Sunday, October 25, 2009

Nhạc Sĩ Đặng Thế Phong Một Tài hoa bạc mệnh - Lê Hoàng Long

Nhạc Sĩ Đặng Thế Phong

Trăm năm trong cõi người ta
Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau
(Nguyễn Du)

Lê Hoàng Long

Suy từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, người tài hoa là người bạc mệnh, kẻ hồng nhan thường đa truân. Nhìn vào làng nhạc, nhạc sĩ Đặng Thế Phong là điển hình rõ nét nhất.

Đặng Thế Phong sinh năm 1918 tại thành phố Nam Định. Ông là con trai Đặng Hiển Thế, thông phán Sở Trước bạ Nam Định. Thân phụ ông chẳng may mất sớm, gia đình túng thiểu, ông phải bỏ học khi đang theo học năm thứ hai bậc thành chung (deuxième année primaire supérieure, nay là lớp bảy cấp hai phổ thông). Vướng vào cái nghiệp văn nghệ từ thủa còn nhỏ nên ông đã lên Hà Nội theo học trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (Ecole supérieure de Beanx Arts) với tư cách bằng thính viên (auditeur libre). Đặng Thế Phong đã thực sự lấy nghề nuôi nghiệp: thời gian theo học này, ông đã phải vẽ tranh cho báo Học Sinh (chủ báo là nhà văn Phạm Cao Củng) để có tiền ăn học. Trong một kỳ thi, ông đã vẽ một bức tranh cây cụt, không có một cành nào. Lúc nạp bài, giáo sư Tardieu, thầy dạy ông đã nói rằng có lẽ Đặng Thế Phong không thọ!

Ông đã phiêu du vào Sài Gòn rồi sang Nam Vang vào đầu năm 1941 và mở một lớp dạy nhạc tại kinh đô xứ Chùa Tháp cho đến mùa thu 1941 ông lại trở về Hà Nội.

Cũng giống như Mozart lúc sinh thời, Đặng Thế Phong là một nhạc sĩ rất nghèo, nên cuộc sống của ông chật vật. Ngoài tài làm nhạc, vẽ tranh, ông còn có giọng hát khá hay, tuy chưa được là Ténor nhưng cũng được khán giả hâm mộ. Lần đầu tiên ông lên sân khấu, hát bài Con Thuyền Không Bến tại rạp chiếu bóng Olympia (phố Hàng Da Hà Nội) vào năm 1940, được hoan nghênh nhiệt liệt. Đặng Thế Phong là một thiên tài, nhưng vẫn không có được cuộc sống sung túc giữa cố đô Thăng Long lúc bấy giờ vì nhạc và tranh dù có hay, có đẹp đến mấy chăng nữa cũng chẳng có mấy ai mua. Thời ấy, chính quyền bảo hộ Pháp có mở một phòng triến lãm tranh tại hội Khai Trí Tiến Đức, khu Bờ Hồ Hoàn Kiếm. Sau lễ khai mạc được ông Đốc Lý thành phố Hà Nội đến cắt băng, người ta thấy những người đến xem tranh phần rất lớn toàn là ông Tây, bà đầm, còn người Việt thì đúng là lơ thơ tơ liễu buông mành, nhìn kỹ thấy toàn là các quan ta, những công chức cao cấp, giới trí thức, thượng lưu chứ chẳng thấy một dân thường nào! Ngoài ra, thời bấy giờ chính quyền Pháp có tổ chức mở phòng triển lãm là bảo trợ cho các hoạ sĩ Pháp trưng bày tranh của mình còn hoạ sĩ Việt Nam thì số người lọt được vào, ta có thể đếm trên đầu ngón tay. Đến nhạc thì nếu có in, mỗi lần xuất bản cũng chỉ in nhiều nhất là 500 bản, dân chúng chưa yêu chuộng nhạc cải cách (tân nhạc) nên dù có thực tài thì cũng không thể có được một cuộc sống sung túc nếu nhờ vào sức lao động nghệ thuật!

Đặng Thế Phong phải chịu một cuộc sống khó khăn, chật vật trong "kiếp con tằm đến thác vẫn còn vương tơ" cho đến đầu năm 1942, ông từ giã cõi đời tại căn gác hẹp ở phố Hàng Đồng Nam Định vì bệnh lao màng (tuberculose péritonique), hưởng dương 24 tuổi, tuổi son trẻ, đầy thơ mộng, sắp bước vào thời xây dựng sự nghiệp (tam thập nhi lập).

Cuộc đời của Đặng Thế Phong thật quá ngắn ngủi nhưng đời sống tinh thần của ông rất phong phú và thi vị. Nhờ thế mà tuy sáng tác chỉ có ba bài :

Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu

Nhưng bài nào cũng trở thành vĩnh cửu, qua hơn nửa thế kỷ vẫn là những bài hay nhất của làng nhạc Việt Nam. Nhạc hứng chân thành đều phát xuất từ con tim, vì thế mà sáng tác của ông có hồn, đi vào lòng người và sống mãi ! Qua Đặng Thế Phong, ta chứng minh được văn nghệ tính phẩm chứ không tính lượng (quý hồ tinh bất quý hồ đa) . Con người làm văn nghệ viết được một câu để đời đã là khó, được một tác phẩm để đời là đáng mãn nguyện lắm rồi. Với âm nhạc, người chuyên sử dụng một nhạc cụ cho thật điêu luyện được tôn kính hơn là người biết sử dụng nhiều thứ đàn, chẳng thế nào có được một thứ thật tuyệt hảo. Về sáng tác cũng vậy, làm cho nhiều, cố nặn cho lắm, thể điệu nào cũng có bài thì dù viết cả ngàn bài chưa chắc đă có lấy một bài có giá trị nghệ thuật và vĩnh cửu! Chỉ sáng tác có ba bài thôi, Đặng Thế Phong đã sống mãi trong lòng mọi người, chắc chắn là hơn người có cả ba trăm bài mà chẳng có một bài nào để người ta nhớ! .

Với nghệ thuật nói chung, âm nhạc nói riêng, muốn thành công là phải có tài năng thiên phú chứ không thể nhờ vào thời gian, kiên nhẫn, sách vở, trường lớp hay bằng cấp mà đạt được! Vì thế chúng tôi dám tôn vinh Đặng Thế Phong là một thiên tài của làng nhạc Việt, thật không ngoa.

Cuộc đời Đặng Thế Phong đã có được một mối tình thật chung thủy tuyệt đẹp: Khi còn ở Nam Định, Đặng Thế Phong đã đem lòng yêu một thiếu nữ buôn bán ở Chợ Sắt, chợ duy nhất và lớn nhất của thành phố. Cô này không đẹp nhưng lại rất có duyên. Sau nhiều ngày đi chơi chợ, Đặng Thế Phong đã lọt vào mắt mỹ nhân. Cặp tình nhân trai tài, gái đảm đã dìu nhau vào cuộc tình thật trong sáng và cao thượng! Điều đáng ca ngợi là chàng nhạc sĩ tài hoa họ Đặng không bao giờ đụng chạm đến đồng tiền của người yêu, dù cho người đẹp, tên Tuyết, nhiều lần khôn khéo bày tỏ lòng mình muốn giúp chàng. Những buổi chiều trời quang, mây tạnh hay gió mát, trăng thanh, hai người đều dìu nhau trên những con đường ngoại ô để tâm tình. Thời bấy giờ, nhiều thanh niên rất ngưỡng mộ Đặng Thế Phong, khi biết mối tình của cặp Phong - Tuyết, đều mến trọng và tôn kính là một cuộc tình lý tưởng!

Đặc biệt nhất là mấy cô gái phố Hàng Đồng, gia đình rất khá giả tỏ lòng yêu mến Đặng Thế Phong, nhưng ông vẫn một lòng yêu cô Tuyết, dù cô không đẹp bằng mấy cô kia. Có một hôm, mấy cô kia đang đứng nói chuyện với nhau thấy Đặng Thế Phong đi qua, với lối đi có vẻ vội vã. Thấy bóng ông, mấy cô ngưng bặt, rồi chẳng ai bảo cô nào, tất cả ánh mắt đều hướng về ông như dán chặt vào người ông vậy. Khi Đặng Thế Phong vừa bước tới ngang chỗ các cô thì một giọng nói đầy hờn dỗi pha thêm mai mỉa, được nói lớn lên, cố ý cho Đặng Thế Phong nghe thấy:

- Mấy chị đứng dịch ra, người ta đi vội kẻo trễ hẹn.

Đặng Thế Phong nghe rõ nhưng coi như điếc, cứ rảo bước như không có gì xảy ra. Đến nơi hẹn, gặp cô Tuyết đã đứng chờ, Đặng Thế Phong kể cho cô nghe vụ vừa bị chọc ghẹo. Cô Tuyết không nói gì mà chỉ tủm tỉm cười với ánh mắt nhìn người yêu thật là trìu mến. Về nhà, Đặng Thế Phong không nói ra với anh chị em mà thầm thì kể cho ông chú họ, cùng lứa tuổi, là ông Nguyễn Trường Thọ biết thôi. Ngoài ra, ông còn kể cho ông Thọ nghe chuyện cô Tuyết có một chàng thông phán trẻ, đẹp trai, có tiền, có địa vị, làm ở Tòa Đốc Lý thành phố theo đuổi, còn nhờ cả hai người mai mối nhưng cô nhất quyết khước từ, bất chấp cả lời dị nghị của mọi người, nhất là gia đình cố ý gán ghép.

Năm 1940, Đặng Thế Phong phải tạm xa cô Tuyết để lên Bắc Giang ít ngày. Ai đã đến Bắc Giang là biết thị xã này có con sông Thương, một con sông có hai dòng nước, bên đục, bên trong. Kẻ viết bài này, lúc bé học ở Bắc Giang, vào những ngày hè nóng bức, cùng bạn bè ra sông bơi. Đứng từ trên cầu ra tháp nước khá cao, nhìn thấy rõ hai dòng nước đục trong rõ rệt ! ở Bắc Giang, một buổi tối trăng sao vằng vặc, Đặng Thế Phong đã cùng bạn bè thuê thuyền cắm sào rồi cùng nhau chén chú, chén anh hàn huyên mọi chuyện. Đang lúc đang vui thì có người ra đưa cho Đặng Thế Phong một bao thư. Ông ngưng ngay chuyện trò và vào trong khoang, lấy bao diêm ra đốt lửa để coi thư và đây đúng là thư của cô Tuyết, từ thành Nam gửi lên cho ông. Đọc xong thư, ông có vẻ buồn và suy nghĩ. Bạn bè thắc mắc nên hỏi, được ông cho biết thư báo tin cô Tuyết nhuốm bệnh cả tuần rồi và nhớ ông lung lắm nên có lẽ ông phải về Nam Định gấp! Chính đêm này, lúc đêm sắp tàn, Đặng Thế Phong thao thức không sao chợp mắt được, đã ngồi dậy sáng tác được tác phẩm Con Thuyền Không Bến buồn não ruột:

Đêm nay thu sang cùng heo may
Đêm nay sương lam mờ chân mây
Thuyền ai lờ lững trôi xuôi giòng
Như nhớ thương ai trùng tơ lòng...
.. Lướt theo chiều gió
Một con thuyền theo trăng trong
Trôi trên sông Thương nước chảy đôi dòng
Biết đâu bờ bến?
Thuyền ơi thuyền trôi nơi nao
Trên con sông Thương nào ai biết nông sâu?...

Hai hôm sau Đặng Thế Phong từ giã bạn bè, rút ngắn thời gian để về Nam Định. Được tin Đặng Thế Phong đã về, cô Tuyết thấy bệnh thuyên giảm rất nhanh. Và tối hôm sau hai người hẹn gặp lại nhau. Lúc ấy miền Bắc đang vào Thu, gió heo may kéo về mang cái lạnh. Tối hôm ấy trăng lên muộn, trời tối gió nhẹ làm cho hai người thấy thích thú đi bên nhau để sưởi ấm lòng nhau sau bao ngày xa cách. Dìu nhau đến nơi cũ, Đặng Thế Phong ghé sát tai cô Tuyết, hát nhẹ nhàng, giọng rạt rào tình cảm như rót vào tai cô bài Con Thuyền Không Bến mà ông vừa sáng tác trong một đêm trắng trên sông Thương vì thương nhớ cô. Khi hát xong, Đặng Thế Phong phải lấy khăn tay ra nhẹ nhàng lau hai giòng lệ đang từ từ chảy xuống má cô với lòng xúc động không kém! Lúc ra về, Đặng Thế Phong nói: "Làm được một bài nhạc nhờ em, nay về được hát cho em là người đầu tiên nghe, thế là anh sung sướng lắm rồi!"

Cô Tuyết cũng đáp lại lòng tri kỷ: Là một người đàn bà tầm thường như em mà đã làm cho anh có được một bài hát thì với em đó là một vinh dự , một hạnh phúc thật cao sang, không phải ai ở trên đời cũng có được ! Tình anh trao cho em thật trọn vẹn, thật bất diệt, chắc chắn không bao giờ hình ảnh anh bị phai mờ trong tim trong óc em được, bây giờ và mãi mãi. Đến lúc ấy chi. Hằng mới ló mặt ra dịu dàng nhìn xuống trần thế và chứng giám hai người yêu nhau đang đứng sát bên nhau sau khi đã uống cạn lời nói của nhau. Sau hôm ấy, Đặng Thế Phong mới cho phổ biến rất hạn chế trong đám thanh niên tỉnh nhà bài Con Thuyền Không Bến, được mọi người yêu chuộng nên rất nhiều người biết đến.

Chính vì thế mà có một người ở Hà Nội mới mời Đặng Thế Phong lên Hà Nội để hát tại rạp chiếu bóng Olympia bài hát của mình. Trong buổi ấy, Đặng Thế Phong ra sân khấu hát Con Thuyền Không Bến đầy xúc động vì ngay ở hàng ghế đầu, cô Tuyết đã bỏ hẳn một ngày chợ để lên Hà Nội nghe người yêu hát bài làm vì mình và cho mình! Riêng với Đặng Thế Phong, ông xúc động là phải vì với số khán giả đông đảo không đáng ngại mà là trong lòng ông thầm nghĩ hát hôm nay rất cần và chỉ cần để một người nghe là đủ nên phải mang hết tài trí ra biểu diễn sao cho thành công ! Hát xong, khán giả vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.

Sau một thời gian ở Bắc Giang, ông nhuốm bệnh. Vì lúc đó bệnh lao là nan y nên ông dấu mọi người, ai biết đều sợ bị lây nhiễm không hiểu sao cô Tuyết biết được. Cô Tuyết rất tế nhị và khôn khéo hỏi Đặng Thế Phong:

- Sao dạo này em thấy anh gầy và xanh lắm, Anh có bệnh gì không mà em thấy sút lắm ! Anh đi nhà thương khám và thuốc men, cho khoẻ để mình còn tính đến tương lai!

