Friday, September 25, 2009

Chính Danh -Sĩ Tỉnh

    Chính Danh
    (Chìa Khóa Cuộc Tranh Đấu Của Người Việt)
Sĩ Tỉnh

A. Học Thuyết.

Cách đây 2, 500 năm, nhà đại hiền triết Trung Hoa là Khổng Tử chu du thiên hạ, lưu lạc khắp nơi mong bình định các nước đang lâm chiến trong Thời Chiến Quốc. Ngài không có binh hùng tướng mạnh, không có vàng bạc châu báo, vậy mà ảnh hưởng của ngài bao trùm thiên hạ. Các đệ tử hỏi ngài làm sao Thầy tay không mà mong chi phối các vua quan, võ tướng, chính khách. Khổng Tử điềm nhiên trả lời: “Ta Dùng Chính Danh”. Các đệ tử ngơ ngác hỏi Chính Danh là gì, Thầy Khổng Tử nói vỏn vẹn “Gọi Đúng Sự Việc, Nghĩ Đúng Và Làm Đúng”. Đi đâu nhà hiền triết họ Khổng cũng đem “Chính Danh” ra thuyết giảng và áp dụng vào việc làm. Các triết gia thời đó công nhận rằng “Chính Danh” là học thuyết thực tiễn, hiệu quả, và có đủ sức bình định thiên hạ.

Suốt lịch sử mấy ngàn năm qua, thuyết Chính Danh vẫn còn đó, vẫn được một số Chính Trị gia đem ra thực hành, nhưng số người kiên nhẫn thì ít, khi chưa thấy hiệu quả nhiều người đã ngã lòng bỏ cuộc. Những người theo Võ Đạo thì cho rằng Chính Danh là học thuyết không thực tế, phải dùng tới sức mạnh của kiếm cung mới đổi được thời cuộc. Một số khác đánh giá Chính Danh là mơ hồ, không tưởng, không thể áp dụng vào thời buổi nhiễu nhương của thế kỷ mới, có lẽ trước đây vào thời sơ khai thì Chính Danh có hiệu lực, nhưng bây giờ học thuyết đó chỉ nói để chơi chứ không thể đem ra để Trị Quốc An Dân. Cũng có một số khác, kiên trì hơn, suốt đời theo đuổi Chính Danh trên con đường Lập Nghiệp, Tu Thân, Tề Gia và Trị Quốc, tuy có thành công phần nào nhưng vì thiểu số đạo đức bị chìm vào một đa số gian manh, bất chính, xã hội vẫn xáo trộn, bất an.

Ở bối cảnh xã hội Việt Nam trước đây, Chính Danh vẫn là một học thuyết đặt căn bản vào đạo lý, dùng lương tâm làm ngọn đuốc soi đường đưa người làm Chính Trị tới mục đích Tề Gia, Trị Quốc. Con Người Chính Danh, thấm nhuần Khổng Giáo, từng lãnh đạo đất nước chúng ta qua 9 năm giông bão là Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đã thành công đưa Chính Danh vào Quốc Sách trên mọi mặt Chính Trị, Xã Hội, Kinh Tế, Giáo Dục. Ông nâng Tứ Thư, Ngũ Kinh, tôn sùng đạo lý, chủ trương trị quốc, an dân bằng đường lối Nhân Trị thay vì Pháp Trị hay Bạo Lực Trị. Những sai trái mà người ta gán cho chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa thực ra là những lời cáo buộc dồn vào đám Đồ Đệ “Cần Lao” dưới Thời Tổng Thống Diệm chứ không phải những việc làm trực tiếp do ông chủ trương. Chính Danh là con đường đưa TT Diệm từ một hưu quan đi tới vai trò lãnh đạo, để từ đó đưa ông Tu Thân, Tề Gia, và Trị Quốc. Lịch sử đã đánh giá những năm cầm quyền của TT Diệm chính là bài thực dụng của Chính Danh, tuy có thành công trên mặt Tu Thân và Trị Quốc, nhưng có thể đã khiếm khuyết về Tề Gia mà đưa đến thảm bại.

Những guồng máy Chính Trị kế vị TT Diệm sau khi ông bị hạ sát có áp dụng Chính Danh hay không trong việc cai trị Miền Nam, giờ đây ai cũng lượng định bằng cách so sánh các nhà Chính Trị sau năm 1963 với người tiền nhiệm. Có những người cố mang thuyết Chính Danh vào việc làm nhưng không thành công vì trong lương tâm họ không có Chính Danh. Một số khác đôi lúc muốn chứng tỏ mình có Chính Danh để cầm quyền, nhưng cuối cùng vẫn để lộ một bộ mặt thiếu Chính Danh, thiếu Đạo Đức. Tuy vậy, những nhà cai trị Miền Nam từ 1963 tới ngày mất Miền Nam vào tay Cộng Sản vẫn không ai bị buộc tội là theo chính sách Bạo Lực Trị như nhóm cầm đầu Miền Bắc, những kẻ mà lịch sử không phải chờ lâu vẫn có thể kết án là Không Có Chính Danh, Vô Đạo Đức, Bất Chính và Bất Nhân. Đối với Cộng Sản dù ở Nga, ở Tàu, ở Cam Bốt hay ở Việt Nam, học thuyết Chính Danh không có chổ đứng, vì căn bản của Chính Danh là đạo lý, mà nếu không có đạo lý thì làm sao có Chính Danh? Vì không có Đạo Đức và không có Chính Danh mà Cam Bốt phải chịu cuộc tàn sát khủng khiếp nhất trong lịch sử của nhân loại tù 1975 tới 1979.

B. Hiện Tượng.

Người Việt Quốc Gia, sau cơn Hồng Thủy 1975, đã nhận ra rằng dù nghèo khổ, dù vất vả, dù lo âu, dù phải đương đầu với trăm ngàn cơ cực, cuộc sống Miền Nam trước 1975 vẫn còn tự do cho họ thở, cho họ nói, cho họ sống tự do, khác với cuộc sống của người dân Miền Bắc trong gông cùm Cộng Sản từ năm 1954. Hệ luận đó đã đưa chúng ta tới những kết luận khác trong suy tư Chính Trị rằng, dù có bất mãn với chế độ Miền Nam trước đây, cuộc sống Miền Nam vẫn hơn cuộc sống ở Bắc Việt. Ông Diệm, Ông Thiệu dù có xấu đến đâu cũng không tệ bằng Hồ Chí Minh, và người Lính Miền Nam dù có tệ đến đâu cũng không ác bằng thằng Lính Nón Cối. Khi biết được điều đó thì đã muộn, gần hai triệu Người Việt nhận được bài học chân lý đó sau khi nếm mùi Thiên Đường Xã Hội Chủ Nghĩa hoặc đã Bị Nướng 9, 10+ Năm Trong Trại Tù. Lúc đó người Miền Nam mới hiểu ra rằng các chế độ Miền Nam đã có Đạo Đức, có Chính Danh, dù không trọn vẹn.

Khi ra khỏi nước, sống một thời gian ở xứ người và làm quen với tình trạng vật chất, con Người Việt Nam thay đổi từ bên ngoài vào đến bên trong, từ diện mạo cho tới tư tưởng, và xa dần căn bản Chính Danh của luân lý Đông Phương. Người ta cho rằng Chính Danh không đem lại cơm áo, xe hơi, nhà mới. Người Việt bác bỏ Chính Danh và những nguyên tắc đạo lý căn bản để tập cho mình một “mác” mới về xã hội, về công danh, về đường lối suy tư. Một số quên rằng mình đã một thời sinh ra ở đất Việt, uống nước từ dòng sông Việt, ăn cơm từ cánh đồng Việt Nam, và tiếng khóc chào đời là tiếng Việt Nam. Đánh mất Chính Danh, họ đánh mất luôn đạo lý cổ truyền, để hồ hởi lột xác mình cho hết dấu vết Việt Nam, mong mình làm một người Mỹ, một người Pháp, một người Anh qua tên tuổi mới, quốc tịch mới, và một linh hồn lai căng mới Tất cả những suy tư trên đây đã được biểu lộ ra trên phương diện cá nhân, xã hội, Chính Trị và cả linh hồn.

1. Chính Danh Cá Nhân:

Chính Danh cá nhân nằm trong tên người, chúng ta mang từ lúc cha sanh mẹ đẻ. Tên người là một thứ căn cước cá nhân mang giòng máu huyết của giòng họ, của bộ tộc, của quê quán, của những hoài bảo ước mơ gia đình. Khi sinh ra, cha mẹ, ông bà mong con cháu đạt những thành quả được gói ghém trong tên khai sanh. Chúng ta không cần phải diễn nghĩa thêm ở đây, vì tên Việt Nam nào cũng có họ hay tên tộc, tiếp theo là tên đệm để bổ nghĩa cho tên riêng, họp lại thành một tên kép chứa đựng hy vọng của mẹ cha. Tên Việt Nam xuất xứ từ Văn Chương, có thể là Văn Chương Việt Hán, trong khi tên Anh ngữ, Pháp ngữ xuất xứ từ thánh kinh, có điển tích nhung không có ý nghĩa gì. Người Việt ra nước ngoài nhiều khi vì vọng ngoại mà thay tên mình bằng tên Mỹ, tên Pháp, và có người còn Vọng Ngoại đến độ thay đổi cả họ hay tên tộc, lấy cớ rằng cần đổi mới hay cho dễ đọc. Đây là những lý do ấu trĩ và thiếu Chính Danh, tự đồng hóa mình với những người sinh ra ở một phần đất khác không có đạo lý giống mình. Nhiều cha mẹ đã mắc phải lỗi lầm là chìu con cái khai tên trẻ sơ sinh bằng tên Mỹ hay đổi tên con khi nhập tịch, đẩy con cái vào Văn Hóa xa lạ và mất gốc, tưởng như vậy là Cấp Tiến.

Một số người khác, mắc Bệnh Vọng Ngoại, thường ghi tên mình theo lối Việt nhưng ký tên theo lối Mỹ, tạo một thứ Lai Căng Không Ra Voi, Không Ra Chuột. Đây là một số người mang tư cách lãnh đạo Tập Thể hay có thành tích tranh đấu và hướng dẫn Người Việt, nhưng tự đánh mất giá trị Đạo Đức và Chính Danh, đưa đến tình trạng người ký khác với người được ghi tên trong tin tức hay tài liệu. Không biết những Nhà Lãnh Đạo này, muốn ký tên theo Lối “Lai”, có đủ Đạo Đức để lãnh đạo người khác hay không, khi tên ông viết khác, chữ ông ký khác. Ở Miền Tây, lãnh tụ Hồ Anh Tuấn mang chữ ký là Tuấn Anh Hồ. Ở Miền Đông, Ông Nguyễn Mậu Trinh ký tên Trịnh Mâu Nguyễn. Hai vị này là lãnh tụ, có tên đăng khá thường xuyên trên báo chí, đồng bào biết nhiều, nhưng hai ông không nhận mình là Người Việt thì hai ông lãnh đạo ai? Có thể ông sẽ nói là người Mỹ ký như vậy. Vâng, Mỹ nó ký như vậy, ông là Người Việt thì cứ ký theo lối Người Việt được không? Và người Mỹ không có luật nào bắt buộc ông phải ký theo lối của họ.

Về Chính Danh Cá Nhân, chúng ta phải thắc mắc tại sao rất nhiều báo chí Việt, đăng tin cho Người Việt đọc, quảng cáo cho Người Việt mua, mà cứ phải đăng tên các chuyên viên Bảo Hiểm, Địa ốc, Thẩm Mỹ theo lối Mỹ? Người Mỹ đâu biết tới mấy ông bà mà ông bà cứ phải khai là Jane Tran, Peter Vo, Jennifer Lam, Scott Nguyen .... Quý Vị đăng quảng cáo Quý Vị là chuyên viên Việt Nam phục vụ Người Việt tận tâm như Quý Vị nói trong quảng cáo. Nếu Quý Vị đăng tên là Trần Kim Dung, Võ Phúc, Lâm Kim Tuyết, Nguyễn Ngọc Chung ... thì chắc chắn khách hàng Việt Nam tin tưởng vào sự phục vụ của Quý Vị hơn.

Về phương diện Chính Danh Cá Nhân, người viết xin tỏ lòng ngưỡng mộ giới y sĩ Việt Nam đã nêu gương sáng cho các giới khác khi Quý Vị ghi tên trên bảng quảng cáo y nguyên theo lối Việt. BS Phạm Hoàng Trung, ĐYS Dương Lai Cảnh, BS Hồ Tấn Phước, Nha sĩ Phạm Thị Thanh v.v…. Có vị còn ghi thêm dưới tên mình “Nguyên y sĩ Sư Đoàn ..., nguyên nha sĩ Bệnh viện ...” thật dễ thương và đáng thán phục hơn nữa là nhiều vị y sĩ mang tên rất mộc mạc, hoàn toàn Việt Nam, vẫn đăng đầy đủ như hồi con trong nước. Họ phục vụ bệnh nhân Việt, việc gì phải mang mầu sắc Mỹ Hóa, do đó các bệnh nhân rất thương mến, và đối với họ việc quảng cáo “Bác Sĩ Việt Phục Vụ Người Việt” là thừa.

2. Chính Danh Tập Thể:

Bước chân ồ ạt của hơn một triệu Người Việt tới Hoa Kỳ đã tạo nên một cảnh “Tạp Pí Lù” Đoàn Thể, Hiệp Hội, Tổ Chức, Cơ Quan Cộng Đồng, kể tất cả phải lên tới con số hàng ngàn, nhưng không ai giống ai, không hội nào thuộc về hội nào hay có liên hệ với một tổ chức nào. Một số hội không mệnh danh là hội mà lấy tên là “Gia Đình” cho vừa lạ vừa có vẽ thân thuộc. Một số tổ chức mang tên đầy lịch sử mà chỉ làm công tác ái hữu. Bên trên các hội, các nhóm, các đoàn lại mọc ra một số “Hội Nghị” hay “Nghị Hội”, Phong Trào, Mặt Trận, Chiến Dịch, rồi lại thêm một số Chính Phủ, Hội Đồng rập khuôn theo công thức chính quyền hồi còn ở trong nước. Hầu hết các tổ chức mang tên rất lớn, hoạt động một thời gian rồi “Ngủm” không kèn không trống và cũng chẳng ai thắc mắc hay đi đám tang. Tất cả chỉ là một Màn Kịch làm cho vui, Lấy Tiếng, và đôi khi Để Lấy Tiền.

