Sunday, October 18, 2009

Thích Nhất Vẹm

    THÍCH NHẤT "VẸM": KẺ ĐÁNH ĐU VỚI TINH!
Lão Móc

Cách đây 9 năm, ngày 9 tháng 11 năm 2001, khi Hoa Kỳ và cả thế giới đang khựng điếng, đau khổ vì bị khủng bố Al Queda phá hoại Trung Tâm Thương Mại tại New York, giết hại nhiều ngàn người.Tổng Thống G.Bush và cả thế giới quyết tâm tấn công bọn này tại Afganistan, thì ngày 25-9-2001, thiền sư Nhất Hạnh từ Pháp đến New York bỏ ra 45.000 USD, để đăng bài viết nhiều kỳ trên tờ New York Times (nguyên trang A5 và A22) vừa quảng cáo tên tuổi của mình vừa bịa chuyện vu cáo cho quân đội Hoa Kỳ và bàu chữa cho hành động khủng bố của bọn Al Queda là vào dịp Tết Mậu Thân (1968) Không quân Hoa Kỳ đã tàn ác ném bom xuống thị xã Bến Tre phá hủy 300.000 căn nhà. Vì sao là một người tu hành mà thiền sư Nhất Hạnh lại làm một chuyện vọng ngữ là một trong những trọng tội của người tu hành như thế? Chưa hết, trong lúc Hoa Kỳ và liên quân đang tấn công Taliban để vây bắt tên trùm khủng bố Bin Laden thì thiền sư Nhất Hạnh lại cùng với Nhà nước Việt Cộng cùng lúc la làng phản đối.

Chuyện này lúc đó có vẻ khó hiểu với một số người nhưng, sau khi biến cố tu viện Bát Nhã xảy ra mọi người mới vỡ lẽ là thiền sư Nhất Hạnh đã chơi trò … đánh đu với tinh Việt Cộng để tính chuyện xây dựng một Làng Mai thứ ba (tức tu viện Bát Nhã) ở Việt Nam, sau Làng Mai ở Pháp và Tu viện Lộc Uyển ở Hoa Kỳ!

Theo bản tổng hợp “Hồ sơ vụ nhà nước CSVN đàn áp tu viện Bát Nhã” của ký giả Hoàng Anh Vũ được đăng tải trên các báo điện tử thì: “Cuối thập niên 90, Thiền sư Nhất Hạnh ngỏ ý được về Việt Nam thăm viếng và truyền đạo. Lộ trình chuyến đi hoằng pháp cùng nội dung những bài thuyết pháp từ tháng 3 đến tháng 4 năm 1999 qua ba thành phố Hà Nội, Huế, Sàigòn, đã được đệ trình Bộ Văn Hóa nhà nước VN. Nhưng không hiểu vì cớ gì Hà Nội lại bãi bỏ chuyến đi vào phút chót.”

Và, theo bản lên tiếng về “Vấn đề Nhà cầm quyền cộng sản đán áp, trục xuất chư tăng chùa Bát Nhã, Thượng Tọa Thích Viên Định đã viết như sau: “Năm 1998, nghe tin Thiền sư Nhất Hạnh dự định về Việt Nam hợp tác với nhà cầm quyền cộng sản, Hòa thượng Thích Quảng Độ đã viết thư đề nghị Thiền sư Nhất Hạnh, bằng những lời lẽ nhẹ nhàng, tế nhị, đại ý: “Việt Nam chưa có tự do, dân chủ, nhân quyền, đừng về hợp tác, buôn bán, làm ăn, coi chừng sập tiệm, sẽ mất cả chì lẫn chài!”. Nhưng, Thiền sư Nhất Hạnh đã bất chấp lời khuyên của Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Thiền sư Nhất Hạnh vẫn nhất quyết … về nguồn!

Ngày 23-1-2005, Thiền sư Nhất Hạnh cầm đầu một phái đoàn Phật tử gồm 190 người tháp tùng tới phi trường Nội Bài (Hà Nội). Tại đây, cả một đội ngũ đông đảo chờ đón, có rắc hoa thơm trên lối đi, có nhiều phóng viên tụ tập để phỏng vấn. Trong chuyến đi này Thiền sư Nhất Hạnh đã đi thuyết giảng từ Bắcvào Nam, thăm viếng quý vị lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Quốc Doanh và ra mắt chính quyền VC. Tuy nhiên, Đức Tăng Thống Thích Huyền Quang, Hoà Thượng Thích Quảng Độ, Thuợng Tọa Thích Tuệ Sĩ đã từ chối tiếp xúc. Khi trở lại Pháp, tại phi trường De Gaulle, ni sư Chân Không đã tuyên bố: “Tại một số chùa ở Việt Nam có cất giấu cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của Việt Nam Cộng Hoà nên một số tu sĩ bị bắt giữ, chứ Nhà nước VN không có đàn áp tôn giáo.”

Bình luận gia Lê Văn Ấn, tức nhà văn Kiêm Ái có viết về chuyến đi này của Thiền sư Nhất Hạnh như sau: “Để xoa dịu dư luận trong và ngoài nước về những vụ đàn áp tôn giáo rất tàn bạo tại cao nguyên Trung phần cũng như ngay tại Sàigòn đối với đạo Tin Lành và để khoe khoang có tự do tôn giáo, VC đã điều động Thiền sư Nhất Hạnh và vợ là ni sư Chân Không tức Cao Ngọc Phuợng, từ Paris, Pháp quốc, dẫn theo 200 đồ đệ về Việt Nam tuyên truyền cho chế độ VC và mạt sát gây chia rẽ hàng ngũ Phật Giáo, những hành vi trong quá khứ cũng như hiện tại của Thiền sư cho mọi người biết đây là một cán bộ chiến lược của VC”.

Vậy, Thiền sư Nhất Hạnh là ai? Và quá trình hoạt động ra sao?

- Tên thật Thiền sư Nhất Hạnh là Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926, tại làng Minh Hương (Bảo Vinh), huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.

- Pháp danh Trùng Quang, đã xuất gia tu học từ năm 16 tuổi với Hòa thượng Thanh Hạ Quý thuộc môn phái Tổ đình Từ Hiếu.

- Đầu thập niên 1950, Đại đức Thích Nhất Hạnh học Trung học tại Huế.

- Năm 1956, Đại đức vào Sàigòn học Đại học Văn khoa. Đỗ Cử nhân Văn khoa khoảng 1959.

- 1960: Góp phần thành lập Viện Đại học Vạn Hạnh và sáng lập trường Thanh Niên Phụng sự Xã hội, nhà xuất bản Lá Bối.

- Năm 1961, Viện Đại học Vạn Hạnh cử Đại đức Thích Nhất Hạnh du học tại đại học Princeton, tiểu bang New Jersey về môn Tôn giáo đối chiếu. Thời gian này Đại đức Nhất hạnh thường thuyết giảng về Phật Giáo tại Đại học Columbia với tư cách một nhà sư gốc Á châu.

- Năm 1964, Thượng tọa Thích Trí Quang viết thư yêu cầu Đại đức Nhất Hạnh mau trở về nước để hỗ trợ cho Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong giai đoạn sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ. (Theo Bạch thư của Hòa thượng Thích Tâm Châu).

- Năm 1966, Thượng tọa Thích Trí Quang phái Đại đức Thích Nhất Hạnh ra ngoại quốc kêu gọi chấm dứt chiến tranh, đòi quyền tự quyết, lập chính phủ hòa giải dân tộc. Đại đức Nhất Hạnh đến Pháp với tư cách Truởng phái đoàn Hòa Bình của Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất tại cuộc Hòa Đàm Paris về Việt Nam. Mục đích của phái đoàn Phật Giáo do Đại đức Nhất Hạnh lãnh đạo là nói cho thế giới biết rằng: “Dân Việt Nam không muốn đánh nhau nữa, chỉ muốn ngồi xuống thương thuyết để đi tới một giải pháp hòa bình”.

- Tháng 5-1966, Đại đức Nhất Hạnh định cư tại Pháp và tích cực tham gia các sinh hoạt phản chiến.

- Từ năm 1968, sư cô Chân Không đã qua Pháp làm phụ tá cho Thượng tọa Thích Nhất Hạnh, đã yểm trợ các công tác về hoà bình, về xã hội, về hướng dẫn các khóa tu học được tổ chức khắp nơi trên thế giới và giúp xây dựng và quản trị Làng Hồng rồi Làng Mai. Mỗi năm có hàng trăm thiền sinh trên thế giới về đây tu học.

Chính Thiền sư Nhất Hạnh đã viết về ni sư Chân Không trong bài “Ngày Em Hai Mươi Tuổi” như sau: "Ni sư Chân Không đã có mặt với tôi bắt đầu năm 1968 cho tới bây giờ, đã yểm trợ tất cả các công tác về hòa bình, về xã hội của tôi một cách liên tục.”

- Từ năm 1966, Thượng tọa Thích Nhất Hạnh bắt đầu hành xử như một thiền sư, ăn mặc nâu sòng, giản dị, mặc nhiên không còn ưa gọi Thượng Tọa nữa, cả họ Thích của các bậc tu hành thọ từ 250 giới trở lên cũng ít dùng tới. Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh, trở thành Thiền sư Nhất Hạnh, nổi tiếng khắp thế giới.

Theo tài liệu từ hhtp://www.langmai.org thì Thiền sư Nhất Hạnh đã cùng Sư cô Chân Không đi thuyết giảng Thiền học tại hàng chục quốc gia, kể cả Nga và các nước Đông Âu cũ.

- Vào những năm 1970, 1971, lúc Phong trào Phản chiến đang lên cao, ông John Kerry, vốn là cựu chiến binh Hoa Kỳ tại Việt Nam đã cùng cô đáo hát phản chiến Jane Fonda và thiền sư Nhất Hạnh tố chức nhiều cuộc biểu tình tại nhiều nơi trên khắp nước Mỹ để chống chiến tranh Việt Nam và làm áp lực với chính quyền Hoa Kỳ phải rút quân khỏi Việt Nam. Sau khi miền Nam bị miền Bắc cưỡng chiếm vào tháng Tư 1975, chính Tướng Võ Nguyên Giáp đã công nhận rằng: “Chính nhờ việc làm của John Kerry, Jane Fonda và Thích Nhất Hạnh mà miền Bắc mới thắng trận” (Tạp chí VNTP số 681).

Trước đó, vào năm 1970, trong khi tham dự International Conference On Peace and Religion tại Tokyo, thiền sư Nhất Hạnh đã lợi dụng cơ hội này, sử dụng diễn đàn để mạt sát chính quyền miền Nam và lên án Mỹ xâm lăng. Khi được hỏi: “Làm sao để có hòa bình ở Việt Nam?” Thiền sư Nhất Hạnh đã trả lời như một đảng viên cao cấp của VC: “Chỉ cần giải giới quân đội miền Nam”. Thiền sư Nhất Hạnh còn đòi hỏi quân đội Mỹ phải rút ra khỏi miền Nam, ngưng oanh tạc Bắc Việt, thành lập chính phủ Hòa Hợp Hòa Giải tại miền Nam – giống y chang như đòi hỏi của CSVN.

Qua việcThiền sư Nhất Hạnh về Việt Nam nhiều lần từ năm 2004 đến 2008 được tiếp rước linh đình. Thiền sư Nhất Hạnh đã được Chủ tich nước Nguyễn Minh Triết tiếp tại Phủ Chủ tịch ở Hà Nội. Thiền sư Nhất Hạnh cũng đã cùng Sư cô Chân Không và một số tăng ni tới thăm Tướng Võ Nguyên Giáp.

Thiền sư Nhất Hạnh đã làm lễ “Thủy lục giải oan bình đẳng cứu bạt trai đàn” tại chùa Vĩnh Nghiêm. Sàigòn, tại Quốc tự Diệu Đế, Huế và tại Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Sóc Sơn, Hà Nội. Và, đặc biệt, Thiền sư Nhất Hạnh đã làm lễ Truyền Đăng tại thiền viện Bát Nhã ở Lâm Đồng. Theo bài viết của ký giả Hoàng Anh Vũ thì: “Thượng Tọa Đức Nghi đã được Thiền sư Nhất Hạnh “truyền đăng” tại Mai Thôn vào năm 2006”.

Bài viết này có cái tựa “Thiền sư Nhất Hạnh: kẻ đánh đu với tinh” vì chính ông Thượng Tọa Thích Đức Nghi này là kẻ đã qua Làng Mai năn nỉ, ỉ ôi Thiền sư Nhất Hạnh và sau đó, vào năm 2005 đã tuyên bố cúng dường tu viện Bát Nhã cho Thiền sư Nhất Hạnh, nay đã hiện nguyên hình … con tinh mà Thiền sư Nhất Hạnh đã đánh đu trong bao lâu nay!. Theo bài viết của ký giả Hoàng Anh Vũ thì: “Ngày 18-6-2008, Thiền sư (Nhất Hạnh) lại lên tu viện Bát Nhã nói chuyện với các đệ tử với đề tài “Thầy căn dặn”. Nhưng sau đó Thượng Tọa Thích Đức Nghi đem cắt đầu, cắt đuôi bài nói chuyện này chỉ còn để lại trong 5 phút và cho là Thiền Sư (Nhất Hạnh) đã coi thường nhà cầm quyền và Giáo hội Phật giáo địa phương, vi phạm quy chế Giáo hội Phật Giáo Việt Nam.”