Ông ậm ừ cho qua Từ đó cô Tuyết âm thầm tìm mọi cách để giúp người yêu trong lúc nhà nghèo bệnh trọng. Đặng Thế Phong cũng đến nhà thương để khám bệnh. Sau khi dò hỏi, biết bệnh của ông, cô Tuyết nhân quen với một số y sĩ (médecin indochinois) làm ở nhà thương, mua thuốc rồi nhờ ông ta nhận là thuốc của nhà thương, ông lấy cho Đặng Thế Phong.

Thuốc bệnh lao lúc ấy vừa hiếm lại vừa đắt, cô Tuyết không những không ngại tốn kém, mà còn thường xuyên gặp Phong để săn sóc một cách kín đáo, kể cả không sợ bị lây . Về phần Đặng Thế Phong thì ông không hề biết thuốc là của cô Tuyết mua cho mình.

Trong các cuộc tình cao đẹp của văn nghệ sĩ , có hai nữ lưu đáng để người đời ca tụng : cô Tuyết biết người yêu bị bệnh nan y, rất dễ lây, Mộng Cầm biết Hàn Mặc Tử bị bệnh phong cùi, vừa ghê sơ. vừa dễ lây thế mà hai ngườí đã có tình yêu chân thật, chung thủy, không những không sợ mà còn hết lòng chăm sóc, thuốc men cho đến ngày tử biệt ! Thật hiếm hoi và cao quý vô cùng !

Mùa xuân năm 1941, cô Tuyết cùng Phong từ Nam Định lên Hà Nội dể tiễn chân và tạm biệt Đặng Thế Phong vào Sài Gòn (rồi đi Nam Vang). Ở kinh đô xứ Chùa Tháp, ơ? Hòn Ngọc Viễn Đông một thời gian thấy cuộc sống cũng không được thoải mái như ý mong muốn, Đặng Thế Phong trở về Hà Nội . Về lần này, Đặng Thế Phong không về Nam Định mà thuê một căn gác hẹp tường cây, mái lá ở làng trồng hoa Ngọc Hà, vùng ngoại ô thành phố Hà Nội . Đặng Thế Phong ở chung với chú là ông Nguyễn Trường Thọ. Bệnh tình Đặng Thế Phong tái phát ngày một nặng vì người bị bệnh này phải mua thuốc men đầy đủ, phải nghỉ ngơi và ăn uống tẩm bô? tối đa mà những điều phải ắt có và đầy đủ này, với Đặng Thế Phong không thể có được. Chính vì thế mà không tuần nào là cô Tuyết không lên thăm và lo chữa bệnh cho Đặng Thế Phong.

Tháng Bảy mưa ngâu tầm tã, rả rích suốt ngày này sang ngày nọ, tháng này qua tháng khác, gió lạnh kéo về, nhà thì tường cây, mái lá, lạnh buốt lọt xương, cuộc sống kham khổ khiến bệnh tình Đặng Thế Phong ngày càng trầm trọng. Từng cơn ho làm rũ người, tiếp đến những cơn thổ huyết làm cho Đặng Thế Phong ngày một sút hẳn đi . Một mình trên giường bệnh, Đặng Thế Phong nhớ gia đình thì ít mà nhớ người yêu thì nhiều. Thân xác thì bệnh tật khó qua, tâm trí thì luôn luôn phải vật lộn với trăm ngàn ý nghĩ và hình ảnh cuộc tình tươi đẹp nên bệnh mỗi lúc một tăng. Còn đâu những cuộc hẹn hò thơ mộng, quên làm sao được những lời thủ thỉ ân tình và hy vọng gì ở những ước vọng được thành đôi chim nhạn tung trời mà bay, tất cả đã được Đặng Thế Phong ngày đêm day dứt , tiếc thương, muốn níu kéo lại thì cũng chẳng còn gì dể bám víu !

Đặng Thế Phong đã mang lấy nghiệp vào thân thì đời con tằm đến thác cũng còn vương tơ, tránh sao thoát khỏi cái lưới trời thưa mà khó lọt ấy ? Chính vì lẽ ấy mà Đặng Thế Phong đã thực sự thể hiện được câu các cụ đã dạy cọp chết để da, người ta chết để tiếng, dù cuộc đời ông ngắn ngủi với 24 mùa lá rụng, một cuộc đời ngắn đến nỗi đo chửa đầy gang!

Thế rồi, một hôm mưa rơi tầm tã, giọt mưa lộp bộp trên mái lá, thánh thót từng giọt xuống đường, Đặng Thế Phong buồn quá, con tim như thắt lại, máu trào lên để có được một nhạc hứng lai láng, tràn trề khiến ông gượng ngồi dậy viết một hơi điệu nhạc buồn da diết, não nề. Ông viết xong bèn đặt tên cho sáng tác mới ấy là Vạn Cổ Sầu. Chập tối ông Thọ về có thêm dăm người bạn đến thăm, Đặng Thế Phong ôm đàn hát cho mọi người nghe. Nét mặt của mọi người nín thở nghe, đều buồn như muốn khóc. Nghe xong, ai nấy đều khen bài hát thật hay, xoáy vào tim vào óc nhưng cái tên bài bi thảm quá, nên sửa lại thì hơn. Chính vì thế mà Đặng Thế Phong, đổi tên là Giọt Mưa Thu. Có lẽ đây là cái điềm báo trước, là lời di chúc tạ từ nên Đặng Thế Phong lấy mưa ngâu, mùa mưa là giòng nước mắt tuôn chảy lênh láng của Chức Nữ với Ngưu Lang để ví cuộc tình Phong - Tuyết cũng phải cùng chung số phận phũ phàng giống vậy chăng ?

Đến một ngày cuối năm 1941, biết mình khó qua khỏi lưỡi hái của tử thần, Đặng Thế Phong mới ngỏ ý trở về Nam Định để được chết tại quê nhà và muốn ông Thọ dìu ông về. Về nhà, lần này cô Tuyết đích thân đến hàng ngày để chăm sóc, thuốc men cho Đặng Thế Phong, không ngại mệt mỏi và không sợ nguy hiểm đến bản thân mình. Những người quen biết đến thăm, thấy cảnh ấy đều mủi lòng và khâm phục lẫn mến thương cuộc tình cao quý, chung thủy của cặp Phong -Tuyết.

Không biết có phải là tại thần giao cách cảm hay không mà một hôm, nhạc sĩ Bùi Công Kỳ đột nhiên từ Hà Nội về Nam Định thăm Đặng Thế Phong lại vừa đúng lúc Đặng Thế Phong sắp lìa đời. Trên giường bệnh, phút lâm chung, không nói gì được với nhau, Bùi Công Kỳ ôm đàn hát cho Đặng Thế Phong nghe một lần chót bài Giọt Mưa Thu, Giọng hát Bùi Công Kỳ vừa dứt thì mọi người nhìn thấy Đặng Thế Phong mở cặp mắt nhìn như ngỏ lời chào vĩnh biệt rồi nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng.

Một vì sao Bắc Đẩu của làng nhạc Việt Nam, vừa ló dạng trên bầu trời đã vụt tắt gây niềm xúc động mãnh liệt và niềm thương tiếc vô bờ trong lòng mọi người ! Trong tang lễ, nam nữ thanh niên của thành Nam đã lũ lượt kéo nhau đi, chật cả phố phường để tiễn đưa Đặng nhạc sĩ đến nơi an nghỉ cuối cùng với rất nhiều cặp mắt rưng rưng lệ ! Cô Tuyết xin phép và được cả hai gia đình, mặc đại tang, đúng như một người vợ trong tang lễ chồng, thật là cảm động.

Năm 1960, tại Phú Nhuận, tôi được tiếp một thiếu phụ chưa hề quen biết. Sau lời chào hỏi, bà tự giới thiệu tên là Tuyết, người Nam Định, di cư vào Nam hiện ơ? Ban Mê Thuộc. Nhân lần vô tình đọc trên báo Tư. Do, thấy quảng cáo trước cuốn Nhạc sĩ danh tiếng hiện đại (tập II) của tôi sắp xuất bản, viết về năm nhạc sĩ trong đó có Đặng Thế Phong, nên bà về gặp tôi để xin tôi cho bà mượn hình của cố nhạc sĩ, chụp lại để về thờ. Trước kia, bà đã có nhưng lúc sắp di cư tấm ảnh đó bị thất lạc, kiếm mãi không sao thấy. Tôi vội lấy ảnh đưa ngay . Cậu cháu đi theo bà mang ngay ra tiệm hình ở đầu hẻm chụp gấp lấy ngay, xong trở vào gửi trả lại tôi . Trong lúc cậu cháu đi chụp hình, tôi có hỏi bà về chuyện tình tươi đẹp như bài thơ trong sáng như trăng mười sáu thì bà Tuyết xác nhận những điều tôi biết là đúng và còn bổ sung cho tôi thêm ít nhiều chi tiết . Bà cũng không quên nói lên điều thắc mắc là tại sao tôi biết rõ thế ? Tôi nói thật ngay là được ông chú Nguyễn Trường Thọ cho tôi mượn ảnh, kể rành rẽ cuộc đời ái tình của Đặng Thế Phong cho tôi nghe . Bà cười và nói :

- Chú Thọ tuy là chú nhưng cùng tuổi với anh Phong, nên hai người vừa là chú cháu vừa có tình bạn bè nên trong ggia đình chỉ có chú Thọ là được anh Phong tâm sự mà thôi . Thảo nào ông biết quá rõ, quá đúng và quá đủ ! sau lời cám ơn và trước khi ra về, bà Tuyết còn nói với tôi câu cuối cùng, đến nay đã 35 năm rồi, tôi vẫn còn nhớ:

- Cho đến ngày hôm nay, và mãi mãi về sau, tôi tôn thờ anh Phong và đời tôi luôn luôn thương nhớ anh ấy với tất cả cái gì trân trọng nhất.

Viết ra những giòng trên đây, tôi xin được phép coi là nén hương lòng, suy tôn một bậc đàn anh khả kính và khả ái. Tuy anh đã ra người thiên cổ hơn nửa thế kỷ rồi nhưng những Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu vẫn là những vì sao tinh tú sáng rực trên bầu trời ca nhạc. Thể xác anh có thê? trở về hư không nhưng tinh anh vẫn còn lại muôn đời với giang sơn gấm vóc này . Cuộc đời con người ta, sinh ký, tử quy đó là luật muôn đời của tạo hoá nhưng khi sống cho ra sống, lúc về được qua Khải Hoàn Môn, khi cất ba tiếng khóc chào đời, mọi người hân hoan cười mừng đón ta, khi nhoẻn miệng cười để lìa đời, mọi người thương tiếc khóc ta, thế mới thật là sống, mới đáng sống ! Anh đã vĩnh viễn ra đi nhưng tất cả những thế hệ hậu sinh, dù chưa được biết anh, khi hát những bài hát bất hủ của anh để lại, đều tưởng nhớ đến anh, một thiên tài mà ta có thể nói anh là một MOZART của Việt Nam, với tất cả tấm lòng kính mến trang trọng nhất !

Tôi cả tin rằng, dưới suối vàng. anh cũng có thể mỉm cười mãn nguyện. Hiển linh, anh về chứng giám và nhận cho nén tâm nhang này.

Lê Hoàng Long



Saturday, October 24, 2009

Tân Bộ Trưởng Cộng Hòa Liên Bang Đức

DR. PHILIPP ROESLER: TÂN BỘ TRƯỞNG Y TẾ Cộng Hòa Liên Bang ĐỨC

Berlin - Một ngạc nhiên ngoài dự đoán tại thủ đô Bá Linh: Dr.Philipp Roesler, Đảng Dân Chủ Tự Do (FDP)- người Đức gốc Việt, hiện là bộ trưởng kinh tế, lao động và giao thông tiểu bang Niedersachsen, trở thành bộ trưởng y tế trong tân nội các của chính phủ Cộng Hòa Liên Bang Đức. Đã từ lâu ông Dr.Philipp Roesler vẫn được coi như một ngôi sao nổi bật và là niềm hy vọng của Đảng Dân Chủ Tự Do (FDP). Trong suốt thời gian hơn 3 tuần lễ thương thảo gắt gao trong việc thành lập tân nội các giữa liên minh CDU/CSU và FDP, đặc biệt về vấn đề y tế, ông Philipp Roesler luôn tỏ ra rất thông minh, thực tế, ôn hòa, có tài ứng khẩu, đôi lúc lại khôi hài. Cũng vì thế ông được mọi người kính nể và thán phục trong các cuộc thương thảo. Tuy nhiên ông tỏ ra rất ngạc nhiên khi được cử làm bộ trưởng y tế liên bang và ngay nội bộ đảng FDP cũng xác nhận như thế, một bộ hiện đang đương đầu với nhiều khó khăn.

Sự nghiệp chính trị của Dr.Philipp Roesler tiến rất nhanh và được các đảng viên trong đảng quý chuộng. Ông đã trở thành bộ trưởng trẻ tuổi nhất trong tân nội các của thủ tướng Angela Merkel, trẻ hơn cựu bộ trưởng kinh tế Karl-Theodor zu Guttenberg (37 tuổi/CSU) mà trong tân nội các trở thành bộ trưởng quốc phòng, Dr. Wolfgang Schaeuble (CDU) làm bộ trưởng tài chánh. Trong lịch sử nước Đức, vị bộ trưởng liên bang trẻ nhất nước Đức là bà Claudia Nolte (CDU, 27 tuổi), bộ trưởng bộ gia đình (từ năm 1994 đến 1998) dưới thời thủ tướng Helmut Kohl. Trong khi đó ông Dr. Philipp Roesler là bộ trưởng cấp tiểu bang, nay là toàn liên bang đầu tiên không phải người gốc Đức.

Chỉ một ngày trước đó, ông Dr.Philipp Roesler đã tuyên bố với báo chí rằng ông "không hề có tham vọng lên đến chính quyền liên bang" và cho biết đã bàn bạc và quả quyết với vợ con rằng "tuyệt đối chỉ ở tiểu bang Niedersachsen mà thôi". Giới truyền thông Đức cho rằng, việc ông Dr.Philipp Roesler nhận chức bộ trưởng y tế liên bang là do sức ép của ông Dr. Guido Westerwelle, thủ lãnh đảng FDP. Tuy nhiên, ông Dr.Philipp Roesler tỏ ra không quan tâm nhiều đến sự nghiệp chính trị lâu dài của mình khi ông tuyên bố trước khi nhậm chức bộ trưởng kính tế của tiểu bang Niedersachsen rằng, ông sẽ tự rút lui khỏi chính trường vào năm 45 tuổi.