Vì hầu hết các tổ chức Người Việt không có Chính Danh và không Định Hướng được mục tiêu, họ hoạt động lấy lệ, và rất tự hào. Niềm tự hào đó chỉ nằm trong Tự Ái, ai cũng muốn có một Hội Riêng mà mình làm Chủ Tịch chứ không muốn làm Phó cho một người khác để họ chỉ tay năm ngón. Ai cũng muốn có một danh xưng quan trọng để ký giấy tờ, mặc dù giấy tờ chỉ là mấy lá thư thăm hỏi nhau. Không Ông Chủ Tịch nào muốn đặt hội mình vào hệ thống một hội khác để làm việc cho hữu hiệu hơn, và càng lại không muốn hội mình mang cùng tên hội khác khi sáp nhập chung. Đây là bài toán thách đố mọi người làm Chính Trị thật sự, làm sao qui tụ được các hội vào một hệ thống, mang một danh xưng, chung một hướng đi, và chia một ngân sách. Hai mươi tám năm qua, chúng ta đã tự xé lẻ thành nhiều mảng nhỏ, yếu ớt rời rạc, chê bai nhau rất nặng lời. Bây giờ làm sao ghép lại hết thành một khối duy nhất để chung sức mạnh?

Chỉ riêng một danh xưng đã là vấn nạn không ai giải quyết được. Nếu tất cả mọi hội đều mang tên một danh xưng, thí dụ “Cộng Đồng Người Việt Tự Do”, “Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNTD” v.v... thì chúng ta mới biểu dương được sức mạnh của một tập thể gắn bó và đoàn kết. Hiện nay hiệp hội Việt Nam trên đất Mỹ, đất Pháp hay bất cứ một quốc gia nào có Người Tị Nạn cư ngụ là một rừng cây rậm rạp nhưng không có hoa, có trái, ai muốn “Ba Cây Chụm Lại Thành Hòn Núi Cao” quả là một việc đội đá vá trời. Gần ba thập niên qua, chưa ai làm được việc này kể cả mấy tổ chức tự xưng là “Nghị Hội Toàn Quốc” hay “Chính Phủ”. Nhiều người cho rằng càng nhiều hội càng tốt, điều đó có thể đúng khi nào nhiều hội mà cùng làm chung một việc, cùng mang chung một danh xưng, và cùng hướng về một mục tiêu. Tình trạng nhiều hội mà mỗi hội đi theo một hướng, chém vè nhau thì thật là vô vọng, chứng tỏ chúng ta không phải là một khối đồng nhất mà chỉ là một tập thể hỗn tạp, chia rẽ nặng nề. Do đó nhu cầu cấp bách hiện nay là làm sao để tất cả các tổ chức Người Việt Quốc Gia cùng mang một danh xưng và thống thuộc một hệ thống hàng dọc, có tôn tri trật tự, phục vụ một lý tưởng chung, chứ không thể phân tán hàng ngang một cách vô kỷ luật như hiện nay.

3. Chính Danh Văn Hóa:

Văn Hóa là sức sống của một Dân Tộc, với một nền tảng căn bản là truyền thống, ngôn ngữ, sinh hoạt, y phục, đồ ăn, cách sống và các định chế giáo dục, kinh tế, xã hội v.v.... Không có một tập thể nào mà không có Văn Hóa, và ngược lại không có một nền Văn Hóa nào không xuất phát từ một tập thể dù nhỏ, dù lớn. Điển hình cho Văn Hóa của bất cứ tập thể nào có lẽ nỗi bật nhất là ngôn ngữ, qua chữ viết, qua cách truyền thông, qua văn chương, báo chí và biểu tượng diễn đạt ý kiến và tư tưởng. Ngôn ngữ là chìa khóa chính để biểu lộ tâm tư, và cũng là chiếc xe chuyên chở những tâm tư ấy.

Việt ngữ, qua 4 thế kỷ từ ngày được phát minh, đã được kiện toàn và đạt tới mức tinh vi, huyền dịệu để làm một môi trường truyền đạt. Về cấu trúc, Việt ngữ có nhiều điểm tinh vi hơn các ngoại ngữ. Về âm thanh, Việt ngữ đứng trên mọi thứ tiếng khác nhờ hệ thống dấu mang một thứ hòa âm trong từng chữ mà không một ngôn ngữ nào trên thế giới có thể sánh được. Về từ ngữ, Việt ngữ có đầy đủ khả năng diễn tả mọi ý niệm dù phức tạp, dù trừu tượng. Về chuyên môn và kỹ thuật, Việt ngữ dựa vào danh từ Việt Hán để diễn tả mọi ý tưởng khoa học, toán học với đầy đủ chính xác. Thế mà, tới nay nhiều ngòi bút Việt ngữ vẫn coi thường Việt ngữ trong một mặc cảm tự ti rất buồn cười. Nhìn vào nhiều tờ báo, nhiều tài liệu, chúng ta vẫn thấy người viết dùng ngoại ngữ để diễn tả thay cho tiếng Việt, coi Việt ngữ như không đủ khả năng truyền Thông. Đây là một sai lầm lớn về Chính Danh Văn Hóa, khi người viết không coi trọng tiếng Việt mà chỉ coi trọng tiếng nước ngoài. Ngay đến lối viết tiếng Việt cũng đã bị pha trộn để thành lai căng, mất gốc.

Tại sao chúng ta đánh mất Chính Danh về Văn Hóa? Câu trả lời là một số Tác Giả, Phóng Viên, Ký Giả tới nay vẫn còn nghĩ tiếng Việt yếu kém, thiếu sâu sắc, thiếu hiệu lực diễn tả, cần phải có tiếng Pháp, tiếng Anh trợ lực. Một số khác có lẽ cho Pháp ngữ, Anh ngữ mới đủ sức diễn tả các ý niệm cao, các danh từ khó, vì tiếng Việt nông cạn, thô sơ. Họ lầm nghĩ rằng Anh, Pháp ngữ mới là ngôn ngữ của người trí thức học rộng biết nhiều, còn tiếng Việt là ngôn ngữ của giới bình dân hay người thất học. Không biết chúng ta có nên trách họ trọng người khinh mình, hay tội nghiệp họ vì bộ óc của họ lệch lạc vì vọng ngoại. Khi đọc một trang báo, thấy đầy rẫy tiếng Anh chua vào để diễn giải tiếng Việt, không ai không thấy bực mình, nhất là bài viết của một vài người trẻ, trong 1 trang có tới 20 tới 30 lần dùng Anh Ngữ. Nếu tác giả viết trên một tờ báo Việt tại sao phải cần tới ngoại ngữ? Nếu tác giả thích dùng ngoại ngữ thì tại sao không viết cả bài bằng ngoại ngữ và giao cho một tạp chí Anh ngữ đăng? Hơn 50 năm rồi mà ngày nay mấy bộ óc nô lệ vẫn còn sót lại, mà một số Người Việt vẫn không biết mình đang sĩ nhục tiếng mẹ đẻ vì tự đánh mất Chính Danh Văn Hóa.

Trên một bình diện khác, Chính Danh Văn Hóa đòi hỏi con người trung thành với các truyền thống tập tục của những thế hệ trước, trong đó có cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Đây là một đề tài tranh cãi vì nó có liên hệ tới Chính Danh Chính Trị. Đúng vậy, con người mang Chính Danh Văn Hóa giữ lối sống gắn bó với tinh thần dân tộc cổ truyền, không ai bị ảnh hưởng vì những lý thuyết ngoại lai mệnh danh là ý thức hệ. Một Dân Tộc nặng Chính Danh Văn Hóa mãi mãi ràng buộc mình với lề lối sinh hoạt có lâu đời đã được chứng minh là giá trị tinh thần của Bộ Tộc hay Quốc Gia. Những kẻ đánh mất Chính Danh Văn Hóa thường chạy theo tư tưởng mới, lối sống mới, ý thức hệ mới, ngụy trang dưới chiêu bài “Cách Mạng Văn Hóa” hay “Cách Mạng Bạo Lực”.

4. Chính Danh Chính Trị:

Đây là đề tài sôi nổi nhất trong trường hợp Người Việt chúng ta, nhất là khi Chính Danh Chính Trị có phần nào trùng hợp với Chính Danh Văn Hóa.

Ở Việt Nam trước ngày 30/4/75, dân ta có Chính Danh Văn Hóa và Chính Danh Chính Trị, với những nét đặc thù của dân tộc tính, và một chính thể dựa trên căn bản Nhân Trị. Bắc Việt, kể từ 20/7/54, không hề có Chính Danh Văn Hóa mà cũng chẳng có Chính Danh Chính Trị, vì nhóm lãnh đạo Miền Bắc bỏ hầu hết những truyền thống của tổ tiên để quân sự hóa dân chúng phía Bắc Vĩ Tuyến 17, du nhập chủ thuyết Cộng Sản từ Nga và Trung Cộng để mê hoặc đàn cừu. Miền Nam, dưới chế độ tự do đầy đủ, sống với một guồng máy điều hành hoạt động trên luật pháp lấy chữ “Nhân” làm gốc để giáo huấn hơn là trừng phạt con người. Guồng máy đó chỉ thay đổi phần nào kể từ 1/1/60 khi cái Quái Thai do Hà Nội đẻ ra là “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” ra đời, xé bỏ Hiệp Định Geneve để phá rối an ninh công cộng, đàn áp nông thôn, mong nuốt giải đất Miền Nam Vĩ Tuyến 17, và nuốt thật vào năm 1975. Đối với Cộng Sản, không cần Chính Danh Chính Trị mà chỉ cần cái gọi là “Đạo Đức Cách Mạng, Lấy Bạo Lực Và Gian Trá Làm Nồng Cốt”.

Nhưng Chính Danh Chính Trị là gì? Nó bắt nguồn từ Chính Danh Văn Hóa và nếu không có CHÍNH DANH Văn Hóa thì không có CHÍNH DANH Chính Trị. Hai ý niệm này song song với ý niệm “không có lửa thì không có khói”. Ở trường hợp Người Việt Lưu Vong, CHÍNH DANH Chính Trị đòi hỏi sự gắn bó với dân tộc tính, với chính thể tự do, với lập trường Quốc Gia Không Cộng Sản, và với danh nghĩa của Người Tị Nạn Cộng Sản. Muốn có CHÍNH DANH Chính Trị, chúng ta cần phân biệt giữa Quốc Gia và Cộng Sản, giữa Vàng với Đỏ, giữa Trắng với Đen, giữa Dân Tộc Tính và Đảng Tính, và quan trọng hơn hết, điều kiện cần phải có là Chính Danh Văn Hóa. Trong một tập thể hỗn tạp, phân tán như sắc dân Việt lưu vong như hiện nay, nhiều người không phân biệt đâu là Xanh đâu là Đỏ, không biết ai là Cộng Sản ai là Quốc Gia, không nhìn thấy đâu là Chính Danh đâu là ngụy danh, cứ nhắm mắt heo thời kiểu “Tới Đâu Hay Tới Đó”. Đây là một trạng thái đáng lo ngại, thường xảy ra trong những năm đầu của kỷ nguyên lưu vong, nhưng tưởng ba thập niên qua cũng là quá đủ để chúng ta ý thức lại vấn đề Chính Danh Chính Trị này:

a. Phân Biệt Vàng Đỏ: Bỏ nước ra đi, chúng ta có xác định được mình ở thế đứng nào không? Về Văn Hóa, chúng ta tự nhận là Người Việt, nhưng về Chính Trị, xác nhận thế là chưa đủ. Một Người Mỹ cứ nghĩ rằng mọi Người Việt đều giống nhau vì người nào cũng mũi tẹt, da vàng, nói tiếng Việt. Đây là điều ngộ nhận trong những bộ óc, con mắt mù lòa của Người Ngoại Quốc vì họ không biết ai là Người Việt theo Cộng Sản và ai là Người Việt Chống Cộng Sản. Bổn phận của chúng ta là phải xác nhận mình thuộc khối Người Việt nào, chú không thể chỉ nói tôi là Người Việt. Quý Vị là Người Việt Vàng hay Người Việt Đỏ. Quý Vị là Người Miền Nam Tị Nạn Chính Trị ở Nước Ngoài, hay Quý Vị là cán bộ Cộng Sản đi sang đây làm gián điệp. Trên ngực áo Quý Vị có đeo một Lá Cờ Vàng để tự xác định thế đứng Chính Danh Chính Trị của mình mà không cần giải thích? Xin Quý Vị nói với người ngoại qưốc nào hỏi, “Tôi là Công Dân Việt Nam Cộng Hòa, không phải là Người Việt Hà Nội” Một cách bình dân, xin Quý Vị nói với bạn bè Quý Vị (nếu là người sinh quán Bắc Việt) “Tôi là Bắc Kỳ 9 Nút, không phải loại Bắc Kỳ 2 Nút”. Như vậy Quý Vị mới nêu rõ được Chính Danh Chính Trị của Người Việt Quốc Gia.

b. Nhận Diện Màu Đỏ: Năm 1979, Đặng Tiểu Bình, muốn cứu Trung Hoa lục địa ra khỏi vòng cô lập của thế giới, đã đổi danh xưng Trung Cộng thành Trung Quốc qua câu nói rất hóm hỉnh: “Mèo trắng mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột”. Sau đó cả thế giới bị lừa, Trung Cộng vẫn là Trung Cộng, tôn thờ Mác/Lê Nin, nhưng du khách quốc tế đổ vào Trung Cộng để giúp kinh tế Trung Cộng sống lại sau mấy thập niên lụn bại vì bị thế giới lãng tránh. Người Việt nhẹ dạ cũng đã lầm, kể cả báo chí, các đài TV, phát thanh, gọi xứ Cộng Sản Tàu là Trung Quốc, nghe rất hiền lành và vô thưởng vô phạt. Cái tai hại là Trung Cộng dấu được cái đuôi đỏ để vồ tiền thế giới, và giờ đây thế giới vẫn đổ tiền vào Trung Cộng làm giàu cho kẻ thù vĩ đại đã tàn sát không biết bao nhiêu triệu người và đở đầu cho thằng Cộng Sản Đàn Em ở Hà Nội. Không có Trung Cộng thì làm sao Bắc Việt thành Cộng Sản và xâm chiếm Miền Nam? Thậm chí có cả Người Việt đem tiền vào thăm Trung Cộng để làm giàu cho kẻ thù. Quý Vị ơi, trên thế giới này không có nước nào là Trung Quốc, chỉ có Trung Hoa Dân Quốc ở Đài Loan là đồng minh với VNCH trong cuộc chiến vừa qua, còn Trung Cộng là kẻ thù của VNCH. Vì nó mà VNCH bị khai tử. Quý Vị đem tiền vào giúp Trung Cộng thì Quý Vị còn Chính Danh Chính Trị không?

