Saturday, November 28, 2009

Sao Anh Nỡ Đành Quên? - Nguyễn Phúc Bảo Ân



Lăng Tự Đức, Huế

Nguyễn Phúc Bảo Ân


Mậu Thân 1968
Từ thuở hồng hoang, khi con người còn ăn lông ở lỗ, loài chó đã trở thành một trong những người bạn thân thiết. Ban đầu loài chó hoang chỉ mon men đến gần nơi trú ngụ của loài người, để ban ngày thì ăn mót những mẫu thịt thừa, xương cặn, tối đến thì được sưởi ấm từ những bếp than hồng mà con người dùng để giữ lửa, để ngăn thú dữ, và cũng để giữ ấm cho “ngôi nhà”,…. Dần dà các thế hệ chó mẹ đẻ chó con rồi hậu duệ của đàn chó hoang thuở nào trở nên quấn quýt với loài người khi được loài người cho ăn no ngủ ấm, để đáp lại ân nghĩa của con người. Loài chó cũng tận sức tận lực giúp con người trong việc tìm kiếm nguồn thức ăn qua công việc săn bắt thú rừng cũng như báo động cho con người biết, mỗi khi có thú dữ.

Đối với người Việt, một dân tộc phát tích, tồn tại cho đến ngày nay từ nền văn minh lúa nước, ngoài “con trâu là đầu cơ nghiệp” ra thì loài chó cũng gắn bó với người Việt bao đời nay, ngoài công việc săn bắt thú rừng, chó còn trông nhà giữ cửa khi chủ nhà đi vắng, và thêm một “thiên chức” cao cả khác là làm công tác vệ sinh mỗi khi con cái chủ nhà bị tháo dạ. Người Việt, yêu mến loài chó không những bởi tính mẫn cán này của loài chó, bởi thịt chó là món khoái khẩu với nhiều người, “sống trên đời ăn miếng giồi chó, biết khi chết rồi còn có hay không”, và bởi theo người Việt thì loài chó vốn giàu tình cảm, trung thành và có trí nhớ tốt. Chẵng thế mà người Việt đã đúc kết một kinh nghiệm đã ba đời truyền tử lưu tôn rằng: “Lạc đàng nắm đuôi chó, lạc ngõ nắm đuôi trâu”. Tất nhiên ông cha chúng ta chỉ tích lũy được những kinh nghiệm đó bằng những gì họ được thấy, được nghe, chứ không phải từ một công trình nghiên cứu nào về đời sống và tập tính của loài chó để hiểu rằng tất cả những biểu hiện, những hành vi của loài chó mà người Việt chúng ta cho là “lòng trung thành” hay “trí nhớ tốt” thực ra chỉ là tập tính, là bản năng, chứ không phải là trí tuệ.


Cải cách ruộng đất
Xứ Huế của tôi có thể xem là xứ sở của Đạo Phật bởi mỗi phi tần của triều Nguyễn sau khi Tiên đế qua đời, thì đều phải xuất cung về các làng xã liên cận với Hoàng Thành, xây dựng cho mình một ngôi chùa và tu tập cho đến ngày quy tiên chứ đã là cung phi mỹ nữ rồi, thì không được phép tái giá, chính vì vậy mà ở Huế quê tôi dù đất hẹp người thưa, nhưng hiện có trên 3000 ngôi Chùa và Niệm Phật Đường lớn nhỏ, và dù có làm phép quy y hay không, những hễ thờ cúng ông bà thì người dân Huế tự cho mình là đạo hữu, là phật tử. Vì vậy mà ở Huế thật hiếm có người ăn thịt chó, hiếm có những quán “cầy tơ” như ở đất Bắc, hay ngoài xứ Nghệ, và ở xư Huế quê tôi, những người từng ăn thịt chó thường bị cư dân địa phương xem như là một thành phần hạ tiện trong xã hội, và dẫu người đó là một quan quyền hay một chức sắc thì dân chúng cũng không dành cho bất cứ một sự trọng thị nào như phong tục của người dân xứ kinh kỳ. Nếu có một ai nào đó làm thịt chó thì sẽ gây xôn xao từ làng trên đến xóm dưới, già trẻ gái trai xúm lại xem người ta làm thịt chó, như thể đi xem phường trò, và nhiều câu chuyện được thêu dệt chung quanh loài chó và việc giết thịt chó. Câu chuyện được truyền tụng nhiều lần hơn cả là chuyện một chàng trai xứ Nghệ đi bộ đội vào đóng quân ở Huế, rồi phải lòng một cô gái địa phương vậy là chàng đào ngũ để “xây dựng” với cô gái Huế, anh ta nuôi khá nhiều chó để mỗi khi có họ mạc ở quê nhà vào thăm, thì giết thịt và đãi khách quê hương bằng của hiếm hoi của chốn kinh kỳ. Một lần nọ, có khách từ xứ Nghệ vào thăm, anh ta cũng giết thịt chú chó nhà để đãi khách như bao lần. Với chiếc chày vồ trong tay, anh ta giáng một đòn chí tử vào đầu con chó khiến đôi mắt phòi ra, nhưng con chó vẫn còn kịp chui xuống gầm giường kêu la thảm thiết. Không thể chui vào gầm giường để kết liễu đời con chó, anh bộ đội nắm bàn tay lại như thể đang cầm nắm xôi, hết gọi tắc tắc lại chu mồm huýt sáo. Nghe tiếng chủ gọi, dù đôi mắt đã lọt hẳn ra ngoài, không còn nhìn thấy gì nữa, nhưng nghe tiếng gọi của chủ nhà, chú chó đáng thương cũng định hướng được vị trí của chủ nhà, vừa rên ư ử, vừa cố chút sức tàn trườn đến, vẫy tít chiếc đuôi như cố báo hiệu với “ông chủ” là tôi đây, tôi đây. Và lần này, không để mất cơ hội lần nào nữa, với chiếc chày vồ vụt tới tấp lên đầu lên gáy chú chó ự lên mấy tiếng thương đau rồi trút hơi thở cuối cùng, và không lâu sau đó khách và chủ vui say với những chén tạc, chén thù với món thịt cầy bảy món …


Đại lộ kinh hoàng
Nhưng người dân quê tôi mục thị cảnh này, kẻ thì nguyền rủa anh chủ nhà gian ác, người thì khen ngợi chú chó trung thành, dù vừa mới bị chủ giáng cho một chiếc chày vồ lên đầu đến thừa chết thiếu sống, vậy mà khi thấy chủ vờ cho một vắt xôi và cất tiếng gọi thì đã ngoáy tít chiếc đuôi và trườn đến với chủ. Riêng tôi lúc bấy giờ thực sự không hiểu nổi chú chó này vì quá mức trung thành với chủ hay vì có tính mau quên để phải vong thân như vậy?

Sự việc trên đã xảy ra non 3 thập kỷ rồi, bỗng nhiên mọi chi tiết lại hiện về mồn một trong ký ức của tôi khi gần đây từ ngày 21 đến ngày 23 tháng 11 vừa qua một đại hội thật “hoành tráng” của 1000 người Việt ở nước ngoài vừa diễn ra tại Hà nội, bởi dù quý đại biểu Việt kiều dù là người Nam hay người Bắc cũng đều đã phải bỏ nước ra đi vì một lý do rất chung bởi họ đều là nạn nhân của chế độ cộng sản. Nếu xuất thân từ đất Bắc hẳn họ biết quá rõ về những chiếc chày vồ trí mạng mà đảng và nhà nước cộng sản đã giáng lên đầu thân nhân và đồng bào của họ qua chính sách tiêu thổ kháng chiến khiến, rồi những vụ đấu tố trong cải cách ruộng đất từ 1953 cho đến 1956 khiến hàng trăm ngàn nông dân miền Bắc phải thiệt mạng chỉ vì ông cha của họ đã lưu truyền cho gia đình họ hơn 5 sào ruộng. Chắc họ biết rõ hơn 1 triệu đồng bào miền Bắc đã vì kinh hoàng với những tội ác của cộng sản mà phải rời bỏ bờ tre gốc lúa, quê hương bản quán ở đất Bắc để di cư vào nam vào năm 1954, và hơn 3 triệu đồng bào khác cũng đã bị đe dọa, bị ngăn chặn khi trên đường di cư, rồi phải ở lại đất Bắc để chịu đựng những năm tháng đọa đày nơi địa ngục trần gian ấy bởi họ đã trót mang tư tưởng di cư vào nam để “âm mưu chống lại Bác và Đảng”.

Vâng, dẫu họ vẫn còn sống sót để có cơ hội trở thành “khúc ruột ngàn dặm”, nhưng chắc họ vẫn còn nhớ với chủ trương “giết lầm hơn bỏ sót” với khẩu hiệu “TRÍ PHÚ ĐỊA HÀO ĐÀO TẤT GỐC, TRỐC TẬN NGỌN” hàng ngàn, hàng ngàn sỹ phu Bắc Hà cùng các tiểu thương, các công chức ở đàng ngoài đã bị hành hình hoặc hạ phóng. Còn nếu những đại biểu Việt kiều là những người sinh ra và lớn lên từ bên nay bờ Bến Hải thì chắc họ vẫn chưa thể quên biến cố tết Mậu thân với hơn 7,000 đồng bào vô tội ở Huế bị thảm sát bằng hình thức đập đầu hoặc chôn sống! Chắc họ vẫn còn nhớ mùa hè đỏ lửa 1972 với hơn 15.000 đồng bào Quảng Trị đã bị đã bị đại pháo của cộng quân nghiền nát như thịt bằm trên “Đại Lộ Kinh Hoàng” dài non 10km! Dù các đại biểu Việt kiều đến được bến bờ tự do bằng đường biển, đường bộ thì chắc họ vẫn còn nhớ những ngày hãi hung đối mặt với bão tố phong ba hay hải tặc giữa đại dương, với nhiều thuyền nhân phải ăn thịt người để sống, với những thuyền nhân đã bị cướp, bị hãm hiếp, những thuyền nhân phải tự thiêu, phải treo cổ tự sát ngay sau khi bị Cao Ủy Tỵ Nạn từ chối tư cách tỵ nạn và cả với hơn 70 % những thuyền vượt biên không đến được bến bờ, để một số trở thành tù nhân trong các trại lao cải vì tội “phản quốc”, nữ tù vượt biên đã bị cán bộ quản giáo hãm hiếp, và nhiều, rất nhiều triệu thuyền nhân đã phải vĩnh viễn nằm lại dưới lòng biển lạnh!
    “Quân tâm khả cảm uyên biên ngộ
    Ký tế thời hồi, vị tế ưu”
Vâng, phàm đã đăng quang ngôi vua, cũng phải luôn canh cánh trong lòng những nổi lo âu khi khi chưa giành đựơc ngôi báu. Phàm đã qua được bên kia sông rồi vẫn phải luôn nhớ đến những nổi lo sợ, hãi hùng khi thuyền đang tròng trành giữa dòng sóng nước!
    Vâng, thưa quý vị đại biểu Việt kiều,
    “Chưa đi đảng gọi Việt gian
    Đi rồi đảng lại chuyển sang Việt Kiều
    Chưa đi, phản động trăm điều
    Đi rồi, khúc ruột đáng yêu nghìn trùng”…
Từ sau đại hội người Việt nam định cư ở nước ngoài lần thư nhất đó, đã có nhiều bài báo viết về những “dự mưu” của đảng và nhà nước cộng sản Việt nam về việc tổ chức “Hội Nghị Việt kiều yêu nước” này. Là một thần dân của nước CHXHCN Việt nam, hàng ngày vẫn phải đọc, phải nghe những chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước về chiến lược nhằm “đối phó với âm mưu diễn biến hòa bình của đế quốc Mỹ là bè lũ người Việt phản động lưu vong ở nước ngoài”, người viết chỉ qua bài viết này để bày tổ nổi băn khoăn của mình rằng tội ác của cộng sản vẫn còn nguyên đó, mà sao anh nỡ đành quên?

Huế, Mùa Vọng Thứ Nhất, năm 2009
Nguyễn Phúc Bảo Ân


Lời chúc mừng -- NGUYỄN XUÂN VINH & PHIẾN ĐAN -- trên Con Ong Việt

CHÚC MỪNG


Nhận được tin trễ, Nguyệt Hạ Lão Nhân vừa lấy sợi xích thằng cột chặt đôi uyên ương vào nhau:

- Phi-Công, Nhà-Văn, Giáo-Sư, Khoa Học Gia, Chủ Tịch Hội Đồng Đại Diện Tập Thể Chiến Sĩ VNCH/ Hải Ngoại, Cụ Ông "niên trưởng" NGUYỄN XUÂN VINH
    Với
- Cháu, “Hậu Duệ”, Chiến hữu PHIẾN ĐAN.

Nhóm Con Ong Việt và Báo Con Ong Việt thành thật chúc mừng đôi tân hôn:

- Trăm năm hạnh phúc - Bách niên giai lão - Phục nhì túng hỏi - Sẩu pì nạm sán - Phúc như Đông hải - Thọ tỷ Nam Sơn - Cúng hỉ phát sồi - Đa tử đa tôn đa phú quý.

Nhóm Con Ong Việt thân tặng tân lang cụ ông "niên trưởng" NGUYỄN XUÂN VINH món quà khiêm nhường, của ít lòng nhiều, món quà giá trị tuy nhỏ bé nhưng đầy ý nghĩa và hữu dụng trong đời sống phu thê cọc cạch, chồng già vợ nhí. Nhóm Con Ong Việt kính tặng tân lang cụ ông "niên trưởng" NGUYỄN XUÂN VINH Minh Mạng Hoàng Đế Toa, toa thuốc nổi danh bôi bổ sinh lực Nhất Dạ Lục Giao Sinh Ngũ Tử được truyền tụng trong nhân gian gần hai trăm năm.
    1. Hồng sâm 1 lượng
    2. Sa sâm 5 chỉ
    3. Câu kỷ tử 2 chỉ
    4. Bạch truật 3 chỉ
    5. Đào nhơn 5 chỉ
    6. Đương quy 3 chỉ
    7. Mộc qua 2 chỉ
    8. Thục địa 5 chỉ
    9. Tục đoạn 2 chỉ
    10. Phồng phong 3 chỉ
    11. Quế chi 2 chỉ
    12. Tần giao 2 chỉ
    13. Hổ cốt 1 chỉ (nếu hông có thì dùng cao hổ cốt 1 hộp nhỏ)
    14. Độc hượt 2 chỉ
    15. Bạch thược 3 chỉ
    16. Trần bì 3 chỉ
    17. Khương hoạt 2 chỉ
    18. Phục linh 3 chỉ
    19. Tiểu hồi 3 chỉ
    20. Cam thảo 3 chỉ
    21. Đại táo 2 chỉ
    22. Xuyên khung 3 chỉ
    23. Đỗ trọng 2 chỉ
    24. Xương truật 2 chỉ
    25. Tang phiêu tiêu 3 chỉ (Ổ vò vò)
    26. Liên tâm 3 chỉ
    27. Hồng hoa 5 chỉ
    28. Tử hà sa (optional)
    29. Lộc nhung 3 chỉ
29 vị thuốc ở trên ngâm với 2 lít rượu đế trong 49 ngày đêm, lọc rượu ra, pha thêm với nữa lít nước đã nấu chín (thêm 3 lạng đường phèn nếu sợ thuốc đắng khó uống) tất cả trộn đều là dùng được

Toa rượu bổ minh mạng này có 5 tác dụng đặc biệt:
    1. Đại bổ khí huyết, tăng cường sinh lực bồi bổ thần kinh
    2. Ngăn ngừa bịnh tật, trị khỏi đau lưng nhức mỏi
    3. Liệt dương, uống từ 1 đến 2 tháng sẽ được hồi phục
    4. Thận yếu lâu, suy thận đi đứng không được, uống vào rất tốt
    5. Không bị táo bón, ngủ ngon giấc
Mỗi tối trước khi đi ngủ, uống 1 chun nhỏ
_________________
    CS/QLVNCH, CÁC ANH NGHĨ SAO ?
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Trước kia,
- Nghe một số niên trưởng nói về thái độ hèn nhát của Trung tá Nguyễn Xuân Vinh ông hồi còn làm Tư Lệnh Không Quân QLVNCH đối với TT Ngô Đình Diệm, tôi không tin,

- Đọc bài viết nói đến tư cách khúm núm bệ rạc của Đại tá Nguyễn Xuân Vinh trước mặt tên Phản Tướng Đỗ Mậu, tôi không tin.

