Saturday, September 5, 2009

Kangaroo Nhất Thế Giới - Ngô Nhân Dụng


Ngô Nhân Dụng

Ngày Thứ Hai này người Việt ở Úc sẽ đổ về thủ đô Canberra biểu tình trước trụ sở Quốc Hội. Bà con sẽ gửi cho thủ tướng Úc một câu mà người Việt ai cũng thuộc lòng: “Ðừng nghe những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm”. Thủ Tướng Kevin Rudd cần mang theo cẩm nang đó trong túi, lâu lâu lại mở ra coi cho khỏi quên, khi gặp ông Nông Ðức Mạnh, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam. Ông Rudd làm thủ tướng một nước dân chủ cho nên chắc chắn ông ta phải lắng nghe tiếng nói của các công dân trong lớp tuổi đi bỏ phiếu. Cho nên xin nhờ đồng bào Việt ở Úc đưa cho ông thủ tướng của quý vị một đề nghị nữa. Trong lúc hai ông Rudd và Nông gặp nhau thế nào họ cũng trao đổi quà kỷ niệm. Bà con hãy đưa cho ông Rudd một món để nhờ tặng ông Nông, quà tặng là hình nộm một con kanguru với một chữ viết trên đó, Non! (Nhớ có dấu chấm tán thán). Non, trong tiếng Pháp đọc là Nông y như tên ông Nông Ðức Mạnh, và lại có nghĩa là Không! Ý nghĩa món quà đó là: Ðừng có bầy trò Kangaro nữa! Căng gu ru (còn gọi là đại thử) là một con vật không may mắn, bị đem tên ra để gọi những phiên tòa giả hình, bịp bợm. Ở Việt Nam chế độ công an làm chủ sắp sửa đưa các bạn Lê Công Ðịnh, Trần Huỳnh Duy Thức, Trần Kim Ánh, Lê Thăng Long và Nguyễn Tiến Trung ra tòa. Mà ai cũng biết đó sẽ là một thứ “Tòa án căng gu ru,” xử án theo lối mì ăn liền, trên bảo kết tội nào thì tuyên án đúng tội đó, trên bảo bỏ tù thì bỏ tù, bảo tha thì tha. Trong các chế độ Cộng Sản xưa và nay tòa án vẫn căng gu ru như vậy.

Luật Sư Trần Lâm là người sẽ biện hộ cho các người sắp phải ra tòa, đã nói rằng ông tin tưởng tòa án sẽ có quyền phán xử chứ không đến nỗi căng gu ru như thế đâu. Nếu đúng như lời ông thầy cãi nói thì thật là đại phước. Chỉ sợ trong cả hệ thống tư pháp căng gu ru thì từ quan tòa đến trạng sư đều căng gu ru, không ai quan tâm đến các nguyên tắc pháp lý cả!

Luật Sư Trần Lâm ca ngợi những bị cáo thân chủ của ông là những người “yêu nước,” mặc dù họ có những ý kiến khác với chính sách của nhà nước. Nói như vậy rất nguy hiểm. Vì ở tòa án thường người ta chỉ đem luật ra xử, chứ không cần biết bị cáo nhân có yêu nước, yêu nhà, yêu vợ, thương con hay không! Mà khi nói đến luật lệ thì ở trong nước Việt Nam ai nói khác, nói ngược ý kiến của đảng và nhà nước là đủ bị ghép tội “âm mưu lật đổ chính quyền của giai cấp vô sản” rồi! Ðiều 4 trong hiến pháp cho đảng Cộng Sản độc quyền “lãnh đạo nhà nước và xã hội.” Nhắc lại: Cả nhà nước lẫn xã hội, trong đó có các bạn Lê Công Ðịnh, Trần Huỳnh Duy Thức, Trần Kim Ánh, Lê Thăng Long và Nguyễn Tiến Trung. Khi các bạn dám có ý kiến khác với đảng Cộng Sản tức là các bạn “vi phạm hiến pháp,” cái tội nặng tầy đình! Cho nên quan tòa có thể sẽ đồng ý với Luật Sư Trần Lâm rằng các “bị can” có ý kiến với đảng Cộng Sản, và kết luận rằng họ đáng đi tù!

Cách tốt nhất là Luật Sư Trần Lâm nên chứng minh rằng các “bị can” trên không hề chống đảng mà còn đang theo đuổi những mục tiêu “không khác gì đảng Cộng Sản!” Chứng minh dễ lắm. Bởi vì cả cái đảng đó cũng rất căng gu ru, lúc nào cũng tuyên truyền toàn những điều hay, chuyện đẹp ca - chỉ khi làm thì làm khác thôi! Ông Trần Lâm chỉ cần tìm trong những bài diễn văn hoa mỹ của các lãnh tụ đảng từ thời 1930 đến giờ, thế nào cũng thấy những câu nói với nội dung không khác gì các bạn trẻ đang viết trên mạng lưới hoặc gửi email!

Nhưng nhớ lại những phiên tòa cũ thì chúng ta lại lo. Vì thấy có những người làm đúng các khẩu hiệu mà đảng Cộng Sản hô hào, họ cũng bị đem kết án tù. Các ông Trần Khuê, Phạm Quế Dương, Nguyễn Ðan Quế trước đây chỉ mới nêu ra ý kiến lập một hội chống tham nhũng, mà lại nói rõ là hội của họ “giúp đảng và nhà nước chống tham nhũng!”. Vậy mà đảng với nhà nước không chịu, vẫn sai lính bắt, ghép cho họ tội to lớn là làm “gián điệp!’. Nhưng cuối cùng ra tòa xét xử thì đảng đổi ý kiến, bảo quan tòa đổi lại tội trạng thành “lạm dụng những quyền tự do, dân chủ.” Tòa án căng gu ru, cả hệ thống tư pháp, cả chế độ cai trị đều căng gu ru như vậy đấy! Vẫn kể lại chuyện cũ, trong phiên xử sơ thẩm nhà báo Nguyễn Vũ Bình, một đảng viên Cộng Sản muốn góp ý kiến để làm cho đảng sạch sẽ hơn, bà vợ ông nhận được giấy báo tin. Bà được mời đến một phòng xử, ngồi đợi đó với hy vọng được nhìn thấy mặt chồng. Nhưng trong lúc bà ngồi chờ như thế, phiên tòa xử chồng bà lại diễn ra ở một phòng khác! Cả hệ thống pháp luật được đem ra sử dụng để đánh lừa một phụ nữ hiền lành, không làm hại gì đến ai hết cả! Thật không có xứ nào trên thế giới mà phong cách căng gu ru đạt trình độ cao như hệ thống tư pháp nước Việt Nam! Không biết tại sao loài người lại đi lăng mạ con đại thử, tức “kangaroo,” một con vật rất dễ thương, biểu tượng của Úc Châu bằng cách đem tên nó đặt cho những tòa án bịp.

“Tòa án căng gu ru” bây giờ đã trở thành một tên quốc tế. Các nhà ngữ học Úc Châu cho biết cái tên “tòa án căng gu ru” không phải do người Úc đặt ra. Nghiên cứu kỹ càng thì biết cái tên này đã được sử dụng vào giữa thế kỷ 19, trong thời có cuộc chạy đua tìm vàng ở California! Lần đầu tiên tên gọi này được viết trên giấy là năm 1853.

Những người đi tìm vàng ở California 150 năm trước sống ở những nơi hầu như chưa có pháp luật. Nhưng họ cũng theo một thứ tinh thần công lý; khi một người bị tố cáo là chiếm chỗ đất mà người khác đã “xí phần” thì họ thường họp nhau lại đem “bị cáo” ra xử. Nhưng tòa án xử theo áp lực của đám đông hò hét, theo lối “tòa án nhân dân” chứ không cần luật lệ, không cần thủ tục, không có luật sư, cũng không cần nhân chứng.

Chúng tôi xin xác nhận mình không có ý nói xấu tất cả các vị quan tòa và các luật sư đang làm việc ở Việt Nam. Họ có thể là những người rất đáng kính trọng trong đời tư; có thể là những người chăm chỉ, hiền lành, sống trung hậu vì đã được cha mẹ dậy dỗ đàng hoàng. Nhưng họ có cái tật là đảng viên thì phải tuyệt đối trung thành với đảng Cộng Sản, chăm chắm làm đúng bổn phận với đảng, đúng như lời dậy của Hồ Chí Minh về “đạo đức cách mạng.” Ðảng là luật pháp, đảng là lương tâm. Các quan tòa được giáo dục và đào tạo như vậy thì tất nhiên sẽ xử theo lối căng gu ru! Họ phải chủ tọa các phiên tòa theo phong cách căng gu ru, đưa ra những bản án căng gu ru. Vì tất cả hệ thống pháp lý của các chế độ Cộng Sản, từ Nga Xô, Trung Quốc, Bắc Hàn cho đến Việt Nam, nó căng gu ru như thế. Khi tra cứu để hiểu chữ “kangooroo” trên mạng lưới Google, tôi đã tìm được một câu chuyện tòa án căng gu ru xẩy ra ở Việt Nam, trong một tài liệu của Cơ Quan Phát Triển Liên Hiệp Quốc. Ðây là một dịp hiếm hoi mà luật pháp Việt Nam, tòa án Việt Nam được nhắc đến làm thí dụ cho cả thế giới đọc.

Câu chuyện bắt đầu năm 1992, ở Tuyên Quang. Có hai công an mặc thường phục đi xe đụng một em bé con trai 10 tuổi. Sau đó xẩy ra một vụ ẩu đả giữa gia đình em bé và nhiều tay công an. Một người trong gia đình bị đánh ngất đi. Sáu người trong gia đình em bé bị truy tố ra tòa về tội làm mất trật tự. Họ có luật sư nhưng tòa không cho luật sư nào biện hộ. Công an đã đọc trước tòa một bản lời khai của các “nhân chứng,” các nhân chứng này không có mặt tại tòa. Gia đình nạn nhân đưa hai nhân chứng khác tới phản đối những lời khai trong bản báo cáo là sai sự thật, nhưng tòa bỏ qua. Sau đó sáu “bị can” bị phạt mỗi người ba tháng tù treo.

Trong đám sáu bị can này có một cô giáo, cô này đã đậu cử nhân luật, cô lên tiếng phản đối phiên tòa không hợp lệ. Cô bị đánh đập ngay trong phòng xử án, cho tới lúc cô cũng ngất xỉu. Tòa ra lệnh đưa cô trở lại phòng giam để thẩm vấn thêm; nhưng đêm hôm đó cô được tha, cũng chẳng biết tại sao họ lại tha.

Câu chuyện tưởng là yên, cho tới ba năm sau, 1995, cô giáo trên bị công an đến tận trường bắt. Sau đó, cô lại bị truy tố, đem ra tòa xử, và bị kết án sáu tháng tù vì cái tội ba năm trước đã lên tiếng khóc “oe oe” mất trật tự trong tòa. Cô lại “oe oe” phản đối cung cách phiên xử trái luật, vì cô đã học luật không nói không nhịn được, nhưng tòa án làm ngơ!

Câu chuyện trên, do ông Trần Ðình Hoành kể lại, được ghi vào tài liệu của UNPD, rồi được công ty Google nêu lên làm thí dụ về Tòa Án Căng Gu Ru, sẽ tạo thêm “danh giá” cho hệ thống tư pháp Việt Nam, cả thế giới phải biết đến. Nhờ có đảng lãnh đạo, dân tộc Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến sẽ được khen ngợi là có nền tư pháp căng gu ru nhất thế giới!

Cho nên, khi ông Thủ Tướng Kevin Rudd gặp ông Nông Ðức Mạnh, bà con người Việt tại Úc hãy gửi ông ta tặng cho ông Nông một hình nộm con kanguru tiêu biểu của xứ Úc. Viết chữ “Non” trên đó, và giải thích đó là cách đọc chữ Nông theo lối quốc tế! Ðể gửi một thông điệp: Hãy ngưng ngay các phiên tòa căng gu ru!

Còn riêng ông Kevin Rudd, ông có thể vẫn tặng cho ông Nông Ðức Mạnh một hình nộm con căng gu ru nhồi bông to béo, viết một chữ “No-1” cũng to béo ai nhìn qua cũng phải thấy. Món quà tặng sẽ chính thức giải nghĩa cho ông Nông Ðức Mạnh nghe là: “Tình Thân thiện Việt-Úc là Số Một, Number One!”. Nhưng giữa người Úc với nhau, giữa người Việt với nhau, chúng ta có thể hiểu thông điệp khác. Món quà này nghĩa là: “Kanguru Number One!” Tòa án của ông Nông Ðức Mạnh được bầu là căng gu ru nhất thế giới!

Ngô Nhân Dụng

Wednesday, September 2, 2009

Sydney: Thông Báo Biểu tình chống việt gian cộng sản VN Nông Đứt Cạp

Thông Báo

Biểu tình chống việt gian CSVN Nông Đức Mạnh đến Úc

Được tin Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Đảng CSVN sẽ có mặt tại Úc vào đầu tháng 9 này, BCH/CĐNVTDUC/NSW trân trọng thông báo và kính mời Quý vị Lãnh đạo Tinh thần các Tôn giáo, Quý vị Đại diện các Hội đoàn Đoàn thể, Quý vị Đại diện các cơ quan truyền thông và toàn thể quý đồng hương tham dự những cuộc biểu tình do CĐNVTD/Úc Châu và NSW tổ chức với những chi tiết như sau:
  • Ngày Thứ Hai 07/09/2009
  • Địa điểm Trước Quốc Hội Parliament House Canberra
  • Thời gian 9:00 giờ sáng
Xe buýt sẽ khởi hành tại 3 địa điểm:
    1. Marrickville:Trước Marrickville RSL Club, trên đường Illawarra Rd; vào lúc 5g00 sáng
    2. Bankstown:Đối diện văn phòng Cộng Đồng, đường Olympic Pde; vào lúc 5g30 sáng
    3. Cabramatta:Tại Cabra Vale Park trên đường Railway Pde, vào lúc 6g00 sáng.

  • Ngày Thứ Ba 08/09/2009
  • Địa điểm Trước Quốc Hội Parliament House NSW (Sydney), Macquarie St Sydney (gần ga Martin Place và St James Station)
  • Thời gian 4 giờ 30 chiều
  • Phương tiện tự túc
Nông Đức Mạnh và tập đoàn cộng sản Việt Nam đang áp đặt một chế độ độc đảng, độc tài, phản quốc và phi nhân bản, vì vậy sự có mặt của Nông Đức Mạnh tại Úc là một thách thức lớn lao đối với cộng đồng tỵ nạn chúng ta tại Úc Châu.

Chúng ta sẽ tiếp tục lên án chế độ Cộng Sản Việt Nam đã phản quốc dâng đất, dâng biển cho Trung Cộng và đã khiếp nhược im lặng trước mưu đồ xâm lăng bá chủ của Trung Cộng, để mặc cho chúng chiếm đóng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam và khai thác Bauxite trong vùng Tây Nguyên.

Chúng ta sẽ cực lực lên án chế độ CSVN đàn áp các tôn giáo, mà gần đây nhất là vụ đàn áp dã man gây thương tích cho nhiều giáo dân vô tội tại giáo xứ Tam Tòa.

Chúng ta đồng thời tố cáo nhà cầm quyền CSVN cướp đoạt đất đai, tài sản của các Giáo Hội và của người dân oan vô tội trong nhiều thập niên qua. Chúng ta tố cáo nhà cầm quyền CSVN đàn áp và giam cầm những người bất đồng chính kiến đang đấu tranh đòi dân chủ và nhân quyền cho dân tộc Việt Nam.

Người Việt hải ngoại nói chung và Úc Châu nói riêng có trách nhiệm tố cáo những vi phạm nhân quyền trầm trọng của CSVN trước công luận quốc tế, đồng thời yêu cầu Thủ Tướng Kevin Rudd và chính phủ Úc phải lưu tâm đến vấn đề nhân quyền và các giá trị nhân bản trong mối bang giao giữa Úc và Việt Nam.

