Tuesday, November 10, 2009

OTTAWA KỶ NIỆM 20 NĂM SỤP ĐỔ BỨC TƯỜNG BÁ LINH VÀ CÔNG BỐ VIỆC XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN CỘNG SẢN - Trần Gia Phụng

Trần Gia Phụng

Chiều Thứ Hai 9-11-2009, tại Government Conference Center ở thủ đô Ottawa, Văn phòng thủ tướng Canada phối hợp với nhóm Tribute to Liberty, đã tổ chức Lễ kỷ niệm 20 năm sụp đổ bức tường Bá Linh và công bố dự án xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN tại thủ đô nước Canada.

Số người tham dự đông hơn so với dự tính ban đầu của Ban Tổ Chức, vì vậy ngoài khoảng 200 ghế ngồi, những người tham dự phải đứng chung quanh hội trường hoặc ngồi ngoài phòng tiếp tân. Đa số các bộ trưởng trong Hội đồng chính phủ và những dân biểu Quốc hội Liêng bang đã đến tham dự. Về phía dân sự, đông đảo nhất là cộng đồng người Canadian gốc các nước Đông Âu trước đây bị cộng sản thống trị. Riêng phái đoàn người Canadian gốc Việt Nam gồm 11 người trong đó có đại diện Liên Hội người Việt Ottawa (4 thành viên), đại diện Uỷ Ban Yểm Trợ Phong Trào Dân Chủ Quốc Nội Toronto (4 thành viên) và đại diện Hội Cựu Quân Nhân Ontario (3 hội viên).

Buổi lễ do thủ tướng Canada là Stephen Harper chủ tọa, bắt đầu lúc 2G.30 khi ông bộ trưởng Public Safety trong chính phủ Liên bang là ông Peter Van Loan, người điều khiển chương trình, công bố lý do buổi lễ. Bộ trưởng Peter Van Loan gốc người Estonia. Ông bà của ông bộ trưởng đã di cư sang Canada tỵ nạn cộng sản từ sau thế chiến 2.

Người khách đầu tiên được ông Peter Van Loan giới thiệu lên diễn đàn là đại sứ Cộng Hòa Liên Bang Đức, George Witschel. Vị đại sứ nói bằng ba ngôn ngữ Anh, Pháp và Đức, nhắc lại sơ lược ý nghĩa lịch sử của sự kiện nầy, nhất là việc thống nhất nước Đức trong hòa bình.

Diễn giả kế tiếp là Wladyslaw Lizon, chủ tịch Polish Canadian Congress (Nghị hội người Canadian gốc Ba Lan). Ông Lizon nhắc lại những kinh nghiệm của người Ba Lan, ông cảm ơn đất nước Canada đã mở rộng đón nhận di dân và ông đặc biệt cảm ơn chính phủ Harper đã đồng ý cho xây dựng Tượng đài Tưởng niện Nạn nhân Cộng sản tại thủ đô Ottawa.

Diễn giả chính của buổi lễ là thủ tướng Stephen Harper Ông nhấn mạnh đến sự quan trọng của việc bức tường Bá Linh bị sụp đổ ngày 9-11-1989, đã ảnh hưởng chẳng những Âu Châu mà toàn thế giới. Thủ tướng Harper đã long trọng công bố dự án xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN trước sự vỗ tay hoan hô của cử tọa. Tưởng cũng nên nhắc lại, trước đây, tại Hà Nội, Stephen thủ tướng Harper đã nói một câu hết sức nổi tiếng với nhà nước cộng sản Việt Nam, đại ý là chính phủ Canada không dùng nhân quyền để đổi lấy đồng dollar.

Chung quy, các diễn giả nói trên đều xoay quanh lịch sử, ý nghĩa việc bức tường Bá Linh sụp đổ mà báo chí đã viết đến. Lời thủ tướng Stephen Harper công bố dự án xây dựng tượng đài nạn nhân độc tài cộng sản được bà Alide Forstmani, gốc người Latvia, chủ tịch Hội đồng Quản Trị của Tribute Liberty trình bày chi tiết hơn khi bà lên diễn đàn, phát biểu ý kiến.

Bà nhắc lại việc hàng trăm triệu người đã chết vì ý thức hệ cộng sản, hàng triệu công dân Canada gốc là nạn nhân cộng sản độc tài hay thuộc những gia đình nạn nhân cộng sản độc tài, trong đó có một số người có mặt hôm nay trong hội trường nầy. Bà nói việc xây dựng Tượng đài Tưởng niệm Nạn nhân Cộng sản không phải chỉ để tưởng nhớ những người đã chết dưới chế độ cộng sản, mà còn để giáo dục, nhắc nhở các thế hệ kế tiếp về những tội ác của chế độc độc tài cộng sản. Bà cảm ơn chính phủ Canada đã chấp thuận dự án xây cất tượng đài tại thủ đô Ottawa.

Buổi lễ diễn ra rất trang nghiêm, kết thúc khoảng sau 4 giờ chiều cùng ngày sau khi toàn thể những người tham dự cùng đứng lên làm lễ chào quốc kỳ Canada. Đặc biệt sau buổi lễ, thủ tướng Stephen Harper đã mời tất cả những người trong hội trường ở lại. Thủ tướng ân cần vui vẻ chào hỏi và chụp hình chung với một số đại diện cộng đồng và quan khách tham dự.

Ở đây, tưởng cũng xin thêm Tribute to Liberty là một tổ chức thiện nguyện, nhằm phục vụ những người yêu chuộng tự do ở Canada và trên thế giới. Ban điều hành Tribute to Liberty gồm có một Hội đồng Quản trị và một Hội đồng Cố vấn. Hội đồng Quản trị hiện nay gồm bốn người Canadian gốc các nước Estonia, Ukraine, Latvia và Việt Nam, gia nhập với tư cách cá nhân chứ không phải là đại diện sắc tộc hay cộng đồng. Hội đồng cố vấn gồm đại diện của 17 cộng đồng các sắc dân Đông Âu, vùng Baltic, Nam Hàn, Trung Quốc và Cuba.

Ngoài ra, Hội đồng Quản trị Tribute to Liberty đang xúc tiến thành lập một Board of Patrons gồm những nhà đấu tranh dân chủ, những nhân vật uy tín được quốc tế biết đến trong những cộng đồng thuộc các quốc gia đã thoát ách cộng sản cai trị hay đang bị cộng sản cai trị.

Hiện nay, tổ chức Tribute to Liberty đang cố gắng thực hiện dự án xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN. Dự án đã được cơ quan National Capital Commission chấp thuận cho đặt tượng đài ngay tại thủ đô Ottawa. Địa điểm chính xác sẽ được thảo luận và quyết định sau.

Ban điều hành Tribute to Liberty đang còn kiện toàn tổ chức, tìm kiếm vùng đất tại thủ đô Ottawa để xây dựng tượng đài, và nhất là đang kiếm cách gây quỹ để đài thọ phí tổn. Dự án xây dựng tượng đài dự tính sẽ cần 1,5 triệu Gia kim. Tổ chức Tribute to Liberty kêu gọi toàn dân Canada, đặc biệt những người thuộc gia đình tỵ nạn cộng sản, dù ít dù nhiều, hãy tiếp tay với ban Xây dựng Tượng đài để có thể hoàn tất công trình thật ý nghĩa nầy.

Để thấy rõ tầm ý nghĩa lớn lao của của công trình xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN, chúng ta cần chú ý rằng tại Canada, ngoài những thổ dân bản địa Canada, đại đa số dân cư Canada đều là di dân đến từ bốn phương trời. Những đợt di dân đầu tiên đến từ Âu Châu vào cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Những đợt di dân từ giữa thế kỷ 20, đến từ các nước Đông Âu và từ Á Châu, có cùng một mẫu số chung, đều là những nạn nhân độc tài cộng sản, trong đó, đợt cuối cùng là những thuyền nhân (boat people) Việt Nam.

Các chế độ độc tài cộng sản trên thế giới đều có những nét giống nhau, mà Quốc hội Âu Châu họp ngày 25-1-2006 tại Strasbourg, một thành phố miền Tây bắc nước Pháp, đã ghi nhận như sau:

“Những chế độ toàn trị cộng sản từng cai trị ở Trung và Đông Âu trong thế kỷ qua, và hiện vẫn còn cầm quyền ở vài nước trên thế giới, tất cả (không ngoại trừ) biểu thị chân tướng của sự vi phạm nhân quyền tập thể. Những vi phạm nầy khác nhau tùy theo nền văn hóa, quốc gia và giai đoạn lịch sử, bao gồm cả những cuộc ám sát và xử tử cá nhân hay tập thể, gây chết chóc trong các trại tập trung, cho chết đói, đày ải, tra tấn, nô lệ lao động, và những hình thức khác về khủng bố thể xác tập thể, ngược đãi vì chủng tộc hay tôn giáo, vi phạm các quyền tự do lương tâm, tư tưởng và phát biểu, tự do báo chí và cả không đa nguyên chính trị.” (điều 2) (Nguyên văn: The totalitarian communist regimes which ruled in Central and Eastern Europe in the last century, and which are still in power in several countries in the world, have been, without exception, characterised by massive violations of human rights. The violations have differed depending on the culture, country and the historical period and have included individual and collective assassinations and executions, death in concentration camps, starvation, deportations, torture, slave labour and other forms of mass physical terror, persecution on ethnic or religious base, violation of freedom of conscience, thought and expression, of freedom of press, and also lack of political pluralism.)

Theo số liệu trong sách Le livre noir du communisme : crimes, terreur et répression, do Stéphane Courtois chủ biên, Edition Robert Laffont, S.A. Paris 1997, thì số nạn nhân của các chế độ cộng sản các nước trên thế giới có thể ước lượng như sau:
    Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa : 65 triệu

    Liên Xô : 20 triệu

    Cambodia : 2 triệu

    Bắc Triều Tiên : 1,5 triệu

    Việt Nam : 1 triệu

    Đông Âu : 1 triệu

    Afghanistan : 1,5 triệu

    Phi Châu : 1,7 tri ệu

    Nam Mỹ : 150,000
Đây chỉ là số liệu những người tử vong vì bàn tay sắt máu của cộng sản. Chắc chắn số nạn nhân bị bạo hành dưới chế độ chuyên chính độc tài toàn trị cộng sản trên thế giới lên đến hàng tỷ người. Vì sự vi phạm nhân quyền nặng nề của các chế độ cộng sản, nên dân chúng các nước bị cộng sản cai trị đã kiếm tất cả các cách bỏ nước ra đi tìm tự do, đến nỗi có một nhạc sĩ Việt Nam, ông Trần Văn Trạch, đã nói rằng “cây cột đèn cũng muốn ra đi ”.

Hiện nay, dân số Canada khoảng trên 32,000,000 người, trong đó có khoảng 8,000,000 người có nguồn gốc từ các nước bị cộng sản cai trị, nghĩa là 25% hay một phần tư dân số Canada, là những người tỵ nạn hay con cháu những người tỵ nạn cộng sản.

Nhìn vào bảng thống kê của Le livre noir du communisme: crimes, terreur et répression do Stéphane Courtois chủ biên, hai điều dễ nhận ra là:

1. Trong số các nước trên, còn lại 4 nước đang bị cộng sản thống trị là Trung Quốc, Bắc Hàn, Việt Nam và Cuba (trong nhóm Nam Mỹ).

2. Tất cả các sắc dân các nước trong bảng thống kê đều có mặt tại Canada.

Với một tỷ lệ dân số lớn lao thuộc thành phần tỵ nạn cộng sản hay con cháu những ngưòi tỵ nạn cộng sản tại Canada, việc xây dựng Tượng đài Tưởng niệm Nạn nhân Độc tài Cộng sản là một việc làm rất ý nghĩa đúng như bà Alide Forstmani đã phát biểu tại Ottawa nhân Lễ kỷ niệm 20 sụp đổ bức tường Bá Linh ngày 09-11-2009 là không phải chỉ để tưởng niệm những người đã chết dưới chế độ cộng sản, mà còn để giáo dục, nhắc nhở các thế hệ kế tiếp về những tội ác của chế độ độc tài cộng sản.

Xin mời quý đồng hương tìm hiểu thêm về công việc xây dựng TƯỢNG ĐÀI NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN qua web site: www.tributetoliberty.ca, và e-mail liên lạc với tổ chức Tribute to Liberty theo địa chỉ sau đây: info@tributetoliberty.ca.

Trần Gia Phụng
(Toronto, 10-11-2009)

Tôi Không Thể Im Lặng! - Huỳnh Quốc Bình

Huỳnh Quốc Bình

I. Tại sao tôi phải lên tiếng?:

"Nếu tôi im lặng trước những điều mà tôi cho là nghịch lý, bất thường thì tôi Huỳnh Quốc Bình (HQBình) không xứng đáng để nói thêm một lời nào nữa trên làn sóng của đài Việt Nam Hải Ngoại". Đó là lời tôi khẳng định trong bức thư tôi gửi cho Ban Giám Đốc (BGĐ) và các cộng sự viên của đài Việt Nam Hải Ngoại (VNHN) ngày 27-8-2009.

1. Nay tôi xin thêm một lần nữa công khai lên tiếng về hành động quá trớn của BGĐ đã để cho một số cộng sự viên của đài trắng trợn cướp diễn đàn "Chúng Ta và Thời Cuộc Hôm Nay" vào tối Thứ Ba ngày 22-9-2009, là chương trình do tôi điều hợp. Trên chương trình này, tôi đã thẳng thắn lên tiếng về việc ông Hồng Phúc - Lê Hồng Long tố cáo "đài Việt Nam Hải Ngoại giao du mật thiết với VC". Tiếng nói của tôi đã bị BGĐ bịt miệng ngay trên làn sóng. Kể từ ngày đó đến giờ, BGĐ đã hủy bỏ các chương trình do tôi trách nhiệm là "Chúng Ta và Thời Cuộc Hôm Nay""Đời Sống An Bình" và thay thế bằng các chương trình mới.

2. Điều mà tôi cho là trâng tráo nhất khi BGĐ đã dở trò vu khống ngược lại tôi. Họ cho rằng tôi tự ý tạo ra điều nầy "để vu khống BGĐ". Ngay ngày hôm sau, 23-9-09, trên chương trình sửa xe của ông Kim, ông ta đã trịch thượng cho rằng tôi và ông Hồng Phúc "thi hành nghị quyết 36 của VC, muốn phá hoại đài VNHN". Riêng bà Liên Bích (Dallas TX) cũng có nhiều lời xách mé với tôi mà tôi không được nói một lời biện bạch.