Lý lịch cá nhân của ông được ghi trong văn khố tiểu bang Niedersachsen như sau:

Dr.Philipp Roesler sinh ngày 24 tháng 2 năm 1973 tại Việt Nam. Tháng 11 năm 1973 khi còn là một cậu bé 9 tháng, ông đã được một gia đình người Đức tại Bueckeburg (cách thành phố Hannover khoảng 50 cây số) nhận làm con nuôi từ một viện mồ côi tại Khánh Hưng (Nha Trang). Khi lên 4 tuổi, cha mẹ nuôi ly dị và ông về sống với cha nuôi -một quân nhân trong quân đội Đức- tại Hamburg/Harburg. Năm 2002 ông lập gia đình với bà Wiebke Roelser (31 tuổi) và hiện nay có 2 người con gái song sinh tên Grietje và Gesche (1 tuổi).
    Năm 1992: gia nhập quân đội Đức với chức vụ dự bị sĩ quan quân y
    Năm 1993: đại học y khoa tại Hannover
    Năm 1999: đại học y khoa quân đội tại Hamburg
    Năm 2001: tốt nghệp bác sĩ nha khoa và sĩ quan quân y trong quân đội Đức
    Năm 2002: luận án tiến sĩ y khoa về Tim-Phổi-Mạch Máu
Sự nghiệp chính trị:
    Năm 1992: gia nhập Đảng Dân Chủ Tự Do (FDP)
    Năm 1994: chủ tịch đoàn Thanh Thiếu Niên Tự Do (Julis) thuộc đảng FDP thành phố Hannover.
    Năm 1996: chủ tịch đoàn Thanh Thiếu Niên Tự Do (Juliis) toàn tiểu bang Niedersachsen, kiêm thành viên ban chấp hành đảng FDP tiểu bang Niedersachsen
    Năm 2000-2004: tổng thư ký đảng FDP tiểu bang Niedersachsen (không thù lao)
    Năm 2001: dân biểu thành phố Hannover, kiêm phó chủ tịch đảng FDP trong hội đồng thành phố
    Năm 2003: chủ tịch đảng FDP trong quốc hội tiểu bang Niedersachsen
    Năm 2005: thành viên ban chấp hành trung ương đảng FDP toàn quốc
    Năm 2006: chủ tịch đảng FDP tiểu bang Niedersachsen
    Từ 18.02.2009: bộ trưởng Kinh tế, Lao động và Giao thông tiểu bang Niedersachsen

    Bây giờ là Bộ Trưởng Y Tế Cộng Hòa Liên Bang Đức.
Đặc biệt Dr. Philipp Rösler đã đến dự Lễ Khánh Thành Tượng Đài Tỵ Nạn Cộng Sản ngày 12.09.2009 tại Hải Cảng Hamburg – Germany. Sau buổi Lễ Khánh Thành, đồng bào đã bày tỏ tình cảm với Dr. Philipp Rösler, bằng cách chụp hình chung lưu niệm, cả tiếng đồng hồ sau Dr. Philipp Rösler mới dời khỏi nơi hành lễ để về nhà. Cũng cần nói thêm, Tòa Đại Sứ VC tại Berlin đã nhiều lần gọi điện thoại để lung lạc và yêu cầu Dr. Philipp Rösler đừng đến dự Lễ Khánh Thành vì lý do chính trị, nhưng Dr. Philipp Rösler đã mạnh mẽ trả lời với tòa Đại Sứ VC, Ông ta đến tham dự Lễ Khánh Thành cũng vì lý do chính trị, và Dr. Philipp Rösler đã hiện diện tại buổi Lễ với tất cả tình cảm của đồng bào dành cho một người con, người cháu đã làm hãnh diện cho người Việt Tỵ nạn CS nói riêng tại CHLB Đức.


Trung Quốc phát hành tiền tệ sử dụng riêng cho Hoàng Sa - Lương Trang

Lương Trang

Những dòng chữ Hoa, Anh và con dấu đỏ in thêm vào tiền giấy đang lưu hành quy định rõ là tiền sử dụng ở quần đảo Nam Sa


Quần đảo Trường Sa hiện là vấn đề tranh chấp của các quốc gia trong vùng: Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Phi Luật Tân, Mã Lai và Brunei. Năm 1988 Trung Quốc đã dùng vũ lực xâm chiếm một số đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Trong mục tiêu tuyên truyền để nhấn mạnh chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa mà họ gọi là quần đảo Nansha (Nam Sa), chính quyền Bắc Kinh phát hành một số tiền tệ để sử dụng đặc biệt trong vùng đảo Nansha mà thôi.

Các tờ tiền giấy này thật ra là tiền đang lưu hành tại Trung Quốc được đóng thêm các dấu đặc biệt. Mặt trước được đóng dấu tiếng Hoa. Mặt sau đóng dấu tiếng Anh. Dấu đóng có nghĩa là: “Sử dụng tại nhóm đảo Nansha mà thôi“. Mặt sau của các tờ tiền còn có dấu đóng đỏ của Hạm Đội Nam Hải. Các tờ tiền lưu hành gồm có: 1, 5 và 10 Nguyên (Yuan), 1, 2 và 5 Giác (Jiao).

Xin cung cấp hình 4 loại tiền Nhân dân tệ lưu hành tại Hoàng Sa mà giới sưu tầm tìm được:






http://www.joelscoins.com/spratly.htm

Đạo và Đời - Nguyễ Quý Đại


Nguyễn Quý Đại

Dân tộc Việt ảnh hưởng tam giáo từ thời xa xưa hàng ngàn năm: Phật-Nho-Lão. Đạo Phật truyền bá sang Việt Nam vào thời cổ Việt đầu Công nguyên, do các sư người Ấn Độ đến từ đường biển hay qua ngã Trung Hoa. Ảnh hưởng mạnh từ miền Bắc, có thể nói Bắc Ninh là giao điểm những con đường lớn, nơi tiếp thu đạo Phật và trở thành trung tâm Phật giáo thời bấy giờ, theo thuyết của Đức Phật Thích Ca (Sakya) con người tự tu tâm để giải thoát cho chính mình, mọi người đều tự do và bình đẳng… Cách Hà Nội 30 cây số có chùa Dâu xây từ thế kỷ thứ 3. Trong chùa thờ pho tượng lớn nữ thần Pháp Vân (nữ thần Mây) ngồi trên Tòa sen, vì vậy chùa được gọi Pháp Vân tự, thuộc huyện Thuận Thành, trong khuôn viên chùa có tháp nổi tiếng xây từ thế kỷ thứ 6. Tháp có tên Hòa Phong những di tích lịch sử về Phật giáo lâu đời còn lại ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam.

Thiên Chúa giáo đến Á Châu từ thế kỷ thứ 16, các giáo sĩ Tây phương đến lẻ tẻ, hoạt động thuần túy tôn giáo thuộc nhiều quốc tịch khác nhau Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp, Hòa Lan. Người có công sáng chế ra chữ Quốc ngữ là giáo sĩ Dòng Tên người Bố Đồ Nha Francecesco de Pina (1585-1625) kế tiếp Giáo sĩ Alexandre de Rohdes người có công làm cuốn tự điển “Dictionarium Annamitcum Lusitanum et Latium“. Giáo Hội Công Giáo với 2 xứ Đàng Ngoài và Đàng Trong đến nay được 350 năm (1659-2009).

Ngày xưa giới tu sĩ được đào tạo trong thiền viện có khả năng và đạo đức, nên được các triều đại kính trọng, mời ra giúp nước. Đó là những Thiền sư: Đỗ Pháp Thuận (914-990), Ngô Châu Lưu (959-1011) thiền sư họ Nguyễn pháp danh Vạn Hạnh quê ở Cổ Pháp Bắc Ninh, tu ở chùa Lục Tổ, thọ giới với sư Định Huệ. (không rõ ngày sinh nhưng mất năm Mậu Ngọ 30.06.1018). Tuy xuất gia nhưng ngài vẫn nghĩ đến việc nước, cũng như chống ngoại xâm phương Bắc.

Vua Lê Đại Hành mời sư Vạn Hạnh làm cố vấn trong việc cai trị. Cho đến cuối đời nhà Lê suy mạt, Lê Long Đĩnh trị vì 4 năm từ (1005-1009) thì qua đời, con còn nhỏ, nước nhà hoạn nạn, Lúc đó Lý Công Uẩn làm quan Thân vệ, tướng Đào Cam Mộc họp các quan trong triều tôn lập Lý Công Uẩn là người nhân đức, công bằng lên làm vua (lật đổ nhà tiền Lê trong việc nầy có sự góp tay của Sư Vạn Hạnh) dựng lên nhà Lý (1010-1225)

Phật giáo dưới thời nhà Lý rất thịnh vượng, các bộ Việt Sử đều viết tương truyền Lý Công Uẩn sinh năm (974-1028) là vị vua khai sáng nhà Lý trị vì (1010-1028). Thân mẫu là bà Phạm đi viếng Chùa Tiêu Sơn, nằm mộng thấy gặp gở thần nhân, rồi thụ thai (?) sinh ra ông, đến năm lên 3 tuổi, mẹ ông cho thiền sư Lý Khánh Vân ở chùa Cổ Pháp làm con nuôi, và được đặt tên là Lý Công Uẩn.

Lý Công Uẩn lên ngôi là Lý Thái Tổ năm 1010, nhà vua quyết định dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La và đổi tên là Thăng Long, Thăng Long qua các triều đại từng bị thay đổi tên: năm 1397 Hồ Quý Ly đổi tên Đông Kinh, năm 1428 Lê Lợi đổi thành Đông Đô, mãi cho đến năm 1831 Vua Minh Mạng đổi tên là Hà Nội. Qua các triều đại Lý, Trần, Lê xây dựng phát triển một kinh thành với nhiều danh lam thắng cảnh thơ mộng, gồm 600 ngôi chùa, đình, miếu nguy nga tráng lệ. Hà Nội ngày nay còn lưu giữ 2000 di tích lịch sử văn hoá. Những di tích nầy ghi lại nền văn minh của dân tộc Việt cũng như quá trình dựng nước và giữ nước.

Các triều đại của nhà Lý trải qua 216 năm được 9 đời vua, nhiều chùa được xây cất, ngôi chùa nổi tiếng là chùa Diên Hựu xây năm 1049 theo truyền thuyết, Lý Thái Tông trị vì (1028- 1054). Một đêm nằm mơ thấy Phật Quan Âm ngồi trên toà sen trong hồ nước hình vuông phía tây thành Thăng Long, dắt nhà vua cùng lên, nên vua sai lập cái chùa nhỏ như hoa sen để thờ ở Kinh đô, tức chùa Một Cột lưu truyền đến ngày nay .

Đến triều đại nhà Trần (kéo dài từ 1225-1400), vua Trần Nhân Tông trị vì (1279-1293) sau khi truyền ngôi cho con Trần Anh Tông trị vì (1293-1314). Năm 1295 Thượng hoàng Trần Nhân Tông xuất gia đi tu tại núi Vũ Lâm, huyện An Khánh, Ninh Bình, năm kỷ Hợi 1299 Thượng hoàng lên tu ở núi Yên Tử nay thuộc xã Thượng Yên Công, thị xã Uông Bí. Nơi đây là trung tâm Phật Giáo của Đại Việt từ thời xa xưa. Trúc Lâm Đại Sĩ phát triển ra phái Trúc Lâm lưu truyền cho tới ngày nay. Thượng Hoàng Trần Nhân Tông đã gả công chúa Huyền Trân em vua Trần Anh Tông cho vua Chiêm. Năm 1306 vua Chiêm Thành là Chế Mân (Jaya Simhavarman III) cuới công chúa Huyền Trân, sính lễ là hai châu Ô và Lý.

Các tôn giáo tại Việt Nam đều trải qua những thời hưng thịnh, Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Lão giáo, Nho giáo.. đã đóng góp một vai trò quan trọng, trong vấn đề dựng nước, cải thiện đời sống của xã hội, Khổng giáo cũng từng khuyên “trị dân với lòng nhân và lễ không phải bằng bạo lực, lãnh đạo là dẫn dắt dẫn, không phải để hành hạ, để giết dân! …. Đừng làm cho người khác cái gì mà mình không muốn người khác làm cho mình.”

Phật giáo có truyền thống lâu đời, ảnh hưởng sâu đậm đời sống dân tộc. Trước 1975 cuộc chiến kéo dài hơn 20 năm bom đạn tàn phá quê hương, nhưng ở miền Nam dưới thời chính phủ VNCH các tôn giáo vẫn được phát triển mạnh, Chùa Chiền, nhà Thờ được xây dựng khắp nơi, nhiều tu viện mở ra để đào tạo tu sĩ, không bị nhập ngũ theo lệnh động viên. Các tôn giáo đều có tài sản, bất động sản riêng, các trường Đại Học lớn như Vạn Hạnh Sài Gòn, Viện Đại Học chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt, Đại học Nông Nghiệp Cao Đài Tây Ninh, Đại học Hòa Hảo ở Long Xuyên. Nhiều trung tâm văn hoá và từ thiện.

Ngược lại miền Bắc dưới xã Hội Chủ Nghĩa, tôn giáo không được phát triển Chùa bỏ trống không có Tăng sĩ, nhưng xây lăng ướp xác ở công trường Ba Đình tốn kém, để tôn thờ người theo chủ thuyết Marx Lénin. Đi ngược lại truyền thống Dân tộc, làm cho đất nước đảo lộn, đạo đức suy đồi

Tôn giáo ở miền Nam hoạt động tự do, nhưng tiếc thay bị lợi dụng, tuyên truyền và xâm nhập của cán bộ cộng sản, xách động gây một thời sóng gió, đức tin, tín ngưỡng bị lung lay, bàn thờ Phật vốn từ xưa trang nghiêm tôn kính bị đưa xuống đường. Từ năm 1964 Phật Giáo Việt Nam chia làm hai: Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang, và Việt Nam Quốc Tự …

Ngày 04-01-1964, HT Thích Thích Trí Quang thế danh Phạm Trí Quang sinh năm 1924 tại Quảng Bình được bầu làm Chánh thư ký Viện Tăng Thống GHPGVNTN, cũng là người lãnh đạo các phong trào tranh đấu xuống đường chống chế độ VNCH. Cuộc chiến chấm dứt 30 tháng 4 năm 1975, thành phần lợi dụng tôn giáo “rửa tay gác kiếm” ra đời hay tiếp tục núp dưới bóng từ bi. Chủ nghĩa cộng sản theo thuyết vô thần. Ngày 11.11.1977 Phạm Văn Đồng ban hành Nghi Quyết số 297 kiểm soát quyền tự do tín ngưỡng và hành đạo. Theo dư luận Phật giáo một thời tranh đấu, dù sao cũng mang lại thắng lợi chính trị cho CS, thậm chí có nhiều chùa che giấu cán bộ CS nằm vùng nay bị phản bội.

Hòa Thượng Thích Quảng Độ giữ chức vụ Tổng Thư Ký viện Hóa Đạo GHPGVNTN đã lên tiếng phản đối, bị bắt lần đầu tiên vào năm 1977, biệt giam đến tháng 12/1978 và bị đưa ra tòa kết án tội "phá hoại đoàn kết dân tộc và lợi dụng tôn giáo để phá rối trật tự công cộng". Tháng 2/1982, Ngài bị bắt và đưa về quản thúc tại nơi sinh quán ở Vũ Ðoài, tỉnh Thái Bình. Ngài được trả tự do năm 1992, nhưng tháng 11/1994 ngài bị bắt khi tổ chức cuộc ủy lạo đồng bào nạn nhân lũ lụt ở miền Nam. Năm 1998 được thả nhưng bị quản thúc tại Thanh Minh Thiền Viện.