Sydney ngày 1 tháng 09 năm 2009
TM/BCH/CĐNVTD/UC/NSW

Chủ tịch
LS Võ Trí Dũng
*****
    THÔNG BÁO KHẨN CỦA CỘNG ÐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO VICTORIA.
V.v: Tham dự Cuộc Biểu Tình Chống Chuyến Viếng Thăm của việt gian CSVN Nông Ðức Mạnh, tại Canberra ngày 7-9-2009.

Ban Chấp Hành Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Victoria xin trân trọng kính mời toàn thể đồng bào, các hội đoàn đoàn thể và tổ chức chánh trị cùng tham gia cuộc biểu tình chống chuyến viếng thăm của Tổng Bí Thư Ðảng Cộng Sản Việt Nam Nông Ðức Mạnh tại Canberra vào ngày thứ Hai 7-9-2009 tới đây.

Xe bus chở đoàn biểu tình sẽ đón đồng bào tại hai địa điểm:
    Tại Springvale: Văn phòng Hiệp Hội Tương Trợ Người Ðông Dương (SICMAA)
    9 Hillcrest Grove, Springvale. Tel: 95477939.
    Lúc: 8 giờ tối

    Tại Footscray: Văn phòng CÐNVTD-VIC
    214 Nicholson St, Footscray. Tel: 9689 8515
    Lúc: 9 giờ tối
    Vào ngày: Chủ nhật 6-9-2009

    Lệ phí di chuyển: $40.00
Ðoàn biểu tình sẽ đến Quốc Hội Canberra vào khoảng 9 giờ sáng ngày 7-9, tham gia biểu tình và rời Canberra vào khoảng 1 giờ trưa để trở về tới lại Melbourne vào khoảng 10 giờ tối ngày 7-9 cùng ngày.

Ðể ghi danh, xin quý vị vui lòng liên lạc với cô Nguyễn Lê Thanh Trúc qua đt số: 0402 540 837.

Hãy cùng nhau lên tiếng cho đồng bào bất hạnh trong nước và lên tiếng cảnh báo về hiểm hoạ bán nước của CSVN do Nông Ðức Mạnh cầm đầu.

Trân trọng kính mời,
TM/BCH/CÐNVTD-VIC

Nguyễn Thế Phong
Chủ tịch xử lý thường vụ.
31-8-2009.

Chúng ta nhận định thế nào về những tin tức liên quan tới Đức TGM Ngô Quang Kiệt? - Lm Trần Công Nghị

VietCatholic News (02 Sep 2009 01:24)

Lm Trần Công Nghị

Vào ngày 10/8/2009 một bài viết trên một diễn đàn đưa tin với tựa đề “Đức Cha Ngô Quang Kiệt từ chức Tổng giám mục Hà Nội”. Tiếp sau đó, chúng tôi đã nhận được rất nhiều emails hỏi về tính xác thực của bản tin trên. Sau khi liên lạc với một số vị hữu trách trong giáo phận Hà Nội, chúng tôi đã trả lời các bạn đọc như sau:

“Tin liên quan tới ĐTGM Ngô Quang Kiệt đã được kiểm chứng như sau: Sau khi đi Roma về Đức TGM Hà nội đã đi nghỉ ngơi ở nhà dòng Châu Sơn ở Nho Quan, Ninh Bình từ ngày 24/7 đến 9/8/2009, vì trong chuyến viếng thăm Tòa Thánh, ngài bị mất ngủ nên khá mệt. Ngài muốn nghỉ ngơi để có sức khoẻ hoàn toàn tiếp tục công việc. Sau hai tuần nghỉ ngơi, Ngài đã trở về Tòa tổng giám mục Hà Nội ngày 9/8 và hôm sau 10/8 đã dâng lễ ở nhà thờ chính tòa Hà Nội mừng lễ quan thầy Đức cha phụ tá Laurensô Chu Văn Minh.

Cuộc ‘gặp gỡ giữa Đức Tổng và Đức cha phụ tá Laurensô Minh với ĐTC Bênêdictô trong chuyến ad limina vừa qua diễn ra tất thân thiện, cởi mở và hiếu biết tốt đẹp. Tin Đức TGM đã từ chức là tin hoàn toàn sai sự thật”.

Tiếp sau đó vài ngày một người nhậy tin lại viết thông báo cho chúng tôi như sau:

“Một vị linh mục bên Pháp có tới Roma dịp các Giám mục VN triều yết ĐTC cho biết: Ở Roma, đức TGM Kiệt và đức cha phụ tá Laurensô Minh yết kiến ĐTC có một vị Hồng y Bộ trưởng ngồi bên, nói chuyện qua một vị thông ngôn, ĐHY nói đức TGM Kiệt nay còn giữ chức vị, nhưng hầu hết các công việc trao lại cho GM phụ tá Laurensô Minh. Thật 'tội nghiệp' cho Đức TGM Kiệt”.

Đọc xong tin này, chúng tôi thấy có gì không ổn, vì khi chúng tôi xem lại tấm hình ĐTC tiếp kiến với 2 giám mục Hà nội thì không có thông dịch viên nào hết. Rõ ràng trong hình chụp ĐC phụ tá Laurenzô Minh và là Đức TGM Hà Nội nói truyện trực tiếp với Đức Thánh Cha Benêdictô XVI mà không có thông dịch nào cả (Đức TGM Hà nội nói khá thông thạo cả Pháp ngữ và Anh ngữ). Tin này lại càng làm dư luận hoang mang thêm nữa.

Đàng khác theo sự hiểu biết về giáo luật của Giáo hội Công giáo việc bổ nhiệm đều phải qua những thủ tục giấy tờ rất minh bạch và công khai.

Muốn bổ nhiệm ai vào chức vụ nào, ngay cả một linh mục, hay cất quyền vị linh mục nào, cũng đòi hỏi đấng bản quyền phải chính thức ra văn bản. Đồng thời phải nêu lý do chính đáng, chứ không thể ra lệnh bằng miệng hay ra lệnh ngầm là được!. Phương chi đây là địa vị của một vị Tổng giám mục tại thủ đô của một quốc gia. Việc đó không những đòi hỏi giấy tờ đàng hoàng mà còn phải công khai nêu lý do và những khoản luật liên hệ đến việc từ nhiệm và lý do từ nhiệm chính đáng ra sao.

Riêng với địa vị một vị Giám mục chính tòa, không ai có quyền cất chức bất cứ vì lý do nào, ngoại trừ vị đó vi phạm những vấn đề về tín lý (dậy dỗ những điều lạc đạo) hay có những hành động luân lý gây tác động tai hại nghiêm trọng – và việc này chỉ xẩy ra khi có một Ủy ban được Tòa Thánh chỉ định đã điều tra kỹ lưỡng, rồi đệ trình kết quả lên Tòa án Vatican xét xử. Tòa án đưa ra phán quyết, nhưng sau đó, vị Giám Mục liên hệ vẫn có quyền chống án. Sau tất cả tiến trình này, và sau thủ tục kháng án, mà tòa vẫn công nhận vị Giám Mục có sai phạm, thì lúc đó Đức Giáo Hoàng nhân danh ngôi vị đại diện ngôi tòa Giám mục Roma đưa ra phán quyết cuối cùng.

Chúng ta cũng cần ghi nhớ là mỗi giám mục được truyền chức hợp lệ, đều có đồng quyền hành như các thánh “tông đồ” và bình đẳng ngang nhau, và về phương diện này thì quyền hành của giám mục tại mỗi giáo phận cũng ngang quyền với giám mục của thành Roma. Tuy nhiên có điểm đặc biệt là Đức Giáo Hoàng vì là giám mục của ngai tòa thánh Phêrô tông đồ ở thành Roma nên có quyền là dậy dỗ tối thượng (supreme magisterium) và là đầu của Giáo hội, là đại diện Chúa Kitô, quyền tối thượng của Giáo hoàng là để bảo đảm sự hiệp nhất trong Giáo hội.

Dù đã được cải chính, nhưng qua các diễn đàn trên internet, qua email và điện thoại di động, tin Đức TGM Ngô Quang Kiệt bị áp lực từ chức (người ta nói đến áp lực từ Vatican để mau chóng có ngoại giao; hoặc là áp lực từ chính quyền Hà nội vì Đức TGM Hà Nội đã từng gây ra việc mất mặt cho chính quyền! hoặc áp lực từ phía một số các Giám mục Việt Nam cho rằng tiến trình giao hảo giữa đời và đạo theo con đường đối thoại có thể đưa đến kết quả tốt hơn là cách thức của TGM Hà Nội!). Do vậy tin tức về việc từ chức vẫn tiếp tục được phổ biến một cách nhanh chóng và rộng rãi, làm xao xuyến những người yêu mến TGM Ngô Quang Kiệt, tha thiết với việc đấu tranh cho công lý, và quan trọng nhất tạo nên hình ảnh một Giáo Hội Việt Nam hình như đang có nguy cơ rạn nứt về sự hiệp thông, ngay trong hàng ngũ chủ chăn cao cấp nhất. Đồng thời làm hả hê nhà cầm quyền Việt Nam và những người không đồng quan điểm và đường lối của vị TGM Hà Nội.

Một bài viết khác vào ngày 25/8/2009 với tựa đề "Xung quanh tin tức về việc Đức TGM Ngô Quang Kiệt làm đơn 'xin' từ chức" được phổ biến rộng rãi trên các diễn đàn internet lại càng làm tình thế xao động thêm. Tác giả cho biết các nguồn tin khả tín từ đâu ra và nêu rõ là: "Thực ra không phải Đức TGM Ngô Quang Kiệt đã từ chức mà mới chỉ có sự kiện ngài làm đơn từ chức".

Tuy nhiên câu hỏi chính tác giả bài viết nêu trên đặt ta như sau: "Nguyên nhân làm đơn từ chức: Áp lực từ phía HĐGM VN và Vatican?".

Thế rồi tác giả đặt giả thuyết cho câu trả lời như sau: "Như vậy, nguyên nhân dẫn đến việc đệ đơn từ chức của ngài chỉ có thể bắt nguồn từ sự bất đồng quan điểm với các giám mục trong HĐGM Việt Nam, hoặc có sự đánh đổi nào đó đối với HĐGM Việt Nam và/ hoặc đối với Toà Thánh Vatican.

Sự đánh đổi này có thể xuất phát từ nhận thức của đa số các giám mục Việt Nam về mối quan hệ giữa Giáo hội Công giáo và chính quyền Cộng sản Việt Nam."

Tiếp theo đó, bài viết còn đưa ra những tiên đoán những vị nào sẽ được Tòa thánh bổ nhiệm thay thế vào ngôi vị Tổng giám mục Hà Nội.

Bài viết nêu trên còn trích lời một giám mục có tuyên bố rằng "Đức TGM Ngô Quang Kiệt đã viết đơn từ chức gửi lên các giới chức thẩm quyền ở Vatican". Chúng tôi có trực tiếp hỏi vị giám mục này nhưng không được Ngài xác nhận và ngài chọn đường lối không muốn bình thêm gì cả.

Bài viết cũng đưa ra một số những “tiên đoán” và được kể như là sự kiện giật gân liên quan tới một số giám mục với những tình tiết như sau:

“Một số linh mục gặp gỡ Đức cha Nguyễn Văn Nhơn hồi năm 2008 còn cho biết, ngài Chủ tịch HĐGM Việt Nam, có vẻ đã sẵn sàng cho nhiệm vụ tổng giám mục Hà Nội, một khi được bổ nhiệm”.

“Linh mục Phan Xuân Thanh, Huế, đã nói với một số linh mục rằng: Đức Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt sẽ “đi” khỏi Hà Nội và Ngài tổng giám mục Nguyễn Như Thể sẽ ra làm tổng giám mục Hà Nội và sẽ được vinh thăng Hồng y”.

“Trong khi đó, lại có những linh mục khác nói rằng: Nhà nước Việt Nam đã đề nghị giám mục Hoàng Văn Tiệm, hiện đang làm giám mục Bùi Chu, hoặc giám mục Nguyễn Văn Nhơn, giám mục Đà Lạt làm tổng giám mục Hà Nội thay ngài Ngô Quang Kiệt, nhưng Giáo hội lại sắp xếp cho Giám mục Nguyễn Chí Linh, giáo phận Thanh Hoá, vào chức vụ này”.

Tính cách khả tín về những “tin mật ” và những “lời tiên đoán” như trên ở mức độ ra sao?

Nếu xét và phân tích theo những sự kiện gần đây và so sánh với hiện tình của Giáo hội Việt Nam thì những “tin mật” được nêu trên đây không phù hợp với đường lối và hoàn cảnh đặc thù của Giáo hội Việt Nam.

Những bổ nhiệm các Giám mục trong những năm gần đây cho thấy hầu như có chiều hướng cố gắng chọn lấy người địa phương để cai quản giáo hội địa phương tức là các giáo phận. Thí dụ đầu tiên là Đức cố giám mục Nguyễn Sơn Lâm được cử từ trong Nam ra Bắc làm giám mục Thanh hóa (vì là người nguyên gốc Thanh hóa). Việc này lúc đầu bị Giáo hội miền Bắc không muốn chấp nhận. Sau đó là việc Tòa Thánh muốn Đức Cha Nguyễn văn Hòa (gốc Hà nội) về làm Giám mục Hà nội và việc này hai ba lần vẫn không thành. Đức Cha Ngô quang Kiệt (người gốc Lạng Sơn) đầu tiên được cử làm giám mục Lạng Sơn, sau đó mới được cử làm Tổng giám mục Hà nội. Kế đến một số các Đức cha Nguyễn văn Thiên (gốc Hải phòng) làm giám mục Hải phòng; đức cha Hoàng văn Tiệm (gốc Bùi chu) làm giám mục Bùi Chu; đức cha Nguyễn chí Linh (người Thanh Hóa) về làm Giám mục Thanh Hóa; đức cha Hoàng văn Đạt người Bắc Ninh được bổ nhiệm làm giám mục Bắc Ninh, v.v… và gần đây nhất tân giám mục Nguyễn Năng (gốc Phát Diệm) được bổ nhiệm làm Giám mục Phát Diệm.

Xét về hoàn cảnh thực tiễn của Giáo hội Việt Nam thì vẫn còn những khác biệt sâu xa giữa 3 miền về tính cách lịch sử, văn hóa, nhân sự và lối sống. Do đó riêng 3 Tổng giáo phận Saigòn, Huế, Hà nội chắc chắn các vị được bổ nhiệm vào các chức tổng giám mục này – trong hoàn cảnh hiện nay – thì vẫn phải chọn những vị từ miền đó. Có nghĩa là bình thường và theo thói vẫn quen không thể đặt một vị Tổng giám mục gốc người Trung hay Nam làm Tổng giám mục Hà Nội được; cũng không đưa một giám mục người Bắc hay Nam vào vị thế làm tổng giám mục Huế. Cũng vậy tổng giám mục Saigòn sẽ dành cho một vị nào đó sinh ra tại miền Nam – và tuy dù có tin sang năm theo Giáo luật thì ĐHY Phạm Minh Mẫn sẽ phải viết đơn xin từ chức – tuy nhiên theo hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam, chắc chắn Đức Hồng Y JB Phạm Minh Mẫn sẽ còn được mời tại chức một thời gian nữa.

Xét như vậy và theo những người am hiểu tình hình giáo hội đều thấy rằng việc tiên đoán ĐC Nhơn và ĐC Thể “có thể” được đề cử làm Giám mục Hà Nội, trong hoàn cảnh hiện tại của Giáo hội VN không thích hợp và không có lý do đứng vững và không thực tế.

Còn hai vị là ĐC Tiệm và ĐC Linh được nêu tên ra có lý do gì đằng sau không?
Câu hỏi khác cũng không kém phần quan trọng là: Vậy nguyên nhân dẫn đến việc nguồn tin đệ đơn từ chức của TGM Hà Nội và tiên đoán những vị sẽ được đề cử là vì sao?