Mặc dù mở đầu bài viết, nhà báo Hoàng Anh Vũ có viết chỉ là tổng hợp và tường thuật nhưng câu văn lại có vẻ vô cùng chua xót như sau: “Thế là công lao của Làng Mai trong ngần ấy năm bị đổ xuống sông, xuống biển và đặt số tăng chúng Làng Mai đang cư ngụ tại tu viện Bát Nhã trước tình trạng cư trú bất hợp lệ!”

Ông bà ta có câu: “Gieo nhân nào, gặt quả đó”. Vào năm 2001, khi mọi người Việt Quốc gia tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại đều tỏ thái độ khinh bỉ đối với thiền sư Nhất Hạnh, người đã bất chấp tội vọng ngữ đã ra sức bênh vực bọn khủng bố trong biến cố 911 bằng cách tuyên bố trong thời chiến tranh Việt Nam, chỉ vì 7 du kích bắn máy bay Mỹ khiến không lực Hoa Kỳ đã ném bom tiêu diệt 300.000 gia đình tại thị xã Bến Tre, Tú Gàn tức Lữ Giang đã viết bài gây chia rẽ giữa Phật Giáo và Công Giáo và “giải vây” cho ông thiền sư “ngày ăn chay, đêm ngủ mặn” này bằng cách viết như sau: “Nhất Hạnh người dẫn đường hòa nhập quốc doanh. Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang vẫn còn nuôi tham vọng tiến tới thống lãnh Phật Giáo Việt Nam và từ đó tiến lên nắm chính quyền. Động lực đưa ra để thu hút Phật tử tiến tới mục tiêu đó là kích động lòng hận thù Thiên Chúa Giáo. Nhóm Giao Điểm nà nhóm Đỗ Mạu đang theo đuổi chiến thuật này, được một số báo chí và website thuộc hệ thống Phật Giáo Ấn Quang yểm trợ. Khẩu hiệu “kẻ thù ta không phải là người Công Giáo” đã được đổi thành “kẻ thù ta không phải là người Cộng sản, kẻ thù ta là Công Giáo.” (Sàigòn Nhỏ số 612, 9-11-2001). Tú Gàn, tức Lữ Giang đã láo khoét vu vạ cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất “chạy chọt” đế xin hòa hợp với Giáo Hội Phật Giáo Quốc Doanh; trong khi chính Hoà Thượng Thích Quảng Liên đã được lệnh của VC “chạy chọt” để xin GHPGVNTN hoà hợp với Giáo Hội Phật Giáo Quốc Doanh nhưng đã bị hai Hòa Thượng Huyền Quang, Quảng Độ từ chối.

Thiền sư Nhất Hạnh đã bất chấp tội vọng ngữ, lớn tiếng vu oan giá họa cho Không lực Hoa Kỳ ném bom thiêu hủy 300 ngàn nóc gia ở thị xã Bến Tre trong Tết Mậu Thân 1968 nên đã bị quả báo là đã bị bọn Al Queda dùng phi cơ đánh sập hai toà nhà Trung Tâm Tâm Thương Mại ở New York sát hại hàng mấy ngàn người. Từng bước, từng bước thiền sư Nhất Hạnh đã được mấy anh lớn bên nhà cho phép đem “pháp môn Làng Mai” về nước để truyền bá. Và nhất là đem tiền bạc về xây dựng tu viện Bát Nhã với Rừng Phương Bối, xóm Bếp Lửa Hồng, thiền đường Tâm Bất Động, cư xá Phượng Vĩ, thiền đường Cánh Đại Bàng, công trường Bông hồng cài áo, cốc Lưng Đồi, cư xá Tâm Ban Đầu, cốc Trà Thơm …

Chi phí của phật tử thập phương đóng góp nghe đâu lên tới 2 triệu Mỹ kim.

Rốt cuộc “Làng Mai Bát Nhã, kịch bản trắng tay” đúng như cái tựa bài viết của luật sư Đỗ Thái Nhiên.

Theo bài “Bàn Chuyện Thời Sự giữa BS Trần Xuân Ninh, Tuệ Vân và Khánh Vân ngày 9-10-2009 thì bà Khánh Vân cho biết đài BBC ngày 29-0-2009 cho biết rằng: “Sau các trục trặc, người của Làng Mai đã rút về Pháp hết, và còn lại chỉ là các tăng ni người Việt theo học pháp môn Làng Mai.” Và bà Khánh Vân nói tiếp: “Trước sự kiện này Khánh Vân không khỏi nghĩ rằng sư ông Nhất Hạnh ăn nói miệng lưỡi và những lời kêu gọi này không khác gì những lời kêu gọi của những nhà chính trị hải ngoại hô hào dân trong nước đấu tranh bất bạo động, cũng như các nhà dân chủ trong nước kêu gọi tương tự mà không hề xuống đường đòi quyền lợi cho dân khiếu nại kêu oan …”

Trong bài “Bàn Chuyện Thời Sự …” hai bà Tuệ Vân và Khánh Vân có đề cập đến bài viết “400 Hạt Giống Bồ Đề” ca tụng tới tận mây xanh pháp môn Làng Mai Nhất Hạnh của bình luận gia Ngô Nhân Dụng của nhật báo Người Việt. Không biết hai bà này vô tình hay cố ý mỉa mai ông bình luận gia Ngô Nhân Dụng. Vì theo Lão Móc được biết thì rất nhiều người ở hải ngoại biết bình luận gia Ngô Nhân Dụng tức nhà thơ Đỗ Quý Toàn. Ông này là một trong những Trưởng Lão vai vế của Phái Tiếp Hiện của Thiền sư Nhất Hạnh ở Hoa Kỳ.

Chuyện “Thiền sư Nhất Hạnh: kẻ đánh đu với tinh” là chuyện dài nhân dân tự vệ. Xin hẹn kỳ tới.

Lão Móc
oooOooo
    Bốn trăm hạt giống Bồ Ðề

Ngô Nhân Dụng

Quế Ðường Lê Quý Ðôn (1726-1784) là một nhà Nho, một học giả đại danh trong lịch sử Việt Nam. Trong cuốn Kiến Văn Tiểu Lục (bài tựa viết năm Cảnh Hưng 38, tức 1777) có một chương “Thiền Dật” nói về đạo Phật ở nước ta. Trong đoạn mở đầu chương này, Lê Quý Ðôn đã phải dùng nhiều lời biện minh cho những đóng góp của Phật Giáo. Ðiều đó chứng tỏ trong thế kỷ 18 và trước đó đã nhiều nhà Nho bầy tỏ ý kiến chống đối đạo Phật. Ðể chứng tỏ đạo Phật có vai trò tích cực, Lê Quý Ðôn đã chứng minh rằng trong giáo lý của Ðức Thích Ca có đủ cả đạo hiếu, đạo trung; và ngược lại chính Khổng Tử cũng khuyên răn người quân tử phải trừ bỏ ba tật xấu Tham, Sân, Si không khác gì Phật Ðà (trong thiên Quý Thị, sách Luận Ngữ).

Chúng ta kính trọng ý kiến của phu tử Quế Ðường. Nhưng với con mắt của những kẻ hậu sinh đã được tiếp xúc với nhiều trào lưu tư tưởng và kinh nghiệm sống khác, phải nhìn nhận rằng Phật Giáo còn đóng góp nhiều hơn cho cuộc sống của loài người chứ không phải chỉ có vai trò hỗ trợ cho Nho Giáo, là học thuyết chính thức được chế độ quân chủ tập quyền công nhận. Hiện nay người Tây phương cũng đi tìm học và tu tập theo Phật Giáo chính vì họ tìm thấy trong đó những cách nghĩ và sống mang lại an lạc cho con người và cho xã hội. Ðạo Phật cống hiến những phương pháp Sống An Lạc, nói theo lối ngày nay, là sống hạnh phúc đích thực. Bao nhiêu người Việt Nam đang tu tập theo cách chỉ dẫn của các Thiền Sư Thích Thanh Từ và Thích Nhất Hạnh, họ đang đem bản thân và cuộc đời của mình chứng minh ai cũng có thể đạt tới hạnh phúc chân thực đó. Và mọi người nên tìm cách rèn luyện cho mình sống được như vậy. Nhất là những người muốn lo việc chính trị hay kinh doanh, có ảnh hưởng lớn lao trên những người khác. Vì một người không sống bình an, hạnh phúc với chính mình thì sẽ không thể tạo nên an vui cho người khác được.

Sáng hôm qua tôi gặp một người bạn trẻ tuổi đang chủ trương một công ty đầu tư lớn ở Huntington Beach, California. Trong câu chuyện thân tình tôi có khuyên anh nên tìm dự một khóa tu tập thiền quán, như các thầy người Thái Lan, Tây Tạng, Ấn Ðộ hoặc Tích Lan đang dậy ở khắp nơi trong nước Mỹ. Thị trường lên xuống do lòng Tham và sự Sợ hãi thúc đẩy. Nếu mình tập làm chủ được lòng Tham và nỗi Sợ thì có thể tránh được nhiều lầm lẫn, sẽ dễ thành công hơn. Tôi nghĩ các bạn trẻ khác ở Việt Nam, đang kinh doanh, đang đi học hay hoạt động trong những lãnh vực khác cũng nên tu tập để sống như vậy. Chính họ sẽ tìm được hạnh phúc đích thực và có thể trở thành hữu ích cho đất nước hơn.

Một hình ảnh làm nhiều người ngạc nhiên và phát lòng kính trọng là các thiền sinh ở Tu Viện Bát Nhã sống trong cảnh đe dọa và đàn áp của công an tỉnh Lâm Ðồng với thái độ thong dong và dũng cảm. Họ chứng tỏ đã làm chủ được sân si và không hề sợ hãi. Gần bốn trăm người sống dưới áp lực của căm thù và bạo động nhưng không bị lay chuyển. Họ sống trong những xóm mang tên Bếp Lửa Hồng, Mây Ðầu Non, Rừng Phương Bối, vân vân. Trong những video được truyền bá trên các mạng lưới chúng ta có thể vào coi, những tăng ni phần lớn ở lớp tuổi 20 hoặc trẻ hơn xuất hiện như những hình ảnh trang nghiêm, hiền hòa, giữ đúng cung cách “đi, đứng, nằm ngồi” mà các thiền sư Liễu Quán, Bách Trượng, Quy Sơn đã vẽ ra từ hàng ngàn năm trước, gọi là “uy nghi” của người xuất gia. Trong lúc video chiếu cảnh công an và những người được thuê đến đập phá các ngôi nhà trong tu viện, phá đến cả pho tượng bà mẹ cầm tay dắt hai con, một pho tượng vô tội, thì từ trong tự viện vẫn vang lên ngân nga tiếng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Những người tu hành trẻ tuổi này cho thấy họ không sợ, không giận, không tham, ung dung, thanh thản, theo đúng một danh hiệu khác của Bồ Tát Quan Âm là Quán Tự Tại.

Ðó là những cây bồ đề nhỏ đang mọc lên ở nước Việt Nam. Họ là những tấm gương sống động cho tuổi trẻ nước ta nhìn vào, tìm hiểu, và noi theo. Phật Giáo có thể đóng góp cho tuổi trẻ nước Việt Nam rất nhiều, để tự xây dựng mình và giúp cho đất nước. Dù họ theo bất cứ tôn giáo nào hay không có tôn giáo, mỗi thanh niên Việt Nam cũng nên đi tìm cho mình một cách sống có ý nghĩa, xây dựng một lý tưởng cho cuộc đời của họ. Hãy sống như những tăng ni đã tu tập ở Bát Nhã, mà bây giờ đang lâm cảnh “lưu vong” ngay trên đất nước của mình. Họ muốn tu hành nhưng không được phép tu, mặc dù không ai nói một lời, làm một việc nào chống lại chính quyền và cái đảng độc tài tham nhũng đang cai trị. Khi được các nhật báo và đài phát thanh ở nước ngoài phỏng vấn, tất cả những vị thiền sinh còn có dịp lên tiếng đều cho biết họ không hề nhận được một chỉ thị nào của thầy của họ ở nước ngoài. Ðảng gán và chính quyền Cộng Sản không thể nào vu cáo cho họ là đã bị “những thế lực phản động ở ngoài” xúi giục, như họ đã ghép cho các ông Nguyễn Văn Ðài, Lê Công Ðịnh, hoặc cô Lê Thị Công Nhân.