Gần đây,
- Nghe người ta đàm tiếu về việc ông Nguyễn Xuân Vinh bỏ tiền ra in thành sách những bài viết của người khác ca tụng ông và cho không để lấy tiếng, tôi cũng không tin. Tôi biện luận rằng: Còn hào quang nào mà ông Nguyễn Xuân Vinh không đội trên đầu rồi, ông làm thế để làm gì?

Tất cả tôi không tin vì cho rằng ông là một nhân vật hết sức đáng trân trọng trong cộng đồng người Việt Nam Tỵ Nạn Cộng Sản của chúng tôi. Ông đã từng là:

- Một vị tư lệnh tuổi trẻ tài cao của một binh chủng đáng hãnh diện của quân đội mà tôi là một thành viên, mặc dầu lúc đó tôi chưa đi lính,

- Một nhà khoa học giỏi với tầm vóc quốc tế, được cả giới khoa học thế giới trọng vọng,

- Một người có được một vị trí và đời sống như ông mà khi về già vẫn còn hy sinh bỏ thì giờ và công sức ra gánh vác việc chung.

Mặc dù có một số bạn lính đã từng nêu ý kiến và gợi ý cho tôi viết để phê phán về các hoạt động của tổ chức Tập Thể Chiến Sĩ và cung cách lãnh đạo của GS Nguyễn Xuân Vinh. Thế nhưng tôi vẫn ngần ngại không viết. Phải thành thực nói là không dám viết, vì dù sao Tập Thể CS/QLVNCH, theo tôi nghĩ, cũng là cái thành trì chống cộng cuối cùng của người Việt tự do tại hải ngoại. Chống cộng mà không có quân đội không thể được, chắc chắn thất bại.

Theo cái nhìn của riêng tôi, rất đáng buồn là thực chất Tập Thể chỉ là một tổ chức có tiếng mà không có miếng, nghĩa là nó mang danh là tập thể, nhưng lại chỉ qui tụ được vài trăm nhân mạng trên tổng số ước lượng ít nhất vài trăm ngàn quân nhân các cấp thuộc các ngành, các đơn vị. Hơn nữa Tập Thể đã chẳng làm được cái trò trống gì trong thời gian 6 năm từ ngày nó ra đời đến nay. Đã thế nó còn bị Việt Tân xâm nhập và lũng đoạn, có khuynh hướng đi theo đường lối của bọn HHHG với CS, làm những việc bất lợi cho cộng đồng.

Riêng GS Nguyễn Xuân Vinh với cương vị lãnh đạo Tập Thể đã phạm những sai lầm nghiêm trọng sau đây:

1. Làm mất niềm tin của giới quân nhân và những đoàn thể quân đội vì thiếu tài lãnh đạo, tham quyền, tự tôn, và độc đoán, thiếu tài lãnh đạo nhưng lại ham lãnh đạo.

2. Hoàn toàn không có sáng kiến trong việc đấu tranh chính trị với CS. Mặc dầu ông dễ dàng vẽ được con đường lên cung trăng, nhưng bảo ông đưa ra đối sách trước một biến cố thì ông chịu thua. Ông chỉ có năng khiếu khoa học mà mù tịt về chính trị.

3. Xài toàn những bọn a dua, nịnh hót, háo danh, và phe đảng. Thí dụ như để cho Bút Vàng là một Người đàn bà ăn nói ba hoa, lỗ mãng tự tung tự tác trong Đại Hội của Tập Thể thì không còn ai hiểu nổi nữa. Bà Bút Vàng sao lại ở trong Tập Thể? Bà ta giữ chức vụ gì trong Tập Thể không ai biết. Cả một Tập Thể không có người hay sao mà lại phải xài đến một người đàn bà không danh phận trong Tập Thể Chiến Sĩ QLVNCH? Bà Phiến Đan nữa, xuất thân như thế nào mà lại là hậu duệ của Tập Thể. Không còn ai có khả năng để làm phát ngôn viên hay sao mà phải dùng đến hậu duệ Phiến Đan để bà gây ra scandal. Có quyền nghi ngờ rằng có một thế lực nào đó cố tình tạo sự kiện để giật sập cái thành trì chống cộng tại hải ngoại là QLVNCH bằng cách hủy diệt niềm tin cuối cùng của mọi người vào quân đội. Do đó ngưòi vô tâm hoặc dễ tính mấy cũng không thể nào còn chấp nhận GS Nguyễn Xuân Vinh trong vai trò lãnh đạo Tập Thể QLVNCH, và bà Phiến Đan trong vai trò phát ngôn của Tập Thể.

Nay trước sự việc GS Nguyễn Xuân Vinh lấy bà Phiến Đan thì bắt buộc tôi phải suy nghĩ lại. Tôi không thể không tin những gì tôi đã nghe và đã đọc về GS Vinh trước đây. Nếu bà Phiến Đan là một thiếu nữ chưa chồng hoặc một người đàn bà góa chồng thì việc làm của ông Vinh là chánh đáng. Nhưng bà này lại là một người đàn bà bỏ chồng, bỏ cả con để đi theo ông Nguyễn Xuân Vinh thì sự việc trở thành quá tồi tệ mất rồi. GS Vinh dù sao cũng mang tiếng là kẻ quyến rũ người đàn bà đã có chồng con, phá nát gia cang của người khác. Đạo đức, phong tục, và lễ giáo của dân tộc không thể nào chấp nhận việc làm của hai người. Nếu là một thứ vô danh tiểu tốt thì ảnh hưởng chẳng lây đến ai, bất quá chỉ một vài người thân cận. Nhưng GS Vinh lại đã từng là niềm hãnh diện của người tỵ nạn đối với thế giới, là lãnh đạo của tập thể chiến sĩ nữa. Vấn đề là ở chỗ đó.

Trưóc sự việc mất mặt này, chúng tôi xin có một vài đề nghị với mọi người, nhất là các anh chị em quân nhân QLVNCH như sau:

Thứ nhất, sự ê chề đã tới mức chót rồi, thùng phân càng quậy lên càng thối hơn thôi. Do đó không nên làm ồn ào lên làm gì nữa mà hãy để cho ông Nguyễn Xuân Vinh tự xử. Chúng tôi nghĩ rằng ông là người học cao, có địa vị chắc ông biết ông nên làm cái gì.

Thứ hai, chỉnh đốn lại công việc của Tập Thể CS/QLVNCH mới là vấn đề quan trọng trong lúc này. Xin đề nghị một việc làm cụ thể sau đây: Các đoàn thể quân đội kể cả các cá nhân đứng ngoài cố gắng tạo cơ hội họp một Hội Nghị Diên Hồng toàn quân. Tốt hơn hết là các hội đoàn quân đội đứng ra làm việc này. Mục đích của Hội Nghị là để:

Xóa đi mọi tỵ hiềm, cách biệt, hiểu lầm, tranh cấp nếu có trong tinh thần Huynh Đệ Chi Binh để tiến tới một lập trường, một đường lối đấu tranh chung, tạo sự đoàn kết và quyết tâm đoàn kết trong QLVNCH, thống nhất ý chí thành một tập thể có kỷ cương, và kỷ luật, hoạch định đường lối, chính sách chung ứng phó mọi vấn đề.

Theo nhận định thô thiển của chúng tôi, Tập thể QLVNCH chúng ta tuy có một số cá nhân thoái hóa, đầu hàng địch, chạy theo các thế lực tiền bạc, tổ chức đấu tranh cuội. Thành phần này không nhiều. Đại đa số vẫn kiên trì lý tưởng, giữ vững tinh thần “cư an tư nguy”. Chỉ tiếc rằng anh em bị lừa bịp quá nhiều nên đành phải chọn lối sống trùm chăn. Luôn luôn có 2 tử điểm mà VGCS và tay sai nhắm đánh vào chúng ta, mà hầu như chúng luôn luôn thắng. Đó là tiền bạc (lem nhem) và cái tôi quá lớn (háo danh). Khiêm tốn nhìn nhận và vượt thắng được hai trở ngại kỳ đà này là điều tiên quyết để thắng CS. Tin đi, chúng ta làm được mà. QLVNCH không thiếu người tài giỏi, không thiếu người dám quên mình và chịu hy sinh, không thiếu người nhiều sáng kiến và giầu mưu lược. Vụ GS Nguyễn Xuân Vinh là điều không may, nhưng biết đâu lại là cơ may Ông Trời cho để QLVNCH thanh lọc và chỉnh đốn hàng ngũ xông vào trận chiến diệt cộng, đuổi xâm lăng dành thắng lợi. Chúng ta há để cho những tên tuổi Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Phạm Văn Phú, Hồ Ngọc Cẩn, Ngụy Văn Thà và nhiều anh hùng liệt nữ vô danh khác phải chìm vào quên lãng? Quân nhân QLVNCH, các anh nghĩ sao?

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Friday, November 27, 2009

TỪ MEET VIỆTNAM Ở SAN FRANCISCO TỚI HỘI NGHỊ VIỆT KIỀU TẠI HÀNỘI - Lý Đại Nguyên

Lý Đại Nguyên

“Meet Việtnam” hay “Gặp gỡ Việtnam” do Tổng Lãnh Sự Việtcông và văn phòng Mậu Dịch Quốc Tế của thành phố San Francisco phối hợp tổ chức tại sảnh đường Tòa Thị Chánh San Francisco vào ngày 15 và 16/11/09, nhằm tuyên truyền cho một nước Việtnam, qua những hình ảnh gọi là “văn hoá” và tiềm năng phát triển dưới thời Cộngsản trị vì. Tuyên bố với báo Tuổi Trẻ hôm 14/11/09, Lê Quốc Hùng tổng lãnh sự Việtcộng ở San Francisco nói: “Chúng tôi muốn thông qua Meet Việtnam đưa những hình ảnh khách quan, trung thực đến với bà con. Chúng tôi muốn chuyển tải đến bà con thông điệp: đất nước ta đang chuyển mình, đang hội nhập và phát triển, mong bà con đồng hành cùng quê hương đất nước góp phần xây dựng quê hương giầu mạnh”.

Trong khi đó, hàng ngày, hàng giờ, người Việtnam ở nước ngoài lại thường xuyên “Meet Việtnam” qua tin tức và hình ảnh từ truyền thông quốc tế về một Việtnam do một đảng cầm quyền độc tài tham nhũng, bóc lột toàn dân, lừa dối đồng bào, khinh rẻ trí thức, đàn áp tôn giáo, khủng bố đối lập, bóp chết tự do, bưng bít thông tin, sập bẫy kiều bào, xuất khẩu nữ nô, bội tín quốc tế, bán nước cho Tầu. Nghĩa là theo đà này, với sự hèn mạt luồn cúi Trungcộng của bọn cầm đầu Việtcộng thì đúng là “đất nước ta đang chuyển mình hội nhập” làm một với Đế Quốc Đại Hán vĩ đại rồi còn gì. Chính vì ý thức được hiểm họa mất nước, mất luôn dân tộc đó, nên đồng bào và thanh niên Việtnam tỵ nạn cộng sản tại California, từ Nam chí Bắc hàng ngàn người kéo về tòa thị chính San Francisco để phản đối và tố cáo trước dư luận quốc tế về trò lừa bịp “Gặp Gỡ Việtnam” của bọn Việtcộng. Khiến cho buổi lễ khai mạc phải rút ngắn mất 3 tiếng đồng hồ.

“Meet Việtnam” tại San Francisco bị chìm lịm dưới “bóng Cờ Vàng” và tiếng hô “Đả đảo Việtcộng bán nước cho Trungcộng” của muôn dân Việt yêu quê hương tại hải ngoại. Còn cái gọi là “Hội Nghị Người Việt Nuớc Ngoài Toàn Thế Giới”, lần đầu tiên, do bộ Ngoại Giao Việtcộng tổ chức tại Hànội từ ngày 21 đến 23/11/09, nhằm thu hút sự trợ giúp của người Việt ở hải ngoại, thì cũng chỉ là hình thức khoa trương, quy tụ những thành phần Việtcộng sinh hoạt ở nước ngoài, những kẻ làm ăn với Việtcộng, bọn theo đóm ăn tàn, đơm đó ngọn tre, cam nhận mình là ‘Việt kiều’. Còn những người Việt tỵ nạn cộng sản là thường trú nhân hay là người Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Úc … gốc Việt, không phải là Việt Kiều trực thuộc quyền quản lý của nhà nước Việtcộng nữa, nên chẳng ai ngu dại cúi mặt tự nhận mình là Việtkiều để cho Việtcộng sai xử.

Những người Việt mang căn cước Tỵ Nạn Cộng Sản có biết nhục không? Khi để cho bọn “vô tổ quốc’ ‘phi dân tộc’ ‘vô văn hoá’ đồng hóa mình vào hàng ngũ Việtkiều rồi nhơn nhơn lên lớp rằng: “Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc trong cộng đồng Người Việt ở hải ngoại. Xây dựng cộng đồng người Việt ở nước ngoài đoàn kết vững mạnh, thành đạt hướng về đất nước. Chuyên gia trí thức kiều bào góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước. Doanh nhân kiều bào đóng góp vào sự nghiệp chấn hưng xứ sở”. Xứ sở Việtnam là của toàn dân ở trong cũng như ngoài nước, mọi người đều có sứ mệnh thiêng liêng là phải góp phần chấn hưng. Nhưng hiện nay dân tộc bị bất hạnh, đất nước gặp tai ương, toàn dân bị bọn Việtcộng độc tài tham nhũng ngu si toàn trị, chúng chỉ nghe lệnh từ đàn anh ngoại bang, không cần biết tới ý dân, biến dân thành bầy nô lệ, coi người Việt ở nước ngoài và trí thức chân chính trong nước là ‘kẻ nội thù’ thì đóng góp xây dựng xứ sở với chúng sao được.

Chúng lớn tiếng khuyên người Việt hải ngoại giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc. Mà lúc nào bọn Việtcộng cũng bắt toàn dân phải trung thành với chủ nghĩa cộng sản ngoại lai phi nhân tính, phi dân tộc, phi văn hóa: Mác-Lê-Hồ. Thường xuyên phát động chiến dịch học tập gương nô lệ ngoại bang và đạo đức dâm loạn của Hồ Chí Minh. Không phải sao? Đảng đã tuyên dương Hồ Chí Minh là cán bộ kiệt xuất của phong trào cộng sản quốc tế. Còn là nhà tư tưởng và có tinh thần dân tộc thì phải xét lại. Ông Hồ chẳng đã tự thú ông không có tư tưởng gì, tư tưởng là của Mao chủ tịch hết. Ngay trước lúc nhắm mắt lià đời. Nếu là người có tinh thần dân tộc thì ông phải nói: Về gặp tổ tiên mới đúng. Đàng này ông viết trong di chúc là: “Đi gặp ông Mác, ông Lê”, các ông tổ cộng sản.