3. BGĐ đã sử dụng làn sóng phát thanh của họ trong các chương trình của các cộng tác viên Hồng Trần, Nguyễn Tường Thược, Nguyễn Văn Kim, giờ "trả lời thư tín" và làn sóng đài Tiếng Nước Tôi của ông Hoàng Bách tận bên Houston TX … để chính họ và một vài cộng tác viên thân tín, cùng một số thính giả "chọn lọc" liên tục tấn công ông Hồng Phúc và những ai không nói theo họ. Họ đã có những hành động bất công, thiếu lương thiện vì chỉ có họ được nói, còn ông Hồng Phúc và những ai muốn nói lên tiếng nói công chính thì không được nói.

4. Kể từ ngày tôi bị bịt miệng trên làn sóng đến giờ, tôi chỉ có một lần trả lời báo Chính Nghĩa, để trình bày những gì đã xảy ra trong chương trình tối hôm đó. Và rồi, tôi giữ im lặng cho đến nay. Tôi im lặng là vì:

a. Tôi tin vào khả năng nhận xét của thính giả.

b. Tôi muốn thể hiện tinh thần "vuốt mặt nể mũi" vì còn những cộng sự viên khác mà tôi quý trọng vẫn tiếp tục phục vụ thính giả.

c. Tôi chờ đợi một thái độ phục thiện của BGĐ.

5. Chẳng những BGĐ không biết lỗi của mình mà còn tiếp tục lộng hành trên diễn đàn e-mail, nhất là những e-mail nặc danh do ông Nguyễn Đăng Tuấn (Chủ Tịch Văn Bút VN Hải Ngoại) chuyển đến. Những e-mail này trâng tráo bào chữa cho những sai trái của BGĐ -VNHN. Qua những thư nặc danh nầy, kẻ gian đã hung hãn tấn công ông Hồng Phúc, ông Đoàn Trọng Hiếu, và Huỳnh Quốc Bình. Kẻ gian cũng không tha bà Hoàng Lan Chi là người thấy chuyện chướng tai, gai mắt thì lên tiếng. Bà đã viết những bài phân tích các sai trái của BGĐ, với những lời lẽ đanh thép tố cáo hành động quay 180 độ của ông Tuấn đã bênh vực những người mà trước đó vài ngày chính ông cũng quyết liệt lên án.

6. Nếu tôi tiếp tục im lặng thì tôi không xứng đáng là một người làm truyền thông, một người Quốc Gia từng chống đối những hành động sai quấy, thâm độc, hèn hạ của đảng cướp VC tại Việt Nam ngày nay. Mà những hiện tượng thâm độc này đang diễn ra khi BGĐ ra tay chống đỡ những lời tố cáo của ông Hồng Phúc và dành cho những ai nói ngược ý họ.

7. Ai đã tin vào lời giải thích có tính cách ngụy biện của BGĐ rằng do "trục trặc kỹ thuật" chứ họ không bịt miệng tôi, thì quý vị không cần mất thì giờ đọc thêm. Riêng ai muốn hiểu rõ hư thực ra sao thì xin tiếp tục đọc và cũng có thể vào địa chỉ sau đây để nghe lại các chương trình đó: http://www.danviet.net

II. Bản chất của vấn đề:

1. Đêm 22-9-2009 trong lúc tôi đang trình bày thì xướng ngôn viên (XNV) Nam Anh cho biết ông Nguyễn Tường Thược muốn góp ý. Tôi có nói với chị Nam Anh và ông Thược rằng ông Thược có chương trình riêng của ông, nhưng nếu muốn góp ý thì phải chờ tôi nói hết ý của tôi rồi tính sau. Tuy vậy, XNV Nam Anh đã tắt tiếng nói của tôi ngay phút thứ 29 và để cho ông Thược ngang nhiên vào làn sóng tấn công ông Hồng Phúc bằng những lời cáo buộc hết sức cường điệu và hồ đồ. Tiếp sau đó là bà Hồng Trần, ông Nguyễn Văn Kim, Giáo Sư Đỗ Diễn Nhi, Ông Ngô Ngọc Hùng, và có cả ông Hoàng Bách của đài Tiếng Nước Tôi-Houston cũng vào diễn đàn. Những người nầy đã tuỳ tiện chiếm diễn đàn hơn 50 phút, làm như đây là chương trình riêng của họ. Cuối cùng XNV Nam Anh đã liên lạc lại và để tôi lên tiếng khoảng 10 phút, nhưng trong 10 phút nầy XNV Nam Anh cũng mấy lần muốn ngăn chận không cho tôi nói hết ý.

2. Khi họ có âm mưu cướp diễn đàn, họ không còn tôn trọng thính giả. Bằng chứng là ông Thược và Bà Hồng Trần ra vào diễn đàn đến hai lần, còn tôi là người trách nhiệm chương trình thì bị ngắt đường dây. Chị Mai Ly, Giám Đốc Đài VNHN tại Oklahoma City có phản đối thái độ của ông Thược nhưng không kết quả. XNV Nam Anh đã vờ vịt bảo tôi gọi vào nhưng thực tế thì tôi đã bị bịt miệng trong đêm hôm đó. Tôi phải viết lại cho rõ vì thính giả Âu châu hoàn toàn không biết về điều nầy. Vì sau khi nhận ra sự thô bạo của mình nên BGĐ đã không cho phát lại chương trình nầy vào ngày hôm sau như thường lệ.

3. Sau khi tiếng nói của tôi bị tắt trên làn sóng của đài. Một số thính giả cũng có liên lạc với tôi để bày tỏ sự quan tâm và buồn lòng vì cho rằng: "người Việt không đoàn kết, cho nên những chương trình chống cộng trên làn sóng của đài Việt Nam Hải Ngoại đã dần dần bớt đi, đây là sự thành công của VC". Và tôi đã trả lời cho họ như sau: "Mọi người không nên buồn vì nghĩ rằng người Việt Quốc Gia không đoàn kết mà phải thấy rằng đây là cuộc chiến đấu giữa hai phe tử tế và gian tà, giữa quân tử và tiểu nhân. Tôi HQBình không cần thắng mà tôi cần nói lên tiếng nói công chính. Tôi không theo phe ai cả nhưng tôi cần bênh vực lẽ phải, bảo vệ chính nghĩa Quốc Gia qua ý thức "làm thinh trước điều quấy là đồng lõa với điều quấy đó".

III. Những điều nghịch lý, và sự bao che cho những âm mưu đen tối:

1. Chiêu hồi VC về với chính nghĩa là điều tốt. Thời chính quyền Đệ Nhất và Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hoà cũng từng có chủ trương nầy. Tuy nhiên, công tác nầy phải có chiến thuật, chiến lược của các tổ chức đấu tranh hay chính đảng Quốc Gia có nghiệp vụ để kêu gọi những người phản tỉnh trở về với chính nghĩa Quốc Gia. Hành động lén lút ăn nhậu với VC khác với chiêu hồi VC. Đó là chưa kể khi bị phát giác thay vì ăn năn thì lại lồng lộn nói lời hỗn xược với những người thật sự chống cộng.

2. Dốt không phải là cái tội, nhưng nếu dốt mà phách lối, lại muốn làm lớn, làm oai thì khó coi lắm. Một tên chỉ thích vui chơi, nhảy nhót, tiệc tùng ăn nhậu, thiếu kiến thức căn bản, không phân biệt đâu là bạn, đâu là thù … thì không thể nào có khả năng làm công tác "tranh luận, giáo dục, tìm hiểu" bọn VC, nếu không muốn nói chỉ là thái độ đú đởn ăn chơi với kẻ gian và làm lợi cho VC.

3. Kẻ nào chọn lựa giao du với VC đó là quyền cá nhân của mình, nhưng xin đừng nhẫn tâm lợi dụng chiêu bài chống cộng hay "đấu tranh cho một Việt Nam có tự do dân chủ" để mua bán chính nghĩa.

4. Tố cáo hành động BGĐ-VNHN giao du mật thiết với VC không phải là chuyện bất hoà giữa người nầy và kẻ khác, nhưng là vấn đề "lằn ranh Quốc cộng". Vì thế không có chuyện giải hoà hay không giải hoà rồi thôi, mà BGĐ phải nghiêm chỉnh trả lời hành động giao du bất chính đó cho thính giả từng đóng góp tài chánh cho đài và các cộng sư viên bỏ bao nhiêu công sức duy trì và phát huy đài.

5. Vì ông Hồng Phúc và mọi người phát giác ra hành động của ông bà Dương Văn Hiệp- Lưu Lệ Ngọc và ông Ngô Ngọc Hùng giao du mật thiết với VC, nên người ta mới cảnh báo rằng "Đài Việt Nam Hải Ngoại giao du mật thiết với VC". Chứ nếu BGĐ dám cho phát thanh những chương trình có lợi cho VC thì người ta đã không ngần ngại gọi đó là bọn VC hay Việt gian. BGĐ cần tôn trọng thính giả thầm lặng, không thể giải thích theo kiểu "đánh bùn sang ao" để chạy tội.

6. Trong mấy tháng qua, BGĐ và một vài cây bút "chống cộng" đã trâng tráo khoe thành tích chống cộng của BGĐ để bao che cho hành động họ giao du với VC. Đây chỉ là lối lý luận theo kiểu nguỵ biện. Tôi, Huỳnh Quốc Bình xin mạnh dạn nói rằng: Các cộng sự viên và nhất là những chương trình chống cộng cùng nhiều thính giả chống cộng, mới chính là những người tạo thành tích chống cộng cho đài Việt Nam Hải Ngoại trong suốt 12 năm qua, chứ không phải do những tên chuyên ăn nhậu với bọn VC tạo nên thành tích đó.

7. Nếu có ai lý luận rằng những cộng tác viên còn lại trong đài không lên tiếng là vì ông Hồng Phúc không có chính nghĩa, thì hãy trả lời giùm: Hình ảnh Hoà Thượng Thích Quảng Độ, Linh Mục Nguyễn Văn Lý, Mục Sư Nguyễn Hồng Quang, Luật Sư Nguyễn Văn Đài, Luật Sư Lê Thị Công Nhân và những người xổng lưng chống lại những hành động gian ác của bọn VC, trong khi hơn 80 triệu người Việt trong nước còn lại vì hoàn cảnh chưa lên tiếng. Hoặc tại hải ngoại nầy, số người công khai chống cộng vẫn là thiểu số trong khối người Việt tỵ nạn VC thầm lặng chống cộng, thì xin hỏi: Thiểu số chống cộng công khai nầy có phải là mất chính nghĩa không?

8. Ông Hồng Phúc tố cáo "Đài Việt Nam Hải Ngoại giao du mật thiết với VC" và những điều đó BGĐ đã xác nhận là CÓ. Đây là các bằng chứng:

a.
Chính ông Ngô Ngọc Hùng cho biết là ông ta đã từng cùng Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức sang Ba Lan tiếp xúc cán bộ VC, mà còn quá thân thiện nữa.

b. Ông Đinh Quang Trung- tân Giám Đốc chương trình, ngay trong lần trả lời thư tín ngày 27-9-2009 đã xác nhận rằng có hai cán bô VC từ Toà Đại Sứ VC đã đến tư gia của ông bà Dương Văn Hiệp-Lưu Lệ Ngọc tham dự Tiệc Tất Niên.

c. Ông Dương Văn Hiệp xác nhận trong e-mail "Thư Từ Chức" ngày 15-10-2009 rằng: "Cần tiếp xúc với du học sinh, với cán bộ VC, là để tranh luận, là để giáo dục, là để tìm hiểu … hầu lấy đủ kiến thức thông tin …" (Tôi ghi nguyên văn, ông viết không bỏ dấu)

9. Vậy thì căn cứ vào những dữ kiện trong phần 8 bên trên, những lời tố cáo của ông Hồng Phúc có gì là sai trật, để rồi BGĐ và một số cộng sự viên tạo ra những trận đấu tố, để vài thính giả "chọn lọc" ngang nhiên lăng nhục ông Hồng Phúc trên làn sóng phát thanh.

10. Nếu BGĐ là những người thật sự chống cộng thì khi ông Hồng Phúc nêu vấn đề, họ phải nghiêm chỉnh giải thích thay vì cố tình tránh né. Đáng lẽ họ phải xem ông Hồng Phúc như là một vị ân nhân thay vì biến ông thành nạn nhân, xem ông như kẻ thù rồi tìm cách "đánh dưới thắt lưng" ông bằng những câu truyện chỉ có phân nửa sự thật.

11. Người có liêm sỉ không thể sử dụng những lời lẽ thô tục, hạ cấp của VC thả trên mạng lưới toàn cầu, hoặc thư nặc danh của kẻ gian như là một thứ vũ khí dành tấn công những người từng cộng tác với mình, hoặc những người cùng chiến tuyến chống cộng.

12. BGĐ phải trả lời với đồng bào, với thính giả từng đóng góp tài chánh cho đài về hành động của mình. Ban Giám Đốc cần phải ý thức rằng: Họ có thể chủ động làn sóng phát thanh, mở hay đóng một chương trình nào đó, hoặc có thể khống chế một vài cá nhân vì lý do nào đó phải nói theo ý muốn của BGĐ. Nhưng BGĐ đừng xem thường khả năng thẩm định của những cộng tác viên còn lại chưa lên tiếng, hoặc những thính giả thầm lặng chống cộng. Đây là những người có cái radio trong tay và tiền đang nằm trong túi họ. Họ có quyền ủng hộ hay tẩy chay, họ có thể tắt mở hoặc ném cái radio vào thùng rác mà BGĐ không thể kiểm soát được.

13. BGĐ không phải là những người quá trẻ tuổi đến nỗi không biết gì về những gian manh, tráo trở và thủ đoạn của VC. Tuổi của họ nay đã già hơn cả những vị Tướng của Việt Nam Cộng Hoà ngày xưa, hoặc Cụ Nguyễn Văn Thiệu lúc mới làm Tổng Thống. BGĐ cũng không thể cho rằng họ "còn trẻ", "không nói giỏi hay không nói hay" giống như ông Hồng Phúc, ông Đoàn Trọng Hiếu, hoặc ông Huỳnh Quốc Bình v.v… để rồi lấy cớ đó mà "giả mù sa mưa", hoặc biện minh cho hành động lật lọng của họ. Vấn đề chính cần nói là: Đúng hay không đúng, có chính nghĩa hay không có chính nghĩa, chứ không phải do nói giỏi hay nói dở.