Nhiều Phật tử ở Việt Nam lên tiếng, “Hãy cứu lấy gần 400 cây bồ đề nhỏ này!” Nhiều vị tôn đức trong nước đã can đảm đứng ra bênh vực và sẵn sàng đùm bọc các tăng ni trẻ đó. Hòa Thượng Thích Toàn Ðức, trong ban lãnh đạo Phật Giáo Lâm Ðồng, đã dũng cảm khi tuyên bố các tăng ni Bát Nhã không có tội nào đối với đạo Phật, không làm hại gì cho đất nước, cho nên phải được phép tiếp tục tu tập. Thượng Tọa Thái Thuận, chùa Phước Huệ là người đã bị công an đánh khi ông tới thăm các thiền sinh Bát Nhã trước đây, nay đã đưa tay đón nhận các thiền sinh này. Ngôi chùa Phước Huệ nhỏ nằm kế bên một nhà thờ Thiên Chúa Giáo trong thị xã Bảo Lộc, không biết đến lúc nào công an sẽ tấn công chùa, các thiền sinh có thể chạy qua xin trú ẩn trong ngôi nhà của Chúa Giê Su! Hòa Thượng Pháp Chiếu đã tuyên bố từ chức và lên tiếng ủng hộ hành động của Thượng Tọa Thái Thuận. Một vị hòa thượng ở vùng Thủ Ðức, Sài Gòn, Thầy Minh Nghĩa cũng sẵn sàng tiếp nhận tất cả các tăng ni nếu không bị ngăn cản.

Nhưng công an đã ngăn cấm tất cả. Một viên công an đã nói thẳng với vị thầy của anh ta rằng đây là lệnh của trung ương chứ không phải là quyết định của địa phương. Ðảng Cộng Sản Việt Nam không cho phép những hạt giống bồ đề được mọc lên, không cho phép những cây bồ đề nhỏ được lớn lên.

Nhưng trong nước Việt Nam còn nhiều người đang muốn tưới tẩm cho những hạt giống bồ đề được sống mãi trong lòng dân tộc. Ðồng bào đã tự động tiếp tế cơm ăn, áo mặc cho các thiền sinh Bát Nhã. Nhiều người đã tiếp tế cả các phương tiện truyền thông, từ máy chụp hình tới những điện thoại di động để các tăng ni có thể liên lạc được với nhau và với bên ngoài. Những thiền sinh trẻ nhất, những em 14, 15 tuổi đã được các anh, các chị khuyến khích về với gia đình nhưng còn những người khác vẫn tiếp tục giữ chí nguyện xuất gia không sợ hãi.

Thái độ của các tăng ni thể hiện từ bi và trí tuệ, sẽ khuyến khích tín tâm nơi người Phật tử Việt Nam và cả những người trẻ tuổi sống trong truyền thống tôn giáo khác. Ðây là một tin mừng. Khi nào còn những thanh thiếu niên Việt Nam biết sống có lý tưởng, vững tin ở lý tưởng của mình, không tham lam, không giận dữ, không sợ hãi; lúc đó chúng ta còn tin tưởng ở tương lai đất nước. Không phải chỉ có Phật Thích Ca dậy loài người sống như thế, Ðức Thánh Khổng, Chúa Giê Su cũng dậy loài người như vậy. Những người sống hết mình với đạo lý của tôn giáo mình được cha mẹ ông bà truyền thụ thì có thể giúp cải hóa xã hội chung quanh. Ðó là niềm hy vọng mà các tôn giáo đang cống hiến cho dân tộc ta.

Lê Quý Ðôn kể một câu chuyện cảm động vào cuối chương Thiền Dật trong Kiến Văn Tiểu Lục. Ông cho biết vào niên hiệu Vĩnh Hòa, cuối thế kỷ 17, ở chùa Lâm Ðộng, thuộc huyện Ðông Triều có một thiền sư hiệu là Như Ðức. Lê Quý Ðôn mô tả ngài là người “giới luật tinh nghiêm, xa gần đều kính mến”. Mỗi khi lên kinh đô đi qua cửa nhà ai thì già trẻ lớn bé đều vui mừng nói, “Thầy của chúng ta đã tới.”

Mỗi năm sư ông Như Ðức làm giỗ Tổ Ðiều Ngự, tức Vua Trần Nhân Tông là tổ sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, năm nào cũng thấy có một đàn khỉ từ trên núi xuống cửa chùa, như đến dự lễ giỗ. Sau lễ giỗ, thầy Như Ðức mang một mâm oản và sôi ra đặt xuống đất trước cửa chùa, và nói: “Ða tạ chúng sinh đã nhớ ngày giỗ sư tổ mà đến đây ...” Lê Quý Ðôn kể rằng những con khỉ, con vượn “kéo đến mỗi con cầm lấy một miếng oản rồi bước đi mà không hề tranh giành nhau gì cả. Năm nào cũng vậy.” Ðức độ của nhà sư đã cảm hóa được cả những loài thú vật.

Chúng ta hy vọng rằng những hạt giống bồ đề mọc lên từ Tu Viện Bát Nhã cũng sẽ cảm hóa được những loài khỉ và vượn thời nay.

Ngô Nhân Dụng

Saturday, October 17, 2009

Cái Chết Của Ông Ngô Đình Cẩn - Như Phong

    Kính chuyển quý vị để thấy tội ác của Dương Văn Minh. Y quyết diệt cỏ tận gốc, sợ Ông Ngô Ðình Cẩn còn sống sẽ là một đại họa cho Y. Chính vì vậy mà chúng ta mất nước hôm nay!Tên Dương Văn Minh, tay sai ngoại bang, đã tung hoành phá tan đất nước. Y sẽ bị dân Việt muôn đời gớm ghiếc bởi do Y mà nước mất nhà tan, toàn dân đang quằn quại dưới gông cùm Cộng sản hôm nay chưa biết đến bao giờ mới thoát được.
    Xin cầu cho Linh hồn Goan Baotuixita Cụ Ngô Ðình Cẩn sớm về hưởng Nhan Thánh Chúa.

    Trân trọng.
    Thế Nguyễn
Như Phong

Khi được nói lời cuối cùng là tử tội có xin ân huệ gì không thì Ngô Đình Cẩn xin được quyền mặc quần trắng, áo dài đen vì ông muốn được chết trong bộ "quốc phục" Việt Nam. Hơn nữa ông Cẩn cũng muốn mặc bộ này đó là vì chiếc áo được thân mẫu may cho khi còn ở Huế.

Ngày hôm sau, đơn xin ân xá của Ngô Đình Cẩn đã được chuyển đến tướng Dương Văn Minh là Quốc trưởng. Rồi Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cũng gửi một lá thư tới Dương Văn Minh xin ân xá cho tử tội Ngô Đình Cẩn với lý do là Cẩn đang bị bệnh rất nặng, ngày sống chỉ đếm được trên đầu ngón tay cho nên không cần thiết phải hành quyết Cẩn. Nhưng tất cả đều bị Dương Văn Minh bác thẳng thừng. Tòa án báo cho thân nhân của gia đình Ngô Đình Cẩn là bà Ngô Đình Thị Hiệp, bà Ngô Đình Thị Hoàng (thường gọi là bà cả Lễ ...) là đơn xin ân xá của Ngô Đình Cẩn đã bị Quốc trưởng bác bỏ. Ngô Đình Cẩn sẽ bị hành quyết vào lúc 17h ngày 9/5/1964 tại Khám Chí Hòa.
Trước làn sóng phản đối việc kết án tử hình Ngô Đình Cẩn ngày càng lan rộng trong giáo dân, chính quyền Dương Văn Minh - Nguyễn Khánh quyết thi hành án sớm.

Tại Sài Gòn, ngày giờ xử bắn Ngô Đình Cẩn được giữ rất kín. Có hai người được biết trước là luật sư Võ Văn Quan và linh mục Jean Baptiste Lê Văn Thí.

Ngày 8/5, linh mục Thí được vào gặp Ngô Đình Cẩn để làm lễ rước mình Thánh Chúa an ủi người sắp chết.

Khi ông Thí vừa vào, chào hỏi xong thì Ngô Đình Cẩn đã hỏi ngay: "Ngày mai, họ đem con đi bắn phải không cha?".

Linh mục Thí im lặng và khẽ gật đầu rồi hỏi lại: "Cậu có sợ không?".

Ngô Đình Cẩn gượng cười, trả lời khá bình thản: "Con không sợ chút mô hết cha à!".

Linh mục Thí hỏi tiếp: "Cậu có tha thứ cho những người đã làm khổ cậu và gia đình cậu không?".

Ngô Đình Cẩn nói lớn, và rành rẽ: "Con tha thứ".
Rồi Cẩn nói tiếp: "Con cũng mang tên Thánh là Jean Baptiste và cha cũng mang tên Thánh Jean Baptiste. Xin cha nhớ cầu nguyện cho con sớm lên Thiên đàng chầu Chúa và xin mọi người có đạo chứng kiến con chịu chết, xin đọc cho con một kinh lạy cha "Xin cho chúng tôi hàng ngày đủ dùng và tha tội cho chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi".

(Ngô Đình Cẩn là con út trong nhà nên hay được gọi là cậu Cẩn. Sau này khi TT Ngô Đình Diệm giành được quyền lực thì Ngô Đình Cẩn cũng được coi là nhân vật cực kỳ thế lực ở khu vực miền Trung, cho nên ai đến với Cẩn cũng không dám gọi tên mà chỉ gọi là ông Cậu).

Hôm sau, 10h trưa ngày 9/5, luật sư Võ Văn Quan vào thăm Ngô Đình Cẩn lần cuối cùng.

Sau này, ông Quan kể lại cho nhà báo Phan Kim Thịnh:

"Sáng sớm ngày 9/5, cháu Ngô Đình Cẩn là Trần Trung Dung vào thăm. Ông Cẩn nói chuyện một cách thản nhiên, không hề biểu lộ thái độ lo lắng, sợ sệt. Người cháu gái thì ngồi cạnh giường, khóc và nguyền rủa những kẻ phản phúc nhà họ Ngô. Nhưng ông Cẩn điềm tĩnh nói: "Không có gì đáng buồn mà phải khóc lóc. Làm chính trị là phải như thế. Cậu không có gì oán thán hết".

Khi gặp luật sư Quan, ông Cẩn cũng vẫn tỏ thái độ bình thản. Ông Quan cũng không hề biết là chính Ngô Đình Cẩn cũng đã biết rõ ngày giờ thi hành án. Lúc đầu, hai bên chỉ nói chuyện có tính chất xã giao nhưng rồi đột nhiên ông Cẩn tâm sự về thân thế của ông và tiết lộ một số câu chuyện bí mật. Lời nói của ông như là một sự trăn trối khiến luật sư Quan giật mình và thầm nghĩ: "Có lẽ ông Cẩn biết rồi".

Rồi Ngô Đình Cẩn chuyển sang giải bày những thủ đoạn chính trị của mình với giọng hùng hồn, hoạt bát, mạch lạc. Ngô Đình Cẩn cũng nhắc lại những cuộc tàn sát đẫm máu đối với những người Cộng sản khi Ông Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền, và khẳng định làm chính trị thì phải chấp nhận thế thôi. Khi nói đến việc đàn áp những người Cộng sản, Ngô Đình Cẩn ngẩng cao đầu, mắt sáng long lanh, mặt đỏ bừng và nói như đếm từng tiếng.

Nhìn đồng hồ đã thấy gần 12h trưa, Ngô Đình Cẩn bảo: "Luật sư đưa cho tôi cái danh thiếp của ông".

Ông Quan ngạc nhiên không hiểu lúc này Ngô Đình Cẩn còn muốn có danh thiếp của mình để làm gì. Nhưng chiều ý, ông vẫn lấy danh thiếp đưa cho Ngô Đình Cẩn.

Ông Cẩn lấy bút viết vào phía sau danh thiếp: "Xin hết lòng đa tạ" và viết tên Ngô Đình Cẩn. Đưa lại danh thiếp cho luật sư, Ngô Đình Cẩn dịu giọng nói: "Tôi xin gửi lại chút này để cám ơn luật sư đã hết lòng biện hộ cho tôi".

Luật sư Quan bối rối: "Thật sự tôi có giúp được gì cho ông đâu, họ vẫn xử tối đa".

Ông Cẩn khẽ lắc đầu, gượng cười: "Vấn đề không phải ở đó. Viết mấy chữ này, tôi muốn tỏ lòng tri ân đối với người luật sư không từng quen biết, nhưng đã tận tình và can đảm nói lên giữa phiên tòa những gì tôi muốn nói".

