Friday, January 29, 2010

Võ Nguyên Giáp - Trần Bình Nam

Trần Bình Nam

Ông Võ Nguyên Giáp năm nay 98 tuổi. Có tin ông đang bệnh. Bệnh của tuổi già. Tôi cầu nguyện ông qua khỏi và sống vài năm nữa để đánh dấu 100 tuổi đời. Vinh dự của một đời người.

Cuộc đời của ông Võ Nguyên Giáp là một cuộc đời đặc biệt, và dù muốn dù không cũng không thể không viết về ông. Người ta nói tới ông trong ý nghĩa ông là một nhân vật lịch sử, chẳng những là lịch sử Việt Nam mà còn là lịch sử thế giới. Ông được ghi nhận như một danh tướng thế giới và là viên tướng đã đánh thắng quân đội của đế quốc Pháp trong phong trào giành độc lập và chấm dứt thời đại thuộc địa trên thế giới. Ông cũng đã dự phần không nhỏ vào cuộc đánh thắng quân đội Hoa Kỳ – một quân đội chưa bao giờ bại trận – tại miền Nam Việt Nam. Các nhà nghiên cứu Mác xít và quân sử trên thế giới một thời đã theo dõi từng lời phát biểu của ông để chắt lọc những nguyên tắc của cái gọi là “chiến tranh nhân dân” làm giàu kho tàng của chiến tranh giải phóng các thuộc địa và chiến tranh du kích.

Cuộc đời của tướng Võ Nguyên Giáp dính liền với lịch sử Việt Nam trong thế kỷ thứ 20 và thập niên đầu của thế kỷ 21. Ông dự phần lãnh đạo cuộc đấu tranh chống Pháp giành độc lập (1945-1954) và cuộc chiến tranh áp đặt chế độ “xã hội chủ nghĩa” mà ông tin tưởng vào miền Nam Việt Nam (1956-1975) như một nhà lãnh đạo chính trị (ở vị trí một thành viên của Bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam) và một nhà lãnh đạo quân sự (trong chức vụ Tư Lệnh các lực lượng vũ trang và sau này Bộ trưởng quốc phòng).

Nếu từ năm 1975, sau khi chiến thắng, nước Việt Nam vươn lên như một quốc gia hùng cường có “độc lập, tự do, hạnh phúc” như người cộng sản hứa, có lẽ không ai đặt vấn đề về cuộc đời tướng Võ Nguyên Giáp nếu không phải nhắc tới để khen ngợi, cảm phục và nhớ thương.

Rất tiếc 35 năm đã trôi qua, một thời gian đủ dài để một đất nước có tài nguyên phong phú với những con người đầy khả năng như dân tộc Việt Nam vươn lên thì trái lại thế giới thấy Việt Nam đứng trước một sự trì trệ khó hiểu: căn bản xã hội và văn hóa suy đồi, giáo dục khập khiễng, môi trường bị hủy hoại, nhân dân bị bịt miệng, nhân quyền bị đe dọa, tôn giáo bị kiểm soát và 80 triệu dân chỉ biết làm thuê. Người ta không khỏi tự hỏi tướng Võ Nguyên Giáp đã đóng góp gì cho dân tộc và lịch sử.

Cuộc đời của ông đầy nét kiêu hùng. Cuộc đấu tranh dũng cảm của ông chống thực dân Pháp giành lại độc lập cho nước nhà, những chiến tích oai hùng của ông lãnh đạo một đoàn quân vốn là những nông dân ít chữ nghĩa thành một quân đội nhà nghề ngang nhiên đụng trận với hai đoàn quân của hai quốc gia Tây phương là Pháp và Hoa Kỳ. Trận mạc có lúc thắng lúc thua, nhưng cuối cùng tướng Võ Nguyên Giáp đã thắng hai cuộc chiến.

Nhưng người ta sẽ không thể không ngạc nhiên khi nhìn sự nghiệp của ông. Cho đến giờ này những người cộng sản thuộc thế hệ thứ hai sau ông để cho ông sống yên ổn với đầy đủ tiện nghi tại thủ đô Hà Nội như một trang trí cho chế độ, và khi ông qua đời họ sẽ cho cử hành quốc táng. Nhưng từ năm 1973 ông chỉ còn là chiếc bóng khi Bộ chính trị giao binh quyền cho tướng Văn Tiến Dũng.
Sau khi Sàigòn thất thủ, tướng Võ Nguyên Giáp đã bay vào Nam chứng kiến cuộc chiến thắng ông đã góp phần, nhưng ông không còn quyền hành gì, dù ông còn ghế Ủy viên Bộ chính trị. Tiếng nói của ông không còn trọng lượng.

Theo dõi sự nghiệp của tướng Võ Nguyên Giáp, người ta thấy sau chiến thắng Điện Biên Phủ làm tên tuổi ông vang lừng trên thế giới ông bắt đầu bị những tranh chấp ngấm ngầm trong nội bộ đảng. Báo chí phương Tây nói đến ông nhiều hơn nói đến ông Hồ Chí Minh, và có thể đó là điều làm ông Hồ Chí Minh lo ngại cho địa vị của mình. Người cộng sản chủ trương đấu tranh giành quyền hành bằng vũ lực nên rất bén nhạy trong sự kèn cựa tên tuổi. Và đó là cái hạt nhân giúp giải thích sự yếu thế dần của tướng Giáp trong bộ máy quyền hành của đảng cộng sản Việt Nam từ cuối thập niên 1950. Sự xuống thang của ông từng bậc nhưng rất máy móc và khó gỉải thích nếu không xem sự đồng ý ngấm ngầm của ông Hồ Chí Minh là một lý do.

Trước hết người ta chặt vây cánh của ông trong quân đội với một loạt tướng lãnh bị bắt như tướng Lê Liêm, tướng Đặng Kim Giang với tội trạng vu vơ “xét lại chống đảng” và những cái chết mờ ám của tướng Lê Trọng Tấn, tướng Hoàng Văn Thái (“Đêm Giữa Ban Ngày” Vũ Thư Hiên, trang 279).

Vậy thật sự con người tướng Võ Nguyên Giáp như thế nào?

Ở trong nước không ai viết về ông, ngoại trừ những cuốn sách chính tướng Giáp viết nói về các giai đoạn đấu tranh ông tham gia, nhưng các sử gia nước ngoài viết về ông khá nhiều. Các cuốn sách viết về tướng Võ Nguyên Giáp đều có một hướng chung là nhìn ông như người vạch kế họach và lãnh đạo hai cuộc chiến tại Việt Nam, một chống Pháp và một chống Hoa Kỳ tại miền Nam. Thật ra đó là cách nhìn đơn giản và giản tiện cho sự trình bày mà thôi. Tướng Võ Nguyên Giáp tự do chỉ huy quân đội trong một giới hạn nào đó, nhưng lãnh đạo chiến tranh là lãnh đạo tập thể trong đó vai trò của Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và sau này của Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng không phải không quan trọng. Đó là chưa nói đến vai trò của các cố vấn Trung quốc trong chiến dịch biên giới 1950 và trận Điện Biên Phủ năm 1954.

Và trong sự nghiệp chính trị và quân sự tướng Võ Nguyên Giáp bị cạnh tranh không phải chỉ bởi người đồng hàng đồng lứa mà còn bởi một người kém hơn ông về nhiều mặt: tướng Nguyễn Chí Thanh. Cuộc tranh giành ngôi thứ trong quân đội chỉ được chấm dứt khi Nguyễn Chí Thanh bị bệnh trong căn cứ của Trung ương cục miền Nam (Cục R) được đưa về Hà Nội và chết cuối năm 1967 (TBN: cũng có tin nói Nguyễn Chí Thanh bị B-52 bỏ bom chết, nhưng chưa có tin tức quân sự hay tình báo nào xác nhận).

Từ năm 1964 khi sự kình chống giữa Liên Xô và Trung quốc do khác biệt chính sách, một bên Liên Xô ngả về khuynh hướng xét lại, chống chính sách sùng bái cá nhân và chủ trương hòa hoãn với Hoa Kỳ, một bên là Trung quốc của Mao chống xét lại, chống hòa hoãn, duy trì bằng mọi giá sự độc quyền của đảng cộng sản, trở thành công khai (TBN: sự khác biệt ý kiến phát xuất từ đại hội XX của đảng cộng sản Liên Xô năm 1956 nhưng được cả hai bên giữ kín) thì nội bộ đảng cộng sản Việt Nam chia rẽ giữa hai khuynh hướng. Tướng Võ Nguyên Giáp chủ trương theo Liên Xô. Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh chủ trương theo Mao. Cuối năm 1967 Lê Duẩn (Tổng bí thư) và Lê Đức Thọ (Trưởng Ban Tổ Chức đảng) bắt đầu lập hồ sơ bắt những người thân cận với tướng Võ Nguyên Giáp trong đó có cụ Vũ Đình Huỳnh thư ký riêng một thời của Hồ Chí Minh và người con là nhà văn Vũ Thư Hiên, cùng với các tướng Lê Liêm, Đặng Kim Giảng và nhiều sĩ quan cấp tá cố ý tìm bằng chứng kết tướng Võ Nguyên Giáp vào một âm mưu “đảo chánh” lật đổ chế độ để hạ bệ ông (Đêm Giữa Ban Ngày – Vũ Thư Hiên, trang 363). Vào thời gian công an của Lê Đức Thọ đang phanh phui tìm tội của tướng Võ Nguyên Giáp thì ông Giáp đang là một Ủy viên của Bộ chính trị, cơ quan toàn quyền của đảng!

Cuộc điều tra không đi tới đâu. Người ta nghĩ rằng ông Hồ Chí Minh muốn giới hạn uy tín của tướng Giáp nhưng vẫn che chở không để cho Duẩn –Thọ làm hại ông Giáp. Tướng Võ Nguyên Giáp giữ ghế ủy viên Bộ chính trị cho đến năm 1982, nhiều năm sau khi Hồ Chí Minh qua đời.

Tuy nhiên cuộc xuống thang của tướng Võ Nguyên Giáp rất có bài bản:

Tháng 4/1973 ông mất chức Tư lệnh quân đội.
Tháng 2/1980 ông mất chức Bộ trưởng quốc phòng.
Tháng 2/1982 ông mất chức Ủy viên Bộ chính trị.
Năm 1991 ông mất ghế ủy viên Trung ương đảng.

Những năm sau này tướng Giáp lên tiếng trong một số trường hợp như vụ Tổng Cục 2 (TC2), vụ cán bộ Đảng và Nhà nước tham nhũng, vụ bauxít cao nguyên Trung Việt, nhưng ông không hé răng vụ Trung quốc lấn chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ông nói (hay không nói) để được ăn ngon ngủ yên hay đó là biểu hiện sự trăn trở của một con người còn lương tâm tự vấn mình có công hay có tội đối với quốc gia dân tộc?

Lịch sử sẽ trả lời.

Ông Giáp sinh ngày 25/8/1911 tại làng An Xá, tỉnh Quảng Bình, con ông Võ Quang Nghiêm và bà Nguyễn Thị Kiên. Ông Nghiêm là một nhà nho từng theo phong trào Cần Vương chống Pháp. Bà Kiên sinh 8 người con, 3 người đầu chết khi còn trong trứng nước, sau đó hai con gái Võ Thị Điềm và Võ Thị Liên. Ông Giáp là con thứ sáu. Ông có 2 người em, Võ Thuần Nho và Võ Thị Lài (“Victory At Any cost: The Genius of Vietnam’s General Vo Nguyen Giap” của Cecil B. Currey, trang 5)

Từ 5 đến 8 tuổi ông Giáp học trường làng An Xá, rồi trường Tổng (Đại Phong), trường Huyện, và năm 11 tuổi ông lên học trường tỉnh. Năm 12 tuổi ông Gíáp đậu bằng Tiểu học và hai năm sau đậu thi tuyển vào trường Quốc Học Huế. Các thầy dạy tại trường Quốc Học đều là những nhà trí thức yêu nước có uy tín như các ông Ung Quả, Phạm Đình Ái, Nguyễn Dương Đôn, Nguyễn Huy Bảo, Nguyễn Thiệu Lâu (sách Currey, trang 13).

Thời gian học tại Huế ông Giáp đã nuôi tinh thần chống Pháp và thường đến thăm viếng cụ Phan bội Châu đang bị Pháp giam lỏng tại Bến Ngự. Sau một cuộc biểu tình chống một hành động độc tài của ông Hiệu trưởng tướng Giáp bị đuổi khỏi trường. Sau đó năm 1927 tướng Giáp gia nhập đảng Tân Việt (Tân Việt Cách Mạng Đảng).

Năm 1930 Giáp bị công an Pháp bắt cùng với người em Võ Thuận Nho, giáo sư Đặng Thai Mai và một thiếu nữ 15 tuổi tên là Nguyễn Thị Quang Thái (em ruột Nguyễn Thị Minh Khai). Bị kết án và cùng bị giam tại nhà tù Lao Bảo, Giáp và cô Quang Thái kết thân trong tù và yêu nhau. Năm 1932 ông Giáp và Quang Thái được ân xá.

Thay vì trở về An Xá Giáp trốn ra Vinh tìm việc làm và để gần người yêu (sau khi được ân xá cô Quang Thái trở về sống với cha ở Vinh) và giáo sư Đặng Thai Mai (sau khi được phóng thích ông Mai về dạy học tại Vinh). Tại Vinh, Giáp và Quang Thái cùng hoạt động cách mạng với Minh Khai (sinh năm 1910 lớn hơn tướng Giáp một tuổi) lúc này đã là một đảng viên tích cực của đảng cộng sản Đông Dương.

Năm 1933 ông Đặng Thai Mai ra Hà Nội dạy học tại trường Trung học tư thục Thăng Long do cụ Huỳnh Thúc Kháng làm hiệu trưởng. Giáp theo ông Mai ra Bắc và tạm trú với gia đình ông tại Hà Nội.

Thời gian ở Hà Nội, người phụ trách trấn áp các hoạt động chống Pháp là thanh tra mật thám Louis Marty theo dõi hoạt động của Giáp và giúp ông Giáp vào học trường Trung học Albert Sarraut tại Hà Nội với lời hứa bâng quơ nào đó của Giáp. Không có tài liệu nào nói rõ ý định của Marty, cũng không có bằng chứng hứa hẹn hợp tác làm việc của tướng Giáp. Nhưng giả thuyết dễ hiểu là Marty muốn giúp đỡ để mua chuộc Giáp sau này thành tài sẽ phục vụ cho chế độ bảo hộ. Còn ông Giáp thì giả như đã căn mồi để được tiếp tục học hành. Trong thời gian học tại Albert Sarraut ông Giáp là một học sinh học giỏi và ngoan ngoãn. Một trong những giáo sư dạy ông Giáp hồi đó là Gregoire Kherian vào năm 1972 tiết lộ rằng năm 1938 giáo sư Gaeton Pirou từ Pháp qua chấm thi hằng năm cho các sinh viên học ngành kinh tế chính trị đã chú ý đến sự xuất sắc của Giáp. Khi giáo sư Kherian cho biết cậu sinh viên Võ Nguyên Giáp giỏi nhưng có vấn đề với cơ quan an ninh, giáo sư Pirou ngỏ ý tạo điều kiện cho tướng Giáp qua Pháp học, nhưng tướng Giáp từ chối (sách Currey, trang 35). Điều này làm vững chắc thêm giả thuyết “giả dại qua ải” của ông Giáp đối với chương trình mua chuộc của Marty.

Tuy nhiên sau này Lê Đức Thọ đã dùng thời gian “tế nhị” này trong quảng đời hoạt động của ông Giáp để làm giảm uy tín của ông trong nội bộ đảng cộng sản khi có sự tranh chấp về đường lối của những năm 1964.

Năm 1934 tướng Giáp đổ tú tài II và xin được một chân dạy Sử và Pháp văn tại trường trung học Thăng Long trong khi tiếp tục học luật tại đại học luật khoa Hà Nội. Năm 1937 tướng Giáp đổ cử nhân luật. Ông tiếp tục vừa làm việc vừa học hy vọng lấy bằng tiến sĩ luật. Thời gian này ông Giáp bắt đầu chán đảng Tân Việt vì ông cho là thiếu kỷ luật nội bộ. Ông Giáp ngả dần về khuynh hướng cộng sản.

Chương trình làm việc của ông Giáp thay đổi một cách căn bản từ tháng 6 năm 1936 khi Leon Blum, đảng viên đảng Xã Hội Pháp đại diện Mặt Trận Bình Dân (Front Populaire – gồm liên minh một số chính đảng thiên tả trong đó có đảng cộng sản Pháp và đảng Xã Hội) tuyên thệ nhậm chức thủ tướng Pháp. Ông Giáp cho xuất bản tờ báo Hồn Trẻ. Sau vài số tờ Hồn Trẻ bị đóng cửa, ngày 16/9/1936 Giáp cho phát hành tờ Le Travail bằng tiếng Pháp. Thời gian này Trường Chinh và Phạm Văn Đồng, đảng viên đảng cộng sản Đông Dương (TBN: An Nam Cộng Sản Đảng thành lập tháng 2/1930 đổi danh theo khuyến cáo của Cominter tại Moscow. Sau cuộc đàn áp của Pháp do cuộc nổi dậy Xô Viết Nghệ Tỉnh 1930-31 đảng cộng sản Đông Dương bị tê liệt cho đến năm 1936 nhờ sự dễ dãi của Phong Trào Bình Dân mới hoạt động lại) đến làm việc với tờ Le Travail. Chinh và Đồng là hai người đã thuyết phục ông Giáp rằng muốn chống Pháp giành độc lập như ước vọng của ông thì con đường duy nhất là gia nhập đảng cộng sản. Ông Giáp trở thành đảng viên đảng cộng sản năm 1937. Ông Giáp tạo uy tín rất nhanh trong đảng cộng sản nhờ căn bản học vấn và sức làm việc.

Tháng 4/1939 ông Giáp lập gia đình với bà Quang Thái. Võ Thị Hồng Anh con gái đầu lòng của ông Giáp ra đời ngày 4/1/1940. Mùa hè năm 1939 Phong Trào Bình Dân bên Pháp sụp đổ, các cuộc bắt bớ tại Đông Dương bắt đầu. Đầu năm 1940, con gái vừa ra đời ông Giáp được lệnh của đảng cộng sản qua Trung quốc để gặp Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ Chí Minh).

Ngày 3/5/1940 Giáp chia tay vợ bên bờ Hồ Tây cùng Phạm Văn Đồng rời Hà Nội lên Lao Cay vượt biên qua Trung quốc.

Năm 1946 khi tướng Giáp trở về Hà Nội và An Xá để thăm gia đình Hồng Anh đã lên 6, nhưng vợ và chị vợ, bà Nguyễn Thị Minh Khai đã bị Pháp giết. Minh Khai bị bắt tháng 7/1940 tại Vinh, đưa vào Sàigòn và bị bắn ngày 25/4/1941 tại Hốc Môn. Tháng 5/1941 Quang Thái bị bắt cũng tại Vinh và đưa ra Hỏa Lò Hà Nội. Bà bị tra tấn cho đến chết (TBN: theo tin của tình báo Hoa Kỳ. Nguồn tin của Pháp nói bà Quang Thái tự vận vì không chịu nổi tra tấn).

Lần thăm quê này ông Giáp không gặp được cha. Ông Nghiêm không cho ông gặp. Giữa năm 1947 Pháp chiếm lại Huế và Quảng Bình. Tháng 8/1947 Pháp bắt ông Nghiêm đưa vào giam tại lao Thừa Thiên. Ông bị tra tấn và chết vì kiệt lực tháng 11/1947.

Tướng Giáp tục huyền với bà Đặng Bích Hà, con gái của giáo sư Đặng Thai Mai năm 1946. Bà Bích Hà sinh năm 1929, nhỏ hơn ông Giáp 18 tuổi. Bà Bích Hà có 2 gái 2 trai: Võ Hòa Bình (1951), Võ Hạnh Phúc (1952), Võ Điện Biên (1954, sau chiến địch Điện Biên Phủ), Võ Hoài Nam (1956).

Tháng 6/1940 Giáp gặp ông Hồ Chí Minh tại Côn Minh. Hồ Chí Minh gởi ông đi Dien An, chiến khu của Mao Trạch Đông sau cuộc Vạn Lý Trường Chinh (1934-35) để học tập chính trị và nhất là quân sự chuẩn bị lãnh đạo lực lượng quân sự tương lai.