14. Tôi, Huỳnh Quốc Bình, lên án những ông bà nào nhân danh người Quốc Gia chống cộng, nhưng vì quyền lợi mà xem nhẹ sự liêm sỉ, mẫn cán viết bài tâng bốc "cái gọi là lòng nhiệt thành yêu nước" của Ngô Ngọc Hùng, Dương Văn Hiệp - Lưu Lệ Ngọc, và Đinh Quang Trung … rồi nhẫn tâm bôi bẩn những người mạnh dạn tố cáo những hành động mờ ám của những tay giao du mật thiết với VC.

15. Người ta không thể hời hợt khi đánh giá lòng yêu nước của một người bằng cách: Vội tin vào cách sống quá bình dân, ra vẻ bất cần tiền tài, làm việc không cần tiền lương của người nầy, với lối sống nề nếp của người khác qua đời sống vật chất căn bản, để rồi cho rằng người nầy có lòng yêu nước còn người kia thì không yêu nước. Xin thưa: Hồ Chí Minh (HCM) cũng từng được người dân miền Bắc hiểu là "đạo đức", cả đời không lấy vợ, đời sống đạm bạc, hết lòng vì dân, yêu thương các cháu nhi đồng v.v. Nhưng thực chất thì HCM gian manh, ác độc ra sao, có bao nhiêu vợ, có bao nhiêu con rơi… Nửa thế kỷ sau mọi người mới biết rõ.

IV. Những nhận xét và chủ trương căn bản:

1. Tôi đã từng nói nhiều lần về nhận định của mình trên làn sóng phát thanh, và nay tôi xin lập lại: Bọn VC không đội nón cối hay mang dép râu để tiếp xúc với chúng ta, nhưng chúng sẽ đến với người Quốc Gia qua vỏ bọc một thương gia, mang mặt nạ của một thân hữu, rồi khi cao điểm VC sẽ ra tay làm những điều gian ác. Với những kinh nghiệm xương máu đó, người Quốc Gia không thể để VC nó lừa mình mãi được.

2. Nếu có thể, tôi sẵn sàng lợi dụng làn sóng phát thanh của bọn VC để nói lên tội ác của chúng cho mọi người biết, nhưng lương tâm tôi không cho phép mình tiếp tục nói trên làn sóng hay hợp tác với những người miệng nói chống cộng nhưng lại thông đồng với kẻ thù của dân tộc Việt Nam.

3. Đối với "lằn ranh Quốc cộng", người Quốc Gia chân chính có bổn phận phải vạch cho rõ và đào cho sâu. Ai chủ trương làm mờ lằn ranh quốc cộng, là hành động gian manh chứ không phải yêu nước hay yêu Tổ Quốc Việt Nam. Lằn ranh quốc cộng là điểm phân biệt giữa lương thiện và độc ác, giữa chính nghĩa và gian tà. Người chống cộng thật sự không thể lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện để làm mờ lằn ranh nầy.

V. Kết luận:

Vì hoàn cảnh nào đó khiến người ta có thể làm thinh trước điều quấy, nhưng không có hoàn cảnh nào bắt người ta phải cong lưng, đi bằng đầu gối vì quyền lợi cá nhân, để rồi muối mặt bênh vực cho những điều mà chính mình biết đó là sai trật. Có người đã nói: "Chỉ có những bộ máy vô hồn mới không dám nói những gì mình nghĩ, không dám làm những gì mình muốn, mà chỉ thở bằng cái mũi của kẻ khác, nhìn bằng cặp mắt của kẻ khác, nghe bằng lỗ tai của kẻ khác…". Những ai đã và đang tìm cách bao che, bênh vực cho hành động mờ ám và sai quấy của BGĐ-VNHN hãy suy nghĩ câu nói nầy.

Phản ứng của cá nhân tôi, ông Đoàn Trọng Hiếu, ông Thái Văn Hoàng, bà Hoàng Lan Chi và những vị sau đây: Ông Trần Hoàng Hữu (Salt Lake City, UT), ông Vương Thế Hạnh, Bà Lưu Hà, ĐYS Vũ Văn Thảo, bà Lưu Thị Luyến (Portland, OR) quyết định KHÔNG tiếp tục cộng tác với đài VNHN là hành động tự trọng, không muốn tiếp tục ủng hộ những kẻ thiếu sự son sắc với chính nghĩa Quốc Gia, chứ không phải là thành phần mà Dương Văn Hiệp đã dám hỗn xược gọi là "kên kên quà quạ, a dua" theo ông Hồng Phúc trong lá thư của cái gọi là "từ chức" của ông Hiệp. Là người có quyết tâm chống cộng, chúng ta phải thề: "sẽ không viết một chữ hay nói một tiếng cho kẻ gian". (*)

Người Quốc Gia chân chính không thể chỉ giỏi đại ngôn, hoặc có khả năng gào thét bằng những ngôn từ hạ cấp, trịch thượng mà phải có khả năng lý luận để tấn công kẻ thù VC, vạch trần âm mưu phá hoại của kẻ gian. Lối chụp mũ những người công khai tố cáo BGĐ-VNHN giao du mật thiết với VC…, bảo họ là "thi hành nghị quyết 36 của VC", mới chính là lối lý luận rẻ tiền và hồ đồ của bọn VC / Việt gian.

Huỳnh Quốc Bình
Oregon, ngày 5 tháng 11 năm 2009
(503) 568-8565
e-mail: huynhquocbinh@yahoo.com
Địa chỉ:
P.O. Box 20361
Salem, OR 97307- USA

(*). Ý chính trong bài Thơ "Khát", do Nhạc Sĩ Phan Văn Hưng phổ nhạc.

- Nếu ai nhận bài viết nầy hơn một lần xin thông cảm, bỏ qua cho.

- Nếu các chữ biến dạng, xin đọc attachment.
- Xin tiếp tay quảng bá bài viết nầy đến những người Việt Tự Do, nhất là thính giả chống cộng của đài Việt Nam Hải Ngoại.
- Vì tiếng nói của cá nhân tôi đã bị bóp nghẹt trên làn sóng của đài Việt Nam Hải Ngoại. Nên chúng tôi xin sử dụng phương tiện nầy để có thể trình bày sự thật những gì đã xảy ra trong thời gian qua, hầu bênh vực cho lẽ công chính và cho những ai không còn tiếng nói trên làn sóng phát thanh của đài nầy, và họ đang bị kẻ gian tấn công. Xin thành thật cảm ơn quý vị.

Huỳnh Quốc Bình

Những kẻ phản bội trong giới truyền thông - Đoàn Trọng Hiếu

Đoàn Trọng Hiếu

Ba chữ KẺ PHẢN BỘI chúng ta thường nghe rất nhiều trong cuộc sống hàng ngày, có khi là một anh chàng phản bội vợ hay một cô nàng phản bội chồng, hành động phản bội này thường chỉ gây tác hại trong phạm vi gia đình của chính bản thân họ, một kẻ phản bội bạn bè cũng chỉ làm cho bạn bè họ khinh chê xa lánh.Những hành động phản bội trên thường không gây ra những tác hại cho xã hội hoặc nếu có thì cũng trong một phạm vi nhỏ hẹp.

Trong phạm vi rộng lớn hơn đó là cộng đồng và đặc biệt là Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại cũng đã có những kẻ phản bội Một ông chủ của cả một hệ thống bán đồ ăn nhanh làm giàu bằng sự mua bán với đồng hương nhưng sau đó lại thập thò đi lại với việt cộng, hành động này cũng chỉ làm cho đồng hương tiếc là đã mua hàng của hắn khiến hắn giàu lên. Một kẻ phản bội Nguyễn Cao Kỳ muối mặt đến với việt cộng bằng hai cái đầu gối cũng chỉ làm cho cộng đồng cảm thấy xấu hổ vì đã có một tên vô lại đứng trong hàng ngũ lãnh đạo miền Nam trước kia.

Tác hại khi người làm truyền thông phản bội

Nhưng khi sự phản bội của giới truyền thông thì hậu quả của nó không lường được, vì ngày hôm nay truyền thông là vũ khí sắc bén để tấn công vào hang ổ của bọn việt cộng, đồng thời là phương tiện hữu hiệu nhất để củng cố , đoàn kết khối người Việt Quốc Gia,là một phương tiện thông tin nhanh nhất để phá xập bức tường bưng bít do bọn việt cộng dựng lên để ngăn cách người dân trong nước với thế giới bên ngoài. Hiểu rõ điều này hơn ai hết, nên việt cộng lâu nay vẫn cố gắng len lỏi vào những kẽ hở của nghành truyền thông để tạo sự chia rẽ trong cộng đồng, mua chuộc những tên hám danh hám lợi tấn công bôi bẩn những người Quốc Gia chân chính đang dấn thân cho công cuộc tranh đấu chung nhằm giải thể chế độ việt cộng buôn dân bán nước.

Hành động của ông chủ một tờ báo lớn (đã từng là một công chức bậc trung thời VNCH) ở California đã lén tiếp xúc với tên Nguyễn tấn Dũng khi tên này còn là phó thủ tướng, cũng như đăng lên những bài viết những hình ảnh xúc phạm đến lá Cờ Vàng linh hồn của người Việt Quốc Gia đã gây xôn xao trong cộng đồng người Việt hải ngoại, đặc biệt vùng Cali, những cuộc biểu tình liên tục vẫn còn tiếp diễn cho đến ngày hôm nay, tuy nhiên cách thức phản đối cũng đã gây phân hóa trong cộng đồng, nhưng dù sao đây cũng chỉ là một tờ báo do một cá nhân hoặc gia đình làm chủ xuất bản báo bằng tiền túi của mình, hành động phản bội của bọn này cũng chỉ làm cho cộng đồng phỉ nhổ vào mặt chúng và tẩy chay không mua báo nữa, nhưng không làm suy sụp tiềm năng chống cộng của người Việt hải ngoại. Cũng như hành động của một người trẻ Hồ Văn Xuân Nhi của tờ Việt Weekly hoặc của anh họa sĩ họ Đoàn cũng chỉ làm cho cộng đồng nổi giận, nhưng đồng thời cũng là dịp để thế hệ cha anh uốn nắn lại những suy nghĩ lệch lạc của những thế hệ sau do cao ngạo tự mãn, cho rằng mình đươc hấp thụ một nền giáo dục tiên tiến hơn hẳn cha anh, nên đã xem thường kinh nghiệm máu xương mà ông cha đã phải trả giá quá đắt đối với bọn việt cộng.

Gần đây nhất, một đài phát thanh ở vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn, có làn sóng phát thanh rộng rãi trên nhiều tiểu bang và sang tận Âu Châu, số lượng thính giả lên đến vài trăm ngàn người,tức là có thể chiếm đến khoảng từ 40% đến 50% số người Việt Quốc Gia chống cộng, nhiều cộng tác viên đã hợp tác hoàn toàn vô vị lợi, sự ủng hộ tài chánh từ phía thính giả mỗi năm lên đến hàng trăm ngàn đồng, đài đã trở thành cái gai đối với bọn cầm quyền việt cộng. Bằng một âm mưu thâm độc không những nhằm triệt hạ cho bằng được đài phát thanh này mà còn quan trọng hơn là làm sụp đổ tinh thần chống cộng của hàng trăm ngàn thính giả, một kế hoạch tinh vi đã được giao cho tên đệ tam tham tán đặc trách người Việt ở nước ngoài thuộc tòa đại sứ vc tại Hoa Thịnh Đốn thi hành. Trong khi đó thì không hiểu vì vô tình hay hữu ý mà ông TNS Jim Webb, người mà năm 2003 với tư cách của một cựu chiến binh Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam đã từng lên án đám truyền thông thân cộng, đám chính trị gia chủ bại trong thời chiến tranh Việt Nam là “chăn gối với kẻ thù”, lên án ứng cử viên tổng thống năm 1972 Mc Govern là “đi với Hà Nội bằng hai đầu gối”. Thì năm 2007 sau khi đắc cử TNS liên bang ông lại kêu gọi người Việt hải ngoại và nhất là giới trẻ hãy tiếp xúc với việt cộng, đặc biệt là với tòa đại sứ việt cộng tại Hoa Thịnh Đốn để làm giảm bớt sự gay gắt, điều này đi ngược lại lập trường đấu tranh chung của người Việt Quốc Gia, không phải ông đã quên bài học ”chăn gối với kẻ thù” nhưng vì ông là TNS Mỹ ông phải nói sao cho có lợi cho tư bản Mỹ, và dĩ nhiên là có lợi cho việt cộng, vậy mà ông tổng giám đốc đài tuyên bố là đài VNHN đang “invest” vào ông Jim Webb, ông “invest” để làm lợi cho việt cộng hay sao ? hay để có một cái văn phòng liên lạc của đài VNHN tại Việt Nam như lời ông nói? Ông đúng là kẻ mộng du giữa ban ngày.

Vậy mà khi nghe lời “xúi trẻ ăn cứt gà” của ông Jim Webb thì cũng đã có vài tên ngu xuẩn nhanh chân, cho đó là chủ trương của Mỹ nên đã hớn hở đến tòa đại sứ vc chào cờ đầu năm, riêng các ông bà giám đốc của đài VNHN thì đã có chủ đích riêng, vì tư lợi cá nhân mà vượt qua lằn ranh Quốc cộng, tổ chức tiệc tùng hết sinh nhật tại nhà hàng lại đến tất niên tại tư gia (cũng cần nên nhớ là bọn việt cộng đi đâu cũng đi hai người trở lênchỉ đến những nơi là cơ sở của chúng hoặc cảm tình viên tin tưởng) tiệc nào cũng (qua bạn bè?) mời mấy tên cán bộ gộc đến cho chúng ăn vài miếng rồi “giáo dục” chúng, “chiêu hồi” chúng, ôm chúng vào lòng như ôm đứa con hoang đàng trở về, bởi theo lời các ông bà giám đốc thì bọn việt cộng này còn bé dại dột nào có biết chi (ngụy biện).