Khi sắp được quốc tế chia phần cai trị Miền Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tuân lệnh Mao Trạch Đông, phóng tay phát động phong trào “Cải Cách Ruộng Đất” đấu tố, tiêu diệt Trí, Phú, Điạ, Hào, thủ tiêu truyền thống tự chủ dân tộc qua việc phá bỏ “Hệ Thống Làng Xã Tự Quản” thay vào đó bằng “Chi Bộ Xã” trực thuộc Hệ Thống Trung Ương Tập Quyền Toàn Trị Cộng Sản. Thế là đảng theo Nga, toàn dân phải tuân lệnh chi bộ để theo Nga. Đảng theo Tầu thì toàn đảng, toàn quân, toàn dân phải theo Tầu. Dân Tộc Việtnam mất quyền tự chủ dân tộc, độc lập quốc gia kể từ đó. Nhất là khi Việtcộng chiếm được Miền Nam thì lập tức chúng vất luôn danh nghĩa “Giải Phóng Dân Tộc” vào giỏ rác để vỗ ngực xưng tên “Chủ Nghĩa Cộng Sản Bách Chiến Bách Thắng”. Chúng gọi chính quyền Miền Nam là “ngụy quyền”. Quân đội là “ngụy quân” bắt đi tù. Dân chúng bị xem là “ngụy dân” bắt đi vùng kinh tế mới. Chúng biến Miền Nam giầu có thành bần hàn, khiến hàng triệu người phải liều chết bỏ nước băng rừng, vượt biển bỏ quê hương đất tổ đi tìm tự do.

Nay người Việt tỵ nạn trên toàn thế giới đã vững mạnh, trở thành một lực lượng đáng nể về “cả chất xanh lẫn chất xám”, hàng năm vì tình thương gia đình, dân tộc đã gời hàng mấy tỷ đô la về trong nước. Đáng sợ cho Việtcộng hơn nữa là khối người Việt tỵ nạn cộng sản luôn luôn là hậu phương lớn cho phong trào tranh đòi Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền của toàn dân. Chính vì thế nên Việtcộng tìm mọi cách để gây chia rẽ, mua chuộc, nịnh bợ, lôi kéo người Việt ở nước ngoài về với chúng. Được vậy là chúng hy vọng nắm quyền lâu dài tại Việtnam. Hãy nghe Trần Đình Thiên vụ trưởng kinh tế Việtcộng nói về hội nghị: “Chủ trương thì nằm trong tinh thần hội nhập chung của chiến lược phát triển của Việtnam, nối kết với người Việt ở nước ngoài.. thông qua bà con để Việtnam kết thông với thế giới …”. Có nghĩa là người Việt tỵ nạn phải bỏ rơi dân tộc và toàn dân để làm công cụ cho Việtcộng trên trường quốc tế. Phát biểu trước hội nghị Nguyễn Minh Triết chủ tịch nước Việtcộng tuyên bố: “đây là cơ hội, là diễn đàn rộng rãi để lãnh đạo đảng, nhà nước và chính phủ trực tiếp lắng nghe ý kiến đóng góp, xây dựng của kiều bào hải ngoại”. Nhưng nhiều thành viên tham dự hội nghị “chưa thỏa mãn” về vấn đề Biển Đảo, muốn hỏi thêm, lại không có phần trả lời câu hỏi. Đúng là màn trình diễn rẻ tiền huê dạng, mà tốn của, chẳng lừa gạt được người tỉnh thức.

Lý Đại Nguyên
Little Saigon ngày 24/11/2009


Danh sách “Việt-kiều” về nước dự “Hội Nghị Việt Kiều Hà-nội”

Danh sách “Việt kiều” (VC nằm vùng hải ngoại) được lũ thú cầm quyền Hà Nội phổ biến để vinh danh chúng!

Người đứng đầu và điều khiển danh sách này là: Thái-Thanh-Giản

Ðặc công Tuyên vận VC:
    • Bs. Kiều Quang Chấn- Cali
    • Bs. Nguyễn Ngọc Hương-Springvale
    • Bs. Nguyễn Thị Thu Cúc- Richmond
    • Bs. Trần Thanh Nhơn-Melbourne
    • Bs.Hồng Anh Dũng-Belgium

    • Bs.Quỳnh Kiều-Cali
    • Cao Huy Thuần-Pháp
    • Cao Lương Thiện-Si
    • Cựu Nghị Nguyễn Sang-Melbourne
    • Gs. Tâm Ðàn-Úc

    • Gs. Võ Kim Sơn-Bolsa
    • Gs.Tạ Văn Tài-USA
    • Hồng Nguyên Nhuận-Sydney
    • Huỳnh Tấn Lê-Cali-HHHG
    • Hà Dương Tường-Pháp

    • Họa sĩ Dương Văn Thành- Thụy Ðiển
    • Hồ Lê Khoa, Chồng Bs.Cúc-Clayton
    • Hồ Tú Bảo-Nhựt
    • Hồ Văn Xuân Nhi Jr.-Cali
    • Hồng Quang-USA (Giao Ðiểm)

    • Ks. Ðỗ Anh Thư-San José -USA
    • Lm. Nguyễn Ðình Thi-Pháp
    • Ls. Nguyễn Hữu Liêm-USA
    • Lê Văn Chiêu-Cali
    • Lê Văn Hướng-Sj

    • Lương Cần Liêm-Pháp
    • Nguyễn Cao Kỳ-USA
    • Nguyễn Mỹ Lý-Úc
    • Nguyễn Văn Hiếu-Melbourne
    • Nguyễn Xuân Hồng-Cali

    • Nguyễn Xuân Thu- Melbourne
    • Phan Mạnh Lương-USA
    • Phan Văn Giưỡng-St Albans
    • Phạm Trọng Luật-Pháp
    • Phạm Văn Minh-Sydney

    • Thích Giác Nhiên-Houston
    • Thích Hạnh Tấn-Ðức
    • Thích Minh Tâm-Úc
    • Thích Mãn Giác-USA
    • Thích Nguyên Hạnh-USA

    • Thích Như Ðiển-Ðức
    • Thích Phước HuệVESAK-Sydney
    • Thích Phước Tấn-Melbourne
    • Thích Quảng Ba-Canberra
    • Trung Dung-V.Home Group-USA

    • Trần Bình Nam-Úc
    • Trần Hữu Dũng-Ohio
    • Trần Văn Thọ-Nhựt
    • Ts. Huỳnh Hữu Tuệ-Canada
    • Ts. Lâm Như Tạng-Sydney

    • Ts. Lê Dũng Tráng-Pháp
    • Ts. Lê Quang Bình-USA
    • Ts. Lê Văn Tâm-Ðức
    • Ts. Nguyễn Văn Chuyển-Nhựt
    • Ts. Phạm Gia Thu-Canada

    • Ts. Thái Kim Lan-Germany
    • Ts. Trương Nguyễn Trân-Pháp
    • Ts. Trần Minh Tâm-Thụy Sĩ
    • Ts. Trần Tiễn Khanh-USA
    • Ts. Ðỗ Hữu Tâm-Irvine

    • Vĩnh Hảo-Houston
    • Vũ Quang Việt-LHQ
    • Vũ Ðức Vượng-San Jose
    • Ðồn Thị Thanh Tâm-Úc
    • Ðặng Văn Hiền- Sydney-VESAK
    (Trích: Diễn Đán Công Luận, 24-11-2009)
Trên danh sách này không thấy tên ai ở Hawaii về VN tham dự Hội-Nghị, dù trước khi Hội Nghị của VC thành hình, ở Hawaii có “một nhóm 4 tên xấu” đã ăn phải “Bã” hoặc được VC trả công, đã tung ra danh sách (giả) 58 người mà VC mời về hội-nghị. Trong danh sách này có tên ông Ngô Xuân Tâm, Chủ Tịch Khu Hội CTNCT Hawaii.

Khi nhìn thấy danh sách thì nhiều người nghĩ rằng do VC tung ra, nhắm vào thành phần chống Cộng để triệt hạ uy tín, gây chia rẽ và đánh phá lẫn nhau. Nhưng những người quan tâm đến các sinh hoạt đấu-tranh, thì ai cũng biết danh sách này được cắt-xén, ráp-nối từ danh sách “phản đối nhà cầm quyền CSVN cho Trung Cộng khai thác quặng Bauxit ở Tây Nguyên VN” gồm có hầu hết các cộng đồng; các đảng phái quốc gia; các Hội Đoàn và các nhân vật nổi tiếng tại Hoa Kỳ ký tên yểm trợ, trong đó có tên ông Ngô Xuân Tâm, CT Khu Hội CTNCT/ HI.

Sự việc xẩy ra, ông Ngô Xuân Tâm và nhiều anh em Cựu-Tù đã đích thân truy-cứu và đã tìm ra nơi xuất phát danh sách gỉa trên. Ông Ngô Xuân Tâm đã điện thoại truy hỏi từng người trong đám 4 tên xấu này, nhưng tên thì không dám bắt phone, tên thì chối dài và đổ thừa cho nhau thật là hèn hạ ! (Lời chối tội và đổ thừa cho nhau có băng ghi lại ).

Nhận thấy đám 4 người này ở Hawaii thì chẳng ai lạ gì. Chúng đã bị bà con đồng hương chỉ mặt, điểm tên và chửi bới hàng ngày vì tiếm-danh, ma-mãnh, nhưng chúng cứ trơ mặt ra xưng danh này, chức nọ mà không biết nhục, thì nay có một lần nữa làm cho ra chuyện, đưa tên cầm đầu việc vu-khống và triệt hạ uy tín một người đứng đầu một tổ chức chống Cộng tại Hawaii mà ai cũng biết, thì cũng phí công, chẳng ích lợi gì. Vì thế Khu Hội CTNCT đã bỏ ý định đưa chúng ra trước công luận hoặc tòa án (vì có đủ yếu tố cấu thành tội trạng).

Cũng may cho Khu Hội CTNCT là: “vàng thật không sợ lửa” hoặc “cây ngay không bao giờ chết đứng” vì khi ở Hà-Nội khai mạc “Hội Nghị Việt Kiều” ngày 19-11-2009, thì tại Hawaii, ông Ngô Xuân Tâm đã đứng ra phối hợp thành lập một phái đoàn gồm có ông Chủ Tịch Cộng-Đồng Nguyễn Quang Ngọc, Ông Lê Văn Kỳ (báo Web), Bà Thuỳ Hương (truyền hình), K/sư Lê Việt Quốc (Cựu Chủ Tịch CĐ); Bà Nguyễn Q. Ngọc (Hội AHNVCN), ông Ngô Đăng Tỉnh và ông Ngô Xuân Tâm (Khu Hội CTNCT ) đã đến trường Washington Middle Shool gặp Ban Giám Hiệu, yêu cầu hạ Cờ Đỏ Sao Vàng VC mà trường này đang trưng bày, và xin thay thế bằng Cờ Vàng 3 Sọc Đỏ, biểu tượng chính nghĩa, tự do của người Việt. Sau khi nghe phái đoàn trình bầy, nhà trường đã đồng ý cho thay thế ngay ngày hôm sau.

Đây là công tác Hạ Cờ Đỏ Sao Vàng lần thứ 3, trong 2 năm gần đây do BĐD Cộng-đồng, ông Chủ Tịch Nguyễn Quang Ngọc phối hợp cùng một số Tổ-chức, một số Phụ-huynh học sinh và Nhân sĩ … đã rất vất vả hoàn thành chức năng của mình. Ngược lại, có những tổ chức mang danh cho lớn, cho kêu, nhưng khi được báo có phái đoàn VC tới hoặc có cờ VC treo thì trốn không dám tham dự biểu tình hoặc tham gia vào công tác triệt hạ cờ Máu VC. Liệu người Việt tỵ nạn Hawaii đánh gía các tổ chức này ra sao !!!

Hawaii- Cuối tháng 11/2009
Ngô Xuân Tâm

Monday, November 23, 2009

GƯƠNG MẶT THẬT CỦA TIẾN SĨ PHẬT TỬ TRẦN KIÊM ĐOÀN - Bằng Phong Đặng văn Âu

Bằng Phong Đặng văn Âu

Cách đây một tuần, có người quen gửi cho tôi cái email (không ghi lời bình luận), chỉ thấy trong “attach file” có bài viết của Tiến sĩ Trần Kiêm Đoàn – một Phật tử – bày tỏ đôi điều với Thiếu tá Liên Thành, tác giả cuốn sách “Biến Động Miền Trung”. Đọc xong, tôi bèn viết một email nói lên vài cảm nghĩ cá nhân về nhà trí thức Trần Kiêm Đoàn cũng để gửi cho những người thân quen đọc chơi. Sau đó, một số người thân quen gửi email trả lời, yêu cầu tôi viết hẳn một bài để đưa lên diễn đàn hầu rộng đường ngôn luận. Do vậy, nay tôi xin khai triển cảm nghĩ của tôi:

Tôi được dịp đọc một số bài viết tả tình, tả cảnh, phiếm về Huế của ông Trần Kiêm Đoàn đăng rải rác trên các trang mạng và đăng trên các đặc san của các trường trung học ở Huế. Vì là người đi học và lớn lên ở Huế, tôi khá thích những gì ông Trần viết về Huế, nhất là cái văn phong nhẹ nhàng bóng bẩy rất nên thơ. Tìm hiểu thêm qua những người Huế, tôi được biết Trần Kiêm Đoàn tốt nghiệp Đại Học Sư phạm Huế, ra trường đi dạy học, sau năm 1975 vượt biển (?) đi tìm tự do, đến Hoa Kỳ làm việc cho cơ quan xã hội và tiếp tục học thêm để đạt bằng Tiến sĩ. Vừa có cảm tình với cái văn phong của tác giả, vừa chuộng con người hiếu học, tôi có viết một email ngợi khen gửi tới tác giả với tư cách là một độc giả. Đa số độc giả người Việt mình thường im lặng khi đọc được một tác phẩm có giá trị. Ngược lại, hễ đọc được một áng văn, thơ hoặc nghe một bài nhạc nào mà mình rung động, tâm đắc thì tôi liền viết thư hoặc điện thoại để cảm tạ công trình tim óc của tác giả. Tôi cho đó là phương cách bày tỏ lòng biết ơn người cung cấp cho mình món ăn tinh thần.

Nhưng kể từ khi đọc bài viết của ông Tiến sĩ Trần Kiêm Đoàn ca ngợi công đức của ông Võ Đình Cường vừa mới từ trần thì những cảm tình tốt đẹp mà tôi dành cho tác giả họ Trần không còn nữa, vì tôi cho rằng ông Đoàn là người thân Cộng. Tại sao? Vì cộng sản là tai họa cho Việt Nam.

Ông Võ Đình Cường, tác giả cuốn Ánh Đạo Vàng và vở kịch Mùa Gặt Ác, là người có ảnh hưởng lớn đối với quần chúng Phật tử tại Huế. Những huynh trưởng trong các Gia đình Phật tử như thầy Văn Đình Hy (Giám Học trường Quốc Học) cô Tịnh Nhơn (Hiệu trưởng Trường Đồng Khánh), anh Châu Tăng (Giáo sư Quốc Học), anh Hồ Viết Lợi (Giáo sư Quốc Học) đều sinh hoạt dưới sự chỉ đạo của ông Võ Đình Cường vì những vị này không biết ông Võ Đình Cường là cán bộ trí vận, tôn giáo vận của cộng sản. Cơ quan phản gián và tình báo Miền Trung đã bắt Võ Đình Cường một hai lần vì tình nghi ông Cường hoạt động cho cộng sản, nhưng ông Cố vấn Ngô Đình Cẩn can thiệp để thả ông Cường do sự yêu cầu của Thích Trí Quang. Có thể vì mang mặc cảm làm Cố vấn cho ông anh (Tổng thống Ngô Đình Diệm) là người theo đạo Công Giáo, nên ông Cẩn hết sức tỏ ra nhân nhượng Trí Quang để khỏi mang tiếng kỳ thị tôn giáo? Những người dân Huế nào quan tâm đến chính trị đều biết mối giao du thân mật giữa ông Ngô Đình Cẩn và ông Trí Quang. Hầu như mỗi tuần họ đều đến thăm viếng, đàm đạo với nhau.