Rồi Ngô Đình Cẩn lại bình tĩnh trò chuyện, lấy giấy cuốn thuốc lá theo kiểu sâu kèn, phì phèo hút, rồi lại têm trầu nhàn nhã nhai bỏm bẻm. Ông Quan đứng dậy cáo từ cố giữ nét mặt bình thường. Ngô Đình Cẩn bắt tay luật sư Quan rất chặt và rất lâu, đồng thời luồn bàn tay trái xuống gầm bàn, nhìn xuống đó ra hiệu. Ông Quan thấy bàn tay trái của Ngô Đình Cẩn xòe ra 5 ngón như thể báo hiệu rằng chiều nay vào lúc 5h ông sẽ bị hành quyết.

Sau này, mỗi khi nhớ lại vụ hành quyết Ngô Đình Cẩn, luật sư Quan vẫn tỏ thái độ kính trọng, khâm phục một con người biết cái chết đang đến với mình từng giờ, từng phút mà vẫn ngồi nói chuyện bình tĩnh hàng tiếng đồng hồ.

Cũng phải nói thêm rằng, sau ngày Ngô Đình Cẩn bị hành quyết đã có nhiều tin đồn rằng Ngô Đình Cẩn khi chết đi để lại rất nhiều của cải cho nhiều người thừa hưởng. Ngay chuyện Ngô Đình Cẩn bảo đại úy Nguyễn Văn Minh giao số vàng, đôla, kim loại quý cho tướng Đỗ Cao Trí giữ là "2 bao"... nhưng thực chất đó cũng chỉ là những lời đồn thổi vì chính đại úy Minh cũng không biết có bao nhiêu vàng và tướng Trí khi nhận túi vàng, valy tiền cũng không kiểm đếm.

Tuy nhiên, theo điều tra của các nhà báo về sau thì số bất động sản do Ngô Đình Cẩn giao cho người khác đứng tên không phải là ít. Năm 1989, tướng ngụy quyền Trần Văn Đôn có viết cuốn hồi ký "Việt Nam nhân chứng", và khi nói về cái chết của Ngô Đình Cẩn, ông ta viết như sau: "Vài tháng sau ngày chỉnh lý, tướng Nguyễn Khánh có phái đại tá Lâm Văn Phát thông qua bà Trần Trung Dung và nhờ chuyển lời nói với ông Cẩn rằng, hãy chuyển số tiền 6 triệu USD mà ông Cẩn có trong một ngân hàng Thụy Sĩ cho tướng Nguyễn Khánh. Đổi lại tướng Khánh sẽ cho một chiếc phi cơ đưa ông Cẩn đi Singapore. Bà Trần Trung Dung yêu cầu đừng ghi âm khi bà ấy vào khám hỏi ông Cẩn. Sau khi nghe bà Dung trình bày, Ngô Đình Cẩn không chịu giao số tiền đó cho ông Khánh, rồi hỏi bà Dung có cần lấy thì ông giao cho. Lúc đó bà Dung sợ liên lụy nên không dám nhận. Mấy ngày sau, nhân dịp một vị linh mục vào làm lễ cho ông Cẩn, ông đã ký giấy ủy quyền cho nhà dòng Cứu Thế số tiền đó. Giấy ủy quyền được để trong một cuốn kinh Thánh...".

Như vậy, xem ra sự kiện Ngô Đình Cẩn có mấy triệu đôla là có thể tin được. Nhưng thực sự chuyện Ngô Đình Cẩn chuyển 6 triệu đôla cho nhà thờ cũng có thể rất khó xảy ra, bởi lẽ với một số tiền lớn như vậy không thể cầm tờ giấy ủy quyền có mấy chữ rồi ký tên cho người khác đi lĩnh, đặc biệt đối với các ngân hàng nước ngoài. Ngay linh mục Lê Văn Thí cũng khẳng định là chẳng làm gì có số tiền đó.

Sáng 9/5, các nhà báo sau khi dự buổi hành quyết Phan Quang Đông tại Huế thì vội vàng ra máy bay về Sài Gòn.

Buổi tử hình Phan Quang Đông diễn ra rất ghê rợn. Vợ Phan Quang Đông đang bụng mang dạ chửa sắp đến tháng đẻ, đã ngất lịm ngay tại pháp trường khi chứng kiến cảnh chồng bị trói vào cọc ...

Sau khi làm các thủ tục về giấy tờ, Các nhà báo có mặt ở Bộ Thông tin từ lúc 14h. Và được đưa tất cả lên chiếc xe 18 chỗ đi vào Khám Chí Hòa. Tới cổng khám, ở trạm gác thứ nhất, nhân viên yêu cầu khám xét hành lý và thu giữ lại tất cả máy ảnh. Chụp ảnh buổi hành quyết chỉ có 3 người của Bộ Thông tin và nhân viên của an ninh quân đội. Sau đó các nhà báo được dẫn ra một sân rộng đầy cỏ cây hoang dại và có chôn sẵn một chiếc cột gỗ và trường bắn nằm gần một ngôi chùa nhỏ.
5h chiều, các thủ tục cho buổi hành quyết Ngô Đình Cẩn được bắt đầu tại phòng làm việc của trung tá Phạm Văn Luyện, Quản đốc Khám Chí Hòa. Những người có mặt tại đây là đại tá Trang Văn Chính, Giám đốc cảnh sát đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn; thiếu tá Nguyễn Văn Đức, Chưởng lý Tòa án quân sự; bà cả Lễ là chị ruột Ngô Đình Cẩn; luật sư Võ Văn Quan và một số người khác nữa. Đoàn người đến thẳng phòng giam của Ngô Đình Cẩn và lặng lẽ bước vào.

Nghe tiếng giày, Ngô Đình Cẩn đang nằm trên giường hé mắt nhìn rồi khép lại, miệng lầm rầm cầu nguyện cùng với một vị linh mục đứng cạnh giường đọc kinh. Bóng đèn điện từ trên trần nhà tỏa sáng một màu ánh sáng vàng vọt, thê lương. Thiếu tá Đức đến bên giường, đọc bản bác đơn xin ân xá của Ngô Đình Cẩn. Khi Nguyễn Văn Đức đọc xong, luật sư Quan đến bên ông Cẩn nắm lấy hai bàn tay. Tay Ngô Đình Cẩn nóng hổi, mặt ửng hồng và rõ ràng đang sốt rất cao.

Luật sư Quan cố gượng nói: "Thôi ông cố vấn đừng quá đau buồn. Trên cõi đời này dù sớm hay muộn rồi ai cũng phải ra đi”.

Ngô Đình Cẩn điềm tĩnh: "Luật sư đừng có buồn cho tôi. Tôi đi theo mấy ông anh của tôi. Tôi trở về với Chúa. Tôi không sợ chết đâu. Nhưng tôi lo cho luật sư, lúc cãi cho tôi, luật sư có đụng chạm tới họ. Không biết luật sư ở lại có bị họ làm khó dễ hay không".

Luật sư Quan ứa nước mắt: "Không sao đâu, ông cố vấn đừng lo cho tôi. Xin cầu chúc ông cố vấn được vào nước Chúa".

Thủ tục tiếp theo là vị linh mục làm lễ và cầu nguyện cùng ông Cẩn. Khi được nói lời cuối cùng là tử tội có xin ân huệ gì không thì Ngô Đình Cẩn xin rằng được quyền mặc quần trắng, áo dài đen vì ông muốn được chết trong bộ "quốc phục" Việt Nam (ngày ấy chính quyền Ngô Đình Diệm quy định "quốc phục" của Việt Nam Cộng hòa là quần trắng, áo dài đen, đội khăn xếp). Hơn nữa ông Cẩn cũng muốn mặc bộ này đó là vì chiếc áo được thân mẫu may cho khi còn ở Huế. Rồi ông cũng nói với mọi người là ông tha thứ cho những người đã giết ông.

Yêu cầu của Ngô Đình Cẩn được đáp ứng, những viên cai ngục giúp ông thay quần áo. Rồi thiếu tá Nguyễn Văn Đức ra lệnh cho 2 nhân viên xốc nách dìu ông Cẩn ra khỏi phòng giam và xuống cầu thang. Vì Ngô Đình Cẩn không thể đi được, nên người ta phải đặt ông lên một chiếc băng ca và đẩy đi suốt hành lang này qua hành lang khác. Ra khỏi khu "lò bát quái", Ngô Đình Cẩn được chuyển sang một băng ca khác do 4 người cai ngục khiêng, chiếc băng ca được khiêng ra giữa sân có cắm một chiếc cọc thì cả đoàn người dừng lại ...

Thiếu tá Đức ra lệnh cho đám cai tù xốc nách đỡ Ngô Đình Cẩn dậy, dìu ra cột. Khi Cẩn được dìu tới cột gỗ thì một người lính trong đội hành quyết nói nhỏ với Cẩn là xin phép được trói hai tay ra đằng sau, hai tay được đặt lên một thanh ngang giống như cây thánh giá mục đích là để người bị tử hình không tụt được xuống. Một người lính cai ngục lấy chiếc khăn đen bịt mắt tử tội thì Ngô Đình Cẩn lắc đầu liên tục và nói: "Tôi không chịu bịt mắt. Tôi không sợ chết". Nhưng người ta vẫn buộc khăn vào một cách vụng về, vì vậy không chỉ bịt mắt mà bịt gần hết khuôn mặt ông Cẩn.
Đội hành quyết có 10 người và đội mũ lính quân cảnh có in 2 chữ MP, chia làm 2 hàng. Hàng trước 5 người quỳ, hàng sau 5 người đứng. Trong 10 người thì có 1 người được sử dụng khẩu súng mà trong đó lắp 1 viên đạn mã tử (không có đầu đạn mà chỉ bịt giấy). Đúng 18h20, phút hành quyết đã tới, Nguyễn Văn Đức giơ tay ra lệnh thi hành.

Viên sĩ quan chỉ huy đội hành quyết hô lớn: “Bắn!".

Một loạt súng nổ, Ngô Đình Cẩn giũ người xuống ngay lập tức. Máu từ trên ngực chảy loang xuống chiếc quần trắng. Ngay sau đó viên chỉ huy đội hành quyết chạy đến gí khẩu súng colt 12 ly vào tai Ngô Đình Cẩn và bắn phát ân huệ. Bác sĩ pháp y chạy ra dùng ống nghe gí vào ngực Ngô Đình Cẩn nghe ngóng, vạch mắt ra xem, rồi quay lại gật gật đầu ra ý là Ngô Đình Cẩn đã chết.

Trung tá Luyện, Quản đốc Khám Chí Hòa ra lệnh cho mấy viên cai ngục cởi trói hạ xác Ngô Đình Cẩn đặt vào băng ca rồi khiêng vào Khám Chí Hòa để khâm liệm và cho thân nhân nhận xác mang về chôn cất. Xác Ngô Đình Cẩn được đưa về an táng tại nghĩa trang chùa Phổ Quang, tức nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế gần sân bay Tân Sân Nhất.

Sở sĩ gia đình an táng Ngô Đình Cẩn tại đây là vì Thượng tọa Thích Chí Dũng là người thân quen với gia đình họ Ngô. Sau năm 1975, khi quy hoạch lại TP HCM nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế ở chùa Phổ Quang được di dời về Lái Thiêu. Mộ Ngô Đình Cẩn cũng được đưa về đó nằm cạnh mộ của thân mẫu và 2 người anh là Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu

Như Phong

Thursday, October 15, 2009

Trần Hưng Đạo: Anh Hùng Dân Tộc, Thiên Tài Quân Sự Thế Giới - Trần Nhân Quyền


Tượng Trần Hưng Đạo
Bến Bạch Đằng - Saigon

Nhân ngày tường niệm lần thứ 709 của Đức Thánh Trần Hưng Đạo, xin ghi lại những giòng tưởng nhớ về công ơn to lớn của Ngài đối với tổ quốc Việt Nam, và cũng là một trong 10 danh tướng của thế giới. Nơi Ngài bao nhiêu là bài học cho hậu thế trong công cuộc giữ nước và xâu dựng đất nước.
HƯNG ĐẠO VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN
Đệ nhất anh hùng Dân Tộc
Một trong Mười vị nguyên soái tài ba nhất thế giới

Trần Nhân Quyền

Vào những năm 1200, đế quốc Mông Cổ bao trùm từ Á sang Âu. Quân Mông Cổ ba lần đem đại quân xâm lấn Đại Việt (quốc hiệu Việt Nam thời bấy giờ) vào những năm 1258, 1285, và 1288 nhưng đều bị quân Đại Việt đánh bại. Những chiến thắng hiển hách đó là do đại công của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Năm 1984, các nhà bác học và quân sự thế giới họp tại Luân Đôn, Anh Quốc đã đánh giá Trần Hưng Đạo là một trong 10 nhà quân sự tài ba nhất thế giới.

