Sunday, August 23, 2009

Chiến dịch Tảo thanh VC Vùng Rừng Sát, Nhà Bè - Lê Đình An

NN Lê Đình An

Vào khoảng gần cuối năm 1966, thương thuyền của ngoại quốc ra vào trên sông Lòng Tào, từ Vũng Tàu đến Sài Gòn, thường bị Việt Cộng bắn phá. Theo tin tình báo, VC dùng chiến thuật du kích tấn công các tàu bè di chuyển trên dòng sông nầy với ý định cô lập và cắt đứt đường giao thông thủy lộ huyết mạch vào Thủ Đô.

Chúng chuyển quân gồm có cả Đặc công thủy từ Mật khu Bình Giã qua ngã Long Thành rồi xâm nhập vào vùng sình lầy Rừng Sát và phân tán ra thành các chốt, các Toán nhỏ tận trong rừng sâu giữa 2 con sông Soai Rạp và sông Lòng Tào và mỗi khi chúng chuyển quân từ mật khu Bình Giã xuống miền Tây thì các nơi nầy là điểm chúng dừng quân tạm. Chúng ẩn núp hai bên bờ sông bắn sẻ vào các thương thuyền. Chúng bắn phá ngay cả vào các chiến đỉnh tuần tiểu của Hải Quân, dùng Đặc công thủy đặt thủy lôi, mìn bẫy để phá hoại các ghe tàu di chuyển trên dòng sông nầy.

(Đặc công thủy của Việt Cộng có công tác cũng hơi giống như Người Nhái Hải Quân VNCH, nhưng Đặc công thủy của Việt Cộng không được huấn luyện kỹ mà chỉ được huấn luyện cho từng công tác và chỉ sử dụng cho công tác riêng đó mà thôi, còn Người Nhái HQVNCH thì được huấn luyện khó khăn kỷ lưỡng, đa năng để sử dụng trong mọi công tác, và trong mọi trường hợp tùy theo nhu cầu chiến trường, Người Nhái có thể tự mình ứng biến cho thích nghi với hoàn cảnh địa hình địa vật nơi đó để hoàn thành công tác.).

Trong phạm vi bài nầy chỉ nói về chuyến công tác hành quân 3 tháng của 10 Người Nhái đầu tiên phối hợp với Người Nhái Hoa Kỳ tại vùng Rừng Sát Nhà Bè, mở đầu cho các trận chiến phối hợp hành quân giữa Người Nhái Việt Nam và Người Nhái Hoa Kỳ về sau mà thôi.

Bộ Tự Lệnh Hải Quân /P3 VNCH phối hợp với bộ chỉ huy hành quân Hoa Kỳ. Đại Tướng Westmoreland Tư Lệnh của Quân đội Mỹ, chỉ thị một đơn vị Người Nhái Hoa Kỳ thành lập căn cứ tại Nhà Bè. Còn về phía Bộ Tư Lệnh Hải Quân/P3. VNCH. Chỉ thị cho Liên Đội Người Nhái (Lúc đó cấp số Người Nhái còn ít chưa trở thành Liên Đoàn). Tuyển chọn 10 nhân viên ưu tú phối hợp với NN Hoa Kỳ để mở màn cho chiến thuật, dùng Du kích chống Du kích hay là chiến thuật "Gậy ông đập lưng ông.". Suốt chiến tranh Việt Nam.

Toán Người Nhái 10 người đầu tiên chuẩn bị đầy đủ trang bị tác chiến, xe Liên Đội Người Nhái đưa qua Bộ Tư Lệnh HQP3. Đại Úy Trưởng Phòng 3 cho 10 NN biết chuyến công tác rất quan trọng vì Văn Phòng Bộ Tư Lệnh Hành Quân Hoa Kỳ muốn biết khả năng tác chiến của Người Nhái Việt Nam.

- 10 NN nhận Sự vụ Lệnh công tác rồi xuống trình diện Bộ Chỉ Huy NN Hoa Kỳ đóng kế bên Căn cứ Hải Quân Nhà Bè thuộc Đặc Khu Rừng Sát.

Sau khi trình diện, 10 NN Việt Nam được Đại Úy Trưởng Toán NN/HK (Tôi không còn nhớ tên vì lâu quá) hướng dẫn đi xem và giới thiệu tất cả các nơi trong căn cứ, và các loại vũ khí trang bị cho cá nhân, các loại tàu hành quân như PBR, Seal Boats v.v...

Khi trở về phòng họp, Đại Úy Trưởng Toán NN Mỹ cho biết về việc nơi ăn chốn ở thì bên Căn cứ Hải Quân Việt Nam tại Nhà Bè sẽ lo cho NN Việt Nam. Trước khi chấm dứt buổi họp, Đại Úy Mỹ hỏi có cần hỏi gì không? Tôi nhận thấy có trở ngại nên xin phép được bàn thảo với nhau vài phút trước khi trả lời .

Tôi đề nghị anh em khoan nhận công tác với Đại Úy Trưởng Toán NN Mỹ vì có trở ngại, lý do:

Về vấn đề ăn, ở của chúng ta không được thuận tiện, vì bên Căn cứ Hải Quân Việt Nam những bữa ăn và ngủ có giờ nhứt định. Còn đi công tác với NN Mỹ thì bất thần. Và việc quan trọng là chúng ta 10 người Nhái đầu tiên hợp tác với NN Mỹ. Họ muốn biết khả năng của chúng ta, vì vậy mà ảnh hưởng rất quan trọng cho Đơn vị NN Việt Nam về sau.

(Tôi nhận thấy điểm quan trọng là trong công tác nầy Hoa Kỳ muốn xem khả năng NN Việt Nam trong công tác phối hợp hành quân, mà chúng tôi không có đủ điều kiện như NN Mỹ thì chẳng khác nào như 2 võ sĩ lên đài thi đấu mà một bên được ăn uống đầy đủ, còn một bên không được ăn uống đầy đủ thì làm sao biễu diển thi thố tài năng được?)

Sau khi bàn thảo xong NN Việt Nam đưa ý kiến cho Đại Úy Mỹ biết là đang gặp trở ngại nên chưa có thể nhận công tác, sẽ trình diện lại sau khi được Bộ Tư Lệnh Hải Quân giải quyết.

- 10 NN trở về trình diện lại BTL/HQ/P.3 Chúng tôi cho biết những trở ngại và nhờ BTL/HQ/P.3 can thiệp với bên văn phòng Quân sự Hoa Kỳ để được cấp nơi ăn và ở chung với Toán NN Mỹ thì NN Việt Nam mới có đủ sức để hoàn thành công tác được. BTL/HQ/P.3 đồng ý đề nghị của Toán NN và cho trở về LĐNN để chờ.