Thế nhưng sau khi thành công lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, Trí Quang đã áp lực Tướng Nguyễn Khánh nhất định không được phép ký lệnh ân xá tử hình Ngô Đình Cẩn, mặc dầu nạn nhân đang bị bại liệt do chứng tiểu đường trầm trọng. Bà chị vợ của anh Phan Quang Đông đích thân đến lạy lục “Thầy” Trí Quang can thiệp cho Phan Quang Đông thoát khỏi án tử hình do Tòa Án Cách Mạng xử thì Trí Quang đã lạnh lùng khước từ, còn giả giọng đạo đức: “Tôi là người tu hành, không dính líu đến chính trị!”. Phan Quang Đông quê quán Nghệ An – cùng quê với tôi – có cha mẹ bị cộng sản đấu tố cho đến chết trong Cải Cách Ruộng Đất, nên nuôi mối thâm thù tận xương tủy đối với cộng sản. Để rửa mối thù cho cha mẹ, anh Phan Quang Đông tình nguyện hợp tác với ông Cố vấn Ngô Đình Cẩn trong công tác gửi biệt kích xâm nhập Miền Bắc để tổ chức xây dựng hạ tầng cơ sở trong lòng địch. Anh Phan Quang Đông không hề dính líu đến vấn đề an ninh, tình báo ở Miền Nam nên không thể quy cho anh là một phần tử ác ôn (?) đàn áp Phật giáo như sự cáo buộc của các nhà sư tranh đấu ở Huế. Thế nhưng anh Phan Quang Đông đã bị Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng xử tử hình tại sân vận động Huế do áp lực của “qúy Thầy”. Tướng Đỗ Cao Trí là người biết rõ trách nhiệm công tác của anh Phan Quang Đông, không dính dáng gì đến an ninh nội địa Miền Trung, nhưng vì sợ “Các Thầy” nên không can thiệp, để mặc cho Phan Quang Đông bị xử tử.

Chiếc áo cà sa của “Thầy” Trí Quang đã vấy máu trong cái chết của Ngô Đình Cẩn và Phan Quang Đông kể từ đó!

Sau Tháng Tư năm 1975, ông Võ Đình Cường hiện nguyên hình là một cán bộ trí vận cao cấp của cộng sản, gia nhập Đảng từ năm 1943. Thầy Văn Đình Hy, cô Tịnh Nhơn, anh Châu Tăng, anh Hồ Viết Lợi không biết Võ Đình Cường là cộng sản, nên hoạt động trong Gia đình Phật Tử dưới sự chỉ đạo của Võ Đình Cường là điều dễ hiểu. Còn sau năm 75 ông Tiến sĩ Trần Kiêm Đoàn đã biết rõ tung tích của Võ Đình Cường là cộng sản mà vẫn viết bài tán tụng, ca ngợi công đức của Võ Đình Cường, tức thị Trần Kiêm Đoàn phải có xu hướng thân Cộng. Không thân Cộng, tại sao đi tán tụng Cộng? Những tác phẩm nói về giáo lý của Đức Thích Ca trong Ánh Đạo Vàng của Võ Đình Cường chỉ là những viên thuốc bọc đường mê hoặc niềm tin tôn giáo, chứ không phải nhằm mục đích đưa con người về nẻo Từ Bi, Giác Ngộ bởi vì người cộng sản duy vật không tin vào Phật, Chúa, Alla! Và họ coi tôn giáo là thuốc phiện! Đã là kẻ thân Cộng thì dù đang sống dưới vòm trời tự do vẫn cứ phải ra sức bênh vực Cộng, cho nên con người đó không thể vô tư trong nhận định. Ấy là lý do tôi không còn tin vào những gì nhà văn Trần Kiêm Đoàn viết nữa. Một người Phật tử có cấp bằng Tiến sĩ lại đi tán tụng kẻ ác Võ Đình Cường lợi dụng danh nghĩa Phật Giáo là điều đáng tiếc, vì làm ô danh Phật giáo! Nếu ai tự cho mình là đệ tử của Phật, tín đồ của Chúa thì người ấy phải có nghĩa vụ lột mặt nạ những con qủy đội lốt tôn giáo của mình thì mới phải.

Giữa lúc hai kẻ đang đánh nhau chí mạng, lại có người nhân danh Phật, Chúa như Nhất Hạnh, Nguyễn Ngọc Lan đứng ra can gián mà lại ôm chân khóa tay một phía để cho phía khác tha hồ đấm đá túi bụi thì sao dám gọi là vì Công Lý, vì Hòa Bình? Ai đã nghe được từ Phong trào Nhân Dân Cứu Quốc của bác sĩ Lê Khắc Quyến, Phong trào Vì Công Lý, Vì Hòa Bình có một lời lên án Việt Cộng chính là kẻ gây tội ác, nguyên nhân của cuộc chém giết?

Nhất Hạnh đi dự hội nghị Phật giáo Thế giới ở Ấn Độ đã tố giác Miền Nam đủ thứ tội, trong khi ấy ông không hề có một lời buộc tội kẻ đầu nậu xâm lăng Miền Nam. Linh mục Nguyễn Ngọc Lan đã âm thầm tư thông với Trần Bạch Đằng chạy ra bưng để cùng nhau toan tính kế họach giật sập chế độ “quân phiệt” Thiệu Kỳ. Thử hỏi hạng người mượn chiếc áo cà sa Thầy Chùa, chiếc áo chùng đen Linh Mục đó có phải là những kẻ tu hành lương thiện không? Hay là quân phản trắc lộn sòng giả dạng khoác áo tôn giáo?

Kẻ thực sự yêu chuộng hòa bình, mong tiếng súng sớm chấm dứt chính là những người lính chiến của hai phía đang miệt mài ngoài trận mạc. Dù được Trời Phật che chở, độ trì, hộ mạng mà chiến tranh cứ kéo dài triền miên thì sao tránh khỏi có ngày vong mạng? Thế mhưng bọn tranh đấu nhân danh hòa bình, chấm dứt chiến tranh bằng mọi giá đã miệt thị những người lính cầm súng gìn giữ an ninh cho họ thì bị họ gọi là bọn lính Ngụy của Thiệu Kỳ! Trong vụ khủng bố xảy ra hồi tháng 9 ngày 11 năm 2001, Nhất Hạnh đã bỏ ra cả trăm ngàn Mỹ kim để đăng một quảng cáo trên tờ nhật báo New York Times tố cáo Hoa Kỳ đã ném bom giết chết ba trăm ngàn (300.000) lương dân vô tội ở tỉnh Kiến Hòa thì nay có chết 3000 ngàn người Mỹ cũng chẳng nghĩa lý gì. Mỗi quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima hay Nagasaki chỉ giết chết 100 ngàn người Nhật, dân số thành phố Kiến Hòa lúc bấy giờ lấy đâu ra 300 ngàn để bị chết vì bom Mỹ? Nhất Hạnh cho rằng tai họa “9/ 11” là luật Nhân Quả mà nhân dân Hoa Kỳ phải lãnh đủ? Đối với một con người bình thường, đứng trước cái chết của bất cứ ai (ngay cả của kẻ thù đi nữa) cũng không thể nhẫn tâm tỏ một thái độ dã man như thế, huống chi là một vị Thiền Sư?! Mới đây, Nhất Hạnh viết một bức thư cho Nguyễn Minh Triết trong vụ Công An Cộng Sản đàn áp, đánh đập tăng thân ở tu viện Bát Nhã thì lại không dùng danh xưng Thiền Sư Nhất Hạnh, lại dùng cái tên Nguyễn Lang! Sao không dùng pháp danh Nhất Hạnh để dựa vào thế tôn giáo như trước kia từng lên án Việt Nam Cộng Hòa? Cái pháp danh Nhất Hạnh – chưởng môn của một giáo phái – dễ nổi đình nổi đám hơn, dễ mượn danh nghĩa tôn giáo hơn như cái hồi đi họp Hội nghị Phật Giáo Thế giới ở Ấn Độ tố gian VNCH , sao không dùng?

Cuốn “Biến Động Miền Trung” của Thiếu tá Liên Thành ra đời chắc chắn gây ra nhiều xôn xao, bởi vì ông tiết lộ nhiều điều bí mật chưa ai biết tới, đã khiến cho một thiểu số người phản đối. Trong nước, có Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Phan công kích Liên Thành chụp mũ cộng sản cho những Phật tử thuần thành (!); ngoài nước có Tiến sĩ Trần Kiêm Đoàn, thành viên trong phong trào tranh đấu tại Huế, thì biện bạch Đôn Hậu, Trí Quang không phải là cộng sản. Trước đó, luật sư Tạ văn Tài cũng lên tiếng biện hộ cho Trí Quang một cách nhiệt tình. Luật sư Tạ văn Tài là ai? Tôi chỉ biết ông Tài là người anh em đồng hao (cọc chèo) với luật sư Bùi Tường Huân, em trai của ông Bùi Tường Chiểu, một luật sư nổi tiếng của Sài Gòn vào thập niên 60. Hai ông Huân và Chiểu là bạn học của ông anh tôi – Đặng văn Châu – ở Pháp trước khi ông Ngô Đình Diệm được cựu hoàng Bảo Đại mời về nước thành lập Nội Các vào Tháng 7 năm 1954. Do đó, tôi cũng có hân hạnh quen biết hai ông Bùi Tường Chiểu và Bùi Tường Huân ở Sài Gòn. Có thể vì bị ảnh hưởng xu hướng tả khuynh của trí thức Pháp, ông Bùi Tường Huân cũng ngả theo Sư Phật giáo tranh đấu chống Mỹ Diệm và cũng nhờ sự hỗ trợ của các Sư tranh đấu, ông Huân được làm Viện trưởng Viện Đại học Huế, Tổng trưởng Giáo Dục. Ông Huân vừa lớn tuổi, vừa xấu trai nhưng lấy được chị Phương Thảo – một giai nhân có tiếng ở Huế, em gái ca sĩ Hà Thanh – là nhờ có địa vị cao trong chính quyền do sự đề bạt của các ông Sư tranh đấu. Sự ngây thơ của nhà trí thức tả khuynh Bùi Tường Huân đi theo “Các Thầy” đã bị trả giá bằng những năm tù tội trong trại Tập Trung Cộng Sản sau năm 1975. Ông Tạ văn Tài lấy cô Liên Như – em gái của chị Phương Thảo, của ca sĩ Hà Thanh – lên tiếng biện hộ cho Trí Quang không phải là đảng viên cộng sản, theo tôi nghĩ, cũng vì cái tình anh em đồng hao với Bùi Tường Huân, chứ chẳng phải do nhà cầm quyền trong nước thuê mướn làm thầy cãi.

Ông Tạ văn Tài bác bỏ những dữ kiện của Liên Thành tố giác Trí Quang là cộng sản dựa theo lời khai của cán bộ tình báo Hoàng Kim Loan và lời tiết lộ của ông Tố Hữu từng đứng ra nhận lời tuyên thệ của Trí Quang khi gia nhập Đảng Cộng Sản. Cả hai ông Tạ văn Tài và Trần Kiêm Đoàn đều ra đưa ra luận cứ Trí Quang, Đôn Hậu đã từng có hành động phản đối Đảng Công Sản Việt Nam sau năm 75 bắt buộc Phật Giáo Thống Nhất phải sáp nhập vào Phật Giáo Việt Nam (một loại tổ chức Phật Giáo Quốc Doanh) để biện minh rằng Trí Quang, Đôn Hậu không phải là cộng sản. Mặc dầu không phải là luật sư, tôi cho rằng những luận cứ của ông Tài và ông Đoàn không đủ sức thuyết phục, bởi vì ông Nguyễn Hộ từng chống lại việc Đảng CSVN giải thể Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Miền Nam; Tướng Trần Độ từng chống lại chính sách độc tài toàn trị của Đảng CSVN thì không có nghĩa rằng hai ông Nguyễn Hộ, Trần Độ không phải là đảng viên cộng sản!

Mới đây tôi có xem video cuộc phỏng vấn Đại tướng Nguyễn Khánh cũng nghe ông Khánh mạnh dạn bảo Trí Quang không phải là cộng sản, mà là người của C.I.A. bằng lập luận rằng nếu Trí Quang là cộng sản thì Trí Quang đã được cộng sản “xài” sau năm 1975, chứ không bị quản chế như hiện nay. Tôi e rằng ông Đại tướng lập luận hơi … nông cạn. Cái nòi cộng sản chuyên trị vắt chanh bỏ vỏ, ăn cháo đá bát mà Đại tướng không thấu hiểu hay sao? Chiếu theo lập luận của ông Đại tướng, tôi xin hỏi lại rằng nếu Trí Quang là người của C.I.A. mà cộng sản lại để yên cho Trí Quang an lành ngồi dịch kinh kệ hay sao? Quân cán chính VNCH đâu có phải là người của C.I.A. đều bị đày đọa trong các trại tập trung mà Đại tướng không biết hay sao? Phạm Xuân Ẩn là đảng viên cộng sản làm gián điệp nằm vùng, sau năm 1975, cũng còn bị đi học tập đấy thôi!

Đã có nhiều cán bộ đảng viên cao cấp cộng sản từng tạo thành tích lớn cho Đảng, mà chỉ vì bất bình với Đảng đều bị cho ra rìa hoặc bị tù tội! Sau Tết Mậu thân, có một số Phật tử dù thân nhân bị sát hại cũng có luận điệu bênh vực Đôn Hậu bị Việt Cộng “áp giải” ra Bắc, chứ không phải “Ngài” tự ý. Hãy tạm tin vì bị Việt Cộng dùng vũ lực áp giải, Đôn Hậu phải đành chịu bó tay. Nhưng xin hỏi cái việc Đôn Hậu lên đài phát thanh cộng sản ở Hà Nội kêu gọi binh lính Miền Nam buông súng đầu hàng cũng bị cộng sản bắt buộc phải không? Vậy thì tinh thần “Vô Úy” của Đạo Phật mà Đôn Hậu thường rao giảng cho tín đồ để đâu lại không đem ra dùng khi bị bắt buộc?

Là một người lính Việt Nam Cộng Hòa, thuần túy tác chiến ngoài mặt trận, không phải là sĩ quan chiến tranh tâm lý hoặc tình báo, tôi không có bằng chứng, dữ kiện cụ thể để quy cho Trí Quang là cán bộ cộng sản. Nhưng qua những hành động gây rối liên tục của Trí Quang sau khi đã thành công trong việc lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm thì rõ ràng Trí Quang muốn dâng Miền Nam cho cộng sản Hà Nội. Chiếc áo cà sa của Trí Quang nguy hiểm và lợi hại hơn Dép Râu, Nón Cối và súng AK, vì được tín đồ và dư luận mù quáng quốc tế hỗ trợ. Cộng sản coi tôn giáo là thuốc phiện, nhưng chúng đã dùng tôn giáo để gây mâu thuẫn, chia rẽ trong hàng ngũ đối phương rất thâm độc. Xin liệt kê một số hành động nguy hại cho Miền Nam của Trí Quang:

– Trí Quang đã cáo buộc tất cả các chính phủ sau năm 1964 đều là chính quyền Diệm không Diệm, liên tục xách động quần chúng Phật tử xuống đường đòi lật đổ. Thậm chí Cụ Trần văn Hương, kỹ sư Phan Khắc Sửu, bác sĩ Phan Huy Quát là những Phật tử, từng chống chế độ Ngô Đình Diệm cũng bị Trí Quang đòi lật đổ. Ngoài tiền tuyến, Cộng Quân gia tăng áp lực quân sự; ở nội thành Trí Quang gia tăng quấy rối, xáo trộn không ngừng, lại thêm gian thương đầu cơ tích trữ khiến cho đòi sống kinh tế của nhân dân thêm khó khăn thì thử hỏi có chính phủ nào đủ khả năng tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến để viết Hiến Pháp? Bất cứ ai lãnh đạo Miền Nam sau ngày 1 tháng 11 năm 1963 cũng phải dùng cán bộ được đào tạo dưới chế độ Ngô Đình Diệm để điều hành việc nước. Chỉ có cách sử dụng cán bộ cộng sản thì mới tránh được sự cáo buộc “chính quyền Diệm không Diệm” của Trí Quang.