Người đời qua bao thế hệ sùng kính Ngài phong Thánh- Đức Thánh Trần. Nhân dân không gọi trực tiếp tên của ngài mà gọi là Hưng Đạo Vương, Hưng Đạo Đại Vương, Đức Thánh Trần, và đền thờ của ngài có trên khắp miền đất nước, Việt Nam Cộng Hoà trước đây tỏ lòng tôn kính đã in hình Đức Thánh Trần lên tờ giấy bạc $500. Hằng năm dân chúng khắp nơi ngưỡng mộ làm lễ tưởng niệm vào ngày Ngài mất, ngày 20 tháng 8 âm lịch tức vào vào khoảng ngày 8 tháng 10 dương lịch hàng năm.Ngành Hải Quân và Hàng Hải VNCH tôn Ngài làm Thánh Tổ. Năm nay , người Việt hải ngoại nhiều nơi làm lễ tưởng niệm Thánh Tổ Trần Hưng Đạo – Xin ghi lại thân thế và thành tích của Ngài để tỏ lòng tôn kính vị anh hùng dân tộc.

Thân thế Đức Trần Hưng Đạo:

Tên thật của Đức Trần Hưng Đạo là Trần Quốc Tuấn, năm sinh của Ngài không rõ (có tài liệu cho rằng là năm 1228, nhưng cũng có tài liệu cho là năm 1230, hay 1231). Ngài sinh ra tại làng Kiếp Bạc, xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; nguyên quán của Ngài là làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Thân phụ của ngài là An Sinh Vương Trần Liễu, anh ruột của vua Trần Thái Tông huý là Trần Cảnh, vị vua đầu tiên của triều đại nhà Trần (1225-1258). Mẹ ngài là Thiện Đạo Quốc Mẫu húy Nguyệt. Tháng 2, năm 1251 ngài kết hôn với Công Chúa Nguyên Thành tức Nguyên Từ quốc mẫu sinh được 4 trai và một gái, ngoài ra còn có người con gái nuôi,

- Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn: võ tướng.
- Minh Hiến Vương Trần Quốc Uất: võ tướng.
- Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng: võ tướng, cha vợ của Trần Anh Tông
- Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện: võ tướng, nhà khai khẩn đất đai.
- Khâm Từ hoàng hậu: vợ vua Trần Nhân Tông
- Anh Nguyên quận chúa: con nuôi của Trần Hưng Đạo, vợ của danh tướng Phạm Ngũ Lão

Năm lên 4-5 tuổi, Trần Quốc Tuấn theo cha là An Sinh Vương Trần Liễu (lúc đó là Khâm Minh Thái Vương) bị đày đến Ái Châu, nơi giam cầm trọng tội. Trưởng công chúa là Thụy Bà thương anh cả mình vô tội bị đầy, bèn năn nỉ anh kế là vua Trần Thái Tông nhận Trần Quốc Tuấn làm con đem về Thăng Long nuôi dạy. Để tránh sự soi mói của triều đình, Trần Quốc Tuấn được công chúa Thụy Bà gửi tại chùa Phật Quang làng Khúc Thủy, xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây nhờ trụ trì chùa này dạy dỗ cho tới năm ông lên 10 tuổi.

Khi lớn lên, Trần Quốc Tuấn có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, học thông hiểu rộng, văn võ song toàn. An Sinh Vương Trần Liễu trước đây vốn có hiềm khích với em tức vua Trần Thái Tông-Trần Cảnh. Vì thế Trần Liễu mang lòng hậm hực, tìm khắp những người tài nghệ để dạy cho con trai Trần Quốc Tuấn mong sau này con mình phải làm vua thiên hạ. Lúc sắp mất, An Sinh Vương Trần Liễu cầm tay con Trần Quốc Tuấn trăng trối rằng: "Con không vì cha mà lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được". Sự hiềm khích giữa hai anh em Trần Liễu và Trần Cảnh là do An Sinh Vương Trần Liễu lấy người chị ruột của vợ Trần Cảnh tức công chúa Lý Chiêu Hoàng. Sau này, công chúa Lý Chiêu Hoàng không có con nên năm 1237, Trần Thủ Độ bắt vợ của Trần Liễu lúc ấy có thai ba tháng về làm vợ Trần Cảnh (chị thay cho em). Chính vì lẽ đó mà Trần Liễu oán giận Trần Cảnh. Trần Quốc Tuấn ghi điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải trả hận.

Ở Đức Trần hưng Đạo có một nhân cách lớn với một trái tim hừng hực yêu tổ quốc, yêu muôn dân, yêu giống nòi văn hiến Đại Việt. Nhân Cách ấy, con tim vĩ đại ấy đã tạo nên một khí phách vượt lên những toan tính cá nhân, những tị hiềm gia đình, phe nhóm tung hoành trước binh đao để làm nên những chiến công hiển hách bảo vệ giang sơn của tổ quốc, bảo bọc đồng bào. Trước quân thù nhân cách và trái tim của Ngài là ngọn đuốc soi sáng tuệ minh, lòng dũng cảm và sự minh mẫn cao vút trời xanh thiêu rụi bọn giặc xăm lược Bắc Phương ... Tây Kết, Hàm Từ, Chương Dương, Bạch Đằng là địa danh quân Bắc Phương khiếp sợ cùng với tên tuổi của người.

Tài dụng người và dụng binh của Trần Hưng Đạo:

Trần Quốc Tuấn là người có tài dụng người, dụng binh thao lược, ông tiến cử người tài giỏi giúp nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông đã có công đánh dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Các người nổi tiếng khác như Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng về văn chương và chính sự, bởi vì ông có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn người trung nghĩa nên đã giữ được những nhân tài chung quanh ông. Ví dụ như khi vua Trần Thánh Tông vờ bảo với Trần Quốc Tuấn rằng: "Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi". Trần Quốc Tuấn trả lời: "Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng giặc". Tiếng vang đến giặc Phương Bắc, chúng thường gọi Trần Quốc Tuấn là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi bằng tên Lăng Đức Trần Hưng Đạo tại Nam ĐịnhNhân dân Việt Nam vô cùng kính trọng ông và tôn ông là vị anh hùng dân tộc có công trạng lớn vào hàng bậc nhất đối với tổ quốc và là tấm gương uy vũ sáng ngời cho nhiều thế hệ mai sau. Do công lao hai lần lãnh đạo quân sĩ chống lại họa xâm lăng của giặc Nguyên-Mông Cổ. Thời đó dưới vó ngựa của quân Mông Cổ, các nước Hồi Giáo hiếu chiến ở Trung Á, đến nước Nga ngày nay cũng không thể nào bảo vệ được nền độc lập của mình. Lãnh thổ của Đế quốc Mông Cổ lúc đó chiều ngang kéo dài từ Triều Tiên (Đại Hàn) đến Moskova-Nga Sô, Muhi - Hungary, Tehran - Iran, Damascus-Syria; Và chiều dọc từ Bắc Á xuống tới cả biên giới Ấn Độ, Miến Điện. Trong cơn lốc chinh phục của Đế Quốc Mông Cổ, chỉ có Thái Lan thoát khỏi họa diệt vong nhờ sách lược cầu hòa, Nhật Bản may mắn nhờ một trận bão biển làm thiệt hại bớt tàu của quân Mông Cổ nên không xâm lược, còn Đại Việt nhờ khả năng lãnh đạo của Hưng Đạo Đại Vương mà giữ được bờ cõi, thật là một anh hùng hiếm hoi của lịch sử dân tộc Việt.

Ngoài tài dụng người, dụng binh, Ngài là một chiến lược gia từng soạn các binh thư như Binh Gia Diệu Lý Yếu Lược (còn gọi là Binh Thư Yếu Lược) và Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư để dạy các tể tướng quân sĩ bằng bài Hịch Tướng Sĩ. Ngài còn soạn sách để khích lệ tướng sĩ dưới quyền, dẫn dụ chuyện Kỷ Tín liều mình cứu thoát Hán Cao Tổ, Do Vu đưa lưng chịu chém để cứu Sở Tử mà dạy đạo trung cho tướng sĩ.

Ngài thông minh đĩnh ngộ, văn võ song toàn; chí biết dẹp thù nhà, thân biết đoàn kết anh em dòng họ cùng lo toan việc nước. Ngài nghiên cứu binh thư, biết dùng người hiền tài, coi binh sĩ như tay chân. Ở nơi ngài thể hiện các đức tính: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Tín. Cả hai lần chống quân Nguyên, ngài đã lập nhiều công lớn. Sau khi kháng chiến chống Nguyên của Mông Cổ lần thứ 3 thành công, ngài về ẩn thân ở trang viên của mình tại Vạn Kiếp. Tuy nhiên, các vua Trần vẫn thường xuyên đến vấn kế sách của ngài.

Ngài mất vào ngày 20 tháng 8 năm 1300 (Canh Tý) hưởng thọ khoảng 70 tuổi, được phong tặng tước Thái Sư Thượng Phụ Thượng Quốc Công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương. Thi hài được hỏa táng theo ý nguyện của ngài, tro thu vào một bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa rừng An Sinh miền Đông Bắc, không xây lăng mộ. Người dân đương thời ngưỡng mộ tôn ngài là Đức Thánh sau này gọi là Đức Thánh Trần Hưng Đạo và xây đền thờ ngài tại Vạn Kiếp, Chí Linh.

Sự ngưỡng mộ trong dân gian đưa Ngài thành huyền thoại, sau khi mất rồi, các châu huyện ở Lạng Giang hễ có bệnh dịch, nhiều người cầu đảo Ngài. Còn có lời đồn rằng, mỗi khi đất nước lâm nguy có giặc ngoại xâm, đến lễ ở đền Ngài, hễ tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn.
Các trận chiến chống quân Nguyên của Mông Cổ (Nguyên-Mông)

Thế lực của Đế Quốc Mông Cổ vào thế kỷ thứ 12-những vùng đỏ là cơn lốc bành trướng của Mông Cổ. Thế mà khi đến Việt Nam bị Trần Hưng Đạo đánh bại ...
Quân Nguyên-Mông xâm lăng lần thứ nhất 1258: Bị vua Trần Thái Tông đánh bại:

Vào tháng Giêng năm 1258, một đạo quân Mông Cổ khoảng 2.5 vạn do tướng Ngột Lương Hợp Thái chỉ huy tràn vào Đại Việt từ ngã Vân Nam, trong đạo quân này có phò mã Hoài Đô của vua Mông Cổ. Về phía Đại Việt vua Trần Thái Tông trực tiếp chỉ huy trận đánh chuẩn bị nghênh chiến ở Bình Lệ Nguyên,nay là huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 17-01-1258 quân Mông Cổ chia làm ba mặt tấn công như vũ bảo, thấy thế giặc mạnh nên quân Nam phải rút bỏ Thăng Long về ém quân tại Phù Lỗ. Ngày hôm sau, 18-01-1258, quân Mông Cổ tiến đánh Phù Lỗ, Trần Thái Tông nghe lời khuyên của tướng Lê Phụ Trận rút lui khỏi Phù Lỗ rồi quyết định rút khỏi kinh thành Thăng Long với kế hoạch vườn không, nhà trống, cạn lương thực. Thế là sau hai trận đánh chớp nhoáng, quân Mông Cổ chiếm được kinh thành, khi chiếm được thành nhưng lương thực trống rổng, quân Mông cướp của dân ở ngoại thành và thỉnh thoảng bị quân ta chận đánh. Nửa đêm ngày 28 tháng 1 năm 1258, lúc đó lương thực quân Mông đã cạn, từ nơi trú quân ở Hoàng Giang, vua Trần Thái Tông cùng thái tử Trần Hoảng vượt ngược sông, bất thần đánh thẳng vào quân địch. Quân Mông Cổ cho rằng lực lượng quân Trần đã kiệt quệ sau trận thua đầu nên rất chủ quan và bị tập kích bất ngờ không kịp trở tay bị thảm bại. Sau khi bị phá tan tại Đông Bộ Đầu, quân Mông Cổ không giữ nổi Thăng Long nữa. Họ đồng loạt tháo chạy thẳng về Vân Nam, Trung Hoa.

Khi thất trận, quân Mông Cổ rút chạy theo theo tả ngạn sông Thao quá nhanh, ngoài dự tính của vua Trần Thái Tông, khiến vua Trần không kịp bố trí lực lượng diệt địch. Tuy nhiên khi đến Quy Hóa (vùng Lào Cai, Yên Bái), quân Mông bị chủ trại là Hà Bổng – một thổ quan người Tày - tập kích quyết liệt gây tổn thương cho quân Mông Cổ không ít. Trận đầu quân xâm lượt của Mông Cổ đến một xứ bé nhỏ Đại Việt bị thất bại tháo chạy về Vân Nam vào cuối tháng 1 năm 1258.