c. Thành Phố Ma: Báo chí Việt Ngữ khi loan tin tức ở trong nước, vẫn ngây thơ gọi Sài Gòn là “Thành Hồ”, tưởng như vậy là dí dõm hay hài hước. Có một số bài báo gọi đích danh Sài Gòn là TP/HCM vì theo bản tin từ VN gởi qua, đăng “Nguyên Con” một cách vô tội vạ. Thật ra đây là một điều tai hại khôn lường, giúp người đọc lâu dần quên rằng quê hương chúng ta vẫn nằm trong tay Cộng Sản và cho rằng Cộng Sản “Ngày Nay Khác Cộng Sản Ngày Xưa”. Những người viết bài đã phạm một lỗi lầm lớn là vi phạm Chính Danh Chính Trị, không hướng dẫn độc giả mà còn tiếp tay tuyên truyền cho một chế độ ma quỉ bên ngoài trông hiền lành nhưng bên trong độc ác, bạo tàn. Ở trong nước, Cộng Sản kê lưỡi dao vào cổ, người dân bắt buộc phải đổi tên Sài Gòn thành tên Con Cáo, nhưng ở đây, tại sao Quý Vị đánh mất lương tâm để tàn nhẫn gọi tên thành phố yêu quí của chúng ta là Thành Phố Ma? Một lần tôi đã nghe, trong một buổi lễ, vị linh mục đọc tên TP/HCM rồi sau đó, bị giáo dân chất vấn, biện luận rằng tên đó nằm trong chỉ thị của Tòa Thánh. Ôi Tòa Thánh nào bắt Quý Vị gọi Sài Gòn là Thành Phố Ma trên đất Mỹ này? Ở đây nếu Quý Vị cứ gọi Sài Gòn thì Tòa Thánh nào phạt Quý Vị không?

d. Tướng Của Ai: Người Việt ở Nước Ngoài rất vô tâm khi đề cập tới một số tên Cộng Sản Gộc, có tăm tiếng, không minh định rõ bọn này, dù phản tỉnh hay ngoan cố vẫn là Cộng Sản. Báo chí một đôi khi loan tin “Thủ Tướng Võ văn Kiệt, Trung Tướng Trần Độ, Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh, v.v...” coi như những tên này là thủ tướng, trung tướng, tổng bí thư của mình. Cách viết danh xưng hay nêu tên này rất quan trọng và khi nào mình chấp nhận nó người viết mới đặt chức vụ hay cấp bậc trước tên. Ngược lại, nó là Cộng Sản, Cấp Bậc hay Chức Vụ của nó chỉ là để phía sau, hay không cần nhắc tới. Một số báo chí Việt ngữ đã rất thận trọng và chính xác khi loan tin về Cộng Sản và đặc biệt không chấp nhận vai trò của những tên Cộng Sản này. Nhiều bản tin ghi “Trần Độ, Tướng CS”, “Thủ tướng CS Võ Văn Kiệt”, hay “Mai Văn Bằng, Đại sứ CSVN” v.v.... Điều này cho thấy người viết bản tin có Chính Danh Chính Trị, không chấp nhận Hệ Thống Cấp Bậc của CSVN khi viết tin. Trong khi đó một số báo chí khác vẫn nhập nhằng ghi chức vụ và cấp bậc của mấy tên Cộng Sản y hệt như khi loan tin tướng lãnh, viên chức chính phủ VNCH. Những người viết tin như vậy Coi Vàng Cũng Như Đỏ, CSVN cũng như chính thể VNCH, còn họ đứng giữa. Có thể họ không nhận thức được kỹ thuật viết tin để biểu lộ lập trường Chính Danh của mình.

e. Giải Phóng Hay Xâm Lăng: Tới nay, 28 năm qua, vẫn còn có người gọi ngày 30/4/75 là “Ngày Giải Phóng”. Không biết những người này có mắc bệnh tâm thần không, nhưng trong số này có cả một số cựu Sĩ Quan từng bị Cộng Sản bắt nhốt hàng chục “Mùa Thu” trong Trại Tù BV. Vài người trước đây không bị tù đầy, quen miệng vì nghe người khác nói “Giải Phóng” ở ngoài chợ thì có lẽ chúng ta không lấy làm ngạc nhiên, nhưng chữ “Giải Phóng” phát ra từ miệng một ông cựu Đại úy, hoặc Thiết tá, ăn bo bo mút chỉ ở Lạng Sơn, Cao Bắc Lạng, khi về mất cả vợ con, thì thật là một hiện tượng quái đản không ai chấp nhận được. Điều đáng ngạc nhiên hơn là khi có người gọi ngày 30/4/75 là “Giải Phóng”, người nghe vẫn thản nhiên không cải chính, không sửa lưng mà vẫn thản nhiên chấp nhận coi như không nhằm nhò gì. Hiện tượng này trước đây xảy ra rất thường xuyên nhưng nay tuy đã bớt, vẫn còn đôi khi xuất hiện, một phần vì người nói thiếu ý thức và Chính Danh Chính Trị, và người nghe bàng quan không muốn than phiền để làm mất lòng người khác, nhất là khi người đó từng là Sĩ Quan Cấp Tá “từng 10 năm đốn gỗ trên rừng”. Điều nhục hơn nữa là chính bây giờ Cộng Sản đã thú nhận xâm lăng Miền Nam, mà Người Miền Nam vẫn còn quen miệng gọi là “Giải Phóng”.

f. Tù Hay Cải Tạo: Cảnh tù đầy ở VN sau ngày Cộng Sản xâm chiếm là một hiện tượng cả thế giới đã biết, đã công phẫn. Báo chí quốc tế vẫn gọi rõ những “goulag” Việt Nam là các Trại Tù, Trại Tập Trung, giống như những địa điểm Đức Quốc Xã nhốt và tiêu diệt dân Do Thái hay quân đội Đồng Minh Thời Đệ Nhị Thế Chiến. Thế mà chính Người Tù từ những cõi chết này trở về lại gọi đó là “Trại Cải Tạo”, và những năm họ bị nhốt trong Trại Tù là “Thời Gian Học Tập”. Một số Sĩ Quan và Viên Chức chính quyền VNCH dường như trước đây không biết hay không đọc Hiệp Định Paris, trong đó có ghi rõ rằng phe Bắc Việt không được phép bắt tù các thành phần Quốc Gia Miền Nam. Để tránh chữ “Bắt Tù” và bịp thế giới, CSBV đổi các Trại Tù thành “Trại Cải Tạo” để đánh lừa dư luận và cho quốc tế thấy chúng tuân hành Hiệp Định 1973 về Việt Nam. Một số SQ/QLVNCH đã bị sập bẫy tuyên truyền của Công An, kể cả một ông SQ cao cấp là Đại Tá Nguyễn Thu Lương, trong cuốn phim “Người Lính”, gọi thời gian đi tù “Là Thời Gian Cải Tạo” và Trại Tù là “Trại Cải Tạo”. Ngược lại, Đại Tá Võ Công Hiệu, trong bộ phim “Hành Trình Tìm Tự Do”, khẳng định là ông Đi Tù, không hề nhắc tới chữ “Cải Tạo”. Trong đầu hai vị SQ cao cấp này, một từng là Lữ Đoàn Trưởng Dù, một là Trung Đoàn Trưởng Bộ Binh, ý niệm Chính Danh Chính Trị thực sự đã đứng giữa Bóng Tối và Ánh Sáng.

g. Cố Tình Hay Vô Tình: Kể từ bắt đầu Thập Niên 90’s, Người Tị Nạn Việt Nam, một số thành phần Quốc Gia, Cựu Tù Nhân Chính Trị đã đánh mất thế đứng Chính Danh của mình trước dư luận quốc tế, rơi vào cái bẫy đổi mới và mở cửa của bọn gian manh Bắc Việt. Khi CSBV đói gần chết, cạn kiệt ngoại tệ, và bị Bố Liên Sô bỏ rơi, nó tung đòn “Mở Cửa” để chiêu dụ Người Việt Hải Ngoại. Những con người ngây thơ một lần bỏ nước hy sinh mạng sống ra đi trên biển cả, trên đường bộ, lũ lượt kéo nhau về thăm quê cũ, lấy cớ rằng bố sắp chết, mẹ đau, con cưới vợ, cháu lấy chồng, ồ ạt áo gấm về làng. Trước 1990, số người về tuy có nhưng ít xuất phát từ Mỹ mà chỉ từ các quốc gia Âu Châu hay Úc. Thập Niên 90’s mở màn, CSVN tung thêm chưởng để Mồi Chài Người Tị Nạn có quốc tịch Mỹ về làm ăn, buôn bán, nhưng thực ra chẳng làm ăn được gì, có người sau đó phải bỏ của chạy lấy người. Thế mà vẫn có dân Việt Hải Ngoại Huênh Hoang “Áo Gấm Về Làng”, để nhận lấy chiêu bài đĩ điếm mà Cộng Sản tặng cho ngày bỏ nước ra đi. Ngồi trên chiếc ghe ọp ẹp giữa biển khơi tưởng sắp làm mồi cho cá mập, họ thề rằng không bao giờ họ về với Cộng Sản. Nhưng chỉ một thập niên, chính những con người từng “Bỏ Phiếu Bằng Chân” để tố cáo CSVN với thế giới lại có mặt ở Sài Gòn, ăn chơi phè phởn, ôm gái ở khách sạn, hay xây nhà xây cửa cho vợ hai ở Biên Hòa. Họ cố tình hay vô tình về để ủng hộ Cộng Sản? Người Tị Nạn, hay Cựu Tù Chính Trị, về thăm đường xưa lối cũ đều biện bạch rằng: “Không, tôi về vì gia đình, vì nhà cửa, tôi không ủng hộ Cộng Sản”. Lời biện bạch mới nghe có vẽ hiền lành lương thiện ấy chẳng che dấu sự thực, một sự thực phũ phàng: Trong số tiền vé máy bay từ ngoại quốc về Việt Nam từ 800 dollars tới 1500 dollars 10% được nộp vào túi Đảng Cộng Sản Việt Nam, cho Võ văn Kiệt, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh mua nhà ở Pháp, gửi tiền ở Thụy Sĩ, gởi con đi du học ở Mỹ, nuôi gái ở Nhật .... Số tiền khổng lồ ấy do Người Tị Nạn tặng cho Đảng đã được dùng để mua súng ở Trung Cộng, để mua tăng ở Nga, mua hoả tiển ở Tiệp, để nuôi quân ở Lào, ở Cam Bốt, để lập toà lãnh sự ở San Francisco, để lập cửa hàng thương mãi cho Đảng ở Los Angeles, để thực hiện phim tuyên truyền gửi ra cho các tiệm sách báo ở Paris, ở Praque, ở Toronto, ở New York. Tiền súng tiền tuyên truyền, tiền cho con đi học ở ngoại quốc là tiền của Quý Vị đấy. Cả số tiền khổng lồ dành cho Công An bắt nhốt và theo dõi Quý Vị cũng là tiền của Quý Vị đấy. Cái còng tay mang nhãn hiệu Made in USA để bắt nhốt BS Nguyễn Đan Quế, Ông Võ Đại Tôn, Bà Dương Thu Hương v.v... đều đã được mua bằng tiền của Người Tị Nạn Hải Ngoại đóng góp qua vé máy bay, tiền điện thoại, gửi tiền v.v….

Quý Vị có lẽ vô tình không nhận thức rằng trong các Quốc Gia Á Châu và Đông Nam Á, giá điện thoại gọi từ ngoại quốc về Việt Nam cao nhất. Quý Vị gọi thăm cha mẹ, anh em, con cháu là điều Quý Vị nghĩ tới, nhưng mỗi luồng sóng trên đường giây cũng mang vào cho Đảng một khoảng tiền mà Quý Vị không bao giờ nghĩ tới. Nếu có Chính Danh Chính Trị, Quý Vị sẽ nhận ra rằng tại sao từ một quốc gia Âu Mỹ vào Đông Nam Á, kỹ thuật cũng như nhau mà giá điện thoại vào VN cao gấp đôi nước khác. Thưa vì, trong cái thế giới mờ ám ở Việt Nam, đường giây điện thoại là một kế hoạch kinh doanh lợi hại của Đảng Cộng Sản. Từ Mỹ đi Đài Loan, Nhật, Singapore luồng sóng điện thoại đi từ vệ tinh xuống tổng đài một cách công khai, ngay thẳng. Nhưng cái đường giây từ Mỹ, từ Pháp, từ Canada về Việt Nam nó chui xuống gầm bàn rồi chạy vào phòng họp của Bắc Bộ Phủ, sau vào túi Đảng, để Đảng mua Súng Đạn, mua Xăng Nhớt, mua Biệt Thự, mua Sâm Cao Ly, mua Nhà Bắc Mỹ.

Một số đông những Cựu Tù Chính Trị Việt Nam, 28 năm sau ngày gãy súng, đã đánh mất lập trường và có người đánh mất cả liêm sĩ, quên nhìn gương những Cựu Tù Chính Trị Cuba, Bắc Hàn, Nga, BaLan v.v.... Trong lịch sử thế giới sau Đệ Nhị Thế Chiến, chưa có người Cựu Tù Chính Trị CuBa, Bắc Hà, Nga, Ba Lan trở về quê cũ để sống, để làm ăn hay chỉ thăm gia đình, nơi mà Cộng Sản còn cầm quyền. Họ chỉ trở về sau ngày tàn của Cộng Sản ở Đông Âu và bức tường Bá Linh bị dân Đông Đức đập bỏ, cũng như những guồng máy bạo quyền ở Đông Âu trở thành gạch vụn của quá khứ. Họ có thể tự hào nói với thế giới họ là những người không chấp nhận chủ thuyết Cộng Sản ở quê hương họ hay bất cứ nơi nào, và không thể nào trở về dưới gông cùm của kẻ thù. Có người Cựu Tù Chính Trị Việt Nam sẽ nói rằng: “Tôi về quê hương, tôi không về với kẻ thù”. Đó là một thứ luận điệu ấu trĩ mà người Cựu Tù Cu Ba, Nga, Đông Đức không chấp nhận. Ông về thăm một xứ Cộng Sản, dù là quê cũ của ông, ông phải xin Cộng Sản chấp thuận đơn xin Visa của Ông, nghĩa là ông chấp nhận bạo quyền Cộng Sản, ông phải nộp tiền lệ phí xin Visa cho Đảng Cộng Sản, ông chi tiền máy bay để 10% từ đó đi vào túi Đảng. Dù ông không biết hay không muốn biết, ông đã trực tiếp hay gián tiếp nuôi cái Đảng Cướp ngày xưa muốn giết ông, đốt nhà ông, sát hại đồng ngũ của ông và có thể kể cả cướp người đàn bà trẻ ngày xưa là vợ của ông. Bây giờ ông về sống dưới bàn tay tên cướp đó, nhận nó là Chính Quyền của ông, đóng tiền nuôi cả nhà nó thì ông còn liêm sĩ hay không? Ông từng là Sĩ Quan,QLVNCH, từng là thành phần chính quyền VNCH, ông có đọc được bài học liêm sĩ từ những ngượi tù Chính Trị Ba Lan, Tiệp Khắc, Nga Sô, Đông Đức không?

h. Chính Danh Dân Tộc: Đây mới là chủ điểm trong học thuyết Chính Danh của Khổng Tử, bậc thầy của mọi suy tư luân lý Chính Trị. Chính Danh Dân Tộc là một nền tảng trên đó xây dựng mọi thứ Chính Danh khác như Chính Danh Cá Nhân, Chính Danh Văn Hoá, Chính Danh Chính Trị v.v…. Chính Danh Dân Tộc là nền móng một căn nhà trên đó có những cây cột để phân thành những Chính Danh phụ thuộc và nếu không có Chính Danh Dân Tộc, các nguyên tắc Chính Danh khác không có điểm tựa để tồn tại. Tại sao Chính Danh Dân Tộc quan trọng đến độ ấy?