– Nếu không khoác chiếc áo Cà Sa thì các ông Trí Quang và băng đảng không thể vận động quần chúng Phật tử mang bàn thờ xuống đường để ngăn cản Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa hành quân truy lùng địch và diệt địch hầu mang lại an ninh cho đồng bào. Trí Quang dùng chiêu bài bảo vệ đạo pháp để đưa ra những yêu sách không thể nào chấp nhận, để xách động tín đồ mù quáng làm theo lệnh của Thầy. Thực chất là cố tình gây hấn để dồn chính quyền phải ra tay dẹp bạo loạn, gây đổ máu thì mới có thể hô hoán với thế giới rằng Phât giáo bị đàn áp. Cái yêu sách đòi tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến để viết Hiến Pháp, thiết lập chính quyền dân sự để loại bỏ chính quyền quân nhân cũng chỉ là thủ đoạn của Trí Quang mà thôi. Trí Quang không phải là người tha thiết đến vấn đề Tự Do, Dân Chủ nên đã ngậm miệng dưới chế độ độc tài cộng sản. Tại sao Trí Quang không tự thiêu như Bồ Tát Quảng Đức đã tự thiêu để phản đối độc tài Ngô Đình Diệm?

– Vì không thể đương đầu với tình hình khó khăn, hai ông Phan Khắc Sửu và Phan Huy Quát đành phải trao quyền lãnh đạo Đất Nước cho Quân Đội; chứ không phải Quân Đội làm cuộc đảo chánh lật đổ chính quyền dân sự để thoán đoạt quyền bính. Tại sao Trí Quang cứ xách động quần chúng Miền Trung đòi lật đổ tập đoàn “quân phiệt” Thiệu Kỳ? Khi Đại sứ Cabot Lodge hỏi: “Ngài đòi hạ bệ Nguyễn Cao Kỳ xuống thì Ngài sẽ đưa ai lên?”, Trí Quang thản nhiên đáp: “Tôi sẽ đưa Nguyễn Cao Kỳ lên”. Mưu toan gì mà lạ lùng vậy? Hạ bệ Nguyễn Cao Kỳ để chính mình đưa Nguyễn Cao Kỳ lên, phải chăng chỉ nhằm khuấy động cho tình hình nát bấy để dâng Miền Nam cho cộng sản?

– Miền Nam bị Miền Bắc xâm lăng bằng quân sự nên phải dựa vào sức mạnh của Hoa Kỳ để tồn tại. Dù kẻ nào ngu lắm cũng phải biết rõ điều đó. Tại sao các sư tranh đấu dưới sự chỉ đạo của Trí Quang cứ đòi đuổi Mỹ ra khỏi Miền Nam và ngưng chiến, hòa bình bất cứ giá nào mà không hề kêu gọi Miền Bắc rút “Bộ Đội Cụ Hồ” về bên kia vỹ tuyến để Miền Nam tự giải quyết vấn đề nội bộ? Người Mỹ đã bị các phe tranh đấu đòi tống cổ thì không có lý do gì họ phải ở lỳ để tốn người hao của. Họ đâu có cuốn gói bỏ đi ra khỏi các quốc gia đồng minh của họ như Đài Hàn, Nhật Bản?

Đọc bài “Đôi điều …” của ông Trần Kiêm Đoàn, tôi nhận thấy tác giả có luận điệu giống Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Phan và Việt Cộng Nguyễn Đắc Xuân. Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Phan chê Liên Thành là một Trưởng ty Cảnh sát tồi, kém khả năng cho nên Miền Nam thua cũng phải! Ông Trần Kiêm Đoàn chê Liên Thành là một Trưởng ty Cảnh sát tỉnh lẻ, là kẻ nói … phách tấu. Việt Cộng Nguyễn Đắc Xuân trong bài “Những bạo hành ở Tu viện Bát Nhã, xin giải thích giùm tôi” lên án chế độ Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo (Phật giáo) nên mới có phong trào tranh đấu bảo vệ đạo pháp; còn ông Trần Kiêm Đoàn cho rằng Liên Thành viết cuốn “Biến Động Miền Trung” là do sự hỗ trở mạnh mẽ của nhóm “Phù Ngô Phục Hận” đầy bản lĩnh đang đứng ở hậu trường (?!) Không rõ ông Trần Kiêm Đoàn căn cứ vào đâu để cáo buộc tác giả viết cuốn sách “Biến Động Miền Trung” là do sự chỉ đạo của chân tay Nhà Ngô đứng ở hậu trường?

Những thành phần tranh đấu ở Huế cho đến nay vẫn cương quyết buộc tội anh em nhà Họ Ngô đàn áp Phật Giáo để biện minh cho lý do làm loạn của họ. Vì thời cuộc, vì kém nhận thức, năm 1963 tôi cũng nghĩ chế độ Ngô Đình Diệm chủ trương gia đình trị, chèn ép Phật giáo. Tuy không trực tiếp nhúng tay vào việc lật đổ chế độ, nhưng anh em tôi đã cho ông Trần Quang Thuận “tỵ nạn” trong nhà ở 57 D Tú Xương, Sàigòn sau khi ông Thuận lái xe chở Hòa thượng Quảng Đức ra góc đường Lê văn Duyệt – Phan Đình Phùng tưới xăng châm lửa hỏa thiêu Hòa thượng Quảng Đức, lúc ông Thuận bị nhà cầm quyền săn bắt. Ông Trần Quang Thuận – hiện ở Hoa Kỳ – pháp danh Trí Độ (lâu ngày tôi chẳng biết tôi có nhớ đúng pháp danh không) con rể cụ Tôn Thất Hối và em rể bác sĩ Tôn Thất Niệm, từng nằm cạnh giường tôi ở nhà ông anh tôi trong thời gian trốn tránh công an cảnh sát. Ai cũng có thể kiểm chứng với ông Trần Quang Thuận về chi tiết vừa nêu. Thuật lại điều này để độc giả hiểu rằng tôi là một Phật tử, từng ủng hộ những người chống chế độ Ngô Đình Diệm.

Qua nhiều biến cố xảy ra trên Đất Nước sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, tâm tư lắng đọng, có thời giờ nhìn lại giai đoạn lịch sử vừa qua, tôi thật tình hối hận và thương xót cho số phận của nhà ái quốc Ngô Đình Diệm cùng gia đình. Ông Diệm được vua Bảo Đại trao cho trách nhiệm lãnh đạo Miền Nam vào một thời điểm cực kỳ khó khăn, trong khi Miền Bắc đang ca khúc khải hoàn nhờ âm vang chiến thắng Điện Biên Phủ được thế giới – nhất là thế giới thứ ba – khâm phục. Anh em ông Diệm không có cán bộ của riêng mình, họ phải sử dụng viên chức hành chánh, quân sự, công an cảnh sát do thực dân Pháp đào tạo để lại, phần lớn kém khả năng chuyên môn và ý thức “quốc gia – cộng sản” rất mù mờ. Thủ đô Sài Gòn là một xã hội đen do bọn ma cô, tướng cướp của sòng bạc Đại Thế Giới và ổ điếm Bình Khang lộng hành. Ông Diệm cử Tướng Nguyễn văn Hinh – một người có quốc tịch Pháp – làm Tổng Tham mưu trưởng thì ông Hinh đã trả lời một cách hỗn láo: “Tôi không thèm nhận, vì tôi không biết ông là ai”. Trong khi ấy lực lượng giáo phái Bình Xuyên, Hòa Hảo chống anh em ông Diệm bằng vũ trang thì buộc lòng anh em ông Diệm phải ra tay đánh dẹp. Mặt khác, chiếu theo thỏa ước Genève, phe quốc gia phải rút về phía Nam vĩ tuyến 17 và phe cộng sản phải rút về phía Bắc vĩ tuyến 17, nhưng trong thực tế thì cộng sản chôn dấu vũ khí và cài cán bộ của chúng vào các hạ tầng cơ sở để chuẩn gây chiến tranh khuynh đảo. Tất nhiên ông Diệm phải phát động phong trào Tố Cộng để thanh lọc hàng ngũ “Quốc – Cộng”, thì không sao tránh khỏi bị những thuộc cấp xấu lạm dụng quyền thế, gây oan ức, phẫn nộ trong nhân dân. Tiếng ác do bộ máy tuyên truyền của cộng sản cứ gieo vào gia đình ông Diệm khiến cho quần chúng dễ tin vào sự đồn đãi vô tội vạ. Cho nên mới có lời truyền khẩu vô bằng: “Ngô Đình Diệm kéo lê máy chém khắp Miền Nam để chém đầu cộng sản” mà một người từng đặt chân từ Bến Hải đến Cà Mâu như tôi chưa hề thấy hình thù cái máy chém ra sao cả. Chưa hết, đối thủ chính trị (quốc gia và cộng sản) còn đồn đãi ông Diệm thông dâm với cô em dâu lăng loàn là bà Trần thị Lệ Xuân, vợ của Ngô Đình Nhu để triệt hạ uy tín đạo đức của ông Diệm. Bà Trần thị Lệ Xuân sinh năm 1925 trở thành góa phụ lúc mới 38 tuổi tràn đầy nhựa sống, bà đã sống cuộc đời thầm lặng thờ chồng nuôi con cho tới hôm nay, chứ không như bà Jacqueline Kennedy vội lấy ông già tỉ phú Artistotle Onassis (với mục đích moi tiền) mà gần đây có tác giả thân cận dòng họ Kennedy còn tiết lộ mối quan hệ luyến ái của bà Jacqueline Kennedy có với ông em chồng – Robert Kennedy.

Cục diện chính trị xã hội Miền Nam, phe mệnh danh là phe Quốc Gia nát bấy như tương như thế thì làm sao có nhân vật nào đủ khả năng ổn định để thi hành Tổng tuyển cử thống nhất đất nước? Miền Bắc tố cáo ông Diệm vi phạm thỏa ước Genève, mà lại có những phần tử ở Miền Nam phụ họa theo luận điệu kẻ thù là điều vô cùng bất công. Ông Diệm đã tổ chức cuộc di cư vĩ đại thành công, định cư cho một triệu người, vãn hồi an ninh trật tự, xây dựng những đổ nát hoang tàn sau chiến tranh, thiết lập một nền giáo dục nhân bản, khai phóng. Trong khi ở Miền Bắc, Hồ Chí Minh vâng lệnh Trung Cộng thi hành nhiều chính sách tàn bạo dã man chưa từng thấy trong lịch sử nước nhà.
Có phải chủ trương của chế độ Ngô Đình Diệm là dành đặc quyền cho Công Giáo và triệt hạ các tôn giáo khác? Đức Cha Lê Hữu Từ, người xây dựng khu tự trị Bùi Chu Phát Diệm, sau 1954 vào Nam yêu cầu ông Diệm cho phép giữ lại bộ phận quân sự của Đức Cha thì bị ông Diệm từ chối, vì ông Diệm quan niệm rằng Quân Đội phải được thống nhất, chiến đấu dưới ngọn cờ Quốc Gia duy nhất do một vị Tổng Tư Lệnh chỉ huy. Dưới thời ông Diệm, các chùa chiền được trùng tu, các khuôn hội Phật Giáo và hệ thống trường Bồ Đề được phát triển tự do, không hề bị hạn chế. Giả dụ ông Diệm là một Phật tử, chắc chắn cộng sản sẽ dùng Công Giáo để đánh đổ, bởi vì gây chia rẽ tôn giáo là một thế võ làm cho đối phương khó chống đỡ nhất. Do kinh nghiệm thành công trong cuộc xâm lăng Miền Nam nhờ vận dụng tôn giáo, bọn cộng sản cầm quyền ngày nay cương quyết “nhốt” tất cả các đoàn thể tôn giáo vào Mặt Trận Tổ Quốc (một loại nhà tù trá hình). Dù trong quá khứ Nhất Hạnh đã ra sức làm tay sai cho cộng sản, thì ngày nay tăng thân của Thiền Sư vẫn bị cộng sản hành hạ, đánh đập như thường. Ma vương, qủy sứ không bao giờ chấp nhận tôn giáo. Chúng chỉ dùng tôn giáo cho mục đích gian tà của chúng mà thôi!

Người ta thường nói “Hãy để lịch sử phán xét”. Chế độ Ngô Đình Diệm đã sụp đổ 46 năm rồi. Thời gian trôi qua đã đủ dài để phán xét một cách vô tư, công minh. Tôi nghĩ rằng ông Ngô Đình Diệm là một nhà ái quốc chân chính, luôn luôn đặt chủ quyền Đất Nước lên trên danh vọng, mạng sống của mình. Năm 33 tuổi, ông Diệm được vua Bảo Đại phong làm Thượng thư Bộ Lại (chức Thủ tướng ngày nay), muốn cải tổ đường lối cai trị nhưng bị người Pháp không bằng lòng, ông đã xin phép vua rút lui. Không chấp nhận yêu sách của Hoa Kỳ đưa quân vào nước mình, ông Diệm và hai người em đã bị giết. Trong khi ở Miền Bắc, Hồ Chí Minh cứ cúi đầu thi hành những mệnh lệnh của Quốc tế Cộng sản dù phi nhân, dù thiệt hại quyền lợi xứ sở đến đâu. Bằng chứng rõ ràng nhất còn lưu lại hậu thế là Hồ Chí Minh ra lệnh cho Phạm văn Đồng viết văn thư nhìn nhận Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ của Trung Cộng.

Ông Ngô Đình Nhu là người mưu trí, đọc nhiều sử sách, chắc chắn ông phải biết Hồ Chí Minh đã từng ký thỏa hiệp với Thực dân Pháp chấp nhận kẻ thù trở lại Đông Dương, nhằm rảnh tay tiêu diệt các đảng phái quốc gia yêu nước, thì ông Nhu cũng có thể khuyên anh mình thỏa hiệp với Hoa Kỳ chấp nhận cho Hoa Kỳ đưa quân vào Việt Nam để rảnh tay tiêu diệt những phần tử đội lốt tôn giáo gây bạo loạn. Nhưng anh em ông Diệm đã không làm, vì sợ ô danh với lịch sử về cái tội nô lệ ngoại bang! Giả sử ông Diệm chấp nhận yêu sách của Hoa Kỳ thì dù có đến mười ông Trí Quang cũng không thể lật đổ chế độ, vì các Tướng không được Hoa Kỳ bỏ tiền ra mua để tạo phản.

Ngày nay Cộng Sản Việt Nam dành mọi đặc quyền cho Trung Cộng khai thác tài sản Đất Nước mà bất cứ người dân nào có lời nói, hành vi chống lại Trung Cộng đều bị đánh đập, cầm tù. Chủ quyền của Đất Nước ta nay đã bị rơi vào tay kẻ thù truyền kiếp! Đó là thành quả tranh đấu của Trí Quang và băng đảng sau bao năm gây rối ở Miền Nam!