Qua ngày hôm sau Toán NN được BTL/HQ/P.3 thông báo mọi việc đã giải quyết xong. Bộ Chỉ Huy NN Mỹ đã nhận được chỉ thị sắp xếp cho NN Việt Nam ở chung khu vực, 10 NN trở xuống trình diện lại BCH/ NN Mỹ. Nhưng 10 NN Việt Nam nhận được sự tiếp đón lạnh nhạt của NN Mỹ chớ không thân thiện như lần đầu. Toán NN Việt Nam họp lại và cùng một nhận xét giống nhau, lòng tự ái bị tổn thương, 10 NN Việt Nam bảo nhau Họ có ý khinh thường NN chúng ta, chúng ta phải làm cho NN Mỹ thấy rõ khả năng của NN Việt Nam.

10 NN Việt Nam được chia ra cho 10 Toán NN Mỹ. Nhiệm vụ của NN Việt Nam là Tiền Sát (Point Men) đi trước thám sát và hướng dẫn Toán, bên NN Mỹ cũng có một Point Men cùng đi chung.

Tiền Sát viên có nhiệm vụ như: Khi đến điểm phục kích, sau khi bắn hết một băng đạn đầu, tất cả thay băng đạn khác, nhiệm vụ của Tiền Sát lúc đó là sẵn sàng cởi bỏ nón, dây nịt đạn với súng tại chỗ, chờ cho đồng đội quan sát và sẵn sàng yểm trợ, Trưởng Toán ra lệnh, Tiền Sát có nhiệm vụ thanh Toán mục tiêu sau cùng giết địch nếu địch còn sống sót và tịch thâu chiến lợi phẩm.

Những vùng có cạm bẫy thì người Tiền Sát có nhiệm vụ đi trước tháo gỡ lựu đạn, Mìn hoặc cạm bẫy do địch gài. Và các việc linh tinh khác. Khi cần thì đều do Tiền Sát đảm nhận.

Riêng phần tôi vì bị mặc cảm NN Mỹ đối xử lạnh nhạt lúc đầu, cho nên khi gặp việc đều quyết tâm tận lực để giữ uy tín cho NN Việt Nam.

Công tác hành quân phục kích

Chuyến công tác đầu tiên của Toán tôi với 5 NN Mỹ và 1 Trung sĩ NN Porter Phụ tá Cố Vấn của LĐNN cùng đi, tất cả là 7 người. Sau buổi họp nhận lệnh hành quân, tôi nhận xét NN Mỹ khi đi công tác họ được yểm trợ hỏa lực thật là mạnh mẽ và rất an toàn khi cần cấp cứu, chuẩn bị thật kỹ càng nghiên cứu thật tường tận về không ảnh và bản đồ, như chuyến công tác 2 ngày nầy gồm có:

- 4 chiếc Trực Thăng võ trang. (2 chiếc bắn chận để bảo vệ và 2 chiếc cấp cứu)
- 1 chiếc L.19 Phi cơ Quan sát.
- 1 Căn cứ Pháo Binh Nhà Bè.
- 2 PBR.(Patrol Boat River).
- 1 Seal Boat chở NN đi công tác
- BCH/Hành Quân có thể liên lạc với Không Lực Hoa Kỳ khi cần đến bất cứ lúc nào.
- Tất cả các lực lượng trên đều ứng trực 24/24.

(NN Việt Nam đánh giặc theo lối "Nhà nghèo" chỉ lấy thân đỡ đạn chứ không thể có được sự yểm trợ đầy đủ và mạnh mẽ như vậy)

Toán Công Tác được báo thức lúc 3.giờ khuya, tôi cùng Toán Công Tác đi ăn sáng rồi lên đường với đầy đủ trang bị vũ khí, đạn dược và lương khô dùng trong 2 ngày.

Khởi hành lúc 4.giờ sáng, chiếc Seal Boat trong nhiệm sở tác chiến, tất cả nhân viên trên tàu đều phải mặc áo giáp và đội nón sắt, tàu chở Toán Công Tác di chuyển trên dòng sông Lòng Tào, phía trước và sau có 2 chiếc PBR chạy cách khoảng xa xa.

Khoảng 6 giờ sáng, đến khu vực tác xạ tự do (Vùng cấm dân chúng di chuyển) Tất cả NN đều đem súng cá nhân ra bắn thử khoảng chừng nửa băng rồi lắp đạn mới vào cho đầy đủ, bắn thêm vài viên cho thật bảo đảm súng của mình không bị trở ngại rồi khóa an toàn, khi đến địa điểm đổ bộ, cả Toán cởi áo giáp và nón sắt để lại tàu và chuẩn bị đổ bộ.

Đến địa điểm lúc 7 giờ sáng, trời còn mờ sương. Chiếc Seal Boat ủi bãi, NN chúng tôi súng đều mở khóa an toàn sẵn sàng tác chiến. Mũi chiếc Seal Boat vừa chạm vào bãi sình, Toán NN nhanh nhẹn nhảy xuống trước cửa đổ bộ nước ngập đến ngang ngực, chúng tôi đứng yên tại chỗ quan sát trong lúc tàu rút lui ra xa. Toán NN lần lượt di chuyển nhẹ nhàng trong vùng sình lầy nước đọng lẩn khuất vào các lùm cây.

"Rừng Sát"

Địa danh thật là bí hiểm đúng nghĩa vì nơi nầy chỉ có toàn là các loại cây sống chìm gốc dưới nước như cây Bần, Đước và Dừa nước .v.v.. Trên một diện tích rộng bao la, và thỉnh thoảng mới gặp vài khoảng đất hơi cao ráo. Toán NN di chuyển lần sâu vào bên trong và vì phải lẩn tránh các bụi cây rậm rạp, vừa đi vừa trầm mình lội dưới nước, có chỗ nước cao ngang đầu gối, có chỗ lại ngập khỏi đầu, trong suốt 5 giờ di hành liên tục (từ 7.giờ sáng đến 12.giờ trưa). Cả Toán dừng lại lập vòng đai an toàn để nghỉ giải lao và ăn trưa với lương khô mang theo dưới vòm cây rậm rạp.

10 phút ăn và nghỉ xong, Trung Úy Trưởng Toán họp bàn, ông ta cho biết rất khó xác định vị trí trên đường đến địa điểm. Vì trước khi hành quân, tất cả Toán đều họp lại để nghiên cứu địa điểm phục kích trên bản đồ và các không ảnh. Nhưng trên thực tế thì có nhiều thay đổi về địa hình và địa vật. Thí dụ như trên bản đồ hành quân và không ảnh cho biết trên đường di chuyển sẽ qua khoảng 20 con rạch, nhưng Toán NN đã lội qua hơn 30 con rạch rồi mà mới có phân nửa đoạn đường. (theo ước tính phải đến điểm phục kích là 10 tiếng đồng hồ di chuyển ở khoảng giữa 2 dòng sông Xoai Rạp và Lòng Tào).