Sự quan trọng của Chính Danh Dân Tộc tiềm tàng trong đời sống căn bản của mỗi người, vì không có cá nhân nào không thuộc vào một bộ lạc, một sắc dân, một xã hội, dù xã hội đó bán khai hay tân tiến. Cá Nhân là cây, Dân Tộc là rừng. Cá Nhân là Cá, Dân Tộc là Nước. Đó là tương quan vật lý, nhưng theo đó còn tồn tại tương quan tâm lý mà con người biết rằng mình không phải là một sinh vật lẻ loi mà tuỳ thuộc vào một tập thể trong đó có một lưu thông hai chiều: Cá Nhân nhận ảnh hưởng của Tập Thể, và Tập Thể tạo nên Sức Mạnh từ nhiều Cá Nhân. Cùng trong sự lưu thông đó, Cá Nhân phải chia xẻ những vấn đề chung của Tập Thể, để được trở thành một thành phần cuả Tập Thể đó. Những Cá Nhân không chia xẻ các vấn đề chung của Tập Thể là những Cá Nhân lạc lỏng, bơ vơ, vô lương tâm hay đã bị Tập Thể đào thải. Cũng có những Cá Nhân tưởng mình không cần tới Tập Thể và muốn tự đào thải vì những quyền lợi đi ngược lại với quyền lợi của Tập Thể.

Dân Tộc ta quằn quại một trăm năm dưới gót giầy của thực dân, và ngất ngư hơn nửa thế kỷ trong gông cùm của loài ma quỉ đó. Quảng thời gian dài hầu như vô tận và đau thương đã làm cho Dân Việt gắn bó với nhau để chung sống, tồn tại, và vươn lên. Vì mọi Người Việt đều chia xẻ với nhau những thương đau của lịch sử, chúng ta đã có câu nói ngàn đời còn vang bên tai biểu lộ sự gắn bó này, đó là châm ngôn: “Một Con Ngựa Đau, Cả Tàu Không Ăn Cỏ”. Châm ngôn đó nói lên một điều là không một Người Việt nào thấy đồng loại rơi vào thảm cảnh mà không mũi lòng, như một chuồng ngựa ngưng ăn chỉ vì một con ngã gục. Dưới Thời Bắc Thuộc, chúng ta chia cuộc sống khốn cùng của người bị ngoại thuộc, đến Thời Pháp dân ta cưu mang nhau để tìm ngày vùng dậy, lịch sử đã chứng minh. Ngày nay, khi 80 triệu người còn nghẹt thở trong Cơn Hồng Thủy ở quê nhà, chúng ta còn nhiều người thờ ơ đến độ vô liêm sĩ, vẫn chủ trương “Sống Chết Mặc Bay” vì gia đình mình còn may mắn. Họ biết chỉ họ may mắn là đủ, những người khác dù bất hạnh cũng không làm họ mũi lòng. Họ không có mối thù nào với Cộng Sản, vì họ cho rằng Cộng Sản chưa làm gì đụng đến cuộc sống của họ và gia đình. Gần 30 năm trước, khi lớp người vượt biển tìm tự do hy sinh mạng sống trên biển cả hay giữa vùng tử địa Cam Bốt, họ vẫn ung dung vì họ và gia đình họ đã thoát nạn, ung dung ở xứ người.

Một ngày đẹp trời nào đó, họ ung dung dẫn vợ con, họ hàng về Việt Nam chơi. Họ chơi cái gì Quý Vị thừa biết. Họ Đóng Cảnh “Áo Gấm Về Làng” để khoe những thành công gặt hái được nơi xứ lạ, vụ này cả nước đã nghe rồi. Nhưng một ngày đẹp trời nào khác, họ ung dung tìm một nơi ăn nhậu thật vui và dẫn nhau đi vào một Nhà Hàng Thái để ăn món lạ thay cho đồ Việt dùng hàng ngày. Ai không có Chính Danh Dân Tộc chắc hẳn sẽ ngồi thưởng thức những món ăn độc đáo của một tiệm Thái Lan, quên rằng 28 năm trước đó, đại hoạ lớn nhất cho Người Việt đi tìm tự do trên biển cả chính là Người Thái, những Ngư Phủ dã thú đội lốt người, hoành hành trên vùng Biển Đông chờ những con thuyền ọp ẹp trên đó đầy vàng và phụ nữ trẻ đẹp. Biết bao nhiêu thanh niên đã bỏ xác dưới biển, biết bao trẻ em bị quăng xác xuống làm mồi cho cá, biết bao phụ nữ Việt Nam chịu nhục nhã dưới bàn tay sát nhân của Ngư Phủ Thái, và chính họ, sau khi tấm thân bị nhơ nhuốc vì bọn Ngư Phủ Hải Tặc, cũng bị ném xuống biển, hay chồng họ bị mã tấu chém ngang cổ vì ra tay bảo vệ vợ con. Ngày nay, Người Việt thản nhiên ngồi nuốt đồ ăn Thái, quên đi những cực hình bi thảm của Dân Tộc ta trong những ngày dài của 10 năm dân ta chập chờn giữa cảnh chín chết một sống ở Biển Đông mà Ngư Phủ Thái là thủ phạm. Hồi đó, chính dân Thái làm ngơ cho Ngư Phủ Thái hoành hành, chính quyền Thái nhắm mắt cho hải tặc hốt của và hiếp gái Việt, trả thù món nợ lịch sử gần một ngàn năm trước. Đến Sư Sãi Người Thái cũng lặng thinh, không cần biết đến thảm cảnh Biển Đông mà dân Thái, mặc dù tự xưng là con Phật, đòi nợ máu Dân Việt Tị Nạn.

Nếu suy rộng ra, Chính Danh Dân Tộc là một tổng hợp của lịch sử, của Văn Hoá, của các truyền thống, và của mọi sắc thái dân tộc tính. Vì không có Chính Danh Dân Tộc nên mới có Người Việt theo Cộng Sản và đổi Dân Tộc thành Đảng Tộc, coi Các-Mác là Tổ Tiên. Vì không có Chính Danh Dân Tộc nên mới có Chủ Thuyết Ngoại Lai du nhập vào xứ sở đổi con Người Việt Nam thành Mác-Xít, thành Hippi, thành Đợt Sống Mới, thành Hiện Sinh, thành Đệ Tam, Đệ Tứ Quốc Tế, thành Cao Bồi, thành Henry, John, Ronald, Mary, Jean, Elizabeth, thành đủ thứ lai căng, mất gốc, nhi nhô, ngoại nhập, nửa đực nửa cái không ra thể thống gì. Có người mất Chính Danh Dân Tộc còn cố biện bạch và vin vào Tôn Giáo để bào chữa. Một ông ở Cali vừa tạ thế, con cái đăng cáo phó cho cha mới khuất là Nguyễn ..., “Thánh danh Robert”. Xin Quý Vị coi lại thánh kinh xem có vị thánh nào tên “Robert” không. Đây chỉ là một trường hợp điển hình của những Bộ Óc Vọng Ngoại đi ngược lại nguyên tắc Chính Danh Dân Tộc nhan nhản trong Tập Thể Người Việt ở Hải Ngoại. Nhiều vị phụ huynh đánh mất Chính Danh Dân Tộc, hồ hởi đặt tên con theo tiếng Mỹ, cho con cái nói tiếng Anh trong nhà để mau trở thành Mỹ. Đến khi con cái hư hỏng, đối xử tệ bạc với cha mẹ thì mới biết rằng nó sống theo lối Mỹ và lúc đó thì đã muộn.

C. Kim Chỉ Nam Chính Danh:

Đã ba thập niên qua rồi, lịch sử thế giới đã chứng tỏ được sự thật và những huyền thoại về Cuộc Chiến Việt Nam, một cuộc chiến chính đáng và hợp đạo đức con người, trừ khía cạnh của Người Cộng Sản. Người Việt Tị Nạn, nhất là những người đã từng nếm mùi trong các trại khổ sai sau tháng 4/1975 đã mang được tiếng nói Chính Nghĩa. Chính Danh trải khắp Bốn Biển, Năm Châu để thức tỉnh lương tâm thế giới. Ngay cả một số Nhà Văn, Nhà Báo, Học Giả Ngoại Quốc trước đây từng ủng hộ Hà Nội cũng đã sám hối, tiếp tay tuyên dương thế đứng Chính Danh của Người Việt Hải Ngoại. Nhưng bên trong tập thể chúng ta, một số người vì u tối, vì quyền lợi, vì tình cảm, đã cố tình hay vô ý thức đánh mất Chính Danh, từ Chính Danh Cá Nhân, Chính Danh Tập Thể, tới Chính Danh Văn Hoá, Chính Danh Chính Trị, và Chính Nghĩa của Đại Đa Số Người Việt.

Chính Danh, học thuyết từng chứa đầy trong hàng ngàn cuốn sách, hàng triệu bài viết, từng chi phối hàng ngũ Chính Trị gia từ thời nước Tàu lập quốc và qua những thời đại mới sau này, không thể được diễn tả đầy đủ trong mấy trang báo nhỏ. Dù sao, nó vẫn là Kim Chỉ Nam cho mọi cuộc tranh đấu, Khuôn Vàng Thước Ngọc cho mọi bàn tay cầm vận nước hay vận mệnh một Tập Thể, một Phong Trào Tranh Đấu Văn Hoá, Chính Trị như cuộc tranh đấu của Người Việt Hải Ngoại trong ván bài của lịch sử hiện nay. Niềm đau mất nước sau cuộc chiến vẫn là niềm đau không nguôi chung của hai triệu người bỏ xứ ra đi và hơn 80 triệu dân còn mất tự do dưới chế độ mọi rợ của những người cầm quyền xuất xứ từ hang Pắc Bó. Niềm đau ấy theo thời gian vẫn tăng cường độ cho một người còn nuôi Chính Danh và chung thuỷ với dân tộc tính, nhưng sẽ phai lạt dần với những người đã đánh mất Chính Danh dù Cá Nhân hay Tập Thể. Lớp người này tuy mang hình dáng Con Người, nhưng cuộc sống của họ là lằn da con Cắc Kè ở bờ dậu, thấy lợi là Đổi Màu.

Giữa cảnh xuân sắp sang lần thứ 34 ở quê người, tôi chỉ xin gửi tới Quý Vị lá thư Chính Danh để cùng suy ngẫm, không phải để mua vui, mà để chúng ta Cùng Sám Hối với Tổ Tiên, với Đất Nước, nhất là đối với những Người Đã Nằm Xuống vì Chính Nghĩa và Chính Danh. Dù là Anh Lính không cấp bậc, anh Dân Vệ mộc mạc ở xóm làng, hay một Người Dân không tên tuổi, những Người Nằm Xuống vì Chính Danh vẫn là những Người Hùng, những Kẻ Sĩ thực sự đóng được vai trò Kẻ Sĩ của Luân Lý, của Đạo Đức, của Chủ Nghĩa Quốc Gia, của Chính Nghĩa và Chính Danh. Chính Danh đi đôi với Chính Nghĩa, và chỉ khi nào chúng ta giữ được Chính Danh, chúng ta mới nắm trong tay chìa khoá để chiến thắng Cộng Sản.

Sĩ Tỉnh - Ha Uy Di



Giải Thể Bạo Quyền Cộng Sản Việt Nam Là Hình Thức Sinh Hoạt Chính Trị Văn Minh Bình Thường - Đinh Xuân Minh

Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh

Lời phi lộ:

„Quốc gia hưng vong, Thất phu hữu trách“. Chúng tôi nghiên mình khâm phục giới trí thức luật gia. Ít ra, đã có một số nhà luật sư tiêu biểu ngành luật, đã và đang hiên ngang anh dũng gióng lên tiếng nói bênh vực cho lẽ phải, cho công lý, và chống lại kẻ phản bội dân tộc. Họ đã không hổ thẹn với lương tâm. Hoan hô tinh thần giới trí thức luật khoa.

Nghe rồi nói mãi, rõ chán! Đã nói rồi vẫn chưa tin?

Lại thêm vụ bắt giam luật sư nữa. Luật sư Lê Trần Luật, người đấu tranh và bảo vệ Công lý cho các giáo dân xứ Thái Hà, bị cục A42, Công An CSVN, bắt giam (bắt cóc) vào thứ bảy, ngày 23-06-09, với tội danh: „Tuyên truyền chống lại nhà nước và đảng CSVN“.

Trước đó, ngày 13-06-09, tay sai bán nước Cộng Sản Việt Gian, đã „khẩn cấp“ bắt luật sư Lê Công Định, với lý do: „mưu đổ phản động“, „cấu kết tổ chức phản động lưu vong“…. Và tay nô tỳ vong nô Cộng sản Tổng cục An Ninh Vũ Hải Triều, kết án rằng: „tịch thu nhiều tài liệu, chứng cứ âm mưu lật đổ nhà nước Việt Nam“.

Có thật, những nhà đấu tranh cho công lý hoà bình, cho tự do dân chủ là thành phần phản động, cấu kết lưu vong, lật đổ bạo quyền Cộng sản Việt Nam???