Nhắc lại công lao với Đất Nước của Tổng thống Ngô Đình Diệm, mong độc giả đừng nghĩ rằng tôi muốn làm sống lại nền Đệ Nhất Cộng Hòa – một nền Cộng Hòa bị thọ địch tứ bề. Điều tôi muốn nói với thế hệ trẻ rằng quyền lợi Tổ Quốc (chủ quyền Quốc Gia) là trên hết, hãy noi gương người xưa, dù phải hy sinh tính mạng cũng phải gìn giữ cho bằng được, bởi vì không có dân tộc nào, ngoại bang nào yêu thương mình cả! Chỉ có cách duy nhất là đoàn kết với nhau để tồn tại. Tấm gương lịch sử cận đại còn đó. Nguyễn Phúc Ánh nhờ sức mạnh của người Pháp lật đổ nhà Tây Sơn để thống nhất Đất Nước, cuối cùng Đất Nước rơi vào sự đô hộ của Thực dân Pháp. Hồ Chí Minh mượn khí giới Nga Tầu để thống nhất Đất Nước, cuối cùng Đất Nước rơi vào tay Trung Cộng. Công lao thống nhất Đất Nước không bằng cái tội đưa trăm họ vào sự nô lệ ngoại bang. Anh em trong nhà hãy tự giải quyết sự xung đột với nhau, đừng mượn tay người ngoài.

Nhờ đọc bài của ông Trần Kiêm Đoàn ca tụng, tán dương người cán bộ trí vận, tôn giáo vận cộng sản Võ Đình Cường mà tôi mới biết xu hướng thân cộng của tác giả để cảnh giác. Nếu cứ tin vào người có bằng cấp Tiến sĩ thông hiểu giáo lý Phật giáo, có văn tài như ông Đoàn thì một tín đồ Phật giáo như tôi rất dễ rơi vào bến mê bởi vọng ngữ của tác giả. Cuốn sách của Liên Thành sẽ còn gây nhiều tranh cãi, vì đụng đến các Sư tranh đấu, mặc dầu tác giả là cháu của Ngài Tăng thống Tịnh Khiết. Ngay cả Hoàng tộc Nguyễn Phúc cũng khai trừ Liên Thành, nhưng chưa bao giờ lên tiếng khai trừ một người nào trong Hoàng tộc đi theo cộng sản để tạo nên một xã hội tồi tệ như hôm nay. Sùng đạo là một điều qúy hóa, nhưng không nên mù quáng bảo vệ những kẻ đội lốt tôn giáo để cho cộng sản thống trị giống nòi. Vì cộng sản là qủy sứ, là ma vương.

Tôi mong ông Đoàn đừng nối gót Võ Đình Cường từng mượn mầu tôn giáo để cho cộng sản thống trị, vì tình trạng Đất Nước Việt Nam mình ngày hôm nay ra sao thì ông cũng đã thấy rõ rồi! Xin lặp lại một lần nữa: Cộng Sản là tai họa ghê gớm cho dân tộc Việt Nam!

Bằng Phong Đặng văn Âu, ngày 20 tháng 11 năm 2009



Sunday, November 22, 2009

Tài Liệu Của Đảng Việt Gian Cộng Sản Việt Nam

Kính mời sinh viên và các quý vị trí thức khác xem tài liệu mật của chính quyền cộng sản Việt Nam để thấy rõ chính quyền này tôn trọng quý vị và nhân dân đến mức nào. Tất cả mọi nỗ lực phê bình chế độ đều không thể nào nói rõ được bản chất của chế độ bằng chế độ tự bộc lộ bản chất của chính mình.

    Tài-liệu Mật của Việt Cộng Báo cáo trong cuộc họp mặt kiều vận
Nguyễn Tâm Bảo
Source: http://www.trachnhiemonline.com/dien-dan-55-quocviet.htm

Lưu trữ theo chế độ tài liệu tuyệt mật.

Thưa các đồng chí,

Đảng quang vinh của chúng ta muốn tồn tại và phát triển, giữ vai trò là đảng tiên phong và duy nhất lãnh đạo đất nước, thì có mấy mục tiêu quan trọng sau đây phải được quan tâm đúng mức:

1. Phải làm cho dân chúng vừa yêu vừa sợ.

Nếu không thể làm cho người dân yêu mến – điều mà tôi e là sự thật cay đắng cần chấp nhận – thì cũng phải tuyệt đối duy trì nỗi sợ hãi để họ không bao giờ có đủ ý chí mà nổi loạn.

2. Phải giữ cho cái gọi là 'phong trào dân chủ đối lập' không thể trở thành phong trào đúng nghĩa, không thể bén rễ và lan rộng. Phải làm sao để nó chỉ là hoạt động manh mún, rời rạc, tự phát của các cá nhân đơn lẻ; làm cho có nhiều 'lãnh tụ' mà ít hoặc không có quần chúng; có nhiều 'nhân sĩ trí thức' mà ít hoặc không có một tổ chức nào có thực lực; có nhiều những hoạt động lãng mạn hời hợt có tính phô trương – mà người dân có biết đến cũng chỉ mỉm cười ý nhị – chứ ít hoặc không có những hoạt động thiết thực có tầm mức ảnh hưởng sâu rộng đến xã hội; có thật nhiều những hoạt động 'chống cộng cực đoan' có tính chất phá hoại từ bên trong, gây phản cảm đối với người dân lao động, thậm chí làm cho những gia đình cách mạng và đội ngũ cựu chiến binh phẫn nộ… Tóm lại, phải làm cho người dân nếu không quay lưng thì cũng thờ ơ với cái gọi là 'đấu tranh dân chủ'. Cụ thể như thế nào thì tôi đã có dịp trình bày...

3. Phải chủ động trong việc nâng cao dân trí để làm bàn đạp mà phát triển kinh tế, nhưng lại phải lèo lái để 'dân trí cao' không đồng nghĩa với 'ý thức dân chủ cao'. Phải làm sao để chất lượng giáo dục bậc đại học được cải thiện nhưng đa số sinh viên phải trở nên thực dụng hơn, có tinh thần 'entrepreneurship' – khao khát tiền bạc và công danh, mạo hiểm và sáng tạo trong kinh doanh, cầu tiến trong sự nghiệp riêng, tôn thờ Bill Gates và chủ nghĩa tiêu thụ – nhưng đồng thời cũng tuyệt đối thờ ơ với những lý tưởng và hoài bão cải biến xã hội, xa lạ với những tư tưởng trừu tượng viễn vông, tìm kiếm những giải pháp cá nhân thay cho ý thức công dân, và đặc biệt là tránh xa âm mưu thay đổi chế độ.

4. Phải chủ động trong việc mở rộng xã hội dân sự, thuần phục và trung hòa giai cấp trung lưu đang lớn mạnh (gọi là 'co-optation' )…. Làm sao để trong mỗi tổ chức dân sự đều có chân rết của ta. Các tổ chức trung gian như mặt trận Tổ quốc, công đoàn, hội phụ nữ, các hội cựu chiến binh, các câu lạc bộ hưu trí … phải phát huy vai trò tối đa trong việc trung hòa những nhân tố nguy hiểm, điều hòa những xung đột nếu có giữa nhà nước và xã hội, giảm thiểu sự bất mãn của dân chúng… Làm sao để xã hội dân sự vẫn được mở rộng nhưng theo hướng có kiểm soát của chúng ta, chứ không trở thành mối đe dọa. Quan trọng hơn cả là chúng ta phải tiếp tục nuôi dưỡng nỗi sợ hãi – dù chỉ là nỗi sợ mơ hồ trong tiềm thức – nhưng đồng thời cũng không để cho nhân dân cảm thấy tuyệt vọng ...Cho dù người dân có bất mãn về chuyện này chuyện kia thì vẫn làm cho họ nuôi hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Và phải làm điều này một cách hết sức tinh vi, kiên nhẫn, đôi lúc phải can đảm cắt bỏ những khối u trong đảng để làm nguội bớt nỗi tức giận của nhân dân.

Trong trường hợp này thì việc thả Nguyễn Việt Tiến và việc bắt giam hai nhà báo là sai lầm. Lẽ ra chúng ta phải không tiếc một số ít các đồng chí tham lam quá mức, biến họ thành dê tế thần để giành lại niềm tin của nhân dân, hoặc ít nhất cũng làm họ giảm bất mãn, trong nỗ lực chống tham nhũng của chúng ta.

Một người bất mãn cực độ là một người nguy hiểm. Một người tuyệt vọng đôi khi còn nguy hiểm hơn. Một người lạc quan, nhiều hy vọng, thì thường cũng là một người dễ bảo, yêu chuộng sự ổn định và do đó không có ý định phản kháng. Chúng ta phải biết dùng mồi để nhử, đánh vào thói tham lam ích kỷ lẫn thói háo danh của người đời, vừa phải làm sao để tinh thần thực dụng và chủ nghĩa mánh mung chụp giật trở thành bản tính của dân tộc – vốn đã rã rời về ý chí, tan vỡ về niềm tin, chán ngán các loại ý thức hệ; nhưng đồng thời cũng phải chuẩn bị sẵn những cái van để dân chúng có chỗ giải tỏa ẩn ức.

Tuyệt đối không để sự bất mãn trong xã hội tích tụ lại vượt quá ngưỡng kiểm soát của chúng ta. Kiên quyết tiêu diệt mọi mầm mống có khả năng dẫn đến các loại hoạt động đối kháng có tổ chức, có sự phối hợp rộng rãi; tuyệt đối ngăn chặn khả năng huy động được đông đảo quần chúng tham gia.

Chúng ta phải nghiên cứu tất cả những tư tưởng gia vĩ đại trong việc chiếm đoạt quyền lực và duy trì vị trí độc tôn, từ Tôn Tử, Ngô Khởi, Trương Tử Phòng, Lý Tư và Mao Trạch Đông ở phương Đông, cho đến Machiavelli – tác giả cuốn cẩm nang 'The Prince' nổi tiếng ở phương Tây, thậm chí cả Napoleon, Hitler, Stalin hoặc Hugo Chavez thời nay. Tất cả đều có những điều rất đáng để chúng ta học hỏi, từ nghệ thuật mị dân cho đến những thủ đoạn cứng – mềmlinh hoạt trong việc đối phó với địch, và cả những sai lầm chiến thuật của các vị này.

Phải làm sao để chúng ta vẫn trấn áp được đối lập dân chủ, nhưng vẫn không làm sứt mẻ quan hệ ngoại giao đang ngày một tốt hơn với Hoa Kỳ và phương Tây – vốn là những kẻ đạo đức giả, duy lợi và thực dụng nhưng thích rao bán tấm áo 'dân chủ tự do' cùng với những khẩu hiệu cao đẹp khác.

Tuy nhiên, chúng ta cần phải khái quát những luận điểm của Machiavelli để có thể áp dụng cho một chế độ, một đảng phái có cơ cấu phức tạp, chứ không phải là một nhà độc tài quân phiệt giản đơn. Một nhà độc tài dù tàn độc đến đâu, ranh ma đến đâu, thì cũng chỉ là một kim tự tháp trên sa mạc, tĩnh lặng và không tiến hóa – nên trước sau cũng sẽ để lộ sơ hở chết người. Nhưng một đảng chuyên quyền thì luôn luôn biến động, thay đổi và lớn lên không ngừng; biết bù đắp khiếm khuyết, che dấu yếu điểm, phô trương sức mạnh một cách vô cùng linh động… và đặc biệt có đủ tài lực và nhân lực để lan tỏa chân rết đến mọi ngõ ngách của xã hội, kiểm soát cả dạ dày lẫn linh hồn của nhân dân.

Bác Hồ (hay có thể là bác Lê Nin) đã dạy: người cách mạng phải không ngừng học hỏi, học từ nhân dân và học từ kẻ địch; phải không ngừng tiến hóa về mặt tư duy lẫn thủ đoạn để sống sót mà vươn lên trong bất cứ hoàn cảnh nào; phải luôn uyển chuyển và linh động để sẵn sàng thay máu đổi màu khi cần thiết, thậm chí sẵn sàng đào thải cả những đồng chí quá tham lam và ngu dốt có hại đến lợi ích chung của đảng. Đối với địch thủ thì phải thiên biến vạn hóa, ranh ma tàn độc đủ cả và đặc biệt phải biết dùng hình nộm kết hợp với thủ đoạn đấu bò tót kiểu Tây Ban Nha để thu hút ám khí và sừng bò của đối thủ.

Trong lúc đối thủ tiêu hao lực lượng vì đánh vào những hình nộm rơm, hoặc phung phí thời gian và sức lực vào những mục tiêu viễn vông, thì chúng ta lạnh lùng quan sát, phân tích thấu đáo địch tình, ra đòn bất ngờ và hợp lý để địch chết không kịp ngáp ... Đặc biệt chúng ta ngầm khuyến khích những hành động tự sát theo kiểu 'không thành công cũng thành nhân' – tất nhiên là phế nhân. Chúng ta cũng phải biết lắng nghe những phê phán của địch thủ mà thay đổi cho thích hợp. Kẻ đối địch luôn có những bài học quí giá mà chỉ có những người bản lĩnh và khôn ngoan mới nhìn ra. Nếu kẻ địch lãng mạn viễn vông với những khẩu hiệu trừu tượng như 'dân chủ', 'nhân quyền', 'tự do' … thì chúng ta phải thực tế với những tiêu chí cụ thể như 'ổn định xã hội', 'tăng trưởng kinh tế', 'xóa đói giảm nghèo'….

Nếu kẻ địch hô hào những điều khó hiểu du nhập từ phương Tây như 'đa nguyên', 'đa đảng', 'pháp trị', 'khai phóng' thì chúng ta phải tích cực cổ vũ mô hình Nhân Trị của đấng Minh Quân – nhưng ở đây Minh Quân phải được hiểu là đảng cộng sản – cũng như đề cao những 'giá trị Á châu' một cách khéo léo.

Phát Huy dân chủ cơ sở - tập trung. Chúng ta cũng phải phát huy 'dân chủ cơ sở', 'dân chủ tập trung', 'dân chủ trong đảng' để làm sao cho dân thấy đảng không phải là cái gì đó cao xa vời vợi, mà đảng cũng là dân, ở ngay trong dân, từ dân mà ra, đã và đang đồng hành cùng với dân.

Phải cho dân thấy là nếu đảng có xe hơi thì dân cũng có hon đa – chứ không phải đi bộ; nếu đảng có đô la thì dân cũng có tiền in hình Bác đủ tiêu xài – chứ không quá túng thiếu; nếu đảng có cao lương mỹ vị thì dân cũng có gạo ăn – không chết đói mà còn dư thừa để đem xuất khẩu.

Đặc biệt là phải tích cực tuyên truyền và giải thích để người dân hiểu được ý nghĩa của 'dân chủ' theo cách có lợi cho chúng ta: 'dân chủ' nghĩa là đảng luôn lắng nghe dân, phản ánh ý nguyện của dân (phần nào thôi) qua những chính sách vĩ mô và vi mô, thỏa mãn niềm tự ái của dân vì được dạy dỗ đảng, cũng như kích thích lòng tự hào dân tộc của dân để hướng nó vào những kẻ thù mơ hồ dấu mặt ở bên ngoài.

Đối thủ của chúng ta thường lãng mạn và nhiều nhiệt tình nhưng ít chịu học hỏi, hoặc nếu có học thì chỉ qua quýt đủ để thuộc lòng những khẩu hiệu trừu tượng như 'nhân quyền', 'dân chủ' rồi nhai đi nhai lại làm dân chúng phát nhàm. Nói chung, đối thủ của chúng ta thường chỉ biết đến một số cuốn cẩm nang về dân chủ có ngôn từ rất kêu, rất đẹp, nhưng nghèo nàn về phương pháp thực tế, lẫn lộn giữa cứu cánh và phương tiện ...

Ngược lại, chúng ta cần phải tích cực nghiên cứu sâu sắc những trước tác của các học giả phương Tây về khoa học chính trị và kinh tế học. Chúng ta phải nhận thức được đã có rất nhiều những nghiên cứu khoa học về mối quan hệ biện chứng giữa 'thể chế chính trị' và 'phát triển kinh tế'. Hai phạm trù 'dân chủ' và 'phát triển' có quan hệ hết sức phức tạp, phi tuyến, chứ không phải là quan hệ nhân – quả. Nghiên cứu kỹ về vấn đề này sẽ rất có lợi cho chúng ta trong việc chủ động phát triển kinh tế mà không cần phải 'dân chủ hóa'.

