trong ý đồ đưa chiến tranh về đồng bằng. Số tử vong của quânđội cộng sản, khi tháo lui, là trên 6000 người. Số bị thương chắc chắn là gấp đôi, gấp ba con số 6000.

Trong chiến tranh Việt – Pháp 1946-1954, người thực sự chỉ huy các trận đánh lớn không phải là Giáp mà là các tướng Trung Hoa Cộng Sản như Trần Canh trong những năm 50, sau đó là đoàn cố vấn Trung Quốc đứng đầu là Vy Quốc Thanh, Lã Quí Ba. Hào quang chiến thắng của Giáp chỉ là một giả tạo, một hào quang do Trung Cộng ban cho.

Chiến dịch biên giới năm 1950.

Chiến dịch này nhằm mục đích đuổi quân Pháp ra khỏi biên giới của 2 nước Việt Nam-Trung Hoa để cho việc tiếp vận từ Trung Hoa Cộng Sản cho quân đội của Cộng Sản Việt Nam được dễ dàng. Tướng Trần Canh của Trung quốc sang Việt Nam ngày 22-7-1950. Trần Canh đã áp dụng học thuyết chiến tranh nhân dân của Mao vào chiến tranh Việt Nam.

Kế hoạch tiến công của Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch biên giới được thay thế bằng kế hoạch tác chiến của Trần Canh. Thay vì tấn công Cao Bằng như kế hoạch của Giáp, Trần Canh đề nghị kế hoạch tấn công Đông Khê, một đồn của Pháp nằm giữa Cao Bằng và Lạng Sơn, để lùa quân Pháp ra khỏi hai tỉnh trên và sau đó phục kích tiêu diệt (công đồn đả viện). Hồ Chí Minh chấp thuận kế hoạch này. Kết quả trận đánh là quân Pháp thảm bại phải bỏ hết các tỉnh biên giới. Chiến thuật công đồn đả viện của Cộng Sản Việt Nam là do các cố vấn Trung Quốc, nhứt là Trần Canh, truyền thụ cho.

Từ năm 1951, nhóm cố vấn chánh trị do Lã Quí Ba cầm đầu đã giúp Hồ tạo lập luật lệ và chánh sách liên quan đến tài chánh, thuế khóa, quản lý báo chí và đài phátthanh cũng như các chánh sách đối với các dân tộc thiểu số …..

Chiến dịch Tây Bắc 1952

Sau các tổn thất ở đồng bằng sông Hồng Hà năm 1951, Việt Minh, theo sự cố vấn của các cố vấn Trung Quốc, mở chiến dịch Tây Bắc năm 1952. Lã Quí Ba trách nhiệm hoạch định chiến dịch thay Vi Quốc Thanh về Tầu chữa bệnh. Hồ Chí Minh chấp thuận hoàn toàn đề nghị của Lã Quí Ba. Theo Qiang Zhai (China and the Vietnam wars 1950-1975) cuối tháng 9 năm 1952, Hồ bí mật sang BắcKinh để thảo luận về chiến dịch Tây Bắc cũng như chiến lược thắng quân Pháp.

Ngày 14-10 Việt Minh tập trung 8 tiểu đoàn tấn công Nghĩa Lộ và các đồn bót lân cận.

Ngày 16-10 Vy Quốc Thanh trở lại Việt Nam để cùng Lã Quí Ba chỉ đạo chiến dịch. Sau khi mất Nghĩa Lộ, quân Pháp chạy khỏi Sơn La ngày 21-11. Việt Minh hoàn toàn chiếm lĩnh một khu vực lớn ở Tây Bắc, cho phép họ có thể tiến hành các hoạt động ở Lào.

Đối phó với kế hoạch Navarre – Trận Điện Biên Phủ

Tháng 5-1953, tướng Henri Navarre đảm trách chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương với kế hoạch:

1. Kiểm soát vùng đồng bằng sông Hồng

2. Bình định các khu do Cộng Sản kiểm soát ở miền Trung và miền Nam

3. Mở tổng phản kích tiêu diệt các cứ địa của Việt Minh tại miền Bắc

Navarre cho thành lập các binh đoàn lưu động.

Việt Minh Cộng Sản, lúc đầu muốn tập trung quân tại vùng Tây Bắc và Lai Châu, nhưng sau Giáp từ bỏ ý định đó, muốn kéo quân tấn công quân Pháp ở đồng bằng sông Hồng Hà. Như vậy Giáp hạ thấp tầm quan trọng của chiến dịch ở Lào. Bắc Kinh không đồng ý với kế hoạch của Giáp. Bắc Kinh nhấn mạnh Việt Minh cần giữ nguyên kế hoạch tập trung vào Tây Bắc và Lào. Lãnh đạo Trung Quốc cho rằng nếu thực thi chiến thuật này, Việt Minh Cộng Sản có thể chuẩn bị lực lượng cho công cuộc đánh chiếm đồng bằng sông Hồng và cuối cùng sẽ đánh bại Pháp ở Đông Dương.

Tháng 9, Bộ Chính trị của Cộng Sản Việt Nam, phủ quyết kế hoạch của Giáp để theo kế hoạch của các cố vấn Tầu.

Ngày 27 tháng 10 năm 1953, Vy Quốc Thanh trao cho ông Hồ một bản sao kế hoạch của Navarre mà tình báo Trung Cộng đã thu đoạt được. Sau khi xem xét, các lãnh đạo của Cộng sản Việt Nam nói đề nghị của Trung Quốc là đúng. Cộng Sản Việt Nam, nếu theo đúng kế hoạch của Trung Quốc, có thể phá vỡ kế hoạch của Navarre.