Quân Nguyên Mông Cổ xâm lăng lần thứ 2-1285: Bị Trần Hưng Đạo đánh bại:

Sau khi thất bại đầu năm 1258, Đế Quốc Mông Cổ lâm vào nội chiến (1259 -1264) và chiến tranh với nhà Tống (1267-1279) bên Tàu. Mặc dù rất muốn rửa hận quân Nam nhưng chưa thể thực hiện ngay được. Cho đến nǎm 1279 nhà Tống đại bại, toàn bộ Trung Hoa rơi vào ách thống trị của nhà Nguyên, Mông Cổ. Vua Nguyên là Hốt Tất Liệt chuẩn bị đem quân sang rửa hận nước ta. Sau khi không thể khuất phục được vua quan nhà Trần bằng những sứ bộ ngoại giao, cuối nǎm 1284, đạo quân Nguyên-Mông do Thoát Hoan làm Đại Nguyên Soái, A Bát Xích làm Hành Tỉnh Tả Thừa, Áo Lỗ Xích làm Bình Chương Chính Sự, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp làm Tham Tri Chính Sự, đem hơn 30 vạn quân sang đánh nước ta, giả danh đưa Trần Ích Tắc về nước, lập làm An Nam Quốc Vương. Lại sai Vạn Hộ Trương Văn Hổ theo đường bể chở hơn 17 vạn thạch lương sang tiếp tế cho quân sĩ, cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ hai bắt đầu.Lần này, ngoài cánh quân lớn của Thoát Hoan đánh vào mặt Lạng Sơn, Vua Nguyên còn sai Nạp Tốc Lạt Đinh đem một cánh quân từ Vân Nam đánh vào Tuyên Quang, và ra lệnh cho Toa Đô đem đạo quân còn đóng ở Bắc Champa, đánh vào mặt Nam của Đại Việt.Sau một vài trận đánh chặn giặc ở mặt trận Lạng Sơn và Tuyên Quang vào tháng 2/1285, quân ta lại rút lui và một lần nữa bỏ trống kinh thành Thǎng Long, kéo về mạn Thiên Trường và Trường Yên nay thuộc tỉnh Ninh Bình. Và để tránh cái thế kẹt vào gọng kìm của giặc, đại quân và Triều Đình chờ cho cánh quân của Toa Đô tiến đến Trường Yên (Ninh Bình) thì rút vào Thanh Hoá. Trong khi một bộ phận lớn quân chủ lực rút, thì khắp nơi, quân địa phương và dân binh các lộ, phối hợp với các cánh quân nhỏ của Triều Đình để lại đã không ngừng tập kích, tấn công vào quân địch ở vùng bị chiếm đóng. Kế hoạch ''vườn không nhà trống" được toàn dân thực hiện. Giặc đóng quân phân tán, thiếu lương thực, có nguy cơ bị tiêu diệt. Mùa hè đến, lại giáng lên đầu chúng những tai hoạ mới. Sử Nguyên-Mông ghi chép: "Bệnh dịch hoành hành. Nước lụt dâng to, ngập ướt doanh trại ... ". Thời cơ phản công của quân ta đã tới, tháng 5/1285, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn dẫn đại quân tiến ra Bắc.

Kế hoạch diệt địch như sau: Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải và một số tướng lĩnh được giao nhiệm vụ diệt địch trên phòng tuyến sông Hồng, còn Hưng Đạo Vương, đem quân vòng qua vùng Hải Đông, tiến lên Vạn Kiếp, chặn đường tháo chạy của địch. Cục diện chiến tranh xảy ra đúng như dự liệu: cuối tháng 5-1285, Trần Quang Khải cùng với Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản đã đánh tan giặc ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, rồi tiến lên đánh chiếm Thǎng Long. Thoát Hoan hoảng hốt, rút khỏi Thǎng Long, chạy về Vạn Kiếp. Đến đây, bọn giặc lọt vào trận địa mai phục của Trần Hưng Đạo, chúng bị thương vong rất nhiều. Đám tàn quân hoảng loạn cố mở đường máu thoát chạy. Nhưng đến biên giới Lạng Sơn, chúng lại bị quân ta chặn đánh. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng rồi bắt quân lính khiêng chạy về nước. Viên đại tướng Lý Hằng nhiệm vụ chận hậu, bị tên độc trúng đầu gối, về đến Tư Minh thì chết.Trong khi cánh quân Thoát Hoan chạy về phía Lạng Sơn thì cánh quân Nạp Tốc Lạt Đinh tìm đường tẩu thoát về Vân Nam, cũng bị quân dân ta tập kích đánh cho tơi bời. Không biết Thoát Hoan đã bỏ chạy, Toa Đô kéo ra Bắc, theo sông Hồng định về Thǎng Long, nhưng đến Tây Kết thì bị quân ta chặn đánh. Toa Đô bị chém. Thế là cuộc chiến tranh xâm lược của Nguyên Mông lần thứ hai hoàn toàn thảm bại.Quân Nguyên-Mông xâm lược lần thứ 3-1288: Lại bị Trần Hưng Đạo đánh bại.

Lần thứ ba, quân Nguyên Mông xâm lăng Đại Việt từ tháng 12 năm 1287 đến cuối tháng 4 năm 1288.

Sau lần đại bại danh tướng Thoát Hoan của quân Nguyên Mông phải chui vào ống đồng để cho quân lính khiêng xác tháo chạy thoát chết, nhưng Hốt Tất Liệt vẫn chưa bỏ mộng xâm lăng nước Đại Việt. Vào tháng 3 năm 1286, quân Nguyên lại phái bại tướng Thoát Hoan làm tổng tư lệnh cùng các tướng chỉ huy cao cấp khác gồm Áo Lỗ Xích, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp (tướng Hán đầu hàng Nguyên), Diệc Hắc Mê Thất,A Lý, Quỹ Thuận v.v... Sau đó, tháng 11 năm 1286, tăng thêm tướng A Bát Xích,A Lý, Trình Bằng Phi (tướng Hán đầu hàng Nguyên), Ái Lỗ, Trương Ngọc, Lưu Khuê, Tích Đô Nhi, Trương Văn Hổ, Phí Củng Thìn, Đào Đại Minh (những tướng cướp biển Tàu Ô làm tướng nhà Nguyên). Phần lớn các tướng lần này đều đã từng xâm lăng Đại Việt năm 1284. Đại Việt Sử Ký Toàn thư ghi số quân Nguyên là 50 vạn. Về thủy quân, quân Nguyên có 300 thuyền chiến mới đóng cùng 120 thuyền chiến của Hải Nam đều đặt dưới sự chỉ huy của Ô Mã Nhi. 70 thuyền vận tải chở 17 vạn thạch lương do Trương Văn Hổ chỉ huy đi cùng Ô Mã Nhi.

Về phía Đại Việt ra lệnh tổng động viên. Lần này chỉ huy tối cao là vua Trần Nhân Tông. Tướng chỉ huy toàn cục là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Tổng số quân Đại Việt khoảng trên 20 vạn. Vua Trần Nhân Tông đại xá thiên hạ, chỉ trừ những người từng đầu hàng quân Nguyên đều không được đại xá. Nhiều tù nhân được phép tình nguyện tòng quân ra mặt trận để chuộc tội, báo ân.

Ngày 3 tháng 9 năm 1286, Thoát Hoan khởi binh từ đất Ngạc tiến về phía Nam, mượn tiếng đưa "An Nam quốc vương" Trần Ích Tắc (tên bù nhìn bán nước) về nước. Quân Nguyên chia làm 3 cánh:

Cánh thứ nhất theo đường Vân Nam tiến xuống sông Thaosông Lô như 2 lần trước. Cánh thứ hai là quân chủ lực đi đường châu Khâm, châu Liêm do Thoát Hoan cùng Trình Bằng Phi, Áo Lỗ Xích, dẫn theo Trần Ích Tắc tiến vào biên giới đông bắc. Cánh thứ 3 là thủy quân do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy 500 chiến thuyền cùng đoàn vận lương do Trương Văn Hổ phụ trách kéo theo sau.

Phía Đại Việt, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn thống lĩnh các vương hầu chia quân chống giữ các nơi. Trần Nhật Duật, Nguyễn Khoái mang 3 vạn quân giữ Lạng Sơn; Lê Phụ Trần và Trần Quốc Toản mang 3 vạn quân vào giữ Thanh Hoá-Nghệ An; Trần Khánh Dư giữ Vân Đồn; Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đóng binh ở Quảng Yên. Mặt khác, Hưng Đạo Vương sai quân biên giới giáp Tư Minh, chia ra đóng các đồn Sa, Từ, Trúc để chống bộ binh địch xâm nhập; lại sai một tướng khác ra giữ Bình Than.

Ngay từ lúc đầu, thế quân Mông Cổ đông và mạnh quân ta tạm rút lui và Thoát Hoan đã đánh vào thành Thang Long. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn rút về kinh thành, sai người rước vua Trần lui xuống hạ lưu sông Hồng rồi theo cửa Giao Thủy đi ra biển vòng lên Tháp Sơn (Đồ Sơn) nhưng bị cánh quân của Ô Mã Nhi đuổi quá gấp nhằm thực hiện lời thề của hắn khi được lênh đuổi bắt vua Trần rằng: “Ngươi chạy lên trời ta theo lên trời, ngươi chạy xuống đất ta theo xuống đất, ngươi trốn lên núi ta theo lên núi, ngươi lặn xuống nước ta theo xuống nước", cho nên Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông phải xuống thuyền vào Thanh Hóa. Ô Mã Nhi mang vài chục thuyền và ít lương đuổi gấp theo, nhưng nghe tin có Lê Phụ Trần và Trần Quốc Toản cầm một đạo thuỷ quân lớn đang phòng ngự ở Thanh Hoá, liệu thế không đánh nổi đành quay trở lại. Qua Long Hưng, Ô Mã Nhi tức giận sai phá lăng Trần Thái Tông.

Ngày 2/2/1288 giao tranh giữa Hưng Đạo Vương và Thoát Hoan tại kinh thành Thăng Long đẩm máu, quyết liệt. Tuy nhiên các tài liệu sử học về cuộc chiến kinh thành Thăng Long ngày 2/2/1288 không đồng nhất. Khâm định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Việt Sử Tiêu ÁnViệt Nam Sử Lược chỉ ghi lại Thoát Hoan vây đánh nhưng không hạ được thành; Đại Việt Sử ký Toàn Thư không chép trận Thăng Long. Một số sách sử Việt Nam sau này cho rằng quân Trần bỏ thành rút lui. Quân Nguyên lọt được vào kinh thành, nhưng sau đó đụng độ kịch liệt với quân Trần. Sau vài lần giao chiến, cuối cùng quân Nguyên phải rút lui, trước khi rút đã đốt phá cung điện và phố xá.

Trong khi đó Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp vốn được giao chỉ huy thủy quân mở đường cho đoàn thuyền chở lương thực của Trương Văn Hổ, Phí Củng Thìn theo sau. Sau khi đánh lui được quân Trần Gia, Ô Mã Nhi cho rằng thế quân Đại Việt yếu không đáng lo, bèn tiến sâu vào nội địa để bắt tay với Thoát Hoan truy đuổi vua Trần. Tướng Trần Khánh Dư được giao trấn giữ đường biển nhưng để quân Nguyên đi qua, bị thái thượng hoàng Trần Thánh Tông sai sứ hỏi tội. Khánh Dư xin khất vài ngày để chuộc tội.

Đầu năm 1288, đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ kéo đến Vân Đồn, bị quân Trần Khánh Dư tập kích. Không có quân chủ lực bảo vệ, quân của Trương Vân Hổ mau chóng bị tiêu diệt. Văn Hổ cố gắng kéo vào đất liền nhưng đến Lục Thuỷ thì thuyền quân Trần Khánh Dư đổ ra đánh càng đông. Trương Vân Hổ đại bại, đổ hết thóc xuống biển vì không muốn lọt vào tay quân Trần, rồi bỏ chạy về Quỳnh Châu. Thuyền lương của Phí Củng Thìn kéo theo sau, mới đến Huệ Châu bị gặp bão, trôi giạt tới Quỳnh Châu. Đoàn thuyền lương do Từ Khánh chỉ huy thì đi lạc tới Chiêm Thành rồi quay trở lại Quảng Đông. Như vậy, các thuyền lương của quân Nguyên bị mất sạch không còn một hạt thóc.

Đây chính điểm mấu chốt mà quân Đại Việt đánh bại quân Nguyên-Mông lần thứ ba, lương thực bị mất sạch, Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi đi tìm thuyền quân lương lại bị phục kích nhưng chẳng tìm ra lương thực, Thoát Hoan rơi vào tình trạng lúng túng binh lính thiếu ăn, trong lúc đó quân Đại Việt bắt đầu phản công mạnh mẽ và kiểm soát vùng Hải Dương và Hải Phòng ngầm ý đẩy Thoát Hoan vào nguy cơ bị cắt đường rút về Vạn Kiếp. Trước tình hình như vậy, Thoát Hoan phải nhanh chóng rút quân khỏi Thăng Long quay về Vạn Kiếp.