Một số nhận định từ các vị có kinh nghiệm trong Giáo hội cho rằng biết đâu những nguồn tin nêu trên có thể là từ những vị không đồng quan điểm với Đức TGM Hà Nội, hoặc chính tin đó là do nhà cầm quyền Việt Nam đưa ra nhằm gây chia rẽ giữa hàng Giám Mục với nhau,và gây nghi kỵ giữa giáo dân với hàng Giám Mục. Và chắc chắn những tin như vậy sẽ có tác dụng gây sự chia rẽ và làm khó dễ cho vai trò chủ chăn của Đức Tổng Giám Mục Ngô quang Kiệt. Người ta cũng có thể đặt giả thuyết là những nguồn tin cung cấp cho các tác giả viết bài báo với việc nêu danh tính đích danh nhằm vào thâm ý muốn ngăn chặn việc bổ nhiệm tương lai của chính các vị đó cũng nên chăng?

Cũng có thể tin đồn nói trên là của một người nào đó (hay một số người) vì quá nhiệt thành muốn Giáo hội phải lên tiếng trước những bất công, những nỗi gian nguy của dân tộc, hay những cảnh chèn ép giáo hội địa phương, Bauxite Tây Nguyên, Hoàng Sa, như Thái hà, Tòa Khâm Sứ, Tam Tòa, v.v… nên họ đã muốn cung cấp những nguồn tin "tiên đoán" để khi những tin này được tung ra là muốn làm áp lực thêm với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, kích động để các vị muốn bảo toàn danh dự phải lên tiếng, bằng không thì sẽ dẫn tới kế luận là Giáo hội Việt Nam khi chưa lên tiếng, là vì còn chia rẽ nội bộ và vì quyền lợi riêng cho giáo phận của mình.

Chiến thuật này là chiêu “khích tướng” đồng thời một cách vô tình cũng nhằm triệt hạ thanh danh một số người được nêu tên. Trong 4 vị được nêu tên thay thế TGM Hà Nội đều là những vị có địa vị cao và tài năng trổi vượt mà những người tranh đấu cho tự do công lý vì quá kì vọng nhiều vào các vị đó và mong muốn các vị này phải “lên tiếng” cách nào đó cho công lý và nhân quyền của những giáo dân bị bắt bớ và vài linh mục bị đánh đập, nói lên lập trường bênh vực những người cô thế trong xã hội và giáo hội. Họ cho rằng ĐC Nhơn với tư cách là Chủ tịch HĐGMVN không thể cứ im tiếng mãi, tuy dù Đức Cha Nhơn rất khôn ngoan và lại khéo léo nên sự phát triển riêng tại giáo phận của Ngài rất khả quan. Đức TGM Huế là người có nhiều kinh nghiệm và chín chắn, đã từng dẫn dắt địa phận Huế trải qua nhiêu thăng trầm, nhưng một số người mong mỏi Ngài lên tiếng một chút bênh vực Cha Lý và vụ Tam Tòa (trước thuộc Huế). Còn hai đức Cha ngoài Bắc được nhắc đến vì Đức Cha Tiệm thuộc Bùi Chu là người rất có tài kinh bang tế thế, những nhà thờ lớn được trùng tu, những công trình xây cất vĩ đại đang được thực hiện, hay tổ chức thành công những cuộc dâng hoa ca múa gồm cả từng ngàn người, hội trống hội kèn thổi rất là oai phong vĩ đại, thế mà nhiều người lại nghĩ ngài quá bận rộn nên đã quên đi và chưa từng một lần có sự đồng cảm ra thăm Thái Hà hay Tòa Khâm Sứ khi họ bị nạn. Riêng Đức Cha Linh của Thanh Hóa là phó Chủ tịch HĐGM nhưng Ngài thật âm thầm, kín đáo và rất tế nhị trong mọi biến cố.

Hoặc gỉa như những nguồn tin về thay đổi nhân sự vị thế TGM Hà Nội biết đâu cũng được tung ra từ phía cơ quan tuyên giáo CSVN nhằm mục đích đá trái bóng thử nghiệm phản ứng, hay với mục đích muốn phân hóa, gây hoang mang, và lũng đoạn Giáo hội Công giáo, gây sự chú ý của công luận về phía Giáo hội và triệt tiêu được sự chú ý của quần chúng để họ không màng đến các vấn đề sôi động khác như bauxite Tây nguyên hay việc dâng biển cúng đất cho Trung quốc mà chính quyền rất đang trong thế bị động?!

Đòn thâm độc thứ hai của tin đồn trên là nhắm đánh đổ vai trò của HĐGMVN và cho rằng các Giám mục Việt Nam không có viễn kiến, không đoàn kết, chỉ tư duy riêng, chỉ biết răm rắp theo ý kiến của Vatican, cho rằng các Giám mục VN sẵn sàng đánh đổi nhiều thứ miễn là tạo cho mối quan hệ giữa Giáo hội Công giáo và chính quyền Cộng sản Việt Nam được chóng đi tới. Đây là điều rất sai lầm. Giáo hội Việt nam ý thức về vai trò của mình là luôn luôn bảo vệ những giá trị truyền thống và nền văn hóa dân tộc trong việc sống đạo của mình chứ không bao giờ vì tư lợi mà phải đánh đổi những giá trị bất biến như nhân quyền, tự do, công lý và bênh đỡ người nghèo khó và cô thế.

Thực ra trong những ngày qua, trước những tin tức dồn dập về vụ Đức TGM Ngô Quang Kiệt chúng tôi đã cố gắng trực tiếp liên lạc với Đức Tổng nhưng mọi đường giây điện thoại đều đã bị cắt đứt hết, rồi ngài cũng hay đi nghỉ khi thì ở Châu Sơn, khi thì ở Sapa… Liên lạc với các vị có thầm quyền tại Hà nội hay một số nơi khác thì tất cả đều không xác nhân được nguồn tin đó là đúng hay sai vì “không ai biết gì đích xác cả”. Đang khi đó một vị giám mục trẻ người khi được hỏi về sự kiện này đã lên tiếng ban lời dậy dỗ chúng tôi như sau: “những gì liên quan giữa Tòa Thánh và các Giám mục là việc qúi cha và giáo dân không nên bàn tới”.

Chúng tôi cũng đã liên lạc với những nguồn tin trực tiếp từ Roma mà chúng tôi sẵn có để kiểm chứng nhưng tựu chung tất cả các vị đó đều “chỉ nghe nhưng không biết thực hư ra sao” và lại còn hỏi lại chúng tôi các nguồn tin của chúng tôi như thế nào?

Sau nhiều tham khảo và tìm hiểu về sự kiện này, chúng tôi xin được mạn phép nêu ra một vài nhận định như sau:

1. Thông thường các giám mục giáo phận chỉ làm đơn từ chức về lý do sức khoẻ kém, về lý do cảm thấy không đủ khả năng lãnh đạo giáo phận nữa, hoặc thông thường là đã đến tuổi nghỉ hưu.

Nói chung thì việc có những Giám mục xin được từ chức vì lý do sức khỏe do công việc quá căng thẳng và do hoàn cảnh sống tạo ra cũng là điều thường đã xẩy ra trong giáo hội. Có vị rất kinh nghiệm về vần đề này từ Roma đã tiết lộ cho chúng tôi rằng "Tôi đã thấy biết hằng chục vị Giám mục xin từ chức, và khi được từ chức xong thì người khỏe khoắn ra liền".

Đan cử vài trường hợp như ĐHY Schwery, giám mục giáo phận Sion ở bên Thụy sĩ, xin và được từ chức năm 1995 lúc mới 63 tuổi, nhưng từ đó đến nay đã 14 năm mà sức khỏe lại tốt hơn lúc làm giám mục!

Trường hợp cụ thể gần đây nhất là Đức cha Martino, 63 tuổi, Giám mục giáo phận Scranton, bang Pennsylvania mới từ chức hôm 31-8 vừa qua, Ngài đã tuyên bố "được ĐTC nhận đơn từ chức xong thì cảm thấy thoải mái vô cùng"... (CNS 31-8-2009)

2. Giả như có việc Đức TGM Ngô Quang Kiệt đã ngỏ ý xin từ chức cách nào đó đi chăng nữa thì chắc chắn theo sự am hiều của chúng tôi lý do duy nhất là vì tình trạng sức sức khỏe. Vì nghe đâu trong 4 hay 5 tháng trời vừa qua Ngài bị bệnh mất ngủ nhiều và tình trạng sức khỏe cũng vì đó mà yếu thêm. Sau khi đi Roma về Ngài đã đi nghỉ 2 lần, một lần tại dòng Châu Sơn ở Ninh Bình, lần khác trên vùng Sapa.

3. Chúng ta đặt giả thuyết thêm (như nhiều người đã nêu ra) là nếu như thực sự Đức TGM Ngô quang Kiệt vì lý do sức khỏe mà đã làm đơn xin từ chức, tại sao Tòa Thánh lại chưa chấp thuận hay không muốn chấp thuận.

Lý do rất dễ hiểu là trong lúc này chắc chắn Tòa Thánh sẽ không muốn và sẽ không để Đức TGM Kiệt nghỉ hưu vì làm như vậy chẳng khác nào gây thêm khó khăn cho Tòa Thánh vì người ta sẽ loan tin ngay là "do áp lực của Nhà Nước CSVN mà Tòa Thánh phải cho Đức Tổng Kiệt nghỉ".

Làm như vậy cũng sẽ làm mất mặt ngay cho Giáo hội Việt Nam là Giáo hội CGVN đã phải nhượng bộ CSVN và cũng gây ra sự chia rẻ trong hàng Giám mục cho rằng vì bất đồng về đường lối và chính kiến. Hơn thế còn tạo sự hiểu lầm giữa các thành phần dân Chúa, nhất là những người chống cộng tích cực sẽ kết án Giáo hội đã đầu hàng và bỏ rơi họ!

4. Những tin tức đã được tung ra "không đúng lúc đúng thời" có khi "không có sự thực trong đó" và những phỏng đoán hiện nay lại càng làm cho Đức TGM Hà Nội đã căng thẳng lại có thể căng thẳng thêm và làm cho những người hữu trách từ Tòa Thánh cho tới Hội Đồng GMVN và những nhân vật liên hệ, rất khó mà đưa ra một giải pháp cụ thể và thực tiễn trong lúc này. Vì giải pháp nào cũng sẽ bị quy kết trách nhiệm và những tội danh mà thực sự không phải là ý ngay lành hay động lực chân chính xuất phát từ những cá nhân liên hệ và những người có trách nhiệm quyết định trực tiếp.

5. Theo nhận định của riêng chúng tôi thì Giáo hội Việt Nam rất may là có hàng ngũ các vị lãnh đạo là các Giám mục rất kinh nghiệm, dám hy sinh, gan dạ và luôn chịu đựng dù phải trải qua biết bao nhiêu hiểu lầm và có khi bị kết án một cách bất công. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam vẫn là một khối đoàn kết và nhất trí; các vị đang khôn khéo lãnh đạo Giáo hội Việt nam với lòng nhiệt tâm và sự hy sinh cao cả, đang cố tìm con đường sống cho Giáo hội giữa muôn vàn chèn ép và áp lực từ mọi phía, đang khi đó lại thiếu phương tiện và nguồn lực; đồng thời cũng còn phải đương đầu với biết bao sóng gió, những tiếng kêu gào đòi đổi mới, đòi nhập cuộc, đòi chiến đấu, đòi hòa giải, đòi phải lên tiếng mạnh mẽ trước những thống khỏ và bất công. Có khi còn bị xỉ vả và vu cáo một cách hết sức bất công bất chấp sự thật nữa!

6. Biết đâu có thể vì sự khôn ngoan và dè dặt nên nhiều khi tiếng nói của các Giám mục Việt Nam đã không được hiểu và đón nhận đúng mức. Và do vậy việc nọ lại "lấn sân" sang việc kia, nên vấn đề cứ thêm rối như bó tơ tằm. Giả như nếu trước đây có những tiếng nói minh bạch và những hướng dẫn rõ ràng cho đoàn chiên trước những bất công và nhân quyền, thì ngay việc đơn giản (giả như có thật) về việc xin từ chức của bất cứ vị giám mục nào với lý do chính đáng sẽ không bị quy kết hay bị so đo và được phóng đại soi chiếu từ lăng kính chính trị mà làm cho sự kiện đơn giản này trở nên phức tạp đến nỗi không có lối thoát nào khả thi.

Trước các vấn đề trọng đại liên quan đến vận mệnh quốc gia và Giáo Hội, HĐGM VN cũng đã từng lên tiếng, tuy nhiên nếu có thì cũng lên tiếng cách kín đáo bằng cách chỉ gửi thư riêng cho các nhà lãnh đạo cộng sản mà không công bố ra bên ngoài.

Thời thế và hoàn cảnh hôm nay đã khác thời điểm 1980, hàng linh mục và giáo dân Việt Nam mong mỏi các vị chủ chăn của họ không chỉ nêu lên quan điểm “đồng hành với dân tộc” mà còn phải chỉ rõ ra những cái sai trái, những vi phạm nhân quyền, những cách hành xử thiếu công lý, và những xung đột xẩy ra do việc lạm dụng quyền hành từ phía chính quyền hay việc bắt bớ các giáo dân và giáo sĩ một cách tùy tiện do bàn tay của công an hay chính quyền địa phương.

Xét về thời điểm và hoàn cảnh ngày hôm nay, đại đa số linh mục giáo dân đều mong muốn các chủ chăn của mình thức thời và nhậy cảm trước những bất công của xã hội, trước những vi phạm về nhân quyền, trước những biến cố có tác động thiệt hại cho giáo hội hoạc về nhân sự, tài sản hay những quyền căn bản. Họ muốn các giám mục của họ phải lên tiếng hướng dẫn.

Về sự in lặng của các Giám Mục Việt Nam trong vụ Tam Tòa, linh mục Nguyễn Ngọc Tỉnh có nêu vấn đề qua câu nói: “Trong một vụ dầu sôi lửa bỏng như vụ Tam Tòa, ta đã thấy biết bao nhiêu tín hữu xa gần đều lên tiếng hiệp thông, ở trong nước cũng như ở nước ngoài, vậy mà ở trong nước trong số hơn 30 vị Giám Mục, không có bất cứ một vị nào lên tiếng, thì đây quả là chuyện không bình thường".

Trong bối cảnh sâu xa về vận mệnh dân tộc quốc gia, về sự sinh tồn của Giá hội, thì việc Đức TGM Ngô Quang Kiệt nếu vì lý do sức khoẻ mà muốn từ chức thì cũng là việc đương nhiên -- dĩ nhiên sẽ gây những tiếng vang sâu xa và sự nuối tiếc khôn nguôi từ nhiều thành phần trong giáo hội và ngay cả xã hội Việt nam và trên bình diện quốc tế nữa -- tuy nhiên vấn đề chính của Giáo hội Việt Nam là làm thế nào những vị mục tử gây được niềm xác tín và tin tưởng hoàn toàn của mọi thành phần dân Chúa, đề cùng nhau vững tin đi tới vì ích lợi của Giáo hội và đóng góp tích cực cùng mọi thành phần dân tộc trong việc xây dựng nên một thể chế chính phủ dân sự chính danh, hợp lý và dân chủ thự csự, bảo đảm mọi nhân quyền đã được Liên Hiệp Quốc đề cao.

Như vậy, vấn đề về bảo toàn lãnh thổ, về nhân quyền, về quyền tự do tôn giáo bị xâm phạm tại Việt Nam nếu không được làm sáng tỏ và với một tiếng nói minh bạch và đường hướng rõ ràng, thì uy tín Giáo Hội Công Giáo Việt Nam sẽ bị tổn hại nghiêm trọng và ai cũng biết phần trách nhiệm đó thuộc về Hội Đồng Giám MụcViệt Nam.