Trưởng Toán quyết định gọi Căn cứ Pháo Binh tại Nhà Bè bắn đạn khói để xác định vị trí. Sau khi nghe tiếng đại bác của Căn cứ Pháo Binh bắn đi, cả Toán NN đã sẵn sàng di chuyển, không đầy 1 phút một tiếng nổ nhỏ trên đầu chúng tôi và tỏa ra một lùm khói trắng rồi tan đi rất mau, cả Toán cấp tốc di chuyển thật nhanh ra khỏi vùng đó vì sợ địch có thể phát giác, trong khi đó Trưởng Toán cũng đã báo cáo về Căn cứ Pháo Binh và BCH/Hành quân là đã xác định được điểm.

- Điểm ghi nhận NN Mỹ họ rất giỏi về địa bàn và nhận định phương hướng.

Toán NN bắt đầu lọt vào vùng địch đóng quân, vì trên đường đi Toán phát giác qua nhiều con rạch có nhiều lu mái dấu trong các lùm dừa nước, có lẽ Việt Cộng dùng để chứa nước mưa hoặc nước ngọt được tiếp tế từ ngoài vào. Những tàn tích tro than, các chỗ trống trong các lùm cây còn để lại, theo ước tính cho biết từ cấp Đại Đội đến cấp Tiểu Đoàn của Việt Cộng vừa rút đi. Cả Toán tiếp tục di chuyển rất cẩn thận với cảnh giác cao độ.

Đến điểm phục kích là 5 giờ chiều, Tr/Úy Trưởng Toán chọn địa điểm thích hợp. Toán chia ra nằm rải dọc theo bờ sông, sau khi sắp xếp xong Toán rút lui vào phía trong khoảng chừng 50 thước và lập vòng đai an toàn, Trưởng Toán báo cáo về BCH/Hành Quân. Khoảng chừng 10 phút sau một chiếc L.19 bay lượn trên không để tìm địa điểm của chúng tôi, Trưởng Toán NN hướng dẫn cho L.19 biết tọa độ chính xác, L.19 báo xuống đã thấy được Toán và từ giã rồi bay đi. Tất cả lấy lương khô ra ăn.

Chờ đến khoảng 7 giờ, trời vừa mờ tối tất cả về vị trí phục kích. Nơi đây dòng sông rộng khoảng chừng 30 thước ngang, hai bên bờ tàn lá dừa nước phủ là đà trên mặt nước, Toán NN đang phục kích tại một khúc sông hơi cong để có thể quan sát trọn 2 chiều , thủy triều giờ nầy đang lên chảy vào từ hướng sông Soai Rạp đổ qua sông Lòng Tào.

Vùng nầy thật hoang vu vì là cấm địa không ai được phép lai vãng, nếu có xuồng ghe di chuyển thì chắc chắn là Việt Cộng chớ không có người dân nào đi trên vùng nầy cả và nhứt là ban đêm.

Tôi đang ngồi dựa gốc cây bần ghìm tay súng nhìn về hướng sông Soai Rạp, mặt sông phẳng lặng gợn lăn tăn những làn sóng nhẹ dưới bóng mờ của ánh sao đêm, những cơn gió xào xạc đong đưa những tào lá dừa tạo thành âm thanh buồn vời vợi. Cảnh vật đã tạo cho tôi niềm hoài cảm. Quê hương mình còn đắm chìm trong khói lửa triền miên, biết đến bao giờ mình và các bạn đồng ngũ sẽ được trở về đời sống thanh bình?!

Tôi đang miên man trong suy tư. Bổng thấy ánh sáng phản chiếu ánh sao đêm lóe nhẹ lên theo làn sóng gợn từ xa phía bên kia sông, Tôi tập trung theo dõi trong bóng tối đen, lại thêm một lượn sóng nhô lên lao xao, tôi nhìn thấy và nhận ra là một chiếc xuồng đang chèo hướng về phía Toán đang phục kích, còn xa nên chưa thấy rõ lắm, vì là Tiền Sát viên nên tôi nằm đầu bên nầy còn anh Tiền Sát Mỹ thì nằm đầu bên kia. Tôi lấy một cục đất nhỏ ném về phía người kế và ra thủ hiệu nhìn theo hướng chiếc xuồng cho người kế biết, và người kế tiếp tục thông báo cho người tiếp theo.

7 mũi súng tự động tập trung hướng về chiếc xuồng sắp chèo tới. Hơi thở Toán phục kích cũng dập dồn theo nhịp chèo của chiếc xuồng đang từ từ đi vào tử địa. Khi chiếc xuồng lần lần đến gần, trên xuồng hiện lên 3 bóng người, một tên ngồi trước mũi xuồng tay cầm súng AK 47 đang quan sát, một tên ngồi giữa có lẽ cao cấp và một tên chèo lái. Mũi súng của Toán NN di động theo chiếc xuồng chờ cho ngang tầm.

- Tiếng súng lệnh khai hỏa của Trưởng Toán nổ cùng lúc với 6 khẩu súng tự động M.16 nổ theo tạo nên âm thanh vang lên rùng rợn trong màn đêm. Tôi nhìn thấy trên mặt sông, 3 vùng nước xoáy như 3 chiếc nia phơi lúa, trồi bong bóng ùng ục như 3 lỗ mội to trên làn nước chao động còn chiếc xuồng từ từ trôi ra giữa dòng ....