Sau khi Nhật đánh chiếm Lạng Sơn và Đồng Đăng và đưa thêm 30.000 quân vào Đông Dương, chủ quyền của Pháp tại Đông Dương chỉ còn trên hình thức. Nhân cơ hội Hồ Chí Minh quyết định thành lập ngoại vi đầu tiên của đảng cộng sản Đông Dương gọi là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội gọi tắt là Việt Minh (VM). Phần Giáp, ông cho thành lập đơn vị quân sự đầu tiên gồm 40 người tại làng Ca Ma trong lãnh thổ Trung quốc sát biên giới tỉnh Cao Bằng. Sau đó Giáp cùng Vũ Anh di chuyển căn cứ về hang Pắc Bó trong tỉnh Cao Bằng cách Ca Ma 16km. Pắc Bó được yểm trợ của đồng bào thiểu số trong vùng như người Nùng, Thổ, Mán, Tày, người Dao… Tháng 12/1940 tướng Giáp kết nạp Chu Văn Tấn, người Nùng đầu tiên và sau này trở thành một trong những tướng lãnh của quân đội cộng sản (Chu Văn Tấn gia nhập đảng cộng sản Đông Dương năm 1934). Đến cuối năm 1941 Giáp kiểm soát được 3 trong 9 quận của tỉnh Cao Bằng.

Tháng 5/1941 đảng cộng sản Đông Dương họp hội nghị mở rộng lần thứ 8 tại Pắc Bó và cử Trường Chinh làm Tổng bí thư. Tháng 6/1941 Hitler hủy bỏ thỏa ước trung lập với Liên Xô tuyên chiến với Nga. Phe Trục gồm liên minh Đức, Ý, Nhật trở thành kẻ thù của đảng cộng sản Đông Dương theo Nga. Lực lượng quân sự non trẻ của ông Giáp bây giờ ngoài nhiệm vụ đánh Pháp còn nhiệm vụ chống phát xít Nhật.

Đến cuối năm 1944, mặc dù Pháp tăng cường khủng bố, lực lượng của cộng sản vẫn phát triển và kiểm soát gần trọn 3 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn và Lạng Sơn.

Tháng 7/1944 chính phủ Vichy (chính phủ Pháp thân Hitler) sụp đổ, ông Giáp tin rằng thời điểm đã chín để gìanh chính quyền. Nhưng Hồ Chí Minh cho rằng còn quá sớm và ông giao cho ông Giáp nhiệm vụ tổ chức và huấn luyên quân đội trước khi hành động.

Ngày 22/12 Giáp hình thành đơn vị chính quy đầu tiên gồm 34 đồng chí gọi là Trung đội Trần Hưng Đạo, do “anh Văn” (bí danh của ông Giáp) chỉ huy. Thời gian này tướng Giáp tiếp xúc với OSS (Office of Strategic Services, tiền thân của CIA) của Hoa Kỳ và được sự giúp đỡ để chống Nhật. Ngày 29/3/1945 Hồ Chí Minh gặp tướng Claire Chennault (TBN: Theo Cecil B. Currey, sách đã dẫn, ông Hồ Chí Minh chỉ xin tướng Chennault một tấm ảnh có ký tặng, và sau này ông Hồ dùng tấm hình để phô trương với các đảng phái khác rằng ông đã được Hoa kỳ ủng hộ)
Về phía Pháp, năm 1942 tướng Eugène Mordant bỏ chính phủ Vichy theo de Gaulle chống Đức và được de Gaulle giao phó nhiệm vụ toàn quyền Đông Dương thay thế Decoux. Đoán trước toàn quyền Mordant sẽ tạo khó khăn cho lực lượng mình tại Đông Dương, đêm 9/3/1945 Nhật đảo chánh bắt hết tất cả viên chức và quân nhân Pháp. Sau cuộc đảo chánh Nhật chỉ kiểm soát được các thành phố lớn, nhiều tỉnh nhiều miền bỏ ngỏ và là cơ hội bằng vàng cho ông Giáp tổ chức và phát triển. Chính phủ Trần Trọng Kim do Nhật dựng lên đặt tại Huế không có cán bộ và cơ sở.
Tháng 4/1945 Giáp lên Bắc Giang họp Quân ủy đảng do Trường Chinh chủ tọa và quyết định thời cơ tốt nhất để cướp chính quyền là sau khi Nhật đầu hàng.

Ngày 15/5/1945 ông Giáp làm lễ thành lập Quân đội Giải Phóng Nhân dân tại Chợ Chu thuộc tỉnh Thái Nguyên. Ngày 4/6 phong trào VM họp Hội nghị tại làng Kim Lung thuộc tỉnh Tuyên Quang (sau đổi thành Tân Trào) lấy Tân Trào làm thủ đô cách mạng và ông Giáp được chọn làm một trong 5 Ủy viên Ban Chấp Hành TW của đảng cộng sản Đông Dương.

Để chuẩn bị cuộc nổi dậy gìanh chính quyền ông Giáp tập dượt quân đội bằng các cuộc tấn công đồn Nhật và tiếp xúc với các bộ phận tình báo OSS nhảy dù xuống Tân Trào chuẩn bị cho máy bay thả dù vật liệu và quân dụng. Vũ khí của Hoa Kỳ tuy không bao nhiêu nhưng đã làm tăng uy tín của bộ đội ông Giáp đối với dân chúng trong vùng giải phóng.

Đầu tháng 8/1945 Hoa Kỳ thả hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki. Biết Nhật sẽ đầu hàng, Hồ Chí Minh cho triệu tập hội nghị tại Tân Trào thông qua quyết nghị khởi nghĩa giành chính quyền và cử Giáp chỉ huy một đơn vị quân sự về Hà Nội chuẩn bị.

Ngày 19/8 đảng cộng sản Đông Dương tổ chức một cuộc biểu tình trước nhà hát lớn Hà Nội, trong khi các đơn vị của ông Giáp tiến chiếm phủ toàn quyền quân Nhật đang giữ. Quân Nhật không chống cự. Cuối ngày 19/8 lực lượng thuộc đảng cộng sản Đông Dương kiểm sóat thành phố Hà Nội. Với khí thế đó từ 19/8 cho đến ngày 30/8 các chi bộ của đảng cộng sản Đông Dương kiểm soát hầu hết các tỉnh thành tại Việt Nam. Ngày 28/8 một chính phủ lâm thời được thành lập. Ông Giáp giữ bộ Nội Vụ. Ngày 30/8 hoàng đế Bảo Đại từ chức.

Ngày 2/9 trong một cuộc biểu tình vĩ đại tại Hà Nội Hồ Chí Minh lần đầu tiên xuất hiện trước quần chúng tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Giáp đứng bên cạnh Hồ Chí Minh.
Nhật đầu hàng, đồng minh giao cho Anh tước khí giới Nhật từ vĩ tuyền 16 trở xuống. Quân của Tưởng Giới Thạch tước khí giới từ vĩ tuyến 16 trở lên.

Tại miền Bắc, quân của tưởng Lư Hán có ý nâng đỡ các lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ), trong khi trong Nam quân Anh muốn giúp Pháp trở lại Đông Dương. Tướng Anh Douglas Gracey đến Sài gòn thả tù binh Pháp (bị Nhật giam giữ) và trang bị vũ khí cho quân nhân Pháp. Pháp chiếm lại vùng Sàigòn và lục tỉnh một cách dễ dàng.

Ông Giáp thành lập Giải Phóng Quân, phát động phong trào Nam Tiến đánh Pháp.

Tuy nhiên ông Giáp sau khi đích thân kinh lý miền Nam để thúc đẩy tinh thần Nam Tiến ông trở về Hà Nội báo cáo với ông Hồ Chí Minh rằng với hỏa lực của Pháp bộ đội Giải Phóng không thể ngăn quân Pháp trở ra Bắc. Chỉ còn giải pháp giảng hòa để Pháp tạm trở lại Việt Nam để rảnh tay giải quyết mặt Bắc với quân Lư Hán và các đảng phái quốc gia đang được sự giúp đỡ của quân Trung quốc.

Từ đó có thỏa ước Sainteny-Hồ Chí Minh ký ngày 6/3/1946 đồng ý để Pháp đưa 15.000 quân vào miền Bắc thay quân Trung quốc giải giới quân Nhật và sẽ rút quân trong vòng 5 năm (TBN: Trung quốc đã thỏa thuận để Pháp thay và sẽ rút khỏi miền Bắc chậm nhất là ngày 30/3/1946 đánh đổi một số quyền lợi Trung quốc dành cho Pháp). Pháp công nhận Việt Nam là một nước “tự do”.

Sau khi Pháp đưa quân vào Việt Nam (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế, Cần Thơ và một số thành phố nhỏ khác) Pháp muốn kiểm soát vùng Thái Nguyên căn cứ địa của ông Hồ Chí Minh và hải cảng Hải Phòng để độc quyền đưa quân dụng đồng thời chận nguồn tiếp vận của Liên Xô cho quân của ông Giáp và tạo ra các cuộc đụng độ thường xuyên giữa quân Pháp và quân ông Giáp trên tuyến đường Hà Nội – Lạng Sơn và Hà Nội – Hải Phòng .

Ngày 23/11/1946 Pháp phối hợp Không quân và Hải quân oanh tạc thành phố Hải Phòng giết chết 20.000 dân (Pháp nói chỉ 6.000!) chiếm thành phố và sau đó đòi kiểm soát Hà Nội và con đường Hà Nội – Hải Phòng.

Ngày 19/12/1946 ông Giáp ra lệnh tấn công các cơ sở của Pháp tại Hà Nội và ngày 20/12 ông Hồ Chí Minh ban hành lệnh tòan quốc kháng chiến, rút chính phủ lâm thời và các lực lượng nòng cốt lên vùng Việt Bắc để cho các lực lượng tự vệ đánh nhau với Pháp tại Hà Nội. Sau 2 tháng cầm cự và khuấy phá quân Pháp, ngày 17/2/1947 đơn vị tự vệ cuối cùng rút khỏi Hà Nội lên Việt Bắc. Pháp chính thức trở lại Đông Dương.

Tháng 10/1947 tướng Pháp Jean Etienne Valluy điều động 15.000 quân mở chiến dịch Leo chia làm 3 mủi đánh vào chiến khu Việt Bắc của ông Giáp, mục đích bắt giết toàn bộ bộ phận lãnh đạo của đảng cộng sản Đông Dương. Mủi thứ nhất nhảy dù xuống Bắc Kạn chận không cho bộ chỉ huy VM chạy trốn chờ hai mủi kia. Mủi thứ hai từ Lạng Sơn tiến lên Cao Bằng bằng quốc lộ 4, sau đó theo quốc lộ 3 đánh xuống Bắc Kạn. Mũi thứ ba từ Hà Nội dùng tàu ngược lên sông Gấm rồi di chuyển bằng đường bộ theo quốc lộ 3 bọc phía Nam. Quân nhảy dù xuýt bắt được Hồ Chí Minh và Giáp tại Bắc Kạn (TBN: ông Giáp thuật lại rằng ông ta và ông Hồ Chí Minh chạy trốn quân Dù và ngồi đâu lưng nhau núp trong một bụi rậm. Lính Pháp đi lùng sục dùng mủi súng đập vào bụi rậm, nhưng tưởng không có gì bỏ đi – Currey, trang 139). Sau đó Hồ Chí Minh và ông Giáp lợi dụng bóng đêm thoát ra khỏi vòng vây. Ông Giáp bắt liên lạc với bộ chỉ huy và chỉ huy cuộc chống trả. Mủi Lạng Sơn bắt tay được với quân dù ở Bắc Kạn ngày 16/10 với tổn thất nặng nề. Sau đó hai đoàn quân rút lui theo hướng Nam và ngày 19/10 gặp đoàn quân của mủi thứ ba từ Hà Nội lên giữa đường cùng rút về.

Tháng 11 tướng Valluy cho tập trung 15.000 quân khác tung chiến dịch Ceinture (dây nịt thắt) định chiếm lại hai tỉnh Tuyên Quang và Thái Nguyên và tiêu diệt chủ lực của ông Giáp. Lần này ông Giáp không cho quân đụng trận. Tướng Valluy không đủ quân giữ đất, tháng 12/1947 rút quân lui .

Cuộc thử lửa đầu tiên năm 1947 cho Pháp thấy khó khăn trước mắt và mang lại sự tự tin cho ông Giáp.

Qua năm 1948 quân Pháp ngưng hành quân củng cố bảo vệ vùng đồng bằng sông Hồng, trong khi tướng Giáp củng cố hậu phương.

Tháng 8/1948 trung tướng Roger C. Balisot sang thay tướng Valluy. Balisot chờ đến cuối năm mới bắt đầu hành động. Trong thời gian đó tướng Giáp cho du kích phá rối hàng rào phòng thủ đồng bằng sông Hồng và ông dùng năm 1948 để suy nghĩ tính toán kế hoạch tới.

Tháng 10/1949 Mao Trạch Đông chiếm Trung hoa lục địa, quân đội tướng Giáp bây giờ có một đồng minh lớn mà Pháp không thể mua chuộc dễ dàng như với nhà Thanh và Tưởng Giới Thạch. Quân đội của tướng Giáp được Mao trang bị và huấn luyện an toàn bên kia biên giới giúp tướng Giáp thành lập 3 sư đoàn (304, 312, 316) ở Việt Bắc, và 1 sư đoàn (320) cho miền Trung và sư đoàn pháo 351. Tướng lãnh, sĩ quan, binh sĩ mặc đồng phục không đeo phù hiệu (cho đến năm 1958). Binh sĩ đa số là nông dân tình nguyên hay bị động viên theo lệnh động viên Hồ Chí Minh ban hành ngày 4/11/1949. Quân đội của tướng Giáp từ 32 tiểu đoàn năm 1948 lên đến 117 tiểu đoàn năm 1951. Sự huấn luyện rất cam go vì binh sĩ gốc nông dân trong một nước còn lạc hậu chưa có ý niệm gì về kỹ luật tập thể và cơ giới. Đảng cộng sản thay thế nhược điểm này bằng học tập chính trị.

Về lãnh thổ tướng Giáp chia Việt Nam thành 6 Liên Khu có mức độ sinh hoạt độc lập nào đó dưới sự chỉ huy của ông. Liên khu 1 vùng Tây Bắc, Liên khu 2 vùng Đông Bắc, Liên khu 3 đồng bằng sông Hồng, Liên khu 4 bắc Trung Việt, Liên khu 5 nam Trung Việt, Liên khu 6 Nam Việt. Liên khu 6 ở xa, liên lạc khó khăn và người miền Nam ít quan hệ và hiểu tính tình của người miền Bắc nên sự hoạt động của Liên khu 6 có tính độc lập nhất.

Cuộc đấu tranh kiểm sóat đồng bằng sông Hồng trở nên gay gắt khi trung tướng Marcel Carpentier đến thay thế tướng Blaisot (9/1949). Tướng Marcel Alessandri, phụ tá tướng Carpentier là một người có nhiều kinh nghiệm về Đông Dương. Ông mở chiến địch bình định đồng bằng sông Hồng và vận động sự hợp tác của các thành phần VNQDĐ và Công giáo.

Năm 1945 đồng bào Công giáo ủng hộ Hồ Chí Minh chống Pháp giành độc lập. Nhưng đảng cộng sản Đông Dương muốn thành lập một giáo hội Công giáo độc lập do đảng cộng sản kiểm soát và không lệ thuộc Vatican nên giới Công giáo nghi ngờ thiện chí của Hồ Chí Minh. Alessandri lợi dụng tâm lý này vận động các làng Công giáo trong đồng bằng sông Hồng tổ chức tự vệ. Tướng Alessandri khá thành công trong kế hoạch nàỵ Khi tướng de Lattre de Tassigny đến thay thế Carpentier năm 1950, hầu hết các làng Công giáo trong đồng bằng sông Hồng đều trở thành khu tự trị do các linh mục địa phương quản lý. Nguồn lương thực địa phương cho quân tướng Giáp bị cắt đứt. Quân tướng Giáp phải dùng lương thực của Mao chi viện.

Năm 1950 nội bộ đảng cộng sản Đông Dương manh nha sự tranh chấp cá nhân. Sau Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, Hồ Chí Minh thăng cấp tướng cho ông Giáp và giao cho ông nhiệm vụ Tư Lệnh các lực lượng vũ trang. Trường Chinh, một đồ đề trung thành của chủ thuyết Mao phụ trách mặt lý thuyết và chính trị lo ngại ảnh hưởng của Giáp lấn lướt mình nên bất mãn và ngấm ngầm dèm pha. Chinh cho rằng tướng Giáp chưa đủ kinh nhiệm quân sự nên đề nghị với ông Hồ đưa Nguyễn Sơn làm tham mưu trưởng cho tướng Giáp. Nguyễn Sơn từng học trường võ bị tại Liên Xô, thân Trung quốc như Chinh và từng chỉ huy một trung đoàn của Mao trong cuộc Vạn lý trường chinh của Mao. Và để kềm chế thêm tướng Giáp, Trường Chinh đề nghị thiết lập một hệ thống ủy viên chính trị (gọi là quân ủy) toàn là người tin cẩn của Chinh bên cạnh các vị chỉ huy quân sự trung thành với tướng Giáp. Khó khăn của tướng Giáp bắt đầu.

Cuối năm 1950 tướng Giáp chuyển du kích chiến sang vận động chiến và dùng các sư đoàn tân lập tấn công các tiền đồn Pháp dọc biên giới Trung quốc từ Lạng Sơn lên Cao Bằng trong một chiến dịch gọi là Chiến dịch biên giới. Giữa Lạng Sơn và Cao Bằng có hai cứ điểm hỏa lực lớn là Thất Khê và Đồng Khê. Tướng Giáp dùng lực lương cấp lữ đoàn đánh chiếm Đồng Khê và tiêu diệt quân tiếp viện từ Thất Khê lên và Cao Bằng xuống. Sau 7 ngày hành quân toàn bộ lực lượng Pháp tổn thất 6000 binh sĩ và mất một số vũ khí đủ cho tướng Giáp trang bị một sư đoàn tân lập. Pháp hốt hoảng bỏ Lạng Sơn và tướng Carpentier tư lệnh lực lượng Pháp đề nghị di tản Hà Nội. Chính phủ Pháp không thuận và ngày 17/12 cử tướng de Lattre de Tassigny sang thay với nhiệm vụ giữ Đông Dương và cứu đế quốc Pháp khỏi sụp đổ.

Tướng de Lattre huy động 80.000 binh sĩ cho xây một hệ thống đồn bót nhỏ làm thành một vòng đai bảo vệ khu tam giác Hà Nội, Hải phòng, Nam Định.

Giáp thừa thắng chiến dịch biên giới tung quân vào trận với định ý chiếm thành phố Hà Nội.
Ngày 17/1/1951 hai sư đoàn 308 và 312, do khuyến cáo của Trung quốc, dùng chiến thuật biển người tấn công Vĩnh Yên với mục đích chọc thủng vòng đai bảo vệ Hà Nội. Lực lượng phòng thủ Pháp gồm một trung đoàn được yểm trợ bởi máy bay và bom napalm (do Hoa Kỳ mới viện trợ) đã chận đứng quân tướng Giáp. Chiến thuật biển người áp dụng hiệu quả tại chiến dịch biên giới không có hiệu quả tại đồng bằng nơi Pháp có công thự phòng thủ kiên cố và hỏa lực dồi dào nhất là bom napalm. Trận Vĩnh Yên, tướng Giáp thiệt 6000 quân, 8000 quân bị thương.

Mặt trận Vĩnh Yên thất bại, tướng Giáp tung hai mủi liên tiếp đánh vào mặt Đông và mặt Nam của vòng đai bảo vệ Hà Nội. Tháng Ba 3 sư đoàn bộ binh đánh Mao Khê ở phía Đông. Tháng Năm 3 sư đoàn đánh vào các thị trấn Phủ Lý, Ninh Bình và Phát Diệm ở phía Nam. Hỏa lực mạnh của bộ binh Pháp và của các đơn vị hải quân trên sông đã ngăn không cho quân tướng Giáp chọc thủng các phòng tuyến. Tại Mao Khê 3000 quân của tướng Giáp bị giết và tại mặt trận phía Nam tướng Giáp tổn thất 9000 quân.