Ai phản động? Lật đổ chính quyền là sao? Tại sao phải lật đổ? Chế độ này có cần phải lật đổ không? Kẻ nào phản bội tổ quốc và dân tộc? Ai làm nô lệ cho Hán Cộng? Ai đang bán nước hại dân?

Ai là phản động? Phản động là gì? Cần lật đổ chế độ Cộng sản, chế độ phản bội dân tộc?

Người Việt hải ngoại lưu vong là tập thể những người tị nạn cộng sản chống cộng. Và nếu nói theo danh từ Việt Cộng, thì họ là „thành phần phản động“. Phản động, là bày tỏ quan điểm khác chính kiến, qua lời nói và hành động. Bày tỏ quan điểm chính trị khác nhau là lối sinh hoạt chính trị rất ư là bình thường và tự nhiên tại các nước văn minh dân chủ tân tiến trên thế giới. Trong một nước văn minh dân chủ, thì phải biết tôn trọng ý kiến khác biệt của nhau. Ngay đến con cái trong một gia đình còn có những chiều hướng khác biệt: cha theo đạo Công Giáo, mẹ theo đạo Phật, con theo đạo Hồi, chị theo đường hướng đảng Xã Hội, em theo trường phái bảo thủ Cộng Hòa, cháu thuộc đảng hyppi Xanh … Vân vân và vân vân ... Mọi khuynh hướng chính trị tôn giáo dù khác nhau, những họ vẫn chung sống vui vẻ thuận hòa dưới một mái nhà, vì mọi nguời biết tôn trọng dị kiến của nhau. Đó là sinh hoạt theo tinh thần dân chủ thực tiễn!

Danh từ „phản động“ chỉ có trong những nước độc tài chậm tiến hại dân bán nước như những anh cán ngố Cộng sản Việt Nam áp đặt để trấn áp những tiếng nói dân chủ chân chính.

Tất cả những ai yêu dân chủ đều là „phản động“!? Thế, những kẻ bảo vệ độc tài, yêu bất chính, bán nước phì thân, hại dân lành, thì họ là gì, là ai? Và phải gọi họ là gì? Phản bội dân tộc? Việt gian tay sai Hán Cộng? Kẻ rước voi dày mồ? Bè lũ cõng rắn cắn gà nhà? Phường bố láo? Lũ phản quốc? Bọn phản bội? Bọn côn đồ du đãng lưu manh???

Chính vì những dị biệt ngỗ nghịch như thế, tất cả những người yêu tự do, chuộng công lý và lẽ phải, phải quyết tâm thay đổi chế độ Cộng sản ma cô trấn áp người dân!

Hoá ra là như thế! Bất kỳ ai bị chụp mũ cho hai chữ phản động, là đã lãnh bản án tù tội, không cần xử án! Thật dễ dàng! Bắt người kết tội như tìm ốc bắt nhái! Thì ra là vậy!

Những nước văn minh dân chủ tân tiến trên thế giới, những người an cư lạc nghiệp tại các nước này, đều là phản động, dưới con mắt Cộng sản?! Nhưng, điều nghịch lý ở chỗ: Những người bị coi là „phản động“, chưa từng dâng một thước đất cho ngoại bang, chưa từng bao giờ làm tay sai cho thế lực phản động Tầu Cộng, chưa bào giờ họ bán đứng giang sơn cho ngoại bang. Những người bị «kết án» là «phản động», họ lại là những người yêu Chân Lý, ham thích Tự Do, yêu Tổ quốc và thương yêu đồng bào đích thực chân chính nhất.

Thế còn Việt Cộng? Họ là ai? Có phải, họ chính là kẻ phản động không? Chính họ là kẻ phản bội dân tộc?

Đích thị hắn! Chính những kẻ bán nước hại dân là những thành phần phản động, là những kẻ rước roi dày mồ. Chính Cộng sản cô hồn, những kẻ đàn áp người dân, trù dập những tiếng nói dân chủ, là thành phần phản bội quê hương và dân tộc. Họ chính là thành phần phản động cực kỳ nguy hiểm, vì họ đã và đang phá hủy môi trường sinh sống của người dân, và đưa cả dân tộc đến chỗ diệt vong.

Cộng sản đã làm gì cho dân tộc? Họ chỉ là phường bán nước hại dân! Làm tay sai Hán Cộng. Biến giang sơn lãnh thổ Việt Nam thành một tỉnh lỵ Trung Cộng.

Ai kêu gọi thay đổi chế độ Việt Gian Cộng Sản?

Chính việt gian Cộng sản tha thiết kêu gọi „thành phần phản động hải ngoại“ về nước phục vụ xây dựng lại quê hương. Kêu gọi đồng bào ở hải ngoại về phục vụ nhà nước, thì có nghĩa: đồng bào ở hải ngoại có quyền thay đổi guồng máy thể chế bất tài, tham nhũng và bán nước hại dân hiện nay. Xây dựng đất nước: cũng trong ý nghĩa là phải giải thể chế độ bạo quyền này mới lo xây dựng đất nước được. Muốn xây dựng đất nước, cần phải thay đổi chế độ cộng sản độc tài đảng trị! Đó là con đuờng tất yếu duy nhất để đưa đất nước hùng cường vững mạnh, độc lập dân chủ đích thực!

Đã mời „khúc ruột ngàn dặm“ về thăm quê hương, xây dựng đất nước, thì người dân trong nước cần gì phải cấu kết với tổ chức „phản động lưu vong“? Chính nhà nước việt gian Cộng sản đang mời họ về! Cần gì phải cấu kết!?

Các phần tử „phản động“ đang nằm đầy rẫy trong nước, nằm ngay trong quân đội công an, nằm ngay trong guồng máy nhà nước và nằm ngay cả trong ban Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam. Người „phản động“ là 83 triệu dân. Còn mấy trăm cán bộ nồng cốt Đảng Cộng Sản là thành phần phản dân hại nước chính hiệu! Vậy ai phải bắt ai? Ai phải lật đổ ai? Và ai mới chính là tội đồ dân tộc?

Tất cả mọi người, mọi giới cũng chỉ „bằng mặt“ với chế độ thối nát tay sai Hán Cộng, nhưng họ đâu có „bằng lòng“ với chế độ tham nhũng này!

Mỗi cuộc bầu cử là hình thức thay đổi chính quyền. Nhà nước Cộng sản Việt Nam, mỗi khi mùa bầu cử gần tới, đều rên rỉ kêu gọi đồng bào đi bầu. Đi bầu, là thể hiện ý muốn thay đổi chính quyền. Chính vì nhà nước Việt Nam, một nhà nước được gọi là nhà nước xã hội, nhưng có những điều cực kỳ dị nghịch, nên cần thay đổi chính sách và guồng máy. Bởi vì, điều 4, trong cái gọi là Hiến Pháp xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam, đã quy định đảng Cộng sản độc tôn, độc quyền lãnh đạo. Điều này có bố lếu bố láo không? Hiến Pháp gì mà chỉ áp dụng cho riêng đảng Cộng sản? Vì thế, chúng ta cần phải đi bầu để thay đổi cái chế độ trơ trẽn này. Thay vì, bầu bằng lá phiếu không được, thì chúng ta phải đi bầu bằng chân. Kiểu đi bầu bằng chân, cũng là hình thức thay đổi một chính thể. Đi bầu bằng chân là hình thức bỏ phiếu thay đổi một chính thể bạo quyền bất chính như hiện nay.

Kiểu đi bầu từ trước đến nay của Cộng sản, chỉ là hình thức „đi bầu đánh bùn sang ao“: Cộng vẫn Cộng! Tham nhũng vẫn hoàn tham nhũng! Độc tài vẫn ngự trị trên quê hương! Vì điều 4 ghi định, đảng Cộng sản Việt nam „độc quyền“ lãnh đạo, đồng nghĩa với: độc quyền bán nước, độc quyền hại dân, độc quyền tham nhũng. Chỉ thay người, nhưng không thay bản chất „đạo đức cách mạng Cộng sản“: cướp phá, bạo lực, xảo trá gian manh, tham nhũng, bán nước cầu vinh, tạo hận hù, gầy ra cảnh nồi da xáo thịt…

Chính vì chế độ Cộng sản có qúa nhiều những điều dị nghị, nên cần phải lật đổ là đúng nghĩa, đúng danh, đúng luật! Chẳng có quốc gia văn minh tân tiến nào trên thế giới, có kiểu loại „Hiến Pháp“ duy trì độc đảng cầm quyền, rồi rêu rao kêu gọi người dân đi bầu!? Hình thức bầu bán kiểu này, có qúa điểu cáng, nham nhiểm và nghịch lý không?

Kêu gọi người dân đi bầu thay đổi chính quyền, thì điều 4, trong cái gọi là Hiến pháp nước Cộng hòa Xã Hội Chủ Nghĩa đã chọn rồi. Vậy, đi bầu có qúa trơ trẽn lắm không? Đi bầu ở Việt Nam có qúa ngỗ nghịch lắm không? Chính vì nghịch nhĩ, nên phải lật đổ chế độ này cho đúng pháp danh, cho hợp với thời đại văn minh tân tiến nhân loại và hợp lòng dân!

Có nguồn tin cho biết, Nguyễn Minh Triết, muốn là một Yelzin cho Việt Nam. Nhưng có lẽ, vì nay sức trẻ không còn, thế đã yếu, lực đã mai mòn, nên đi đâu, Triết cũng than vãn lo âu, cảnh cáo sự mau chóng sẽ sụp đổ của chế độ. Có lẽ, Triết không muốn lộ tẩy ước vọng của mình, nên phải biểu lộ nỗi u sầu âu lo của mình, hầu nhằm che dấu mục đích mình chăng? Chúng ta thấy, không một chủ tịch nhà nước Cộng sản nào từ trước đến nay, lo xa và lo ra như Triết hiện nay. Việc lo ra của Triết cũng có lý do chính đáng của nó, vì chế độ này khó tồn tại lâu được. Nó không đáp đúng nguyện vọng của toàn dân và không hợp với trào lưu văn hóa văn minh thế giới. Chúng ta nghe Triết phát biểu:

Trước sỹ quan chính trị, Nguyễn Minh Triết la hoảng: „Bỏ điều 4 Hiến Pháp là tự sát“.

Trong chuyến thăm Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 2007, trước đại diện truyền thông trong nước, Triết lại nhấn mạnh sự lo ngại sự thành hình đảng phái trong nước. Triết sợ „lập đảng này đây khác, lên kế hoạch, lật đổ chế độ“.

Trong chuyến thăm hai ngày, từ 10-12 tại New Zealand, tháng 9 năm 2007, Nguyễn Minh Triết lại cảnh cáo sẽ đem ra trước phát luật những „ai đó muốn lật đổ chế độ này“.

Mới đây, hôm 17-06-09, tại buổi lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Học Viện Ngoại Giao, Nguyễn Minh Triết lo ngại và „cảnh giác với cách mạng mầu“, để lật đổ chế độ Hà Nội.

Kết luận

Xin cần ghi nhớ: Lật đổ tay sai Hán Tầu Cộng Sản Việt Nam, là bổn phận và trách nhiệm của mọi Công dân Việt Nam trưởng thành, 18 tuổi trở lên, không phần biệt già trẻ trai giái. Thay đổi guồng máy hiện nay trong nước, cũng là trách nhiệm lương tâm của những người con Việt tha hương, nếu họ còn ưu tư và quan tâm đến giòng sinh mệnh quốc gia dân tộc.

Thay đổi một chính thể, là cách sinh hoạt chính trị văn minh dân chủ rất bình thường! Thể chế bất nhân, bất nghĩa, bất chánh đạo này có cần lật đổ không? Thưa, cần qúa đi chứ! Vì chế độ này là chế độ hại dân hại nước, bán đất dâng biển cho Tầu Cộng. Chế độ này đã và đang biến dân tộc Việt Nam thành một tỉnh lỵ của Trung Cộng.

Giải thể bạo quyền bất chính, hay giải thể chế độ Cộng Sản, là cách thức bày tỏ lập trường chính trị trưởng thành của người công dân, nhằm thăng tiến xã hội và con người. „Giải thể chế độ Cộng Sản, con đường pháp triển tất yếu của Việt Nam“ (Bài xã luận của Lm. Phêrô Nguyễn Hữu Giải; Lm Phêrô Phan Văn Lợi; 29-04-2006).

Chẳng có Pháp luật dân chủ văn minh nào cấm đoán người công dân không được phép thay đổi một chính quyền. Nếu „Hiến Pháp“ của nước nào có điều khoản cấm „lật đổ chế độ“, thì chế độ đó là một chế độ gian manh, bất lương, lường đảo rõ ràng nhất. Một chế độ thối tha, một chế độ mỵ dân, một chế độ xảo trá như thế cần phải lật đổ ngay lập tức!!!

Thay đổi cơ chế tham nhũng bất tài, bất công hiện này là điều bắt buộc phải làm, nên làm và cần thiết cấp bách. Nói như kiểu người Cộng sản: Lật đổ chế độ độc tài đảng trị bất nhân là phải „khẩn trương“. Và chế độ Cộng sản phải sụp đổ là điều tất yếu!

Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh

Phật Giáo Định Hướng XHCNVN, bài học tang thương máu-lệ suốt 70 năm mà nay vẫn chưa phai - Thích Tánh Hải

Thích Tánh Hải

Không thể có ở bất cứ nơi nào trong tàng thư Phật giáo, trong Đại Tạng Kinh nhà Phật để tìm thấy dấu tích về một loại hình giáo lý quay lưng trước khổ đau của đồng loại; Cũng không thể tìm đâu ra loại hình văn học thánh giáo để tư duy con đường đi đến giác ngộ bằng sự vô cảm trước sự thống khổ của chúng sinh.

Trái lại, con đường của Đạo Bồ tát để bước lên quả Phật là phải xả thân cứu đời, lấy cứu khổ, độ sinh trang nghiêm Thánh đạọ Ta hãy nghe lại một đoạn kinh Phật: "... Cây thọ vương Bồ Đề ở chốn sa mạc sanh tử rộng lớn cũng như vậy: Tất cả chúng sinh là gốc rễ, Bồ Tát là hoa, Phật là quả. Dùng nước Đại bi đượm nhuần gốc rễ chúng sinh thì có thể trổ bông Bồ tát Trí Tuệ và kết thành quả Phật toàn giác ... Cho nên quả Bồ đề thuộc về chúng sanh” (kinh Hoa Nghiêm, Phẩm phổ Hiền Hạnh Nguyện).