LM Trần Công Nghị

Bông Hồng Hiếu Hạnh - TNT Mặc Giang


TNT Mặc Giang


Trước Phật đài Tam Bảo chứng minh. Trong bửu điện trang nghiêm thanh tịnh. Đại Lễ Vu Lan Thắng Hội thập phần viên mãn. Mùa Báo Hiếu thiêng liêng lan tỏa khắp mười phương. Chắc chắn ba ngàn thế giới lay chuyển sáu lần rung động. Chắc chắn mười tám tầng địa ngục sẽ được mở toang. Bởi công ơn Cha Mẹ là một sự hiện hữu nhiệm mầu, tình thương Cha Mẹ là tất cả đất trời cao rộng, ngân hà xao xuyến, vũ trụ nao nao, trăng sao vằng vặc.

Là con hiền cháu thảo, ai ai cũng lặng yên, ai ai cũng trầm lắng, để nghe trong sâu thẳm tâm hồn tiếng nói dâng lên cho Cha, dâng lên cho Mẹ trong giờ phút trang trọng này đây.

Một bông hồng nào xin dâng lên quý Thầy ! Một bông hồng nào xin dâng lên quý Sư Cô ! Bông hồng nào cho Bác, cho Chú, cho Thím ! Bông hồng nào cho anh, cho chị, cho em ! Và xin hỏi, còn bông hồng nào cho tôi ?

Chúng ta hãy đón nhận thật chân thành, thật trọn vẹn. Hạnh phúc thay cho những ai còn mẹ ! Diễm phúc thay cho những ai còn cha ! Và, chữ và, xin chia sẻ với những ai đang cài hoa trắng !

Nhìn đóa hoa màu hồng trên áo quý vị, xin không cần nói một lời nào, mà quý vị hãy lặng yên, mỉm cười, sung sướng và sống trọn vẹn đi !

Nhìn đóa hoa màu trắng, biết chia sẻ gì đây, sẽ không có một ngôn từ nào thấm cùng trong nỗi lòng sâu lạnh, dù có lớn bao nhiêu, cũng sẽ mang cho đến trọn đời thân phận mồ côi.

Hai chữ Mẹ Cha, chúng ta không cần nói nhiều, mà chỉ ao ước còn tiếng Mẹ để chúng ta thưa, còn tiếng Cha để chúng ta trân quý. Không cao kỳ, không trau chuốt, không phết sơn. Bởi còn cha mẹ là còn tất cả, mất cha mẹ là mất tất cả. Đức Phật từng dạy “Phụ mẫu tại tiền như Phật tại thế”, nghĩa là Cha Mẹ còn sống giống như Đức Phật đang còn trên thế gian này. Ca dao Việt Nam cũng nói: “Còn cha còn mẹ là hơn, Không cha không mẹ như đờn đứt dây”.

Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận và suối nguồn của đạo đức bao la, đã góp phần rất lớn trong gia tài văn hóa văn học nhân loại. Hai chữ Cha Mẹ, đã làm cho sách báo, văn chương, thi phú được chồng lên cao hơn. Vào nhà sách, thư viện, ghé mắt vào những tựa đề về Mẹ, về Cha, tình mẫu tử, tình phụ tử, các nhà văn nhà thơ đã đào sâu trong tận đáy con tim và mọi góc cạnh khối óc, sẽ thấy hai chữ Cha Mẹ được diễn tả tuyệt siêu, nhưng vẫn chưa hết và đôi khi ngượng ngập ngôn từ. Không những thế, trong cung bậc Tao đàn, trên sân khấu nhạc hội, và rừng hội họa nghệ thuật cũng diễn xuất không cùng. Thời đại tin học hôm nay, những gì về Cha về Mẹ cỡi trên sóng điện vi tính thiên thần, kỳ ảo thêm, diễm lộng thêm.

Ngôn từ Cha Mẹ còn bình dân hơn, gần gũi hơn, đơn sơ hơn. Tiếng võng đưa kẽo kẹt sau hè, hay nằm trong nôi em khóc, mẹ sẽ hát sẽ ru em ngủ, chị sẽ hát sẽ ru em ngủ ! Chắc chắn nhiều khi, có những hình ảnh thật tội nghiệp, người Cha hay người anh khốn khổ ẵm em em cũng khóc, ru em em cũng khóc, và người cha hay người anh nhìn em bằng ánh mắt gần như van lơn mà vẫn bất lực, không biết phải làm gì cho em. Trong chúng ta, tôi dám quả quyết ai cũng đã hơn một lần đã làm như thế !

Em bé “Ba năm bồng ẵm cảm ơn Cha”, đã biết nói hai tiếng Ba, Ba đầu đời. “Chín tháng cưu mang nhờ đức mẹ”, trong vòng tay bú mớm, em đã biết nói hai tiếng Má, Má thương yêu. Đến lúc lớn lên, trưởng thành, đi vào trường đời, đi vào xã hội, dù có làm ông nọ bà kia, hay phập phù giữa bại thành cuộc thế, dù được sống gần hay đang ở đâu xa, vẫn hỏi thăm và thưa ba thưa mẹ. Trong quán trọ vô thường một khi băng qua khúc rẽ ly tan, dòng tử sinh đôi bờ một khi gõ nhịp đành đoạn tạ từ, ta sẽ thảng thốt kêu lên Mẹ ơi, Ba ơi, và thế là nước mắt ta ràng rụa, lòng ta nát tan, trăng sao kia sẽ không đủ sáng giữa vòm trời, vật chất phù du kia sẽ tả tơi theo bèo bọt. Không phải chỉ đang lúc đó, mà kể từ ngày đó trở đi, cho đến bây giờ, mãi mãi mai sau, mỗi khi thương cha nhớ mẹ, ta như con đom đóm lập lòe tìm gọi bóng đêm, hay như kẻ lạc loài mò mẫm giữa hư vô và cúi mặt trước lâu đài phụ mẫu, nghe tiếng lòng thổn thức.

Trong chánh điện này đây, trước lễ đài này đây, giữa hội trường này đây, dù ai cài hoa hồng vẫn lo sợ, lo sợ gì mà “Đêm đêm thắp ngọn đèn trời, Cầu cho cha mẹ sống đời với con”. Còn những ai cài hoa trắng thì, chừng như tấm lòng quý vị trống vắng không cùng, và chừng như hai con mắt của quý vị nhìn thật xa xôi. Kia kìa, thấy chưa, không phải chừng như, mà thật sự hai con mắt quý vị đang tròn xoe, bờ mi đã ướt lên rồi. Một cụ già, đôi vành khô vẫn còn đủ sức long lanh, vài cụ lớn tuổi đôi bờ khô khốc, nhưng nước gì đang chảy ra, gạt lệ tay lau. Người trung niên cũng lặng lẽ, trầm ngâm. Thế còn anh, còn chị, còn em, sao lại cúi xuống, đỏ hoe ! Cả Thầy nữa, rồi Sư Cô nữa ! Xin lỗi nghe, chúng tôi không có dám đâu, và đâu có làm gì ?

Thưa quý vị. Hình ảnh trên đây không phải chỉ có hôm nay, mà đã nhiều lần, thật nhiều lần, vào mỗi độ Trung Nguyên, mỗi Mùa Hiếu Hạnh. Ngay cả chỉ một Mùa Báo Hiếu thôi, trong quý vị sẽ có người đi dự nhiều nơi, tôi đã chứng kiến đôi mắt quý vị lại tái lập như thế. Nếu hỏi tại sao, thì quả thật vô tình, một câu hỏi rất vô duyên. Nước mắt cho cha cho mẹ mà không biết chảy ra, không biết ngấn lệ, không biết vo tròn, thì xin lỗi, ta còn thua em bé và ta chưa lớn nổi làm người ?

Trong chúng ta, ai không nằm lòng “Công Cha như núi Thái Sơn, Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, ai không từng nghe “Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào” hay “Mẹ già như chuối ba hương, Như xôi nếp một như đường mía lau”.
    “Bao nhiêu sách vở viết về Đức Mẹ
    Bao nhiêu chữ nghĩa viết về Công Cha
    Dù có nhiều như vũ trụ bao la
    Cũng không thể diễn tả hết được Tình Cha Nghĩa Mẹ”

    “Tình thương Mẹ, biển Đông thấm vào đâu
    Công đức Cha, núi Thái làm sao sánh
    Dù đem cả hằng hà sa pháp giới
    Cũng không sao đánh đổi hai chữ Song Đường
    Xin đi khắp cõi vô thường
    Soi ngàn đuốc tuệ thắp đường Từ Thân
    Xin đi khắp cõi phù vân
    Noi gương hiếu hạnh ân cần Mẹ Cha”
Hãy hình dung thời Đức Phật còn tại thế, hình như đôi mắt của Ngài mà ta tôn xưng Phật nhãn, vẫn lưng tròng khi Phụ Hoàng băng hà, vẫn rưng rưng khi đứng hầu kim quan, và trên đường di quan vẫn từng bước chân nặng trĩu. Lại một lần kia, khi cùng Tăng Đoàn đi khất thực, hỏi còn hình ảnh nào rung cảm hơn, xúc động hơn, chính Đức Phật đã :
    “Đáo bán lộ rành rành mắt thấy
    Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
    Thế Tôn bèn vội đến nơi
    Lạy liền ba lạy rồi rơi giọt hồng”

    Ôi, cao thượng thay Đấng Thiên Nhơn chi Đạo Sư !

    Ôi, quý hóa thay Đấng tứ sanh chi Từ Phụ !
Phải chi Ngài điều ngự nơi đây cho chúng con đãnh lễ tôn thờ. Một kiếp này thôi, ân nghĩa cha mẹ, chúng con chưa trọn vẹn, nói chi đến quá khứ đa sanh phụ mẫu ! Một kiếp này thôi, bổn phận con hiền cháu thảo, chúng con mang bao nỗi đành đoạn đắng cay, thì làm sao đền đáp công ơn cha mẹ nhiều đời.

Phải chi Bồ Tát Mục Kiền Liên đang ở đâu đây, chúng con xin nương theo thần lực của Ngài để đi tìm khắp muôn hướng ngàn phương, đi sâu vào địa ngục dù có vô số cửa ngõ A Tỳ, chỉ cần nhìn thấy, Mẹ chúng con đang ở đâu, Ba chúng con đang ở đâu, rồi muốn làm gì chúng con xin nguyện tận lực hành trì.

Đâu cần nói chi xa phải không thưa quý vị ? Trong cuộc đời, bao nhiêu người được sống nơi chốn quê nhà, nhưng biết bao nhiêu người phải sống tha phương bởi duyên nghiệp hay hoàn cảnh khác nhau. Chỉ mong sao được về thăm nơi chôn nhau cắt rốn, được nhìn lại bàn thờ từ đường, ấp ủ dưới mái nhà tranh, bếp lửa hồng êm vợn khói, thoang thoảng hương cau, thơm thơm gạo mới. Và kia, dòng sông Quê Ngoại, bến cũ Quê Nội, đường đất bên làng, lối ngõ đầu thôn, rẽ ngang xóm nhỏ , ruộng lúa ngô đồng, “Làng quê nghèo cuối phương trời biền biệt, Bóng thời gian không đủ sức nguôi ngoai, Vẫn đong đầy và sống mãi trong tôi, Lỡ nhắm mắt ôm khối sầu muôn thuở”.

Và kia, ai sống thị thành, phố phường đô hội, “Những lối đi chạy ngang qua đất đỏ, Những lối về chạy dọc dưới trời xanh, Những mạch máu của trái tim thành phố, Những đốt xương của thân thể châu thành, Những con đường chúng mang hồn dân tộc, Qua không gian không thay đổi danh từ, Lối cỏ mới đề huề reo ánh sáng, Khách đi về cảm thấy khác tâm tư”. Rồi được đến thăm nấm mồ của Mẹ của Ba, bên Ông Bà Nội Ngoại Tổ Tiên, lục thân quyến thuộc quá vãng, để quỳ, để khóc, để thương, để nhớ, để được thắp một nén hương, mà kiếp sống xa nhà, dù đã 10 năm, 20 năm, 30 năm, hay hơn nữa, nhưng vẫn xin khẳng quyết mọi vùng đất dung thân không phải là cố quận, lại càng không phải quê hương của mình. Nhưng, “Khung trời quê vẫn ngậm sầu, nghìn trùng xa cách. Cõi trời quê vẫn chôn chặt, tận đáy hồn đau”.

Xin Cha tha cho chúng con. Xin Mẹ tha cho chúng con. Xa hơn nữa, chúng con xin tạ tội với người Cha cội nguồn của Văn Lang, xin khấu đầu với người Mẹ đầu tiên của Bách Việt, đã cho chúng con được mang dòng giống Lạc Hồng, tóc đen da vàng máu đỏ, nhưng lại mang một mảnh hồn đau và một trái tim nhức nhối.

Bạch quý Thầy, quý Sư Cô,

Thưa quý vị lớn tuổi cùng toàn thể anh chị em,

Một bông hồng đã đầy đủ chưa ? Một bông trắng đã thấm thía chưa ? Theo tôi, phải là một rừng bông hồng để dâng lên Mẹ, hay một rừng bông trắng để khóc cho Cha. Một rừng bông hồng để khơi động tình thương, và một rừng bông trắng để xóa tan vụn vỡ. Một rừng bông hồng để gìn giữ nâng niu, và một rừng bông trắng để tạ từ miên viễn.
    Nguyện cầu mười phương Chư Phật chứng minh
    Nguyện cầu hồng ân Tam Bảo gia hộ
    Nguyện cầu Đức Đại Hiếu Mục Kiền Liên soi sáng cho chúng con
    Nguyện cầu hồn thiêng sông núi Việt Nam gia hộ cho toàn dân nước Việt.
Và mầu nhiệm thay, thiêng liêng thay, chúng ta cùng nhắm mắt, chắp tay:
    Ba ngàn thế giới đang rung động !
    Tam đồ bát nạn đang mở toang !
    Một bông hồng biến thành vô số bông hồng để trọn vẹn mùa hiếu hạnh.
    Một bông trắng thấm sâu vô số bông trắng để kết nẻo phương đài.
    Đó mới thật sự là Bông hồng cài áo !
    Đó mới thật sự là bông trắng cưu mang !
    Đó mới thật sự là Mùa Vu Lan Thắng Hội !
    Đó mới thật sự là Giải Cứu Đảo Huyền, độ thoát hàm linh !
Trân trọng và trân trọng nhớ ân !
Chân thành và chân thành nhớ mãi !
Ngưỡng dâng Chư Tôn Đức Tăng Ni
Kính chào toàn thể liệt quý vị.

Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát Ma Ha Tát.

Mùa Hiếu Hạnh 2009
TNT Mặc Giang


Tuesday, September 1, 2009

THÚI NGA, NGUYỄN NGỌC NGẠNG VÀ NGHỊ QUYẾT BĂM SÁU (36)


Ngày 10 tháng 10 năm 2009, tại rạp Performance Art, downtown Vancouver BC Canada, Live Show Thúi Nga in Vancouver.

(KÈM POSTER)

Với sự hổ trợ của Bộ Văn Hóa & nghị quyết 36, Trung Tâm Thúi Nga Ba Ri sẽ tổ chức đêm đại nhạc hội toàn ca sĩ Freelance, cùng với 4 ca sĩ đến từ Việt Nam. Nhìn poster sẽ rõ. Những ca sĩ Việt Nam trên poster đều ở hàng đầu và rất to nhớn. Có phải đây là những ca sĩ sẽ thay thế các ca sĩ Thúi Nga tại hải ngọai trong tương lai không? Hỏi ông giám đốc Thúi Rùm Tô Văn Lai sẽ rõ.

1. Tất cả ca sĩ bản quyền của THÚI NGA đâu hết rồi?
2. Hay THÚI NGA tẩy chay ca sĩ độc quyền của mình?
3. Live shows THÚI NGA hay live shows cho các ca sĩ BĂM SÁU (36)?
4. Các ca sĩ độc quyền của THÚI NGA sẽ nghĩ gì?

Đoán xem THÚI ... RÙM TRỜI sẽ làm nghị quyết BĂM SÁU (36) tại Vancouver Canada như thế lào? Nhớ mua vé xem live show và mang theo cờ vàng cho vui.