Thưa các ông bà giám đốc, mục đích của các ông bà cao cả như thế mà tại sao lại cứ lẩn tránh không dám đối chất công khai với kẻ tố giác là ông Hồng Phúc, các ông bà lại còn kéo bè kéo đảng lợi dụng có làn sóng để bịt miệng trấn áp những người dám lên tiếng tố giác phản đối mình, các ông bà có thể bịt miệng chúng tôi được nhưng không thể bịt miệng bọn việt cộng đươc, chúng có thể sẽ giăng thêm cái bẫy thứ hai cho triệu hồi về nước và hạ tầng công tác tên đệ tam tham tán với lý do đã chao đảo lập trường bị kẻ địch dụ dỗ để tăng thêm uy tín cho các ông bà giám đốc, lúc đó sẽ có nhiều tổ chức hội đoàn cũng như cá nhân sẽ lên tiếng ủng hộ hành động của quý vị, thế là thêm những con cá lớn như ban đại diện TCCĐ Washington v..v đút đầu vào lưới, mẻ lưới sẽ được kéo lên vào thời điểm cần thiết, tin tức hình ảnh các ông bà “chăn gối với kẻ thù” sẽ được truyền trên đài vtv4, tổn thất đến với Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia là điều không tránh khỏi. Thử tưởng tượng khi mẻ lưới đã đầy chúng sẽ kéo lên vào lúc một tên đại gộc nào đó sang gặp TT Mỹ, quý vị trong các TCCĐ, hội đoàn, liên hội đã chui đầu vào lưới có dám kêu gọi đồng bào đi biểu tình không ? và có ai nghe lời kêu gọi của quý vị không?

Nhưng may mắn thay lời tố giác của ông Hồng Phúc đã khiến cho hàng ngàn thính giả hiểu biết thấy được bản chất thật được che dấu dưới bộ mặt chống cộng giả hình của quý ông bà, nên tránh đươc sự sụp đổ niềm tin, vì thế cho dù lời tố giác của ông Hồng Phúc phát xuất từ động cơ xấu như các ông bà vẫn rêu rao thì lời tố giác ấy vẫn có giá trị và được trân quý.

Nói tóm lại, các ông bà là những KẺ PHẢN BỘI trong giới truyền thông, đang hủy hoại tinh thần chống cộng của đồng bào, lường gạt TÌNH (niềm tin, yêu) TIỀN (kêu gào ủng hộ) của đồng bào, tàn nhẫn hơn lại từ những cụ già sống nhờ tiền trợ cấp xã hội chắt chiu dành dụm gởi gấm đến quý vị với tất cả niềm tin yêu để chỉ mong sớm có ngày về được chết trên quê hương ,hành động này cần phải bị lên án và dập tắt .

Đường về quê lại thêm xa lắc lê thê vì đã trót nghe theo lời u mê.

Đoàn Trọng Hiếu

Mong Đừng Có Ngày Đập Vỡ Cái Radio - Lê Văn Bảy

Lê Văn Bảy

Sự việc ông Hồng Phúc - Lê Hồng Long tuyên bố không tiếp tục cộng tác với đài phát thanh Việt Nam Hải Ngoại, gây hoang mang trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Sự hoang mang này chắc đã làm cho Việt cộng (VC) hài lòng. VC càng hài lòng thì người Việt quốc gia càng lo lắng, bực dọc rồi đổ hết lên đầu ông Hồng Phúc. Vì ông mà ra nông nỗi này. Đây đó trong dư luận, người ta nghe rằng ông Hồng Phúc là người "vì tiền", đòi lên lương không được rồi giận dỗi và tìm cách phá rối. Sự thật ra sao?

Ông Hồng Phúc nguyên là Giám đốc Chương Trình, chịu trách nhiệm về nội dung các tiết mục phát thanh trên hệ thống Truyền Thông Việt Nam Hải Ngoại (VNHN). Tháng Sáu-2009, ông Hồng Phúc gửi thư cho Ban Giám Đốc xin từ chức và rút tên ra khỏi đài với lý do đài VNHN đã phản bội thính giả. Ông chỉ muốn lặng lẽ ra đi. Thư này được kín đáo loan truyền trong vòng nội bộ. Nhưng rồi nhiều người bên ngoài cũng biết tin, kèm theo những lời bàn đủ chiều hướng và kích thước khác nhau. Sự lo lắng của Ban Giám Đốc không giống nỗi lo lắng của những người khác. Người ta trách ông Hồng Phúc tố cáo muộn màng và lo sợ đài bị VC mua chuộc bằng tiền. Có người tin vào lời đồn đại rằng ông Hồng Phúc đòi lên lương không được rồi phá thối và lên án ông Hồng Phúc tiếp tay cho cộng sản. Về phía Ban Giám Đốc thì có những chương trình phát thanh chữa lửa qua hình thức trả lời thư tín. Nỗi lo càng ngày càng lớn.

Tháng Chín-2009, ông Hồng Phúc không thể tiếp tục im lặng, và đã công khai lên tiếng công bố những điều ông đã nêu trong thư xin từ chức và rút tên, đã gửi cho Ban Giám Đốc hồi tháng Sáu-2009. Từ lá thư công khai này, nhiều vấn đề được phơi bày làm lộ rõ tính chất phản bội của đài VNHN. Nguyên văn lời tố cáo của ông Hồng Phúc:

"1. VỀ LẬP TRƯỜNG của Ðài thì Ban Giám Ðốc đã có những hành động phản bội lại niềm tin của người Việt tỵ nạn cộng sản, của thính giả ... qua những hành động, như:

- Quan hệ mật thiết với Tòa Ðài Sứ Việt Cộng tại Hoa Thịnh Ðốn đến độ mở tiệc tại nhà hàng, mời cán bộ VC tại Tòa đại sứ công khai đến dự. Tôi là người chứng kiến tận mắt sự việc này.

- Anh Dương Văn Hiệp, Giám đốc Giao tế của Ðài qua lại Việt Nam (đi riêng 1 mình);

- Chị Lưu Lệ Ngọc, Giám đốc Tài chánh và Ðiều hành của Ðài qua lại Việt Nam (đi riêng một mình) từ Nam ra Bắc.

2. Sau những chuyến đi trên, anh Ngô Ngọc Hùng tuyên bố Ðài VNHN sẽ có một Văn Phòng Ðại Diện tại Sàigòn.

3. VỀ NỘI BỘ, Ban Giám Ðốc đã bắt đầu cô lập tôi vì lập trường chống Cộng dứt khoát của tôi mà chị Lưu Lệ Ngọc gọi là "cực đoan". BGÐ không còn tôn trọng những lời cam kết về nguyên tắc điều hành Ðài, như lúc ban đầu khi mời tôi làm quản trị viên của Ðài, trong các lãnh vực như Quyền hạn, Trách nhiệm và Tài chánh."

Những điều ông Hồng Phúc nêu lên không còn là những nghi ngờ mà là sự thật do chính các nhân sự trong Ban Giám Đốc đã nhìn nhận trên làn sóng phát thanh trong nhiều lần khác nhau. Họ xác nhận đệ tam tham tán của toà Đại Sứ VC tại Hoa Thịnh Đốn đã đến tư gia để tham dự tiệc sinh nhật của bà Lưu Lệ Ngọc, đang là Giám Đốc Tài Chánh của đài VNHN. Họ xác nhận ông Ngô Ngọc Hùng là Tổng Giám Đốc đã tiếp xúc trực tiếp với các đảng viên cộng sản trong chuyến sang Âu châu mà ông Hùng nói là "vào hang cọp để bắt cọp". Ông Dương Văn Hiệp là Giám Đốc Giao Tế và là chồng của bà Lưu Lệ Ngọc cũng xác nhận có về Việt Nam với lý do riêng. Dữ kiện đã được xác nhận phù hợp với lời tố cáo của ông Hồng Phúc.

Việt Cộng vẫn là kẻ thù của dân tộc Việt Nam

Cho đến thời điểm này là năm 2009, VC vẫn là kẻ thù của dân tộc Việt Nam. Kẻ thù hung hiểm này là thủ phạm đưa đất nước và dân tộc Việt Nam vào quỹ đạo cộng sản quốc tế, bán đứng dân tộc và đất nước Việt Nam. Lịch sử đã chứng minh chính Hồ Chí Minh và đồng bọn là đảng cộng sản Việt Nam, được cả khối cộng sản quốc tế hà hơi tiếp sức, đã đánh cướp toàn cõi Việt Nam, khống chế quyền làm người, xóa bỏ tàn tích văn hóa của dân tộc; hủy hoại tinh thần nhân bản của con người Việt Nam; đầu độc nền giáo dục hiện tại và di hại cho đến nhiều thế hệ mai sau; tiêu diệt sức đề kháng của dân tộc Việt Nam. VC còn tiếp tục đánh phá các giáo phái, tôn giáo, tín ngưỡng,... tại Việt Nam ngày nay. VC đã bán rất nhiều đất và biển cho Trung cộng, ai cũng thấy. Bấy nhiêu cũng đủ cho thấy VC là kẻ thù hung hiểm nhất của dân tộc Việt Nam, mà Ban Giám Đốc của đài VNHN tìm gặp. Vậy, họ gặp kẻ thù để làm gì?

Về phía VC, chúng vẫn xem người Việt tỵ nạn và Mỹ là kẻ thù. Điều này đã được rầm rộ tái xác nhận qua bản Đề Cương Tuyên Truyền của Ban Tuyên Giáo Trung Ương, khai triển chỉ thị số 34-CT/TW do Ban Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam ban hành ngày 25 tháng Sáu -2009 và được phổ biến rộng rãi trên tất cả các cơ quan truyền thông của đảng cộng sản tại Việt Nam và tại hải ngoại. Chỉ thị này hiện còn đang được khai triển mạnh mẽ tại các trường học để "tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động 'diễn biến hòa bình' trên lãnh vực tư tưởng, văn hóa". VC xem người Việt hải ngoại là kẻ thù và đang tìm cách đến gần để tiêu diệt sức đề kháng hoặc ít nhất cũng tìm cách lủng đoạn cái tập thể này. Ông Tổng Giám Đốc Ngô Ngọc Hùng đã "vào hang cọp" ở Âu châu không biết có bắt được con cọp con nào không, nhưng cọp ở Tòa Đại Sứ VC đã vào đến tiệc sinh nhật của bà Lưu Lệ Ngọc vợ ông Dương Văn Hiệp, để mang đến cho Ban Giám Đốc của đài VNHN những tai họa!

Đến Gần Kẻ Thù Để Làm Gì?

Theo lời tố giác của ông Hồng Phúc thì Ban Giám Đốc đài VNHN tìm cách cô lập ông Hồng Phúc vì cho rằng ông chống cộng "cực đoan"; và họ tìm cách giảm thiểu màu sắc chống cộng trong các chương trình phát thanh. VC thì vẫn ráo riết chống người Việt hải ngoại và chống những người không cộng sản. Trong khi Ban Giám Đốc đài VNHN thì lại thay đổi lập trường. Có phải là để đáp ứng yêu cầu của VC hầu hai bên có thể đến gần với nhau? VC và Ban Giám Đốc đài VNHN, cả hai đều muốn đến gần với nhau và họ đã làm thế. Họ tìm gặp để liên kết với nhau hay tiêu diệt nhau? Ai có thể tiêu diệt ai?

Có những bà mẹ nuôi con cứ ôm ấp tối ngày nhưng không biết phải đem con đi chích ngừa. Hỡi các bà mẹ với tình mẫu tử bao la, các bà cần ý thức phải chích ngừa cho con thì mới tránh khỏi bị nhiễm những chứng bệnh nguy hiểm. Và đấy mới đúng là thương con trọn vẹn.

Thính giả của đài VNHN vẫn còn thương yêu đài này tin rằng VNHN là pháo đài chống cộng, là nguyện vọng của họ mà Ban Giám Đốc đã hứa hẹn vào những ngày đầu mới thành lập. Bỗng một sớm một chiều Ban Giám Đốc ngồi chung bàn tiệc với kẻ thù VC, thì thử hỏi sao không hoang mang. Càng hoang mang, người ta chẳng biết phải làm gì mà chỉ biết đổ lỗi cho người tố giác là ông Hồng Phúc. Thính giả ôm cái radio mong sao Ban Giám Đốc thức tỉnh, đừng "làm cái trò ấy", đừng u mê tiếp tục đu dây. Chỉ dám mong ước thôi! Mong sao lời tố cáo của ông Hồng Phúc đã trở thành liều thuốc ngừa công hiệu để đừng có ngày phải ném cái radio thật mạnh xuống đất cho nó vỡ toang ra cái hoài bão thiết tha nhất đã nuôi dưỡng mấy mươi năm qua. Ấy là giải phóng đất nước khỏi ách cai trị của cộng sản tham tàn, phục hồi các giá trị đạo đức và quyền làm người trên quê hương Việt Nam.

Lê Văn Bảy
(Nov.2009)

Sunday, November 8, 2009

Trần Kiêm Đoàn dị ứng "Biến Động Miền Trung"?

From: Phi Nguyen <->
Subject: FW: Tran Kiem Doan
To:
Date: Saturday, November 7, 2009, 5:46 PM

Anh Đoàn !

Có lẽ anh không lạ gì tôi, Tôi là Em của Anh Nguyễn v Lũy, Huynh Trưởng GĐPT Hương cần, còn Anh là Huynh Trưởng GDPT Liễu Cốc Hạ mà người dân quê mình thường gọi là làng Cạ Liệu Hạ. Ba anh là một Liệt Sĩ của Việt Cộng, anh tham gia hoạt động cho phong trào Thanh Niên Sinh Viên Thừa Thiên Huế, gồm Võ Quê, Tô Nhuận Vỹ, Lê Phương Thảo, Hoàng văn Hoa, Chu Sơn, Nguyễn Sâm (bây giờ đang ở Úc) .

Sau 1975, anh diện Nón Cối, Dép râu mang Sắc Cốt, trông rất Oai về làng anh lên khán đài chửi chúng tôi là đồ Mỹ Ngụy, anh chửi không tiếc lời, mà anh có biết rằng những tấm Ri để kê lên làm sân khấu ngoài trời cho anh đứng chửi chúng tôi là tên Xã Đội trưỡng Nguyễn Văn Ánh , bắt chúng tôi là những thanh niên Đen có nghĩa là chúng gọi chúng tôi là Ngụy, phải lên tận Chi Khu Hương Trà ( đóng tại cây số 9) để cứ 3 đứa, hai đứa đi trước một đi sau gánh một tấm Ri đi ba cây số với trong bụng đói vì ăn sắn không anh ?. Lúc đó anh là Bí Thư Đoàn trường Trung học Cấp ba Nguyễn Tri Phương - Huế .