Thế nhưng ngày nay có không ít kẻ hình tướng Tăng Bảo mà tâm phò Ác Quỉ, luôn miệng cổ võ loại hình học thuyết thuần tuý ... nọ kia theo kiểu "mũ ni che tai”, mặc cho hơn 80 triệu đồng bào đang bị đoạ đày dưới ách bạo tàn XHCNVN.

Tôn Giáo Hoà Hợp XHCNVN, bài học lịch sử Tang Thương Máu-Lệ suốt hơn 70 năm qua (1930-2007) đến nay nó vẫn chưa phai trong tâm thức hằng trăm triệu con người trên thế giớị. Thế nhưng, cầm cờ chạy hiệu, mở đường cho CS phá Phật, đánh Sư đó là Nhóm Tăng Ni VN hải ngoại do nhóm "tứ quái”: Minh - Ba - Siêu - Đạt (Thích Minh Tâm, Thích Quảng Ba, Thích Nguyên Siêu, Thích Bổn Đạt) cầm đầu, họ đã lừa dối Tăng Ni mà bán đứng cho CS qua chiêu bài Tôn Giáo Hoà Hợp XHCNVN với âm mưu xoá tên GHPGVNTN hòng nhuộm Đỏ toàn dân Việt nhằm kéo dài sự thống trị con người theo hướng phi nhân vô đạọ Bài học Tôn giáo Hoà hợp XHCN nói trên có thể hình dung qua 3 nét chính:

1. Con bài "Tu hành thuần tuý”, chiến lược tách quần chúng ra khỏi GHPGVNTN của CS.

Sau vụ Nhất Hạnh, Âm mưu một cuộc "Đảo Chánh” GHPGVNTN không thành, XHCNVN chuyển sang chiêu thức mới: Con bài "tu hành thuần tuý”. Chiều thức nỗi bậc trong chiến lược nầy đó là mô hình: tín ngưỡng thuần tuý... XHCN, theo đây,Hồ tặc ngồi chểm chệ dưới trướng Đại Nam Quốc Tự - là mô hình thí điểm của nhà nước. Theo mô hình nầy, HCM với Đức Phật chung bàn, tín ngưỡng thuần tuý XHCN là thế đó (xem thêm: Đại Nam Quốc Tự, mô hình vun thân của CS). Có điều nên biết là người sáng lập Đại Nam Quốc Tự Bình Dương , Bình Dương lại là một cán bộ cao cấp CS về hưụ Theo người biết chuyện thì ông Giám đốc Đại Nam Quốc Tự, Bình Dương là người được đảng chỉ định, (dĩ nhiên được đảng vung tiền ra đầu tư, số tiền xây dựng lên đến 3 ngàn tỉ đồng VN) trong vai kinh tài cho đảng.

Loại hình cán bộ cao cấp làm kinh tài cho đảng, điều nầy không còn xa lạ với nhiều ngườị. Như chúng ta biết, sau chiến tranh Tây Nam Viê.t-Miên 1979, do áp lực quốc tế, CSVN đành phải rút quân chiến trường Campuchiạ Hà Nội đã có kế hoạch đường dài, cài cấm cán bộ lại trên đất Miên. Tất cả đều biết nói tiếng Miên, biết ăn mấm bồ-hóc (loại đặc sản của dân Miên, như mấm tôm ở Bắc hay mấm ruốc ở Nam vậy). Ngày nay hơn 2 phần 3 giám đốc công ty, xí nghiệp, khách sạn tại Nam Vang đều là Thủ trưởng, sĩ quan quân đội được biệt phái sang làm kinh tế, họ đều do Hà Nội điều khiển từ xa cả.

Pháp nạn diễn ra không ngừng nghĩ từ hơn 30 năm qua (1975-2007), ngày nay, cơn bảo pháp nạn tuy đã lắng mà chưa dịu, giảm mà chưa dứt và hiện tượng bùn phát có thể bùn lên bất cứ lúc nào. Ấy vậy mà có không ít kẻ ngây ngô đến không tưởng khi họ tham gia, cổ vũ người khác tham gia vào chiến dịch tu hành thuần tuý theo hướng tôn giáo vận CS để phó mặc cho XHCN đánh phá Sư Tăng, chùa-Viện theo kiểu "mặc ai khốn khổ, miễn mình ấm yên”.

Kêu gọi Tu hành thuần tuý trong mùa pháp nạn, thật là lạ chưa ... Ai đời nhà cháy không lo chữa lại đi trang trí nội thất, thật là vớ vẫn đến hoang tưởng hết chỗ nói.

Chính vì thế, mọi hình thái kêu gọi Tu hành thuần tuý, làm văn hoá giáo dục thuần tuý, xa rời đấu tranh giải trừ pháp nạn với quốc nạn, đó chính là "cái loa” tôn giáo vận, cái kiểu tuyên truyền của đảng CS. Một mặt họ mở ra chiêu bài làm văn hoá giáo dục thuần tuý; mặt khác bằng nhiều loại hình họ răn đe quần chúng, tách tín đồ ra khỏi tôn giáo. Cho nên, phải nói rằng tu hành thuần tuý kiểu XHCNVN là góp phần biến thể tôn giáo mà từ biến thể đến huỷ thể cũng không bao xa. Bài học Sư Thầy được vinh danh lên hàng "kiện tướng làm phân” (... Ngày nay sự nghiệp phò cách mạng; Nhà Sư "kiện tướng đội làm phân”); hay hiện tượng Sư Bà nghiện rượu (... Tôm bay, rán mỡ "xơi” lưng chảo; Rượu đế ngâm trăn nín cả vò), hay "Sư cụ đảng viên” (... Ăn cơm của Phật, ông phản Phật; Làm việc nhà ma ông theo ma) được ghi lại qua tâp Thơ Trong Tù của Hoà thượng Thích Quảng Độ, qua đó cho thấy đôi điều Hội chứng tu hành thuần tuý XHCN đó mà.

2. Kêu gọi Hoà hợp XHCN, một loại hình Kẻ cướp kêu gọi từ bị Kêu gọi Hoà hợp XHCN, đó thực chất là một loại hình kẻ cướp kêu gọi từ bi. Có ai đời trông chờ đứa đốt nhà đến chửa cháy bao giờ? Nhìn lại, hoàn cảnh chính trị xã hội nào đã đẻ ra chiêu bài hoà hợp XHCN? Xin thưa đó là kể từ sau khi CS Liên Xô rồi Đông Âu sụp đỗ, CS quốc tế không còn, nhất là những năm 1992 CS Viêt Nam đang đứng bên bờ vực giải thể. Lúc bấy giờ CSVN kêu gào trong ngoài nước hoà hợp XHCN. Điều đó cho thấy, khi nào CSVN sắp giẫy chết thì họ kêu gào người dân, gõ cửa tôn giáo kêu gọi hoà hợp XHCN; Trái lại vào những năm 1975 khi CS cờ thắng trong tay thì cả nước phải chịu cảnh nhà tan cửa nát, biển Đông làm mồ chôn chung của hơn nữa triệu đồng bào, núi rừng Tây Nam VN là nơi vùi lấp những nấm mồ hoang vô chủ. Những năm 1975, khi CS cờ thắng trong tay là liền sau đó có đến những 85 vụ đàn áp, đánh phá giết hại thành viên Giáo hội được thống kê, kháng nghị lên nhà nước; kỷ niệm 30 năm pháp nạn GHPGVNTN tại Hoa Kỳ năm 2005 vừa qua đã cho danh sách bước đầu có 22 Thánh tử đạo, riêng vụ án 12 Tăng Ni Thiền viện Dược Sư tỉnh Cần Thơ tự thiêu cùng lúc là một điển hình rõ nét nhất. Khi mà XHCN đang thời cao ngạo, nó cuồng ngông theo kiểu: "Thằng trời đứng sang một bên; Để cho thuỷ lợi tiến lên thay trời” thì lúc đó họ có lắng nghe tiếng kêu bi thương trầm thống của con dân để nói chuyện Hoà hợp hay không? Sau 1975 khi Hoà thượng Thích Đôn Hậu, Chánh thư ký, xử lý Viện Tăng thống GHPGVNTN cùng với Hoà thượng Thích Trí Thủ dẫn đoàn Viện Hoá Đạo xin tiếp kiến nhà nước để bàn việc Thống Nhất Phật giáo 2 miền Nam Bắc thì từ Nguyễn Văn Hiếu (bộ trưởng Bộ Văn hoá); Mai Chí Thọ (bộ trưởng bộ nội vụ) đến Ông Quang Minh (cán bộ chấp pháp bộ nội vụ) cho đến ông Huỳnh Châu Sổ (Phó thanh tra TW nhà nước), tất cả họ đều cùng một bài bản, một cung đàn, một giọng điệu mà qua lời Mai Chí Thọ, ta nghe lại ông Thọ nói: "các thầy chỉ có 2 con đường, một là theo hai là chống ... mà không có con đường thứ ba”. Mà chống nhà nước XHCN vào những năm 1975-80 thì số phận ra sao, ai cũng biết rồi. Ấy thế mà CS lại đẫy GHPGVNTN vào tận chân tường như thế. Lúc thời đang lên, thế đang thònh thì XHCNVN đối đải với GHPGVNTN là như thế đó.

Bấy giờ có thấy bộ mặt thằng đỏ, con đen nào kêu gọi Phật giáo, kêu gọi toàn dân hoà hợp XHCN đâu. Sự bố láo của CS cho thấy, khi đã qua rồi cái thời họ từng Ở hầm, Đi rừng, Ngủ võng, Ăn đêm, thì chả còn thấy đứa cán cưa, cán mác nào kêu gọi hoà hợp XHCN cả. Thế nhưng nay, XHCN Thời suy, Thế cùng, Lực kiệt thì họ kêu gào như bố mẹ mới chết chưa chôn mà xin hoà hợp với kiều bào nước ngoài để mong cứu vớt họ; rồi quay sang van xin GHPGVNTN từ bi với họ như lời nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải nói với Hoà Thượng Thích Huyền Quang vào năm 2005 tại Hà Nội vậy.

Cho nên Kêu gọi Hoà hợp XHCN, một loại hình kẻ cướp kêu gọi Từ bi, vậy thử hỏi có tin được không??

3. Tôn Giáo Hoà Hợp XHCNVN, Bài Học Tang Thương Máu-Lệ Suốt 70 Năm (1930-2007) Mà Nay Vẫn Chưa Phai Bài học lịch sử đau thương của Phật giáo Hoà hợp với CS cho thấy: Thượng toạ Thích Mật Thể (Huế), tham gia Đại biểu Quốc hội nước VN Dân Chủ Cộng Hoà năm 1946; là nhà tôn giáo-Phật giáo Nhất Hạnh lên TV VC ca ngợi tự do tôn giáo cận đại mở đường tiên phong theo ngọn cờ Hoà hợp CS. Thế nhưng Hoà hợp CS đã đưa đến hệ quả là Thượng toạ Thích Mật Thể đã chết một cách ám muội trong vòng kiểm soát của CS, tang thương ngày ấy đến nay vẫn còn là ẩn số chưa được giải mã.

Thậm chí một thiên tài như Tâm Minh-Lê Đình Thám mà khi sống dưới gầm trời XHCN, Bắc VN thì tài năng kia cũng đành chôn xuống mồ sâu.

Một Thích Trí Độ tự lừa dối mình rằng:"từ ngày được ánh sáng Mác Lê soi đường, tôi mới rõ con đường mình đi”, bưng bợ CS như thế để mong Hoà hợp với CS mà được cơm thừa, canh cặn gì đâu hay là một nhà lãnh đạo Phật giáo XHCN vào Nam thăm hữu nghị Phật giáo trong Nam mà cả đến chiếc áo Nâu Sòng cũng không có để phải bay ra trước cộng đồng Phật giáo trong Nam về một hình ảnh Sư Tăng XHCN thật thảm thương đến vô bến, vô bờ.

Rồi một Thích Trí Thủ, mở đường Thống Nhất Phật giáo theo định hướng XHCN; Là người năng nỗ trong Hoà hợp XHCNVN. Ngài đã bị BỨC TỬ, chết tức tưởi trong bệnh viện Vì Dân, Saigon bởi bàn tay sát nhân CS; 2005 rồi 2007, Gánh hát bội Làng Mai về VN trong vai "Lê Lai cứu chúa”. Ví như kế sách xoá tên GH{GVNTN thành công, thì tiếng là Nhất Hạnh xoá GHPGVNTN, ông nhà nước có can chi đâu nào? Bằng như việc không thành thì Hạnh-Phượng của Mai Thôn phải cháy tiêu sự nghiệp xế chiều còn lại trong niềm thương hại của nhiều người. Xét cho cùng, biến cố Mai Thôn Hạnh-Phượng chính do Hà Nội xuống tay. Hơn 40 năm lăn lộn chính trường thế giới thế mà sự hiểu biết kia không đủ để Nhất Hạnh lớn khôn hơn để đến nỗi Quách Thị Tam Thê đã phải trải lòng thương tiếc vô hạn qua bài: Nhất Hạnh, một dòng sông đã chết. Cũng do từ Hoà hợp XHCN mà hào quang Nhất Hạnh thời Phương Bối Am thưở nào, nay đã tắt lịm, sau chuyến về VN 2005, 2007 chỗ tôn vinh Nhất Hạnh trong lòng Tăng trẻ giờ đây phải đành tan lõang theo điệu:

Hít vào: hận không nguôi;

Thở ra: cháy hết rồi.

Nói cho cùng, Hoà hợp với CS là góp phần đưa Phật giáo đến diệt vong.