Thi hành nhiệm vụ của Tiền Sát, sau khi bắn xong băng đạn, tôi ném một trái lựu đạn về phía xuồng địch, cấp tốc lắp vào băng đạn khác, tháo dây nịt đạn cùng dây 3 chạc và chiếc nón vải ngụy trang ra để trên mặt đất và gác khẩu súng lên, rút lưỡi dao găm ra khỏi vỏ ngậm vào miệng, Tiền Sát viên Mỹ cũng làm như tôi và chờ lệnh Trưởng Toán để thanh toán mục tiêu sau cùng. Trưởng Toán kiểm soát bên kia bờ sông bằng ống dòm hồng ngoại tuyến, cả Toán đã sẵn sàng yểm trợ cho 2 Tiền Sát. Công việc nầy từ lúc bắn xong và chuẩn bị xuống nước không quá 30 giây. Trưởng Toán ra lệnh, tôi và NN Mỹ cùng hụp xuống lặn theo hướng chiếc xuồng đang trôi xuôi dòng nước chảy khoảng hơn 50 thước. Vì từng là vô địch bơi lội ngày trước nên tôi lặn đến mục tiêu nhanh hơn NN Mỹ. Dưới mặt nước tối mờ tôi nhận ra bóng đen của đáy chiếc xuồng. Lấy lưỡi dao găm trong miệng ra cầm tay, đến nơi tôi lấy đà phóng vọt lên khỏi mặt nước, một tay chụp lấy be xuồng giật mạnh xuống, một tay giơ cao lưỡi dao găm đồng thời thân mình tôi cũng vượt lên be xuồng khỏi bụng, chuẩn bị tấn công nếu địch còn sống sót. Nhưng tất cả địch đều bị bắn rớt xuống sông. Tôi gom 2 khẩu AK47 lại, NN Tiền Sát của Mỹ cũng đã đến và cùng tôi lội đẩy chiếc xuồng vào bờ, tôi tịch thâu 2 khẩu AK47 và một xách tài liệu đem lên giao cho Tr/Úy Trưởng Toán, Trưởng Toán chia ra cho các Toán viên mang giữ. Trước khi rút đi tôi ném một quả lựu đạn vào chiếc xuồng cho nổ tung lên và chìm xuống nước.

Toán NN rút lui vào trong sâu cách bờ sông khoảng 150 thước và lập vòng đai an toàn, ngồi dựa lưng nhau vào hàng cây bần để dễ quan sát 4 phía. Vì Toán NN đang ở giữa sâu trong rừng sát và đã nổ súng náo động nên không thể rút lui ban đêm, Toán phải nằm lại phòng thủ tại chỗ chờ sáng. Vì biết là đang nằm trong lòng địch nên tất cả Toán đều chong mắt canh chừng. Thời gian trôi qua Toán NN cảm thấy như là thật chậm chạp, giữa cảnh rừng rậm âm u vắng lặng, tiếng muỗi vo ve lẫn tiếng côn trùng rỉ rả. Sự yên lặng như báo trước sẽ xảy ra điềm nguy hiểm sắp đến. Người ta thường nói là "trước khi bão thì trời lặng gió".

Tr/Úy T.Toán sau khi liên lạc về Bộ Chỉ Huy Hành Quân rồi rỉ tai chuyền nhau cho biết kế hoạch sẽ rút vào khoảng đất trống trải cách đó chừng 100 thước để Trực Thăng thả dây cấp cứu, phòng hờ nếu có đụng trận.

Đến 4 giờ sáng chúng tôi thông báo chuyền nhau tất cả đều thắt dây đai để chuẩn bị sẵn sàng (Khi đi công tác NN đều có mang theo bên mình một đoạn dây Nylon khoảng 5 thước, để khi cần Trực Thăng cấp cứu thì tháo ra quấn ngang bụng 2 vòng và vòng qua hai bắp đùi làm thành chiếc đai ghế giả, cuối cùng thắt lại với chiếc khoen nhôm trước bụng, khi Trực Thăng thả dây cấp cứu xuống cho mỗi người thì phải lấy chiếc móc dây đó móc vào chiếc khoen của mình, Trực Thăng sẽ bấm nút kéo lên)

Đến 5 giờ sáng, 2 Tiền Sát được lệnh bò trở lại chỗ phục kích nơi bờ sông thám sát, khi bò gần đến bờ sông, 2 Tiền Sát ra dấu cho nhau vì nghe có tiếng động bên kia bờ sông. Sau khi lắng nghe có tiếng xào xạc như có rất nhiều người di chuyển trong im lặng, chúng tôi cấp tốc bò trở lại báo cho Tr/Toán biết, lập tức Toán NN lập lại đội hình phục kích hàng ngang hướng về bờ sông, trong khi đó Tr/Toán báo về BCH/Hành Quân. Tr/Toán cho biết trong vòng 15 phút sẽ rút về điểm trống để Trực Thăng đến rước.

Đúng giờ Toán NN rút lui theo đội hình vừa ra bãi trống không rộng lắm, sau khi lập vòng đai an toàn xong thì có tiếng Trực Thăng từ xa đến theo đúng hướng của kế hoạch, Trực Thăng bay thật thấp và nhanh, hai chiếc lướt qua đầu chúng tôi xả súng bắn xuống phía bên kia bờ sông. Sau đó chúng tôi nghe có nhiều tràng đại liên và súng nhỏ của địch bắn trả và tiếng la ó náo loạn. Hai chiếc Trực Thăng đã thấy điểm của địch nên vòng lại bắn hỏa tiễn xối xả xuống địch quân. Trong lúc đó 2 chiếc Trực Thăng cấp cứu bay đậu trên không thả dây kéo Toán NN lên mới được vài thước, trong lúc đó có nhiều loạt đạn bắn về phía Trực thăng cấp cứu. Thấy nguy hiểm nên 2 chiếc Trực Thăng cấp tốc đảo ngang bay đi với vận tốc thật nhanh, Toán NN đang lơ lửng trên không nên bị va chạm vào các nhánh cây làm rách sướt quần áo và da thịt. Khi lên khỏi ngọn cây, những lằn đạn lửa của Việt Cộng bắn theo 2 chiếc Trực thăng tới tấp, Trực Thăng vượt qua vùng lửa đạn rồi tiếp tục bay về căn cứ không cần kéo các NN lên nữa, với vận tốc khoảng trên 200 cây số giờ, thân mình chúng tôi cảm thấy như bị kéo dài ra và Trực Thăng đã đưa Toán NN về được an toàn, 2 chiếc Trực Thăng võ trang bắn chận để cứu Toán NN cũng trở về căn cứ, giao vùng địch lại cho căn cứ Pháo Binh và Không Quân Hoa Kỳ thanh Toán mục tiêu với chiếc L 19 chỉ điểm.

Toán Người Nhái Mỹ - Việt được cấp cứu đưa về căn cứ Nhà Bè

Toán NN trở về trại lúc 5 giờ sáng, tắm rửa và ăn sáng rồi ngủ một giấc đến khoảng 3 giờ chiều. Buổi họp của Toán NN tại phòng Hành Quân để rút ưu và khuyết điểm. Tất cả đều đưa ra các nhận xét riêng của mình trong trận vừa qua. Điểm ghi nhận đặc biệt của anh Trung sĩ Porter phụ tá Cố vấn Mỹ cho LĐNN, đưa ý kiến là khẩu M.16 khi bắn liên thanh, quán tính đường khương tuyến của nòng súng, lúc bấm cò, viên đạn khi ra khỏi nòng đã đẩy nòng súng hất lên cao từ từ, tất cả Toán đều cùng một nhận xét như nhau, và cùng thảo luận tìm cách khắc phục. Cuối cùng cách thức được anh em Toán NN đồng ý là khi bắn liên thanh thì một tay kẹp bá súng vào hông , một tay đè chận trên thân súng trước ấn xuống, để mũi súng không bị ngóc lên. (Khi công tác NN sử dụng súng đều bỏ dây mang súng, tư thế ứng chiến 100%).