Nhân tiện nhờ THÚI RÙM & THÚI ÌNH NGUYỄN NGỌC NGẠNG và ZÔ ZIÊNG quảng cáo live giùm cho cái "Phong hóa nạo và hút thai Hà ... Lội Ba Đình mùa lày thật nhiều nắm những cơn mưa nàm thai nhi nổi nình bình, xập xình như đang zu zuơng vũ điệu twist và à go go trên nhà sàn của ... Bác".

Quảng cáo công khai nạo thai, hút thai và chọc thủng đầu thai nhi hết sức dã man như thế này chỉ thấy độc nhất vô nhị tại Cộng Hòa Xã Nghĩa Việt Cộng (Quảng cáo bên duới).

Hà Nội thanh lịch, tao nhã và ngàn năm văn vật nay còn đâu ! Than ôi !




DU HỌC SINH VIỆT NAM QUA NHẬN XÉT CỦA MỘT NGƯỜI TRANH ĐẤU - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh

Qua các bản tin của cộng đồng, người ta được biết một số anh chị em du học sinh Việt Nam đã đến sinh hoạt một cách chân tình và cởi mở với tập thể người Việt Quốc Gia tại Texas. Những bài tường trình và hình ảnh trong những lần họp mặt nầy đã gây sự chú ý của nhiều người, và từ cơ hội nầy, tôi xin góp một vài thiển ý cùng quý thính cũng như độc giả nhằm bổ túc cho những bài viết của tôi trước đây về vấn đề du học sinh Việt Nam.

Trong thập niên vừa qua, số lượng thanh niên Việt Nam du học thật đông, nhìn chung đa số nằm trong chương trình trao đổi văn hóa với các xứ tự do Tây phương hoặc du học tự túc đối với những gia đình có khả năng và được nhà nước cho phép. Thừa cơ hội nầy cán bộ đảng viên, nói chung là thành phần lãnh đạo từ nhỏ đến lớn của đảng, đã ồ ạt gởi con em của họ ra ngoài du học. Trong đó, du học sinh gọi là ‘con ông cháu cha’ thì đa số đều nằm trong kế hoạch ‘tẩu tán tài sản’ và ‘đầu tư tương lai’ cho gia đình dòng họ đảng viên và cán bộ nhà nước. Ngoài ra, một ít tư nhân có khả năng tài chánh hoặc có người nước ngoài bảo lãnh thì những gia đình nầy cũng tìm cách vận động con cháu ra hải ngoại để thoát những chương trình giáo dục nhồi sọ vừa lạc hậu, vừa nặng phần chính trị của cộng sản trong nước. Có thể xem đây như một hình thức ‘tỵ nạn văn hóa’ của những gia đình biết nghĩ đến tương lai của con cháu. Thật khó nắm được con số du học sinh cho chính xác cũng như không thể ước tính được các thành phần khác nhau hiện đang có mặt tại các xứ tự do, tuy nhiên con số nầy có thể lên đến vài trăm ngàn mà đa số đều tập trung vào các nước lớn như Mỹ, Úc, Pháp, Canada …

Trước tiên phải nói rằng, đây là một điều vui mừng cho tương lai tuổi trẻ cũng như của Đất Nước và Dân Tộc Việt Nam. Nguồn chất xám phong phú của thanh niên không thể bỏ phí hoặc đóng khung trong phạm vi hạn hẹp, một chiều, đi ngược với trào lưu tiến hóa nhân loại mà nhà nước đã kềm kẹp và nhồi sọ thế hệ trẻ kể từ lúc đảng cộng sản nhập khẩu nền ‘văn hoá đỏ’ của Mác-Lê-Mao vào đất nước không ngoài ngu muội hóa dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam thông minh, siêng năng đã ra sức xây dựng đất nước từ ngày lập quốc và anh dũng chống ngoại xâm cả ngàn năm lịch sử, nhưng thật bất hạnh, vì hơn 60 năm qua, chế độ cộng sản đã ngu muội hóa con người, đồng thời biến những bộ óc thông minh giới trẻ trở thành những khối thịt thiếu khả năng, vô tri giác và chỉ biết hưởng thụ. Mục đích của cộng sản là làm cho dân trở nên ngu dốt để dễ dàng cai trị, do đó, trên phương diện truyền thông, người trong nước không am hiễu gì về tình hình chính trị kinh tế cũng như những tiến bộ khoa học kỹ thuật đang biến chuyển từng giây từng phút trên thế giới. Như vậy, trước trào lưu tiến hóa của nhân loại, nếu một dân tộc nào chỉ cần dậm chân dừng lại tại chỗ vài bước tức là họ đã đi thụt lùi một đoạn đường quá xa. Huống gì người Việt trong nước chẳng những bị cộng sản bịt mắt che tai mà còn nhồi vào đầu những lời tuyên truyền tráo trở, đồng thời bưng bít thông tin, bóp méo sự thật…thì hành động của nhà cầm quyền Việt Nam đã phản lại đà tiến triển của nhân loại và chắc chắn chế độ cộng sản sẽ bị đào thải theo định luật tự nhiên.

Sau ngày cộng sản Việt Nam tuyên bố mở cửa thu hút đầu tư và vắt sữa người Việt hải ngoại thì nhà nước cũng ồ ạt xuất khẩu giới trẻ ra nước ngoài theo chương trình du học. Con số du học sinh tăng vọt lên từng năm và bây giờ ra đường (nói riêng ở Paris), thoáng qua, người ta cũng thấy số du học sinh Việt Nam nhiều hơn giới trẻ sinh sống ở bên nầy. Nhưng đây cũng là một điều đáng mừng để thế hệ trẻ Việt Nam được dịp ra ngoài, có cơ hội tiếp xúc với thế giới văn minh, từ đó thanh niên Việt Nam có thể thấy được đâu là tự do thật sự của con người đồng thời hiếu thế nào về một nền văn hóa nhân bản chân chính ở các xứ không cộng sản. Những hình ảnh nầy sẽ khơi động trí óc cũng như con tim giới trẻ Việt Nam, đồng thời sẽ giúp họ suy nghĩ và so sánh với thế giới bên ngoài với những gì đã và đang xảy ra ở tại Việt Nam.
Thử xếp loại du học sinh hiện đang có mặt tại những nước lớn qua nhiều lý do xuất ngoại khác nhau, rồi từ đó, tìm hiểu tâm tư tình cảm và nguyện vọng của từng thành phần một, như vậy mới hy vọng nắm được những yếu tố riêng biệt trước khi có một lối nhìn và phán đoán trung thực :

A. Tạm chia thành phần du học sinh như sau:

A1. Thành phần con ông cháu cha : Đa số du học sinh Việt Nam hiện nay thuộc dạng nầy, được hưởng đặc quyền đặc lợi của đảng và nhà nước. Họ dư thừa điều kiện và thế lực để chiếm hết chỗ trong những chương trình trao đổi văn hóa với các nước Tây phương. Phải nói rằng đa số thành phần con ông cháu cha dưới thời nào thì cũng là cặn bã của xã hội. Nhưng dưới chế độ cộng sản thì chúng còn tồi tệ gấp trăm lần so với hàng ngũ con ông cháu cha của chính thể Việt Nam Cộng Hòa trước kia. Những điều thấy trước mắt, con ông cháu cha ngày nay là những du học sinh thiếu khả năng ngay từ trong nước. Không học vẫn thi đỗ hoặc để xuất ngoại thì xài bằng giả, bằng mua hay bằng chạy chọt. Chữ nghĩa đã kém mà trình độ ngoại ngữ không ra gì nhưng vẫn luôn luôn ưu tiên đi du học do ngân sách nhà nước đài thọ hay bởi tiền ăn cắp của dân. Khi ra xứ ngoài thì cậy tiền, cậy quyền, cậy thế không đến trường và phung phí tiền bạc. Đa số không đủ khả năng, vừa sinh ngữ vừa kiến thức để vào giảng đường thì chỉ còn cách tụ tập ở các nơi ăn chơi trác táng. Tiền của cướp của dân nghèo Việt Nam qua tay con ông cháu cha quá dư thừa. Thành phần nầy không xài tiền cắc, tiền đồng ($US) mà đơn vị tiền tệ căn bản của con ông cháu cha để đối thoại, trao đổi với nhau hoặc chi dùng mua sắm hằng ngày là ‘giấy’ (một giấy là 100 dollars) ! Tôi lấy một một trường hợp có thật 100% sau đây: Hai cô thuộc loại con ông cháu cha qua Pháp du học theo ngành kinh tế thương mãi. Sau vài giờ ở giảng đường thì phải bỏ lớp vì không đủ kiến thức và sinh ngữ để theo dõi bài học. Các cô quay qua việc ăn chơi du hý và tìm cách gầy dựng hôn nhân cho mình. Xin ghi nguyên văn điều kiện chào hàng kiếm chồng của hai cô: Phải là quốc tịch Pháp, bác sĩ chuyên môn hay kỹ sư cao cấp (?), đẹp trai và chính thức độc thân. Ai đủ tiêu chuẩn thì gia đình liên hệ sẽ được bù đắp xứng đáng bằng quà cáp và tiền bạc ! Hai cô thuê hai phòng trong một ngôi nhà lớn ở ngoại ô Paris. Vì theo thói tiêu xài phung phí nên xử dụng điện nước một cách bừa bãi. Chủ nhà than phiền và đề nghị tiết kiệm giùm thì hai cô đã trả lời một câu thật dễ thương như sau: Nhằm nhò gì, muốn mấy ‘giấy’ nói đi ! ‘Bà’ sẽ thí cho để trả thêm tiền điện nước ! (Người chủ nhà hiện sống tại ngoại ô Paris). Từ đó tôi có thành kiến với thành phần du học sinh con ông cháu cha.

A2. Dạng xuất khẩu lao động: Ngoại trừ những trường hợp tu nghiệp trong vài lãnh vực chuyên môn, số còn lại được nhà nước cài thành phần công an, điệp viên trong công tác địch vận, hoặc có những trường hợp chính tư nhân phải đóng tiền để được xuất khẩu dưới lớp vỏ du học sinh như tu nghiệp uốn tóc, làm móng tay và làm việc trong các nhà hàng, tiệm chạp phô. Đối với tôi, ngoài thành phần con ông cháu cha ra thì cần phải cảnh giác nhóm tình báo, công an, tuyên truyền do nhà nước gởi đi lẫn lộn trong thành phần du học sinh theo kế hoạch của nghị quyết 36. Số còn lại là những du học sinh có tinh thần học hỏi, muốn mở mang thêm tầm hiểu biết và kinh nghiệm nghề nghiệp cũng như những người ra ngoại quốc dưới dạng xuất khẩu ‘lao động cao cấp’ do hợp đồng ăn chia với nhà nước, thì người Việt hải ngoại cần tìm phải hổ trợ và nâng đở họ. Tôi đã gặp nhiều thanh thiếu niên làm việc trọn ngày trong tuần tại các siêu thị, quán ăn nhà hàng. Qua vài lần tâm sự thì biết họ chính là du học sinh trá hình, trả tiền cho nhà nước để ra ngoại quốc làm việc kiếm tiền giúp gia đình. Một vài năm, sau khi trừ ‘hụi chết’ đóng cho các cơ sở ăn cướp họ cũng kiềm được một số vốn cho gia đình còn khá hơn là đi làm nô lệ tại các xứ Á châu như Đại Hàn, Đài loan, Mã lai. Những trường hợp nầy tôi đề nghị giúp đở họ để chống lại các ma đầu Tàu cũng như Việt đang ăn cướp mồ hôi của những người làm lậu, ép giờ giấc làm việc, bóp chẹt tiền lương trả cho nhân công theo thói quen của người Á châu thường khai man với sở thuế.

A3. Thành phần tỵ nạn văn hóa: Đây là một hình thức hình thức gởi thanh niên ra ngoại quốc mà đa số người trong nước đã cố gắng lo cho con em mình đi du học. Mục đích vì tương lai con cháu. Nếu không thuộc thành phần có liên hệ mật thiết với cộng sản thì dù có thông minh, học hành đổ đạt đến đâu cũng không được xã hội trọng dụng so với lớp trẻ con ông cháu cha và tỷ phú đỏ. Và một điểm quan trọng không kém nữa, cho con cháu ra ngoại quốc học không ngoài mục đích để thoát khỏi chương trình giáo dục nhồi sọ đã lạc hậu, phản khoa học, yếu kém mà còn nặng mùi chính trị một chiều. Tôi đã gặp nhiều du học sinh thuộc thành phần nầy trong các thư viện, họ chăm chỉ học hỏi, nghiên cứu tìm tòi để sớm hoàn tất chương trình học vì các anh chị nầy thấy được giá trị đồng tiền, mồ hôi nước mắt mà gia đình phải thắt lưng buộc bụng để nuôi họ ăn học. Một điều cần ghi nhận thêm, thành phần nầy khá kín đáo trong giao tiếp và ít đề cập đến vấn đề chính trị, có lẽ vì sợ liên lụy cho gia đình một khi tiếp xúc với người Việt nước ngoài

A4. Thành phần hiếu học và cầu tiến: Khi nói về du học sinh Việt Nam thì không thể vơ đũa cả nắm. Giữa đa số thành phần xấu ‘con ông cháu cha’ và tỷ phú đỏ, tôi đã gặp những anh chị em thật chăm chỉ và có tinh thần cầu tiến, ngoài giờ vào giảng đường thì họ đi làm thêm ban đêm hoặc cuối tuần dành trọn hai ngày để bán hàng trong các siêu thị cũng như phụ bếp hay phục vụ khách hàng ở các tiệm ăn. Họ có những nét dễ gây thiện cảm đối với người Việt hải ngoại hơn thành phần du học sinh con ông cháu cha và tỷ phú đỏ. Trong tiểu mục nầy tôi xin đề cao một số anh chị em du học sinh tiến bộ, vì sau khi giao tiếp với thế giới văn minh, hiểu được thế nào là nền văn hóa nhân bản, là hai chữ tự do đúng nghĩa, thì họ đã mạnh dạn công khai bày tỏ quan điểm về những sai lầm của nhà cầm quyền trong nước đồng thời kêu gọi giới trẻ hãy tỉnh giấc, đứng lên làm lại lịch sử.

B. Mục đích của đảng cộng sản trong việc gởi con cháu và nhân viên công an tình báo qua chương trình du học sinh:

B1. Đào tạo thế hệ đỏ: Đưa con ‘ông cháu cha’ đi du học, mục đích của cộng sản là nhờ thế giới văn minh bên ngoài đào tạo một thành phần cai trị trẻ trung để có thể nối tiếp sự nghiệp đảng cộng sản sau nầy. Các ủy viên bộ chính trị trung ương đảng cũng biết rằng, cả thế giới đều xem họ là thành phần xuất thân từ rừng rú, có người chưa qua được bậc tiểu học trường làng nhưng đã dựa vào súng đạn để ngồi lên đầu người dân từ trên 60 năm qua và đã đưa đất nước cũng như dân tộc Việt Nam từ lạc hậu đến chỗ diệt vong. Ngày nay, chúng phải đào tạo cho con cháu một chút vốn kiến thức văn minh, học hỏi thêm những trò ma giáo của giới tư bản để mai kia tiếp tục nối tiếp sự nghiệp cai trị theo đường lối của chúng. Nhóm ‘con ông cháu cha’ nầy đã nắm chắc trong tay tương lai tươi sáng của mình, dù có học được chữ nào ở hải ngoại hay không cũng không quan trọng, vì những chiếc ghế quyền lực đã được đánh số theo thứ tự ưu tiên. Đối với thành phần nầy thì ‘nhỏ thất học lớn cũng thành bộ trưởng’ và rồi tương lai đất nước Việt Nam sẽ đi về đâu dưới tay những thứ cặn bã xã hội nầy !