Sau các tổn thất lớn lao này Trường Chinh (trong một phiên họp của Bộ chính trị) đề nghị cách chức Giáp. Nhưng Hồ Chí Minh không thuận (mặc dù ông Hồ Chí Minh đưa vấn đề cách chức Giáp vào nghị trình). Kết quả, tướng Giáp viết bản kiểm điểm nhận lỗi lầm, đồng ý thay thế sĩ quan đàn em bất tài và nhận cố vấn Trung quốc ở mọi đơn vị quân đội. Ảnh hưởng của Trường Chinh bắt đầu lấn tướng Giáp.

Cuối năm 1951 de Lattre de Tassigny bị bệnh ung thư chết. Tướng Raoul Salan sang thay.Tháng 11/1951 Salan đánh chiếm Hòa Bình nhưng sau nhiều tổn thất tháng 2/1952 Salan rút lui.
Sau mùa mưa, bước vào chiến dịch Đông Xuân 1952-53 tháng 10/1952 tướng Giáp mở chiến dịch Tây Bắc đánh vào phía Tây sông Hắc Giang về phía Lào theo sự gợi ý của cố vấn Trung quốc. Cuối năm 1952 trung đoàn độc lập 149 của tướng Giáp chiếm thung lũng Điện Biên Phủ trong tỉnh Lai Châu cách biên giới Lào 8 km. Trong chiến dịch Đông Xuân 1953-54 tướng Giáp đưa quân từ Vinh vượt biên giới qua Lào tấn công Thakhet và bao vây căn cứ không quân Senot và chiếm cao nguyên Bolovens ở Nam Lào.

Tháng 5/1953 tướng Navarre thay thế tướng Salan với nhiệm vụ do Paris giao phó là đạt một vài thắng lợi quân sự để có thế thương thuyết với Hồ Chí Minh.

Kế hoạch của Navarre trong chiến dịch Đông – Xuân 1953-1954 là tảo thanh cao nguyên Trung phần, liên khu 5 ở miền Trung, Liên khu 6 ở Miền Nam, bình định châu thổ sông Hồng, và xây dựng một lực lượng sẵn sàng tiêu diệt quân đội tướng Giáp tại miền núi non Tây Bắc và bảo vệ Lào. Navarre tính rằng quân tướng Giáp không thể được tiếp tế lương thực và đạn dược đầy đủ để đánh lớn và đánh lâu dài tại vùng Tây Bắc và ông sẽ có cơ hội tiêu diệt chủ lực của tướng Giáp. Tướng Navarre chọn thung lũng Điện Biên Phủ làm nơi thử lửa.

Ngày 4/11/1953 quân nhảy dù Pháp chiếm thung lũng Điện Biên và bắt đầu xây dựng một căn cứ kiên cố do đại tá de Castries chỉ huy. Trong một thời gian ngắn căn cứ Điện Biên Phủ trở thành một căn cứ vĩ đại trải dài trên hơn 9 km theo hướng bắc nam gồm 8 cứ điểm bao quanh một bộ chỉ huy với hai phi đạo bên bờ sông Nậm Yun, một con sông cạn có cầu bắc ngang và có 7000 binh sĩ chiến đấu và 4000 quân yểm trợ trấn giữ.

Trong khi công binh Pháp đang xây cất căn cứ, tướng Giáp điều động 4 sư đoàn chính quy đến vị trí. Tướng Navarre ước lượng với tiếp liệu khó khăn tướng Giáp chỉ có thể tập trung chung quanh Điện Biên Phủ tối đa một sư đoàn.

Đoàn cố vấn Trung quốc thuyết phục tướng Giáp dùng chiến thuật biển người thanh toán căn cứ trong một thời gian ngắn. Tướng Giáp thoạt tiên đồng ý và chỉ thị cho các sư đoàn của ông chuẩn bị xuất trận ngày 25/1/1954. Nhưng nhớ lại kinh nghiệm thất bại các trận đánh biển người ở Việt Trì, Mao Khê và Ninh Bình năm 1951 (TBN: và có thể ông Giáp nghi ngờ ẩn ý không tốt của đoàn cố vấn Trung quốc) tướng Giáp thỉnh ý lại với Hồ Chí Minh và đổi chiến thuật tấn công vào từng cứ điểm.

Trong khi dồn quân và tiếp liệu đến vòng đai Điện Biên Phủ tướng Giáp cho mở các cuộc tấn công vào Bắc Lào, Lai Châu, Dakto, đánh phá phi trường Cát Bí, phá hủy máy bay để vừa phân tán quân đội Pháp vừa làm yếu lực lượng Không quân Pháp.

Năm giờ chiều ngày 13/3/1954 cuộc tấn công Điện Biên Phủ bằng bộ binh mở màn sau 2 ngày pháo kích phi đạo chính. Cuộc tấn công gồm 3 đợt. Đợt đầu dùng trọng pháo làm tê liệt phi đạo chính và bộ binh tiến chiếm các cứ điểm Beatrice, Gabrielle và Anne-Marie (TBN: Castries lấy tên của tình nhân đặt cho các cứ điểm). Đợt 2 từ 30/3 đến 30/4 thắt chặt vòng vây bằng một hệ thống giao thông hào đánh vào khu trung tâm và cô lập cứ điểm Isabelle ở phía Nam. Sau cùng đợt 3 từ 1/5 thanh toán những gì còn lại. Ngày 7/5 5 giờ 30 chiều tướng Castries bị bắt, quân Pháp kéo cờ trắng. Cứ điểm Isabelle đầu hàng vào sáng hôm sau 8/5.

Trận Điện Biên Phủ kết thúc đưa đến Hiệp định Geneva chia đôi đất nước dưới áp lực của Liên Xô và Trung quốc. Cả hai đều muốn hòa hoãn với Tây phương, Liên Xô với Hoa Kỳ và Trung quốc với Pháp vì những lý do quyền lợi riêng (xem “Mao và Việt Nam” www.tranbinhnam.com Mục Bình Luận, số 304 tháng 3/2009).

Giữa năm 1954 quân tướng Giáp chính thức tiếp thu Hà Nội. Hiệp định Geneva quy định bầu cử toàn quốc để thống nhất đất nước vào năm 1956. Pháp rút vào miền Nam và rút dần về nước. Mỹ đến giúp ông Ngô Đình Diệm thành lập nước VNCH.

Chính quyền miền Nam không ký Hiệp Định Geneva nên không tổ chức bầu cử. Đáp lại, đảng cộng sản Việt Nam quyết định tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang chiếm miền Nam.

Sau Hiệp Định Geneva Hồ Chí Minh phát động lại phong trào cải cách ruộng đất do Trường Chinh cầm đầu (cuộc cải cách ruộng đất bắt đầu từ năm 1952 được tạm ngưng để bớt số người vì sợ bỏ chạy vào Nam) bằng hình thức đấu tố theo mô thức và sự hướng dẫn của Trung quốc. Cuộc đấu tố giết hàng chục ngàn địa chủ kéo dài 2 năm gieo nhiều tang tóc oan khiên cho đến năm 1956 mới chấm dứt. Ngày 10/1956 Hồ Chí Minh nhận sai lầm và mở chiến dịch sửa sai (TBN: các sử gia nghi rằng chiến dịch sửa sai chỉ là một màn kịch)

Trường Chinh mất chức Tổng bí thư và tướng Giáp được ủy thác thay mặt đảng công khai chỉ trích Trường Chinh và xin lỗi thân nhân những người đã bị giết oan. Sự chỉ trích này tăng thêm mối hiềm khích giữa tướng Giáp và Chinh. Trường Chinh, và sau này Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh đã cùng âm mưu một người một tay, một người một cách cắt cánh của tướng Giáp.

Sự xung đột giữa Liên Xô và Trung quốc sau khi Khruchev tố cáo Stalin và đả kích chính sách sùng bái cá nhân là nguyên nhân chính chia rẽ nội bộ đảng cộng sản Việt Nam.

Nguyên nhân khác là chính sách đối với miền Nam. Hòa hoãn hay chiến tranh? Và tướng Giáp là nạn nhân của các cuộc tranh chấp này.

Tháng 1 năm 1959 đảng cộng sản Việt Nam quyết định dùng chiến tranh lật đổ chính phủ miền Nam. Quyết định chính thức được công bố sau Đại Hội 3 họp tháng 9/1960 dưới chiêu bài che đậy giúp nhân dân miền Nam nổi dậy. Lê Duẩn được nâng lên hàng thứ 2 sau Hồ Chí Minh. Tướng Giáp từ thứ 4 trong Bộ chính trị tụt xuống thứ 6.

Trước đó tháng 12/1959 Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGP) ra đời tại miền Nam, và do nhu cầu giải thích với thế giới vai trò độc lập của cuộc nổi dậy, tướng Giáp không giữ một nhiệm vụ gì. Tướng Nguyễn Chí Thanh được cử vào Nam lãnh đạo trực tiếp cho đến khi Thanh qua đời.

Sau khi Nguyễn Chí Thanh vào Nam, khuynh hướng trong Bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam chia làm hai. Một do Lê Duẩn chủ trương đánh mạnh bằng lực lượng quân sự. Một do Võ Nguyên Gíáp và được sự yểm trợ của Trường Chinh chủ trương dùng du kích chiến phối hợp với công tác tuyên truyền chờ tình hình chín muồi.

Tháng 11/1963 tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Tình hình miền Nam hỗn loạn, Lê Duẩn và Nguyễn Chí Thanh nhận định tình hình đã chín muồi để phát động chiến tranh, và dèm pha sự dè dặt lỗi thời của tướng Giáp.

Năm 1964 Hà Nội có 3 sư đoàn đóng trong vòng 80 km quanh Sàigòn và có khả năng tổ chức hành quân cấp trung đoàn trên toàn quốc. Để phá hỏng kế hoạch đánh vào Sài gòn của cộng sản, ngày 5 tháng 8/1964 Hoa Kỳ oanh tạc Bắc Việt lần đầu tiên sau khi một số tiểu đỉnh của hải quân miền Bắc bắn chiến hạm Maddox của Hoa Kỳ đang tuần hành ngoài khơi vịnh Bắc Việt với nhiệm vụ yểm trợ các cuộc đột kích của biệt kích hải quân Việt Nam đánh vào vùng duyên hải Bắc Việt.
Cuối năm 1964 tướng Giáp đưa sư đoàn 325 vào vùng cao nguyên Trung Việt định ý cắt đôi miền Trung và kết thúc chiến tranh trước khi Hoa Kỳ có thì giờ đưa quân sang. Tháng 2/1965 tướng William Westmoreland đến Việt Nam, và ngày 8/3/1965 hai tiểu đoàn TQLC Hoa Kỳ đổ bộ lên Đà Nẳng. Trước đó, ngày 2/3, tổng thống Johnson đã cho phép Không quân Hoa Kỳ mở chiến dịch Rolling Thunder oanh tạc Bắc Việt trên căn bản thường xuyên. Trong những tháng còn lại của năm 1965 quân đội Hoa Kỳ ồ ạt đến Việt Nam. Ngày 26/6/1965 tổng thống Johnson cho phép quân đội Hoa Kỳ hành quân chống quân đội tướng Giáp.

Cơ hội Hồ Chí Minh và tướng Giáp chiếm miền Nam bất thành. Ngược lại Hà Nội bắt đầu lo sợ VNCH với sự yểm trợ của Hoa Kỳ tấn công ra Bắc. Tuy nhiên tướng Giáp vẫn tìm cách thử lửa với quân đội Hoa Kỳ. Trong thời gian từ 19 đến 27 /10 tướng Giáp vây đồn Pleime của lực lượng đặc biệt. Không chiếm được đồn tướng Giáp cho rút quân qua ngã thung lũng Ia Drang và tướng Westmoreland cho sư đoàn kỵ binh không vận (TBN: một sư đoàn tân lập di chuyển hòan toàn bằng trực thăng) truy kích. Trận chiến tại thung lũng Ia Drang kéo dài 6 ngày (14-20/11) hai bên tổn thất nặng, tướng Giáp cho rút quân qua Cambốt và ông biết ông không thể trực diện đương đầu với quân đội Hoa Kỳ.

Năm 1966 tướng Giáp cho hai sư đoàn đánh qua biên giới định chiếm tỉnh Quảng Trị và uy hiếp thành phố Huế. Quân đội VNCH và một ít lực lượng TQLC Hoa Kỳ đã bảo vệ dễ dàng Quảng Trị và Huế nên cuộc tấn công không tạo được tiếng vang nào. Trả lại, tướng Westmoreland tung ra một loạt hành quân “tìm và diệt” đánh vào Bình Định, Tây Ninh và chiến khu C, nơi đặt bản doanh của Bộ chỉ huy miền Nam gây nhiều tổn thất cho tướng Giáp. Đầu năm 1967 tướng Westmoreland tiếp tục các cuộc hành quân đánh vào vùng Tam giác sắt và Chiến khu C.

Tháng Tư 1967 đảng cộng sản Việt Nam họp hội nghị trung ương thứ 13 khóa 3 lượng định rằng tình hình sẽ bất lợi cho Hà Nội nếu không có một thay đổi căn bản về chiến lược. Trên nhận định đó, Trường Chinh đề nghị – và được sự ủng hộ của Duẩn và Nguyễn Chí Thanh – tung một cuộc tấn công rộng khắp vào các đô thị miền Nam vào dịp Tết Mậu Thân đầu năm 1968 với mục đích tạo một cuộc nổi dậy. Tướng Giáp cho rằng chưa đủ điều kiện, nhưng phải chấp hành ý kiến đa số. Tướng Gíáp và Nguyễn Chí Thanh được lệnh hoạch định kế hoạch tấn công.

Để đánh lạc hướng, cuối năm 1967 tướng Giáp cho nhiều sư đòan bao vây căn cứ Khe Sanh do 6000 lính Hoa Kỳ trấn giữ. Đêm 31/1/1968 cuộc tấn công của Hà Nội do ám lệnh của Hồ Chí Minh đọc trên đài phát thanh Hà Nội chính thức bắt đầu. Tướng Giáp thất bại nặng nề, 40.000 binh sĩ bỏ mình và toàn bộ cán bộ và cơ sở của MTGP bị tiêu diệt, trong khi phía VNCH và Hoa Kỳ tổn thất 3.400 binh sĩ (Currey, trang 269). Dù vậy tướng Giáp vẫn tung ra cuộc tấn công Tết đợt II vào tháng 5/1968 để yểm trợ cho cuộc hòa đàm đang được dàn xếp tại Paris.

Chiến lược của Hoa Kỳ sau trận Tết Mậu Thân là rút dần ra khỏi cuộc chiến và giao nhiệm vụ giữ miền Nam cho quân đội VNCH (gọi là chương trình Việt Nam hóa chiến tranh).

Ngày 25/1/1969 cuộc hòa đàm Paris bắt đầu và vào tháng Tư bộ tư lệnh cộng sản miền Nam ra chỉ thị chấm dứt mọi cuộc tấn công lớn, trở lại chiến tranh du kích và phá rối.

Để yểm trợ cho cuộc rút quân tháng 3/1969 Hoa Kỳ dùng B-52 oanh tạc Bộ Tư Lệnh cộng sản miền Nam tại Cambốt. Tháng 8/1969 Hoa Kỳ bắt đầu rút quân.

Tháng 9/69 Hồ Chí Minh qua đời và bộ ba Duẩn, Đồng, Giáp nắm bộ máy lãnh đạo cuộc chiến. Tiếng nói của tướng Giáp trở nên có trọng lượng hơn (TBN: Duẩn tạm cần trí tuệ của Giáp khi không còn Hồ Chí Minh). Hội đàm Paris lằng nhằng, chiến trường Việt Nam lắng dịu trong khi Hà Nội chờ Hoa Kỳ rút quân.

Để chuẩn bị cho cuộc thư hùng sắp tới với quân đội VNCH Hà Nội xây dựng một hậu cứ vững chắc trên đất Cambốt, và năm 1970 cho quân xâm nhập sâu vào Nam Lào có ý kiểm soát sông Cửu Long làm đường tiếp vận, đồng thời đánh sâu vào vùng Angkor để bảo vệ đường mòn Sihanouk.
Với mục đích trì hoãn một cuộc tấn công lớn của Hà Nội, ngày 1/5/1970 quân đội VNCH với sự yểm trợ của Hoa Kỳ đánh vào căn cứ của cộng sản tại Cambốt và tháng 2/1971 đánh vào đường mòn Hồ Chí Minh (chiến dịch Lam Sơn 719).

Sau hai cuộc tấn công để làm trì hoãn của Hoa Kỳ và VNCH, quân đội tướng Giáp trở lại Cambốt và kiểm soát đường mòn Hồ Chí Minh. Hà Nội lượng định tình hình cho là thuận lợi, và để yểm trợ đòi hỏi của Lê Đức Thọ tại cuộc hòa đàm Paris, Hà Nội ra lệnh tướng Giáp chuẩn bị một chiến dịch lớn vào năm 1972.

Cuộc tấn công năm 1972 gồm nhiều sư đoàn với xe tăng và trọng pháo bắt đầu vào mùa Xuân đánh vào 3 vị trí: một qua vĩ tuyến đánh vào Quảng Trị, một vào vùng Kontum, Pleiku phối hợp với cuộc tấn công ở đồng bằng tỉnh Bình Định mục đích cắt đôi Việt Nam (như kế hoạch năm 1965) và một đánh vào Lộc Ninh, An Lộc phía Bắc Saigòn để uy hiếp thủ đô.

Tướng Giáp thất bại trong chiến dịch vì mở mặt trận qúa rộng, đánh quá nhiều mủi làm tổn thất 100.000 quân.

Mặc dù khi thảo luận sách lược tướng Giáp không đồng ý với cuộc tấn công tướng Giáp vẫn bị khiển trách. Tháng 4/1973 Giáp mất quyền trực tiếp chỉ huy quân đội vào tay tướng Văn Tiến Dũng. Tướng Giáp chỉ còn giữ chức Bộ trưởng quốc phòng.

Lúc này quân tác chiến Hoa Kỳ sắp rút hết khỏi Việt Nam, Hà Nội không cần tướng Giáp nữa. Tin đồn nói ông bệnh đi Liên Xô điều trị.

Hiệp định Paris ký kết vào tháng 1/1973. Hà Nội trả tù binh, Hoa Kỳ rút hết quân. Năm 1975 tướng Văn Tiến Dũng lãnh đạo chiến dịch Hồ Chí Minh chiếm miền Nam kết thúc chiến tranh ngày 30/4/1975.

Sau khi thống nhất, cuối năm 1975 tướng Giáp được Duẩn ủy thác cầm đầu một phái đoàn ngọai giao đi thăm Cuba và Algeria.

Năm 1976 tướng Giáp chỉ xuất hiện trong các buổi lễ lớn. Trong đại hội 4 của đảng tướng Giáp chỉ còn đóng một vai trò mờ nhạt. Ông được ủy thác báo cáo về khoa học kỹ thuật. Văn Tiến Dũng là người đọc báo cáo quân sự, một công việc của tướng Giáp trong suốt 31 năm qua (từ năm 1945). Trong Bộ chính trị ông bị đẩy xuống sau Lê Đức Thọ.

Sau đại hội tướng Giáp lại dẫn phái đoàn đi thăm các nước Đông Âu. Trở về ông đi công tác ngoại giao Trung quốc.

Tháng 2/1980 tướng Giáp mất chức Bộ trưởng quốc phòng, được giao phụ trách khoa học và kỹ thuật. Trong năm 1980 tướng Giáp đi công tác Liên Xô hai lần, và một chuyến thăm lục địa Phi châu kéo dài cho đến tháng 1/1981.

Tháng 12/1980 Duẩn, Thọ, Mười và Dũng chủ trương tái tổ chức bộ máy chính trị và quân sự theo mẫu Liên xô. Trường Chinh và Giáp chủ trương Việt Nam nên có thái độ trung lập giữa Liên Xô và Trung quốc mặc dù Trung quốc vừa đánh Việt Nam năm trước. Sự bất hòa này kéo dài đến tháng 2/1982 khi Duẩn có đủ hậu thuẩn trong Bộ chính trị, trong Hội nghị 5 TW đảng khóa 3, Duẩn đẩy tướng Giáp ra khỏi Bộ chính trị, chức vụ quan trọng cuối cùng của tướng Giáp.