Nhà cầm quyền CSVN muốn dẹp ảnh hưởng phong trào tranh đấu của Phật giáo có thể xảy ra ? từ năm 1980-1981 tìm cách sát nhập GHPGVNTN vào Giáo Hội của nhà nước, mời cố Hòa Thượng Trí Thủ (1909-1984) thế danh Nguyễn Văn Kính gốc Quảng Trị từ 1973 làm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, đưa Giáo hội này sát nhập vào Giáo Hội Phật Giáo Nhà Nước.

H.T.Thích Quảng Độ, H.T.Thích Huyền Quang và nhiều tăng sĩ khác của GHPGVNTN không đồng ý đã chống đối mãnh liệt, vẫn sinh hoạt riêng không gia nhập Giáo Hội của nhà nước. Đại Hội PGVNTN kỳ 8 tháng 5 năm 1999, HT Thích Quảng Độ được bầu Viện Trưởng Viện Hoá Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, dù bị cấm nhưng đã thành lập được 20 Ban Đại Diện GHPGVNTN tại các tỉnh miền Nam và Trung

Nhà cầm quyền CSVN muốn thống nhất Phật giáo về một mối gọi là Giáo Hội nhà nước. Những sinh hoạt của GHPGVNTN là bất hợp pháp, ngoài vòng pháp luật. Tăng sĩ chống lại đều bị bắt, bị cô lập quản thúc. Hai người được thế giới biết đến là HT Thích Quảng Độ và HT Thích Huyền Quang .

Năm 1992 là Đệ Tam Tăng Thống GHPGVNTN là cố HT Thích Đôn Hậu viên tịch. (không bình luận việc làm của HT Thích Đôn Hậu trước 1975). HT Thích Huyền Quang thế danh Lê Đình Nhàn sinh năm 1919 tại Bình Định, chính thức đảm nhận quyền Viện Trưởng Viện Hóa Đạo kiêm xử lý Viện Tăng Thống gọi Đệ Tứ Tăng Thống. Ngài đã gửi đi hàng loạt văn thư phê phán chế độ Cộng Sản Việt Nam về cái mà họ gọi là "Ðổi Mới", khiến Ngài càng gặp nhiều khó khăn với chế độ. Bị quản chế lâu năm ở chùa Hội Phước Quảng Ngãi đến tu viện Nguyên Thiều Bình Định. Ngài không được tự do đi lại, nhưng tiếng nói của ngài vẫn bay xa, muôn thuở có giá trị vì tiếng nói của lương tâm và đạo lý .

Dù bị cô lập, bị tù đày hai vị cao tăng của Giáo Hội là Đại lão HT Thích Quảng Độ và Đức Tăng Thống HT Thích Huyền Quang vẫn tiếp tục làm việc và tranh đấu với danh nghĩa của GHPGVNTN trong nước, và hải ngoại thành lập văn phòng II Viện Hóa Đạo có phòng thông tin phật giáo Quốc Tế có trụ sở tại Paris, rất nhiều cao tăng danh tiếng ở hải ngoại ủng hộ.

Viện Trưởng Viện Hoá Đạo Đại lão Hòa thượng Quảng Ðộ thế danh là Đặng Phúc Tuệ, sinh năm 1928, là nhà thơ, dịch giả, (B xem phân cuối bài) từng là giảng sư tại Ðại Học Vạn Hạnh trước tháng 4/1975. Hòa Thượng Thích Quảng Độ kêu gọi nhà cầm quyền CS Việt Nam tham gia cuộc đối thoại, ngài luôn đấu tranh ôn hòa bênh vực cho tự do tôn giáo và nhân quyền, không muốn Giáo Hội PGVNTN trở thành tay sai cho đảng CSVN.

Ngày 24/07/2002 tại New York, trong số 37 người thuộc 19 quốc gia được tổ chức Human Right Watch trao giải nhân quyền Hemam/Hammett, 5 người Việt Nam đã được chọn có Hòa thượng Thích Quảng Ðộ. Giải này có từ năm 1989, được thực hiện với di sản của hai nhà văn quá cố Hoa Kỳ là Lillian Hellman (1905-1984) và Dashiell Hammett (1894-1961) nhằm hỗ trợ cho những nhà văn trên thế giới đang bị truy bức chính trị

Năm 2006, HT Thích Quảng Độ được trao giải Rafto Foundation for Human Rights của Na Uy, chủ tịch Arne Lynngard sáng hội Rafto, giải thích lý do lại trao giải thưởng Rafto lần thứ 20 năm 2006 cho Hòa thượng Thích Quảng Độ: “chúng tôi đánh giá cao những khó khăn, các nhà hoạt động dân chủ Việt Nam đang đối diện, HT Thích Quảng Độ quyết tâm đấu tranh ôn hòa cho tự do dân chủ.“

Cuối tháng 10 năm 2006, HT Thích Quảng Độ không rời Việt Nam đến nhận giải Rafto (giải nầy của cố giáo sư Thordf Rafto 1922-1986) tại Na Uy Ngài e ngại Nhà cầm quyền CSVN sẽ buộc ngài phải sống lưu vong, giống trường hợp cố Giám Mục Hồng y Nguyễn Văn Thuận vì phục vụ Giáo Hội của Chúa Kitô, với giáo huấn Vaticanô II đưa kitô giáo vào trong cuộc sống con người, mời gọi những Linh mục tương lai nên thực thi mục vụ trong tinh thần dấn thân giúp đỡ cho những người nghèo. Dưới chế độ CSVN ngài bị 13 năm tù, 9 năm giam cấm cố và được trả tự do năm 1988, phải chịu lệnh quản chế ở Hà Nội đến 1989 thì được phép xuất ngoại sang Úc vì bệnh. Ngài sang Roma tháng Tư 1990 và Nhà cầm quyền CSVN không cho Ngài về Việt Nam.

HT Thích Quảng Độ uỷ nhiệm cho ông Võ Văn Ái, phát ngôn viên Giáo hội phật giáo Việt Nam thống nhất ở hải ngoại, đại diện nhận giải thưởng danh dự này. Những năm qua, HT Thích Quảng Độ đều được đề cử trong danh sách nhận giải Nobel hòa bình, dù được hay không cũng là một vinh dự, vì ngài hoạt động cho tự do và hòa bình đòi hỏi về vấn đề nhân quyền, giống như hoạt động của Dalai Lama và bà Daw Aung San Suu Kyi của Miến Điện. (Tuy nhiên vấn đề làm cho chúng ta suy nghĩ năm 1973 giải thưởng Nobel hoà bình trao cho Henry Kissinger và Lê Đức Thọ. Hai nhà thương thuyết đưa đến Hiệp Định Paris chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Thật sai lầm lịch sử đã chứng minh Kissinger thương thuyết Hiệp Định vì Hoa Kỳ muốn rút quân bỏ rơi VNCH chẳng phải vì hòa bình. Lê Đức Thọ là con cáo già của đảng CSVN thương thuyết Hiệp Định Paris ngưng bắn để Hoa Kỳ rút quân. CS đã chiếm miền Nam bằng vũ lực!)

Các quốc gia trên thế giới đều tôn trọng tự do tín ngưỡng, bởi vì tôn giáo có vai trò quan trọng trong xã hội từ xưa tới nay, tôn giáo sinh hoạt độc lập không bị chính quyền cưỡng ép các tôn giáo phải hoạt động theo đường lối của chính quyền. Nhìn lại Việt Nam những năm qua nếu các hoạt động tôn giáo không nằm trong khuôn khổ của các Giáo hội do nhà nước thành lập, không tham gia vào Mặt Trận Tổ Quốc, đều bị kết tội là “phản động“. Sự kiện Thái Hà, Tam Tòa, Bát Nhã … đã làm cho mọi người ngao ngán, mất hết niềm tin vào chính phủ. Chiến tranh chấm dứt hơn 3 thập niên rồi, nhưng trong chỉ số xếp hạng về Phát triển Con người (HDI) của LHQ tập trung vào ba yếu tố: tuổi thọ trung bình, học vấn, và mức sống Việt Nam đứng thứ 116/182 quốc gia. Việt Nam đứng sau hầu hết các nước trong khối Đông Nam Á, Asean, chỉ trên Lào (133), Campuchia (137) và Miến Điện (138).

Có thể nhờ tiếng nói bất khuất của Đại Lão HT Thích Quảng Độ, cũng như sự đàn áp tôn giáo trong thời gian qua, nên thế giới đã quan tâm đến trình trạng tự do tôn giáo tại Việt Nam. VN là quốc gia từng bị đưa vào danh sách các nước gây quan ngại về tự do tôn giáo (CPC/ Countries of Particular Concern), như các nước: Miến Điện, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Iran, Sudan, Eritrea, và ả rập Saudi.

Suốt trong thời gian qua tại Sài gòn, Hà Nội có những cuộc biểu tình kêu oan dưới chế độ độc tài CS cai trị, từ trước tới nay bưng bít, chưa bao giờ có báo nào tường trình về các cuộc biểu tình như vậy. CSVN giải tán các cuộc biểu tình lớn, nhưng ngày nào ở Sài gòn vẫn còn những đoàn người các tỉnh về Sài gòn biểu tình bất bạo động, bất chấp nắng mưa, đói khát CSVN chưa giải quyết nguyện vọng của người dân nghèo thấp cổ bé miệng !! chờ đến bao giờ?

Người dân các tỉnh bị bóc lột đàn áp, bị mất đất, mất tài sản không được đền bù chính đáng, được gọi là dân oan. Không phải mới đây mà đã nhiều năm qua, ngay ở vườn hoa Xuân Thưởng Hà Nội ngày nào cũng có người biểu tình đòi chính phủ giải quyết cái nạn cường hào, ác bá ở khắp nơi, nhiều người suốt đời hy sinh cho đảng, có công nhiều huy chương, nhưng về hưu hết thế lực bị đàn áp quay sang chống đảng tham gia biểu tình, đã làm cho nhà nước CS phải lúng túng đau đầu, Đại lão HT Thích Quảng Độ đứng về phía những người bị đàn áp, ngài muốn có dân chủ, nhân quyền phải được tôn trọng. Bởi vì Việt Nam là một thành viên của cộng đồng thế giới, phải như các quốc gia văn minh tôn trọng tự do ngôn luận, tự do báo chí và tín ngưỡng.

Tổ Chức Phóng Viên Không Biên Giới RSF từ Paris vừa qua phổ biến bản xếp hạng về tự do báo chí năm 2009, trong đó Việt Nam xếp thứ 166/175 quốc gia trên thế giới. Quyền làm người bị xâm phạm, bịt miệng người đối lập, bắt bớ, sách nhiễu những người góp tiếng nói đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền. Giới trí thức, sinh viên công khai phê phán sự nhượng bộ của CSVN cho Bắc Kinh về vấn đề lãnh thổ, lãnh hải và nhất là việc khai thác bauxite ở cao nguyên miền Nam. Nhà nước CSVN chủ trương buộc báo chí truyền thông “phải đi theo lề phải“, giống như con ngựa kéo xe bị che mắt!

HT Thích Quảng Độ đã đến với người dân đi khiếu kiện Sài Gòn cũng như cử người đến Hà Nội để ủy lạo dân oan chia sẻ với họ, bởi vì chính ngài cũng là một nạn nhân. Nhà nước CS từ lâu muốn loại bỏ HT Thích Quảng Độ ra khỏi mọi sinh hoạt, nhưng không thể thi hành, vì ngài đã được các phái đoàn quốc tế thường xuyên đến thăm, và nhận những giải thưởng giá trị về nhân quyền. Ngài trở thành người của quốc tế đấu tranh cho tự do và nhân quyền. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tồn tại đến nay, do hai vị cao tăng là: Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ, và Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang lèo lái con thuyền vượt qua nhiều giông bảo. Cũng nhờ những sinh hoạt của tất cả các Đoàn thể người Việt tỵ nạn hải ngoại, suốt 34 năm qua đã tranh đấu, gây ảnh hưởng với các quốc gia trên thế giới, cùng hổ trợ cho GHPGVNTH được trường tồn

Nhìn chung Giáo Hội các Tôn Giáo tại Việt Nam gặp nhiều khó khăn với những vấn nạn phức tạp nội bộ chia rẽ. Lịch sử sẽ phê phán giữa thiện và ác, giữa độc tài và tự do. Tôn giáo phải được bảo vệ tốt đẹp theo truyền thống đã có từ ngàn năm trong lòng Dân tộc, không thể bị vẩn đục giữa Giáo hội và Thế quyền. Nhà cầm quyền CSVN lúc đầu đàn áp, nay đổi chiến thuật vừa dàn áp và đưa thêm vấn đề quyền lợi, để chiêu dụ những thành phần ham danh thụ hưởng. Con chuột chết vì bị bẫy, ruồi chết vì mật, nhưng con người có thể chết danh vì dư luận bởi háo danh và quyền lực.

“Để vinh danh Hòa Thượng Thích Quảng Độ trong tác phẩm CỘI TÙNG TRƯỚC GIÓ. Lời giới thiệu của Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh “Đọc tác phẩm nầy chúng ta biết thêm về tấm gương tranh đấu bất khuất, sự hy sinh cao cả, ý chí sắt đá thể hiện Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi của Hoà Thượng Thích Quảng Độ, người đã phá vỡ nỗi sợ hãi của quần chúng, hay nói cách khác, Hoà Thượng đã giải phóng đồng bào ta ra khỏi nỗi sợ hãi triền miên dưới chế độ độc tài toàn trị ……….“

(bài nầy Trong tác phẩm Hòa Thượng Thích Quảng Độ - Cội Tùng Trước Gió được cập nhật thêm)

Những tác phẩm của HT T Quảng Độ

* Kinh Mục Liên Sám Pháp
* Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân
* Thoát vòng tục lụy, Sài Gòn 1962; (truyện)
* Dưới mái chùa hoang, Sài Gòn 1962; (truyện)
* Truyện cổ Phật giáo, Sài Gòn 1964;
* Ðại thừa Phật giáo tư tưởng luận
* Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận
* Nguyên thủy Phật giáo tư tưởng luận
* Từ Điển Phật Học Hán Việt (2 tập)
* Phật Quang Đại Từ Điển (9 tập)
* Chiến tranh và bất bạo động
* Thơ Tù
* Những nhận định sai lầm của cộng sản đối với Dân tộc và Phật giáo

Tài liệu tham khảo

* Bộ Việt sử Đại Cương 1,2,3 của nhà văn Trần Gia Phụng
* Bộ Đại Việt Sử Ký toàn thư của Lê Văn Hưu


"Thằng Thức Thằng Ngủ" để canh giữ hào bình thế giới!!!