Hoà hợp XHCN là một loại hình lừa bịp, áp đặt mà kèm theo nó là những loại hình khủng bố-Gian manh-thâm độc; Mượn tay giáo gian Thân Hữu Già Lam, CS đánh lừa con người vào tròng Hoà hợp XHCN thiên đường hoang tưởng để đảng-Mác thống trị con ngườị Trong chúng ta, nếu chẳng may rơi vào bẫy rập Hoà hợp XHCN thì bài học kia phải trả bằng máu, đánh đổi bằng cả cuộc sống tan thương, cuộc đời máu lệ cho những ai nhẹ dạ, cả tin CS. Hội chứng dân oan cả nước ngày nay cũng thế. Dân oan là ai? Là những người đã từng đem thân làm lá chắn cho cộng đảng trước mưa bom của giặc ngoại xâm; là những người thoát ly gia đình, đem thân phục vụ Bác và Đảng với đầy cả huân chương, mề đay làm chứng tích cho sự hy hiến vô bờ. Thế mà nay những thứ đó đã trở nên vô nghĩa, chỉ còn cách vứt bỏ nó xuống cống rãnh, hầm phân mà thôi. Dân oan đi khiếu kiện là họ còn xót lại chút niềm tin vào đảng, nhà nước, thế mà thật bất hạnh cho họ vì đã gởi trọn niềm tin vào một đảng ... cướp, cướp đất, cướp nhà để họ phải lâm vào cảnh màn trời chiếu đất mà nhà nước chẳng có chút đoái hoàị Thôi! đã hết rồi cái thời tụi bây đã từng Ở hầm, Đi rừng, Ngủ võng, Ăn đêm, nay tiếng kêu dân oan khác nào như tiếng kêu của cánh nhạn lạc bầy và tiếng gọi đàn đã trở nên vô vọng rồi tuyệt vo.ng. Thì ra cái ngày gọi là giải phóng thì đó cũng chính là thời điểm bắt đầu của dân oan chúng tôị Cho nên, kể từ sau cái gọi là "Mùa Xuân Đại Thắng”, là dân oan, trong mắt chúng tôi, Bác Đảng đã chết tự lâu rồi. Bài học hoà hợp XHCNVN với dân oan là như thế đó. Rồi cũng có không ít những kẻ tự ví mình như "tể tướng áo nâu” nhà Tề, đi tiên phong hô hào, rao loa Phật giáo Hoà hợp XHCN. Thế nhưng thực tế họ chỉ là những "con cu mồi” rao hàng cho CS mà Thân Hữu Già Lam, một nữa thầy tu trong một nữa kẻ cướp là một điển hình.

Phật giáo Hoà hợp XHCN: Một nửa Thân Hữu Già Lam hội tụ trong một nửa Thân hữu Già Hồ, tất cả những loại hình bệnh hoạn XHCN ngày nay đang được nhóm giáo gian "tứ quái”: Tâm - Ba- Siêu - Đạt vun rải mầm độc thui chột niềm tin Phật; làm ung thối nầm non Phật giáo, như lời Thích Chính Hạnh, Từ Thân hữu Già Lam đến Thân hữu Già Hồ ... đã nói. Nay trong nước lại thành hình cũng nhóm "tứ quái” nữa, đó là Sỹ - Thát- Liên - Từ (Thích Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, Thích Quảng Liên, Thích Nhật Từ), đó là những tên tội đồ thiên cổ của đạo và đời.

Cho nên, thật bất hạnh thay khi lời nói của thánh nhân lại được phát ra từ miệng lưỡi của những kẻ hạ nhân hùng biện; Cũng không có tai hoạ nào hơn khi "kẻ cướp trong chiếc áo thầy tu” đi rao loa thiên đường XHCN thật hùng hồn trong khi đó chính bản thân họ lại chưa thật sự hiểu biết những điều mình rao loa. Thử hỏi, định hướng XHCN là gì mà cho đến nay, ngay cả nhóm chuyên gia, người nhào nặn ra nó cũng không thể giải thích trọn vẹn được định hướng XHCN là gì nữa. Do đó, kẻ nói chân lý là người khôn mà đứa NHẮM MẮT nghe theo chân lý là đứa dại. Thế cho nên với mọi cách hành xử do từ "đường truyền” Sư Thầy quốc doanh như về mô hình xây dựng Viện Đại học Khuông Việt tại VN; như loại hình Tổ chức quốc tế Phật Đản 2008 tại VN cùng những màu sắc tương tợ thì mọi người hãy nên hiểu biết như thế mà lánh cho xa.

Tự do cao cả nhất là được tự do ra ngoài cái tự do do CS áp đặt lên dân tộc VN nầy và cũng không có tội đồ nào hơn là tự do áp đặt Hoà hợp dân tộc Việt vào con đường quốc tế XHCN cả.

Đưa đến xứ nầy học thuyết thiên đường Xã hội Chủ nghĩa (XHCN), nghe theo bài học Mác-Lê, tuổi trẻ VN chúng tôi gạt lệ thoát ly gia đình, dâng mình, hiến thân, bán tổ tiên, bán cả dân tộc cho đảng Mác... Đến Khi mở mắt ra, chúng tôi được bằng khen Vô sản XHCN còn đảng Già Hồ thì có tất cả những nhà cửa, ruộng, vườn, đất đai gia sản của chúng tôi.

Tôn giáo Hoà hợp XHCN, Bài Học Tang Thương Máu-Lệ suốt 70 năm

Thích Tánh Hải




Tội phản bội tổ quốc được mua bằng một giá rẻ mạt: 30 triệu đồng VN (US$1,700) - Hà Long

Đầu bò Nông Đức Cạp

Hà Long

Chờ cho đến ngày 23/9/2009 thế giới toàn cầu mới biết về bản án của kẻ mang tội phản bội tổ quốc được quy ra thành tiền với một giá rẻ mạt: 30 triệu đồng, khoảng 1,700 đô la Mỹ, thông tấn xã Associated Press đã cho biết giá tiền phạt này cho tổng biên tập Đào Duy Quát.

Editor Dao Duy Quat was fined 30 million dong ($1,700) for reprinting the article, which originally appeared in a Chinese newspaper, said Nguyen Van Hung, chief inspector at the Ministry of Information and Communications. (AP)

Ngày 04/9/2009 trên Website chính thức của đảng cộng sản VN đã đưa tin “rất có lợi” cho cộng sản Tàu qua bài dịch thẳng từ thông tin chính thống của Tàu với tựa đề "Hải quân Trung Quốc diễn tập tại biển Đông". Bài báo (theo chủ chương lớn của Đại Hán) khẳng định chủ quyền của Tàu được kéo dài đến vùng đảo Hoàng Sa như Phó Tư lệnh Hạm đội Nam Hải nhấn mạnh: "Bất kể là binh sĩ hộ tống hàng hay binh sĩ bảo vệ đảo, đều có chung một sứ mệnh đó là bảo vệ lợi ích quốc gia, hy vọng các binh sĩ tập luyện để bảo vệ tốt biên cương trên biển (Hoàng Sa) phía nam Tổ quốc”.

Bản tin công khai nằm trên trang Web ròng rã 5 ngày cho đến khi các dân cư mạng khám phá ra hành động bán nước trắng trợn của csVN thì ban biên tập âm thầm xóa bỏ đường link ngay liền lập tức. Câu hỏi của 80 triệu dân VN là csVN vì vô tình hoặc hữu ý loan tin rất "phản động" này? CsVN đã chấp nhận Hoàng Sa là biển của giặc phương Bắc chăng?

Hán gian Đào Duy Quát,
nối giáo cho giặc
Tất cả mọi tầng lớp trong dân chúng tức giận về hành vi nối giáo cho giặc này của csVN.

csVN vẫn ém hơi thinh lặng trong nhiều ngày, cho đến khi bị sức ép quá mạnh từ mọi phía thì họ rất chậm trễ, đến 2 tuần sau ban biên tập trang Website của đảng cộng sản VN mới viết vài hàng chữ xin lỗi vào ngày 19/09/2009 với nội dung: “Ngày 4 tháng 9 năm 2009, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam đăng lại tin của báo nước ngoài (không dám can đảm nói tin chính thống từ báo của cs Tàu): “Hải quân Trung Quốc diễn tập tại biển Đông”. Mặc dù tin này sau đó đã được gỡ bỏ, nhưng việc đăng tin này là một sai lầm, đã gây hậu quả đáng tiếc, tạo bức xúc với nhiều bạn đọc. Thực hiện sự chỉ đạo của cơ quan chức năng, Ban Biên tập Báo đã và đang nghiêm khắc kiểm điểm, xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với những cá nhân, tập thể sai phạm. Chúng tôi xin chân thành cáo lỗi và cảm ơn bạn đọc đã góp ý phê bình Báo.”

Thế đấy trước đó một tuần, một giọng dối trá qua điện thoại đã giải thích rất đơn sơ, như kẻ vô tội từ một nhân viên của tờ báo đảng csVN như sau: “Lỗi này là do lý do kỹ thuật, có thế thôi!”

Đây là một chiến thắng lớn nhất và vẻ vang của giới Blogger ở quốc nội cũng như tại hải ngoại chống lại bọn Việt gian bán nước và hải đảo. Xa lộ thông tin toàn cầu và giới Blogger đang trở thành một vũ khí bén nhọn và cực kỳ nhanh chóng chống lại bọn chạy theo đuôi Đại Hán. Chưa bao giờ đảng csVN cúi đầu nhìn nhận “sai lầm công khai” như “sự cố” (ý) này. Nếu trông chờ vào 700 tờ báo theo “lề phải” để phảng bác lại việc bán nước thì đất nước VN chúng ta đã chẳng còn chủ quyền nữa rồi.

Nơi đây chúng ta nên công tâm nhìn vào mức độ phạm tội để trừng phạt. Nên nhớ theo loa tuyền truyền của đồng chí Đào Duy Quát hôm 20/6/2009 dịp kỷ niệm một năm khai sinh Website đảng csVN cho biết con số “ma” đã vào thăm trang Web khoảng 45 triệu lần sau hơn một năm hoạt động. Kinh khủng về con số! Kỷ lục ở VN?

Nếu đúng con số 45 triệu/Năm thì mức độ phản động này của Đào Duy Quát đáng thật lo ngại vì đã vượt qua biên giới vùng “nhạy cảm” tuyên truyền cho giặc. Đào Duy Quát còn được mặc cho một chiếc áo giáp mạnh mẽ bên ngoài là “chuyên gia cao cấp Ban Tuyên giáo trung ương”, tự mình ông ta biết tội trạng phản bội tổ quốc to lớn như thế nào.

Nếu csVN bắt tù, kết án, bắt viết bản tự thú, như đã xảy ra chớp nhoáng trong thời gian ngắn cho nhà dân chủ và các Blogger như Ls Lê Công Định, ông Lê Thăng Long, ông Trần Huỳnh Duy Thức, anh Nguyễn Tiến Trung, ông Trần Anh Kim, Blogger „Người Buôn Gió“ và “Mẹ Nấm, v.v… thì luận theo tội này cho thấy tờ báo của đảng csVN có “tội đồ” nguy hiểm hơn rất nhiều, trước là đảng csVN và sau đó đến những người trực tiếp nhúng tay vào việc “nối giáo cho giặc”. Đúng là tội đồ phản quốc!

Phóng viên của AP theo sát cũng như hiểu rõ sự việc nghiêm trọng về “nội gian” trong việc thông tin và đã trích lời của blogger Nguyễn Quang Lập viết: “Chỉ có người mù mới không nhìn thấy sự nguy hiểm của việc cho đăng bài báo như thế trên tờ báo điện tử của đảng.” ("Only blind people did not see how dangerous it was to publish such an article on the online newspaper of the Party," blogger and writer Nguyen Quang Lap wrote).

Chúng ta thử so sánh với bản Công Hàm bán nước của thủ tướng Phạm Văn Đồng ấn ký vào ngày 14/9/1958. Dựa vào bản văn này bọn cs Tàu ngang nhiên phán rằng: “Hoàng Sa và Trường Sa do csVN tình nguyện dâng hiến cho Tàu.” Hơn 1 tỷ người Tàu tin vào Công Hàm của Phạm Văn Đồng. Bây giờ thêm một tin động trời từ tờ báo của csVN, vài năm sau cs Tàu sẽ có thể dùng bản tin từ trang Website của đảng csVN để chứng minh cho chủ quyền của họ trên vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa.

Thế mà “tội đồ phản quốc” này chỉ đáng giá có 30.000.000 đồng VN.

Nói thật ra, ai là người Việt Nam cũng đang mang nỗi nhục mất biển đảo: có chứng minh hay không chứng minh về chủ quyền thì cộng sản Tàu đã ôm trọn vùng Biển Đông vào đôi tay vững chắc của họ rồi.

“Tội đồ” này có phải do đôi tay bẩn thỉu của csVN tạo ra không?

Hà Long

Diễn Hành Văn Hóa tại Đức

Thứ bảy, ngày 12.09.09

Thư Cảm Tạ của Ban Đại Diện Hội NVTNCS Hamburg và vài hàng sơ lược về ngày Diễn Hành Văn Hóa 12.09.2009 tại Thành Phố Hamburg
    Kính gửi: Quý Hội Đoàn, Bà Con Cô Bác cùng Các Anh Chị Em Thanh Thiếu Niên gần xa
Đầu thư Ban Đại Diện HNVTNCS tại Hamburg trân trọng kính gửi đến tất cả Quý Vị có tấm lòng trân qúy, chẳng quản đường xa, không ngại nhọc nhằn đóng góp Công Của và Sức Lực yểm trợ Ban Đại Diện Hội NVTNCS Hamburg hoàn thành tốt đẹp công cuộc Vinh Danh Cờ Vàng trong ngày Lễ Hội Diễn Hành Văn Hóa 12.09.2009 tại Hamburg với lời Cảm Tạ sâu sắc.

Ý nghĩa và việc làm trong ngày Lễ Hội Văn Hóa đối với Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản.

Hội Văn Hóa Thế Giới Hamburg năm nay lần thứ bảy tổ chức Lễ Hội Văn Hóa từ ngày 11-13.09.2009 với chủ đề đ ược nhấn mạnh vào hai chữ „Khoan Dung (Toleranz)“.

Nội dung của hai chữ này đã được Hội Đoàn Đức UNESCO giải thích từ điều khoảng 1.1 - 1.4 và xin được tóm tắt lại ở đây là:

“sự tôn trọng chấp nhận quyền phổ quát của con người, tự do căn bản của người khác về tất cả mọi mặt chẳng hạn như tự do tín ngưỡng, văn hoá, chính trị v.v.v…“

Thưa Quý Vị tôn chỉ của Hội từ ngày thành lập, trưóc đến giờ qua ngót 30 năm có lúc thăng, lúc trầm nhưng bao giờ cũng cùng một chí hướng Vinh Danh, Bảo Vệ Cờ Vàng Tự Do. Ngọn Cờ Vàng chính là cái mốc Biểu Tượng Ý Nghĩa Tỵ Nạn Chính Trị của chúng ta, của dân Việt Nam yêu chuộng tự do tại đất nước Đức nói riêng và tại Hải Ngoại nói chung.

Tội ác, hành động vô lương cũng như sự áp bức tàn bạo đối với Đồng Bào Việt Nam của cộng sản sẽ bị xóa bỏ nếu Biểu Tượng Chính Nghĩa, Ngọn Cờ Vàng của chúng ta không còn hiện hữu. Đi xa hơn nữa sự tồn tại của Ngọn Cờ Vàng không nhiều thì ít sẽ là căn nguyên sau này cho các Thế Hệ Trẻ Việt Nam sinh trưởng và lớn lên tại Hải Ngoại nương tựa, hướng về Cội Nguồn, về một nước Việt Nam Tự Do Nhân Ái.