Tại Vạn Kiếp, quân Nguyên cố thủ trong các thành gỗ nhưng thường xuyên bị quân Đại Việt tập kích vào ban đêm. Tình hình thiếu lương thực càng ngày càng trầm trọng. Thoát Hoan quyết định rút quân khỏi Đại Việt. Lúc đó là vào khoảng cuối tháng 3 năm 1288, tức là chỉ 3 tháng sau khi tiến quân vào Đại Việt. Quân Nguyên chia làm 2 tuyến rút quân, một tuyến của thủy quân do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy. Một tuyến của bộ binh do Thoát Hoan chỉ huy.

Kế hoạch rút lui của giặc không nằm ngoài dự liệu của Trần Hưng Đạo. Ông đã bố trí chặn giặc ở vùng biên giới và chuẩn bị cho một trận quyết chiến lớn trên sông Bạch Đằng. Từ đấu tháng 3, quân sĩ và nhân dân đã đẵn gỗ lim, gỗ táu ở rừng về đẽo nhọn, đóng xuống lòng sông, làm thành những bãi cọc lớn. Thuỷ quân và bộ binh ta đã phục sẵn trong các nhánh sông và các khu rừng rậm ven sông Bạch Đằng, chờ ngày tiêu diệt địch trên đường rút lui.

Để bảo vệ cho thủy quân rút lui, Thoát Hoan sai Trình Bằng Phi đi hộ tống đoàn thuyền, nhưng bị chặn đánh liên tục phải quay về Vạn Kiếp cùng với quân bộ. Đoàn thuyền của Ô Mã Nhi không có bộ binh bảo vệ đã bị chặn đánh liên tục, mãi tới ngày 8 tháng 4 năm 1288 mới tiến tới Trúc Động để vào sông Giá. Tuy nhiên, quân Đại Việt đã ngăn được quân Nguyên vào sông Giá, khiến Ô Mã Nhi phải tiến vào sông Bạch Đằng. Tại đây, quân Đại Việt bố trí một trận địa cọc ngầm. Một lực lượng lớn bộ binh Đại Việt lại trú tại Tràng Kênh chờ đánh vào sườn phải quân Nguyên khi họ vào sông Bạch Đằng, còn một lực lượng lớn nữa trú tại khu rừng tả ngạn sông sẽ đánh vào sườn trái đối phương. Thủy quân Đại Việt thì ẩn náu trên các sông khác thông với sông Bạch Đằng.

Sáng ngày 9 tháng 4 năm 1288, thủy quân Nguyên tiến vào sông Bạch Đằng, thấy thủy quân Đại Việt liền đuổi đánh, song đụng phải các cọc ngầm và bị mắc kẹt. Quân Đại Việt từ khắp các hướng đổ ra tấn công. Đích thân vua Trần Nhân Tông và Trần Hưng Đạo chỉ huy trận chiến. Quân Đại Việt đã bắn hằng vạn mũi tên vào quân Nguyên. Thủy triều rút xuống làm cho số thuyền bị cọc nhọn cắm kẹt càng tăng. Đến chiều, đại bộ thủy quân của Nguyên-Mông bị tiêu diệt. Tướng Trần là Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ. Phàn Tiếp bị thương, nhảy xuống nước, bị quân Trần dùng câu liêm móc lên, bắt sống. Quân Nguyên bị chết rất nhiều, hơn 400 chiến thuyền lọt vào tay quân Đại Việt. Gần như toàn bộ thuỷ quân Nguyên bị tiêu diệt.

Còn cánh bộ binh rút lui thì sao? Ngày 8/4/1288, quân của Thoát Hoan từ Vạn Kiếp rút về Lạng Sơn. Ngày 11 tháng 4, đội quân Nguyên tiến tới cửa Nội Bàng (thị trấn Chũ, xã Bình Nội của Bắc Giang ngày nay) và lọt vào trận địa phục kích của quân Đại Việt. Quân Nguyên cố sức chống cự; Tướng Lưu Thế Anh của quân Nguyên phải liều chết mở đường máu cho đại quân thoát khỏi cửa Nội Bàng. Qua được Nội Bàng, Thoát Hoan nhận được tin báo rằng phía trước có 30 vạn quân Đại Việt trải dọc suốt 100 dặm mai phục, đành đổi hướng rút quân qua Đơn Kỷ về Lộc Châu. Tuy nhiên qua đường này, quân Nguyên vẫn bị quân Đại Việt tập kích. Sử sách nhà Nguyên ghi lại: "Lúc đó quân ta đã thiếu ăn lại mệt vì chiến đấu, tướng tá nhìn nhau thất sắc" nhưng vẫn phải "cố xông vào mà đánh" và "buộc vết thương lại mà đánh". Mãi đến ngày 19 tháng 4 năm 1288, quân Nguyên mới thoát khỏi biên giới về đến Tư Minh.

Chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt đã chôn vùi vĩnh viễn mộng xâm lược của Hốt Tất Liệt. Hai lần tháo chạy của Thoát Hoan đã làm cho nguyên soái lừng lẫy Mông Cổ chẳng bao giờ dám trở lại phương Nam! Giang sơn, xã tắc từ đây bình yên xây dựng đất nước một thời cực thịnh của dân tộc Việt Nam.
Trần Nhân Quyền

Tại sao họ khinh người Việt Nam? - Ngô Nhân Dụng

Ngô Nhân Dụng

Vua Lê đánh thắng giặc Minh, Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô Ðại Cáo, là “tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ”, rửa sạch mối sỉ nhục ngàn năm chưa nguôi. Rửa nhục, không phải vì đã đánh được giặc Minh, giết được nhiều quân Minh. Nỗi nhục đã rửa “sạch lầu lầu” vì Lê Thái Tổ đã tha mạng cho tướng sĩ nhà Minh, lại còn cho hộ tống về Tầu để khi đi dọc đường không bị dân chúng căm giận mà ngầm giết bớt. Vua Lê nói: “Ví bằng giết đi cho hả giận một lúc, để gánh lấy tiếng xấu giết kẻ quy hàng đến muôn đời; chi bằng hãy cho sống vạn ức mạng người để dứt mối chiến tranh đến muôn thủa, công việc sẽ chép vào sử sách, tiếng thơm sẽ truyền mãi đến ngàn thu, há chẳng lớn ư?”

Nhiều người Trung Hoa không đọc đoạn sử trên, trong Ðại Việt Thông Sử (bản dịch của Ngô Thế Long, in năm 1978 ở Hà Nội, trang 70). Họ không biết thiện chí của Lê Thái Tổ muốn “dứt mối chiến tranh đến muôn thủa.”

Cuối tháng trước, hàng trăm ngư phủ Việt Nam vừa mới bị lính Tầu đóng trên cảng Cần Cẩu cướp bóc, đánh đập, tra tấn sau khi ghé vào trốn bão trên hòn đảo vốn thuộc nước ta nay đã bị Trung Quốc chiếm. Bọn lính Trung Cộng chiếm đóng Hoàng Sa đã cư xử như loài hải tặc chứ không phải quân đội chính quy của một quốc gia. Hàng trăm ngư dân từ đảo Lý Sơn và Bình Châu bị đánh đau, nhưng hàng triệu người Việt Nam cảm thấy nhục nhã. Một vụ bạo hành phi pháp như vậy mà người cầm quyền không ngăn cản được dù có 3, 4 ngày để hành động, thì đúng là “thiên cổ vô cùng chi sỉ,” một mối nhục ngàn thu không biết bao giờ rửa sạch!

Tại sao quân đội Trung Quốc cho phép tầu Nhật Bản, Hồng Kông vào cảng Cần Cẩu tránh bão một cách trật tự, còn tầu Việt Nam thì bị bắn để ngăn cấm suốt ba ngày; sau cùng phải liều mạng chạy đại vô mới tránh được gió bão? Trong ba ngày đó, cái gọi là Bộ Ngoại Giao của chính quyền Hà Nội đã làm gì?. Sau đó, họ đã làm gì khi dân trở về cho biết họ bị bọn “hải tặc” đánh đập, tra tấn, cướp bóc?. Ở một nước dân chủ tự do thì Quốc Hội đã lập một ủy ban điều tra độc lập để tìm hiểu cho rõ ngọn ngành. Nếu chính quyền biết trọng danh dự của dân tộc thì phải lập tức gọi đại sứ Trung Quốc tới Bộ Ngoại Giao lớn tiếng phản đối ngay từ ngày 30 Tháng Chín khi các ngư phủ Việt Nam về tới bến. Phải yêu cầu họ điều tra, trừng phạt những tên lính Trung Cộng phạm tội và bồi thường thiệt hại cho các nạn nhân. Trong khi chờ đợi, phải triệu hồi đại sứ mình về nước để tỏ thái độ phản đối cho tới lúc nào giải quyết ổn thỏa mới thôi. Phải thưa kiện Trung Cộng trước tòa án quốc tế và họp báo chính thức lên án trên những tên hải tặc mặc quần áo lính Trung Quốc! Nhân dịp này, nêu lại vấn đề chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước công luận thế giới. Ðó là những hành động tối thiểu, cần thiết để bảo vệ danh dự quốc gia. Các nước văn minh đều hành xử như vậy.

Người Trung Quốc cũng đang tranh chấp với Nhật Bản về chủ quyền trong vùng biển Ðông của họ, là Ðiếu Ngư Ðài với mấy hòn đảo diện tích tổng cộng chỉ có 7 cây số vuông, hiện do người Nhật chiếm đóng, đặt tên là Senkaku.

Ngay sau vụ các thanh niên Nhật Bản tới xây hải đăng trên đảo những năm 1978 và 1996, có những đoàn thanh niên từ Hồng Kông, Ðài Loan, rồi sau đó đến người Trung Quốc tổ chức đi thuyền đến Ðiếu Ngư Ðài cắm cờ quốc gia của họ lên đảo.

Tháng Ba năm 2004 một nhóm bẩy thanh niên từ lục địa Trung Quốc đổ bộ lên Ðiếu Ngư Ðài, họ bị quân tuần phòng Nhật Bản bắt. Tình cảnh những người này không giống như các ngư phủ Việt Nam đã bị Trung Cộng bắt giữ gần đây, vì những người Việt bị bắt hoàn toàn vô tình, không ai có ý tiến vào Hoàng Sa để xác nhận chủ quyền. Nhưng năm 2004 chính phủ Bắc Kinh phản đối, buộc Nhật trả các thanh niên của họ về nước.

Ðài Loan là một nước nhỏ so với Nhật Bản, mà hai bên giao thương rất mật thiết, quyền lợi kinh tế rất lớn. Nhưng không phải vì thế mà chính phủ Ðài Bắc khiếp nhược, im lặng và tảng lờ khi dân Ðài Loan bị xúc phạm vì Ðiếu Ngư Ðài. Tháng Sáu năm 2005 một chiếc tầu đánh cá tư nhân của Ðài Loan tới gần Ðiếu Ngư Ðài bị tầu tuần duyên Nhật Bản ngăn chặn, giữ để xét hỏi. Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã phản đối kịch liệt, gửi một chiến hạm tới quanh Ðiếu Ngư Ðài để bầy tỏ sự tức giận của dân chúng Ðài Loan. Trên chiếc tầu này có ông bộ trưởng quốc phòng và vị chủ tịch Quốc Hội, cho thấy chính quyền một nước tự do dân chủ tự nhiên phải chứng tỏ họ biết lo chung mối lo của nhân dân.

So sánh các biến cố trên với những vụ các “tàu lạ” đâm vào mạng sườn tầu Việt Nam giữa đêm, hoặc bắt cóc các ngư dân Việt Nam đòi tiền chuộc trong vùng Hoàng Sa, và đến vụ đánh đập, cướp bóc các ngư dân Lý Sơn và Bình Châu bây giờ, thì thấy khác nhau xa. Khác không phải vì người Nhật biết cư xử lịch sự văn minh hơn người Trung Quốc. Khác không phải là chính phủ Nhật biết kính nể dân Trung Hoa dù ở lục địa hay ở Ðài Loan. Khác là vì từ chính phủ Bắc Kinh cho đến những người lính Trung Cộng đóng ở cảng Cần Cẩu không ai cần tỏ ra biết kính trọng dân Việt Nam.

Chúng ta phải tự hỏi tại sao quân Trung Cộng trong cảng Cần Cẩu biết kính trọng luật hàng hải quốc tế để đối xử với tầu, thuyền nước khác theo lối loài người văn minh, mà lại trở mặt, biến thành những hải tặc dã man khi gặp người Việt Nam?