Nguyễn Minh Triết phát biểu tại Cu Ba ngày 03.10.2009: "Việt Nam, Cuba như là trời đất sinh ra, một anh ở phía Đông, một anh ở phía Tây. Chúng ta thay nhau canh giữ hòa bình cho thế giới. Cuba thức thì VN ngủ, VN gác thì Cuba nghỉ"
http://www.youtube.com/watch?v=fJtl4lApWIU&feature=player_embedded

    Đi xem chàng hề bẩm sinh

    Nhìn xem Triết đọc diễn văn
    “Cu ba” ngỏng dậy đòi ăn thịt bà
    Bà rằng có một lá đa
    Thức khuya canh gác thằng cha hoà bình

    Gạo từ da thịt điêu linh

    Tặng ba ngàn tấn triều đình Phi Đeo
    “Ví von” nghĩa vụ chó mèo
    Bờ “Đông” khỉ “gác” Hán leo ngập đường

    Phía “Tây” “ngủ” bụi mía rừng

    Hoà bình thế giới “canh chừng” là đây
    Ăn cướp bốc nịnh ăn mày
    Đêm khuya chăn gối ban ngày hiếp dâm

    “Điều 4” cộng Việt đã làm

    “Bỏ là tự sát” quai hàm mất nhai
    “Nước tôi” có một không hai
    “Nhiều gái đẹp lắm” xin mời vào chơi

    Tối đêm lửa tắt giữa trời

    Cu Ba cu Vẹm mừng lời chúc nhau
    Chúc “sống chung” tới bạc đầu
    “Xã Hội Chủ Nghĩa” một cầu “phân” chung..

    Lê Hải Lăng

Về vụ phản đối đài SBTN

On Fri, 10/23/09, hoang4eb wrote:

From: hoang4eb
Subject: Re: [PhoNang] Tại sao phản đối đài SBTN...
To: PhoNang@yahoogroups .com
Date: Friday, October 23, 2009, 9:32 AM

Về vụ phản đối đài SBTN


1. The pot calling the kettle black

Khi đài SBTN phỏng vấn ông Liên Thành, họ đang thực hiện quyền tự do ngôn luận. Ông A phản đối đài SBTN. Ông B phản đối ông A, bảo rằng ông A giống VC, bắt người ta phải ngôn luận theo "lề đường bên phải".

Có hai điểm mà ta có thể nghiệm thêm trong trường hợp này.

Thứ nhất, việc ông A phản đối, chống đối đài SBTN khác hẳn với việc VC bắt người ta nói một chiều. Khác ở chỗ VC dùng bạo lực khớp miệng người khác còn ông A không dùng bạo lực hay sự chuyên chế. Ông A chỉ đang hành xử quyền tự do ngôn luận, phát biểu ý kiến của ông ta. Điển hình là cộng đồng người Việt tại Úc đã từng chống một số các chương trình của đài SBS, nhưng cộng đồng người Việt không giống VC. Cộng đồng người Việt ở Úc chỉ hành sử quyền tự do của mình trong phạm vi luật định. Lối lập luận phiến diện để sánh người ta với VC của ông B không được người có suy nghĩ thưởng thức. Nói nôm na là ông B chụp mũ.

Thứ nhì, ông A phản đối đài SBTN là đang hành sử quyền tự do ngôn luận của mình. Ông B cũng vậy, đang hành sử quyền tự do ngôn luận của mình qua việc phản đối việc ông A phản đối bài SBTN. Chuyện ông B làm không khác gì chuyện ông A làm, cũng là phản đối người khác làm một việc gì đó, nhưng ông B thì tự cho phép mình làm như vậy mà lại bảo ông A là giống VC, là không phân biệt phải trái.

Ông B có quyền bênh vực đài SBTN, nhưng không nên xem việc ông A làm là chuyên chế, bởi vì khi "không cho" (trong ngoặc kép) ông A lên tiếng thì chính ông B cũng chuyên chế. The pot calling the kettle black, tiếng Anh có thành ngữ để chỉ sự việc này.

2. SBTN

Tác giả Liên Thành, qua cái gọi là trình bày sự thật, đã lên án một số người hay tập thể. Tôi không theo dõi SBTN thường xuyên nên không rõ, song nếu SBTN là một cơ quan truyền thông vô tư thì sau khi phỏng vấn ông Liên Thành, phải tạo cơ hội cho tập thể hay cá nhân bị ông Liên Thành đề cập đến có cơ hội lên tiếng.

Trên cái nhìn chính trị, có lẽ chúng ta đều thấy rằng CSVN chắc chắn muốn khuynh loát hay khống chế các bộ phận truyền thông, giải trí của người Việt tự do. Khi làm được điều này, CSVN sẽ không dại gì mà tuyên truyền ra rả như loa sắt ở VN mà họ sẽ kéo léo đi những chiêu lắc léo khác, chẳng hạn như làm lung lay sự tin tưởng của người Việt yêu tự do với các thế lực chống Cộng. Dưới cái nhìn này, SBTN, Asia, Thúy Nga Paris là những mục tiêu của VC và vì vậy, việc đồng hương có một cái nhìn cẩn trọng với các phương tiện truyền thông này không phải là vô lý.

Khi liên lạc bằng điện thoại với Hoà Thượng Thích Không Tánh, chúng tôi đã bị VC cắt cái cụp. Nhưng Thanh Toàn của SBTN thì tha hồ về VN phỏng vấn Hòa Thượng. Trường hợp này không khác với Trịnh Hội (cũng có liên quan đến SBTN) bao nhiêu. Đợt phóng sự của Thanh Toàn về Phật giáo đã trình bày ra một số sự thật về sinh hoạt của Phật Giáo, nói thẳng ra là sự chia rẻ của Phật giáo. Điểm chúng ta cần thấy ở đây là nó (phóng sự) được sự cho phép của VC. Nếu Thanh Toàn làm được phóng sự về sự tham nhũng của VC thì có lẽ chúng ta phải thừa nhận SBTN có giá trị, còn nếu chỉ làm được những phóng sự mà VC cho thì SBTN cũng không mấy gì khác các cơ quan truyền thông trong nước.

Nói một câu chân thật, tôi rất thích Trúc Hồ, thích các nhạc phẩm của anh ta, nhưng sau khi thấy Trịnh Hội, rồi Thanh Toàn về VN làm phóng sự, SBTN làm chương trình Hành Trình Xuyên Việt, chúng tôi thật khó đặt lòng tin hoàn toàn vào SBTN.

Ta không kết luận SBTN là của VC hay Thanh Toàn là ai, nhung sau khi thưởng thức các màn trình diễn, đôi khi ta cũng nên ghé con mắt tò mò nhìn phía sau hậu trường xem ai là đạo diễn.

3. Liên Thành

Bác Tú Gàn viết: " Theo tôi, vấn đề không phải là ủng hộ hay chống đối, vấn đề là Liên Thành nói sai hay đúng. Nếu bảo rằng Liên Thành nói sai thì sai ở chỗ nào?"

Đó là một cách nhìn. Một cách nhìn khác là Liên Thành nói như vậy thì có lợi cho ai, có hại cho ai, và vì sao Liên Thành lên tiếng vào lúc này.

Cách nhìn của bác Tú Gàn là cách nhìn có tính khoa học, lịch sử, còn cách nhìn sau có tính cách chính trị. Liên Thành nói chuyện chính trị, nên không thể không nhìn Liên Thành và việc làm của ông ta bằng con mắt chính trị.

Nguyễn văn Hoàng
hoang4eb@gmail. com

2009/10/23 Lu Giang
<lugiang2003@ yahoo.com>

Theo tôi, vấn đề không phải là ủng hộ hay chống đối, vấn đề là Liên Thành nói sai hay đúng. Nếu bảo rằng Liên Thành nói sai thì sai ở chỗ nào?
Không thể duy trì tệ trạng ấn định "lề đường bên phải" ở hải ngoại rồi bắt người khác phải suy nghĩ và nói như mình, gióng như Việt Cộng ở trong nước, không cần phân biệt phải trái.
Ở trong nước, Việt Cộng dùng bạo lực để ngăn chận quyền nói lên sự thật, nhưng các nhà tranh đấu vẫn hiên ngang nói lên quan diểm của họ. Tại sao ở hải ngoại, chúng ta lại sợ bọn "lề đường bên phải", bọn "cường quyền về truyền thông"? Nếu không phá vỡ được bọn "lề đường bên phài" và bọn "cường quyền về truyền thông", làm sao chống cộng?
Chó sủa mặc chó, lạc đà cứ đi.
Lữ Giang


Friday, October 23, 2009

Hồ sơ vụ đổ vỡ nội bộ Hệ thống Truyền Thông Việt Nam Hải Ngoại - Mai Loan

    Những tin tức mới nhất
Mai Loan

Hồ sơ vụ đổ vỡ trong nội bộ của Hệ Thống Truyền Thông Việt Nam Hải Ngoại (VNHN) bỗng nhiên có một biến chuyển khá kỳ lạ trong tuần qua với một bức thư từ chức của hai giám đốc về giao tế và tài chánh của đài phát thanh VNHN. Hơi kỳ lạ là vì hình thức của vụ từ chức này không giống với cung cách bình thường và nghiêm túc đúng nghĩa của một việc làm và quyết định quan trọng như vậy, chưa kể là văn phong trong bức thư có phần hơi yếu kém của một nhân vật đảm nhiệm trách vụ giao tế của một đài phát thanh lớn.

Để tôn trọng sự trung thực của vấn đề, xin trích đăng lại nguyên văn của bức điện thư (email) được gửi đến từ ông Dương Văn Hiệp (Bill Dương) đến các cộng tác viên, ban giám đốc, và các xướng ngôn viên của đài VNHN (theo như thứ tự ghi trên email
    From: Bill Duong
    To: ctv ; bgd ; xnv

    Cc: anhhongdo@hotmail. com ; billduong@centuryst eel.org ; Bill Duong ; amsfv@aol.com

    Sent: Thursday, October 15, 2009 8:23 PM

    Subject: Thu Tu Chuc.

    Ngay 15 thang 10 nam 2009

    Kinh goi:

    -Cac Anh Chi trong ban sang lap HTTTVNHN.

    -Anh Ngo Ngoc Hung,anh Dinh Quang Trung va ban quan tri trung uong.

    -Cac Anh Chi cac Dai Dia Phuong,cac Anh Chi Cong Tac Vien va cac Anh Chi Xuong ngon Vien.

    Dong kinh goi cac Cong Dong,Doan The nguoi Viet Quoc Gia vung Hoa Thinh Don,phu can,Phila... .

    -Cac Co Bac thinh gia cua HTTTVNHN.

    Thua qui vi,

    Toi rat hanh phuc va han hanh co duoc co hoi sinh hoat voi cac anh chi duoi mai nha Dai Phat Thanh Viet Nam Hai Ngoai,cung nhu co co hoi PHUC VU Cong Dong,Doan The,Thinh Gia trong nhieu nam qua,khong ngoai muc dich la muon dem tam suc cua minh,lam mot vai viec lam nho be cho Dong Bao minh,cho Que Huong va cho Dan Toc minh.

    The nhung,trong thoi gian gan gay,chung toi da gap nhieu kho khan,kho khan nay khong nhung chi rieng cho ca nhan chung toi,ma quan trong lam lam anh huong,lam can buoc tien cuaHTTTVNHN. tren duong phuc vu cho Dong Huong va Dau Tranh cho TU DO,Dan Chu cho hon 80 trieu dong bao dang song co cuc trong bao quyen cong san tai que nha.Nhu qui vi da biet,chung toi da bi mot nguoi ma chung toi luc nao cung kinh trong da"chup cho chung toi cai non coi"la;-Giao du mat thiet voi toa dai xu viet cong tai Hoa Thinh Don.-Qua lai Viet Nam thuong xuyen.Khong nhung chi the,ong ta con phat tan,rong khap tren cac dien dan,tren nhung trang web...re tien,roi tu do keo theo nhung dam KEN KEN,QUA QUA a dua theo,de tim du moi cach beu xau vo chong chung toi va quan trong hon het la triet ha cho bang duoc HE THONG TRUYEN THONG VIET NAM HAI NGOAI.Thua Qui Vi,lam cong tac Truyen Thong,chung toi phai tiep xuc voi du moi thu nguoi,neu chung toi co phai tiep xuc voi DU HOC SINH,voi CAN BO VIET CONG,la de TRANH LUAN,la de GIAO DUC,la de TIM HIEU...hau lay du kien thuc thong tin.Co nhu the,chung toi moi co dieu kien phuc vu Thinh Gia huu hieu hon va nhat la tao kien thuc day du hon trong CONG CUOC DAU TRANH KHONG DON GIAN nay.Mot dieu quan trong,chung toi xin duoc TRAN TRONG TUYEN HUA voi Qui Vi,voi cac Anh Chi Cong Tac Vien,voi cac Co Bac Thinh Gia thuoc HTTTVNHN la:1-CHUNG TOI TIEP XUC VOI VIET CONG,KHONG CO NGHIA LA CHUNG TOI NGA THEO CONG SAN.2-Du co con tiep tuc PHUC VU qui vi trong HTTTVNHN hay khong?chung toi van tiep tuc DAU TRANH CHO MOT VIET NAM duoc TU DO DAN CHU va NHAN QUYEN,ma trong do co gia dinh toi,than nhan toi va ban be toi.Tien day,chung toi xin mao muoi chia xe voi qui vi:-Viet cong dang muon lung doan gioi Truyen Thong nguoi Viet Quoc Gia tai Hai Ngoai va ho da va dang mo nhung dai TV,bao chi,web sites,cung nhu ho dang co du dinh mo mot dai phat thanh tai vung Hoa Thinh Don de tuyen truyen,lam lung doan CONG DONG NGUOI VIET QUOC GIA TAI HAI NGOAI.-DAI VIET NAM HAI NGOAI dang lam mot CAI DINH ma viet cong can phai NHO,ho nhan dip nay,tung tin that thiet,goi emails,tung thu roi de lam giam uy tin cua He Thong Truyen Thong Viet nam Hai Ngoai.Chung chung xin Qui Vi CAN NHAC va dung XAP BAY cua viet cong.Mot lan nua chung toi khan khoan xin Qui Vi can nhac van de nay.Vi tam quan trong PHUC VU cua He Thong Truyen Thong Viet Nam Hai Ngoai,chung toi xin duoc NGUNG SINH HOAT voi HTTTVNHN.ke tu hom nay.Va cung de tao dieu kien cho cac Anh Chi thuoc ban Quan Tri Trung Uong,cac Anh Chi thuoc ban Giam Doc dia phuong,cac Anh Chi Cong Tac Vien,cac Xuong Ngon Vien,manh tien hon de PHUC VU THINH GIA duoi mai nha DAI VIET NAM HAI NGOAI.Nhan dip nay,chung toi xin chan thanh cam on cac Cong Dong,cac Doan The dau tranh,cac Co Bac thinh gia khap moi noi da khuyen khich,giup do va tao dieu kien de dang cho chung toi hoan thanh mot so cong tac ma He Thong Truyen Thong Viet Nam Hai Ngoai giao pho.Va chung toi cung xin qui vi,qui thinh gia san long bo qua cho,neu co nhung dieu gi da lam qui vi,qui Co Bac khong duoc vui long.Mot lan nua,chung toi la Duong Van Hiep tran trong kinh chao qui vi,qui thinh gia than thuong cua chung toi.Kinh chuc qui Thinh Gia,qui Anh chi Cong Tac Vien,Xuong Ngon Vien, qui dai dien Cong Dong,Doan The them nhieu suc khoe va may man.Tran trong kinh chao Doan Ket va Tam Biet
    Duong Van Hiep-Luu Le Ngoc
    (ngưng trích dẫn)
Vì bức thư viết trên email không bỏ dấu tiếng Việt nên có thể gây khó khăn, hoặc hiểu lầm hay không rõ nghĩa ở một vài từ ngữ nên điều này là một hiện tượng khá kỳ lạ và khó hiểu từ một giám đốc giao tế. Thông thường, người ta có thể trao đổi với nhau những email không cần bỏ dấu nhưng ngắn ngủi để mọi người có thể hiểu rõ nội dung. Tuy nhiên, trong những bức thư dài hơn với nhiều phần giải thích khá dài dòng và chi tiết, người ta luôn cẩn thận viết có dấu tiếng Việt rõ ràng, một chi tiết kỹ thuật quá dễ dàng và phổ thông mà mọi người làm trong ngành truyền thông tiếng Việt ắt hẳn phải biết và sử dụng khi cần. Nhất là khi vụ này liên quan đến một bức thư xin từ chức của một nhân vật cao cấp trong một đài phát thanh lớn vừa mới trải qua một vụ căng thẳng nội bộ khi một vị giám đốc chương trình là nhà báo Hồng Phúc đã tự nguyện rời khỏi đài với nhiều cáo buộc nghiêm trọng về việc làm của nhiều thành viên trong ban giám đốc.