Chúng ta cũng phải nhìn nhận một thực tế là: phát triển kinh tế làm phát sinh một số yếu tố hiểm nguy cho chế độ. Tuy nhiên, điều này còn tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, tùy thuộc vào khả năng 'tháo ngòi nổ' của chúng ta, cũng như khả năng khai thác những yếu tố hiểm nguy này của đối lập dân chủ. Chẳng hạn, học giả Daron Acemoglu của đại học MIT danh tiếng đã có nhiều phân tích về 'nguồn gốc kinh tế của các chế độ độc tài và dân chủ'. Trong đó ông đã chỉ ra rằng phát triển kinh tế kèm theo việc phân bố của cải vật chất một cách tương đối công bằng, đồng thời với việc nới lỏng một cách chừng mực những tự do dân sự, thì bất mãn của xã hội sẽ không quá cao, do đó hoàn toàn có thể duy trì chế độ độc tài mà vẫn thúc đẩy kinh tế phát triển. Đó là trường hợp của Singapore, điển hình của một nhà nước độc tài sáng suốt. Một ví dụ nữa là những nghiên cứu của Bruce Bueno de Mesquita, đã chỉ ra cho chúng ta những kinh nghiệm quí báu trong việc đàn áp cái gọi là 'coordination goods', tức là những yếu tố vốn không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, nhưng nếu được vận dụng bởi đối lập dân chủ thì lại trở thành những vũ khí đáng sợ. Đó là nghệ thuật 'đàn áp có chọn lọc’ mà tôi đã có dịp phân tích.

* Giới trẻ và sinh viên học sinh

Một kết quả bất ngờ mà theo tôi cũng là một kinh nghiệm quí trên mặt trận tuyên truyền nhồi sọ: việc chúng ta bắt ép sinh viên phải học tập chủ nghĩa Marx – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã đem lại những kết quả ngoài mong ước. Thành công của chúng ta không phải đã đạt được mục đích ban đầu là làm cho thế hệ trẻ tôn thờ thứ chủ nghĩa mà ngay cả chúng ta cũng không tin. Ngược lại, thành công của chúng ta là đã làm cho thế hệ trẻ chán ngán đến tận cổ khi phải học mãi một thứ ý thức hệ lỗi thời, bị nhồi nhét đến phản cảm những tư tưởng cũ kỹ. Nhờ vậy chúng ta đã đào tạo ra một thế hệ trẻ thờ ơ vô cảm với tất cả các loại tư tưởng và ý thức hệ, chai sạn với lý tưởng và hoài bão mà thanh niên thường có, trở nên thực dụng và ích kỷ hơn bao giờ hết.

Thế hệ trẻ hôm nay, ngoài cái đức tính thực dụng và tinh thần chụp giật, cũng như niềm khao khát tiền bạc, công danh, ám ảnh bởi chủ nghĩa hưởng thụ, thì chỉ còn le lói 'tinh thần dân tộc' vẫn còn sót lại trong máu huyết của mỗi người Việt.

Đây là con dao hai lưỡi, là con giao long đang nằm yên, mà chúng ta cần phải biết lèo lái một cách khôn ngoan để không xảy ra một tiểu Thiên An Môn ở Ba Đình.

Dưới chế độ chuyên chế nào cũng vậy, sinh viên và trí thức trẻ luôn luôn là những kẻ nguy hiểm nhất, là ngòi nổ của quả bom, là kíp mìn hẹn giờ, là hạt nhân của các phong trào đấu tranh. Các cuộc cách mạng nhằm lật đổ chế độ độc tài bao giờ cũng do sinh viên và trí thức dẫn đầu; công nhân, nông dân, và các tầng lớp lao động khác chỉ là sức mạnh cơ bắp.. Chỉ có trí thức và sinh viên mới đủ lý luận để huy động được đông đảo quần chúng, mới có lý tưởng để dấn thân, và mới có khả năng tổ chức và phối hợp.

Triệt tiêu được những phong trào sinh viên, cô lập được những trí thức phản kháng, chính là đánh vào đầu não chỉ huy của địch. Những thứ còn lại như 'dân oan biểu tình', 'công nhân đình công'… chỉ là cơ bắp của một cơ thể đã bị liệt não.

Như trên đã nói, chúng ta đã thành công trong việc làm cho sinh viên trở nên lãnh cảm về các loại ý thức hệ, thờ ơ với những tư tưởng tự do khai phóng từ phương Tây. Chúng ta chỉ còn phải đối phó với tinh thần dân tộc của sinh viên đang có nguy cơ thức dậy, mục đích là để nó ngủ yên, nếu không phải lèo lái nó theo hướng có lợi cho chúng ta.

* Trí thức

* Đối với tầng lớp trí thức, những biện pháp 'vừa trấn áp vừa vuốt ve' từ xưa đến nay đã đem lại kết quả khả quan. Chúng ta đã duy trì được một tầng lớp trí thức hèn nhát, háo danh, và nếu không quá ngu dốt thiển cận thì cũng chỉ được trang bị bởi những kiến thức chắp vá, hổ lốn, lỗi thời.

* Nói chung, đa số trí thức của chúng ta đều hèn, đều biết phục tùng theo đúng tinh thần 'phò chính thống' của sĩ phu xưa nay. Phần lớn những kẻ được coi là trí thức cũng mang nặng cái mặc cảm của việc học không đến nơi đến chốn, ít có khả năng sáng tạo, và so với trí thức phương Tây về cả tri thức lẫn dũng khí đều cách xa một trời một vực.

* Trí thức của chúng ta vẫn mãi mãi giữ thân phận học trò, kiểu sĩ hoạn mơ ước được phò minh chủ, hanh thông trên đường hoạn lộ, chứ không bao giờ vươn lên thành những nhà tư tưởng lỗi lạc.

* Tầm mức ảnh hưởng của trí thức đến xã hội không đáng kể, không dành được sự kính trọng từ các tầng lớp nhân dân, thậm chí còn bị người đời khinh bỉ bởi sự vô liêm sỉ và thói quen ném rác vào mặt nhau.

* Chỉ có một số ít trí thức vượt qua được cái vỏ ốc hèn nhát, nhưng thường là quá đà trở nên kiêu ngạo tự mãn, coi mình như núi cao sông sâu, là lương tâm thời đại. Những người này quả thật có dũng khí, nhưng cũng không đáng sợ lắm bởi đa phần đều có tâm mà không có tài, có đởm lược mà ít kiến thức.

* Đa phần trong số này cũng chỉ đến khi về hưu mới thu gom được dũng khí mà ra mặt đối đầu với chúng ta, do đó sức cũng đã tàn, lực cũng đã kiệt. Một số ít trẻ trung hơn, nhiệt huyết còn phương cương, thì lại chưa có kinh nghiệm trường đời, chưa được trang bị lý luận chu đáo, chưa có kiến thức về dân chủ sâu rộng. Với những kẻ này chúng ta đàn áp không nương tay, bỏ tù từ 3 đến 7 năm. Đó là phương cách giết gà từ trong trứng.

Thử tượng xem một tài năng trẻ phải thui chột những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời trong lao tù, cách ly với môi trường học vấn, gặm nhấm nỗi cô đơn thay cho việc học hành nghiên cứu, thì sao có thể phát triển hết khả năng? Khi ra tù thì cũng đã quá tuổi trung niên, mệt mỏi, chán chường. Nếu vẫn còn dũng khí thì cũng đã tụt hậu về kiến thức, bị trì néo bởi gánh nặng gia đình, còn làm gì được nữa?

Với những phân tích như trên tôi cho rằng chế độ của chúng ta vẫn còn bền vững ít nhất thêm hai mươi năm nữa. Nhưng thời thế đổi thay. Chúng ta không thể kiêu ngạo mà tin rằng sẽ trường tồn vĩnh viễn. Chúng ta luôn học hỏi và thay đổi để sống còn và vươn lên, nhưng cũng nên biết rằng đối thủ của chúng ta có lẽ cũng không quá ngu ngốc.

Nếu kẻ địch cũng nhìn ra được mạnh – yếu của chúng ta, cũng biết tự đổi thay để thích nghi, cũng biết học cách đấu tranh có phương pháp, có tổ chức, có chiến lược thì chuyện gì sẽ xảy ra sau hai mươi năm nữa thật khó mà biết được.

Đó là một cuộc đua đường trường mà kẻ nào dai sức hơn, bền chí hơn, khôn ngoan hơn, thì sẽ đến đích trước.

Chúc các đồng chí chân cứng đá mềm và luôn nhớ lời dạy của Hồ Chủ Tịch:
'Khó khăn nào cũng vượt qua, Kẻ thù nào cũng đánh thắng'

Source: http://www.trachnhiemonline.com/dien-dan-55-quocviet.htm

Công Bố Tài Liệu Của Tổng Đài 911 Về Vụ Cảnh Sát San Jose Bắn Chết Daniel Phạm Một Người Việt Bị Bệnh Tâm Thần

Nguyễn Minh Tâm
dịch theo Mercury News ngày 16/11/09

TRƯỚC ÁP LỰC CỦA CÔNG CHÚNG VÀ CỘNG ĐỒNG THIỂU SỐ, hôm thứ Sáu tuần này, sở cảnh sát San Jose phải công bố nguyên văn tài liệu thu băng của tổng đài cấp cứu 911 về việc thân nhân của anh Daniel Phạm gọi vào nhờ cảnh sát can thiệp. Tài liệu này đã được Sở Cảnh Sát dấu kín, từ chối không cung cấp cho Bồi Thẩm Đoàn trong buổi điều trần tại toà án trước đây.

Tài liệu ghi âm được chuyển sang văn viết dài gần 200 trang. Lần đầu tiên tài liệu đó cho thấy hai cảnh sát viên biệt phái đến xử lý vụ lộn xộn ở nhà anh Phạm đã được nhân viên tổng đài 911 báo cho biết rằng trước đây cảnh sát đã từng đến điạ chỉ trên để đối phó với một người bị bệnh tâm thần. Ngay sau khi xảy ra vụ bắn chết ông Daniel Phạm vào ngày 10 tháng Năm, giới chức cảnh sát nhất định nói rằng hai cảnh sát viên không hề biết anh Daniel Phạm là một người bị bệnh tâm thần.

Tài liệu vừa được công bố cũng cho thấy cảnh sát đối phó với một hoàn cảnh hết sức nguy hiểm, trong đó, anh Daniel Phạm đã cắt cổ người em trai, tự cắt cổ mình, sau đó, vung dao doạ đâm cảnh sát, khiến cho hai cảnh sát viên lâm vào thế phải dưạ hàng rào sân sau nhà để né tránh. Các cảnh sát viên đã bắn nạn nhân 12 phát. Sở Cảnh Sát nhấn mạnh rằng trong tình huống nguy kịch như vậy, việc bắn chết ông Phạm là điều không thể tránh được, kể cả trường hợp biết ông Phạm bị bệnh tâm thần.

Trong buổi họp báo hôm thứ Sáu, Trung Úy Cảnh Sát Rikki Goede, Trưởng Toán Điều Tra Những Vụ Giết Người nói rằng: “Các cảnh sát viên bắn chết ông Phạm để tự vệ, nhằm bảo toàn tánh mạng cho họ”.

Nhưng Luật Sư Richard Konda, thuộc Hội Luật Gia Á Châu, Asian Law Alliance nóí rằng: “Tôi hoàn toàn không đồng ý với lập luận đó của cảnh sát” bởi vì cảnh sát đã biết rõ bệnh trạng của ông Phạm, không thể làm gì để thay đổi căn bệnh được. Luật sư Konda lý luận: “Nếu biết một người nào bị vướng mắc bệnh tâm thần, chúng ta phải tìm cách đối xử khác đi. Người điên đâu còn lý trí sáng suốt để phản ứng như người bình thường.”.

Nhật báo Mercury News và cộng đồng thiểu số tìm cách buộc cảnh sát phải công bố cuốn băng thu âm của tổng đài 911 về vụ Daniel Phạm ngay sau khi tai nạn xảy ra. Nhưng Sở Cảnh Sát nói rằng họ không công bố cuốn băng bởi vì đó là tài liệu công chứng theo luật của tiểu bang California. Việc công bố tài liệu có thể gây phương hại cho việc điều tra, và vi phạm quyền riêng tư của những cá nhân liên quan đến nội vụ.

Cha của Daniel Phạm là một trong những người yêu cầu cảnh sát hãy công bố cuốn băng thu âm cho mọi người biết, bởi vì theo ông, cảnh sát biết rõ con trai của ông bị bệnh tâm thần, họ nên hành sử cách khác khi muốn can thiệp việc làm cuả con ông. Một số người trong cộng đồng đặt câu hỏi là không hiểu cảnh sát có cần phải bắn chết Daniel Phạm hay không. Trong buổi điều trần trước toà, Đại Bồi Thẩm Đoàn đã miễn truy tố hai cảnh sát Matthew Blackerby và Brian Jeffrey hồi tháng Mười, và hồi đầu tháng 11. Sau đó, một Ủy Ban của Hội Đồng Thành Phố lại bỏ phiếu yêu cầu hãy công bố thông tin trong cuốn băng của tổng đài 911.

Các báo cáo của cảnh sát được công bố hôm thứ Sáu trên website của thành phố trình bầy cho thấy một cảnh tượng dễ sợ, có máu đổ. Cảnh đó chứng minh cho thấy hai cảnh sát viên đã bị dồn vào sân sau nhà của họ Phạm, họ bị dồn vào thế kẹt phải bắn hạ nghi can, bởi vì một cảnh sát viên hiểu lầm rằng đồng bạn của ông đang bị nguy hiểm đến tính mạng.

Cảnh sát đầu tiên đến hiện trường vào khoảng 11 giờ 40 sáng tại căn nhà trên đường Branbury Way. Người nhận điện thoại ở tổng đài nói chuyện với một phụ nữ trẻ tuổi. Cô này đang ở trong một phòng ngủ khóa cửa lại, và một nguời hàng xóm đang đứng bên ngoài với người em trai bị thương. Họ nghe nói có chuyện xào xáo trong gia đình, và nghi can ở tình trạng “không kiềm chế đuợc' vì đương sự đang “say thuốc” (high on drugs), và đương sự đã tấn công một người khác bằng dao.

Khi nhân viên tổng đài nói chuyện với cô gái gọi số 911- cô này là bạn gái của cậu Brian Phạm, em trai của Daniel Phạm. Cô tổng đài hỏi cô gái rằng kẻ tấn công có bị rối loạn tâm thần hay không? Cô ta trả lời: “Tôi không biết. Tôi nghĩ hắn ta điên.” .

Nhân viên tổng đài 911 báo cáo với cảnh sát như sau: “Nghi can trong vụ này là Son Phạm. Son Phạm là một thanh niên người Việt ở tuổi trên 20. Người báo cáo nội vụ (RP: Reporting Party.) đang nói thì thầm trong điện thoại, bảo rằng nghi can đang bước ra khỏi phòng ngủ. Trong căn nhà này cũng có một người bị bệnh điên loạn (mã số 5150 có nghĩa là kẻ bị rối loạn tâm trí) – có liên quan đến Daniel Phạm – không rõ đó chính là người mà thân nhân đang báo cáo hay không?

Ghi chú: RP nghĩa là Reporting Party, tức người gọi điện thoại báo cáo. Sơn là tên Việt của Daniel Phạm, và 5150 là mật mã để chỉ người bị rối loạn tâm thần.

Về sau, một trong những người con của ông cha họ Phạm nói với điều tra viên rằng trước đây cảnh sát đã được cầu cúu đến nhà can thiệp hai lần vào năm 2007 vì thái độ khủng hoảng và rối loạn của Daniel.