Khi Navarre đưa quân đến Điện Biên Phủ, Giáp và Bộ Tham mưu chưa nhận ra tầm quan trọng của vị trí này. Chính Vy Quốc Thanh là người đã thúc Giáp mở chiến dịch bao vây và tiêu diệt quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Trung Quốc nhấn mạnh chiến dịch Điện Biên Phủ không chỉ quan trọng về quân sự mà còn có ảnh hưởng quốc tế.

Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị của Cộng Sản Việt Nam thông qua kế hoạch tác chiến ở Điện Biên Phủ. Giáp chỉ là người thi hành kế hoạch do cố vấn Trung Quốc Vy Quốc Thanh đề ra. Người hùng Điện Biên Phủ Võ Nguyên Giáp đã được cố vấn Tầu nặn ra.

Chính các cố vấn Trung Cộng đã giúp Việt Minh trong các chiến dịch biên giới, Tây Bắc và Điện Biên Phủ. Trung Cộng đã chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ 8286 tấn tiếp liệu gồm võ khí, lương thực v.v… Cố vấn TC có mặt ở mọi đơn vị. Thí dụ họ đã giúp Việt Minh bố trí pháo binh trong các hào sâu trên sườn núi để tránh bị phi cơ Pháp phát hiện và phá hủy. Pháo binh của Việt Minh, được các cố vấn Trung Cộng điều khiển, là một bất ngờ cho quân đội Pháp. Nhưng sự tham dự tích cực của Trung Cộng vào sự thành công của chiến dịch không hề được Giáp nhắc tới trong các bài viết, trong các sách của y như cuốn Điện Biên Phủ: điểm hẹn lịch sử. (The Chinese support for the North Vietnam during the Vietnam War; The Decisive Edge by Bob Seals).

Sự giúp đỡ của Trung Cộng không ngừng ở chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đánh dấu sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân. Sự giúp đỡ vẫn được tiếp tục trong cuộc chiến xâm lăng miền Nam 1954-1975.

Sám hối ?

Thay lời kết:

Người hùng Võ Nguyên Giáp, tướng huyền thoại của Cộng Sản Việt Nam chỉ là một nhân vật đại bịp trong số hàng trăm hàng ngàn tên bịp bợm (trong đó có cả tên Hồ), trong quá trình hiện hữu của đảng Cộng Sản Việt Nam. Y không phải là một thiên tài quân sự như đảng Cộng Sản Việt Nam thổi phồng.

Chính các cố vấn Trung Cộng do Vy Quốc Thanh, Lã Quí Ba cầm đầu đã đánh thắng quân Pháp trong cuộc chiến 1946-1954 chứ không phải là Giáp. Hào quang của Giáp là do Trung Cộng nặn ra, treo vào cổ Giáp. Sự thực các trận đánh lớn, có tính cách quyết định đều do các cố vấn Tầu Cộng thiết kê và điều khiển.

Giáp đã sống trong cái vỏ thiên tài đó trong hơn nửa thế kỷ. Đến nay thì sự thực đã được phơi bầy:

Trong suốt hai cuộc chiến 1946-1954, 1954-1975, Giáp và đảng Cộng Sản Việt Nam đã dựa vào Trung Cộng gần như toàn diện. Nay họ đã và đang trả món nợ đó, trả bằng cả số phận của dân Việt, bằng cả đất nước do tổ tiên để lại: quê hương đang mất dần vào tay người Trung hoa Cộng sản.

BS Nguyễn Lương Tuyền


Monday, March 1, 2010

KHÓC ÔNG ĐẠI TƯỚNG









KHÓC ÔNG ĐẠI TƯỚNG

(Trích "Lịch Sử Đảng Cướp Ngày" - danh mục "Khâu "Phụ Nữ dưới thời Tướng VC Cầm Quần võ nguyên giáp - để nhớ ngày đại tướng VC võ nguyên giáp chết toi theo hồ chủ động. Nhờ các cháu nằm vũng Net chuyển về cho nhà đảng các cháu dùm nhe!)

Ông đại tướng cầm quần ơi ới ời ... ơi ....
Nghe ông chết ngắc, lìa đời
Khóc ông, đảng có vài lời ... hu ... hu ...
Ông đi về với hồ ư ?
Dân reo mừng lắm, tưởng như vỡ trời
Nó bảo đảng chết toi, chết nữa ...
Chết cho nhiều, mỗi bữa, một tên
Chết cho dân nước được yên
Đảng bay còn sống, dân hiền còn đau !
Nay ông chết, chết mau, chết tốt
Nước Việt Nam bớt một tội đồ
Đảng thì bớt đứa bưng bô
Dân đen giảm số ma cô, một đầu
Chỉ phụ nữ là "khâu" bối rối ....
Ai cầm quần sớm tối cho đây ???
Đảng giao ông " vụ việc " này
Ông thi hành rứa, ông hay thấy mồ!
Quần phụ nữ ông vồ, ông vuốt
Ông giữ cho cấm tuột, giỏi không ...
Nay ông về với hồ dâm
Chị em ta có xì xầm ... cũng dzui ...

Hu ... hu ... tướng giáp chết rồi
Ai theo phụ nữ chúng tôi , cầm quần ?
Ngày xưa tướng giáp cầm quân
Trả công, đảng bảo cầm quần ... sướng tê
Job ngon, quần láng ... đê mê
Bỗng Diêm Vương gọi tướng về, phí không!

Khóc ông thơ mọn đôi dòng
Cầm quần, đảng chúc mừng ông ... huy hoàng !

Tha Hương sao chép lại