B2. Tẩu tán tài sản và đầu tư tương lai: Vấn đề nầy quan trọng hơn việc cán bộ đảng viên cộng sản gởi con cháu ra nước ngoài học hỏi để mở mang kiến thức. Đó chính là việc ‘tẩu tán tài sản’ và ‘đầu tư tương lai’. Ngoài những bất động sản tại Việt Nam mà chúng không thể bứng đi, vàng bạc ngoại tệ chìm nổi cướp được không thể lưu lại hay đầu tư ngay trên đất nước vì ngày tàn của chế độ cộng sản đã điểm. Chúng bắt buộc phải tấu tán tối đa những gì có thể đưa ra nước ngoài mà sự hiện diện người thân của chúng ở trên khắp các xứ tự do là một thời cơ thuận lợi. Một khi có con cháu ở nước ngoài thì chúng có thể tạo được điều kiện hợp pháp để chuyển tiền bạc, mua nhà đất và thiết lập các cơ sở thương mãi. Đó chưa kể đến việc mang tiền bất hợp pháp của việc đi lại thường xuyên giữa gia đình và du học sinh, cũng như chuyển lậu dưới hình thức ngoại giao qua các tòa đại sứ Việt cộng. Tạm lấy một con số nhỏ để tính: Ví dụ 100.000 du học sinh ở nước ngoài một năm gia đình chuyển cho ‘tiền tiêu vặt’ tệ nhất là 10.000 dollars mỗi người, dù chỉ nói sơ qua chuyện ‘tiêu vặt’ của một du học sinh thì tổng số tiền cũng lên đến một tỷ mỹ kim (100.000 x 10.000). Đó chưa kể đến việc giữa con ông cháu cha và gia đình đi lại như con thoi giữa các năm học, mỗi lần cất giấu vài ba chục ngàn, trăm ngàn dollars thì số tiền chuyển lậu ra nước ngoài qua ngả du học sinh là bao nhiêu ? Tóm lại việc gởi con cháu đi du học của đảng viên cán bộ nhà nước chính là âm mưu ‘đầu tư tương lai’ cho gia đình dòng họ. Ngoài ra, nhờ thành phần du học sinh nầy mà các cơ sở vật chất cũng như các điều kiện nhập cảnh đã được con cháu chuẩn bị chu đáo từ trước, do đó, một khi bị đá xuống ngựa thì gia đình giòng họ nội ngoại của cán bộ đảng viên cứ thong dong lên máy bay đi ra nước ngoài.

B3. Phá hoại cộng đồng: Thành phần phá hoại được cài trong dạng du học sinh ra nước ngoài để tham gia vào các sinh hoạt của người Việt ở các thành phố lớn. Nhóm nầy có mặt từ trong các trường đại học, câu lạc bộ trẻ, câu lạc bộ thể thao, câu lạc bộ văn hóa và nhất là những nơi đông người Việt như chợ Á châu, cửa hàng chạp phô cũng như các tiệm ăn. Thành phần nầy được huấn luyện chu đáo về các chương trình đặc công, ‘hành động’, võ thuật, kiều vận, địch vận, thông tin tình báo rồi cộng sản cho ra nước ngoài làm việc ở hai môi trường. Môi trường thứ nhất với tập thể người Việt, thì thu nhặt tin tức, lôi kéo, truyên truyền, điều tra, báo cáo theo chỉ thị cấp trên. Môi trường thứ hai đối với thành phần du học sinh, thì theo dõi, điều tra, hăm họa và ‘hành động’ đối với anh chị em nào có tinh thần tiến bộ cũng như có liên hệ với người nước ngoài, nhất là đối với những ai mà cộng sản đã liệt kê trong sổ đỏ và đánh giá theo thứ tự qua 4 loại : nghi ngờ (1), theo dõi (2), nguy hiểm (3) và cực kỳ phản động(4).

B4. Tiếp xúc và lôi kéo thành phần trẻ hải ngoại : Một vai trò quan trọng được đảng cộng sản giao cho du học sinh trong các trường đại học: Du học sinh phải tiếp xúc, len lỏi vào các sinh hoạt của sinh viên để lôi kéo giới trẻ hải ngoại theo âm mưu nghị quyết 36 của Hà Nội. Đây là môi trường mua chuộc giới trẻ hải ngoại thật hiệu quả, bằng chứng là một số sinh viên con cháu của những người thuộc thành phần tỵ nạn chính trị cũng vướng vào bẫy, trở mặt chống lại cha chú, ngang nhiên chống đối chính nghĩa quốc gia cũng như cộng cuộc tranh đấu của cộng đồng, điển hình là vụ Brian Đoàn với cuộc triển lãm hình già Hồ và cờ đỏ sao vàng tại Santa Anna !

B5. Trồng-cấy người bằng hôn nhân : Cộng sản lợi dụng tình trạng hôn nhân để cấy và trồng người một cách rất hợp pháp. Kế hoạch của cộng sản là cứ đưa ra nước ngoài hàng trăm ngàn thanh niên thiếu nữ chưa có gia đình, tạo cho họ những cơ hội giao tiếp giữa nam với nữ. Giới trẻ ở nước ngoài, dù thuộc thành phần gia đình đố kỵ với cộng sản, nhưng một khi chung đụng lâu ngày với du học sinh Việt Nam thì tình cảm vẫn nở ra. Hậu quả đã làm cho nhiều bậc cha mẹ thuộc giới tỵ nạn chính trị phải đau lòng. Trớ trêu là thời đại nầy, việc hôn nhân của con cháu ví như chuyện cái ‘cày đi trước con trâu’, đôi khi nhiều bậc cha mẹ phải ngậm đắng nuốt cay gật đầu khi chuyện đã rồi ! Đó là bài học mà cộng sản nghiên cứu kỹ lưởng khi đưa thanh niên nam nữ độc thân ra xứ ngoài trong kế hoạch cấy người qua hình thức hôn nhân. Một điều xin ghi nhận, khi một đảng viên cán bộ nào cưới hoặc gã được con cho một gia đình người Việt ở hải ngoại thì xem như được lên thiên đàng với nhiều lý do sau: Thứ nhất, cơ hội ngàn vàng để hợp thức hóa gia tài đang cất giấu ở nước ngoài dưới tên dâu tên rể đồng thời có cơ hội mang tiền của ra đi qua lý do thăm con thăm cháu. Thứ hai, nhờ dâu nhờ rể để hy vọng bám được tình trạng tạm trú lâu dài và có thể nhập tịch sau nầy nhằm bảo đảm tương lai một khi bị đá xuống ngựa. Thứ ba, quan trọng hơn cả là khi một gia đình hải ngoại trở thành người nhà, cộng sản chẳng những đã giảm bớt được một số người chống cộng mà gia đình sui gia ở hải ngoại còn trở thành ‘thành viên’ danh dự xã hội chủ nghĩa. Tự nhiên nhờ vấn đề hôn nhân mà hàng chục người liên hệ trong gia đình người Việt tỵ do hải ngoại phải ngậm miệng chống đối và còn có người hãnh diện được làm ông bà sui gia với các tay lãnh đạo cao cấp của chế độ cộng sản. Như chúng ta đã thấy, chỉ vì chuyện hôn nhân nhỏ nhặt nhưng đã đổi thế xoay chiều một số lớn người trong thành phần tranh đấu chống cộng. Nếu chừng 20% du học sinh (khoảng 20.000) thành công trong việc bắt được khế ước hôn thú với người nước ngoài thì xem như chính thức cộng đồng người Việt hải ngoại mất đi 40.000 người chống cộng (tính cha mẹ là vai chính mà thôi, chưa kể anh chị em dòng họ bạn bè …). Bởi vì những người kết sui gia với đảng viên cán bộ gộc cộng sản thì chắc chắn họ phải tránh né cộng đồng, ít xuất hiện trong các cuộc hội họp, biểu tình vì ‘sợ mất lòng’ và ‘khó ăn nói’ với gia đình ông bà sui !

Ngoài ra, âm mưu kết sui gia với gia đình người Việt nước ngoài còn là một hình thức rửa tiền dơ và chuyển tiền lậu qua hình thức qua lại hai chiều như sau: Gia đình nước ngoài (ông bà sui gia, con dâu hoặc chú rể) sẽ đứng tên, thành lập các công ty tại Việt Nam với số vốn hàng triệu, hàng chục triệu Mỹ Kim. Vốn nầy không phải mang từ nước ngoài vào mà là tiền do đảng viên cán bộ ăn cướp của Việt Nam đưa ra đầu tư. Các công ty nầy lúc nào cũng kết toán ma với thương số hàng tỷ và lời hàng trăm triệu. Mục đích của chúng để làm bình phong chuyển tiền lời ra nước ngoài theo đặc ân của đảng qua chương trình mở cửa. Đồng thời, giới cầm quyền trong nước mua cổ phần hay mở ngược trở lại ở xứ ngoài nhiều ngân hàng với hàng ngàn trương mục của người trong nước cũng như con cháu dòng họ đã ra đến ngoại quốc đứng tên, mục đích nhằm để chuyển tiền, vừa chính thức vừa lậu ra nước ngoài. Một khi những gia đình sui gia đã có cơ sở thương mãi với vốn đầu tư nước ngoài 100% tại Việt Nam và những ngân hàng ở ngoại quốc móc nối với nhau thì sẽ có trăm phương ngàn kế để chuyển tiền, rửa tiền một cách mờ ám và bất hợp pháp mà chỉ có đảng viên cộng sản, là những tên điếc không sợ súng mới dám thực hiện. Do đó đừng ngạc nhiên có nhiều gia đình người Việt hải ngoại tự nhiên ‘ăn nên làm ra một cách thần thánh’ với Việt Nam’ khi trở thành sui gia với đảng viên cán bộ nhà nước !!!

Để chấm dứt phần trình bày về vấn đề hôn nhân, tôi không quên đưa ra vài trường hợp ngoại lệ của những cuộc cưới hỏi giữa người Việt hải ngoại với gia đình ‘thường dân’ trong nước. Đây là những cuộc thành hôn đáng chia vui, vì nhờ cơ hội nầy, một số thanh niên nam nữ có dịp thoát được cái ‘địa ngục trần gian cộng sản’ để làm lại cuộc đời và tìm hạnh phúc ở những vùng trời tự do. Nhưng các gia đình hãy coi chừng bị móc túi, cần lưu ý các tòa lãnh sự nước ngoài cũng như cơ quan ăn cướp trong nước làm tiền cô dâu chú rể một cách trắng trợn chưa từng thấy. Riêng việc chi tiền máy bay đi về nhiều lần, xin vài con dấu trên tấm giấy hôn thú từ khóm, phường, quận, thành phố ra đến cơ quan trung ương thì đã thấy chóng mặt và mất khá nhiều tiền về cái gọi là thủ tục ‘đầu tiên’ !

C. Vai trò các cơ quan ngoại giao cộng sản Việt Nam với Việt kiều và du học sinh:

C1. Vai trò của các toà đại sứ: Là cơ quan ngoại giao nhưng các tòa đại sứ, lãnh sự ở nước ngoài chính là những cơ sở kinh tài, ổ phá hoại và là nơi kiểm soát kềm kẹp du học sinh cũng như những ai mang trên người giấy thông hành quốc tịch Việt Nam. Những việc nầy xảy ra tại các tòa đại sứ Việt cộng ở các nước Đông-Âu, là nơi đa số thành phần lao động được cộng sản gài lại sau khi các quốc gia nầy thay đổi chế độ cũng như đi những người trong nước đóng tiền để được xuất khẩu đi bán mồ hôi, nước mắt và máu. Truyền thông báo chí thường phổ biến những tin tức cho thấy rằng thành phần du học sinh cũng như những người lao động cũ còn lại ở các xứ nầy đều bị những yêu sách làm tiền, kiểm soát kềm kẹp và gây khó khăn về tất cả mọi phương diện. Mục đích của cơ quan ngoại giao ở nước ngoài là bảo vệ quyền lợi công dân của họ, nhưng đối với cộng sản thì đây là nơi tập trung buôn lậu, ăn cắp, bán visa, kềm kẹp và làm tiền những ai còn mang quốc tịch Việt Nam. Trong đó thành phần du học sinh (ngoại trừ con ông cháu cha) cũng chẳng hơn gì thành phần lao động, là những nạn nhận bị chèn ép và hành hạ từ tinh thần đến vật chất.

C2. Làm tiền, khống chế và hăm dọa là nghề chính của các tòa đại sứ cũng như lãnh sự quán. Một câu chuyện xảy ra ngay trong tòa đại sứ Nhật Bản chừng vài tháng trước đây đã làm thế giới kinh ngạc tột độ: Đó là một người đàn bà có chồng người Nhật nhưng còn mang quốc tịch Việt Nam đến lãnh sự quán xin về phép thăm quê nhà. Nếu bà nầy để ông chồng ra mặt đóng tiền mua visa thì chắc không có chuyện gì xảy ra. Nhưng tại đây, bà nầy tiếp xúc với nhân viên sứ quán thì bị làm tiền một cách trắng trợn. Bà không chấp nhận một số tiền hối lộ quá lớn thì nhân viên tòa đại sứ ở đây đã giựt bóp lấy tiền và xô bà nầy té dập mặt bể đầu trước mặt ông chồng cũng như những người Việt cũng như người ngoại quôc đang sắp hàng ‘mua’ visa. Đối với thành phần du học sinh thì tất cả các cơ quan ngoại giao không những là cơ sở ‘công an’ để rình rập, theo dõi từ tư tưởng đến hành động từng du học sinh một mà còn là một lò kềm kẹp, khống chế du học sinh để bắt thành phần trẻ nầy phải vào khuôn phép và thi hành mệnh lệnh của trung ương. Nhìn lại những cảnh tòa đại sứ điều động du học sinh mang cờ đỏ xuống đường thì có thể hiểu được phần nào tổ chức của họ. Bọn ‘đầu gấu’ thì giấu mặt chỉ huy, ‘con ông cháu cha’ tập trung thành một nhóm được bảo vệ kỹ càng còn các em du học sinh thuộc thành phần ‘con chốt’ bị đẩy ra thi hành nhiệm vụ, nếu có chuyện gì xảy ra thì chính thành phần đáng thương nầy sẽ lãnh đủ. Trong một cuộc biểu tình tố cáo tình trạng nhân quyền tại quảng trường Trocadéro cách đây hai năm, tôi được anh em báo cho biết là có hai em du học sinh trưng cờ đỏ sao vàng ra để chụp hình. Tôi vừa đi đến thì các tay ‘đầu gấu’ ra hiệu cho hai em có sự hiện diện của tôi đang ở sau lưng. Hai em nhìn tôi có vẽ sợ, tôi cười và ôn tồn nói với hai em rằng: Ở đây chúng tôi chống chế độ các anh, chống cờ đỏ sao vàng thì các anh trương cờ đỏ sao vàng ra trong dịp nầy thấy không thích hợp chút nào cả. Các anh đến với chúng tôi, chúng tôi hoan nghênh nhưng xin cuốn cờ và cất đi để tránh những trường họp đáng tiếc xảy ra. Một em nhìn tôi nói nhỏ như phân trần: Mong bác thông cảm, cháu có nhiệm vụ phải chụp một vài tấm hình với cờ để nạp cho tòa đại sứ. Bây giờ tôi mới thấy thấm thía thân phận của một du học sinh dưới chế độ cộng sản và tôi mĩm cười nói với hai em : Hai em cứ chụp vài tấm hình để nạp cho tòa đại sứ rồi cuốn cờ lại. Vậy có thể kết luận rằng vai trò của các cơ quan ngoại giao nước ngoài đối với du học sinh là việc kiểm soát từ tư tưởng đến hành động, chỉ huy và sai khiến du học sinh phải tuân theo kế hoạch kiều vận của chúng. Cúp học bỗng, không gia hạn visa, đuổi về nước là những biện pháp đế hăm dọa, đàn áp những thành phần du học sinh có tinh thần học hỏi, yêu nước và có đầu óc tiến bộ.