Sự kiện đầu tiên hai cảnh sát viên trông thấy trong ngày là người em của Daniel Phạm, cậu Brian bị vết chém ở cổ, máu chảy đầm đìa..

Một điểm hết sức quan trọng là trong tài liệu công bố hôm thứ Sáu, có sự mâu thuẫn với sự khẳng định của phe phê bình hành động của cảnh sát. Một vài người trong gia đình họ Phạm khai rõ rằng họ đã nói với hai cảnh sát viên khi cảnh sát vừa mới tới là người thanh niên 27 tuổi Daniel Phạm là một người bị bệnh tâm thần, xin đừng bắn hắn ta.

Trong lúc đó, báo cáo của cảnh sát lại nói rằng người em của Daniel Phạm chỉ nói với cảnh sát rằng anh ta bị “say thuốc”, chứ không nói là anh ta bị bệnh tâm thần, điên loạn.

Anh ta khai rằng: “Cậu ta nói với cảnh sát người anh của cậu ta bị say thuốc(high on drugs), và anh âý đang cầm một con dao. Cậu ấy không biết rõ Daniel có bị say thuốc hay không, nhưng cậu nói với cảnh sát như vậy vì đó là lý do hay nhất cậu ấy có thể nghĩ ra để che chở cho người anh trai không bị cảnh sát bắn, và cậu nghĩ rằng chỉ cần báo với cảnh sát là anh của cậu đang say thuốc, và lại có con dao trong tay, như thế là cảnh sát sẽ hiểu.” .

Về sau, cậu ta khai với cảnh sát rằng cậu đang làm việc trên computer, người anh của cậu đi đến sau lưng, bẻ cổ cậu ta về phía sau lưng, rồi chém vào cổ cậu bằng dao.

Hai cảnh sát nhìn qua hàng rào cao 6 feet, có dây kẽm gai bảo vệ, họ trông thấy Daniel Phạm đang đứng trong sân sau của căn nhà. Cổ họng của anh ta cũng có máu chảy đầm đìa, rõ rệt vết thương do chính anh ta tự cứa cổ mình. Trên tay của anh ta còn cầm con dao dài khoảng 11 inches, còn tay kia thì cầm điếu thuốc lá đang cháy.

Hắn ta nhìn chòng chọc vào hai cảnh sát. Cảnh Sát Viên Blackerby thuật lại rằng trông anh Daniel Phạm lúc đó giống như một con tê giác ở thế sẵn sàng tấn công địch thủ.” .

Hai cảnh sát viên nhiều lần đòi Daniel Phạm phải bỏ con dao xuống. Daniel Phạm không nói gì cả. Sự thực thì theo lời cảnh sát viên anh Daniel Phạm không hề nói một tiếng nào kể từ lúc cảnh sát tới cho đến lúc anh ta bị bắn chết.

Hai cảnh sát viên bèn nghĩ ra một kế hoạch. Họ tách xa nhau ra, Blackerby di chuyển đi chỗ khác, dọc theo bờ rào. Jeffrey tìm cách chia trí Daniel Phạm bằng cách dụ anh ta đi về phía cảnh sát viên Jeffrey.

Vào lúc đó, Blackerby lấy súng Taser ra bắn vào Daniel Phạm. Một trong hai viên đạn Taser bắn trúng chân của Daniel Phạm. Viên đạn không làm Daniel ngã xuống. Daniel Phạm bèn tiến về phía Blackerby với con dao dơ cao lên khỏi đầu.

Sợ bạn mình gặp nguy hiểm, và tuy không trông thấy bạn vì vướng bóng cây, và hàng rào cản tầm nhìn, Jeffrey tìm cách leo qua hàng rào để nhảy vào sân sau nhà.

Đến bây giờ thì Daniel Phạm tiến về phía Jeffrey.

Blackerby nhảy vội vào sân sau nhà, anh ta lo ngại cho tính mạng của Jeffrey. Anh khai với điều tra viên như vậy.

Né tránh sợ bị Daniel Phạm đâm, hai cảnh sát viên lúc này ở vị trí sóng đôi, đâu lưng vào nhau. Daniel Phạm dơ con dao lên khỏi đầu, báo cáo ghi lại rằng Daniel định tấn công hai cảnh sát viên.

Lúc còn cách hàng rào khoảng 3 feet, cả hai cảnh sát viên cùng bắn ra một lượt. Họ bắn ra 14 viên đạn tổng cộng. Tất cả có 12 viên trúng người Daniel Phạm. Cậu ta ngã xuống – trên tay vẫn còn cầm con dao – Daniel cố gượng đứng dậy khi cảnh sáy hét lên yêu cầu anh ta buông vũ khí xuống.

Sau đó, Daniel Phạm ngã gục xuống. Một cảnh sát viên dùng cái xẻng để bứng con dao ra khỏi tay của Daniel.

Ít lâu sau, một cảnh sát viên đến hiện trường, đem theo loại súng đặc biệt bắn bằng đạn cao su, không làm chết người.

Kế đến, trong lúc cảnh sát viên, và nhân viên cứu thương tìm cách cứu Daniel Phạm, anh ta chết vào lúc 11 giờ 51 phút buổi sáng.

Sau khi nghe lại cuốn băng của tổng đài 911, đọc bản phúc trình của nhân viên khám nghiệm tử thi, và báo cáo của cảnh sát, ông Vinh Phạm 58 tuổi, làm nghề bán hàng sắt ở chợ trời Flea Market San Jose, nói rằng ông không thể hiểu được tại sao cảnh sát lại bắn chết đứa con trai của ông, một người bị bệnh tâm thần, điên loạn.

Ông nói: “Tôi đau lòng lắm. Tôi cảm thấy chúng tôi không được đối xử bằng công lý.”.

Nguyễn Minh Tâm dịch theo Mercury News ngày 16/11/09

Cháy nhà ra mặt chuột - Quan Thúy Vân

Quan Thúy Vân


"Cháy nhà ra mặt chuột" là câu ngạn ngữ từ xưa, ý nói chuột ẩn trong nhà không "thể" thấy được, tới khi nhà cháy chuột mới chạy ra. Nghĩa đen là như vậy, nhưng câu ngạn ngữ ấy chỉ nhắm vào nghĩa bóng mà thôi.

Chuột là loài động vật gậm nhấm, rất xấu, ăn bẩn, ỉa bẩn, đặc biệt mang nhiều mầm bệnh như bệnh dịch hạch có khi làm chết cả hàng triệu con người. Từ đó, nhiều cái xấu, cái bẩn, cái độc hại, cái ti tiện đều được mệnh danh là chuột, nào là đồ chim chuột, đồ chuột bọ, "ném chuột vỡ đồ quý", v.v.. Cái xấu nhất của chuột là lén lút và tàn hại nhất là gây bệnh truyền nhiễm.

Trước đây, khi dịch Cộng Sản (CS) đang hoành hành trên thế giới, hơn 100 triệu người chết vì CS, chưa kể đến hơn tỷ con người khổ cực trong các nước CS, chúng ta thường chỉ bọn CS là rắn độc, là lang sói, là hùm beo, v.v.. Nay chế độ CS đã tan; dầu vậy, tại các nước còn CS như Tàu, Cuba, và Việt Nam, Bắc Triều Tiên thì CS vẫn là lang sói. Ở trong nước, CS Việt Nam (CSVN) vẫn là lang sói đối với dân Việt Nam. Ở ngoài nước thì CSVN trốn chui trốn nhũi như chuột. Vậy, đối với đồng bào tị nạn, thì CS là chuột - Chuột dịch hạch - Loài chuột dịch hạch đó luôn lén lút đi truyền bệnh. Đồng bào tị nạn CS coi chừng! "Cháy nhà ra mặt chuột", câu chuyện ông Lê Hồng Long (LHL) tố cáo Ban Giám Đốc Đài Phát Thanh Việt Nam Hải Ngoại (BGĐ-ĐPTVNHN) giao du với Việt Cộng (VC). Sau lời tố cáo của ông LHL, ông Ngô Ngọc Hùng giám đốc đài công nhận ông có đi gặp VC với mưu toan chiêu hồi VC, và ông bà Dương Văn Hiệp (DVH) và Lưu Lệ Ngọc (LLN) đều công nhận có giao du tiệc tùng với VC cũng với mụch đích chiêu hồi VC, v.v..

Sự mâu thuẫn nào để ông LHL tố cáo BGĐ-ĐPTVNHN theo VC, tôi không biết. Tôi chỉ biết mâu thuẫn đó là một thứ mâu thuẫn "Cháy Nhà" để lòi "Mặt Chuột". Có lẽ ông LHL đốt cho "nhà cháy" để chuột lòi ra. Có lẽ thời gian để ông LHL chọn lựa cơ hội đốt nhà cũng lâu lắm. Điều này phải hỏi ông LHL.

Sau khi nhà đã cháy, chuột đã lòi ra thì BGĐ-ĐPTVNHN chửi bới phủ đầu ông LHL, đem cá nhân ông LHL ra bêu riếu. Hình thức đó có vẻ như hình thức "cả vú lấp miệng em" và "vừa đánh trống vừa ăn cướp". "Cả vú lấp miệng em" là vú lớn ấn vào miệng em không cho em khóc. Tiếc rằng ông LHL là đàn ông không có vú để lấp miệng em. Kể ra có vú cũng lợi thật. Còn "vừa đánh trống vừa ăn cướp" nhằm mục đích để người ta tưởng bọn đánh trống để bắt cướp chứ không phải bọn ăn cướp. Tiếc thay LHL chỉ có dùi trống mà không có trống!

Nhìn kỹ sự việc, theo tôi, sự mâu thuẫn "cháy nhà" đó rất có lợi cho người quốc gia chống cộng, và những người chống cộng phải phân biệt một bên là cá nhân ông LHL, một bên là BGĐ-ĐPTVNHN theo CSVN. Cá nhân LHL chúng ta không cần bàn tới, phải nhắm vào bọn giao du với CS để bình phẩm, để tìm giải pháp.

Trong khi trên Internet nhao nhao công kích và đặt nhiều nghi vấn về việc BGĐ-ĐPTVNHN giao du với VC thì bỗng nhiên ông Sơn Tùng, một nhà báo chống cộng kỳ cựu, lại lên tiếng bênh vực BGĐ-ĐPTVNHN qua bài "Từ Tiếng Súng Trần Văn Bé Tư Đến Chuyện Đài Phát Thanh Việt Nam Hải Ngoại". Thật là một việc quái lạ.

Đại khái ông bảo năm 1984, Trần Khánh Vân (TKV) tuyên bố Mỹ nên bang giao với VC để VC bớt đàn áp. Với lối tuyên bố đó, TKV bị ông Trần Văn Bé Tư (TVBT)quật một phát súng may sao TKV không chết. Nay đã 25 năm, CS vẫn đàn áp, ông TKV đã có cơ hội nhận ra sự sai lầm của mình. Còn, nay, 25 năm sau vật đổi sao dời, MỸ-Việt bang giao, người Việt từ trong nước và từ Mỹ qua lại với nhau .... “Người hùng” TVBT chắc cũng ăn năn và “thương” con người mà anh đã nhắm bắn 25 năm trước. Ở đây, ông Sơn Tùng mâu thuẫn và sai lầm: TKV đã nhận ra sự sai lầm của hắn thì tại sao Bé Tư phải ăn năn? TVBT chống bang giao, không biết phát biểu như thế nào, bèn mượn họng súng phát biểu dùm lập trường của ông ta cũng như ông Sơn Tùng dùng ngòi bút phát biểu lập trường chống cộng bấy lâu nay. Riêng việc Mỹ bang giao với CSVN là quyền của Mỹ; quyền đó không lay chuyển được lập trường TVBT; người Việt trong ngoài qua lại như đi chợ ..., không làm rung động được tình cảm của Bé Tư để Bé Tư thay đổi lập trường. Đã như vậy làm sao Bé Tư phải "ăn năn". Bé Tư thực sự là anh hùng không phải kiểu "anh hùng" của ông Sơn Tùng. Nếu như Trần Văn Bé Tư nhảy xuống sông chết hồi đó thì hẳn rằng Việt Nam đã có thêm một Phạm Hồng Thái nữa. Chỉ tiếc rằng tiếng súng của ông cộng hưởng tiếng tim đập của đồng bào tỵ nạn CS không phù hợp với luật pháp của Hoa Kỳ.

Riêng vấn đề ĐPTVNHN, ông Sơn Tùng bảo đó chỉ là "cái đỉnh của khối băng sơn". Nói như vậy, đúng! Vì là cái đỉnh băng sơn, chúng ta phải đập tan khối băng sơn để tràn ra sự thật ở đáy biển.

Ông Sơn Tùng bảo, có những người khác liên lạc với tòa đại sứ VC, vì lý do này hay lý do khác, mà không ai nói đến. Lớp người này như Tôn Thất Chiểu, Trương Hồng Sơn, Nguyễn Mạnh Hùng, v.v. là vì quyền lợi cá nhân họ, người tỵ nạn CS khinh khi nên không thèm nói đến một bọn: "Mang danh tỵ nạn ăn cơm Mỹ, Đuôi ngoắc lưng cong nịnh kẻ thù". Không thể nào so sánh bọn này với ĐPTVNHN vì ĐPTVNHN là cơ quan truyền thông, tiếng nói của họ sẽ ảnh hưởng đến tình cảm và lập trường của đồng bào tị nạn CS.

Bảo rằng họ đã hy sinh mười mấy năm qua và chưa tuyên truyền đi những bài nào của đối phương, hay làm hại đến tinh thần chống cộng của đồng bào tỵ nạn CS .... Điều đó không thể bào chữa cho hành động ám muội của BGĐ-DPTVNHN. Vì rằng tiền tích tốt không thể biện minh cho việc làm xấu hiện tại và biết đâu xây dựng tiền tích tốt như là một âm mưu cho một hậu quả phản bội dân tộc. Phạm Ngọc Thảo, Phạm Xuân Ấn, Huỳng Văn Trọng ... bày mưu diệt cộng, đem quân đánh cộng, té ra cuối cùng lộ mặt bọn chúng là CS gộc!

Bảo rằng BGĐ-DPTVNHN còn trẻ, còn là cừu non không hiểu gì về CS .... Xin thưa bọn họ không trẻ nữa, đã gần 60 cả rồi, họ không còn là cừu non nữa, họ đã từng cắt tóc cạo lông để làm len nhiều lần rồi. Không tin cứ hỏi ông bà Dương Văn Hiệp sẽ rõ. Giả sử họ còn trẻ thật thì họ phải tự hỏi tại sao họ ở trên nước Mỹ. Nếu bọn họ không biết thì cha mẹ họ phải biết, cha mẹ họ không biết thì ông nội họ phải biết! Không thể nại chuyện tuổi trẻ để che giấu việc làm phản bội dân tộc.

Bảo rằng buộc tội dễ, ném đá dễ, đúng! Đó là kiểu đấu tố của CS, còn đây đã rõ ràng giao du với CS thì buộc tội không có gì là khó, chỉ ném đá thì không nên. Mặc dầu những người muốn ném đá không tiềm ẩn tội ngoại tình nhưng vì bạo động không thích hợp với luật pháp Hoa Kỳ.

Qua hành động mờ ám của ĐPT-VNHN và qua bài viết của ông Sơn Tùng, người Việt Quốc Gia nghĩ gì? Nằm ngủ chăng? Ngáy như sấm chăng? Chúng tôi yêu cầu quý vị bô lão, quý anh chị thanh niên hãy trấn tay áo gióng trống rung chiêng lên án bọn giao du thân mật với quỷ đỏ hòng dẫn đường cho quỷ đỏ xâm nhập cộng đồng tỵ nạn CS.

Rất mong!

Quan Thúy Vân