Hai Tiền Sát viên được cả Toán tuyên dương về mặt tinh thần can đảm và đã hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao phó. Trung Úy Tr. Toán giao 2 khẩu AK47 chiến lợi phẩm lại cho tôi. Tôi đang phân vân chưa biết giải quyết như thế nào thì anh bạn Tiền Sát Mỹ bước lên chúc mừng tôi và cầm giùm 2 khẩu súng đem lại giường ngủ cho tôi. Khi tan buổi họp về phòng ngủ, các bạn Mỹ trong Toán yêu cầu tôi trao đổi 2 khẩu súng AK47, Người thì xin đổi khẩu súng 9 mm , kẻ thì xin đổi súng lục v.v... Tôi suy nghĩ "Mình đang sống trong cuộc chiến chưa biết được sự sống hay chết của ngày mai. Vậy mình giữ những khẩu súng đó để làm gì ?". Tôi quyết định đem tặng cho anh bạn Tiền Sát một khẩu và một người khác trong Toán vì anh nầy rất có cảm tình với tôi. Hai anh bạn Mỹ nhận 2 Khẩu súng AK47 trố mắt nhìn tôi và hỏi lại mấy lần. Khi được tôi cho biết là chỉ tặng không cho hai anh chớ không có trao đổi chi cả. Hai anh vui mừng đến ôm vai tôi và cám ơn rối rít .Hai anh cho biết các anh đến Việt Nam tham chiến nên các anh muốn có một món quà lưu niệm khi các anh trở về Mỹ, và cũng không có gì quý giá hơn đối với người quân nhân là khẩu súng chiếm được của kẻ địch nơi mặt trận mà chính mình đã tham dự.

Toán Người Nhái VN chúng tôi đã thành công chỉ trong chuyến công tác đầu tiên nầy. NN Mỹ đã tỏ ra có thiện cảm với NN Việt Nam.

Vì lý do là NN Việt Nam nhỏ con hơn người Mỹ, cho nên khi di chuyển chúng tôi di chuyển lẹ làng và nhanh hơn, mỗi khi qua những vùng sình lầy hoặc qua các sông rạch, Người Nhái Hoa Kỳ di chuyển rất khó khăn. Vì cùng công tác chung nên chúng tôi thường phụ giúp các anh chàng khổng lồ nầy mỗi khi các anh chàng bị lún sình. Nhất là anh mang súng trung liên Stoner loại mới sản xuất dành riêng cho NN Mỹ, khẩu súng nầy bắn liên thanh, dây Nylon kết các viên đạn cỡ .223 đựng trong hộp nhựa chứa 150 viên, anh mang khẩu súng với 4 hộp đạn, người trợ xạ thủ mang thêm cho anh 2 hộp nữa, vì mang nặng nên anh thường bị lún sình - NN Mỹ to xác nên ăn uống cũng rất nhiều, khi đi công tác thường mang theo rất nhiều thức ăn uống, chẳng hạn như nước uống NN Mỹ phải mang theo một túi Nylon chứa 5 quarts nước rồi còn mang thêm 2 Bidon phụ thêm, còn NN Việt Nam chỉ cần 2 Bidon nước mang theo cho những công tác phục kích tại địa điểm lâu chừng 2 hay 3 ngày mà thôi.

NN hoạt động tại Rừng Sát NN. Thái (Cóc Tía) và Seals Mỹ tại Rừng Sát

10 Toán NN thay phiên nhau công tác đêm nào cũng có 3 Toán đi và 3 Toán về 4 Toán ứng trực và cũng tùy theo nhu cầu công tác mà sắp xếp số nhân viên đi công tác.

Và máu cũng bắt đầu đổ xuống hòa lẫn với nhau giữa Người Nhái Mỹ và Người Nhái Việt Nam Cộng Hòa trong những lần công tác kế tiếp.

Người Nhái đầu tiên trong Toán đã hy sinh vì Tổ Quốc.

LĐNN và Navy Seals Mỹ

Sau vài chuyến công tác, một Toán NN bị Việt Cộng phục kích. - NN Nguyễn Ngợi là Người Nhái VN đầu tiên đã anh dũng hy sinh trong trận phản phục kích cùng với 2 NN Hoa Kỳ đã nằm xuống vĩnh viễn nơi vùng đầm lầy Rừng Sá t.....
-----------------------

Chuyến phục kích độc đáo

Thêm vài lần công tác nữa, vài Toán khác cũng chạm súng với địch, cũng mang thắng lợi về, chỉ vài nhân viên bị thương tích nhẹ.

Riêng Toán của tôi liên tục mấy chuyến hành quân vừa qua đều vô sự. Hôm nay tôi nhận lệnh từ phòng hành quân, đặc biệt là đêm nay chuyến công tác chỉ có ba người, và tôi vẫn là Tiền Sát của tổ.

Chuyến công tác lần nầy chúng tôi di chuyển bằng PBR (Tuần giang đỉnh) đi đầu và một PBR hộ tống xa xa phía sau. Khi gần đến địa điểm Tiểu Đỉnh vẫn giữ tốc độ chạy đều, chúng tôi 3 người đã nằm sẵn trên sàn tàu, lúc đó khoảng 8 giờ tối. Trời đã tối, ánh sáng chỉ còn hừng lên qua vài đám mây còn phản chiếu ánh mặt trời mờ mờ.

Khi đến điểm Trung Úy Trưởng Toán ra dấu hiệu, cả 3 chúng tôi cùng lăn ra khỏi tàu và rớt xuống nước còn tàu thì vẫn tiếp tục di chuyển, chúng tôi lội vào bờ thật nhẹ tránh động nước.

Điểm phục kích nầy là ngã ba sông Lòng Tào, đầu con rạch nhỏ bề ngang khoảng chừng 15 thước. 3 người chúng tôi vạch nhẹ cỏ dại mọc cao dọc theo triền lên đến bờ, chúng tôi vừa chọn chỗ nằm thích hợp để quan sát trong vùng cỏ rậm, vì là Tiền Sát tôi phải vào trước và quan sát phía trong ngọn rạch. Vừa yên chỗ tôi bổng thấy bóng một chiếc xuồng đang chèo ra cách chỗ chúng tôi không quá 100 thước, tôi đưa tay bấm nhẹ anh Tr/Úy T. Toán, chúng tôi đều tháo mỗi người 2 trái lựu đạn và 2 trái chiếu sáng và một băng đạn phụ để sẵn ...