Năm 1984 tướng Giáp được giao phó phụ trách Ủy ban dân số và kế hoạch gia đình. Năm 1988 sau khi Việt Nam đổi mới qua đại hội 6 (1986) thủ tướng Đỗ Mười giao cho tướng Giáp phụ trách giáo dục. Năm 1990 sau khi Đông Âu sụp đổ, Việt Nam làm hòa với Trung quốc tướng Giáp được cử đi Trung quốc tham dự Á vận thứ 11 tại Bắc Kinh.

Tháng 8/1991 tướng Giáp được thưởng huy chương Hồ Chí Minh, một huy chương cao quý nhất của đảng, nhưng không có nghi lễ gắn huy chương.

Sau tuổi bát tuần tướng Giáp sống trầm lặng nơi căn nhà hai tầng của chính phủ dành cho ông tại đường Hoàng Diệu. Thỉnh thoảng ông tiếp khách nước ngoài với sự chấp thuận của đảng trong từng trường hợp. Bà Đặng Bích Hà săn sóc ông.

Là một nhân vật gần như huyền thọai, nên chung quanh tướng Giáp vẫn còn rất nhiều điều chưa được giải thích.

• Năm 1946 khi tướng Giáp về An Xá thăm cha, ông Võ Quang Nghiêm không cho phép ông gặp mặt. Có phải lý do là vì tướng Giáp đã điều động cuộc tàn sát các chiến sĩ quốc gia không theo đảng cộng sản trong năm 1945, 1946 không? Ông Võ Quang Nghiêm là một người không ưa chủ nghĩa cộng sản, và hẵn là không chấp nhận cách hành xử khát máu của con mình.

• Tướng Giáp có liên hệ gì với cuộc tàn sát 5000 người ở Huế trong Tết Mậu Thân 1968 không? Một cuộc tàn sát như vậy phải có lệnh từ cấp cao, và lúc đó tướng Giáp là tổng tư lệnh chiến dịch. Rất có thể tướng Giáp đã gián tiếp ra lệnh hạ sát để trả thù cha. Năm 1947 khi Pháp trở lại miền Trung, ông Nghiệm bị bắt và bị hành hạ cho đến chết tại lao Thừa Thiên, Huế.

• Tại sao tướng Giáp quá tệ bạc với các sĩ quan và tướng lãnh thân tín như vậy?

Những tướng như Lê Trọng Tấn, Hoàng Thế Thái ủng hộ tướng Giáp đã đột tử một cách đáng nghi (Đêm Giữa Ban Ngày – Vũ Thư Hiên, trang 279) tướng Giáp không lên tiếng đòi hỏi điều tra. Và khi các tướng đàn em của ông như Lê Liêm, Đăng Kim Giang bị bắt trong vụ “xét lại chống đảng” vì bị nghi là âm mưu lật đổ tập đoàn Lê Duẩn – Lê Đức Thọ cũng không thấy ông lên tiếng bênh vực. Chính bản thân ông đang là một Ủy viên Bộ chính trị cũng bị gián tiếp điều tra và theo dõi ông cũng không một lời phản đối chính thức. Ông Võ Nguyên Giáp sợ gì? Hay ông chỉ là con hổ giấy.

• Tướng Giáp có bị bệnh ung thư không?

Thất bại trong cuộc tấn công năm 1972, và sau khi mất chức Tổng tư lệnh quân đội, tướng Giáp vắng mặt tại Hà Nội 7 tháng (từ 9/1973 đến 5/1974) và tin nói ông qua Liên Xô chữa bệnh ung thư.

Theo ông Cecil B. Curry, trong tháng 12/73 hay tháng 4/74 có một nhà ngoại giao Tây phương tình cờ thấy tướng Võ Nguyên Giáp tại một bệnh viện ung thư ở Mạc Tư Khoa. Tuy nhiên nếu dựa vào cuộc phỏng vấn tướng Võ Nguyên Giáp bởi nhà báo Pháp Berengère d’Aragon của tờ Paris Match tháng 10/1997 thì việc tướng Võ Nguyên Giáp vào bệnh viện tại Mạc Tư Khoa có thật, nhưng bệnh thật hay không vẫn còn là một nghi vấn. Hay Lê Duẩn muốn đẩy tướng Võ Nguyên Giáp ra khỏi Hà Nội để chuẩn bị người thay thế ông. Trong thời gian tướng Giáp vắng mặt trung tướng Văn Tiến Dũng được thăng thượng tướng (Currey, trang 295).

Trong cuộc phỏng vấn, tướng Võ Nguyên Giáp biết bà phóng viên từng bị trọng bệnh, ông vừa cười vừa khuyên bà: “Bà đừng có tin lời của bác sĩ. Họ là những con chim mang tin xấu cho người. Họ bảo tôi bị ung thư lá lách hay ung thư gì đó đại lọai như vậy đã 30 năm rồi. Nếu họ nói đúng thì tôi đã chết mất đất ít nhất cả chục lần rồi.” (Currey, trang 293).

Dựa vào lời nói của tướng Võ Nguyên Giáp và căn cứ vào sức khỏe hiện nay của ông gần 100 tuổi ông vẫn còn khỏe và trí óc minh mẫn người ta có thể nghiêng về giả thuyết bệnh ung thư được loan truyền của ông là bệnh chính trị do các đồng chí thân mến Lê Duẩn và Lê Đức Thọ dàn cảnh.

• Tháng 12/2007 khi Trung quốc sát nhập Hoàng Sa và Trường Sa thành quận huyện của tỉnh Hải Nam ông Giáp không một lời phản đối. Trái lại năm 1979 khi Trung quốc đánh qua biên giới phía Bắc tướng Giáp trong một cuộc phỏng vấn của báo chí nước ngoài đã kết án Trung quốc bằng những lời lẽ nặng nề rằng “đây là một hành động xâm lăng vô cùng phi lý, tàn bạo và dơ bẩn nhất trong lịch sử.” (Currey, trang 309). Cái gì có thể giải thích thái độ bất nhất sợ sệt này.

Tháng 7/1991 tướng Giáp rời khỏi chức vụ Ủy viên Trung ương đảng và chính thức nghỉ hưu, một tháng trước ngày sinh nhật thứ 80 của ông.

Thời gian nghỉ hưu ông có vẻ vẫn còn quan tâm đến việc quốc gia và từng lên tiếng chống tham nhũng, chống sự lạm quyền trong quân đội trong vụ TC2, chống chương trình để cho Trung quốc khai thác quặng bauxít ở cao nguyên miền Trung.

Những việc đó cho thấy tướng Giáp luôn trăn trở với vai trò của ông và của đảng cộng sản mà ông đã phục vụ suốt đời đối với lịch sử.

Tướng Giáp đã tiếp nối cha anh bất khuất đánh Nguyên, cự Thanh ghi Việt Nam vào lịch sử thế giới là một nước nhỏ đã đánh thắng hai cường quốc Tây phương. Cá nhân ông được ghi nhận như một danh tướng trên thế giới.

Nhưng đảng cộng sản Việt Nam đã thất bại trong công cuộc đưa đất nước đến chỗ cường thịnh và làm cho thế giới kính nể như mộng ước của tướng Giáp khi ông rời bỏ Huế để ra Thanh Hóa theo chân ông Đặng Thai Mai, người thầy và sau này trở thành bố vợ của ông tìm đường chống Pháp.
Câu hỏi chính là: tướng Giáp là con người của lịch sử hay là nạn nhân của lịch sử? Tướng Giáp có trọn vẹn làm nên lịch sử không hay chỉ là “chiếc lá giữa dòng” như bao con người khác trong đó có những người lính gốc nông dân ông lùa ra chiến trường trong những trận đánh biển người của ông?
Trong khi chờ đợi lịch sử phán xét, nếu chúng ta kéo bức tranh vẽ cuộc đời của ông để nhìn thật gần chúng ta không khỏi thấy màu u ám. Nơi ông hòa hợp cái mạnh (qua lời nói) với cái yếu (trong hành động) và tỏa ra một cái gì bạt nhược. Ông đã bỏ qua nhiều cơ hội hành động khi bị các đồng chí của ông kém tài nhưng thủ đoạn hơn cắt lông cắt cánh.

Và cuối đời hình như ông lo sợ, lo sợ cái cỗ xe ông đã dày công góp sức đóng nên sẽ nghiền nát ông như đã từng nghiền nát những đàn em thân tín của ông. Ông muốn được quốc táng!

Tướng Giáp có là một danh tướng không, hay chỉ là danh hão do báo chí quốc tế tung hô? Nhưng dứt khoát ông không phải là dũng tướng. Đó là điều bất hạnh không những cho cá nhân tướng Giáp mà còn là điều bất hạnh cho dân tộc Việt Nam.

Trần Bình Nam


CHUYỆN NHỮNG NGƯỜI LÍNH TỬ THỦ AN LỘC - Phạm Phong Dinh





Phạm Phong Dinh
(Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Bão Lửa – Tri Ân những Người Lính QLVNCH)

Ngày 07.07.1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đáp xuống An Lộc tuyên dương công trạng và đặc cách thăng cấp tất cả chiến sĩ tử thủ An Lộc sau gần ba tháng ác chiến với bốn sư đoàn cộng quân 5, 7, 9 và Bình Long. Trong lúc tình hình mặt trận vẫn còn rất ngột ngạt, tuy rằng các sư đoàn địch đã lùi ra xa, nhưng không có gì bảo đảm rằng sự hiện diện của vị Tổng Tư Lệnh là không nguy hiểm cho chính bản thân ông. Tổng Thống Thiệu được đích thân Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh lái xe Jeep chở đi một vòng thành phố để quan sát những đổ vỡ của chiến tranh. Tổng Thống Thiệu đã cảm khái đứng lặng thinh bên những nấm mộ chôn vội của tử sĩ và người dân An Lộc. Chiếc xe Jeep phải chạy ngang khu bến xe An Lộc để ông có thể ngậm ngùi trông thấy được một cái nghĩa trang nhỏ, đơn sơ nhưng rất tươm tất, nơi an táng hình hài của 68 anh hùng 81 Biệt Cách Dù, mà đã được đồng đội còn sống lập nên thành.

Chiến thắng An Lộc mang một kích thước quá lớn, không còn của riêng dân tộc Việt Nam đánh bại đạo quân tiền phong của khối cộng sản quốc tế là binh đội Bắc Việt, mà nó còn là một biểu tượng của thế giới tự do đánh thắng chủ nghĩa cộng sản, là khúc dạo đầu báo hiệu sự hủy diệt cái chủ nghĩa quái thai đó 17 năm sau: Cuộc sụp đổ năm 1989 của Liên Sô và khối cộng sản Đông Âu. Tổng Thống Thiệu đã trân trọng trao tặng quân dân tử thủ ở cái thành phố nhỏ bé mà cang cường này một mỹ danh mà sẽ vĩnh viễn đi vào những trang sử dân tộc và cả quân sử thế giới: BÌNH LONG ANH DŨNG – AN LỘC ANH DŨNG. Vị Tổng Thống đã vui vẻ gọi về cho phu nhân của mình, giọng hân hoan của ông có thể được nghe rộng khắp đất nước từ hàng triệu chiếc máy thu thanh:

- Bà đừng chờ cơm tôi. Tôi ở đây ăn cơm với anh em chiến sĩ An Lộc.

Người cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh đã tươi cười đứng giữa những chiến hữu của ông chụp nhiều bức hình, mà ngày hôm sau đã nằm ở trang đầu của những tờ báo Thủ Đô Sài Gòn và cả trên các báo khắp thế giới. Đó há chẳng phải là một vinh dự cực lớn mà quân dân Bình Long Anh Dũng đã xứng đáng nhận được từ chính máu xương của mình. Há chẳng phải đó là một thách thức ngạo nghễ đối với lũ âm binh què quặt của bốn sư đoàn cộng quân đang lẩn trốn đâu đó trong những cánh rừng già Miền Đông và bên kia biên giới. Há chẳng phải là một cú đấm ngàn cân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vào giữa mặt cái khối gọi là “các nước xã hội chủ nghĩa anh em”. Há chẳng phải đó mà một xác nhận cuộc chiến bại nhục nhã mà tướng tá Hà Nội dù có lật lọng đến đâu cũng phải cúi đầu câm nín hay sao.

Chiếc trực thăng phành phạch đập cánh quạt đưa Tổng Thống Thiệu và phái đoàn hùng hậu quan khách Sài Gòn ra thăm viếng đã xa dần. Nhưng đối với quân dân An Lộc, cuộc chiến đấu vẫn còn rất gian nan ở phía trước. Cộng quân đâu đã cam chịu chiến bại, các đơn vị của chúng vẫn còn lẫn quẩn bên ngoài An Lộc dội pháo quấy phá ngày đêm. Ngày 22.06.1972, các đơn vị tiền phong của Sư Đoàn 18 Bộ Binh đã nhảy xuống thay thế nhiệm vụ trấn thủ An Lộc cho Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Các đơn vị Sư Đoàn 5 Bộ Binh lục tục được không vận về Căn Cứ Lai Khê, trong khi các đơn vị của Sư Đoàn 18 tiếp tục đổ vào thành phố. Vẫn còn một khối lượng công tác chiến đấu ngổn ngang đang chờ đón đoàn tinh binh tràn đầy nhuệ khí này. Đồi Gió, Đồi 169, phi trường Quản Lợi vẫn còn đang nằm trong tay quân giặc. Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo và chiến sĩ Nỏ Thần Miền Đông của ông sẽ rất bận rộn trong những ngày hành quân trước mặt. Nhưng dù thế nào mặc lòng, buổi chào cờ sáng và thượng Quốc Kỳ mỗi thứ Hai luôn được Chuẩn Tướng Đảo cho cử hành trang trọng, bất chấp địch đang pháo hay không pháo.

Trong những ngày ngột ngạt đó, phóng viên chiến trường Lưu Văn Giỏi nhận lệnh của Bộ Tư Lệnh Không Quân Việt Nam Cộng Hòa nhảy xuống An Lộc để ghi nhận những đổ nát của chiến tranh, những hoạt động âm thầm của những người lính bay Không Quân và người lính Bộ Binh, cùng quân dân An Lộc đã chiến đấu anh dũng như thế nào, đang và sẽ chiến đấu ra sao, cùng những mất mát não lòng. Anh Lưu Văn Giỏi từng là Chủ Tịch Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH Toronto, Canada nhiều nhiệm kỳ. Anh đã về hưu từ lâu và vui thú điền viên. Nhưng những thiên bút ký chiến trường ngày xưa của anh và những đóng góp của anh trong công cuộc đấu tranh chống cộng và tôn vinh Lá Cờ Vàng Đại Nghĩa cùng Những Người Lính QLVNCH vẫn luôn ghi khắc sâu trong lòng mỗi chúng ta. Bài viết Trên Vùng Trời Đất Nước của anh đã nhận được Giải Ba Cuộc Thi Phóng Sự Chiến Trường Năm 1973 của Cục Chính Huấn:

Tại Sư Đoàn 2 Không Quân, tôi nhận một công điện từ Bộ Tư Lệnh Không Quân gọi về trình diện gấp, vì nhu cầu công vụ, thời gian công tác và ngày về sẽ cho đơn vị biết sau. Một chiếc phản lực A37 đi công tác đưa tôi từ Nha Trang vào Sài Gòn. Tại Parking vãng lai, tôi thót lên “Honda ôm” trực chỉ Bộ Tư Lệnh Không Quân. Và nửa giờ sau tại đây tội nhận một sự vụ lệnh khác, thời gian và nơi đến là 8 ngày tại An Lộc. Tờ mờ sáng hôm sau, tôi có mặt trên bãi đậu trực thăng của Sư Đoàn 3 Không Quân để đi Lai Khê. Lần đi này ngoài hợp đoàn 18 chiếc trực thăng võ trang UH, còn có 6 chiếc CH 47 (loại trực thăng khổng lồ tải hàng)

30 phút ở Lai Khê

Phi trường Lai Khê là một phi trường nhỏ được dùng làm Bộ Chỉ Huy Tiền Phương, tất cả trực thăng yểm trợ cho An Lộc đều đặt ở đây để tiện đường cho quân bạn tải quân, tải hàng đến, và nhất là để thu ngắn đường chim bay đến An Lộc. Tại đây, dưới những gốc cao su già có những hàng cơm, hàng nước kiểu dã chiến, vài hoa tiêu mắc võng nằm nhai bánh mì chờ ... thời tiết.

Tôi gặp Đại Úy Đào Vũ Anh Hùng, nhà văn kiêm hoa tiêu trực thăng. Thấy tôi, Hùng hỏi:

- Đi làm hay đi chơi?

Câu hỏi ngắn và tôi cũng trả lời gọn:

- Đi làm.

Hùng moi trong túi áo bay ra một gói xôi bắp đã bẹp:

- Ăn không?

Tôi lắc đầu vỗ nhẹ tay lên bụng, trong khi anh nhìn tôi từ đầu đến chân:

- Vào Điện Biên Phủ thứ hai mà cứ y như là đi du lịch vậy? Không có áo giáp, nón sắt thì phòng không và pháo kích nó không chê bạn đâu.

Hùng chỉ chiếc máy ảnh tôi đang mang trước ngực:

- Phải có thêm một nón sắt nhỏ cho ống kính mới an toàn, nếu không thì bạn có nhiều triển vọng thất nghiệp đấy!

- Kỳ trước có một ông bạn Báo Chí lên An Lộc, khi ông ta vừa đưa máy lên ngắm thì một viên AK đã ưu ái chui vào nằm gọn trong ống kính. Cũng may là tầm đạn đã yếu nên không bị chột.

Có nhìn thấy cái cảnh phi công Việt Nam treo võng nằm tòn teng dưới những gốc cao su gậm bánh mì, cạp xôi bắp chờ phi vụ ta mới thấy thương họ. Nghỉ ngơi và ăn uống như thế mà bay như điên, bay bất kể giờ giấc và thời tiết. Có khi vừa đáp, chưa kịp nghỉ ngơi mà thấy có tên trong Phi Vụ Lệnh là lại xách nón đi bay. Cứ sáng vác tàu đi, tối vác về ... Có người đi rồi không bao giờ trở lại. Cũng có người về mà trên thân tàu lỗ chỗ đầy dấu đạn phòng không. Cũng có người khi đã đáp an toàn trên bãi đậu rồi mới biết người xạ thủ phi hành của mình đã gục đầu trên cây đại liên mà chết tự lúc nào. Cũng có khi người hoa tiêu chánh bị phòng không ngồi chết ngay ngắn trong ghế lái trong “tư thế còn sống”, cái chết thật đẹp như cái chết của một Từ Hải mà người hoa tiêu phụ vẫn cố cắn răng để nước mắt mình lăn dài xuống má, tiếp tục bay thi hành cho xong sứ mạng đã, rồi mới về. Cũng có người phải bỏ tàu giữa rừng để về bằng một tàu khác, hoặc băng rừng lội suối, rồi năm bảy ngày sau mới về với một thể xác đói khát và đầy thương tích. Ta có thể so sánh những tiện nghi cùng số giờ bay và thành tích chiến đấu một trời một vực giữa phi công Hoa Kỳ và phi công Giao Chỉ như sau:

Pilot Hoa Kỳ không biết mắc võng ở gốc cây nằm gặm bánh mì chờ phi vụ như pilot An Nam ta. Hồi tháng 4.1972, ở mặt trận Tây Nguyên, tại Bộ Chỉ Huy của tiền đồn Tân Cảnh, tôi đã thấy một Đại Úy phi công Hoa Kỳ trong bữa cơm. Ông ta đã ăn gần nửa ký thịt với bơ, sữa, hột gà, táo, nho, rồi mới bước lên chiếc trực thăng võ trang Cobra mà cất cánh, trong khi hoa tiêu Giao Chỉ cũng trước một phi vụ nhưng chỉ ... “thổi hết một cái kèn bằng bột”, rồi ngửa cổ ừng ực nước lã trong bi đông, xong ... cuốn võng leo lên ghế lái, bay vù vù, bay như điên. Về số giờ bay và thành tích, ta có thể so sánh thật thà như sau: “Chiến trận Hạ Lào chính thức khai diễn ngày 08.02.1971, trong 29 ngày đầu tại đây, người Mỹ có số giờ bay cao nhất là một Thiếu Tá, 80 giờ. Trong khi đó, phi công có số giờ bay cao nhất là Trung Úy Dương Đức Ngọc, thuộc Không Đoàn 62 Chiến thuật, Sư Đoàn 2 Không Quân, 168 giờ. Người Mỹ đánh nhiều chiến xa nhất, một Trung Úy phi công phản lực, 3 chiếc. Trong khi đó Trung Úy Dương Đức Ngọc đánh 17 chiếc T54. Số giờ bay và thành tích đó đã làm vẻ vang về tinh thần chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bên cạnh quân đội đồng minh tại Hạ Lào. Trong trận này, Ngọc cũng là người lãnh đạn phòng không nhiều nhất. Một lần phi cơ anh đứng một chong chóng, phải đáp ở Đà Nẵng lúc 23 giờ 30, 3 lần khác bị gãy cánh trái và cánh đuôi, nhưng lúc bấy giờ thời tiết ở Việt Nam không cho phép, nên anh phải dẫn tàu qua Thái Lan đáp trên phi trường Nakhom – Phakhom. Sự so sánh thật thà trên đã là một chứng minh cụ thể cho ta thấy tinh thần chiến đấu cao độ của người lính Việt Nam trên đất nước nghèo nàn này.