Tôi biết anh từ khi anh còn đi chiếc Honda dame màu đỏ nhà anh ở Tây Lộc lận, cho nên anh đừng nghĩ là không ai biết tông tích của anh hý ! Chính Ông Trầm Kiêm Mai (Chánh Lục Sự Tòa Thượng Thẩm Huế) là bác họ của Anh, Cụ Ấm Mai đang ở Fulleton, Nam California cũng chửi anh là thằng Láo khoét, vì anh củng có thời gian nhờ ông Ấm Mai để đi học, và Ông Trần Kiêm Trợ Chú của anh đang ở Sacramento với anh cũng từ anh vì anh là Việt Cộng ! Anh quá biết Ôn Đôn Hậu và Ôn Trí Quang hiện đang ở Già Lam là Việt Cộng thứ thiệt nhưng anh cố tình bào chữa ! anh nên nhớ giấy không gói được lửa .

Đã có lần tôi đã hỏi Ôn Tâm Hướng Chùa Vạn Phước là bạn rất thân với Ôn Trí Quang (hai vị nầy sinh cùng ngày, tháng, năm chỉ khác giờ sinh mà thôi) và Ôn Đôn Hậu là Sư Thúc của Tâm Hướng rằng có phải hai vị nầy là Việt Cọng không ôn ? và Ôn Tâm Hướng nói rằng: "Chạy đi mô" đó là nguyên văn Ôn Tâm Hướng trả lồi cho tôi. Tôi cũng đã có lần ngồi ăn cơm với ba vị nầy tại Chùa Vạn Phước gần Trường Đua Phú Thọ, Quận 10 - Sài Gòn (ba vị nầy ngồi bàn trên và tôi ngồi bàn dưới). Cho nên cách viết của anh là sáo ngữ "cả vú lấp miệng em". Khi anh gả con gái cho một thằng Việt Cộng qua Mỹ học Báo Chí về làng đám cưới rình rang chính bà con tôi cũng có đi dự đám cưới đó anh ạ, quê mình ai mà không biết Trần Kiêm Đoàn là Việt Cộng ! nhưng anh bị chúng vắt chanh bỏ vỏ nên anh chạy mà thôi và câu nói cuối cùng tôi kết luận Anh là Trần Kiêm Đoàn: VIỆT CỘNG. Nếu anh cần đối chất tôi sẵn sàng, Anh muốn liên lạc với tôi thì gọi BS Hồ Đắc Phương chồng của Oanh là Cháu gọi anh bằng Chú Ruột thì chúng mình gặp nhau. Mong anh đừng nói ba láp nữa , dù răng đi nữa anh cũng là PhD chứ không phải PhO là bán Phở.

Thân ái Nguyễn Phi

PS: Nếu quý độc giả nào biết Email của Trần Kiêm Đoàn thì Fwd cho anh ấy dùm tôi, xin đa tạ

Nguyễn Phi 2. 06-11-2009 07:47

Saturday, November 7, 2009

Quan Điểm của Ông Ngô Đình Nhu về Hiểm Họa Xâm Lăng của Trung Cộng - Tiến Sĩ Phạm Văn Lưu

Tiến Sĩ Phạm Văn Lưu

Khi hay tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị ám sát, Cố Tổng Thống Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc, đã nhận xét:

Người Mỹ có trách nhiệm nặng nề trong việc vụ ám sát xấu xa này. Trung Hoa Dân Quốc mất đi một đồng chí tâm đầu ý hợp… Tôi khâm phục ông Diệm, ông xứng đáng là một lãnh tụ lớn của Á Châu, Việt Nam có lẽ phải mất đến 100 năm nữa mới tím được một lãnh tụ cao quí như vậy. [1]

Nhưng khi đọc xong tác phẩm Chính Đề Việt Nam của ông Ngô Đình Nhu [2], tôi nghĩ cần phải thêm vào lời nhận xét đó, Việt Nam có lẽ phải mất đến 100 năm hay nhiều hơn nữa mới tìm được một nhà lãnh đạo có viễn kiến chính trị sâu sắc như ông Nhu.

Thực vậy, đối với cá nhân người viết, sau hơn 30 năm giảng dạy và nghiên cứu về các vấn đề chính trị Việt Nam tại một số các viện đại học, các viện nghiên cứu, các bảo tàng viện và thư viện tại Việt Nam, Úc, Hoa Kỳ và Âu châu người viết được các đồng nghiệp và các chuyên gia quốc tế về Việt Nam đã dành cho một chút cảm tình và nễ trọng về kiến thức chuyên môn và sự khổ công đọc sách. Tuy nhiên, với tất cả sự thận trọng cần thiết của một người nghiên cứu lịch sử, người viết phải thành thật công nhận rằng, trong tất cả những sách nghiên cứu mà người viết đã có dịp đọc trong hơn 30 năm qua vì sở thích hay vì nhu cầu giảng dạy và nghiên cứu đòi buộc phải đọc bằng Việt, Pháp và Anh ngữ, chưa có một tác phẩm nào, thể hiện một sự tổng hợp bao quát và rất giá trị về các vấn đề chính trị thế giới trong hơn 200 năm qua, để rồi sau đó đưa ra những viễn kiến chính trị vô cùng sâu sắc để làm Kim Chỉ Nam Phát Triển cho Việt Nam cũng như các Quốc Gia Chậm Tiến trên thế giới, như tác phẩm này của ông Nhu. Có lẽ phải nói đây là một đóng góp quí báu vào kho tàng tư tưởng chính trị thế giới. Và giả dụ rằng, nếu có thể sống thêm 100 năm nữa để đọc sách, người viết nghĩ rằng không thể nào có được một óc tổng hợp bao quát, đứng đắn và một viễn kiến chính trị sâu sắc thần kỳ như tác giả của quyển Chinh Đề Việt Nam.

Vì tác phẩm nguyên bản bằng Pháp ngữ, và người viết tin rằng dịch giả đã rất xuất sắc trong khi chuyễn ngữ, vì ấn bản Việt ngữ đã diễn tả một cách hết sức lưu loát những khía cạnh sâu sắc và phức tạp của các vấn đề. Tuy nhiên, những người đã quen tiếp cận với lối hành văn của ông Nhu qua các diễn văn mà Ông đã soạn thảo cho Tổng Thống Diệm trong suốt 9 năm của nền Đệ Nhất Cộng Hòa,[3] chắc chắn sẽ thấy rằng cách hành văn trau chuốt, chính xác, nghiêm túc, sắc bén và chặt chẻ của ông Nhu mà bản dịch không thể nào thể hiện được.

Tuy nhiên, người viết muốn độc giả trực tiếp tiếp cận, một phần nào, với cách luận giải và trình bày độc đáo của ông Nhu về các vấn đề chính trị Việt Nam và quốc tế, nên người viết đã quyết định trích nguyên văn những phần trong Chính Đề Việt Nam liên quan dến chủ đề của bài viết này. Và người viết sẽ hạn chế tối đa phần đưa ra những diễn giải và nhận xét riêng tư của mình.

Về nội dung tác phẩm, có lẽ phần cuốn hút được sự ngưỡng mộ nhất của người viết là, trước đây gần nữa thế kỷ, ông Nhu đã nhận xét Liên Sô sẽ tự giải thể để làm hòa với Tây Phương và Trung Cộng sẽ thất bại trong việc sử dụng chủ nghĩa Cộng Sản để phát triển kinh tế, cũng như Âu Châu sẽ tập hợp lại với nhau trong một khối thống nhất như Khối Liên Hiệp Âu Châu ngày nay. Nhưng điều hấp dẫn hơn nữa, ông Nhu đã không đưa ra những lời tiên đoán như một người thầy bói hay một chiêm tinh gia, trái lại, ông đã đưa ra những phán đoán của mình, sau khi đã phân tích và tổng hợp các dữ kiện lich sử và các biến cố chính trị thế giới, một cách khoa học, khách quan và vô tư. Chính vì vậy, người viết nghĩ rằng tập sách này sẽ có một mãnh lực vô cùng hấp dẫn đối với các nhà lãnh đạo Việt Nam và các quốc gia chậm tiến Á Phi, nếu họ thực sự mong muốn xây dựng và phát triển đất nước, theo một đường lối khoa hoc, thực tiển và hợp lý nhất.

Ví tác phẩm bao quát nhiều vấn đề lớn lao liên quan đến kinh nghiệm phát triển kinh tế của Nhật Bản, Liên sô, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ… và cả trường hợp của Trung Cộng nữa. Đó là những đề tài quá lớn cho bài viết này. Do đó, người viết nghĩ rằng, vấn đề thời sự nóng bỏng nhất hiện nay là vấn đề Trung Cộng xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải, các hải đảo Hoàng Sa & Trường Sa cùng vùng Cao Nguyên Trung Phần. Chúng ta thử tìm xem, gần 50 năm trước đây, ông Nhu đã tiên đoán hiểm họa này ra sao, đã kiểm điểm lại chinh sách ngoại giao sai lầm của chúng ta như thế nào và phương sách nào phải theo đuổi để chống lại Trung Cộng, để chúng ta có thể thấy được kiến thức uyên bác của một chính trị gia và cũng là một học giả lỗi lạc của thời đại chúng ta.

Sự Thiển Cận Của Nhà Cầm quyền Hà Nội.

Sự xâm lăng của Trung Quốc đối với Việt Nam có tính cách trường kỳ, nhưng những nhà lãnh đạo Hà Nội vì thiển cận và vì quyền lợi hẹp hòi của Đảng Cộng Sản và cũng có thể vì quyền lợi cá nhân ích kỷ của những vị lãnh đạo, đã không ý thức hiểm họa xâm lăng khiếp hải đó của Trung Quốc, họ đã xem nhẹ quyền lợi của quốc gia, dân tộc, đã liên kết với Trung Cộng và Liên Sô, đánh mất đi cơ hội ngàn năm một thuở, là khai thác những mâu thuẫn giữa hai khối Tây Phương và Liên Sô sau Thế Chiến Thứ Hai, để khôi phục độc lập và nhận viện trợ của cả hai khối để phát triển dân tộc như Ấn Độ. Trái lại, việc cam tâm làm chư hầu cho Trung Cộng và Liên Sô đã đưa Việt Nam vào cuộc chiến tranh với Tây Phương một cách vô nghĩa và phi lý, và đã đem lai một hậu quả vô cùng khủng khiếp cho cả dân tộc, đó là sự hủy diệt toàn bộ sinh lực của quốc gia, cả về phương diện tinh thần lẫn vật chất và sinh mang của người Việt, trong suốt hơn 30 năm. Nhưng còn tệ hại hơn nữa, là sự nhận viện trợ đó từ Trung Cộng đã là tiền đề để rước họa xâm lăng từ phương Bắc vào Việt Nam ngày nay.

Từ những năm đầu của thập niên 1960, ông Nhu đã nhìn thấu suốt được hiểm họa xâm lăng truyền kiếp đó như sau:

Trong lịch sử bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, các biến cố xảy ra đều do hai tâm lý đối chọi nhau. Từ năm 972, sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam rồi, lúc nào Trung Hoa cũng nghĩ rằng đã mất một phần lãnh thổ quốc gia, và lúc nào cũng khai thác mọi cơ hội đưa đến, để thâu hồi phần đất mà Trung Hoa xem như là của họ. Bên kia, Việt Nam lúc nào cũng nỗ lực mang xương máu ra để bảo vệ nền độc lập của mình. Tất cả các sự kiện, xảy ra giữa hai quốc gia, đều do sự khác nhau của hai quan niệm trên.

Ngay năm 981, nghĩa là vừa ba năm sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam, Tống triều thừa lúc nội chính Việt Nam có biến, vì Đinh Tiên Hoàng vừa mất, và sự kế vị không giải quyết được, gởi sang Việt Nam hai đạo quân, do đường thuỷ và đường bộ, để đặt lại nền thống trị của Trung Hoa.

Ý cố định của Trung Hoa là đặt lại nền thống trị và không lúc nào Trung Hoa thỏa mãn với sự thần phục và triều cống của chúng ta. Ngay những lúc mà quân đội chúng ta hùng cường nhất, và chiến thắng quân đội Trung Hoa, thì các nhà lãnh đạo của Việt Nam cũng khôn ngoan, tìm cách thỏa thuận với Trung Hoa và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng, điều mà Trung Hoa muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống. Trung Hoa, suốt gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như bị tạm mất.

Trong 900 năm, từ năm 939 đến năm 1840, khi Tây phương tấn công vào xã hội Đông Á làm cho những mâu thuẫn, nội bộ của xã hội này, tạm ngưng hoạt động, Trung Hoa đã bảy lần toan chiếm lại nước Việt Nam. Hai lần do nhà Tống chủ trương, ba lần nhà Nguyên, một lần nhà Minh và một lần nhà Thanh. Một hành động liên tục như vậy, nhất định có nghĩa là tất cả các triều đại Trung Hoa đều theo đuổi một chính sách, đặt lại nền thống trị trên lãnh thổ Việt Nam. Chính sách này do một điều kiện địa dư và kinh tế ấn định: lưu vực sông Hồng Hà là đướng thoát ra biển thiên nhiên của các tỉnh Tây Nam của Trung Hoa, và ngược lại cũng là con đường xâm nhập cho các đạo quân chinh phục vào nội địa Trung Hoa. Đã như vậy thì, ngay bây giờ, ý định của Trung Cộng vẫn là muốn thôn tính, nếu không phải hết nước Việt Nam, thì ít ra cũng Bắc phần. Cũng chỉ vì lý do này mà, năm 1883, Lý Hồng Chương, thừa lúc Tự Đức cầu viện để chống Pháp, đã, thay vì gởi quân sang giúp một nước cùng một văn hóa để chống ngoại xâm, và thay vì cứu viện một thuộc quốc mà Trung Hoa đáng lý ra có nhiệm vụ bảo vệ, lại thương thuyết một kế hoạch chia cắt Việt Nam với Pháp, Trung Hoa dành cho mình các phần đất gồm các vùng bao bọc lưu vực sông Hồng Hà để lấy đường ra biển. Và ngay Chính phủ Tưởng Giới Thạch năm 1945, dành phần giải giới quân đội Nhật Bản từ vĩ tuyến 16 trở lên phía Bắc[4], cũng vì lý do trên.