Khi xuồng đến gần hiện rõ 3 người, một người nằm trước mũi quan sát với khẩu súng AK 47, một người ngồi giữa đội nón cối, người chèo xuồng vừa chèo vừa ngóng cổ lên cao quan sát phía ngoài sông lớn, có lẽ chúng định chèo ra nhưng nghe có tiếng máy tàu của chúng tôi vừa đi đến nên chúng ẩn vào lùm cây phía trong, chờ tàu tuần tiểu đi qua xa rồi chúng nó mới chèo ra.

Ba người chúng tôi chia 3 mục tiêu, tôi lãnh phần tên chèo xuồng. Tràng súng lệnh của anh Tr/Úy Trưởng Toán vào tên ngồi giữa cùng lúc với 2 tràng đạn của chúng tôi đã hạ gục 3 tên VC, mỗi người chúng tôi đều ném bồi theo 2 trái lựu đạn miểng, lắp băng đạn mới vào và giựt 2 trái chiếu sáng để thông báo cho tàu trở lại đón. Còn tôi thì đã sẵn sàng nhào xuống nước với lưỡi dao găm để tiêu diệt những tên nào còn sống sót và tịch thâu chiến lợi phẩm. Hai bạn trong tổ bắn phủ đầu để yểm trợ cho tôi lặn đến xuồng với động tác lưỡi dao găm phòng thân tiêu diệt địch, và lần nầy chúng tôi cũng thành công, tất cả 3 tên VC đều rớt xuống nước, tôi lội đẩy xuồng ra sông lớn thì 2 chiếc PBR cũng vừa tới. Cả 3 chúng tôi nhảy lên tàu, tôi cột chiếc xuồng vào tàu và tịch thâu 2 cây AK 47, một súng trường bá đỏ và một túi tài liệu, trong lúc đó 2 chiếc PBR ghim mũi vào bờ bắn xối xả vào phía trong ngọn rạch với những tràng đại bác 20 ly và 12.7, cốt ý chận lại nếu có nhiều địch quân. Và cùng rút nhanh ra khỏi vùng phục kích 2 chiếc PBR cùng về căn cứ với 3 người chúng tôi.

Trận phục kích độc đáo nầy tính từ khi tổ 3 người chúng tôi xuống nước cho đến khi rút ra, không quá 15 phút.

Trong trận phục kích nầy tôi học được thêm kinh nghiệm là với quân số quá ít, khi lâm chiến phải dùng chiến thuật Hỏa mù đánh vào tâm lý của địch, cả 3 chúng tôi đã bắn thật nhiều, thật dữ tợn và ném 6 trái lựu đạn, giựt 6 trái chiếu sáng, cốt ý là làm cho địch quân nếu có đóng quân gần đó cũng không biết được rõ quân số của chúng tôi là bao nhiêu.

Sau nhiều chuyến công tác cùng chung sống chết trong những cuộc hành quân phối hợp, các người bạn NN Hoa Kỳ giờ đây đã thấy được khả năng của NN Việt Nam nên rất quý mến chớ không giống như ngày chúng tôi mới đến. Với tinh thần bất khuất, và vì Danh Dự của đơn vị, trong trận chiến chưa bao giờ NN Việt Nam lùi bước trước địch quân dù cho có bị bao vây. Và đối với NN Mỹ, NN Việt Nam cũng sinh cảm tình vì cùng chung sống chết nơi chiến trường, những ngày nghỉ ngơi, các bạn Mỹ thường rủ chúng tôi cùng đi PX (Hợp tác xã quân đội). Lẽ dĩ nhiên là các bạn NN Mỹ có nhiều tiền thường mua quà về biếu cho NN Việt Nam. Nhưng riêng tôi vẫn còn mang nhiều mặc cảm qua nhiều lý do cho nên suốt thời gian công tác, tôi chưa bao giờ vào PX cả. Một Trung sĩ Mỹ cùng chung Toán với tôi thấy tôi ở lại trại một mình, anh đến nói chuyện với tôi, anh bạn cũng hỏi tại sao tôi không đi PX để mua sắm, tôi lắc đầu mỉm cười không trả lời. tôi không giỏi Anh ngữ nên chỉ nói rất ít những gì mình biết, anh bạn nầy cũng cảm thông. Và qua nhiều lần nói chuyện tôi và anh đã hiểu nhau qua một vài câu chuyện trao đổi như anh bạn Trung sĩ (Vì câu chuyện nầy đã lâu tôi không nhớ tên anh bạn nầy) quê ở Tiểu Bang Louisiana, có gia đình, lương hàng tháng của anh $ 500 USD, anh lãnh ra xài phân nửa còn phân nửa để lại cho gia đình. Anh hỏi lại tôi, tôi mỉm cười và cho anh biết lương Hạ sĩ nhứt của tôi là 1.700 Đồng so với đồng Dollars thì khoảng $16 USD (vì 1 Dollar lúc đó đổi được 120 đồng tiền Việt Nam), Anh bạn NN Mỹ ngạc nhiên tròn mắt lắc đầu. Có lẽ anh cũng cảm thông được tại sao tôi từ chối không đi PX.

Qua kỳ lãnh lương của tháng sau, anh bạn Trung sĩ NN Mỹ nầy vui vẻ đến gặp tôi và đưa cho một bao thơ, tôi ngạc nhiên nhìn anh, anh ta cười và bảo mở ra xem. Tôi mở bao thơ ra nhìn thấy tờ giấy bạc $10 USD, tôi nhìn anh hỏi lý do. Anh bạn sợ tôi trả lại vội nắm lấy tay tôi và nói anh có nhã ý gởi cho tôi $10 USD là để mua quà tặng bạn gái của tôi. Tôi ngưng lặng vì cảm động trước thân tình của anh bạn NN Mỹ, anh bạn hiểu tâm lý của tôi nếu tặng cho tôi thì chắc chắn tôi không nhận nên anh bảo là tặng cho bạn gái, để tôi không có lý do từ chối.!

Những ngày công tác cũng lần qua, những lần đụng trận của các Toán khác cũng vẩn tiếp tục, nhưng vì chúng tôi được lợi thế hơn với những lần phục kích và đột kích bất thần.. và mỗi khi đụng trận thì được sự yểm trợ và cấp cứu hữu hiệu nên chúng tôi ít bị thiệt hại so với thiệt hại của địch nhiều hơn gấp 80 hay 90%....