Đồng hồ tay chỉ 7 giờ 45, trời vẫn còn xấu. Các hoa tiêu có vẻ sốt ruột, họ tụm năm tụm ba ngồi đấu láo với nhau, nói chuyện thời tiết, nói chuyện phi vụ hôm qua, chuyện hào hoa, lả lướt đêm rồi và bàn với nhau cho phi vụ sắp tới. Một nhân viên của toán Điều Không đến nói với Hùng:

- Cứ cất cánh, vì An Lộc đang chờ.

Tôi đứng dậy nhưng không đi với Hùng, vì anh bay tàu C and C (Hướng dẫn C and C = Command and Control và chỉ huy, không đáp). Tôi theo chân một hoa tiêu ra chiếc võ trang đậu ngoài bãi. Tại đây, lương thực, vũ khí, đạn dược và chiến sĩ đổ bộ đã chờ sẵn. Tôi đi chiếc tàu tải đạn. Mười phút sau tất cả những chiếc trực thăng tại đây đã bốc khỏi mặt đất và ... trực chỉ An Lộc. Trên đường từ Lai Khê đến An Lộc trần mây thật thấp, sương mù còn thật mù, họ phải để đèn báo hiệu cho khỏi đụng nhau trên trời. Ngồi trên trực thăng nhìn chung quanh những chiếc võ trang đang lù lù bay theo, tôi có cảm tưởng như đây là một đàn ong khổng lồ bị vỡ tổ và đang di dân. Sau vài phút bay, đến một nơi quang đãng hơn, dưới mắt tôi ruộng đồng xơ xác, những hàng tre cháy xém, những hố đạn, hố bom cày nát trên ruộng đất bỏ hoang ...

Nhảy xuống An Lộc

Người xạ thủ phi hành ghé váo tai tôi:

- Anh có xuống không?

Tôi gật đầu. Anh ta lại nhìn tôi với vẻ ái ngại như thầm hỏi tôi sao không có áo giáp và nón sắt, nhưng ... tôi lờ đi. Bỗng anh khom lưng chỉa mũi minigun xuống đất bấm cò. Những hồi đạn rú dài như ... bò rống. Tôi thấy ... rức tim khi những vệt lửa từ dưới xẹt lên quanh phi cơ. Xung quanh tôi, năm chiến sĩ bộ binh thuộc Sư Đoàn 18 cũng ... lên đạn. Tôi cũng nhét vội băng đạn vào khẩu Colt của mình cho vững bụng. Đang bay, tàu bỗng xà xuống đột ngột rồi bất ngờ đáp vội trên Quốc Lộ 13, “càng” chưa chạm đất, mấy quả đạn pháo kích đã ào ào bay tới rớt quanh đó làm gãy mấy cây cao su. Tôi nhảy vội theo năm chiến sĩ rời thân tàu và lăn tròn qua mặt lộ nằm gọn dưới một hố bom. Chúng tôi chưa kịp xô hàng xuống, thì tàu đã bốc vội lên cao bay mất hút, một trái dạn khác rớt ngay chỗ phi cơ vừa đáp làm banh xác cái ba lô vô tội của một chiến sĩ vừa quăng xuống. Mấy bịch gạo xấy tung tóe trắng mặt đường. Tôi nằm dưới hố bom mà thầm nghĩ: “Người Mỹ đã dạy cho người Việt biết đánh giặc bằng trực thăng, nhưng còn lâu sự khôn lanh của họ mới bằng sự nhanh nhẹn của người Việt Nam và ... có lẽ chừng nào người Mỹ biết ăn trầu, thì họ mới có đủ được kinh nghiệm của chiến trường Việt Nam. Vì nếu lơ mơ không bốc lên kịp, thì chiếc trực thăng kia với một núi đạn 81 ly trong đó sẽ lãnh đủ trái đạn pháo vừa rồi.

Tôi nhìn theo chiếc trực thăng đã mất hút ở cuối bìa rừng cao su, như hiểu ý, một người nằm gần nói với tôi:

- Cứ nằm đây chờ, chút nữa hết pháo họ sẽ đến.

Tôi hỏi lại:

- Nhỡ đến mà nó pháo nữa thì sao?

Anh ta thản nhiên:

- Trúng thì rớt, không trúng thì bay đi.

Sau câu nói này, tôi nhớ lại cái chết của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Nhàn thuộc Phi Đoàn CH47 của Sư Đoàn 3 Không Quân trước đây một tuần tại mặt trận An Lộc. Trong một phi vụ tiếp tế, tàu của Nhàn bị trúng phòng không, bạn bè bay theo bảo anh rời vòng chiến ngay và đáp ép buộc chờ trực thăng võ trang cứu. Nhưng anh đã trả lời:

- Biết rồi, để thả hết hàng cho họ đã. Họ bị thiếu tiếp tế từ mấy ngày nay, không lẽ mình vượt bao nhiêu màn lưới phòng không mới vào được đây, mà bây giờ lại ra sao?

Anh chỉ trả lời như thế rồi tiếp tục vào vòng yểm trợ. Khi số hàng còn lại trên tàu vừa thả được xong, thì cũng là lúc chiếc CH47 anh đã nằm gọn trong màn lưới phòng không. Thiếu Tá Mai là bạn của anh bay gần đó đã nghe được những lời cuối cùng của anh qua hệ thống vô tuyến: “Hàng thả hết rồi, nhưng tất cả hệ thống điều khiển trong phòng lái đã ngưng hoạt động. Bây giờ tao đáp ép buộc đây, tụi mày hãy theo tao cover thật kỹ và pick-up thật nhanh ... “. Nhưng không còn kịp nữa, anh vừa nói xong thì chiếc trực thăng đã như một bó đuốc khổng lồ từ trời cao rơi xuống nổ tung trên mặt đất, và anh đã chết theo tàu ... Tôi và các chiến sĩ vẫn nằm trốn đạn và chờ trực thăng đến. Quanh đó, vài chiến xa T54 nằm chỏng trơ, vài chiếc khác nằm chúi đầu xuống những hố bom, phía sau tôi là rừng cao su trùng điệp. Trong phút chốc tàu bốc vội lên mây, mất hút ở cuối một khúc quanh của con lộ 13. Vài tràng đạn AK đuổi theo, mấy quả đạn pháo kích khác rớt quanh đó như xé gió phá rừng, những thân cây lại thi nhau gãy rôm rốp. Mấy thùng đạn vừa được đem xuống vẫn còn nằm trên quốc lộ. Một anh kéo tôi đi nơi khác:

- Hãy tránh xa đống đạn này, đạn pháo kích mà nó rớt vào đây thì ... bỏ bu.

Từ hướng Xa Cam, một đoàn người gồng gánh, bồng bế nhau chạy loạn về hướng chúng tôi. Tức thì mấy quả đạn pháo kích được câu đến từ Đồi Gió rớt vào giữa đám dân chạy loạn này, gây vô số người chết, vô số người bị thương. Có những người bị thương cách đây vài giờ lại bị thương nữa. Có những người sắp chết, muốn được chết cho rảnh tay người thân chạy nạn, thì bây giờ được chết. Trong số những người chết này, một cảnh tượng thật thương tâm đã xảy ra ngay trên bìa rừng cao su An Lộc. Một người mẹ bồng đứa con khoảng sáu tháng bị mảnh pháo phá vỡ khuôn ngực và bà ngã ra chết liền tại chỗ. Đứa nhỏ không chết, cũng không bị thương, nó bò trên bụng mẹ khóc thét lên trong sự hãi hùng. Khóc mệt, nó lại gục đầu vào ngực mẹ nó mà bú. Một người khác cũng dân chạy loạn đến bế nó ra, thì mặt mũi của đứa bé bê bết máu của mẹ nó và trong mồm nó cũng có máu, mà có lẽ nó tưởng đó là chất sữa nên đã hút vào. Một lúc sau đứa bé cũng chết luôn trên tay người bế nó.

Một cảnh tượng khác mà tôi cũng không làm sao quên được. Một đứa bé gái khoảng13 tuổi mù hai mắt, gầy yếu xanh xao, cõng thằng anh nó khoảng 15 tuổi trên lưng, bị cụt một chân. Đứa nhỏ mù mắt cõng đứa lớn cụt chân. Đứa cụt chân ngồi trên lưng đứa mù mắt để chỉ đường mà chạy trốn Việt cộng. Trong xách tay tôi còn hai ổ bánh mì mua hồi sáng ở Lai Khê, tôi lấy đưa cả cho anh em nó. Trước đây tôi đã được đọc những câu in trên bích chương dán ở thành phố: “... Pháo kích bừa bãi, giết hại dân lành, nhà cháy người chết, thù hận này biết đến bao giờ mới nguôi ngoai trong lòng người dân Việt ... “. Dạo đó tôi đã nghĩ rằng những câu này chỉ là về phương diện chính trị thôi. Nghĩa là Việt cộng xuyên tạc mình thì mình xuyên tạc lại. Nhưng bây giờ thì tôi đã hiểu đó là sự thật, một sự thật mà không thể đội trời chung với bọn người dã man đó được, và tự nhiên trong lòng tôi thấy dâng lên những thù hận ngút ngàn. Thật tình mà nói, trước khi bước vào An Lộc, tôi đã thầm nghĩ: “Mình chỉ chết khi bị trúng đạn, chứ nếu đối diện gần thì trên ngực áo tôi có hai chữ Báo Chí “nó” không giết đâu mà sợ, cao lắm thì chỉ bắt sống là cùng. Nhưng bây giờ thì tôi không còn nghĩ như thế nữa. Trước mặt tôi, chung quanh tôi, những người dân vô tội đang thương vong la liệt. Tôi sờ tay vào hông, khẩu Colt vẫn cồm cộm. Tôi quyết định: “Nếu đêm nay còn phải ở đây mà rủi gặp bọn chúng, thì dù thế nào tôi cũng đẩy về hướng chúng 6 viên và còn lại là cho tôi, chứ nhất định không để bị bắt sống. Nghĩ đến đây, hình ảnh vợ con tôi tại trại gia binh lại hiện ra, tôi thấy nhói trong lòng.

Từ xa có tiếng đập phần phật của trực thăng, rồi trong phút chốc 8 chiếc lượn sát những ngọn cao su và cũng bất thần đáp dài trên quốc lộ, trong khi đạn pháo kích của Việt cộng tiếp tục rải dài theo hai bên bìa đường. Các chiến sĩ đổ bộ thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh lẽ ra khi nhảy xuống thì họ di tản, nhưng họ đã đến phụ khiêng xác chết và người bị thương lên phi cơ xong mới đi. Tôi ngồi tựa lưng vào xích của một chiếc T54 bỏ hoang nhìn theo mấy chiếc trực thăng đang bốc vút về hướng Lai Khê mà trong đó có gần 100 người dân vô tội vừa chết, vừa bị thương, vừa kinh hoàng ... Cộng sản Bắc Việt vừa sát hại xong dân lành vô tội bằng công cụ giết người của chúng, thì Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đến mang những người dân đó về nơi an toàn ... Từ hướng Chi Khu An Lộc, một chiếc Jeep mui trần chở gần 20 đồng bào tiến về hướng bãi đáp trực thăng. Tôi quá giang chiếc Jeep này vào Chi Khu và tại đây tôi được gặp Đại Úy Lê Văn Vẫn, Chi Khu Phó Chi Khu An Lộc. Đại Úy Vẫn cho biết ông là người ở đây lâu nhất (bốn đời Quận Trưởng đã thay phiên nhau) từ năm 1964. Và bây giờ ông nhất định ở đây chiến đấu đến hơi thở cuối cùng chứ không đi đâu hết. Ông kể tiếp:

- Ngày mặt trận An Lộc mở màn có 6 chiếc trực thăng của Sư Đoàn 3 Không Quân đến đáp vào Chi Khu để đưa gia đình của quân nhân tại đây rời An Lộc. Tôi chạy vào hầm trú ẩn nói với vợ tôi: “Có trực thăng đến, em mau đưa các con về Sài Gòn, ở đây nguy hiểm lắm. Khi nào êm, anh sẽ về đưa mẹ con em lên. Nhưng vợ tôi nhứt định không chịu và trả lời: “Mẹ con em về nơi an toàn, ở đây rủi anh chết thì mẹ con em sống với ai ? Em xin được ở lại đây cùng sống chết với anh”. Trong lúc đó vợ con của anh em quân nhân tại đây đều đã nhất loạt trả lời như thế, nên cuối cùng sáu chiếc trực thăng phải rời Chi Khu mà không có đàn bà trẻ con nào theo ... “

Sau câu nói của Đại Úy Vẫn, tôi chợt nhớ lại gương liệt nữ Phạm Thị Thàng cách đây đã lâu. Chị Thàng là vợ của một chiến sĩ Nghĩa Quân. Chị và các con đều sống chung trong công sự chiến đấu của chồng trong làng. Một đêm nọ Việt cộng công đồn, chồng chị bị trúng đạn, chi thay chồng tung mấy chục trái lựu đạn vào đám Việt cộng khi chúng tấn công bằng biển người. Nhưng đến quả cuối cùng, bọn chúng quá gần nên chị đã chết chung với thêm mấy tên Việt cộng nữa bằng quả lựu đạn đó. Bây giờ vợ lính ở An Lộc cũng đã noi gương chị Thàng không chịu đi Sài Gòn ở lại tử thủ: sống chết với chồng con tại An Lộc. Đại Úy Vẫn tiếp:

- Sáu chiếc trực thăng vừa bốc lên thì một chiếc bị trúng đạn và rớt ngay bên ngoài vòng đai Chi Khu rồi bốc cháy. Chúng tôi nhìn theo mà đã khóc lúc nào không hay. Anh em Không Quân đã vì sinh mạng gia đình chúng tôi mà phải chết, tôi kính trọng và nhớ ơn nghĩa cử của quý anh em đó lắm. Cuối cùng tôi quyết định cho một trung đội mở đường máu ra cứu phi hành đoàn, nhưng cũng không kịp. Khi trung đội trở vào thì ... chỉ còn phân nửa quân số, bởi lúc bấy giờ chiến xa Việt cộng quá nhiều. Rồi hai hôm sau, trại gia binh của chúng tôi tại đây cũng bị pháo kích nặng, hơn tám chục phần trăm gia đình của quân nhân chết và bị thương ...

Gà trống nuôi con

Trong khi ngồi tiếp chuyện với tôi tại một căn hầm dã chiến được đào sâu dưới mặt đất, trước mặt tôi là Đại Úy Vẫn, quanh đó khoảng năm, bảy chiến sĩ mà mỗi người đang có vài em bé quấn qúit bên cạnh. Đại Úy Vẫn xoa đầu một bé gái khoảng 4 tuổi:

- Tôi có năm đứa, bây giờ chỉ còn mình nó, anh chị nó chết hết rồi, má nó cũng chết, ông nội bà nội, ông ngoại bà ngoại nó cũng chết trong trận pháo kích đó...

Ông chỉ những đứa bé đang đứng cạnh mấy chiến sĩ quanh ông:

- Đấy anh xem, bây giờ ở đây cái cảnh gà trống nuôi con rất nhiều. Cha mẹ và vợ con chúng tôi đã vì chúng tôi mà chết tại đây, nên chúng tôi đã thề tử thủ tại đây đến hơi thở cuối cùng, dù có được đổi về Sài Gòn cũng không đi. Nếu một ngày nào đó mà anh gặp lại một trong những khuôn mặt của chúng tôi tại đây trên một địa danh an toàn nào đó không phải là An Lộc mà lúc đó chúng tôi còn tại ngũ thì ... anh có quyền giết chúng tôi, nếu không phải là Lệnh hay Chỉ Thị cho chúng tôi rời An Lộc. Hôm nay anh là người Báo Chí của Không Quân đầu tiên đến đây, tôi xin được đại diện các chiến sĩ tử thủ An Lộc gửi đến anh em Không Quân, nhất là những phi hành đoàn đã lái tàu bay vào Chi Khu với ý định đưa vợ con chúng tôi đến nơi an toàn, những lời thành thật muôn đời nhớ ơn của chúng tôi, mặc dù vợ con chúng tôi không đi và ... đã chết.

Những chiếc vòng tử thủ

Nói đến đây Đại Úy Vẫn gỡ trong tay của ông ta ra 3 chiếc vòng trao cho tôi:

- Tất cả những chiến sĩ tử thủ tại đây mỗi người đều có mang ba chiếc vòng này và chúng tôi đã đặt tên là ... vòng AN LỘC TỬ THỦ. Nay tôi xin tặng anh để làm kỷ niệm ... Anh là người thứ hai, sau Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa mà chúng tôi tặng ba vòng này.

Một Thiếu Úy ngồi gần đó nhìn Đại Úy Vẫn rồi nói với tôi:

- Anh có viết bài thì nhớ nói là Thiếu Tá, vì ổng lên lon gần hai tháng nay, nhưng từ đó đến nay ở đây không ai bán “lon” mà mua nên ... ông Vẫn “vẫn” mang “lon cũ”.

Tôi nhìn Đại Úy Vẫn như thầm hỏi lại: “Có đúng thế không ?“. Thiếu Tá Vẫn gật đầu:

- Đúng vậy.

68 Ngày tử thủ An Lộc không lãnh lương

Cũng tại đây, tôi gặp một chiến sĩ còn rất trẻ, anh ta tâm sự với tôi như sau:

- Em là Binh Nhất Lê Nhâm Thình, quân nhân Không Quân, thuộc Sư Đoàn 2 Không Quân tại Phù Cát, kỹ thuật phi cơ loại C 7A. Về phép thăm nhà hôm 28.3.1972 rồi bị kẹt lại đây đến bây giờ. Trọn gia đình em bị pháo kích chết hết rồi, chỉ còn lại một người anh đang tại ngũ tại An Lộc này thôi. Đã nhiều lần em muốn ra đón tàu để về lại với Không Quân, nhưng còn ngại sẽ bị rắc rối về an ninh nên chưa dám. Tính đến nay là 68 ngày, trong suốt thời gian này tại đây em đã chiến đấu như một chiến sĩ Bộ Binh thật sự, nhưng chỉ ăn nhờ cơm gạo sấy của anh em ở đây thôi chứ không có lãnh lương. Em có lấy được một AK của tên Việt cộng mà em đã bắn chết nó. Hôm nào về Sài Gòn, nhờ anh trình lên Bộ Tư Lệnh Không Quân, nếu không bị rắc rối, anh viết thư về đây, KBC 6995, lúc đó em sẽ bằng đủ mọi cách về trình diện đơn vị ...