Không thể nghĩ rằng chính phủ Bắc Kinh có chính sách kỳ thị, ra lệnh cho quân lính của họ coi người Việt Nam như quân thù. Chính quyền một nước lớn thường vẫn phải tỏ ra họ tôn trọng những luật pháp quốc tế. Ngoài ra, chính phủ nào cũng phải ra lệnh cho quân lính cứu người trong lúc lâm nạn, không để quốc gia họ bị mang tiếng bất nhân. Hành động dã man của quân lính Trung Cộng có thể do họ vẫn được lệnh đối xử với ngư dân Việt Nam như vậy, để cho mọi người Việt Nam khác phải sợ mà lánh xa. Hoặc chính những người lính này thấy cơ hội có thể cướp bóc thì không ngần ngại ăn cướp ngay. Khi không ăn cướp được thì tra tấn. Quân lính Trung Cộng chiếm đóng Hoàng Sa thì cũng là người, những người được huấn luyện quân phong, quân kỷ. Tại sao họ đang tâm cướp bóc, đánh đập người Việt Nam như thế? Người Việt đã làm gì để đến nỗi bị họ thù ghét?

Xem cách họ táng tận lương tâm, tra khảo man rợ thì thấy không phải là họ chỉ thù ghét mà đúng ra là họ khinh rẻ. Họ coi khinh các ngư phủ Việt Nam, khinh mọi người Việt Nam. Ðối với kẻ thù, người ta cũng còn có khi tỏ lòng kính trọng và ra tay giúp đỡ khi hoạn nạn để chứng tỏ mình hào hiệp. Chỉ khi nào trong lòng khinh bỉ, nhìn những người trước mặt mình mà không coi đó là những con người ngang hàng, thì họ mới đối xử theo lối của loài muông thú.

Vậy tại sao những người lính Trung Cộng lại coi khinh người Việt Nam như thế?

Năm 1974 sau khi đánh chiếm được Hoàng Sa, quân Trung Cộng còn kính trọng những người lính Hải quân Việt Nam Cộng Hòa bị bắt; đưa tù binh về Hải Nam chữa vết thương và cung cấp lương thực, rồi trả các tù binh trở về theo quy luật quốc tế, mặc dù hai nước không có quan hệ ngoại giao. Người lính Trung Cộng hồi 35 năm trước khác người lính bây giờ hay sao? Hay là cách họ nhìn người Việt Nam từ đó tới nay đã thay đổi?

Chúng ta cứ nhìn thấy cách chính quyền Bắc Kinh đối xử với chính quyền Hà Nội mà suy ra. Ðối với chính quyền Bắc Kinh, đảng Cộng Sản Việt Nam là một bọn người vô ơn bạc nghĩa. Lê Duẩn đã sửa cả hiến pháp ghi những lời lên án Trung Quốc, rồi hoàn toàn thần phục Liên Xô để chống Trung Quốc, gây nên hai cuộc chiến tranh biên giới. Mười năm sau, Liên Xô và các nước Cộng Sản Ðông Âu sụp đổ, viện trợ giảm dần cho tới lúc cạn kiệt. Từ năm 1992, đảng Cộng Sản Việt Nam đã “quy hàng” một cách nhục nhã. Nguyễn Văn Linh, Ðỗ Mười, xin được vào triều kiến nhưng Ðặng Tiểu Bình chỉ cho phép đến thành phố Thành Ðô gặp gỡ, lại bắt phải đem Phạm Văn Ðồng đi theo. Suốt những năm trước guồng máy tuyên truyền ở Hà Nội vẫn gọi ông ta là Ðặng Lưu Manh, bây giờ toàn bộ nhóm lãnh đạo mất chỗ dựa ở Mát Cơ Va nên phải trở lại cầu cạnh Ðặng Lưu Manh. Hỏi có ai thấy thế mà không khinh bỉ?

Thái độ khinh bỉ đó đã thấm từ trên xuống dưới. Cho nên dân Trung Hoa bây giờ nhiều người cũng coi thường mọi người dân Việt Nam. Ðọc các bản hồi ký của những viên cố vấn Trung Cộng đã sang giúp Việt Nam đánh Pháp chúng ta thấy thái độ khinh thường đó. Tất cả các hồi ký đều mô tả những quyết định và chuẩn bị chiến lược, việc thi hành các trận đánh, áp dụng các chiến thuật, đều do các cố vấn quyết định, từ trận Cao Bằng đến Ðiện Biên Phủ. Tướng sĩ Việt Nam thì bị mô tả là sợ khó, chóng mệt mỏi, phải có các cố vấn Trung Quốc thúc đẩy mới đánh tiếp. Có lúc Trần Canh dọa nếu không đánh tiếp thì ông ta về Bắc Kinh, không trở lại nữa, thế là phải nghe lời ông ta! Không những thế, các tướng cố vấn Trung Cộng như Trần Canh, Vi Quốc Thanh, lúc nào cũng điện về Bắc Kinh hỏi ý kiến, được Quân ủy Trung ương Trung Cộng chuẩn ý trước khi cho bên Việt Nam thi hành. Người Việt Nam biết tự trọng tất nhiên phải nghi ngờ các lời tự thuật đó, không thể tin là đúng hoàn toàn. Nhưng điều đáng nói ở đây là thái độ của giới quân sự Trung Quốc đối với Việt Nam là một thái độ khinh thường, coi rẻ. Các bạn trẻ ở Việt Nam hãy tìm trên mạng lưới sẽ đọc được tất cả những thứ hồi ký đó để tự mình suy xét.

Cũng giống như thái độ của quân đội, nhiều dân thường bên Trung Quốc cũng mang lòng khinh rẻ người Việt, nước Việt. Chúng ta đã thấy trên nhiều mạng lưới của giới trẻ Trung Quốc họ đưa lên những kế hoạch đánh chiếm Việt Nam như thế nào, dùng bao nhiêu quân, đánh vào những đâu. Rồi họ bàn cãi, tranh luận với nhau, coi chuyện đánh Việt Nam như một trò chơi điện tử.

Trước các hành vi đó, chính quyền Cộng Sản Việt Nam không dám ngỏ một lời phản đối. Trái lại, mỗi khi có người Việt Nam nào dám đặt vấn đề với Trung Quốc thì chính quyền Cộng Sản bắt bớ, bỏ tù. Báo chí cả nước không được nói đến những vấn đề “nhậy cảm.” Nhìn thấy cách cư xử đó, người không khinh cũng phải sinh lòng khinh rẻ.

Trong vụ lính Trung Quốc cướp và đánh các ngư dân Việt Nam tránh bão, mạng lưới một tờ báo vừa cho đăng tin này, với những hình ảnh và lời phỏng vấn, tường thuật, thì chỉ vài giờ sau đã bị cắt ngay. Nhật báo Người Việt đã đọc và lưu lại bài đó trước khi bị cắt cho nên mới có cơ hội loan tin.

Tư cách chính quyền một nước hèn hạ như vậy, làm sao người ta không khinh được?

Mối nhục “thiên cổ vô cùng chi sỉ” ở đó mà ra!
Ngô Nhân Dụng

Wednesday, October 14, 2009

Giải hòa bình Nobel quá “đát” - Trần Bình Nam

Trần Bình Nam

Hôm Thứ Sáu 9 tháng 10 vừa qua (09/10/2009) Ủy Ban Nobel tại Oslo tuyên bố trao giải Hòa bình Nobel năm 2009 cho tổng thống Barack Obama của Hoa Kỳ.

Ông Chủ tịch Ủy Ban Nobel tuyên bố: “Chúng tôi chọn tổng thống Obama vì ông đã mang đến một không khí mới mẻ cho nền chính trị thế giới, và là người cầm ngọn đuốc của những người chủ trương giải hòa bình Nobel trong suốt 108 năm qua. Tổng thống Obama đã mang đến cho nhân loại viễn kiến và hy vọng vào tương lai ngay từ khi ông bắt đầu nhiệm kỳ của ông.”

Giải Nobel do kỹ sư Alfred B. Nobel người Thụy Điển thiết lập năm 1895 do một Ủy ban gọi là Nobel Foundation quản lý và hằng năm phát thưởng bằng tiền cho những ai làm, khám phá hay phát minh được những gì hữu ích cho nhân loại trong năm lĩnh vực Vật lý học, Hóa học, Văn chương, Y khoa và Hòa bình thế giới. Năm 1969 Ủy Ban Nobel lập thêm giải thưởng kinh tế do sự quan trọng của sinh hoạt kinh tế thế giới liên quan đến hòa bình và phát triển.

Giải Nobel là một giải được trân trọng trên thế giới, nhất là những giải được trao trước năm 1973, trong đó có hai vị tổng thống Hoa Kỳ là tổng thống Theodore Roosevelt và tổng thống Woodrow Wilson. Tổng thống Jimmy Carter được giải sau năm 1973 nhưng cũng là một giải xứng đáng được thế giới tán đồng và ca tụng.

Tổng thống Theodore Roosevelt (hai nhiệm kỳ 1901 – 1909) được giải năm 1906 trong nhiệm kỳ 2, vì đã đóng một vai trò quan trọng đưa đến ổn định cho Tây Bán Cầu, và đã dùng chức vụ tổng thống Hoa Kỳ hòa giải Nga và Nhật Bản chấm dứt trận chiến Nga-Nhật năm 1905.

Trong khi đó tổng thống Woodrow Wilson (hai nhiệm kỳ 1913-1921) cũng được chọn lãnh giải trong nhiệm kỳ 2 (1919) sau khi ông đã làm hết sức mình trong nhiệm kỳ thứ nhất để tạo một thế giới tự do, hòa bình và tôn trọng công lý. Ông là người khai sinh ra Hội Vạn quốc tiền thân của Liên hiệp quốc.

Tổng thống Carter (một nhiệm kỳ 1977-1981) được giải năm 2002 vì trong thời gian làm tổng thống ông đã đóng góp vào giải pháp hòa bình giữa Do thái và Ai Cập và sau khi rời chức vụ tổng thống ông đã đóng góp nhiều vào việc thực hiện và duy trì hòa bình tại nhiều nơi trên thế giới.

Năm 1973 Ủy ban Hòa bình Nobel chính trị hóa giải hòa bình bằng quyết định trao giải cho Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, hai nhà thương thuyết đưa đến Hiệp Định Paris chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Thế giới bắt đầu nghi ngờ giá trị của giải. Mọi người đều biết ông Kissinger thương thuyết Hiệp Định ngưng bắn vì Hoa Kỳ đổi sách lược chứ chẳng phải vì hòa bình. Còn Lê Đức Thọ thương thuyết Hiệp Định ngưng bắn với ý đồ sẽ chiếm miền Nam bằng vũ lực sau khi Hoa Kỳ rút quân.

Trao giải cho Kissinger và Lê Dức Thọ Ủy ban Nobel hy vọng vì hào nhoáng của giải hòa bình Hà nội sẽ nghiêm chỉnh thi hành Hiệp Định Paris. Một ảo tưởng.

Đến năm 1994, Ủy ban Nobel chính trị hóa giải hòa bình một lần nữa khi trao giải cho ông Yasir Arafat, lãnh tụ Palestine, một tay khủng bố có thành tích, và hai chính khách Do Thái là Yitzhak Robin và Shimon Perez, những người làm hòa bình với định tâm chôn sống Palestine trong hòa bình. Ủy ban hy vọng giải hòa bình trao cho ba nhân vật trên sẽ thúc đẩy họ hòa giải và đem đến hòa bình cho Trung đông. Lại một ảo tưởng nữa.

Năm nay Ủy ban Nobel trao giải cho tổng thống Obama. Hơn ai hết dân chúng Hoa Kỳ ngạc nhiên trước nhất kể cả những người vốn ủng hộ ông Obama. Là một Thượng nghị sĩ trước khi ra ứng cử tổng thống Hoa Kỳ ông Obama chống việc khởi quân đánh Iraq. Nhưng đó chưa phải là thành tích. Và ở chức vụ tổng thống chưa đầy một năm ông Obama cũng chưa làm gì cụ thể để đóng góp và kiến tạo một nền hòa bình lâu dài cho thế giới .

Việc trao giải của Ủy ban Nobel một lần nữa là một quyết định chính trị. Phải chăng Ủy ban Nobel muốn dùng giải hòa bình để thuyết phục tổng thống Obama rút quân ra khỏi Afghanistan.

Việc rút quân hay đổ thêm quân vào Afghanistan lúc này là một quyết định sinh tử của Hoa Kỳ, và không thể vì cái hào nhoáng của giải Nobel 2009 mà Obama quyết đoán một cách vội vã được.

Cách tốt nhất của tổng thống Obama là từ chối nhận lãnh giải hòa bình Nobel do Ủy ban Nobel trao tặng để có tự do hành động theo quyền lợi của Hoa Kỳ.

Nhưng rất tiếc ông Obama đã tuyên bố nhận giải. Ông khiêm nhượng nói rằng Ủy ban trao giải cho ông chẳng phải vì thành tích cá nhân mà chỉ là một dấu hiệu thế giới chấp nhận sự lãnh đạo của Hoa Kỳ.

Hình như những người Na Uy trong Ủy ban Nobel đang say mê giấc mộng hòa bình và không thấy được cái thực tế chính trị của Hoa Kỳ.

Và một lần nữa dùng cái giải quốc tế quá “đát” của mình một cách vụng về.

Trần Bình Nam