Chỉ còn khoảng 2 tuần lễ nữa là mãn hạn công tác 3 tháng, trong ngày nghỉ dưỡng sức tôi trở về Liên Đội Người Nhái thăm anh em, tôi gặp Thiếu Tá Liên Đội Trưởng Trịnh Hòa Hiệp, người anh cả của Đơn vị, anh em NN chúng tôi thường gọi ông là "Ông Phật Sống" hiền lành vì ông xem LĐNN như là nhà của mình, tất cả NN đều là con cái trong nhà, vì vậy mà anh em NN chúng tôi có nhiều khi "Lộng hành quá đáng" Th/Tá Hiệp nhận được văn thư cấp trên quở trách, ông đều nhận cả và chỉ gọi các "Quái nhân lộng hành" vào văn phòng khuyên bảo chớ ông không nỡ quở phạt. Đôi khi tôi tự nghĩ đến Th/Tá Hiệp - vị Chỉ Huy Trưởng hiền lành nầy tại sao lại về chỉ huy một đơn vị quá ư là "Dữ tợn", đơn vị mà đối với VC là Hung Thần, mỗi khi VC gặp Người Nhái là như gặp giờ "Ngọc Hoàng giũ sổ". Phải chăng là định mạng của ông đưa đẩy ông đến toàn là các đơn vị đặc biệt ?. Từ khi tốt nghiệp khóa 7 Sĩ Quan Hải Quân, Ông thụ huấn khóa 1 Biệt Hải tại Đà Nẵng và làm Chỉ Huy Trưởng của Đơn vị nầy, rồi qua Đơn vị Hải Tuần và cuối cùng là Chỉ Huy Trưởng của Liên Đoàn Người Nhái !

Thiếu Tá Hiệp thấy tôi liền gọi vào văn phòng thăm hỏi về những công tác phối hợp với NN Hoa Kỳ của chúng tôi, tôi đem những điều học hỏi được trong các chuyến công tác kể cho Th/Tá nghe và những nhận xét riêng của tôi về những đặc biệt của NN Mỹ mà NN chúng ta chưa có học hỏi qua Th/Tá Hiệp trầm ngâm suy nghĩ rồi nói với tôi: Anh có những nhận xét rất đặc biệt rất quý giá cho đơn vị mình, rồi ông nói tiếp: Tôi sẽ cùng anh và Toán NN Mỹ đi công tác một chuyến ...

Tối nay Toán chúng tôi đi phục kích, Chỉ Huy Trưởng LĐNN Trịnh Hòa Hiệp đã có mặt từ sớm và đang trò chuyện cùng Bộ Chỉ Huy Hành Quân NN Mỹ. Đến giờ khởi hành Th/Tá Hiệp cùng đi chung Toán với chúng tôi. Địa điểm phục kích đêm nay là tại một ngã ba của một dòng sông nhỏ thông ra sông Xoai Rạp, tất cả đổ bộ an toàn và phục kích tại địa điểm đã ấn định đi sâu vào trong khoảng 1 cây số cách ngã ba sông.

Cũng với hoàn cảnh tương tự của những lần phục kích trước, phong cảnh tiêu sơ hoang phế, dòng sông vắng lặng lững lờ trôi. Tất cả chúng tôi ngồi dựa lưng vào những gốc Bần, gốc Đước, súng thì gác trên nhánh cây cho khỏi ướt vì giờ nầy nước đang lớn, chỗ chúng tôi ngồi phục kích mà nước lên đến ngang ngực.

Hướng mắt nhìn vào sâu trong ngọn rạch, chúng tôi có mặt tại đây từ 8 giờ tối, bây giờ là 11giờ khuya, con nước đã bắt đầu ròng, mực nước trên người chúng tôi đã từ ngực xuống tới bụng.

Bỗng chúng tôi nghe tiếng chèo gạt nước từ xa, chúng tôi cùng thông báo cho nhau cùng hướng về điểm động. Dưới ánh trăng non mờ nhạt lần lần hiện rõ một chiếc xuồng bên kia dòng, trên xuồng một tên ngồi giữa khoang xuồng, một tên đang chèo. Chờ cho chiếc xuồng vào đúng tầm 8 khẩu súng M 16 và súng săn cùng nhả đạn và ném 2 trái chiếu sáng để gọi tàu đến rước. Như thường lệ tôi đang sẵn sàng với chiếc dao găm, đặc biệt là hôm nay cũng chỉ có một Tiền Sát viên là tôi, với tinh thần thật căng, chờ cho Toán sẵn sàng yểm trợ, Trưởng Toán ra lệnh GO, tôi lặn một hơi đến chiếc xuồng đang trôi lững lờ cách khoảng 50 - 60 thước. Tôi lấy đà với nắm be xuồng vọt mạnh lên, qua làn nước nhạt nhòa trên đầu tôi chảy xuống mặt bỗng thấy bóng người cựa quậy chồm úp qua tôi, lập tức tôi lách nghiêng qua phải với một đường dao găm vớt xéo 45 độ từ trái qua phải, bóng người ngã giật trở lại với tiếng kêu ặc ... ặc vì bị đứt cổ họng, thân hình vùng vẫy và rơi xuống nước, sự việc nguy hiểm xảy ra như chớp nhoáng, tôi lập tức lội đẩy xuồng về chỗ phục kích, tịch thâu 1 AK 47 và một túi tài liệu. Một trái lựu đạn cho nổ để nhận chìm chiếc xuồng của địch sau khi chúng tôi cấp tốc rút đi ra bờ sông Xoai Rạp chiếc PBR đang chờ đón, và chúng tôi trở về căn cứ an toàn.

Đường Dao Tuyệt Mạng !

Liền sau đó chúng tôi họp tại phòng Hành Quân, Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Hành Quân NN Hoa Kỳ đến bắt tay Chỉ Huy Trưởng LĐNN Trịnh Hòa Hiệp và bắt tay tôi, cả Toán cùng bắt tay chúc mừng chuyến hành quân thành công.

Sau buổi họp Th/Tá Hiệp cùng tôi ra ngoài, tôi kể lại phản ứng của tôi trong lúc thanh toán tên VC còn sống cho ông nghe. Tôi nói: có lẽ tên VC đã bị thương nặng nên khi tôi nắm be xuồng vọt lên vì giật mạnh quá nên tên VC bị văng úp qua phía tôi và với phản ứng tự nhiên của tôi tên VC đã bị đứt cổ họng ... Nếu tên đó chưa bị thương thì thật là nguy hiểm cho tôi, Th/Tá Hiệp cười có vẻ hài lòng và nói với tôi: Sau chuyến công tác 3 tháng nầy anh phải về phòng Huấn luyện của NN để huấn luyện các khóa sau với những gì mà anh đã học hỏi được ...