Tưởng cũng nên nhắc lại là lá thư từ chức của ông Hồng Phúc được loan báo công khai và rộng rãi từ ngày 17-9 vừa qua (sau khi ông đã xin nghỉ việc chính thức và rút tên ra khỏi hệ thống truyền thông VNHN từ ngày 15-6 và có thư riêng cho ban giám đốc) giải thích lý do vì sao ông phải minh bạch công khai lý do khi ban giám đốc đã không chịu làm việc này trong thời gian 3 tháng trước mà còn dùng làn sóng của đài với những tiếng nói khác để chỉ trích hoặc tấn công một cách sai lầm về việc làm của ông. Lý do chính của sự ra đi của ông Hồng Phúc là nhằm phản đối về lập trường của Đài VNHN vì Ban Giám Đốc đã có những hành động phản bội lại niềm tin của người Việt tỵ nạn cộng sản, của thính giả . . . qua những hành động không tốt, như có quan hệ mật thiết với Tòa Đại Sứ Việt Cộng tại Hoa Thịnh Đốn đến độ mở tiệc tại nhà hàng, mời cán bộ VC cao cấp trong Tòa Đại Sứ công khai đến dự. Kế đến là những hành động của hai vợ chồng Dương Văn Hiệp và Lưu Lệ Ngọc, Giám đốc Giao tế và Tài chánh của Đài đã qua lại Việt Nam, cũng như thái độ của ông Ngô Ngọc Hùng, Tổng giám đốc của Đài VNHN, qua Ba Lan tiếp xúc với cán bộ đảng viên Cộng Sản.

Xét về mặt hình thức, rõ ràng đây là một bức thư từ chức có phần yếu kém và không đúng với những nguyên tắc về sinh hoạt và điều hành, chưa kể là có nhiều lỗi lầm về chính tả và văn phạm, rất thiếu khả năng chuyên nghiệp cần phải có của một viên chức giám đốc đài phát thanh, nhất là về mặt giao tế nhằm mục đích thu phục cảm tình của người ngoài. Trong một lần phỏng vấn giám đốc một đài phát thanh tại địa phương Houston để tìm hiểu thêm về vấn đề này, người viết bài này đã được nghe mô tả rằng ông Hồng Phúc được biết đến là một nhà báo có tài ăn nói lưu loát và chững chạc hơn ông Ngô Ngọc Hùng, tuy là tổng giám đốc nhưng không có tài ăn nói và lập luận có thể không vững vàng, mạch lạc bằng, do đó nhiều người dễ tin tưởng hơn vào những lập luận đưa ra từ phía ông Hồng Phúc. Nếu điều này là đúng, và xem chừng như một vài lần ông Hùng lên làn sóng giải thích khá giông dài về một số điều và không đi thẳng vào vấn đề, thì quả tình là đài phát thanh VNHN cần nên có thêm những nhân sự có khả năng hơn để bổ túc cho những thiếu sót trầm trọng và tai hại của những người trong ban giám đốc như các ông Hùng và Hiệp.

Đó là chưa kể khi đọc xong bức điện thư này, người đọc không biết rõ là cả hai vợ chồng ông bà Dương Văn Hiệp và Lưu Lệ Ngọc đồng rút lui khỏi hai chức vụ giám đốc giao tế và tài chánh hay chỉ là một mình ông Hiệp. Bởi trong bức thư, tác giả đã ghi lẫn lộn giữa tôi và chúng tôi (ám chỉ hai vợ chồng). Bức thư nhập đề bằng chủ từ ngôi vị số một (Tôi rất hạnh phúc và hân hạnh . . .) để rồi sau đó lại chuyển sang “chúng tôi” trước khi xác nhận lại cá nhân người viết (Dương Văn Hiệp) và sau cùng lại kết thúc lá thư bằng tên của hai người Dương Văn Hiệp – Lưu Lệ Ngọc!

Thoạt mới nhìn, bức điện thư có vẻ như gửi cho những người trong nội bộ của đài VNHN, nhưng ngay trong lời thưa gửi ở đầu thư đã có phần ghi rõ “Đồng kính gởi các Cộng Đồng, Đoàn Thể người Việt Quốc Gia vùng Hoa Thịnh Đốn , phụ cận, Phila . . . và các cô bác thính giả của HTTTVNHN”, tức là mặc nhiên gửi ra cho mọi công chúng cùng biết. Được biết, ban giám đốc của đài VNHN có bốn nhân vật chính là tổng giám đốc Ngô Ngọc Hùng, giám đốc điều hành và tài chánh Lưu Lệ Ngọc, giám đốc giao tế Dương Văn Hiệp, và giám đốc chương trình Đinh Quang Trung (lên thay ông Hồng Phúc từ chức). Nếu như cả hai vợ chồng ông bà Hiệp và Lệ Ngọc cùng xin từ chức thì trên nguyên tắc chỉ có ông Hùng mới là người có thẩm quyền để quyết định và thông báo. Nhưng cho đến khi bài này được thực hiện vào tối ngày thứ Hai 19-10, đã không có một bức thư hay một tin tức chính thức nào được loan ra từ phía ông Hùng. Cũng như không có một bức thư nào được coi như là văn bản chính thức, được đánh máy lại cho kỹ lưỡng và bớt sai sót hơn, của ông Hiệp để làm một thứ tài liệu chính thức hầu chứng tỏ sự nghiêm túc và chuyên nghiệp của mình, một hình thức bầy tỏ sự kính trọng đối với mọi người liên hệ cũng như các thính giả của đài trên khắp nơi.

Điều này cũng có phần dễ hiểu, theo như những người trong cuộc và những người làm việc gần gũi với đài VNHN trong thời gian dài đều cho biết là bà Lưu Lệ Ngọc là nhân vật chính yếu hiện nay của đài vì nắm giữ phần tài chánh, một thứ “tay hòm chìa khoá” nắm hết tất cả những hoạt động thu nhập của đài trong một thời gian dài, tuy rằng bà Lệ Ngọc cũng bị ông Hồng Phúc trong bức thư từ chức cáo buộc là đã thiếu minh bạch trong việc điều hành tài chánh. Vì theo ông Hồng Phúc thì trong suốt 12 năm qua, Đài VNHN chưa bao giờ công bố một báo cáo tài chánh nào của Đài. Đài VNHN đã nhân danh “chống Cộng”, kêu gọi đồng bào đóng góp tiền bạc, mời gọi các cộng tác viên làm việc không ăn lương vì lý tưởng chung, mà Đài không minh bạch trong vấn đề tài chánh là biến Đài VNHN thành một tổ chức lợi dụng niềm tin của thính giả, buôn bán chính nghĩa.

Những tin tức bên trong gần đây cho thấy sự việc có lẽ không đơn giản như chuyện ra đi của hai ông bà Hiệp và Lệ Ngọc như nội dung của bức điện thư. Có nguồn tin cho rằng việc hai ông bà Hiệp và Lệ Ngọc làm hành động từ chức là để bày tỏ sự tức giận của mình khi được biết quyết định của ông Ngô Ngọc Hùng thách thức ông Hồng Phúc và các cộng tác viên cũ đang chống đài VNHN về tham dự buổi họp nội bộ đã làm bà Lệ Ngọc bất mãn. Dường như ông Hùng muốn giải quyết vấn đề một cách khác, ngay cả việc dùng luật pháp để kiện ông Hồng Phúc. Và ông Hiệp cũng tỏ ý muốn đưa tất cả tài liệu, người làm chứng tại Wichita , Kansas (nơi định cư của ông Hồng Phúc) ra công luận để vạch trần con người của ông Hồng Phúc. Do đó, ông tân giám đốc chương trình Đinh Quang Trung đã xin bà Lệ Ngọc không nên có ý định rút lui vì hiện nay không ai chu toàn được trọng trách nuôi dưỡng đài, không biết đài sẽ sống thêm bao nhiêu tháng nữa khi phí tổn hàng tháng từ 30 đến 40,000 Mỹ-kim nếu như không có bàn tay lo liệu của bà Lệ Ngọc! Do đó tất cả những thư xin từ chức đều không có giá trị vì ông Trung không chấp thuận.

Nếu điều này là đúng thì lại thêm một sai lầm trái nguyên tắc và thiếu chuyên nghiệp nữa trong các vị giám đốc. Ông Đinh Quang Trung lấy tư cách gì để quyết định chấp thuận việc từ chức của hai vị giám đốc khác nếu như đó là thẩm quyền thuộc về ông tổng giám đốc Ngô Ngọc Hùng hoặc là một hội đồng quản trị có quyền hạn lớn hơn nếu như cơ cấu của đài có thành lập ban quản trị.

Vì sự việc đổ vỡ trong nội bộ này có phần hơi phức tạp với nhiều diễn biến qua lại giữa hai bên ủng hộ và chống khiến nhiều người dễ nhức đầu vì không theo rõi sát mọi chuyện để hiểu rõ, người viết bài này xin được tóm gọn lần nữa những diễn tiến xảy ra sau khi ông Hồng Phúc chính thức rút lui từ ngày 15-6 vừa qua và ông tổng giám đốc Hùng đã giải thích sai lý do nghỉ việc, dẫn đến nhiều tin đồn không đúng.

Ngày 7 tháng 8, một cộng sự viên khác là Mục sư Huỳnh Quốc Bình (tại Oregon ) đề nghị một cuộc họp nội bộ để giải quyết. Sau đó, có thêm một cộng sự viên là Đoàn Trọng Hiếu (tại New Mexico) bày tỏ việc ủng hộ ý kiến về một cuộc họp nội bộ này. Đến ngày 12-8, ông Dương Văn Hiệp trả lời các ông Bình và Hiếu với nội dung cho rằng không cần có buổi họp vì nhiều lý do, trong đó có câu nhận xét rằng “có duyên sẽ đến, hết duyên sẽ ra đi.”

Đến ngày 23-8, ông Hồng Phúc trả lời ông Hiệp rằng mình sẵn sàng tham dự buổi họp nội bộ ở Hoa Thịnh Đốn với tiền túi. Ông Huỳnh Quốc Bình lại viết bức thư thứ hai vào ngày 27-8 với nội dung phê phán cách cư xử của ông Hiệp là “quá phũ phàng” đối với những người cộng tác lâu năm, và lo lắng cho cách cư xử trong tương lai của đài VNHN đối với các cộng tác viên.

Đầu tháng 9, bà Lệ Ngọc viết thư trả lời ông Bình với nội dung “có cần thiết phải có buổi họp ở DC hay không?”

Đến ngày 6 tháng 9, ông Hồng Phúc gửi thư chính thức đến các cộng sự viên trong nội bộ, cho biết những lý do ông đã rời đài với rất nhiều lời cáo buộc khá nặng nề và nghiêm trọng, đặc biệt là những chi tiết về lập trường chống Cộng của Đài. Qua ngày hôm sau, một cộng tác viên khác là Nguyễn Đăng Tuấn cũng yêu cầu ban giám đốc Đài trả lời những cáo buộc này. Ông Hiệp thì cho biết là sẽ thu âm lời trần tình và gửi đến các cộng tác viên.

Mãi đến ngày 13-9, ông tổng giám đốc Hùng mới báo cho biết là bà Lệ Ngọc đã nhờ ông Ngũ Lang, một cộng tác viên khác, thực hiện một cuộc họp. Sau cuộc họp, tin tức cho biết là các cộng tác viên tham dự đồng ý với lời giải thích của hai ông bà Hiệp và Lệ Ngọc.

Qua đến ngày 17-9, ông Hồng Phúc chính thức gửi thư ra công luận khắp nơi trên diễn đàn Internet với nội dung khẳng định lập trường chống Cộng của mình và tố cáo những việc làm của những người còn lại trong ban giám đốc, nhất là vụ gặp gỡ với các viên chức của Toà Đại Sứ Việt Cộng trong buổi tiệc sinh nhật của bà Lệ Ngọc. Về sau này, người ta mới phát giác thêm rằng đây không phải là một hành động đơn lẻ và bất ngờ ngoài dự trù, do những người bạn riêng của bà Lệ Ngọc muốn làm một cú “surprise” (bất ngờ), bởi vì cũng đã có một cuộc tiếp xúc khác tại tư gia của ông bà Hiệp – Lệ Ngọc vào dịp Tết với những người bên phía Việt Cộng.

Đến đây thì trận chiến giữa hai bên bắt đầu nổ lớn với nhiều tiếng nói được phát lên trên làn sóng và khiến cho nhiều thính giả thêm hoang mang. Vào ngày 20-9, ban giám đốc ra một bức thư trả lời những cáo buộc của ông Hồng Phúc với nội dung cũng khẳng định lập trường chống Cộng, và biện minh vụ gặp gỡ nhân viên toà đại sứ Việt Cộng là do một người thứ ba (bạn của bà Lệ Ngọc) làm. Cũng trong thời gian này, ban giám đốc đã yêu cầu các cộng sự viên khắp nơi lên tiếng bày tỏ ý kiến trong các chương trình của mình. Việc lời qua tiếng lại giữa hai phía bênh và chống tạo nên một hình ảnh “phe mình đánh phe ta” dữ dội khiến nhiều người có ý thức bắt đầu quan tâm và lo ngại cho sự chia rẽ này và đề nghị một giải pháp “hưu chiến” cho đến khi hai bên có thể gặp gỡ và mọi người có thể tìm hiểu rõ hơn.

Ông Hùng đồng ý giải pháp hưu chiến vào ngày 21-9 nhưng liền qua ngày hôm sau cả ông và một cộng sự viên khác là Nguyễn Tường Thược (tại Philadelphia) đã vi phạm, và “hăng máu” kết án ông Hồng Phúc trong chương trình của ông ta. Ông Đoàn Trọng Hiếu đã lên tiếng phản đối những người vi phạm này đã có những hành động cư xử không khác gì Việt Cộng khi vi phạm “đình chiến”. Sau đó trong một chương trình khác, ông Hiếu cũng đã cùng với một người phụ tá là Thái Văn Hoàng đã “chính thức xin rút lui khỏi hệ thống truyền thanh VNHN với lý do chính không phải là tin tưởng vào những lời tố cáo của ông Hồng Phúc, mà là để phản đối thái độ và cung cách hành xử của ban giám đốc đài VNHN trong những ngày qua.”