Xem thế đủ biết rằng, đối với dân tộc chúng ta họa xâm lăng là một mối đe dọa thường xuyên. (tr. 166)

Do đó, Trung Hoa của Mao Trạch Đông, cũng như Trung Hoa của các triều đại Nguyên, Tống, Minh, Thanh là một đe dọa truyền kiếp.

Sùng Bái Chủ Nghĩa Cộng Sản là một Sai Lầm Nghiêm Trọng

Trong khi Liên Sô và Trung Cộng xem chủ nghĩa Cộng Sản như là phương tiện tranh đấu để qui tụ các nước nhược tiểu Á Phi vào đồng minh với họ, chống lại sự bao vây của Tây Phương nhằm giúp họ phát triển kinh tế của đất nước họ, thì Cộng Sản Việt Nam sùng bái chủ nghĩa Cộng Sản như là một chân lý để cải tạo xã hội và xây dựng đất nước. Chính vì sự thiếu sáng suốt của nhà cầm quyến Hà Nội đã khiến Việt Nam phải bị chia cắt làm 2 miền vào năm 1954, mất đi cơ hội ngàn năm một thuở, để xây dựng đất nước và củng cố độc lập để chống ngoại xâm.

Ông Nhu đã luận giải nan đề đó như sau:

Nhưng chúng ta cũng còn nhớ rằng Nga Sô sở dĩ liên kết với các thuộc địa của Tây phương là bởi vì Nga Sô cần có đồng minh trong công cuộc chiến đấu trường kỳ và vĩ đại với Tây phương, mà mục đích trước hết và trên hết, là phát triển dân tộc Nga. Tính cách thiêng liêng giữa các đồng chí của lý tưởng cách mạng xã hội thế giới chỉ là một tín hiệu tập hợp qui tụ kẻ thù của Tây phương vào một mặt trận phục vụ một chiến lược tranh đấu của dân tộc Nga. Ngày nay, mục đích phát triển của Nga đã đạt. Sự thay thế các giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn của Nga Sô bằng những giá trị tiêu chuẩn, di sản của văn minh nhân loại, như chúng ta đã thấy trong một đoạn trên, là một bằng cớ hùng biện nhất, soi sáng lập trường của Nga. Trung Cộng tố cáo Nga phản bội chủ nghĩa Các-Mác Lê-Nin vì những sự kiện trên. Trung Cộng lại muốn thay thế Nga, nhân danh chủ nghĩa Các-Mác Lê Nin hô hào qui tụ các nước kém mở mang, để phục vụ công cuộc phát triển cho dân tộc Trung Hoa. Ngày nào mục đích phát triển đã đạt, thì cuộc đồng minh mới này do Trung Cộng đề xướng cũng không còn hiệu lực đối với Trung Cộng, cũng như cuộc đồng minh trước đây do Nga đề xướng, ngày nay, không còn hiệu lực đối với Nga. Và mục đích cuối cùng của cuộc tranh đấu vẫn là mục đích dân tộc.

Nhiều nhà lãnh đạo Á Đông mà quốc gia cũng đã bị Đế quốc thống trị, đã đủ sáng suốt để nhìn thấu thâm ý chiến lược của Nga Sô. Gandhi và Nehru, từ chối sự đồng minh với Cộng Sản vì lý do trên. (tr. 201)

Chúng ta chưa có một tài liệu hay một triệu chứng nào chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo miền Bắc hiện nay đã nhận thức các điều kiện trên. Ngược lại, các thư lại chính trị của miền Bắc còn đang ca tụng như là những chân lý những giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn mà Nga Sô đã bỏ. Như thế thì có lẽ dân tộc chúng ta còn phải bất hạnh mục kích các nhà lãnh đạo miền Bắc của chúng ta tôn thờ như một chân lý, một lý thuyết mà Nga Sô và Trung Cộng chỉ dùng làm một phương tiện tranh đấu và Nga Sô bắt đầu sa thải khi mục đích phát triển đã đạt.

Như thế thì, giả sử mà người Pháp có thật sự thi hành một chính sách trả thuộc địa, như người Anh, đối với Việt Nam, thì các nhà lãnh đạo miền Bắc cũng chưa chắc đã đưa chúng ta ra được ngoài vòng chi phối trực tiếp của hai khối để khai thác mâu thuẫn mà phát triển dân tộc.

Trong hoàn cảnh mà cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối nặng nề hành động chính trị của các quốc gia nhỏ, lập trường Cộng Sản, lệ thuộc Trung Cộng, của các nhà lãnh đạo miền Bắc, đương nhiên gây phản ứng của Tây phương và sự phân chia lãnh thổ cũng không tránh được.

Như vậy, tư cách Cộng Sản của các nhà lãnh đạo miền Bắc là một điều kiện thuận lợi giúp cho người Pháp thi hành những toan tính chính trị của họ ở Việt Nam. Và lập trường Cộng Sản lệ thuộc Nga Sô và Trung Cộng là một nguyên nhân của sự phân chia lãnh thổ Việt Nam, trong khung cảnh chính trị của thế giới, sau Đại chiến thứ hai, do sự tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối.

Tóm lại nguyên nhân sâu xa của sự phân chia lãnh thổ Việt Nam ngày nay là chính sách thuộc địa của Pháp và lập trường Cộng Sản lệ thuộc Nga Sô và Trung Cộng của các nhà lãnh đạo miền Bắc.

Trong thực tế, sự phân chia đã nảy mầm khi hai quốc gia Tây phương Anh và Mỹ, để dọn đường cho một giải pháp chấm dứt sự bế tắc của Pháp ở Việt Nam, nhìn nhận và bắt đầu viện trợ cho quốc gia Việt Nam. Tuy nhiên, viện trợ quân sự và kinh tế đều qua tay chính phủ Pháp. Và một phần lớn, đã được sử dụng trực tiếp hay gián tiếp trong công cuộc tái thiết nước Pháp đã bị chiến tranh tàn phá. Thời gian qua, xét kỹ thì thời kỳ này lại là thời kỳ mà những thủ đoạn chính trị của Pháp ở xứ này mang đến nhiều kết quả nhất.

Bên khối Cộng Sản, Nga và Trung Cộng cũng nhìn nhận Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam và cũng bắt đầu viện trợ.

Từ đây, chiến cuộc Việt Nam, biến thành một chiến trường quân sự và địa phương của cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương. Những mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương mà, đúng lý ra, phải được dùng để phát triển dân tộc, lại trở thành những khí giới gieo rắc sự chết cho toàn dân. Những yếu tố của một cơ hội phát triển đã biến thành những khí cụ của một tai họa.

Đồng thời, điều này vô cùng quan trọng cho chúng ta, sự chi phối của Trung Hoa, và sau lưng sự chi phối, sự đe dọa xâm lăng của Trung Hoa, mà chúng ta đã biết là vô cùng nặng nề, một cách liên tục, cho chúng ta trong hơn tám trăm năm, tạm thời đình chỉ trong gần một thế kỷ Pháp thuộc, đã bắt đầu hoạt động trở lại dưới các hình thức viện trợ và cố vấn quân sự cho quân đội của Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam.

Chúng ta thừa hiểu rằng sự phát triển của Tàu, là mục đích trước và trên hết trong mọi cuộc Đồng Minh hiện nay của các nhà lãnh đạo Trung Cộng, cũng như sự phát triển của Nga là mục đích trước và trên hết trong mọi cuộc Đồng Minh trước đây của các nhà lãnh đạo Nga. (tr. 202-204).

Nhưng Hà Nội còn phạm những lỗi lầm nghiệm trong hơn nữa, khi quyết định dụng võ lưc để thôn tính miền Nam, đã dẫn tới việc trực tiếp đụng độ quân sự với Hoa Kỳ, khiến miền Bắc đã khánh tận và kệt quệ trong cuộc chiến tranh chống Pháp càng lún sâu trong cảnh tượng hoàn toàn đỗ nát và hoang tàn trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, mà ngày nay, qua hành động gần như van nài của Hà Nội để xin lập lại bang giao với Hoa Kỳ vào năm 1996, ai còn chút lương tri bình thường cũng thấy rằng cuộc chiến đó là hoàn toàn vô lý và xuẫn động, mà nguy hiểm hơn nữa là trực tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Cộng tự do xâm lăng Việt Nam, vì Mỹ đã không còn hiện diện ở miền Nam, để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Cộng.

Trong tác phẩm Chinh Đề Việt Nam, hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng ngày nay cũng đã được báo động cách đây gần 50 năm:

Sự lệ thuộc nói trên và sự chia đôi lãnh thổ đã tạo hoàn cảnh cho sự chi phối và sự toan thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam tái hiện dũng mãnh, sau gần một thế kỷ vắng mặt. Ký ức của những thời kỳ thống trị tàn khốc của Tàu đối với chúng ta còn ghi trong mỗi trang lịch sử của dân tộc và trong mỗi tế bào của thân thể chúng ta.

Các nhà lãnh đạo miến Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc.

Sở dĩ, tới ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian.

Trong hoàn cảnh hiện tại, sự tồn tại của miền Nam vừa là một bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của Trung Cộng, vừa là một bảo đảm một lối thoát cho các nhà lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt, khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho dân tộc. Nhưng ngày nào họ vẫn tiếp tục thực hiện ý định xâm chiếm miền Nam thì họ vẫn còn chịu sự chi phối của chính sách chiến tranh xâm lăng của Trung Cộng, thay vì chính sách sống chung hòa bình của Nga Sô.

Vì vậy cho nên, sự mất còn của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một sự kiện quyết định sự mất còn trong tương lai của dân tộc. Do đó, tất cả nỗ lực của chúng ta trong giai đoạn này phải dồn vào sự bảo vệ tự do và độc lập, và sự phát triển cho miền Nam để duy trì lối thoát cho miền Bắc và cứu dân tộc khỏi ách thống trị một lần nữa. (tr. 212)

Chính Sách Ngoại Giao

Có lẽ, trong quá khứ, chúng ta quá sùng bái văn hóa Khổng Mạnh và quá lệ thuộc về chính trị đối với các Hoàng Đế Trung Quốc, nên chúng ta đã không xây dựng được một đường lối ngoại giao khoáng đạt như Nhật Bản để có thể cứu nguy cho đất nước, khi dân tộc bị nạn ngoại xâm. Ông Nhu đã kiểm điểm sự thất bại nặng nề của chính sách ngoại giao của các vua chúa ngày xưa qua những dòng dưới đây:

Họa xâm lăng đe dọa dân tộc chúng ta đến nỗi, trong suốt một ngàn năm lịch sử từ ngày lập quốc, trở thành một ám ảnh cho tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta. Và do đó mà lịch sử ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng bị chi phối bởi một tâm lý thuộc quốc.

Hai lần Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ tìm cách đả phá không khí lệ thuộc đó. Nhưng mặc dầu những chiến công lừng lẫy và tài ngoại giao rất khéo, hai nhà lãnh đạo trứ danh của dân tộc vẫn phải khuất phục trước thực tế.

Tâm lý thuộc quốc đè nặng, chẳng những trên sự bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, lại còn lan tràn sang lĩnh vực bang giao giữa chúng ta và các nước láng giềng. Nếu, đối với Trung Hoa, chúng ta là thuộc quốc, thì đối với các nước chung quanh, chúng ta lại muốn họ là thuộc quốc. Tâm lý đó làm cho sự bang giao, giữa chúng ta và các nước láng giềng, lúc nào cũng gay go. Đã đành rằng công cuộc Nam tiến của chúng ta, là một công trình mà dân tộc đã thực hiện được. Nhưng chúng ta còn thiếu tài liệu để cho các sử gia có thể xét đoán xem, nếu chính sách ngoại giao của chúng ta khoáng đạt hơn, tựa trên những nguyên tắc phong phú hơn thì, có lẽ sự bành trướng của chúng ta sẽ không một chiều như vậy. Ví dụ, một câu hỏi mà chúng ta không thể tránh được: chúng ta là một dân tộc ở sát bờ biển, nhưng sao nghệ thuật vượt biển của chúng ta không phát triển? Nếu chính sách ngoại giao của chúng ta phong phú hơn, và không bó hẹp vào một đường lối duy nhất, có lẽ sự bành trướng của dân tộc chúng ta, đã sớm phát ra nhiều ngõ, và sinh lực của chúng ta không phải chỉ dồn vào mỗi một công cuộc Nam tiến. Nước chúng ta ở vào giữa hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ. Với một chính sách ngoại giao khoáng đạt hơn, sự liên lạc quốc tế của chúng ta có lẽ đã rộng rãi hơn, và do đó, vị trí của chúng ta sẽ, đương nhiên, được củng cố bằng những biện pháp dồi dào và hữu hiệu hơn.

Nhưng thực tế là vậy đó. Họa xâm lăng của Trung Hoa đè nặng vào đời sống của dân tộc chúng ta, đến nỗi, tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta đều bị ám ảnh bởi sự đe dọa đó. Và, để đối phó lại, họ chỉ có hai con đường, một là thần phục Trung Hoa, hai là mở rộng bờ cõi về phía Nam.

Sở dĩ, khi bị Tây phương tấn công, mà các nhà lãnh đạo Triều Nguyễn của chúng ta lúc bấy giờ, không có đủ khả năng quan niệm một cuộc ngoại giao rộng rãi, để khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc Tây phương, là vì các nhà lãnh đạo của chúng ta không lúc nào vùng vẫy, đả phá nỗi không khí tâm lý thuộc quốc đã đời đời đè nặng lên lịch sử ngoại giao của chúng ta. Hành động ngoại giao duy nhất lúc bấy giờ là gởi sứ bộ sang cầu cứu với Trung Hoa. Chúng ta đã biết Trung Hoa đã hưởng ứng như thế nào lời kêu gọi của nhà Nguyễn. Nhưng Trung Hoa cũng đang bị đe dọa như chúng ta, nếu không có lẽ Trung Hoa đã lại thừa cơ hội mà đặt lại nền thống trị ở Việt Nam.

Các sứ bộ của chúng ta gởi sang Pháp lại cũng với mục đích điều đình, thần phục với Pháp như chúng ta quen điều đình, thần phục với Trung Hoa, chớ không phải với mục đích đương nhiên phải có của một hành động ngoại giao, là khai thác các mâu thuẫn để mưu lợi cho mình.

Vì thế cho nên, nếu chúng ta có cho rằng, công cuộc Nam tiến thành công là một kết quả của chính sách ngoại giao một chiều như trên đã trình bày, thì cân nhắc kết quả đó với những sự thất bại mà cũng chính sách ngoại giao đó đã mang đến cho chúng ta trong một ngàn năm lịch sử, thì có lẽ những sự thất bại nặng hơn nhiều.