C3. Vô trách nhiệm đối với du học sinh : Trong tiểu đoạn nầy, tôi xin đưa ra một chuyện thương tâm để chứng minh tinh thần vô trách nhiệm của các cơ quan đại diện cộng sản ở nước ngoài. Trước đây, một nữ du học sinh bị chết vì một nguyên nhân nào đó trong lúc cô không có thân nhân tại Pháp. Đáng lý các cơ quan ngoại giao sở tại phải có bổn phận cũng như trách nhiệm lo việc hậu sự cho cô du học sinh nầy, nhưng toà lãnh sự tại Pháp đã phủi tay trốn tránh trách nhiệm. Sự việc gây bất bình cho các anh chị em du học sinh cùng thời, trong đó có vài người nằm trong tổ chức ‘đầu gấu’ (nhiệm vụ ngầm là theo dõi, kiểm soát và khống chế du học sinh) đã bất mãn, lên tiếng phản đối thì trong số nầy có một anh bị đuổi về lại Việt Nam !

D. Thái độ, suy tư và nguyện vọng của các thành phần du học sinh:

D1. Đối với thành phần con ông cháu cha thì chúng ta nhận ra rất dễ dàng: Đã quen thói mất nết từ trong nước và khi ra xứ ngoài thì chứng nào vẫn tật nấy. Chúng hống hách vì ỷ vào quyền lực và tiền bạc của gia đình, do đó xem thường tất cả mọi người, chẳng những với đồng môn du sinh với nhau mà còn đối với ‘Việt kiều cùng loại’, khách đi đường cũng như người lạ mặt. Chúng phung phí tiền bạc một cách kịch cởm như cha ông chúng nó, trong nước, dám thách đố nhau trước người đẹp bằng lối chơi của các công tử rừng xanh: Chúng ‘boa’ (biếu) cho gái chạy bàn một xấp ‘giấy’ (100 $/US) hay nhét vào áo lót của các em nguyên cả cây vàng, thì tại Paris người ta cũng gặp những tên mặt còn búng ra sữa nầy trong các nhà hàng ca vũ nhạc ‘De luxe’ với những chai champagne giá cả ngàn euros ! Đầu óc thành phần cặn bã nầy chí có tiền và chỉ biết hưởng thụ, chúng chẳng có suy tư, mơ ước hay một ý niệm gì cho tương lai đất nước. Một mai nếu quê hương sẽ nằm trong tay thành phần nầy thì đây là một đại họa cho cả dân tộc cũng như quê hương Việt Nam. Đi du học nước ngoài thành công hay thất bại, có lấy được mảnh bằng gì hay không cũng không quan trọng với đám ‘con ông cháu cha nầy’, vì tiền bạc đang đầy túi và sau khi trở về nước thì chỗ ngồi đã có sẵn. Chỉ một điều duy nhất làm chúng nó lo sợ đó là cuộc một ‘đổi đời’ sắp đến và số phận quyền lực tương lai của gia đình dòng họ của chúng mà thôi !

D2. Mỗi thành phần du học sinh có tính hiếu học và có trí óc biết suy nghĩ đều có những trăn trở và nguyện vọng khác nhau về thân phận của họ, của gia đình cũng như tương lai đất nước. Nhưng những suy nghĩ cũng như hoạt động của các nhóm du học sinh nầy ngày đêm đều bị tổ chức ‘đầu gấu’ theo dõi và kiểm soát. Do đó ngay giữa họ với nhau cũng đã có những e dè sợ sệt, vì trong mỗi tổ sinh hoạt không biết ai là công an, ai là ‘ăng ten’ đang theo dõi. Nếu vô ý phạm một lỗi lầm nào theo những điều khoảng đã cam kết trước khi đi thì phải bị những hình phạt, từ hình thức nhẹ nhất là tự kiểm đến việc không được gia hạn chiếu khán, hăm dọa gia đình hoặc đuổi về lại Việt Nam. Thành phần thầm lặng nầy cũng chiếm đa số trong giời sinh viên, họ chăm chỉ học hành và làm việc thêm để phụ với gia đình vào các việc chi phí. Tuy nhiên gần đây người Việt hải ngoại vẫn đọc được rất nhiều bài viết trên các diễn đàn hay blogs cá nhân: Họ đã biễu lộ sự bất mãn bằng những tâm sự nhẹ nhàng mục đích nhắn nhủ với nhà cầm quyền, hoặc những bài viết phẫn nộ kêu gọi giới trẻ quốc nội đứng dậy giải thể chế độ.

D3. Tôi đã nhiều lần đến các thư viện kiếm cách làm quen với những thành phần du học sinh tiến bộ không ngoài mục đích tìm hiểu và tạo cảm thông với họ. Sau một thời gian khá dài tôi có thể tóm lược những quan điểm khác nhau từ các anh chị em du học sinh khi được hỏi về hiện tình đất nước cũng như sự hiện diện của chế độ cộng sản. Đây là bốn câu trả lời của họ :

1. Bảo vệ nhà nước hiện tại và duy trì chế độ cộng sản.
2. Muốn thay đổi một vài điểm trong đường lối cai trị nhưng phải giữ nguyên chế độ cộng sản.
3. Hòa giải hòa hợp với cộng sản để xây dựng đất nước.
4. Muốn có một cuộc cách mạng toàn diện để thay đổi hoàn toàn đường lối chính trị của Việt Nam.

Đi vào bốn câu 1, 2, 3, 4 trên, tôi xin trình bày quan điểm của tôi:

Thứ nhất: Quan niệm phải bảo vệ nhà nước hiện nay và duy trì chế độ cộng sản, thì theo tôi, không cần thiết phải bàn đến vì đây là chủ trương của nhóm du học sinh ‘con ông cháu cha’ cũng như ‘tỷ phù đỏ’. Nghĩa là họ thuộc thành phần sinh ra và trưởng thành đều do ân huệ của đảng và nhà nước thì dĩ nhiên họ phải bảo vệ lấy cha ông, bảo vệ lấy tài sản để tiếp tục nối nghiệp quyền lực và hưởng quyền lợi mà đảng và nhà nước đã dành cho họ.

Thứ hai: Muốn một vài thay đổi để cho dân chúng có được chút tự do, nhưng vẫn giữ nguyên chế độ cộng sản, là quan điểm của đảng đối lập cuội của Hoàng Minh Chính do một số du học sinh đưa ra nước ngoài dưới danh từ ‘tập hợp thanh niên dân chủ’, ‘nối vòng tay lớn’. Mục đích của nhóm nầy là ‘cầu khẩn’ và ‘van xin’ nhà nước cộng sản nới tay ban phát một chút tự do cho người dân trong nước. Điều nầy thì người Việt tự do không bao giờ chấp nhận. Đối với cộng sản là phải đánh đổ chứ không thể đội lên đầu hoặc đặt chúng trên ngai vàng rồi quỳ lạy van xin như một kẻ ăn xin. Tự do dân chủ và nhân quyền của con người không thể chầu chực cầu khẩn mà có, mà phải tranh đấu, phải hy sinh từ mồ hôi nước mắt và xương máu mới dành lại được. Lịch sữ Việt Nam đã chứng minh, dân tộc ta phải hy sinh từ thế hệ nầy đến thế hệ khác mới đánh đuổi quân Tàu cũng như Tây để dành lấy độc lập. Ngoại trừ già Hồ, là tên đồ tể ngoại lệ, đã bán nước, đội quan thầy Nga Tàu lên đầu xin quyền lực về đàn áp dân tộc Việt Nam. Ngày nay nhóm du học sinh trẻ nầy bắt chước theo đường lối già Hồ, vận động giới trẻ trong ngoài nước quỳ lạy đảng cộng sản để xin một chút ít tư do dân chủ thì không thể chấp nhận được.

Thứ ba: Hô hào hòa giải hòa hợp để xây dựng đất nước, nghĩa là hợp tác với kẻ thù và dành cho cộng sản một con đường sống. Như tôi đã trình bày vấn đề nầy trong các bài tham luận từ mấy năm qua; cộng sản là loại siêu vi khuẩn vô cùng độc hại, một khi đã diệt thì phải diệt tận gốc, nếu không, mầm mống cộng sản trổi dậy thì còn độc và nguy hiểm gấp trăm gấp ngàn lần. Nguy hiểm nầy có thể ví như một bệnh truyền nhiễm mà chích ngừa không đủ dung lượng hay bệnh nhân sắp chết lại uống nhầm phải thuốc giả. Ngoài ra còn một vấn đề nữa, tôi xin nhắc nhở, một khi chấp nhận hòa giải hòa hợp với công sản là người Việt hải ngoại đã mặc nhiên hợp thức hóa những gì mà đảng cộng sản cướp của người dân, hợp thức hóa những gia tài khổng lồ của chúng đang cất giấu trên thế giới và nhất là hợp thức hóa việc đảng cộng sản bán đất nhượng biển cũng như đồng lõa với cộng sản chấp nhận vai trò nô lệ mà chúng đã thỏa thuận ngầm trao giang sơn tổ quốc vào tay Tàu cộng.

Thứ tư: Một số lớn du học sinh tiến bộ thuộc thành phần thầm lặng thường dành nhiều thời giờ lo việc học hành thi cử. Họ ngập ngừng và hạn chế trả lời những câu hỏi chính trị có liên quan đến vấn đề đất nước cũng như vai trò của đảng cộng sản tại Việt Nam. Nhưng một khi đã đặt tin tưởng vào người đối thoại thì họ bày tỏ tâm huyết một cách chân thành. Tôi đã hân hạnh ghi nhận những suy tư thầm kín và tấm lòng trăn trở của tuổi trẻ trước hiện tình đất nước, đồng thời tôi cũng lợi dụng cơ hội để chia sẻ những khó khăn với giới trẻ có tâm hồn và trí óc, biết suy nghĩ đến tương lai đất nước. Trong nhiều lần tiếp xúc, họ đặt ngược lại vài câu hỏi làm cho chúng ta là những người Việt hải ngoại cần phải suy nghĩ. Nhân dịp nầy xin nêu lên hai vấn đề chính do một số du học sinh có tinh thần quốc gia đã đưa ra để hỏi tôi :

1. Nếu trong tương lai một cuộc ‘đổi đời’ sẽ trở lại trên đất nước Việt Nam thì những cuộc trả thù của thành phần bị áp bức đối với cán bộ công nhân viên nhà nước có xảy ra không ?

2. Có hay không một cuộc tắm máu sẽ đến đối các thành phần lãnh đạo nòng cốt của đảng cộng sản sau khi bị hạ bệ ?

Tôi đã đắn đo rất nhiều về hai câu hỏi trên và tạm trả lời với anh chị em du học sinh như sau: Tôi không phải là một nhà lãnh tụ, cũng hoàn toàn không có tham vọng chính trị mà chỉ là một người tranh đấu thuần túy thật nhỏ bé trong lòng cộng đồng người Việt tự do hải ngoại. Một khi chế độ cộng sản bị giải thể xong xuôi thì tôi xem như hết bổn phận của một người công dân Việt Nam, do đó tôi không đủ tư cách để trả lời một cách chính thức hai câu hỏi trên. Tuy nhiên với tình cảm của một người dân Miền Nam, một người có tín ngưỡng và nhất là một người đã hấp thụ nền văn hóa nhân bản tự do, thì tôi nghĩ rằng, những gì tôi nói cũng có thể phản ảnh một phần nào chủ trương nhân đạo của những lãnh tụ trong khối tự do.

Câu trả lời thứ nhất: Trong lúc tranh tối tranh sáng cuộc của một chiến vừa chấm dứt thì làm sao tránh được những xáo trộn nho nhỏ có tính cách địa phương và bồng bột nhất thời của những người bất mãn đã hàng chục năm qua. Nếu sự việc có xảy ra, thì đó là chuyện cá nhân, nhất thời và ân oán cá nhân. Nhưng theo tôi thì không có gì trầm trọng, vì bất cứ nhà lãnh đạo nào cũng quan tâm đến những vấn đề phức tạp nầy ngay trong thời điểm hậu chiến. Chắc chắn họ đã sẵn sàng những chương trình ngắn, trung cũng như dài hạn để bảo vệ người ‘thua trận’ và vãn hồi an ninh trật tự theo tinh thần nhân đạo và đầy tình người của người dân miền Nam. Tôi nhắc lại, người quốc gia không có tâm địa căm hờn và trả thù dai dẳng như người cộng sản mà các anh chị em là những người đã chứng kiến tận mắt từ trên ba chục năm nay !

Câu trả lời thứ hai: Một cuộc tắm máu chắc chắn không bao giờ xảy ra. Những cuộc trả thù tràng giang đại hải trong nhà tù cũng như các trại tập trung cũng không xảy ra, mà có thể vì an ninh trật tự nhất thời, những kẻ đứng đầu chế độ sẽ bị cô lập trong tinh thần nhân đạo và trong một thời gian ngắn. Rồi sau đó, tùy theo tội phạm mà các cơ quan tư pháp sẽ công minh phán xét. Tôi nghĩ rằng, hành động cô lập nầy chỉ dành cho một số nhỏ đứng đầu trong giới lãnh đạo đảng mà thôi và sẽ không có chuyện đưa hàng chục triệu người đã phục vụ dưới chế độ cộng sản vào tù, vào trại cải tạo lâu dài như Hà Nội đã áp dụng cho các thành phần quân cán chính của chế độ Việt Nam Cộng Hòa và gia đình của họ. Lịch sử đã chứng minh cho thấy sau khi Liên Bang Sô Viết cũng như các xứ cộng sản Đông Âu tan rã, người ta chưa bao giờ thấy một cuộc tắm máu lớn nhỏ nào xảy ra dưới các quốc gia vừa ‘đổi đời’ từ cộng sản qua tự do. Đó chính là tình người và lòng nhân đạo của những ai đã hấp thụ một nền văn hóa nhân bản. .

E. Du học sinh với tương lai đất nước

Qua tiếp xúc với một số du học sinh tiến bộ, tôi thông cảm nỗi suy tư thầm kín cũng như những xót xa ngấm ngầm của giới trẻ Việt Nam trong nước hiện nay. Dù họ được sinh ra và trưởng thành dưới chế độ cộng sản, bị bưng bít ngăn cách thông tin với thế giới bên ngoài, bị nhồi sọ bởi một nền văn hóa đỏ cộng sản, nhưng hình ảnh đau lòng của xã hội cũng như những sai lầm trầm trọng của chế độ đã khơi động con tim và trí óc giới trẻ. Từ đó những bất mãn đã lớn dần và bộc phát mạnh mẽ qua sự chống đối của giới trẻ Việt Nam sau vụ Hoàng Sa Trường Sa và Bauxite. Một điều cũng nên ghi nhận rằng, ngay cả con cháu cán bộ, ngày nay cũng nhận biết những sai lầm trầm trọng do ông cha họ gây ra, nhất là ngay sau khi bộ mặt gian dối của đảng cộng sản rơi xuống và thần tượng già Hồ bị sụp đổ.

Tôi không đề cập đến các du học sinh thuộc thành phần con ông cháu cha mà hy vọng vào giới trẻ Việt Nam, nhất là những người đã có cơ hội du học ở nước ngoài, là những anh chị em thông minh, hiếu học, có tình người, biết yêu tổ quốc và nghĩ đến tương lai dân tộc. Các anh chị em nầy đã sống trong một thế giới tự do và đã hưởng một thời gian hoàn toàn cởi mở từ tư tưởng, lời nói đến hành động. Vậy họ đã biết đâu là tự do, đâu là quyền lợi của người dân và đâu là bổn phận và trách nhiệm của giới cầm quyền. Chính họ đã chứng kiến cảnh sát Tây phương bảo vệ cho dân chúng xuống đường biểu tình chống chính phủ hằng ngày. Tôi tin các anh chị em du học ở Pháp đã nghe vấn đề thanh liên của giới cầm quyền, như chuyện phu nhân tổng thống Nam Phi (xứ đứng đầu thế giới về sản xuất kim cương) biếu một cách công khai cho bà cựu tổng thống Pháp một viên hột xoàn nhỏ tí xíu (hình như trên dưới một cara gì đó, tôi không nhớ rõ) trong một chuyến công du. Sự việc chỉ đơn giản như vậy nhưng đã gây ồn ào từ cơ quan lập pháp đến hành pháp buộc vị cựu tổng thống phải lên tiếng ! Tôi tin các anh chị em du học tại Mỹ cũng biết, một cựu tổng thống chỉ vì nghe lén điện thoại mà phải tự động từ chức cũng như một vị cựu tổng thống trẻ ham vui ‘dung giăng dung dẻ’ một chút với cô thư ký riêng mà chiếc ghế quyền lực phải sụp đổ sau đó. Tôi dài dòng như vậy để các bạn du học sinh thử nhìn lại và suy nghĩ những gì đã nghe, đã biết để so sánh với tội trạng ngập đầu của tập đoàn lãnh đạo Việt Nam từ địa phương lên đến trung ương !