Cũng trong ngày 22-9, trong một chương trình do ông Bình phụ trách có tên là “Chúng ta và Thời cuộc”, ông cũng bị cướp diễn đàn khiến ông bị tắt tiếng trong 45 phút để những người khác ủng hộ ban giám đốc gọi vào tấn công ông Hồng Phúc, và ban giám đốc Đài sau đó biện minh là vì trở ngại kỹ thuật. Ông Bình đã phản đối hành động này và xin rút lui khỏi Đài vì ban giám đốc và nhiều người khác đã dùng những biện pháp để “bịt miệng” ông ta ngay trên chính chương trình do ông phụ trách bằng những mánh khoé về kỹ thuật “chỉ có thể gạt những người không am tường”.

Cho đến nay, các ông tổng giám đốc Ngô Ngọc Hùng và hai giám đốc Dương Văn Hiệp – Lưu Lệ Ngọc và tân giám đốc Đinh Quang Trung vẫn chưa có dấu hiệu đồng ý về một cuộc đối chất công khai giữa hai bên để cho những ai thắc mắc có thể nêu lên câu hỏi và nghe đương sự được quyền biện hộ. Bà Hoàng Lan Chi, một cộng tác viên cũng đã rút lui hỏi đài VNHN đề nghị với ông Nguyễn Tường Thược là hãy nên đốc thúc ông Hùng tổ chức buổi họp đối chất công khai này để hai bên thảo luận, thay vì dùng làn sóng để thỉnh thoảng đọc những lá thư của một vài thính giả có nội dung tấn công những người không đồng quan điểm của ban giám đốc.

Cuộc tranh cãi này vẫn còn tiếp diễn, và mọi người đành phải chờ đợi những diễn biến mới có thể xảy đến, cũng như những phản ứng của nhiều cộng sự viên xa gần có còn tiếp tục cộng tác với đài VNHN hay không, như trường hợp của ông Trần Hoàng Hữu tại Salt Lake City, tiểu bang Utah, cũng đã chính thức xin rút lui. Trong lúc đó, thỉnh thoảng thính giả nghe được những lời biện minh rời rạc của các ông Ngô Ngọc Hùng và Đinh Quang Trung về những hành động tiếp xúc với các nhân viên toà đại sứ Việt Cộng. Lập luận của những người này nhằm muốn nói rằng họ không ái ngại chuyện gặp gỡ vì đây là dịp may hiếm có để hướng dẫn cho những thành phần phía bên kia (ám chỉ Việt Cộng) thuộc thế hệ trẻ có thể chưa biết rõ về lịch sử và lập trường, chính nghĩa của phe quốc gia, rằng đây là cơ hội tốt khiến họ có thể “chiêu hồi” được những người cán bộ của Việt Cộng.

Nghe đến đây, những người có chút hiểu biết và suy luận cũng nhận chân ra mức độ thiếu khả tín và khó thuyết phục được của những luận điệu kiểu này. Thứ nhất là vì những người nói lên câu đó đã đánh giá quá thấp những cán bộ của Việt Cộng đưa ra hải ngoại, và đánh giá quá cao về khả năng và kiến thức của mình có thể thuyết phục những cán bộ này tin tưởng vào những điều chúng ta giải thích cho họ nghe. Kế đến, “chính sách chiêu hồi” được thực hiện dưới thời Việt Nam Cộng Hoà có sức thu hút tự nhiên vì những anh lính bộ đội đang bị đói rét trong rừng hoặc ở trong những điều kiện thiếu thốn trên chuyến đường gian khổ vượt Trường Sơn từ Bắc vào Nam và phải trốn chạy những trận mưa bom, sẵn sàng bỏ hàng ngũ của Việt Cộng để nhập vào đời sống ở miền Nam sung túc và tự do hơn nhiều một khi họ bị bắt hoặc có cơ hội để ra đầu quân, trái hẳn với những lời giáo điều sai lầm mà họ đã bị đầu độc trước đó. Việc bỏ hàng ngũ để được chiêu hồi là điều hiển nhiên và dễ hiểu vì các cán binh Việt Cộng sẵn sàng bỏ cái nghèo đói để quay sang với cái cộng đồng giầu có và sung túc hơn là xã hội VNCH thời ấy. Trong tình cảnh hiện nay, đài phát thanh VNHN có được lợi ích cụ thể gì để có thể cám dỗ được những thành phần trong toà đại sứ Việt Cộng, vốn là những người được nhiều ưu đãi và giầu có trong nước để có thể được đưa ra hải ngoại, sẽ chịu từ bỏ hàng ngũ để về đầu quân? Hỏi tức là trả lời.

Mai Loan

Mailoan74@yahoo.com
Houston, Texas 20-10-2009

Monday, October 19, 2009

Sự phản bội của Thích Nhất VẸM

    SỰ PHẢN BỘI CỦA THÍCH NHẤT HẠNH
Phạm Cố Quốc

Lời tác giả: Bài viết này được lược trích từ bài “Sự Thật Che Giấu Sự thật” và đổi lại tựa đề cho đúng với hoàn cảnh thực tại của Sư ông Nhất Hạnh. Sư ông Nhất Hạnh đã phản bội lý tưởng của ông ta qua hai hành động về Việt Nam để:

1. giải độc cho CSVN trong thời điểm mà Thế giới lên án CSVN đang khốc liệt đàn áp Tôn giáo, và

2. bành trướng môn phái Tu sĩ có quyền lấy vợ.

... Người viết xin được đưa ra một số sự thật như sau:

Sự thật về sự khủng bố:

1. Vào ngày 11.9.2001, đã có trên dưới 7 ngàn dân Mỹ và các dân khác trên thế giới đã bị thiệt mạng dưới những khối bê tông cốt sắt khổng lồ tại Nữu Ước và Ngũ Giác Đài – Đó là sự thật!

2. Qua quá trình điều tra của cơ quan FBI, chính thực rõ ràng tên trùm khủng bố Osama Bin Laden và đồng bọn đã trực tiếp gây ra vụ thảm sát đẫm máu này – Đó là sự thật!

3. Nếu vì lý do bất đồng chính kiến với một thể chế chính trị nào đó, Laden có thể nhắm ngay đầu não của một chính quyền, là một chuyện khác; nhưng thật sự Laden đã cố tình giết hại những người dân vô tội tại Trung tâm Mậu dịch Quốc tế . Rõ ràng Laden và đồng bọn là những tên sát nhân, thú vật, mất hết lương tri, cố tình diệt chủng, không thua gì Cộng sản Việt Nam– Đó là sự thật!

4. Chính quyền Taliban đã đập nát tất cả những tượng Phật, di tích Phật giáo có tầm cỡ lịch sử, hủy diệt một nền văn hóa có tự ngàn xưa, đã chứng tỏ cho thế giới thấy được sự thật về những hành động dã man của bọn chúng . Thể chế chính quyền Taliban hiện nay đang diệt chủng, diệt tông, không thể tha thứ – Điều này không thể chối cãi!

Sự thật về Thiền sư Nhất Hạnh:

1. Thiền sư Nhất Hạnh đã cố tình quên đi hành động dã man của tập đoàn khủng bố, mặc nhiên trước những sinh linh vô tội, nỗi đau đớn của thân nhân và nhân dân Hoa Kỳ, nỗi lo sợ của toàn thế giới trước âm mưu tiêu diệt nhân loại của tập đoàn này qua biến cố vừa qua . Trước nỗi thống khổ của nhân loại, Thiền sư đã không thể hiện tinh thần Bồ tát đạo, cứu độ chúng sinh qua lời Phật dạy trong Lục Độ Thập Kinh: “Bồ tát thấy dân kêu ca, do vậy, xông mình vào nơi chính trị hà khắc để cứu muôn dân ra khỏi chốn lầm than” . Đó là sự thật!

2. Từ ngày bọn Cộng sản áp đặt nền chuyên chính trên toàn nước Việt, chúng ra sức bóc lột nhân dân, tham nhũng cực độ, đàn áp khốc liệt, tiêu diệt tôn giáo, khủng bố chứng nhân và các nhà ái quốc yêu tự do, thủ tiêu Hòa thượng Thích Thiện Minh, Hòa thượng Thích Trí Thủ… giam cầm và quản chế Hòa thượng Huyền Quang, Quảng Độ… thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, một Giáo hội Dân lập được truyền thừa gần 2000 năm của Lịch Đại Tổ Sư, một Giáo hội đã dày công nuôi dưỡng Thiền sư Nhất Hạnh và nhờ sự trưởng dưỡng đó mới được đến ngày nay, thế mà khi Giáo hội trong cơn Pháp nạn, kêu cứu từ hơn một phần tư thế kỷ qua mà sư vẫn thiền, vẫn còn tự cho mình là “nhất hạnh” . Đó là sự thật!

3. Sư Nhất Hạnh đã chọn thành phố New York để tổ chức một buổi thuyết trình, Thiền sư đã quảng cáo 2 lần, một lần ¼ trang và sau đó quảng cáo nguyên trang. Trong quảng cáo có đăng bài thơ với phần ghi chú rằng, Bến Tre - thị xã ba trăm ngàn dân - đã bị phá hủy chỉ vì 7 du kích bắn vu vơ. Trong quảng cáo lần thứ nhì, con số “7” bị rút đi vì gặp sự phản ứng của dư luận, nhất là qua cuộc Họp Mặt Cho Sự Thật tại miền Nam Cali vào ngày 14.10.2001 đã minh xác lời của Thiền Sư Nhất Hạnh là sai trái . Đó là sự thật!

4. Sư Nhất Hạnh đã buộc tội quân đội Việt Nam Cộng hòa và Đồng minh Hoa Kỳ một cách hàm hồ như sau:

- Chỉ có “7” hoặc “vài” du kích quân Việt Cộng vào thành phố .

- Du kích quân bắn máy bay Mỹ, không trúng .

- Du kích quân rút đi .

- Mỹ ném bom hủy diệt thành phố ba trăm ngàn dân Bến Tre .

- Viên chức Mỹ tuyên bố: hủy diệt thành phố Bến Tre để cứu nó .

... Những hành vi như đã kể ra ở trên chứng tỏ Thiền sư Nhất Hạnh đã đi ngược lại với nguyện vọng đấu tranh cho công lý của mọi người, thiết thực nhất là nguyện vọng đấu tranh đòi hỏi Cộng sản phải thực thi tự do tôn giáo và nhân quyền tại Việt Nam của toàn thể Người Việt Tỵ nạn Cộng sản ở Hải ngoại . Xin nhấn mạnh một lần nữa là Người Việt Tỵ nạn Cộng sản, nghĩa là tỵ nạn chính trị, nghĩa là không chịu nỗi sự đàn áp chém giết khốc liệt của tập đoàn Cộng sản nên phải tỵ nạn, chứ không phải tỵ nạn kinh tế! Do đó, người Việt lưu vong đó đây được các chính phủ tự do nhân đạo cứu vớt đón nhận để cho ăn nhờ ở đậu, cư trú tạm thời. Nếu là tỵ nạn kinh tế, chúng tôi tin chắc rằng đã không có quốc gia nào đón nhận . Chính vì vậy, bất cứ những tuyên cáo, hoạt động nào nằm trong phương hướng bảo vệ chính nghĩa quốc gia, chống Cộng sản, đều là việc chung của mọi người Việt Tỵ nạn Cộng sản . Mặc dù họ không có nói ra, nhưng trong tâm tư của mỗi người Việt lưu vong hải ngoại sau 1975 đều mang ý nghĩ như vậy, ngoại trừ những tên đã tự đổi cốt của chính mình từ tỵ nạn Cộng sản sang tỵ nạn kinh tế để kiếm sống qua ngày, và sẵn sàng giao lưu, hiệp thông với Cộng sản . (Những tên này đã đánh mất lương tri nhân loại, đánh mất lập trường chính trị để tiếp tay với lũ côn đồ giết hại dân lành, tiêu diệt đạo pháp) .

... Điều mà ai cũng biết Thiền sư Nhất Hạnh là một tu sĩ giỏi (Điều nổi bật nhất là Thiền sư Nhất Hạnh giỏi ru ngủ . Những ai đang được Thiền sư Nhất Hạnh ru ngủ rồi, thì dù bất cứ tiếng kêu la thống thiết nào, ngay cả bom nguyên tử nổ bên tai, cũng không tài nào thức tỉnh họ được), thông hiểu triết lý nhà Phật, và là tác giả của nhiều cuốn sách . Nhưng GIỎI là đặc điểm cá nhân của Thiền sư Nhất Hạnh . Nếu Thiền sư Nhất Hạnh không đem cái GIỎI của mình để cứu đạo, cứu đời, thì GIỎI trở nên vô dụng và không ăn thua gì đến công cuộc đấu tranh của tập thể Người Việt Tỵ nạn Cộng sản hiện nay. Không những thế, Thiền sư Nhất Hạnh đã nhúng tay vào làm công việc phản chiến và ngụy hòa, đã kêu gọi tha thứ cho quân khủng bố trong lúc quân khủng bố cứ liên tục phát động chiến dịch đẫm máu này (cướp máy bay lao vào World Trade Center) đến chiến dịch đẫm máu khác (vi khuẩn anthrax, giựt sập cầu, đánh rớt máy bay dân sự…) để giết hại dân vô tội, đến nỗi người Mỹ đã thay đổi hẳn tình cảm đối với người Việt Nam, cho nên bắt buộc mọi người phải gióng lên những tiếng nói cho công lý và chính nghĩa . Sống trên nước Mỹ, người dân thường thấy, khi mở radio, truyền hình, sau vụ khủng bố, không có tin gì ngoài những tin thương hại do độc khuẩn của bọn khủng bố tạo ra và những lời cảnh giác của phóng viên truyền hình, báo chí. Một con sâu làm rầu bát canh!

Sau khi nghe bài thuyết trình “độc nhất vô nhị” của Thiền sư Nhất Hạnh tại Nữu Ước, dân Mỹ quá sức phẫn nộ đã phải hô to lên rằng: “Vietnamese go home!” Thái độ của người Mỹ đối với người Việt Tỵ nạn Cộng sản, nay là thế đó. Từ tình cảm ưu ái, thân thiện, đã trở thành thù ghét đắng cay. Càng thù ghét người Việt quốc gia tại hải ngoại chừng nào, người Mỹ càng trở nên thân thiện gần gũi với bọn Cộng sản nhiều hơn. Và, trận chiến sẽ xoay chiều. Người Mỹ sẽ coi chúng ta là những kẻ đồng lõa, là những người bao che cho tạo tội ác nên giúp tội ác tạo tội ác . Thế rồi, công cuộc đấu tranh cho nhân quyền, dân chủ và tự do tôn giáo tại quốc nội sẽ dư thừa. Không có ai tin chúng ta cả . Người Mỹ sẽ nghĩ rằng chúng ta muốn phát động phong trào khủng bố để chống chính quyền Cộng sản ở Việt Nam, chứ không phải để đòi hỏi tự do, nhân quyền và dân chủ, vì đất nước Việt Nam có tự do thật sự, có nhân quyền hẳn hoi . Hơn nữa, dần dần những tin tức xấu xa do Thiền sư Nhất Hạnh khơi động này sẽ được loan chuyển khắp mọi nơi trên thế giới. Không những người Mỹ, mà dân chúng trên thế giới đều có một nhận định xấu xa về công cuộc vận động đấu tranh cho tự do tôn giáo của người Việt khắp nơi trên toàn cầu. Từ đó, chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn trên chiến trường chống Cộng và phục hưng đất nước. Chúng ta không hiểu được điều đó sao? Thế thì, ai đã gây ra ảnh hưởng xấu ? Không phải là Thiền sư Nhất Hạnh thì còn ai vô đây ?