Sự bành trướng của chúng ta đã thâu hẹp lại và chỉ theo có một chiều, bỏ hẳn cửa biển bao la đáng lý ra phải là cái cửa sống cho chúng ta.

Nền ngoại giao của chúng ta ấu trĩ nên, lúc hữu sự, không đủ khả năng để bảo vệ chúng ta. Trong khi đó, đối với một quốc gia nhỏ lúc nào cũng bị họa xâm lăng đe dọa, thì ngoại giao là một trong các lợi khí sắc bén và hữu hiệu để bảo vệ độc lập và lãnh thổ.

Trong chín trăm năm, từ ngày lập quốc, chúng ta đã bị ngoại xâm tám lần, bảy lần do Trung Hoa và một lần do Tây phương. Chúng ta đẩy lui được sáu lần, chỉ có lần thứ sáu nhà Minh đặt lại nền thống trị, trong hai mươi năm, và lần thứ tám đế quốc Pháp xâm chiếm toàn lãnh thổ và thống trị chúng ta trong hơn tám mươi năm.

Vì vậy cho nên, chống ngoại xâm là một yếu tố quan trọng trong chính trị của Việt Nam. Chính trị cổ truyền, của các triều đại Việt Nam không được quan niệm rộng rãi nên, nếu có phân nửa kết quả đối với sự xâm lăng của Trung Hoa thì lại hướng chúng ta vào một chính sách chật hẹp về ngoại giao. Do đó tất cả sinh lực phát triển của dân tộc, thay vì mở cho chúng ta được nhiều đường sống, lại được dốc hết vào một cuộc chiến đấu tiêu hao chỉ để tranh giành đất dung thân. Một mặt khác, chính sách ngoại giao chật hẹp đã đưa chúng ta vào một thế cô lập cho nên lúc hữu sự, các nhà lãnh đạo của chúng ta không đương đầu nổi với sóng gió, và lưu lại nhiều hậu quả tai hại cho nhiều thế hệ.

Chính sách chống ngoại xâm.

Cái họa ngoại xâm đối với chúng ta hiển nhiên và liên tục như vậy. Vì sao những biện pháp cổ truyền, của các nhà lãnh đạo của chúng ta trước đây, thành công phân nửa, trong công cuộc chống ngoại xâm Trung Hoa, nhưng thất bại trong công cuộc chống ngoại xâm Tây phương?

Trước hết, các biện pháp cổ truyền đã đặt vấn đề ngoại xâm của Trung Hoa là một vấn đề chỉ liên quan đến hai nước: Trung Hoa và Việt Nam. So sánh hai khối Trung Hoa và Việt Nam, và như thế, đương đầu phải là mục đích đương nhiên, thì chúng ta đã thất bại rồi. Những sự thần phục và triều cống chỉ là những biện pháp hoãn binh. Và vấn đề chống ngoại xâm chưa bao giờ được các triều đại Việt Nam đặt thành một chính sách đương nhiên và nguyên tắc, đối với một nước nhỏ, như nước chúng ta. Vì thế cho nên, những biện pháp cần được áp dụng, như biện pháp ngoại giao, đã không hề được sử dụng khi Tây phương xâm chiếm nước ta.

Lý do thứ hai, là công cuộc chống ngoại xâm chỉ được chuẩn bị trên lĩnh vực quân sự. Nhưng, nếu chúng ta không thể phủ nhận tính cách cần thiết và thành quả của các biện pháp quân sự trong các chiến trận chống các triều đại Trung Hoa: nhà Tống, nhà Nguyên cũng như nhà Minh, nhà Thanh, chúng ta phải nhìn nhận rằng nỗ lực quân sự của chúng ta rất là giới hạn. Và ngày nay, độc lập rồi, thì nỗ lực quân sự của chúng ta chắc chắn cũng rất là giới hạn.

Như vậy, đối với một nước nhỏ, trong một công cuộc chống ngoại xâm, biện pháp quân sự không thể làm sao đủ được. Trên kia, chúng ta có đề cập đến những biện pháp ngoại giao, đặt trên căn bản khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc để bảo vệ độc lập cho chúng ta.

Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.

Nếu ý thức quốc gia và dân tộc được ăn sâu vào tâm não của toàn dân, độc lập và tự do được mọi người mến chuộng, thì các cường quốc xâm lăng, dầu có đánh tan được tất cả các đạo quân của chúng ta và có thắng chúng ta trong các cuộc ngoại giao đi nữa, cũng không làm sao diệt được ý chí quật cường của cả một dân tộc.

Nhưng ý chí quật cường đó đến cao độ, mà không người lãnh đạo thì cũng không làm gì được đối với kẻ xâm lăng. Vì vậy cho nên, đồng thời với những biện pháp quần chúng nói trên, cần phải áp dụng những biện pháp giáo dục, làm cho mỗi người dân đều quen biết với vấn đề lãnh đạo, và, điều này còn chính yếu hơn nữa, làm cho số người thấu triệt vấn đề lãnh đạo quốc gia càng đông bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Bởi vì, có như thế, những người lãnh đạo mới không bao giờ bị tiêu diệt hết được. Tiêu diệt người lãnh đạo là mục đích đầu tiên và chính yếu của các cường quốc xâm lăng.

Nhân đề cập đến vấn đề chống xâm lăng trên đây, lý luận đã dẫn dắt chúng ta đến một vấn đề vô cùng quan trọng.

Trước tiên chúng ta nhận thức rằng đối với một nước nhỏ như chúng ta, họa xâm lăng là một đe dọa thường xuyên.

Để chống xâm lăng, chúng ta có những biện pháp quân sự và ngoại giao. Nhưng hơn cả các biện pháp quân sự và ngoại giao, về phương diện hữu hiệu và chủ động, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, phát huy ý thức quốc gia và dân tộc, và mở rộng khuôn khổ giới lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.

Sự thể đã như vậy, thì đương nhiên một chính thể chuyên chế và độc tài không làm sao đủ điều kiện để bảo vệ quốc gia chống ngoại xâm được. Bởi vì bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là tiêu diệt tận gốc rễ tinh thần tự do và độc lập trong tâm não của mọi người, để biến mỗi người thành một động cơ hoàn toàn không có ý chí, dễ điều khiển dễ đặt để, và dễ sử dụng như một khí cụ.

Bản chất của môt chính thể chuyên chế và độc tài là giữ độc quyền lãnh đạo quốc gia cho một người hay một số rất ít người, để cho sự thấu triệt các vấn đề căn băn của quốc gia trở thành, trong tay họ, những lợi khí sắc bén, để củng cố địa vị của người cầm quyền.

Hơn nữa, giả sử mà chính thể chuyên chế hay độc tài chưa tiêu diệt được hẳn tinh thần tự do và độc lập trong ý thức của mọi người, thì, tự nó, một chính thể chuyên chế hay độc tài cũng là một lợi khí cho kẻ ngoại xâm. Bởi vì, dưới một chế độ như vậy, nhân dân bị áp bức, sẽ đâm ra oán ghét người lãnh đạo họ, và hướng về, bất cứ ai đánh đổ người họ oán ghét, như là hướng về một người giải phóng, mặc dầu đó là một kẻ xâm lăng. Lịch sử xưa nay của các quốc gia trên thế giới đều xác nhận điều này: Chỉ có những dân tộc sống tự do mới chống được ngoại xâm.

Riêng về dân tộc chúng ta, chắc chắn rằng sự kháng cự của chúng ta đối với sự xâm lăng của Tây phương sẽ mãnh liệt hơn bội phần nếu trước đó, nhà Nguyễn, thay vì lên án tất cả những người bàn về quốc sự, đã nuôi dưỡng được tinh thần tự do và độc lập của mỗi người và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc trong nhân dân.

Ngược lại, mấy lần dân tộc thắng được ngoại xâm, từ nhà Trần đánh đuổi Mông Cổ, đến nhà Lê đánh quân Minh và Quang Trung chiến thắng Mãn Thanh, đều nhờ ở chỗ các nhà lãnh đạo đã khêu gợi được ý chí tự do và độc lập của toàn dân.

Và vấn đề vô cùng quan trọng mà chúng ta đã nêu ra trên kia là vấn đề chính thể của nước Việt Nam. Vì những lý do trình bày trên đây, chính thể thích nghi cho dân tộc chúng ta, không phải định đoạt do một sự lựa chọn căn cứ trên những lý thuyết chính trị, hay là những nguyên nhân triết lý, mà sẽ được qui định một cách rõ rệt bởi hoàn cảnh địa dư và lịch sử của chúng ta, cùng với trình độ phát triển của dân tộc.

Nếu bây giờ chúng ta chưa có ý thức rõ rệt chính thể ấy phải như thế nào, thì ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng chính thể đó không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được. Đó là một thái độ rất rõ rệt.

Tóm lại theo ông Nhu, muốn thoát khỏi hiểm họa xăm lăng của Trung Hoa, chúng ta phải theo đuổi 3 biện pháp sau đây:

Biện pháp ngoại giao.

Việt Nam cần phải có một sách lược ngoại khôn khéo, biết khai thác những mâu thuẩn giữa các cường quốc, các thế lực của các liên minh khu vực như khối ASEAN, khối Liện Hiêp Âu Châu… vì ngày nay theo khuynh hướng toàn cầu hóa của thế giới, thì ảnh hưởng kinh tế của các quốc gia trên thế giới cỏn có một tác động quyết định tới sự sống còn đối với Trung Cộng, hơn là 30 hay 40 chục năm trước đây.

Ngày nay, sự mâu thuẩn và tranh chấp giữa các cường quốc không còn gay cấn như thời chiến tranh lạnh, nhưng một quốc gia như Trung Cộng với một dân số hơn 1.3 tỉ người, chiếm tỉ lệ 19.64% dân số thế giới, đang vươn vai đứng dậy với tham vọng làm một cường quốc bá chủ Á Châu. Đó không những là một đe dọa riêng rẽ cho khu vực Á Châu Thái Bình Dương mà còn là một hiểm họa chung cho cả thế giới nữa. Trước đây gần 50 năm, ông Nhu cũng đã đề cập đến vấn đề này,

Không phải tình cờ mà ông Paul Reynaud, cựu Thủ Tướng Pháp trong cuộc viếng thăm nước Nga đã long trọng tuyên bố với Thủ Tướng Krutchev. “Nếu các ông tiếp tục viện trợ cho nước Tàu, trong vài mươi năm nữa, một tỷ dân Trung Hoa sẽ đè bẹp các ông và Âu Châu”. (Tr. 157)

Trong tháng 9. 2009 vừa qua, nhà cầm quyền Hà Nội, đã cử Tướng Phùng Quang Thanh, sang Tân Gia Ba để ký Hiệp Ước Hợp Tác Quốc Phòng, Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh đến Úc Châu, và Phó Thủ Tướng Phạm Gia Khiêm đến Hoa Kỳ, bí mật thảo luận về vấn đề an ninh lãnh thổ, phải chăng là thái độ nước đến chân mới nhảy, như hai phái đoàn của các vua chúa Triều Nguyễn ngày xưa, chúng ta thử nghe ông Nhu biện giải:

Sau khi Trung Hoa bị tấn công, thì lúc bấy giờ phản ứng của chúng ta là vội vã gửi hai phái bộ sang Pháp và Anh, mà không có một sự chuẩn bị ngoại giao nào cả. Lối gởi phái bộ như vậy là lối gởi phái bộ sang Tàu xưa nay. Và sự gởi hai phái bộ sang Pháp và Anh, theo lối gởi phái bộ sang Tàu xưa nay, lại càng làm cho chúng ta nhận thức, một cách rõ rệt hơn nữa, quan niệm ngoại giao của chúng ta lúc bấy giờ mang nặng ‘tâm lý thuộc quốc’ [đối với Tàu], đến mức độ nào. (tr. 181).

Lẽ ra, các nhà lãnh đạo Hà Nội phải tích cực hơn, phải khôn khéo hơn, nếu không dám công khai, thì ít ra cũng phải bí mật, vận động giới truyền thông thế giới, cảnh báo và vận động dư luận thế giới, trước hết là các quốc gia ở vùng Đông Nam Á Châu, rồi đến Nga Sô, Liên Hiệp Âu Châu và các quốc gia Á Phi biết về hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng. Điều rõ ràng nhất hiện nay, là các quốc gia trong vùng như Úc, Tân Gia Ba, Thái Lan, Nam Duong và Mã Lai Á [5], đều gia tăng ngân sách cho tài niên 2009 về Không lực và Hải quận gấp bội, nhằm đối đầu với âm mưu bành trướng của Trung Cộng. Nghĩa là các quốc gia này đều bắt đầu lo sợ về sự lớn mạnh của Trung Cộng, nhưng chưa có một vận động quốc tế nào nhằm qui tụ những nỗ lực này thành cụ thể và tích cực để ngăn chặn sự bành trướng đó. Việt Nam là nạn nhân trước hết và trực tiếp của nguy cơ này, phải biết dồn hết nỗ lực về mặt trận ngoại giao, phải vận động, công khai hoặc bí mật, tất cả các quốc gia trên thế giới nhận thức sâu sắc được mối hiểm họa nghiêm trọng này và khi tạo được sự đồng thuận của đa số. Việt Nam vận động đưa vấn đề này ra Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, dù biết rằng hiện nay Trung Cộng là 1 trong 5 hội viên thường trực của Hội Đồng Bảo An có quyền phủ quyết, mọi nghị quyết của Đại Hội Đồng. Nhưng vấn đề chủ yếu của Việt Nam là chính thức công khai đưa ra trước Liên Hiệp quốc một hiểm họa thực sự nghiêm trọng của toàn thế giới, để kiếm tim một hổ trợ quốc tế tích cực nhằm ngăn chặn âm mưu xâm lăng từ Trung Cộng. Hơn nữa, Việt Nam cũng phải biết vận động và nỗ lực đưa vấn đề này ra trước Tòa Án Quốc Tế ở The Hague (International Court of Justice at The Hague). Mục đích không phải là tìm kiếm một phán quyết của tòa án này cho vấn đề tranh chấp, nhưng trọng điểm của nỗ lực này là tạo nên sự chú tâm theo dỏi của dư luân quốc tế về một hiểm họa chung của thế giới