Tôi hy vọng, dù trong một vài ba năm ở nước ngoài nhưng cũng đủ thời gian để anh chị em hồi tâm đánh thức con tim và trí óc của mình, vì giới trẻ Việt Nam, mà anh chị em du học sinh là thành phần nòng cốt, là rường cột của nước nhà thì phải biết suy nghĩ và hành động cho kịp thời.

Như vậy, đất nước sẽ nằm trong tay anh chị em thì tương lai Việt Nam phải do các anh chị em định đoạt. Thế hệ đi trước đã sai lầm đưa đất nước vào tình trạng yếu kém lạc hậu và trở thành nô lệ của một ngoại bang thâm hiểm, tàn bạo và độc ác…Mai đây khi đất nước rơi vào tay các bạn thì Việt Nam chỉ là một gia tài rách nát, nợ nầm chồng chất, đạo đức vắng bóng, văn hóa sa đoạ, tình người thui chột thì dù có tài giỏi đến đâu, các bạn cũng khó vực dậy một cổ xe đã mục nát đang nằm dưới đáy của vực thẳm. Vậy ngay từ bây giờ, cũng chưa muộn đâu, các anh chị em hãy can đảm đứng lên xóa hết cái cũ và xây dựng cái mới, làm một cuộc cách mạng theo gương tiền nhân, là những anh hùng đã dựng nước và giữ nước trong suốt hàng chục thế kỷ qua.

Xin Ơn Trên và Hồn Thiêng Sông Núi phù hộ cho dân tộc và đất nước chúng ta.

Đinh Lâm Thanh
(31 tháng 08 năm 2009)

DÙNG TIỀN DÂN CỦNG CỐ ĐẢNG - Ngô Nhân Dụng

Ngô Nhân Dụng

Marx và Engels đã lên án đồng tiền, coi đó chỉ là một khí cụ để giai cấp thống trị tư bản bóc lột giai cấp vô sản bị trị. Cho đến thập niên 1970, nhiều người cộng sản ở Âu Châu vẫn còn nuôi giấc mộng loài người sẽ tiến tới một xã hội không cần đến tiền tệ. Khi đó, mọi người đều làm việc cho guồng máy sản xuất chung mà không cần lãnh lương. Mỗi khi ai có nhu cầu nào thì cứ việc tới các cửa hàng chung, lấy về nhà sử dụng (Un Monde sans Argent: Le Communisme; Paris, 1975).
Các đảng Cộng Sản Trung Quốc và Việt Nam hiện nay trên lý thuyết vẫn theo chủ nghĩa Marx-Engels, nhưng họ học ngược lý thuyết của hai ông thầy. Bài học mà hai nhà tiên tri này dạy cho họ là: Ðồng tiền là một khí cụ để giai cấp thống trị bóc lột đám dân bị trị. Họ áp dụng ngay phương pháp này, để củng cố quyền lực và quyền lợi của quý ngài lãnh tụ đảng đang ngồi giữ các chức vụ trong guồng máy hành chánh và kinh tế.

Năm ngoái khi kinh tế thế giới rơi vào cơn khủng hoảng, chính phủ Bắc Kinh đã dùng 4,000 tỷ nhân dân tệ (khoảng 585 tỷ Mỹ kim, bằng 14% tổng sản lượng nội địa năm đó) gọi là để kích thích nhu cầu trong nền kinh tế, cũng giống như các kế hoạch kích thích ở các nước Âu Mỹ. Chương trình ở Trung Quốc bắt đầu từ Tháng Mười Một, năm 2008, đến nay đã đưa tới một hậu quả là nó làm trì hoãn việc cải tổ cơ cấu nền kinh tế, có khi còn quay chiều đi ngược lại. Vì số tiền trên được dùng nuôi nấng các doanh nghiệp nhà nuớc, tiêu tiền vào những việc phí phạm trong khi chèn ép các xí nghiệp tư nhân cho họ bị khó khăn hơn. Ở Trung Quốc thế nào thì Việt Nam chắc cũng không khác, vì ít khi thấy Hà Nội có sáng kiến nào khác với đường lối của Bắc Kinh. Chính các chuyên gia kinh tế ở Trung Quốc đã nêu lên nhưng hậu quả trên, chứ không phải do “các thế lực thù nghịch” nào cả.

Giáo Sư Vương Nhất Giang (Wang Yijiang) thuộc Viện Ðại Học Thương Mại Trường Giang (Cheung Kong), Bắc Kinh, nói rằng “Chương trình kích thích kinh tế đã khiến cho cơ cấu kinh tế ở Trung Quốc càng mất cân bằng hơn.” Cảnh mất cân bằng trầm trọng hơn là số tiền kích thích được dồn cho các doanh nghiệp nhà nước, còn lãnh vực tư nhân bị bỏ rơi. Sau 30 năm cải cách kinh tế, đây là lần đầu tiên tỷ lệ hoạt động trong lãnh vực tư doanh giảm xuống thay vì tăng lên. Mà chính các xí nghiệp tư nhân cung cấp ba phần tư số công việc làm cho giới lao động Trung Quốc.

Ở các nước theo kinh tế thị trường, các ngân hàng chỉ cho vay khi thấy xí nghiệp xin vay có lời và dự án sử dụng tiền vay có triển vọng sinh lợi. Ở Trung Quốc thì ngược lại. Trong sáu tháng đầu năm 2009, các ngân hàng Trung Quốc đã đem một số tiền khổng lồ cho các xí nghiệp vay qua các món nợ mới: 7370 tỷ nhân dân tệ, gấp ba lần số nợ mới trong nửa đầu năm 2008, vượt cao hơn mục tiêu của cả năm. Ngân hàng NBP Paribas tính số nợ mới này lớn bằng 45% tổng sản lượng nội địa và nhận xét chưa có một hệ thống ngân hàng nước nào đã bơm nhiều tiền vào nền kinh tế như vậy.

Theo Royal Bank of Scotland thì các xí nghiệp vay được tiền rồi không dùng hết, đã đem 20% mua cổ phiếu và 30% dùng vào việc mua hoặc xây dựng nhà cửa mới, và các vụ đầu tư không sản xuất. Hai thị trường cổ phần và thị trường địa ốc lên cơn sốt báo động chính quyền Bắc Kinh, họ phải ra lệnh các ngân hàng “tốp” lại. Nhưng các quan chức lãnh đạo từ xí nghiệp đến ngân hàng đều đã có dịp bỏ túi rồi. Từ Tháng Mười Một năm ngoái đến đầu Tháng Bảy, giá chứng khoán đã tăng 64% trước khi tụt xuống 14% trong ba tuần lễ đầu Tháng Tám sau khi nghe tin lệnh ngưng cho vay.

Khi ngân hàng của đảng đem tiền cho các doanh nghiệp nhà nước do đảng kiểm soát, không những khiến cho các xí nghiệp tư nhân không thể cạnh tranh với xí nghiệp nhà nước; mà còn giúp các cán bộ có dịp tấn công bỏ tiền ra mua các xí nghiệp tư bị yếu để đưa chúng vào trong vòng kiềm tỏa của họ. Một vụ “tấn công” đang được cả nước Trung Hoa và giới kinh doanh nước ngoài chú ý là công ty Sắt Thép của tỉnh Sơn Ðông đang hiến giá mua công ty sắt thép tư Rizhao (Nhật Chiếu), đẩy người làm chủ nhiều cổ phần nhất của công ty tư này xuống hàng cổ đông thứ yếu.

Năm ngoái công ty Rizhao được ước tính trị giá 30 tỷ nguyên. Trong 6 tháng đầu năm nay Rizhao khai có lời 1.8 tỷ nguyên trong khi Sơn Ðông khai lỗ 1.3 tỷ. Nhưng nay Sơn Ðông đang đề nghị trả 16 tỷ nguyên để làm chủ 2 phần ba cổ phần trong Rizhao, phần còn lại để cho ông Ðỗ Song Hoa là chủ nhân đa số cũ, là người đã từng được xếp hạng giầu thứ nhì ở Trung Quốc. Ông Hoa đã tính kế “thoát xác” bằng cách chia một nửa quyền sở hữu cho một công ty ở Hồng Kông, do một thân nhân của ông Hồ Cẩm Ðào làm chủ; nhưng việc không xong.

Nếu cuộc tấn công này thành công, nội trong tuần tới sẽ biết, thì ông Ðỗ Song Hoa (Du ShuangHua) vẫn có thể coi là may mắn. Vì năm ngoái, người được mô tả là giầu nhất Trung Quốc đã biến mất một cách bí mật khiến các cổ phiếu của công ty Gome trên thị trường Hồng Kông phải ngưng mua bán, trước khi có tin của cảnh sát nói ông ta bị bắt về tội gian lận chứng khoán. Chủ nhân công ty Gome về điện khí và khí cụ điện tử là Hoàng Quang Dục (Huang GuangYu) có tội lớn nhất là đã làm ăn khá giả ngoài vòng kiểm soát của đảng Cộng Sản Trung Quốc.

Hiện tượng các doanh nghiệp nhà nước lấn bước và mua chiếm các xí nghiệp tư nhân được báo chí Trung Quốc gọi là “quốc tiến dân thoái,” (guo jin min tui). Chính phủ Bắc Kinh vẫn nói họ không hề có một chính sách bành trướng lãnh việc quốc doanh để lấn áp lãnh vực tư doanh. Nhưng nhân cơ hội kinh tế thế giới khủng hoảng và dùng các món tiền “kích thích” của nhà nước cộng sản, các xí nghiệp quốc doanh đang lấn chiếm quay ngược kim đồng hồ của chương trình tư nhân hóa đã thi hành từ thời Ðặng Tiểu Bình. Với số tiền khổng lồ mà các ngân hàng của đảng có thể đưa cho các xí nghiệp của đảng vay, các cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp nhà nuớc được cơ hội “vùng lên.” Những nhà tư doanh, là “lực lượng sản xuất tiên tiến” theo lối nói của đảng Cộng Sản, đã được mời gia nhập hàng ngũ đảng viên sau khi họ sửa cương lĩnh; nhưng vẫn chưa làm hài lòng giai cấp thống trị. Vì đại đa số các cán bộ quản lý các doanh nghiệp nhà nuớc nằm trong nhưng “đại gia đình” của các lãnh tụ, họ chia nhau địa vị trong các xí nghiệp công lớn. Và họ biết chắc là họ không thể cạnh tranh với các xí nghiệp tư trên một sân banh bằng phẳng, dù các chủ nhân xí nghiệp tư đó có gia nhập đảng cộng sản cũng chẳng có lợi gì cho họ. Cho nên, nếu có dịp là họ dùng tiền của nhà nước, dùng quyền hành nhà nước trao cho, để làm nghiêng sân chơi về phía có lợi cho họ! Chương trình kích thích kinh tế là một cơ hội bằng vàng để “quốc tiến dân thoái.”

Nếu đảng Cộng Sản Trung Quốc tiếp tục con đường này, nền kinh tế cả nước sẽ bị níu kéo trở lại tình trạng kém hiệu năng; vì trong 30 năm qua các xí nghiệp tư là khu vực hoạt động mạnh nhất, tạo nên nhiều công việc làm cho dân nhất.

Một chuyên gia kinh tế cao cấp trong chính quyền Bắc Kinh cũng lên tiếng cảnh cáo việc sử dụng tiền kích thích kinh tế không đúng. Ông Dư Vĩnh Ðịnh (Yu YongDing), từng làm trong Ủy Ban Tiền Tệ của Ngân Hàng Nhân Dân (tức ngân hàng trung ương Trung Quốc) viết trên nhật báo Financial Times trong tuần này, báo động rằng chương trình kích thích kinh tế đang kéo dài tình trạng thiếu cân bằng trong cơ cấu kinh tế quốc gia. Sự phát triển trong các năm qua dựa quá nhiều trên số gia tăng đầu tư vào cơ sở sản xuất tạo nên cảnh dư thừa không dùng tới, nay chuyển sang hạ tầng cơ sở mà vẫn không được đưa vào lãnh vực tiêu thụ. Có 89% số tiền kích thích đem dùng trong các dự án hạ tầng cơ sở (xa lộ, thiết lộ, phi trường) mà chỉ có 8% được dùng kích thích tiêu thụ. Trong khi đó, số tiêu thụ ở Trung Quốc đã quá thấp so với các hoạt động kinh tế khác. Người dân tiêu thụ bị hy sinh cho các doanh nghiệp nhà nước dùng tiền đi vay vào các dự án không chắc có lời, mà không biết trong tương lai có thể trả nợ được hay không.

Ông Dư Vĩnh Ðịnh viết, “Tiền kích thích đã làm cho tình trạng dư thừa khả năng sản xuất đã nghiêm trọng càng trầm trọng hơn, trong khi tiền đem cho lại được dùng để thổi cho quả bong bóng chứng khoán phồng lên nguy hiểm.” Ông cho biết số tiền đầu tư vào cơ sở và thiết bị đã tăng 36% so với năm ngoái, và đưa tỷ lệ của hoạt động đầu tư lên 50% tổng số GDP. Trong khi đó, người dân Trung Hoa tạo ra được 100 đồng của cải thì chỉ được tiêu thụ 35 đồng, tỷ lệ thấp nhất trong số các nền kinh tế lớn, so với ở Mỹ là 70 đồng hay ở Ðức là 60 đồng.

Ở nước Mỹ, khi chính quyền Obama đưa ra chương trình kích thích kinh tế gần 800 tỷ Mỹ kim, nhiều đại biểu Quốc Hội đối lập đã chỉ trích rằng nhiều món tiền trong số đó được đem vào những hoạt động kích thích dân tiêu thụ mà chỉ nhắm thực hiện nhưng chính sách của đảng Dân Chủ, thí dụ như nghiên cứu nguồn năng lượng mới và bảo vệ môi trường. Nhưng có một chính phủ Mỹ nào dám dùng tiền của dân đóng thuế để kích thích riêng cho các cán bộ kinh tế của mình có thể làm giầu thêm. Vì một nước có báo chí tự do và Quốc Hội độc lập không cho phép chính quyền làm như vậy.

Ở Trung Quốc thì rõ ràng nhưng số tiền do chính phủ đem kích thích kinh tế chỉ nhắm làm giầu cho các cán bộ quốc doanh. Ở Trung Quốc không ai đặt câu hỏi tại sao lại dùng tiền đóng thuế của dân như vậy. Vì không ai dám nói đó là tiền của dân. Nhiều người nghĩ đó là tiền của đảng Cộng Sản, họ muốn làm gì thì làm! Phải có các nhà kinh tế phân tích cho người dân thấy tiền đóng thuế của họ được đem dùng cho ai hưởng!

Ðảng Cộng Sản Trung Quốc đã làm đúng việc mà Marx và Engels kết tội giai cấp tư bản khi xưa. Là dùng tiền bóc lột của dân lao động để củng cố địa vị và quyền lợi giai cấp thống trị! Cộng Sản Việt Nam cũng đang theo từng bước chính sách của đảng đàn anh, nhưng chưa thấy trong nước có tờ báo nào dám nói lên nhưng lời cảnh cáo như các ông Dư Vĩnh Ðịnh và Vương Nhất Giang đã làm! Nếu Marx và Engels sống trong thời này chắc hẳn họ phải viết một bộ sách “Tư Bản Nhà Nước Ðộc Quyền” để hô hào người dân lao động đứng lên làm cách mạng!

Ngô Nhân Dụng