Buổi chiều, tôi có dịp vào thị trấn An Lộc. Phố xá thật tiêu điều, những căn nhà không người trơ vách, những tuyến kẽm gai quanh Chi Khu cháy cong queo. Đó đây một vài xác trực thăng cháy xụm, những chiến xa đứt xích nằm chỏng chơ như quái vật không đầu, vài chiếc khác chúi mũi xuống những hố bom, một chiếc dù màu trắng đỏ phất phơ theo chiều gió trên ngọn cao su. Những chiếc dù tải hàng còn vương vãi theo hai bên quốc lộ, trên mặt con lộ 13 những hố đạn, hố bom sâu hoắm. Những vỏ đạn đủ cỡ, đủ loại nằm ngỗn ngang, những thân cây cao su cháy đen ngã gục. Trong vòng đai Chi Khu, một bức tường dầy và cao lổ chổ đầy vết đạn lớn nhỏ mà phía trên còn đọc được ba chữ “QUẬN AN LỘC“. Gần đó, một vách tường khác có dấu hồng thập tự với ba chữ “TRẠM CỨU THƯƠNG“, phía sau là một trường tiểu học bị tróc nóc. Xa hơn một chút là trại gia binh An Lộc cũng đã điêu tàn. Bước ra phía ngoài, một xe Honda bốn bánh nằm lật ngang, bên hông có cẩn thận ghi hai chữ thật lớn “XE NHÀ” bằng sơn màu trắng và ... một chữ “BINH ” viết bằng đất đỏ An Lộc. Tôi thầm cười, trạm cứu thương, trại gia binh, nhà thờ, chùa chiền và đàn bà trẻ thơ vô tội còn phải lãnh đạn pháo kích của “quân giải phóng”, thì ... “Xe Nhà Binh” sức mấy mà thoát khỏi, sao không đề là ... “XE CỦA QUÂN GIẢI PHÓNG“. Tôi đâm ra phục lối chơi chữ hay hay của người nào đó đã viết thêm chữ “BINH“ sau hai chữ “XE NHÀ“ này.

Châu chấu đá voi

Cách cổng vào Chi Khu An Lộc khoảng hai cây số, một chiếc xe cần cẩu của tư nhân màu vàng nằm chắn ngang một nửa mặt con lộ 13, một chiếc khác nằm trơ bánh lên trời dưới mé lộ. Được biết, trong những ngày đầu sôi động của An Lộc, khổ chủ hai chiếc xe trên đã tình nguyện đem ra cho “đâu đít lại với nhau” nằm chắn ngang lộ, với ý định không cho chiến xa của Việt cộng vào thị trấn An Lộc thân yêu của họ. Vì họ đã nghĩ rằng, một khi mà chiến xa của Việt cộng vào được trong thị trấn thì dù cho xe cần cẩu của họ có để trong nhà cũng không còn. Nhưng ... kết quả T54 của Việt cộng là voi, mà xe cần cẩu của họ là châu chấu!

Thoát chết nhờ lối tuyên truyền láo của Việt cộng

Gần vòng đai Chi Khu vài chục thước, mấy chiếc T54 nằm quay đầu ra bất động. Hỏi, thì một chiến sĩ cho biết như sau:

- Dạo đó, khi An Lộc bị thất thủ, hàng chục chiến xa Việt Cộng đã phây phây đi vào và các tay xạ thủ cũng đã phây phây ngồi hẳn phía trên xe. Chúng tôi lúc đó chỉ còn hơn đại đội, nấp dưới những hầm hố, không dám bắn trước. Nhưng chúng tôi lấy làm lạ, không hiểu tại sao những chiến xa này không khai hỏa mà chỉ vào đậu đó, xong chạy vòng vòng, thật chậm như có ý tìm kiếm rồi quay ra và ... khi chúng quay đầu xe ra, bọn tôi xách M72 chạy theo hạ hết. Thứ này mà bắn vào đứt xích là nằm liền. Các trưởng xa và xạ thủ thoát khỏi xe cũng bị chúng tôi hạ luôn, có vài tên bị chúng tôi bắt làm tù binh và chúng cho biết: Sở dĩ khi chúng đưa xe vào tận đây mà không khai hỏa, vì trước khi vào đây, cấp chỉ huy đã cho chúng biết, hiện An Lộc hoàn toàn do quân giải phóng kiểm soát và ... làm chủ tình hình, nên chúng vào và cứ tự nhiên ngồi trên nóc xe như “người quân nhân trở về đơn vị” và chạy vòng vòng là có ý đi tìm “đồng chí”. Đến khi tìm mà không gặp được đồng chí nào hết nên mới lừng lững quay ra, và khi quay ra thì mỗi chiếc bị lãnh vài viên M72 từ mặt hậu rồi đứt xích luôn không thể quay đầu lại. Bởi thế mà anh thấy những chiến xa quanh vòng đai này phần đông đều quay đầu ra. Còn những chiếc khác xa xa thì lại quay đầu vào, những chiếc này hầu hết là lãnh bom và rocket từ phi cơ.

Nghe xong câu chuyện, tôi thầm nghĩ: “Bọn cộng sản Bắc Việt ngoài lối thí quân, nướng quân bằng những cuộc tấn công biển người ồ ạt của chúng, mặc cho hỏa lực khủng khiếp từ phi cơ ta “làm cỏ”, nay chúng có thêm một lối “nướng quân” bằng cách tuyên truyền láo với quân sĩ thuộc quyền. Bởi nếu chúng không nói láo với quân sĩ của chúng thì anh lính này đâu còn sống đến ngày nay để kể lại giai thoại “chiến xa Việt cộng phây phây vào sào huyệt ta đi tìm “đồng chí”, để rồi khi quay đầu ra vừa khỏi vòng đai, thì ... nằm đây luôn đến bây giờ. Trong lúc vui miệng anh lại kể cho tôi nghe thêm một vài chuyện khó tin, nhưng tại đây lại ... có thật.

Trong thời gian tử thủ bệnh táo bón rất quý

Có những lúc bên ngoài nó pháo rát quá, hầm trú ẩn thì nhỏ, mà anh em lại quá đông, đôi khi muốn đi cầu lại ngại lãnh đạn, nên chúng tôi cứ ... “cố nín, cố nín”. Đến khi không thể nín được mà bên ngoài vẫn còn pháo, thì dùng ... lớp trong của nón sắt làm cái “bô”. Xong, đứng ở miệng hầm liệng ra ngoài. Có người chỉ mới hai ngày đã liệng luôn cả hai lớp của nón sắt, nên ở đây mà trong thời gian đó ai có được cái bệnh táo bón là quý như vàng, thảnh thơi lắm. Mà tóm lại trong thời gian đó, người nào có táo bón mấy đi nữa thì cũng phải có một lần “liệng nón sắt”.

Một giai thoại khác: “TẮM BẰNG MỒ HÔI“, vì tại đây nước rất quý, quý hơn vàng, có khi phải dùng đến nước tiểu để làm “nở cơm sấy” khi ăn. Có nhiều người chịu không nổi phải bịt cả hai lổ mũi, nhai sơ rồi nuốt vội như cố “tống cơm vào bao tử” cho xong để có sức mà ... tử thủ nhưng không dám ăn nhiều, vì nếu ăn nhiều thì trời sẽ không cho được cái bệnh táo bón. Bởi nước quý như vàng, nên trong thời gian đó lúc nào thấy êm, ai muốn tắm thì cứ cử tạ bằng cách bưng một thùng đạn nặng trịch đưa lên, đưa xuống cho đổ mồ hôi. Xong cởi ngay quần áo ra ... ung dung ngồi kỳ đất trên da nở ra và rất dễ ... “TẮM BẰNG MỒ HÔI“.

Phạm Phong Dinh

Nhớ lời “tên-lớp-3-trường-làng ” nói... - Trần Văn Giang

Trần Văn Giang

Chú Triết là một sự mỉa mai đau đớn mà trời đất đã phạt nuớc Việt và dân tộc Việt.

Nhờ giời, đất nước Việt Nam mình thật may mắn đặc biệt có hai chủ tịch nhà nước với đạo đức và trí tuệ thuộc hạng ưu việt, qua từng giai đoạn của lịch sử, đã giáo hóa dẫn dắt nhân dân Việt một cách mênh mông tình dân và đậm đà ý đảng: Đó là “bác” Hồ và “chú” Triết.

Vì vấn đề “phạm húy,” nên phải tạm thời gọi chủ tịch Triết là “Chú” cho nó long trọng. Chứ cái danh xưng “Bác” đã được đảng và nhà nước lộng kiếng, “đăng ký” hẳn hoi riêng cho “Bác Hồ” rồi; thành ra chủ tịch Triết vì vai vế còn thấp (hơi lùn) và hậu sinh kể cũng còn lâu mới đủ sức lấn sân, và khó mà tiếm cái danh “Bác” của bác vĩ đại. Phải chờ chú Triết “làm việc” khá hơn rồi sẽ hạ hồi phân giải sau về danh xưng của chú. Tất cả còn tùy ở chú Triết về lâu về dài …

Ngôn từ ngoại giao của vẹm trên vấn đề gọi tên người xem ra còn độc hơn vịt xiêm lai. Hồi trước, đối với những nhân vật lãnh đạo, nhân vật đã nổi tiếng thế giới đã được mọi nơi kính nể; nhưng nếu chẳng may vì một vài lý do nào đó mà CS không thích họ (mà CS thì có kính nể ai đâu?) thì CS đều gọi là “thằng” hết ráo trọi. Chẳng hạn thằng “Dơn sơn “(TT Johnson), thằng “Ních xơn” (TT Nixon), thằng “Bảo đại,” thằng “Diệm,” thằng “Thiệu,” thằng “kỳ,” thằng “Mác na ma ra” (cựu Bộ trưởng quốc phòng Hoa kỳ Mac Namara) ... Ngược lại, CS gọi nhau là Bác (Hồ) là Chú (bác Hồ gọi mọi người, mọi lứa tuổi nhân dân, mọi cấp bậc đảng nhà nước là các “chú” cả!); là Anh (Nguyễn Văn Trỗi); là Chị (“Dên phôn đa” – Jane Fonda) hết ráo .... Bây giờ, qua mầu thời gian, vẹm lạ đổi tông và gọi Clinton, Bush, Obama … và ngay cả thuyền nhân vượt biển tị nạn CS (năm 1980) bs Bùi Duy Tâm là “Ngài!” Thật oái oăm!!!

Những lời “bác” dậy thì đã được nhân dân ta học tập đi học tập lại rất “tốt” và nhuyễn nhừ rồi. Bây giờ đã đến lúc phải bắt đầu ghi chép và phân giải lời “chú” Triết là vừa. Để mai đây, lỡ chú có phải gió hay ăn uống nhằm món độc nào đó (đ/c Dương Bạch Mai ngày trước cũng trong hoàn cảnh tương tự) lăn quay ra xùi bọt mép thì ít ra đảng ta còn có sẵn “tư liệu” mà tiếp tục đem ra dậy dỗ nhân dân giai đoạn hai - hậu bác Hồ - chứ!

Sau đây là phần ghi chép những nhời vàng ngọc đáng đồng tiền bát gạo của chú Triết qua từng gian đoạn.

Ngày 23 tháng 6 năm 2009, chú Triết thăm đi Mỹ và nói chuyện với các “đại biểu” doanh nhân Việt gốc vẹm. Mỹ gốc Việt, và Mỹ gốc Mỹ… ở Dana Point, California là:

“Mời các nhà đầu tư đến Việt nam; vì Việt nam có nhiều gái đẹp lắm!”

Thiệt tình! Hình như hồi còn trai trẻ chú Triết “bị” sống dưới thời “phồn vinh giả tạo” của chế độ các “thằng” Thiệu-Kỳ, có dư ăn dư mặc và dư chút đỉnh tiền đi thư giản ở ngã ba chú ía, ngã năm chuồng chó; rồi hào sảng ghi tâm lời rao hàng ngọt như mía lùi của mấy “em gái” đứng ở các đầu ngã ba ngã năm. Lời rao cũ có “ép-phê” thứ thiệt đã làm chú Triết không từ chối được ... Cho nên bây giờ chú Triết nhớ lại lời rao hàng đã có kết quả chứng nghiệm đầy “kinh nghiệm bản thân” này, đem ra sửa chữa chút đỉnh, “recycle” dùng lại kêu gọi đầu tư vào Việt Nam chắc phải có hiệu quả chăm phần trăm ...

Có một “sự cố” là chỉ số thông minh (“IQ”) của chú Triết chưa vượt qua con số của nhiệt độ trong nhà (“room temperature”) nên chú không thể thấy là câu chào hàng này có vẻ hơi phản thùng, chơi khăm, chửi bố thím Triết ở nhà (?) Chả là, “con gái Việt Nam đẹp lắm” nhưng mà thím Triết toàn diện tính cả vốn lẫn lời chỉ có mỗi cái tên do cha mẹ đặt ra là đẹp (Trần Thị Kim Chi) còn lại nhan sắc, vóc dáng của thím nhìn rất thảm hại không kém gì Thị Nở. Thím nhìn thoang thoáng qua giống y chang như một thím bán hột vịt lộn gánh?! Nhưng nhìn kỹ lại thì thấy giống thiệt. (Tôi xin lỗi các thím bán hộn vịt lộn ở chỗ này. Tôi muốn nói là chỉ có người là xấu chứ không có nghề nào xấu cả. Dáng dấp của thím Triết là cái dáng đi bán hột vịt lộn gánh mà làm đệ nhất phu nhân nước Việt Nam thì hình như trước khi cách mạng thành công chỉ có trong chuyện thần thoại mà thôi!)
Ngày 27 tháng 8 năm 2007, chú Triết trong “bài nói” về “an ninh quốc phòng” khi chú thăm Tổng cục chính trị, Bộ quốc phòng đã “cảnh báo” là:

“Dù ai nói ngả nói nghiêng. Dù ai muốn bỏ điều 4 hiến pháp gì đó (*) thì không có chuyện đó. Bỏ cái đó [“điều 4”] đồng nghĩa với việc chúng ta tuyên bố tự sát.”

Bỗng nhiên CS và chú Triết sợ chết thế nhỉ? CS từng coi mạng sống của mình và nhân dân ta như tiền bác Hồ. Như CS đã tuyên truyền là người của cách mạnh anh hùng tự đốt mình thành đuốc rồi miệng thổi sáo tay ôm bom đi tà tà (?) vào kho đạn của địch cho nổ tung; hoặc lấy thân xác gầy gò của mình làm vật cản súng nặng tầm xa khi súng đang được kéo lên núi cao bị trượt xuống dốc; hoặc đã ôm chất nổ ngậm ống đu đủ lặn lội dưới nước để nổ tung phá cầu cống; hoặc lăn ra chết như rạ hàng hàng lớp lớp trong các trận đánh biển người; hoặc quyết tử tự khóa chân vào ổ súng lớn để đánh đến chết ... cơ mà??? Ậy! Sao chậm hiểu quá! Bi giờ là thời buổi “đổi mới,” “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” khác rồi. Đâu còn cái thuở mặc quần xà loỏng cởi trần công đồn nữa. Chú nào mặt cũng béo đẫy đầy thịt, làm chủ 2-3 căn nhà, có vợ lớn vợ bé cả tiểu đội, có tiền của rủng rỉnh bỏ ở nhà băng ngoại quốc. Nếu bỏ (“điều 4 hiến pháp”) tức là bỏ quyền lực độc tài đảng trị để nhân dân có cơ hội vùng lên dành lấy quyền làm chủ thì đảng viên CS cỡ chú Triết chết là cái chắc; không có đủ thời giờ để tự sát cho tốn thuốc chuột , phí đạn... Mà lỡ chết đi thì của cải tài sản đã cất công vơ vét kỹ lưỡng của nhân dân làm sao còn giữ được? Chú Triết tuy là hơi lùn nhưng chú cũng có cố gắng ráng nhìn xa xa: thấy bài học lịch sử đảng CS Liên sô và Đông âu đã đi trước và to lớn hơn Việt Nam nhiều mà còn tan rã; còn rét hơn nữa là có anh Sô-sét-cu (**) chủ tịch nhà nước của CS Romania suốt 24 năm mà còn bị dân cho đi bán muối; thì chú Triết lo lắng “cẩn trọng” nhắn nhủ các đảng viên CSVN là đúng quá. Làm gì phải phản bác.

Ngày ngày 29 tháng 9 năm 2009, chú Triết viếng thăm nước Cu Ba và phát biểu một câu xanh rờn được khán giả (?) vỗ tay vang dội (!).

“Có người (?) ví von, Việt Nam Cu Ba, như là trời đất sinh ra. Một anh ở phía Đông, một anh ở phía Tây. Chúng ta thay nhau canh giữ hòa bình cho thế giới. Cu Ba thức thì Việt Nam ngủ, Việt Nam thức thì Cu Ba nghỉ ...”

Sổ sách “tư liệu” của đảng ta đâu có cái mảng nào ghi chép là chú Triết học trường kịch nghệ ngành hài đâu mà Chú Triết ăn nói thiệt mắc cười. Chú cứ ấm a ớ chẳng cho ai biết “có người ?” là người nào? Hay là chính chú đã tự ý vẽ ra cái vụ ví von dzui quá xá này? “Có người (?)” nói chú nhái lại lời bác Hồ đã nói về nước Cu ba từ ngày trước; nay chú sửa chữa lại chút đỉnh cho hợp thời trang, hợp tình hợp cảnh cho dzui hơn!

“Một anh ở phía Đông, một anh ở phía Tây?” Phía Đông là ở phía Đông của cái gì? Phía Tây là phía Tây của cái gì mới được? Xin nhắc tuồng chú Triết một tí là phía Đông của Việt Nam là Trường sa và Hoàng Sa. Đây mới chính là cái “phía Đông” mà chú nên nhắc đến. May ra anh Phi-đen “góp ý” cho chú cách xử lý cái lưỡi bò phá lấu!...

“Việt Nam và Cu Ba, như trời đất sinh ra!” Trời đất! Chỉ có hai nước CS ưu việt này được trời đất sinh ra thôi hả? Còn các quốc gia khác thì dưới đất chui hay ai sinh ra vậy hả ông nội? Chú nói khơi khơi kiểu đó người ta biết chú nói cái gì? Chú ví von cái củ cải gì vậy hỡi trời? Không biết chú có hiểu chú đang nói kí rì?

“Việt Nam thức thì Cu Ba nghỉ???” Hay là chú nhớ lại chuyện cũ lúc trước hai thằng cùng nghèo (vì bị Mỹ cấm vận) nên hùa nhau tổ chức đi ăn trộm đồ đạc của hàng xóm: Một thằng phải thức canh cho thằng kia khiêng đồ; rồi bây giờ chú nhớ ra, cũng lại sửa chút đỉnh là “một thằng thức canh cho thằng kia ngủ?” Mà nè. Cu ba ngủ thì Cu má đang làm gì mà chú không nói, nhắc nhở gì cà? Chú làm phước cho bàn dân thiên hạ biết thêm cho nó hoàn tất tập phim bộ ...

“Canh giữ hòa bình thế giới?” Việt Nam mất Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, Bãi biển Tục Lãm; rồi lại mất luôn các đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào tay của Tàu. Chú Triết có làm gì được không mà đòi là chuyện đa đoan gìn giữ hòa bình cho thế giới ??? Canh giữ hòa bình kiểu này thì mai mốt đây chú phải diễn hài bằng tiếng tầu mất! Ở Cu ba, chú Triết còn làm một chiêu ruồi bu khác là “cắt miệng” một số dân Việt đang đói bằng cách đem “tặng” nhân dân của anh râu xồm Phi-đen 3000 tấn gạo! Cu Ba lo ăn còn không xong, nói gì đến gìn giữ hòa bình cho thế giới? Anh Phi-đen chỉ ăn đậu (“bean”) chứ có thích ăn gạo đâu mà chú Triết cất công làm cái chuyện “cho sư mượn lược, cầm c... cho chó tè” nảy. Nhìn lại biến chuyển của thế giới từ khi CS “cướp” chính quyền năm 1945 đến nay, thế giới có lúc nào hòa bình đâu? Từ chiến tranh quốc công Trung hoa, Triều tiên, chiến tranh Đông dương, Việt Nam; đến chiến tranh ở Trung Đông, Phi châu, Iraq, A phú hản... chú Triết chỉ có tài nói phét ...

Ngày 24 tháng 11 năm 2009 mới là một ngày đặc biệt nổi bật nhất của chú Triết. Chú Triết có một “bài nói” trước “đại hội vịt cừu yêu nước” họp ở Mỹ đình Hà nội rất đáng đồng tiền bát gạo với rất nhiều câu bất hủ cùng một lúc biểu dương cả ba bốn vấn đề lớn của người CS: trí tuệ, tư cách, và văn hóa CSVN... “Bài nói” này cũng được “Vịt cừu” hoan hô vang dội!!!