Chúng ta còn nhớ, khi muốn lật đỗ chinh quyền Ngô Đình Diệm, nhóm chống Tổng Thống Diệm trong Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã vận động các quốc gia Á Phi đưa vấn đề được báo chí Hoa Kỳ thời đó gọi là Đàn Áp Phật Giáo và Vi Phạm Nhân Quyền tại Việt Nam, ra trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, chuẩn bị dư luận trước ở các quốc gia Á Phi cho việc thay đổi chính phủ tại miền Nam, trước khi âm mưu tổ chức đảo chánh ở Sài Gòn, để khỏi gây nên những ảnh hưởng tiêu cực tại các quốc gia đó đối với chính sách ngoại giao của Mỹ. Nhưng ông Nhu và Gs. Bửu Hội [6] đã phá vỡ âm mưu này bằng cách chính thức mời Liên Hiệp Quốc cử một phái đoàn đến Việt Nam điều tra tại chổ, trước khi đưa vấn đề này ra thảo luận tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Rồi khi phái đoàn này đến Việt Nam điều tra và hoàn thành một bản phúc trinh dày gần 300 trang, với kết luận là không có đàn áp Phật Giáo tại Việt Nam, thì Bộ Ngoai Giao Hoa trở nên lúng túng, sợ rằng nếu đưa vấn đề này ra thảo luận tại Liên Hiệp Quốc sẽ làm giảm uy tín của Hoa kỳ và tạo cơ hội cho Trung Cộng tấn công Hoa kỳ đã xen vào nội bộ của Việt Nam và đã tổ chức đảo chánh ở Saigon, nên cử Cabot Lodge vào đầu tháng 12. 1963, liên lạc với Sir Senerat Gunaewardene của Tích Lan, là trưởng phái đoàn điều tra của Liên Hiệp Quốc lúc đó, đừng đưa bản phúc trình này ra thảo luận tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc nữa, và Sir Senerat đã đồng ý làm điều đó như một ân huệ cá nhân của ông dành cho Lodge (Gunawardene agreed to do so as a personal favor to Lodge), vì trước đây khi làm Đại Sứ Hoa kỳ tại Liên Hiệp Quốc, Lodge là bạn của ông. [7]

Như vậy, chúng ta thấy đối với một cường quốc như Hoa Kỳ, họ cỏn biết vận dụng Diễn Đàn Liên Hiệp Quốc hỗ trợ cho những mục tiêu chính trị của họ. Tại sao Việt Nam đứng trước một hiểm họa đe dọa sinh tử đến vận mạng của cả dân tộc, chúng ta lại không vận động để tìm hậu thuẩn của thế giới để bảo vệ nền độc lập của chúng ta?

Nhưng thực tế, chúng ta rất đau lòng, khi thấy, các nhà lãnh đạo Hà Nội, về phương diện ngoại giao, đã đánh mất rất nhiều cơ hội lịch sử quí báu, để khôi phục độc lập cho dân tộc và phát triển quốc gia. Đó là cơ hội của những năm 1945, 1954, 1973 và 1975.

Thực vậy, nếu ngày xưa các vua chúa Triều Nguyễn, vì quá tin tưởng vào văn hóa Trung Hoa đã trở nên tự tôn và thiển cận, thì ngày nay các nhà lãnh đạo Hà Nội cũng quá sùng bái chế độ Cộng Sản và quá tin tưởng vào lý luận giai cấp đấu tranh, đã trở nên mù quáng, xem mọi người đều là kẻ thù, nên chưa bao giờ họ có thể đề ra một chính sách ngoại giao khoáng đạt và lương hảo, còn về phương diện quốc nội họ cũng không có đủ cởi mở, để thực tâm mời những thành phần khác biệt chính kiến, thành lập một chính phủ đoàn kết để phát triển quốc gia. Trái lại, họ chỉ có những thủ đoạn chính trị gian trá và xão quyệt để lừa dối đối phương, để rồi cuối cùng là tiêu diệt đối phương. Điều này chứng tỏ hết sức rõ rệt khi nhìn về lịch sử Việt Nam Cận và Hiên Đại.

Năm 1946, Cộng Sản dùng chiêu bài chính phủ Liên Hiệp, để tiêu diệt phe Quốc Gia, rồi năm 1954, ký hiệp định Genevea, chưa ráo mực, họ đã vi pham hiệp định này, bằng cách gài lại hơn 70,000 cán bộ tại miền Nam với âm mưu khuynh đảo chính quyền Quốc Gia Việt Nam. Đến năm 1973, một lần nữa, họ đã lừa phỉnh để tiêu diệt phe quốc gia dưới chiêu bài mới là Hòa Hợp và Hòa Giải Dân tộc. Còn đối với quốc tế, khi ký hiệp định Paris, họ long trọng cam kết để nhân dân Miền Nam hoàn toàn tự do quyết định vận mạng của mình. Ngay sau đó, khi người Mỹ, theo đúng cam kết của hiệp định này, rút khỏi miền Nam, thì họ đem quân xóa sỗ chinh phủ Sài Gòn…

Với một những phương cách gọi là liên hiệp, hợp tác và một lịch sử bang giao đầy phản trắc và gian trá như vậy, ai còn có thể tin tưởng vào Hà Nội để hợp tác hữu nghị. Do dó, từ ngày cướp chính quyến tại Hà Nội vào tháng 8 năm 1945 đến nay, các nhà lãnh đạo miền Bắc bị đui mù bởi lý thuyết Mác-Lênin và Mao Trach Đông, theo đuổi một chế độ độc tài phi nhân, tàn sát và thủ tiêu các thành phần bất đồng chính kiến, đầy đọa toàn dân trong cảnh nghèo đói, thất học, thù hận và bắn giết lẫn nhau. Còn về phương diên quốc tế, vì thiếu hiểu biết và chỉ biết quyền lợi của phe nhóm, nên họ đã liên kết với Trung Cộng và Liên Sô, để đưa toàn thể dân tộc vào một cuộc chiến tranh kéo dài hơn 30 năm. Đó là một cuộc chiến tranh lâu dài và khốc liệt nhất trong lich sử nhân loại.

Thực vậy, lâu dài nhất vì cuộc Thế Chiến I, chỉ có 4 năm, từ 1914-1918, Thế Chiến 2, chỉ có 6 năm, từ 1939-1945, và khốc liệt nhất, vì số bom đạn được sử dụng trong chiến trường Việt Nam gấp 2.5 số bom đạn dùng trong Thế Chiến 2. Nhưng điều tệ hại hơn nữa, khi nhận viện trợ từ Trung Cộng để đánh Mỹ cũng là lúc họ đã thực sự rước họa xâm lăng từ phương Bắc vào Việt Nam.

Đối với những nhà lãnh đạo có một não trạng bệnh hoạn như vậy làm sao có được một viễn kiến chính tri sâu sắc, một chinh sách ngoại giao khoáng đạt và biết khai thác những mâu thuẩn quốc tế để kiếm tìm nhũng đồng minh hữu hiệu, để rồi cùng với sự hỗ trợ tích cực của toàn dân trong nước, nhằm tạo thành một sức mạnh dũng mãnh để chống lại hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng

Biện Pháp Quân Sự

Hiện nay, Việt Nam có một đội quân khoảng 450,000 người. Đây là một lực lượng quân sự lớn nhất so với các quốc gia tại Đông Nam Á hiện nay. Nhưng vấn đề đặt ra liệu quân nhân dưới cờ còn có tinh thần để hy sinh và chấp nhận gian khổ để chiến đấu nữa hay không? Khi chính họ chứng kiến những thực trạng xã hội quá phũ phàng trước mắt, trong khi các lãnh tụ của họ tìm mọi cách để vơ vét tài sản quốc gia cho cá nhân, gia đình và phe nhóm, còn tuyệt đại đa số dân chúng, trong đó có cả các gia đình bộ đội Cộng Sản, bị bóc lột, sống trong cảnh khốn cùng nhất, chưa từng thấy trong lịch sử cận đại Việt Nam, từ trước tới nay, nghĩa là còn cơ cực hơn thời Thực Dân Pháp đô hộ đất nước chúng ta.

Nhưng sau hết và mấu chốt hơn hết, vẫn là vấn đề các nhà lãnh đạo Hà Nội có còn ý chí để chiến đấu nhằm bảo vệ tổ quốc chống lại họa ngoại xâm nữa hay không? Chúng ta hơi bi quan, khi nghe lời bình luận của Carl. Thayer, một chuyên gia về các vấn đề Việt Nam, tại Học Viện Quốc Phòng Hoàng Gia Dantroon của Úc. Có lẽ bây giờ các nhà lãnh đạo Hà Nội đã trở nên quá giàu có, họ muốn được yên thân để bảo vệ tài sản và gia đình của họ hơn… cho nên việc mất thêm một vài hải đảo xa xôi như Hoàng Sa và Trường Sa, mất thêm một ít lãnh thổ và lãnh hải ở phía Bắc không còn là vấn đề quan trọng với họ nữa !

Biện Pháp Chính Trị

Đó là nuôi dưỡng tinh thần độc lập, tự cường, tự chủ cùng ý thức quốc gia và dân tộc. Ông Nhu đã biện giải vấn đề này như sau:

Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.

Và sau cùng ông Nhu đã đi đến kết luận, muốn thắng hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng một chính thể chuyên chế hay độc tài như Hà Nội hiện nay, không thể nào thành công được.

Trong khi đó, chúng ta đều biết rằng hiện nay thế giới đang chứng kiến những thay đổi khốc liệt nhất, đặc biệt là trong lãnh vực tin học và khoa học kỹ thuật, còn trong lĩnh vực chính trị ngoại giao, như Tổng Thống Obama, cũng kêu gọi, một sự hợp tác và hòa giải giữa các quốc gia, để đẩy lùi bóng tối của chiến tranh và nghèo đói, nhằm kiến tạo một kỷ nguyên hữu nghị, hợp tác, hòa bình và thịnh vượng cho toàn thế giới, thì các nhà lãnh đạo của Hà Nội vẫn giữ nguyên bản chất của Cộng Sản là độc quyền lãnh đạo, độc tài toàn trị và để cũng cố chính quyền chuyên chế, họ thẳng tay đàn áp đối lập, các giáo hội tôn giáo chân chính, áp dụng chính sách đầy đọa người dân trong cảnh nghéo đói, chậm tiến và thất học… để trong nước không còn ai có thể chống đối lại họ được.

Với những kiểm điểm sơ lược trên đây, chúng ta đều thấy trước rằng, nếu dân tộc chúng ta không còn cơ may để thay đổi thành phần lãnh đạo tại Bắc Bộ Phủ, thi vấn đề Việt Nam nội thuộc nước Tàu chỉ còn là vấn đề thời gian.

Tiến Sĩ Phạm Văn Lưu
Melbourne, 1. 11. 2009

Ghi chú:

[1]. Linh Muc De Jaegher, Cố vấn thân cận của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Tổng Thống Tưởng Giới Thach, đàm luận với tác giả tại Sàigòn vào 6.1966.

[2]. Sách được xuất bản mang tên Tùng Phong, Chính Đê Việt Nam, Saigon-Việt Nam, 2009

[3]. Xin xem các diễn văn này trong La Voix de la Juste Cause, Recueils Des Principaux Discours et Meassages du President Ngo Dinh Diem, June 1954 – Juillet 1963, Saigon, Service de la Press de la Presidence de la Republique du Vietnam, 1963. Các diễn văn này thường được ông Phạm Đình Khiêm dịch ra Việt ngữ và Gs. Tôn Thất Thiện ra Anh ngữ.

[4]. Có lẽ vì đánh máy sai, nên trong ấn bản in là vĩ tuyến 17, thực tế là vĩ tuyến 16 (Chú thich của người viết).

[5]. Nước Úc trong bản ngân sách 2009-2010, đã gia tăng hơn 6.6.tỉ bạc (từ 19.8 tỉ lên 26.4 tỉ), để gia tăng khả năng không lực và hải quân nhằm bảo vệ lãnh thổ. Điều này khiến chính quyền Nam Dương phải quan ngại, sau đó chính phủ Úc đã phải lên tiếng trấn an.

Còn Thái Lan trong bản ngân sách 2008, ngân sách dành cho Bộ Quốc Phòng đã tăng lên tới 4.5 tỉ US dollars, qua mặt cà Nam Dương và Mã Lai về chi phí quốc phòng.

Tân Gia Ba trong bản ngân sách 2009, họ cũng đã dành đến 34% cho ngân sách quốc phòng. Nhưng từ lâu Tân Gia Ba, có lẽ, đã thấy trước được hiểm họa xăm lăng của Trung Quốc, nên họ đã có những thỏa hiệp liên kết quân sự với Hoa Kỳ từ năm 1990 với thỏa hiệp MOU và đến 2005 họ đã ký hiêp ước Hợp Tác Quân Sự với Hoa Kỳ. Nam Dương đã để chi phí quốc phòng vào hàng ưu tiên thứ 3 trong bản ngân sách 2008 với ngân khoản là 3.3 tỉ US dollars.

Còn Mã Lai, muc tiêu của ngân sách 2008, dành ưu tiên cho phúc lợi toàn dân, nên chi phí quốc phòng phải bị cắt giảm tối đa, nhưng riêng chi phí dành cho Không Lực Mã Lai, không bị cắt giảm mà lại còn được gia tăng từ 1,482 tỉ Mã kim lên đến 1,613 tỉ Mã kim để gia tăng khả năng phòng thủ quốc gia.

[6]. Giáo sư Bửu Hội là một phật tử và thân mẫu của giáo sư là Sư Cô Diệu Huệ, lúc đó Giáo sư được Tổng Thống Diệm cử làm trưởng phái đoàn đặc biệt tại Liên Hiệp Quốc từ tháng 9.1963, đặc trách về cuộc Khủng Hoảng Phật Giáo.

[7]. Theo sự tiết lộ cùa Bà Swarna L. Ganawardene, con gái cùa Sir Senerat, trong thư gởi cho Bà Anne Blair, (một đồng nghiệp của người viết tại Đại Học Monash trước đây), vào tháng 11.1989. Và cũng có thể xem thêm Điện văn số 2444 từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ gởi cho Tòa Đại Sứ Mỹ Saigon, ngày 11.12.1963 dưới tiêu đề Gunawardene’s killing the debate. xem Anne Blair, Lodge in Vietnam, A Patriot Abroad, New Haven, Yale university Press, 1995, tr. 78