Do đó nhân ngày Lễ Văn Hóa với chủ đề như đã nêu trên của Hội Văn Hóa Thế Giới Hamburg. Vì tầm mức quan trọng trong việc gìn giữ Màu Cờ và Chính Nghĩa, Hội NVTNCS Hamburg mặc dù trong vòng phạm vi rất thiếu thốn về mặt nhân sự cũng như về tài chánh đã ghi danh tham dự ngày Diễn Hành Văn Hóa hôm thứ bảy 12.09.2009 cùng với khoảng chừng 80 nhóm đại diện các nước trên đường phố trong khu trung tâm của Hamburg.

Ban Đại Diện đã cố gắng truyền thông, nhắn tin, vận động kêu gọi các Hội Đoàn, Đồng Bào Tỵ Nạn Cộng Sản trong và ngoài Hamburg tiếp giùm một tay, nhân lực cũng như tài chánh cho Công Cuộc Chung, đễ tổ chức trang trọng buổi Diễn Hành đễ Vinh Danh Cờ Vàng trong ngày Lễ Hội.

Tuy nhiên vì trùng ngày giờ với lễ Khánh Thành Tượng Đài Tỵ Nạn, một sự việc hy hữu và không kém phần quan trọng, nên đa số cộng đồng NVTNCS trong và ngoài Hamburg đã không thể tham dự cuộc diễn hành.

Đội Diễn Hành tuy không đủ nhân sự đễ xắp theo đội hình đã dự định, nhưng với lòng quyết tâm, thiết tha và tích cực đóng góp chỉ hơn non 50 người của các Hội Đoàn, Cô, Bác, Anh, Chị cùng các em Thanh Thiếu Nhi, Đoàn Diễn Hành xem ra cũng không kém phần trang nhã.

Với tiếng trống lân hào hùng và đầy khí thế của Lão Tướng Trần Văn Các vang rền từ trên chiếc xe hoa được trang trí do nhóm chị Khiếu thực hiện bằng những bông hoa, cành lá tươi và vải vàng cùng với Cờ Vàng, Cờ Đức và Cờ Tiểu Bang Hamburg trông rất hài hòa đẹp mắt.

Hoà theo sau là sự nhịp nhàng của tiếng phèng la cùng tiếng chiêng phụ họa của các vị Tiền Bối trong Đội Lân Lão Tướng ở Bremen do anh Phạm Công Hoàng phụ trách. Anh Hoàng đã cùng anh Quốc đảm nhận việc múa lân, cộng thêm chú lân con do các em Thiếu Nhi Hamburg múa gây rất sinh động cho Đội Diễn Hành. Xin chân thành Cảm Tạ anh Phạm Công Hoàng và các Tiền Bối của Đội Lân Bremen đã tích cực yểm trợ HNVTNCS Hamburg.

Đội lân Bremen với tiếng trống cùng những bài hùng ca xuất phát từ trên xe hoa do anh Thủy Hội Trưởng Hội NVTNCS Hamburg lái, đã yểm trợ Phái Đoàn Diễn Hành dẫn đầu bằng tấm bảng mầu vàng dài 4m có đề tên Hội NVTNCS Hamburg bằng tiếng Đức do 2 anh Thanh Niên phụ trách cầm.

Kế đến là Cờ Vàng, Cờ Đức hai bên đi song song chính giữa là một em bé lên 4 tuổi hiên ngang dương cao ngọn Cờ Vàng đi tiên phong trước Đại Kỳ.

Đại Kỳ vàng thảm trải dài khoảng 5m với 3 hàng sọc đỏ nằm giữa do 6 cô Thanh Thiếu Nữ rước đi, đã làm nổi bật lên sự Hài Hòa Nhân Ái trong đội Diễn Hành.

Phía sau xe hoa hộ tống theo đoàn Diễn Hành là đội múa Ngân Tuyền qua hoạt cảnh Hai Bà Trưng với hai Cờ Vàng đi trước hai bên cũng thể hiện được tinh thần bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Các điệu múa Cờ, múa Kiếm, múa Khăn được trình bày rất nhịp nhàng linh động cùng với những bộ trang phục may cắt rất khéo léo, sắc xảo do chị Thiện mẫu thân cô Ngân Tuyền đã thức suốt đêm đễ hoàn thành cho kịp ngày hôm nay đã gây rất nhiều chú ý của người xem.

Riêng chị Thiện đã thể hiện trong bộ bà ba nâu thẩm, với đôi quang gánh gồm các cây trái bông hoa đủ loại, đễ lại ấn tượng cho người xem về những sắc thái cần cù mộc mạc của người dân Việt Nam.

Cũng như các Bác, c ác Cô, các Dì trong Ban Cao Niên ngoài việc phụ trách ẩm thực với những ổ bánh mì thịt hoặc bánh mì chay rất là chu đáo cho Đoàn Diễn Hành, còn góp phần thêm cho Đội Diễn Hành với những chiếc áo dài khiêm tốn nhưng không kém phần kiêu sa rực rở.

Ngoài ra với sự góp mặt của phái VoViNam và, các em Thiếu Nhi dương cao cờ môn phái biểu tượng nền Văn Hóa Võ thuật Việt Nam.

Các anh trong Ban Trật Tự cũng vất vả lo chuyện vòng rào cũng không quên cùng các Thân Hữu đồng dương cao lá Cờ Tự Do gây thêm khí thế cho đoàn Diễn Hành.

Phần Ban Đại Diện ngoài anh Thủy lái xe ra, thì chú Hiệp phụ lo với Ban Cao Niên chuyển thức ăn nước uống đến Qúy Vị Diễn hành. Anh Tùng và anh Phúc chạy lo thế chổ tạm thời cho các Vị trong đội hình bị mệt và tiếp tay chuyện lo ẩm thực cho Đội Diễn Hành.

Lễ Diễn Hành sau 2 tiếng rưỡi giờ đồng hồ chấm dứt vào khỏang 14g30 và sau khi dưỡng sức với những ổ bánh mì, Càfe nước uống của Ban Cao Niên phụ trách, Qúy Hội Đoàn và Đồng Bào ra về trong tinh thần tự hào và đoàn kết.

Được sự giúp đỡ của các Hội Đòan,Đồng Bào Cô Bác Thân Hữu cùng các Anh Chị Em Thanh Thiếu Nhi. Nhất là Đội Lân Bremen, trong tinh thần rất cao Các Vị đều là những người tuổi ngoài 60 đã không quản khó nhọc gánh vác chuyện Múa Lân nặng nề yểm trợ Phái Đoàn Diễn Hành từ đầu đến cuối, Ban Cao Niên cũng không thua gì trong phần hỗ trợ, dậy sớm thức khuya lo miếng ăn nước uống cho mỗi người.

Lễ Diễn Hành Văn Hóa do HNVTNCS Hamburg tổ chức thành công và kết thúc tốt đẹp trong Công Cuộc Bảo Vệ Cờ Vàng và giới thiệu Văn Hóa Việt Nam đến các nước bạn.

Lời Kết

Kính Thưa Quý Hội Đoàn, Quý Cô Bác, Thân Hữu cùng Anh Chị Em Thanh Thiếu Niên mặc dù công cuộc đấu tranh Bảo Vệ Cờ Vàng là bổn phận và trách nhiệm của mỗi người Việt Nam yêu Tự Do, đã từng thừa hưởng sự bao bọc che chở của Cờ Vàng. Các Vị trong ngày Diễn Hành Văn Hóa đã thể hiện tình tương thân tương ái đến với Cộng Đồng và lòng quyết tâm cho Công Cuộc Chung.

Ban Đại Diện Hội NVTNCS Hamburg rất hân hạnh đón nhận được sự giúp đỡ của Qúy Vị cũng như những Vị tuy không có mặt trong Lễ Diễn Hành nhưng đã âm thầm phù trợ giúp đỡ quảng bá cho BĐD Hội hay nh ững Vị yểm trợ Hội với những số đồ cho Hội mượn đễ tổ chức ngày Diễn Hành Văn Hóa.

Một lần nữa Ban Đại Diện Hội NVTNCS Hamburg chân thành Cám Ơn Quý Hội Đoàn,

Quý Đồng Hương đã hết lòng yểm trợ, cộng tác với Ban Đại Diện cùng chung mục đích Bảo Vệ và Vinh Danh Cờ Vàng cũng như biểu dương Văn Hóa Việt Nam trong ngày Lễ Hội Văn Hóa 12.09.2009 tại Hamburg.

Rất mong rằng Ban Đại Diện sẽ được đón nhận nhiều hổ trợ từ những Đồng Hương khác trong Cộng Đồng NVTNCS trên toàn nước Đức vì Công Cuộc Chung cho kỳ Lễ Diễn Hành năm tới.

Trân Trọng

Ban Đại Diện HNVTNCS tại Hamburg
oo0oo















Nguyễn Thanh Ngọc

Trời thành phố Hamburg đã sắp vào thu. Ban đêm nhiệt độ đã xuống trên dưới 10°C, ngày ngắn và đêm dài ra dần. Đây cũng là thời khoảng thành phố Hamburg tổ chức ngày Diễn Hành Văn Hóa hằng năm, bắt đầu từ năm 2003.

Như những lần trước, năm nay Hội Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại Hamburg cũng đứng ra ghi danh với chính quyền để chính thức tham gia cùng non 80 sắc dân khác, tổng cộng khoảng 1500 người. Chương trình lễ kéo dài 3 ngày, từ 11 đến 13 tháng 9, 2009, nhưng người Việt chỉ tham gia vào ngày thứ Bảy, 12.9, tức là ngày diễn hành trên các đường phố ngoài trung tâm.

Trước 11 giờ người trong Hội đã có mặt tại nơi được ban tổ chức sắp xếp để chuẩn bị trang trí xe hoa và những phần khác. Năm nay có mặt hai con lân, lân bố do Hội Người Việt ở thành phố láng giềng Bremen đảm trách và lân con do các thiếu nhi của Hamburg múa.

Đúng 12 giờ rưỡi, đoàn diễn hành bắt đầu lên đường từ khởi điểm đường Lange Reihe cạnh nhà ga chính, đi qua khu thương mãi sầm uất và tiến về đích là sân trường đại học Hamburg, trên đoạn đường dài gần 3 cây số.

Tuy trang phục không lộng lẫy, sặc sỡ màu sắc như các sắc dân Nam Mỹ, Âu Châu, Trung Hoa (Pháp Luân Công) và không nhảy múa, xử dụng dàn nhạc vui tai như họ, nhưng đoàn Việt Nam cũng được dân chúng hai bên đường đón nhận nồng nhiệt, thể hiện qua những cái nhìn thiện cảm và lượng máy chụp hình chỉa về phía đoàn.

Bảng tên Hội dài 4 thước được hai thanh niên cầm, dẫn đầu phái đoàn. Theo sau là lá cờ vàng và cờ Đức. Lá đại kỳ do 6 thanh nữ là điểm nổi bật của đoàn. Tiếp theo là xe hoa được trang bị âm thanh, một phần phát các bản hùng ca như Hội Nghị Diên Hồng, Ải Chi Lăng, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ, …, một phần để chiếc trống to cho hai bố con lân. Đặc biệt, ngoài hai cờ Việt, Đức trên xe, lá cờ đỏ đặc trưng của tiểu bang Hamburg với hình chiếc tháp màu trắng còn phất phới tung bay trong gió đôi khi làm lạnh buốt các bà các cô mặc áo dài truyền thống. Một đặc điểm khác nữa là những tác phẩm và màn múa kiếm, múa lụa của nhà vẽ kiểu thời trang Ngân Tuyền và các bạn của cô; vừa đi vừa múa và diễn hoạt cảnh Hai Bà Trưng và đám cưới. Những chiếc áo dài tươi mát, sặc sỡ hoặc thanh tân, lạ lẫm đã thu hút rất nhiều ống kính của dân chúng và phóng viên đứng đầy hai bên đường.






























Hai điểm nổi bật khác nữa của đoàn Việt Nam là hình ảnh một bé gái chừng 4, 5 tuổi trông thật xinh xắn trong chiếc áo dài màu hường đậm, tay cầm lá cờ vàng giơ cao một các hãnh diện. Và chiếc đòn gánh gánh hoa và trái cây 4 mùa đủ màu trông thật ngộ nghĩnh, bắt mắt và rất Việt Nam. Ngoài ra đoàn còn được sự tham dự của một nhóm thanh niên Vovinam đi đoạn hậu.

Sau hai tiếng rưỡi diễn hành, đoàn đã đến đích và giải tán trong sự mệt nhọc nhưng không kém phần hân hoan vì đã đóng góp một phần nhỏ của mình vào việc đem một ít văn hóa Việt Nam để hòa cùng văn hóa các dân tộc khác đang sinh sông tại Hamburg. Vui hơn nữa, ai cũng hiểu rằng đó là dịp tốt mang hình ảnh lá cờ vàng của người Việt tự do ra giới thiệu với thế giới. Nhờ thế, những làn gió lạnh cuối hè đã không làm chùn chân khoảng 50 Việt người đi tham dự diễn hành. Hamburg là phố cảng lớn thứ hai ở Âu Châu sau Rotterdam của Hòa Lan. Hôm đó dù trời nắng nhưng cũng không đủ làm ấm làn không khí còn vương vấn cái lạnh từ đêm trước.

Sau cùng, bài tường thuật sẽ rất thiếu sót nếu quên kể đến những ổ bánh mì thịt lẫn chay rất ngon miệng do các bà như bà Đường của Ban Cao Niên Hamburg chuẩn bị, đã được mọi người chiếu cố tận tình trước và sau khi cuộc diễn hành chấm dứt vào lúc 15 giờ cùng ngày. Dĩ nhiên, như những năm trước, phần nước suối, trà, cà phê nóng cũng đã được Hội Người Việt và Ban Cao Niên lo cho đoàn rất chu đáo.

Năm nay ít người tham dự hơn vì cùng giờ, cùng ngày, lễ khánh thành đài tưởng niệm thuyền nhân thứ ba tại người Đức đang diễn ra ngoài cảng Hamburg với trên 1000 tham dự viên đến từ khắp nơi trên nước Đức. Hai tượng đài khác được đặt tại nghĩa trang Öjendorf, cũng tại Hamburg và tại Troisdorf, quê hương tiến sĩ Neudeck, cha đẻ ba con tàu Cap Anamur đã từng cứu 11.300 thuyền nhân Việt Nam trên biển đông hơn 20 năm về trước.




Nguyễn Thanh Ngọc