Đây là câu thứ nhất:

"... Chúng ta từ một nước trong chiến tranh, chưa có những cái kinh nghiệm trong quản lý, và ở nước người ta đó thì muốn tiêu cực, muốn tham nhũng cũng khó, vì hệ thống luật pháp nó chặt chẽ. Còn ở Việt nam của mình, thì có khi không muốn tham cũng động lòng tham. Cái người thủ quĩ cứ giữ tiền khư khư. Ở quĩ lúc nào cũng có số dư, cho nên lúc bí quá thì em mượn một chút. Mượn không thấy ai đòi hết, thì em mượn thêm. Chứ không phải người Việt nam tham nhũng nhứt thế giới. Không phải vậy! Cho nên tui đề nghị quí vị ở nước ngoài khi nghe những thông tin này, rồi nhìn về Việt nam cũng đừng có hốt hoảng; cứ nghĩ rằng trong nước mình tiêu cực quá... Mấy hồi sao mấy ổng óanh giặc sao giỏi thế?! Mà bây giờ ổng tiêu cực thế ... Đây là qui luật muôn đời.”

"... Chúng ta từ một nước trong chiến tranh, chưa có những cái kinh nghiệm trong quản lý.” Mẹ kiếp! Chú Triết có cần được nhắc tuồng là chiến tranh đã chấm dứt 34 -35 năm rồi chứ không phải mới năm ngoái! Đảng và lãnh đạo nhà nước có cần thêm 35 năm nữa để học cách quản lý hay không? Nên biết Việt Nam đang tụt hậu 97 năm so với Singapore rồi đấy. Người Tây phương họ nói “Time is money!” 35 năm tính ra tiền thì biết bao nhiêu mà kể???

"Lúc bí quá thì em mượn một chút. Mượn không thấy ai đòi hết, thì em mượn thêm." Chú Triết luôn luôn tìm ra cách thật tốt để trổ cái tài ví von văn minh miệt vườn của mình. Rất tiếc chú đang là chủ tịch nhà nước chứ không phải đứa trẻ học mẫu giáo. Ví von kiểu ngô nghê: “ở Việt nam của mình, thì có khi không muốn tham cũng động lòng tham” ra cái điều “ ở Việt Nam có muốn trong sạch cũng không được!” Nhưng nhức đầu và đau bụng là chỗ ngay sau đó chú lại giải nghĩa là: “Chứ không phải người Việt nam tham nhũng nhứt thế giới. Không phải vậy!!?" Sau đó chú có một cái “punch line” để vỗ về các em vịt cừu rằng: “Cho nên tui đề nghị quí vị ở nước ngoài khi nghe những thông tin này, rồi nhìn về Việt nam cũng đừng có hốt hoảng; cứ nghĩ rằng trong nước mình tiêu cực quá?" Lại muốn chủi thề khi nghe câu này! Chú Triết là con người “trí tuệ” nên ăn nói phải khác người thường. Tuy nhiên, cái đám thính gỉa đại đa số là “khoa bảng, trí thứ cục phân”ngồi nghe cách giải lý kỳ cục như vậy mà vổ tay đồm độp thì không hiểu họ thuộc Giống gì? Người hay ngợm? Học trường nào? Bằng cấp lấy ở đâu?

Câu thứ hai:

“Con người ta, trong mỗi người, ai cũng có hỉ, nộ, ái, ố hết chơn. Chúng ta là con một nhà, là con Lạc, cháu Hồng, cùng một bọc trứng sinh ra. Trên thế giới này ít nơi nào có cái đó lắm..."
Đang dùng một lô từ ngữ thật súc tích như : “có người,” “con người ta,” “cái người,” “ngưới ta,” “mấy ổng...” để dậy dỗ đám khoa bảng áo gấm về làng về chuyện “tham nhũng;” đột nhiên chú Triết lại quẹo mà không ra dấu (“signal”) trước, nhắc tới tình nghĩa đồng bào "cùng một bọc trứng sinh ra." Chú Triết muốn họ động lòng “cùng là bà con” mà mau mau gởi thêm tiền về Việt Nam để cho “vì nghĩa đồng bào" nên cán bộ đảng viên chúng ông "không tham không được?" Càng giải mã các câu nói ngây ngô của chú càng muốn ứa máu ... mồm.

Câu thứ ba:

Nêu ra rất rõ cái trí tuệ của CS khi vấn kế cho TT Hoa kỳ Obama và cũng phơi bày ra cái tư cách người CS trên vấn đề ngoại giao. Chú Triết phang bừa là:

“Nhưng mà tôi nói rằng ông Obama ơi, vấn đề này là khó lắm đó. Tôi nói mà tôi nhìn Obama, tôi thấy ổng thế này cũng chăm chú lắm á, cũng lắng nghe. Như thế là mình vừa động viên ông Obama, nhưng mà mình vừa phân hoá cái nội bộ của ổng.

Như vậy, tôi muốn nói với các đồng chí, với quý vị rằng: Cái vai trò, cái vị thế của mình bây giờ cũng… ngang hàng với người ta, cũng nói năng cũng đúng mức, đàng hoàng.”

“... là mình vừa động viên ông Obama, nhưng mà mình vừa phân hoá cái cái nội bộ của ổng” Ậy! Thật tai hai! Ông Obama nhìn xuống chú Triết hơi kỹ (chăm chú) chủ ý xem chú Triết có khùng không mà chú Triết lại hiểu lầm (!) Obama có cả một “think tank” làm cố vấn gồm những tay có ăn có học đàng hòang và thuộc cỡ thầy của chú Triết, hà cớ gì mà Obama phải nghe chú Triết thất học vấn kế này kế nọ? Còn cái nghịch lý “vừa động viên... vừa phân hóa” thì có gì là lạ. Đó là cái bản chất lật lọng cơ bản của con người CS. Tương tự như CS vừa lấy tiền của Việt kiều gởi về vừa chửi Việt kiều là phản động chạy theo liếm giầy đế quốc... Mà nè nè! Nhân tiện đây, tôi cũng xin hỏi chú Triết là lúc trước chú đi thăm Hồ Cẩm Đào ở Bắc kinh, không biết chú “động viên” và “phân hóa” Hồ Cẩm Đào ra làm sao mà ngay sau đó thì Hồ Cẩm Đào cho hải quân Trung cộng cưỡng chiếm Trường sa và Hoàng sa; đồng thời gởi một lô “tầu lạ” đánh chìm tầu đánh cá và bắt giam ngư phủ Việt Nam ở nagy trong hải phận Việt Nam. Nhiều ngư phủ ta phải quỳ lậy xin tầu lạ như tế sao để xin tha mạng???

“ Cái vai trò, cái vị thế của mình bây giờ cũng… ngang hàng với người ta.” “Cái vai trò, cái vị thế” của chú Triết chỉ đứng ngang ”háng” (dấu sắc) “người ta (?)” có đẹp đẽ gì mà gì mà bốc phét!

“Cũng nói năng cũng đúng mức, đàng hoàng.” Ái chà chà! Cách nói chuyện tiếu lâm vở lòng như vậy mà chú Triết gọi là “đúng mức, đàng hoàng?” Khó mà tin là loại chuyện vỡ lòng diễu dở này lại có thể cho cái đám “trí thức cục phân” ngồi “Nơi giữa Đại Hội Vịt cừu” “Một nỗi bình an???” Theo tôi, đây có khác gì cái “bình an” mà cộng sản Bắc Việt, MTGPMN và cả chính khách của Mỹ đã cho quân, cán chính miền Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975. Cái “bình an” mà TT Nguyễn Văn Thiệu đã có lần gọi là “bình an của nhà mồ” (“Peace of grave!”)

Quả tình tổ quốc Việt Nam đã đến lúc mạt vận cho nên mới có lọai người (hay ngợm) với cái trí tuệ như chú Triết làm chủ tịch nhà nước. Đọc lại từng câu nói của chú Triết chỉ thấy tòan là dấu hỏi??? Chú Triết là một sự mỉa mai đau đớn mà trời đất đã phạt nuớc Việt và dân tộc Việt.

Hết ý kiến.

Trần Văn Giang


Chân Dung Người Lính Việt Nam Cộng Hòa


Chân Dung Người Lính VNCH (1) from tvh23 on Vimeo.



Chân Dung Người Lính VNCH (2) from tvh23 on Vimeo.



Chân Dung Người Lính VNCH (3) from tvh23 on Vimeo.



Chân Dung Người Lính VNCH (4) from tvh23 on Vimeo.


Hãy lột phắt chiếc áo Cộng Sản - Nguyễn Thiếu Nhẫn

Nguyễn Thiếu Nhẫn

Năm 1257. Quân Mộng Cổ lúc bấy giờ đã chiếm xong nước Kim (miền Bắc Trung Hoa) và bắt đầu chuẩn bị thôn tính Hoa Nam của triều đình Nam Tống, kinh đô đang đặt ở Hàng Châu. Nguyên Hiến Tông, tức Mông Kha giao cho em là Hốt Tất Liệt nhiệm vụ đánh Nam Tống. Hốt Tất Liệt sai tướng Ngột Lương Hợp Thai (Wouleangotai) đánh chiếm nước Đại Lý, tức vùng Vân Nam, rồi tiến sang nước ta. Tiếng là mượn đường đánh Tống và kêu gọi vua Trần Thái Tông về thần phục Mông Cổ, kỳ thực là muốn chiếm lấy Đại Việt. Quân Mông Cổ chia làm hai đạo, từ Vân Nam tiến xuống theo ngã Lâm Thao, Hưng Hóa. Hai cánh quân hội nhau trên quãng Hưng Hóa, Sơn Tây. Trần Quốc Tuấn khi ấy còn là một tướng trẻ, không chống nổi, phải lui về Sơn Tây. Vua Trần ngự giá thân chinh cũng không ngăn được, phải lui về sông Cầu, rồi phải lui tiếp về Đông bộ Đầu. Quân giặc ồ ạt tiến về Thăng Long. Vua Thái Tông phải bỏ kinh đô rút về sông Thiên Mạc (Đông Anh, Hưng Yên). Thế giặc rất mạnh, tình hình cấp bách. Vua ngự thuyền đi hỏi ý kiến Thái Úy, Khâm Thiên Vương Trần Nhật Hiệu. Trần Nhật Hiệu không trả lời, dùng sào vạch xuống nước hai chữ “Nhập Tống!” Vua lại hỏi ý kiến Thái Sư Trần Thủ Độ, Trần Thủ Độ trả lời: “Đầu tôi chưa rơi, xin bệ hạ đừng lo!”.

Trần Thái Tông quyết lòng đánh, trong năm đó đuổi được giặc Nguyên ra khỏi cõi bờ. Trên đường rút quân, mất tinh thần và quá mỏi mệt, không còn sức cướp phá, đoàn bại binh đó được dân chúng chế diễu gọi là “giặc Phật”.

Nếu tôn thất nhà Trần ai cũng như Trần Nhật Hiệu thì vua Thái Tông có lẽ đã ngã lòng mà hàng giặc. Nhưng may thay, số người mang cái tinh thần cầu an chủ bại đó không nhiều. Quân dân, vua tôi nhà Trần đã chấp nhận hy sinh, gian khổ để giữ nền độc lập.

Từ sau 30-4-1975 đến giờ; chính quyền Cộng Sản Hà Nội đã phải liên tiếp đối phó với không biết bao nhiêu là sự chống đối âm thầm có, công khai có của cả quốc nội lẫn quốc ngoại. Những chống đối này đã là một trong những minh chứng cho thấy chế độ Cộng Sản là một chế độ không hề được lòng dân. Đầu thế kỷ 21, trong bối cảnh chính trị thế giới đã đổi thay dữ dội, hệ thống Cộng sản Quốc tế đã gần như bị xóa sổ; Cộng sản Hà Nội vẫn ngang ngược tuyên bố sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với cả nước Việt Nam. Đó là một điều không thể chấp nhận được.

Trong nhiều năm gần đây, có một số người trong đó gồm một số vị khoa bảng, trí thức, lãnh đạo ngày cũ đã lên tiếng kêu gọi hãy bắt tay với chính quyền Cộng sản.Họ cho rằng chính quyền Hà Nội đã có một số đổi mới trong lãnh vực kinh tế, rằng Hoa Kỳ đã bỏ cấm vận và bình thường hoá bang giao với chính quyền Hà Nội; nên giải pháp tốt nhất hiện thời là hãy chấp nhận chính quyền đó và đẩy mạnh giao thương, hợp tác. Họ lý luận rằng chế độ nào cũng vậy, chỉ là những chiếc áo mặc ngoài, dân tộc, đất nước mới là cái vĩnh viễn, trường cửu. Họ cho rằng đẩy mạnh hợp tác, giao thương với chính quyền Hà Nội sẽ giúp nâng cao đời sống người dân trong nước. Chế độ xã hội, chính quyền nào rồi cũng theo thời gian mà qua đi. Điều quan trọng là hãy làm sao cho người dân có cơm no, áo ấm. Lập luận này không phải là không có một đôi phần hữu lý nếu chúng ta chỉ xét tới nó một cách hời hợt và phiến diện.

Nước Việt Nam ta từ thời lập quốc đến nay đã trải qua nhiều chế độ xã hội, nhiều triều đại. Hơn 4.000 năm lịch sử, nước ta vẫn luôn luôn tồn tại và phát triển là nhờ ở chỗ dân tộc ta là một khối vững chắc và có tinh thần quật cường tự chủ, thiết tha độc lập và yêu mến cuộc sống tự do. Chế độ công xã thị tộc kéo dài và phát triển liên tục trong khoảng vài ngàn năm và có lẽ được xem là cáo chung khi nước ta rơi vào thời kỳ Bắc thuộc. Sau hơn ngàn năm Bắc thuộc, đến thời kỳ xây dựng nền tự chủ với chế độ quân chủ phong kiến! Các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn đã kế tiếp nhau trong gần một ngàn năm độc lập.

Chế độ quân chủ phong kiến rồi cũng theo thời gian mà bị đào thải.

Năm 1874, lợi dụng sự cấm đạo gay gắt của triều đình nhà Nguyễn, Pháp đem pháo thuyền vào cửa Hàn. Tiếng là yêu cầu bãi bỏ việc cấm đạo và yêu cầu Việt Nam mở cửa giao thương, thực chất là để thăm dò, nhòm ngó chuẩn bị cho ý đồ xâm lược. Vua Thiệu Trị ra lệnh phòng bị cẩm mật. Thấy vậy, tướng Rigault de Genouilly và Hải quân Đại tá Lapierre ra lệnh nổ súng bắn phá rồi rút đi; mở đầu cho sự can thiệp và cuối cùng là sự xâm lược của Pháp.

Ngày 20-6-1867, Pháp chiếm Vĩnh Long, rồi sau đó là An Giang và Hà Tiên, chính thức áp đặt sự đô hộ trên toàn cõi Nam Kỳ. Quan lại, sĩ phu và dân chúng khắp nơi nổi dậy chống Pháp. Dùng võ lực để kháng chiến có Trương Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực, Thiên Hộ Dương. Bất hợp tác, dùng thơ văn để chống lại thì có Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị. Ngược lại với các phong trào trên, có một khuynh hướng cầu an chủ bại, chấp nhận đầu hàng giặc Pháp để đổi lấy miếng đỉnh chung. Một trong những người tiêu biểu cho phái này là Tôn Thọ Tường. Ông Tôn Thọ Tường không dùng sào mà vạch chữ “Nhập Tống” xuống mặt sông Thiên Mạc như Thái Úy Trần Nhật Hiệu 600 năm về trước. Ông Tôn ra làm quan với tân triều Bảo Hộ và làm rất nhiều bài thơ nói về sức mạnh của Đại Pháp, khuyên mọi người theo gương ông mà hàng giặc. Những bài này được Cử nhân Phan Văn Trị họa lại; và cũng để nói lên cái ý chí của mình, của sĩ dân Nam Kỳ lục tỉnh: Cương quyết không cúi đầu, dù kẻ địch có mạnh đến đâu đi nữa.

Đặt nền thống trị được 80 năm. Chế độ thực dân Pháp rồi cũng cáo chung. Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1945-1954); rồi cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ 2 (1960-1975) cũng qua đi. Chế độ tự do miền Nam và mấy chính quyền kế tiếp nhau sụp đổ. Cộng Sản thống trị cả nước. Có người bảo: Chế độ Cộng sản cũng chỉ là một chiếc áo mặc ngoài, dân tộc Việt Nam mới là trường cửu.

Dân tộc Việt Nam đã phải mặc chiếc áo Cộng sản một cách miễn cưỡng đã 35 năm. Riêng dân tộc ta ở miền Bắc đã phải chịu đựng lâu hơn nữa. Cái áo này càng ngày càng hôi thối, đầy dẫy chấy rận. Chính cái áo hôi thối và cái đám chấy rận ôn dịch này đã gây ra không biết bao nhiêu là bệnh tật cho người phải mặc nó là dân tộc Việt Nam. Bị cưỡng bức khoác lên người cái áo Cộng Sản, người dân Việt bị mất hết tự do, dân chủ và cả những quyền làm người sơ đẳng nhất. Quyền lực (và dĩ nhiên là quyền lợi kèm theo) lọt vào tay một thiểu số trong Đảng và chính quyền. Hố ngăn cách giàu nghèo ngày càng lớn. Một bên là thiẻu số giàu có nhờ vào kinh doanh bằng quyền lực và đặc quyền, đặc lợi; một bên là đa số quần chúng đói nghèo và thiếu tự do. Nếp sống xã hội băng hoại hơn lúc nào hết! Chuyện này ai cũng nghe, cũng biết.

Những người chủ trương giao thương và hợp tác, hoà giải và hòa hợp với Cộng sản cho rằng giao thương và hợp tác, hòa giải và hòa hợp có thể giúp đỡ phần nào cho dân chúng Việt Nam. Tức là cho cái con bệnh đang bị bắt buộc phải mặc chiếc áo Cộng sản đầy dẫy vi trùng và mầm bệnh. Họ nói rằng cứu lấy con bệnh, giúp cho con bệnh ngày một mạnh khoẻ hơn là nhân đạo, là việc phải làm. Có lẽ họ quên cái điều căn bản nhất là vì đâu mà cái cơ thể kia bị bệnh. Chính là tại cái áo dơ và cái đám chấy rận đang ẩn núp trong đó. Có lẽ họ quên rằng dân tộc Việt Nam bấy lâu nay đau khổ là chính vì cái chủ nghĩa Cộng Sản và con đẻ của nó là chính quyền Hà Nội. Hoặc có thể, mấy ông bác sĩ trị bệnh thời cuộc này cũng đã tìm ra căn nguyên chứng bện, nhưng vì miếng đỉnh chung, vì mối lợi của việc hợp tác, giao thương với chính quyền Cộng Sản lớn hơn lương tâm của họ, lớn hơn lòng yêu nước thương nòi của họ nên họ làm ngơ nhắm mắt. Sống chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi; cái câu “chế độ nào cũng như chiếc áo mặc ngoài” chỉ là tấm bình phong che giấu những việc làm phản bội.

Ông Tôn Thọ Tường thế kỷ trước đã dùng thơ văn để bào chữa cho sự hợp tác với tân triều Bảo hộ Phú lãng sa. Nhưng ông có viết gì thì viết, bào chữa gì thì bào chữa; người đương thời và hậu thế vẫn thấy rõ tâm địa của ông: tham miếng đỉnh chung, cúi đầu hàng giặc!

Chế độ Cộng sản rồi cũng sẽ bị đào thải. Đó là lẽ tất nhiên. Nhưng chúng ta cũng không thể ngồi mà mượn tay thời gian để làm dùm chúng ta chuyện đó. Lại càng không thể mượn chiêu bài chiếc áo mặc ngoài mà hợp tác, giao thương, hoà giải hòa hợp, tiếp tay Cộng Sản. Làm như vậy chỉ nuôi béo bọn chấy rận nấp trong chiếc áo Cộng sản mà thôi. Cái cơ thể Việt Nam sẽ không bao giờ lành bệnh và mạnh khoẻ được một khi cái áo hôi thối đó còn và lũ chấy rận núp trong đó đang ngày đêm hút máu đồng bào.