Chúng ta không thể tiếp tục ra sức bao che cho tội ác, biện minh che cho sự phản bội của Thiền sư Nhất Hạnh!

Đó chỉ mới bàn về những ảnh hưởng tác hại của sự phản chiến của Thiền sư Nhất Hạnh mà thôi. Riêng, trong bài thuyết trình tại Nữu Ước và tại những trang quảng cáo ầm ĩ của Thiền sư Nhất Hạnh trên báo New York Times, chúng ta rất dễ tìm những luận điệu vu khống, bôi nhọ quân đội Cộng hòa, lẫn những lợi điểm cho Cộng sản, như đã liệt kê ở trên. Điều đáng buồn là Thiền sư Nhất Hạnh đã đại vọng ngữ để đưa ra những con số không thật, những tin tức láo khoét khi nói về con số tử thương tại Bến Tre với mục đích gán ghép chồng chất tội ác lên đầu quân nhân Mỹ-Việt Cộng hòa . Thiền sư Nhất Hạnh đã bôi nhọ lên mặt Cộng hòa và tô son trên môi Cộng sản!

... Một điều cần biết là Thiền sư Nhất Hạnh giao du tứ phương để lấy lòng dân. Thiền sư Nhất Hạnh được lòng rất nhiều người. Người theo Thiền sư Nhất Hạnh cũng không phải ít . Nếu Thiền sư Nhất Hạnh là một tu sĩ biết lo cho dân tộc (quốc nạn) và đạo pháp (pháp nạn), chỉ cần Thiền sư gióng lên tiếng nói cứu độ quần sinh thôi, thì đảng Cộng sản Việt Nam đã tiêu diêu miền khói lửa lâu rồi, chứ đâu mà cảnh địa ngục trần gian còn day dưa đến hôm nay trên đất Việt?

(Xin được chú thích: Nói thế không phải để đề cao Thiền sư Nhất Hạnh, nhưng để buồn cho Thiền sư Nhất Hạnh có vũ khí tốt mà không biết dùng, nhất là trong tình trạng khẩn thiết của Đạo pháp hiện nay).

Nhưng, tiếc thay, nhìn vào đội ngũ đông đảo “hùng hậu” của Làng Hồng, Làng Mai, người ta chỉ thấy một đám người đang ngủ gà ngủ gật …

Sở dĩ mà dân New York hô lên “Vietnamese go home” nhưng không nói “Thich Nhat Hanh go home” là vì Thiền sư Nhất Hạnh dẫn cả một đại đội tiến về New York. Nhìn vào đám đông này, người ta chỉ thấy họ là Vietnamese, không phải là Thích Nhất Hạnh! “Con sâu làm rầu bát canh” ở chỗ đó! Rõ ràng Thiền sư Nhất Hạnh đã ô nhục toàn dân tỵ nạn CS ở hải ngoại, ô nhục nước Mỹ.

Vụ thảm sát vào ngày 11.9.2001 đó, ít nhiều, cũng đã tạo cơ hội cho giới truyền thông báo chí của bọn Cộng sản, như ở Hồng Kông, Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba thừa nước đục thả câu, tuyên truyền với dân chúng rằng Mỹ là con cọp giấy. Chưa đủ, chúng còn thâu băng, làm phim để kinh tài và hạ nhục Mỹ Quốc.

Tại sao Thiền sư Nhất Hạnh không đi qua Afghanistan để “thuyết pháp” cho bọn côn đồ đừng có hủy diệt tượng Phật, đừng có tiếp tục giết người vô tội, ngưng ngay những hành động khủng bố, mà Thiền sư cố nài nỉ người Mỹ tha cho bọn chúng? (Mặt khác, Thiền sư Nhất Hạnh cố tạo ra những con số bất thật để ghép tội người Mỹ, rồi tạo áp lực tinh thần và nhân tính để bắt buộc người Mỹ nhận thấy rằng chính người Mỹ cũng đã gây khủng bố ở Bến Tre, nên phải tha cho quân khủng bố Osama Bin Laden và đồng bọn) .

“Từ bi, Vị tha” kiểu ngược đời như thế này, không biết Thiền sư Nhất Hạnh đã tìm đâu ra ở trong Tam Tạng Kinh điển của Phật giáo ? Tạo cơ hội cho kẻ ác hành hung bằng cách khuyên người hiền nên cố tâm chịu đựng! Sao mà hao hao giống luận điệu của Cộng sản vậy kìa: “Bà con ơi, nên chịu đựng đi, đừng nhúc nhích mà chết, tại vì Đảng đã lỡ nắm quyền hành rồi, cho nên bắt buộc Đảng phải bóc lột, ăn cướp, hút máu dân để cho thỏa lòng tham vô cùng vô tận của Đảng, đừng có thắc mắc hoặc khiếu nại mà bị chặt đầu, vì đó là luật Đảng. Tốt nhất là phải chịu đựng, chịu đựng và tha thứ cho Đảng thì mới được sống an thân!…”. Thảm khổ!!!

Điều nổi bật hơn về Thiền sư Nhất Hạnh là Thiền sư đã được trưởng thành trong căn nhà của Giáo hội (GHPGVNTN), Thiền sư cùng tu, cùng ăn, cùng ở với những đồng đạo của mình. Thế nhưng, trong mấy chục năm qua, Giáo hội của mình bị bức tử, đồng đạo của mình bị tù đày, quản chế, 80 triệu dân quốc nội của mình không ngừng kêu cứu, thậm chí giáo pháp của Đức Phật cũng bị bọn côn đồ đảng Cộng sản đảo lộn, bôi nhọ, bảo rằng còn thua xa với thuyết lý Mác-Lê-Hồ rồi mang vào trường học để nhồi sọ sinh viên, miệt thị Phật giáo; Thiền sư Nhất Hạnh vẫn ngậm miệng, giả câm, giả điếc. Là một trưởng tử của Như Lai, Thiền sư Nhất Hạnh đã làm gì để lấy lại hương vị tinh nguyên của Giáo lý nhà Phật khi bị đảng Cộng sản đang bỏ chung vào một soong để chiên xào xáo trộn với chủ nghĩa ma quái Mác-Lê ? Sau này, thế hệ trẻ tại Việt Nam sẽ bị đầu độc rằng: Giáo pháp của Phật chẳng hơn gì lý thuyết Mác-Lê-Hồ cả, thi hành theo chủ nghĩa của Mác coi bộ thực tiễn hơn. Khi đó, Thiền sư sẽ nghĩ gì ? Đây mới chính là thời kỳ mạt pháp! Phật pháp đang trên đường băng hoại!

Chưa hết, trong thời gian Ngài Quảng Độ bị cầm tù trong ngục, Ngài đã làm 300 bài thơ tranh đấu, Ngài tin tưởng và chuyển ra hải ngoại cho Thiền sư Nhất Hạnh. Thiền sư Nhất Hạnh đã liệng vào sọt rác. Thiền sư Nhất Hạnh tưởng rằng không ai hay biết, vì cứ đinh ninh rằng Hòa thượng Quảng Độ sẽ bị chết trong tù, hoặc ít nhất cũng sẽ không bao giờ thấy được ánh sáng mặt trời. Nhưng trời cao có mắt. Kẻ ác bất khả hại hiền nhân. Nhờ sức vận động hy hữu của tất cả các hội đoàn, Cộng đồng, nhất là của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế tại Paris và của Văn phòng II Viện Hóa đạo đến với các chính giới hải ngoại đã làm áp lực lớn mạnh, bắt buộc Cộng sản phải phóng thích Ngài Quảng Độ. Sau đó, qua cuộc phỏng vấn của Giáo sư Võ Văn Ái với Ngài Quảng Độ bằng điện thoại viễn liên sau những ngày tù tội, Ngài Quảng Độ có đề cập đến 300 bài thơ trong tù đã được gởi sang cho Thiền sư Nhất Hạnh để nhờ chuyển qua cho Giáo sư Ái . Gs Võ Văn Ái quá đỗi ngạc nhiên, trả lời rằng là Anh không có nhận bài thơ nào của Ngài Quảng Độ do Thiền sư Nhất Hạnh chuyển đến cả.

Ngài Quảng Độ chỉ phản ứng một cách rất nhẹ nhàng: “Vậy à?” .

Ngài Quảng Độ còn bảo rằng Ngài còn ghi nhớ tất cả 300 bài thơ ấy ở trong trí óc của Ngài, khi rảnh rỗi, Ngài sẽ chép lại và gởi qua cho Anh Ái để in thành một tập thơ …

(Xin quý vị liên lạc với Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để xin bản sao của cuộc phỏng vấn này, nếu cần).

Sau khi tin tức bị tiết lộ, Thiền sư Nhất Hạnh giả vờ làm một bài thơ “ca ngợi” sự chịu đựng và tinh thần hy sinh cho Đạo pháp của Ngài Quảng Độ, với mục đích là để che đậy sự tráo trở của mình, đề phòng lòng phẩn uất và cũng để thoa dịu sự bất bình của mọi người dân khi họ biết là Thiền sư Nhất hạnh đã dẹm kín 300 bài thơ của Ngài Quảng Độ. (Người viết đã có đọc được bài thơ này của Thiền sư Nhất Hạnh trên một web site nào đó – tạm thời không nhớ rõ là đăng trên web nào.)

Tủi hổ thay, mồ cha không khóc, Thiền sư Nhất Hạnh đi khóc đống tro tàn!

Với tư cách là một trưởng tử của Như Lai, hãy lấy Phật pháp làm sinh mạng, lấy Sự thật làm nền tảng . Vì, căn bản Giáo lý của Đạo Phật là lấy Sự thật làm nền tảng cho sự tu học, hoằng hóa. Chính vì vậy mà Đạo Phật là Đạo Như Thật. Hơn nữa, trên phương diện dẫn chứng lịch sử, thời gian và con số phải được trích dẫn chính xác không sai chạy mỗi khi đề cập đến, cho hợp với câu “Lịch sử đã chứng minh…”

Với cương vị của một công dân, hãy lấy Quốc gia làm đầu, lấy Dân tộc làm gốc .

Với thân phận của một kẻ tỵ nạn lưu vong, nên lấy Tổ quốc làm trọng, phải nổ lực đấu tranh để mong có được ngày về .

Nhưng đau buồn thay, Thiền sư Nhất Hạnh là một tu sĩ Phật giáo mà không làm được chuyện đó! Ngược lại, Thiền sư đã vọng ngữ, bóp méo lịch sử, đưa ra những dữ kiện sai lạc nhằm vu cáo quân lực chính nghĩa Cộng hòa, làm lợi cho Cộng sản, trong lúc mà phong trào tranh đấu cho nhân quyền và tự do tôn giáo đang lên cao. Thiết nghĩ, việc làm của Thiền sư Nhất Hạnh cần phải được chỉnh đốn.

Phạm Cố Quốc
oooOooo


    Ác tăng Thích Nhất VẸM duyệt binh

    Gửi Thiền Sư Thích Nhất Cộng

    Thích Nhất Cộng phen này thật thích nhé!
    Nhớ ngày nào tán tía với lọng vàng
    Số thật may, ông quả là rất sang
    Tu như thế mới thật là tu hú!

    Tu kiêng ăn nhưng vẫn quen miệng bú...ti' ti thui nhe'
    Như trẻ con khát sữa đón mẹ về
    Mẹ chân không, chân đất, thứ mẹ quê
    Tu mười kiếp Niết bàn sao chẳng thấy!

    Pháp môn làng, về Lâm đồng chỉ dạy
    Cả 400 bầu nhiệt huyết, tâm cơ
    Nhưng một hôm, ai có học chữ ngờ
    Công an, du đãng phá tan làng yêu dấu!

    Chúng hung hăng, rặt một phường beo gấu
    Vứt đồ đạc, máy vi tính ra sân
    Không cho ăn, cho uống, nạt tinh thần
    Tình cảnh khốn chưa làng Mai nào gặp!

    Thích Nhất Cộng vẫn êm re không động
    Mải ngồi thiền với trưởng nữ, trưởng nam
    Chỉ chân không mà lên tới Niết bàn
    Cứ hồ hởi bởi bác Hồ chiến thắng!

    Bến Tre xưa, Thích Nhất ông bắng nhắng
    Ba trăm ngàn nhà cửa đã ra tro!*
    Mỹ Thiệu Khiêm chúng vẫn giở đủ trò
    Mong Mỹ cút, Ngụy nhào! Sao mong thế!

    Thiền sư ơi, Nhân quả nhà Phật dạy
    Lấy oán trả ơn, oán vận vào người
    Bác Hồ giờ ngồi trên Phật, trêu ngươi
    Cái tội ấy chỉ Thiền sư là rõ!

    Tà dâm, mánh mung, dối lừa, đều có
    Không hiểu rằng giờ chết sẽ đi đâu
    Có một nơi rất chắc chắn rất sâu
    Ngục A tì, Duẩn, Hồ, Đồng đang đợi!

    Hỡi Thiền sư!

    Nhân cứt lợn sẽ không ra cây vối
    Nhân tầm ruồng gặp Phật tánh làm sao?
    Thiền sư quen chỉ thị với giảng rao
    Nhưng chính sư không bao giờ học cả!

    Cái quá tồi nơi sư là cái ngã!!
    Chỉ hoang dâm vô độ với kiếm tiền
    Chờ kiếp nào sư mới muốn tu tiên?
    Giữ kỹ giới tà dâm và nói láo?

    Còn điều này: người cho ta bát cháo
    Đừng bao giờ ta chặt cái tay cho
    Ăn ở bạc thì hãy lấy cái mo
    Mà úp mặt, là người ai làm thế!

    Sư tĩnh tâm mà nhìn hành vi tệ
    Đệ nhất cộng hòa có phụ sư đâu?
    Sang Pháp, Anh sư học bọn ma đầu
    Ôm Mác-Hồ, bây giờ sư bổ chửng!

    Tán tía, tàn vàng tha hồ hí hửng!!!

    Bút Xuân Trần Đình Ngọc
    2009/10/02
* Bến Tre, thị trấn chưa được chuc ngàn dân, Thích Nhứt Vẹm nói láo với báo Mỹ ba trăm ngàn bị máy bay Mỹ bỏ bom chết ráo. Báo Mỹ ngu đần và phản chiến vẫn tin, vẫn đăng bậy!