Đức Khổng Tử là người nước Lỗ, một hôm đi ngang qua cửa thành phía Tây của nước Trần. Quan dân nước này đang xúm xít tu bổ cửa thành bị quân Sở phá hỏng lúc trước; dưới sự giám sát của người Sở đang là kẻ chiếm đóng. Xe đi ngang qua đấy mà Khổng Tử không cúi đầu chào. Tử Cống đang đánh xe cho thầy lấy làm lạ, dừng cương lại hỏi:

“Thưa thầy, cứ theo lễ, đi qua chỗ 3 người thì phải xuống xe, đi qua chỗ 2 người thì phải cúi đầu vào miếng gỗ trước xe để tỏ lòng kính trọng. Thầy xưa nay vốn là người giữ lễ, nay quan dân nước Trần đang sửa thành đông đúc như vậy, thầy đi ngang qua mà không tỏ lòng kính trọng là nghĩa làm sao?”

Đức Khổng Tử đáp:

“Để Sở đánh hư thành mất nước là bất trí, làm tôi mà không biết lo liệu là bất trung, không dám liều chết với nước là bất dũng. Quan dân nước Trần tuy đông mà trí, trung, dũng đều không được lấy một điều, bảo ta kính trọng làm sao được”. (Theo Hàn Phi Tử).

Chúng ta mất nước, phải làm thân tỵ nạn xứ người, cũng đã tự thẹn với lòng, thẹn với người.

Đức Khổng Tử mắng người nước Trần như vậy xét ra cũng quá nặng nề, gay gắt. Tập thể người Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản chúng ta mà có những kẻ quay giáo trở mặt đi hô hào kêu gọi hợp tác giao thương, hòa giải hòa hợp với Cộng Sản, tự nguyện làm cái loa tuyên truyền cho Cộng sản như vậy cũng là cái cớ để người ngoài khinh thường. Trị bệnh phải trị tận gốc. Hoà giải hòa hợp, hợp tác giao thương, làm cái loa tuyên truyền chỉ tổ vỗ béo bọn chấy rận Cộng sản mà thôi. Dân chúng sẽ chẳng được hưởng bao nhiêu trong mấy cái đó đâu. Chi bằng góp tay lột phắt cái áo đó đi, may một cái áo mới mà mặc. Áo nào cũng là áo, tại sao lại phải chịu mặc cái áo dơ, chứa đầy chấy rận, mấy mươi năm chưa giặt?

Nguyễn Thiếu Nhẫn


Vietnam’s Covert War Against Overseas Buddhists

In Vietnam hundreds of monks undergo re-education to infiltrate overseas temples with the aim to destroy the Unified Buddhist Church of Vietnam
    Phỏng vấn ông Scott Johnson về tự do tôn giáo ở Việt Nam Việt Hà, phóng viên RFA 28-01-2010
By Scott Johnson

PERSECUTED: A Buddhist monk holds a desecrated statute at his temple in Marangaroo, Western Australia, January, 2009. He believes Hanoi was behind the attack. (Scott Johnson)
Vietnam has waged a brutal overt and covert war against its Buddhist population for decades.

In 1981, they officially outlawed their country’s oldest and original Buddhist Church, the Unified Buddhist Church of Vietnam (UBCV).

The communists attacked the 2000-year-old tradition and created an alternative state-controlled Buddhist Church.

Those who refused to submit allegiance to this new order were imprisoned, tortured, and even murdered.

The current spiritual leader of the UBCV, Nobel Prize nominee the Venerable Thich Quang Do, has spent the last 26 years under house arrest in Vietnam.

His struggle began years ago when as a young monk he witnessed the execution of his Buddhist teacher by the communists.

Viewed as antagonists to communist ideology, Do and his fellow Buddhists are a target of persecution inside, and now outside, Vietnam.

Just days after monks at a Buddhist temple in Western Australia denounced Hanoi’s policies of religious repression, Buddhist statutes at the temple were beheaded. The incident occurred in October and November 2009.

The first desecration occurred after the temple’s head monk, who is the UBCV’s Australian representative, attended a Buddhist conference in Los Angeles, where they announced their determination to oppose Hanoi’s plan to eliminate them.

The second desecration occurred after this same monk sponsored a delegation of UBCV exiles to meet with the Australian government in Parliament House, Canberra. The meeting was organized to advise the government of Hanoi’s religious persecution in preparation for the Australia-Vietnam human rights dialogue to be held in December.

Thus, the beheadings were clearly viewed as a warning to the Australian Buddhists. For Hanoi, the ramifications of Buddhists speaking out on human rights abuses is geopolitical, for their authoritarian regime has come under growing international pressure to cease religious persecution.

In the United States, it was in 2004 that the State Department first designated Vietnam as a “Country of Particular Concern” (CPC), the official watch list of nations that commit egregious religious persecution. CPC designation involves potential economic sanctions, hence Hanoi’s determination to silence any critics.

Hanoi and Washington however, reached an agreement for reform in 2006, with the understanding that Vietnam would be dropped from CPC designation.

Vietnam was indeed removed from the CPC designation and yet the promised reforms never came.
In fact, Vietnam increased persecution, of which Human Rights Watch accused the country of “launching one of the worst crackdowns on peaceful dissidents in 20 years.”

Ever since, calls for Vietnam to be re-designated as a CPC, such as the U.S. Commission on International Freedom, have gone unheeded.

Today, Hanoi has merely morphed its security forces into adopting more covert mechanisms of religious persecution.

These covert mechanisms involve expanding so-called “legal” churches while persecuting “illegal” churches that refuse to submit to communist control. Religious groups across Vietnam—Buddhists, Montagnard and Hmong Christians, Catholics, Hoa Hao, and Cai Dai sects, and other dissidents like democracy advocates, journalists, and bloggers—all face the same repressive measures.

Hanoi’s intention is a ‘divide and conquer’ policy that includes infiltration of overseas dissident groups.

Hanoi’s Secret Policy Directives

Incredibly, evidence of Hanoi’s policy of persecution comes from their written policies.

The Paris-based International Buddhist Information Bureau has uncovered secret policy directives outlining Hanoi’s intention to attack overseas dissidents.

The overseas spokesman for the UBCV, Vo Van Ai even testified before the U.S. Congress on this fact. Speaking before the House Committee on International Relations on June 20, 2005, he quoted Hanoi’s explicit orders directing Vietnam’s security forces to “wipe out the An Quang Buddhist Church once and for all.”

The “An Quang Buddhist Church” is Hanoi’s term for the UBCV and the secret directives, authored by the Public Security Science Institute in Hanoi are entitled “On Religions and the Struggle Against Activities Exploiting Religion—Internal Document for Study and Circulation in the People’s Security Services.”

STANDING STRONG: Penelope Faulkner, spokesperson for Paris-based International Buddhist Information Bureau, speaks out against Vietnam's persecution against Buddhism, Vietnam's majority religion during a speaking tour in Australia, June 2009. (Penelope Faulkner)
Penelope Faulkner, a long time activist with the International Buddhist Information Bureau, reports the secret directive instructs party cadres and security agents at every level to “oppose, repress, isolate, and divide” UBCV leaders. She states, “These directives order the training of special agents to infiltrate the UBCV, not only to gather intelligence and report on UBCV activities, but to create schisms and dissent within their ranks, thus undermining the UBCV from within.”

According to Faulkner these “special agents” have extended these activities overseas with Australia set to become the test case for their strategy.

Australia—The Test Case

Faulkner states that Hanoi has set up government “fronts” to undermine overseas religious groups and democracy activists and have sent hundreds of “state-sponsored” monks to Australia and the United States.

The main one now attacking the UBCV was formed at a conference in Sydney, Australia on Jan. 1, 2009. This “front” goes under the name “Trans-continental Unified Buddhist Church of Vietnam.”

Faulkner said the ploy of these fronts “is not to overtly promote communism, but to tell Buddhists they should not get mixed up in politics, just stick to praying and sending money to Vietnam, and not get involved in the movement for religious freedom and human rights.”

Faulkner has no doubt that Hanoi is involved in intimidating overseas Buddhists and she quotes from the secret directive which orders Vietnamese authorities to “take pre-emptive action to prevent Western countries from making human rights investigations” in Vietnam.

The directive states, “We urge the Politburo to coordinate activities between the Vietnamese Communist Party’s departments of propaganda and mobilization, interior affairs, foreign affairs, religious affairs, and overseas Vietnamese to work together on this policy.”

One member of this “Transcontinental UBCV,” a Vietnamese monk based in Sydney, was seen Nov. 26, 2009, at the Parliament House in Canberra talking to about a dozen high ranking Vietnamese security officers. It was the same day the UBCV overseas delegation met with the Australian government.

A few days later the UBCV temple in Western Australia was desecrated.

Faulkner was among the UBCV delegation, and while she admits these security officers were likely attending the Australian Parliament for some diplomatic matter, she has no doubt they notified their bosses in Hanoi of seeing them at Parliament House.

She is also sure the desecration of the temple in Western Australia was no coincidence.

In January 2010 this reporter traveled to the Buddhist Temple in Perth, Western Australia, and spoke to the monk in charge, Venerable Thich Phuoc Nhon. He carried the head of one of the two beheaded Buddhas in his arms and said Hanoi had long been trying to eliminate their church.

Nhon also said he received an anonymous envelope of gold and silver “funeral paper” in the mail in 2009. The paper is an ancient funeral tradition, and he said there was only one explanation for this letter: “a death threat.”

Members of his church in Sydney and Melbourne have also received threats over the telephone, he said.

Nhon said the statute would be repaired.

Scott Johnson is a lawyer, writer and human rights activist who has focused on issues in South East Asia.

Source: http://www.theepochtimes.com/n2/content/view/28633/

ooOoo
    Trận chiến âm thầm chống Phật tử hải ngoại của Hà Nội
    Bài viết của Luật sư Scott Johnson
Tại Việt Nam hàng trăm nhà sư được đào luyện để xâm nhập các chùa ở hải ngoại nhằm tiêu diệt Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất

Từ nhiều thập niên, vừa công khai vừa giấu giếm Việt Nam mở cuộc chiến chống lại Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Năm 1981, nhà cầm quyền chính thức đặt Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) ra ngoài vòng pháp luật, là tổ chức tôn giáo lâu đời nhất của xứ sở.

Những người Cộng sản tấn công vào truyền thống Phật giáo có 2000 năm lịch sử và dựng lên Giáo hội Phật giáo Nhà nước. Những ai không chịu thần phục giáo phái mới này đều bị bắt giam, tra tấn và có khi bị thảm sát.

Nhà lãnh đạo tinh thần hiện nay được đề cử ứng viên Giải Nobel Hoà bình là Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ đã trải qua 26 năm quản thúc tại Việt Nam.

Khởi sự đấu tranh mấy mươi năm trước, khi ngài còn là một tăng sĩ trẻ chứng kiến cảnh cộng sản hành quyết bổn sư ngài. Do nhận thức trái chống với ý thức hệ Cộng sản, nên Hoà thượng Quảng Độ cùng với Phật giáo đồ trở thành bia đích đàn áp của Cộng sản trong cũng như ngoài nước.

Chỉ vài ngày sau khi chư Tăng ở ngôi chùa [Pháp Quang] tại Tây Úc tố cáo chính sách đàn áp tôn giáo của Hà Nội, thì những tượng Phật bị đập phá gãy đầu. Sự kiện này xẩy ra vào tháng 10 và tháng 11 năm 2009.

Sự mạo phạm đầu tiên xẩy ra sau khi Viện chủ [chùa Phổ Quang] là vị Đại diện GHPGVNTN tại Úc Đại lợi sang Los Angeles, Hoa Kỳ, dự Đại hội Phật giáo, mà Quyết nghị Đại hội quyết tâm chống đối kế hoạch Hà Nội tiêu diệt Giáo hội.

Sự mạo phạm lần thứ hai xẩy ra khi Thượng tọa Viện chủ tổ chức cho Phái đoàn Văn phòng II Viện Hóa Đạo đến gặp chính phủ và Quốc hội Úc Đại Lợi tại thủ đô Canberra. Cuộc gặp gỡ này nhằm báo động về sự đàn áp tôn giáo của nhà cầm quyền Hà Nội để chuẩn bị cho cuộc nói chuyện nhân quyền giữa hai chính phủ Úc – Việt Nam vào tháng 12.

Do đó, việc quá rõ là những lần đập gãy đầu tượng Phật nhằm cảnh cáo Phật giáo đồ tại Úc. Đối với Hà Nội hậu quả của việc Phật giáo đồ nói lên các vi phạm nhân quyền là một tác động địa chính, vì chế độ độc đoán của Hà Nội sẽ càng bị áp lực thế giới đòi hỏi phải chấm dứt đàn áp tôn giáo.

Năm 2004 lần đầu tiên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đặt Việt Nam vào danh sách các quốc gia đàn áp tôn giáo cần đặc biệt quan tâm, danh sách CPC, vào danh sách này là sẽ bị chế tài kinh tế, vì lý do này mà Hà Nội tìm mọi cách bóp nghẹt những phê phán, chỉ trích.

Tuy nhiên Hà Nội và Hoa Thịnh Đốn đã chấp thuận cho việc cải cách vào năm 2006, nên Việt Nam được rút tên khỏi danh sách CPC. Thế nhưng sau khi được rút tên khỏi danh sách CPC, Việt Nam chẳng bao giờ thực hiện các lời hứa cải cách. Thực tế là Việt Nam vẫn gia tăng đàn áp, khiến cho Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) phải lên tiếng tố cáo Việt Nam “phát động đàn áp thẳng tay như chưa từng đối với các nhà bất đồng chính kiến suốt 20 năm trời”.

Từ đó, biết bao lời kêu gọi, như của Ủy hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới đặt Việt Nam trở lại danh sách các quốc gia đàn áp tôn giáo cần đặc biệt quan tâm, chẳng ai chịu nghe.

Hôm nay, Hà Nội dường như thay đổi chiến thuật công an trong cơ cấu đàn áp tôn giáo một cách âm thầm. Cơ cấu âm thầm này phát triển cái gọi là “hợp pháp” hóa các giáo hội, song song với việc đàn áp các giáo hội “bất hợp pháp” là những giáo hội không chịu sự kiểm soát của cộng sản. Những nhóm tôn giáo trên toàn quốc - Phật giáo, người Thượng và Hmong Thiên chúa giáo, Công giáo, Hòa Hảo, Cao Đài, cùng với những nhà bất đồng chính kiến như các luật sư dân chủ, nhà báo, nhà làm bloggers - tất cả đang phải đối diện với những biện pháp áp bức.

Dự tính của Hà Nội là thực hiện chính sách “chia để trị” bằng cách xâm nhập các cộng đồng ly khai ở hải ngoại.

Chính sách chỉ đạo bí mật của Hà Nội

Tuy khó tin nhưng lại hiển nhiên, là chính sách đàn áp của Hà Nội được viết ra văn bản. Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế có trụ sở ở Paris thủ đắc tài liệu mật qua đó công an chỉ thị đánh vào giới ly khai hải ngoại.

Ông Võ Văn Ái, Phát ngôn nhân của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã chứng thực trước Quốc hội Hoa Kỳ về sự kiện này. Điều trần trước Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Hoa Kỳ ngày 20.6.2005 ông Ái đã dẫn giải minh bạch lệnh của công an Việt Nam “xóa bỏ tổ chức Giáo hội Phật giáo Ấn Quang”.

Giáo hội Phật giáo Ấn Quang là từ ngữ Hà Nội ám chỉ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, và những chỉ thị mật được Viện Khoa học Công an ở Hà Nội tập trung qua tài liệu “Về Tôn giáo và đấu tranh chống hoạt động lợi dụng tôn giáo – Tài liệu tham khảo, lưu hành nội bộ ngành Công an nhân dân”.

Bà Penelope Faulkner, người hoạt động lâu năm tại Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế, cho biết chỉ thị mật nhằm huấn luyện cán bộ đảng và công an các cấp, để “chống đối, đàn áp, cô lập, phân hóa” hàng giáo phẩm lãnh đạo GHPGVNTN. Bà nhận định rằng “Những chỉ thị này nhằm huấn luyện bọn “đặc tình” xâm nhập GHPGVNTN, công tác của chúng không chỉ báo cáo các hoạt động của GHPGVNTN, mà cốt gây ly gián, phản chống trong nội bộ nhằm suy yếu giáo hội tự bên trong”.

Theo bà Faulkner, những tên “đặc tình” này đang gia tăng hoạt động hải ngoại của chúng tại Úc Đại Lợi như một trắc nghiệm trong chiến lược của chúng.

Úc Đại Lợi – Một trường hợp trắc nghiệm

Bà Faulkner cho biết Hà Nội đang dàn dựng những tổ chức “bình phong” thân chính với mục tiêu làm suy yếu các cộng đồng tôn giáo và các nhà hoạt động dân chủ. Hà Nội đã gửi hàng trăm nhà sư “nhà nước” đến Úc Đại Lợi và Hoa Kỳ.

Một trong những bộ phận chủ yếu đánh phá GHPGVNTN được thành lập qua một cuộc họp ngày 1.1.2009 ở Sydney, Úc Đại Lợi. Bình phong này hình thành dưới tên “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Liên châu”.

Bà Faulkner cho biết mánh khóe của những bình phong này “là không công khai đề bạt cộng sản, nhưng chỉ muốn thúc đẩy Phật tử chớ tham gia chính trị, chỉ nên tụng kinh niệm Phật và gửi tiền về giúp Việt Nam, và đừng dấn thân trong phong trào đòi hỏi cho tự do tôn giáo và nhân quyền”.

Bà Faulkner không còn nghi ngờ gì nữa về quyết tâm của Hà Nội nhằm khuất phục cộng đồng Phật giáo ở hải ngoại và bà dẫn trích những chỉ thị mật cho nhà cầm quyền Việt Nam phải “có hành động ngăn chặn các nước phương Tây thanh tra nhân quyền” tại Việt Nam.

Chỉ thị nhận định rằng “Chúng tôi kêu gọi Bộ Chính trị điều hướng các hoạt động giữa Ban Tuyên truyền và Dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam, bộ Nội vụ, bộ Ngoại giao, ban Tôn giáo chính phủ, và Ủy ban về Người Việt Nam ở nước ngoài cùng chung thực hiện chính sách này”.

Hôm 26.11.2009, một thành viên thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Liên châu, một nhà sư Việt Nam có chùa ở Sydney, được nhìn thấy tại Quốc hội Úc Đại Lợi ở thủ đô Canberra, nói chuyện với nhóm chừng một tá sĩ quan công an Việt Nam. Cùng ngày này Phái đoàn Văn phòng II Viện Hóa Đạo đến gặp gỡ chính quyền Úc.

Một vài ngày sau, ngôi chùa [Phổ Quang] của GHPGVNTN ở Tây Úc bị mạo phạm.

Bà Faulkner là thành viên của Phái đoàn GHPGVNTN, xác nhận những sĩ quan công an này có thể đã đến Quốc hội Úc trong một chuyến công tác ngoại giao nào đó, bà chắc chắn rằng nhóm công an này đã báo cáo về Hà Nội về sự kiện gặp thấy phái đoàn Phật giáo.

Bà cũng đoan quyết sự mạo phạm ngôi chùa ở Tây Úc không là chuyện ngẫu nhiên.

Vào tháng giêng 2010 người viết bài này đến thăm ngôi chùa ở thành phố Perth, miền Tây Úc đại Lợi, và đã hầu chuyện với ngài viện chủ, Thượng tọa Thích Phước Nhơn. Thượng tọa ôm một trong hai chiếc đầu tượng Phật bị gãy, và nói rằng Hà Nội âm mưu tiêu diệt Giáo hội mà ngài là thành viên. Thượng tọa Phước Nhơn cũng cho biết rằng trong năm 2009 một phong thư gửi tới ngài với một tờ giấy vàng mã. Loại giấy truyền thống dùng đốt khi cúng người chết, và Thượng tọa giải thích ý nghĩa của bức thư là “lời hăm dọa tử hình”.

Thượng tọa cũng cho biết nhiều thành viên thuộc GHPGVNTN ở hai thành phố Sydney và Melbourne cũng đã nhận nhiều cú điện thoại hăm dọa.

Thượng tọa Thích Phước Nhơn nói rằng tượng Phật đang được tu bổ.