Qua chuyến công tác nầy đã thật sự chứng minh câu "Cẩn tắc vô ưu", nếu tôi ỷ y như các chuyến công tác trước đều không có việc gì xảy ra mà xem thường vì nghĩ bao nhiêu hỏa lực đều tập trung vào 2 tên VC thì làm sao chúng có thể sống nổi ? Nhờ thận trọng nên tôi mới phản ứng kịp thời như đoạn kể trên.

Chuyến hành quân cuối cùng với Người Nhái Hoa Kỳ.

Còn vài hôm nữa là Toán NN chúng tôi mãn hạn công tác 3 tháng phối hợp hành quân với NN Mỹ và Toán NN Việt Nam khác sẽ thay thế.

Trung sĩ Porter (Phụ tá Cố vấn của LĐNN) cùng tôi xuống phòng lãnh lương khô, chuyến công tác sẽ nằm lại tại địa điểm 4 ngày theo dự trù. Những thùng giấy đựng lương khô của Quân Đội với hàng chữ do Nhật cung cấp, tôi lựa các gói có ghi cơm khô, súp tôm, và thịt mỗi phần lương khô đều có miếng kẹo đậu phộng hoặc kẹo thơm, Càfé, trà, .v.v... vì mình là Việt Nam ăn cơm hàng ngày thích hơn là bánh mì.

5 giờ chiều, PBR chở Toán 6 người chúng tôi từ sông Xoai Rạp ra cửa biển và cập vào chiếc Dương Vận Hạm LST của Hoa Kỳ đang neo cửa biển Vũng Tàu. Chuyến hành quân nầy Bộ Chỉ Huy Hành quân được đặt trên chiến hạm LST nầy.

Khoảng 9 giờ Toán chúng tôi khởi hành, chiếc PBR trong nhiệm sở tác chiến chạy với tốc độ thật nhanh cách bờ khoảng chừng 150 thước, bên phải tính từ ngoài biển vào. Đến điểm là ngã ba vào nhánh sông thông luồn vào sâu phần đất giữa 2 con sông Lòng Tào và Xoai Rạp. Khi gần đến nơi chiếc PBR giảm tốc độ chạy chậm lại và bất thần xoay 90 độ đâm thẳng vào bờ chui qua lùm cây rậm ghim mũi vô bờ, 6 người chúng tôi nhanh nhẹn nhảy lên bờ. Tất cả 6 người chúng tôi đều lọt xuống hố cá nhân của VC đào dọc theo bờ. Sự việc xảy ra quá bất ngờ, tất cả Toán ghìm súng nằm im quan sát, trong khi đó chiếc PBR rút mũi ra chạy đi. Xung quanh đều yên lặng, chúng tôi thay phiên nhau dùng ống dòm hồng ngoại tuyến để kiểm soát, trong lúc đó Trưởng Toán báo cáo tình hình về BCH/HQ. Nhìn qua ống dòm tôi nhìn thấy một dãy trại cách chúng tôi khoảng 100 thước, trống không.

Chúng tôi nằm yên trong hố cá nhân do VC để lại với cảnh giác cao độ và thức suốt đêm vì biết mình đang trong tình trạng nguy hiểm vô cùng. Đến gần 5 giờ sáng, 2 Tiền Sát được lệnh bò vào thám sát dãy trại, còn tất cả nằm tại chỗ canh súng để bảo vệ cho 2 Tiền Sát viên. Vì con đường mòn dẫn vào dãy trại nhỏ hẹp nên tôi ra dấu cho Tiền Sát Mỹ bò theo sau. Tôi cẩn thận vì kinh nghiệm cho biết, khi rời bỏ nơi đóng quân, cả ta và địch đều thường gài lại mìn bẫy, lựu đạn hoặc hầm chông. Hiện tình chúng tôi đang ở trong tình thế đó. Bò vào khoảng 15 thước, trước mặt tôi phía bên trái có một nhánh cây cắm xuống đất khác màu vì lá khô. Tôi nghi ngờ ra dấu cho anh bạn Mỹ dừng lại, anh bạn cũng làm dấu hiệu cho Toán biết. Tôi cẩn thận dò từ tấc đất đến gần nhánh cây đó và phát giác ra cách phía sau nhánh cây khoảng 1 thước có một sợi dây cước cột vòng quanh qua gốc cây nhỏ bằng bắp chân, nhìn theo sợi dây cước chuyền qua bên phía trái, đầu dây cước cột vào khoen giật ngòi nổ của quả lựu đạn miểng được ngụy trang vài cọng lá dừa nước đã khô, còn thân quả lựu đạn lật ngược đầu xuống đất được cột chặt vào thân gốc cây. Tôi ra dấu chỉ vào trái lựu đạn cho anh bạn Mỹ biết và làm dấu hiệu cho anh bò lui ra xa. Một mình tôi bò lần lại nhìn kỹ cách gài và kiểm soát xem xung quanh có gì khác lạ không. Tôi thấy không có gì đáng nghi ngờ, tôi bắt đầu đưa tay bóp chặt cái thìa vào thân lựu đạn, còn một tay cầm chốt gài đẩy qua lỗ và bẻ cong 2 thanh chốt để giữ an toàn rồi tháo dây cước bỏ trái lựu đạn vào túi áo. Tôi ra dấu tiếp tục bò vào trong và tôi lại gỡ thêm một trái mìn nội hóa do VC chế bằng cách để trái lựu đạn vào trong một hũ sành cũ bỏ nhiều sắt vụn và đinh sét vào hũ. Lần nầy tôi gài lại chốt an toàn và tháo dây cước ra cho trống đường rồi tiếp tục bò vào dãy trại. Tôi và anh bạn Tiền Sát kiểm soát lại trong dãy trại trống không, nên làm thủ hiệu cho Toán tiến vào. Sau khi nhận định Tr/Úy Trưởng Toàn cho biết VC vừa rời khỏi đây khoảng 1 hoặc 2 tuần, quân số cấp trung đội.

Chúng tôi trở lại hố cá nhân của VC đào sẵn, nằm phục kích và theo dõi tại ngã ba đầu dòng sông nhỏ nầy suốt 4 ngày. Đến 3 giờ chiều ngày cuối chúng tôi được tin 2 Toán Seals bị VC phục kích trong một nhánh sông cách chúng tôi vài cây số, NN Mỹ tử thương 3, bị thương 6 trong đó có 2 NN Việt Nam, 5 người sống sót. Tôi hay tin liền nhờ Trung Úy Trưởng Toán liên lạc hỏi xem 2 NN Việt Nam tên gì, sau khi liên lạc xong anh Trưởng Toán đánh vần và ghi lại, tôi được biết là Nguyễn văn Thông (Thông lớn) và Trương Nghĩa Thành bị thương nặng và đã được tản thương về Bệnh viện 3 Dã Chiến Hoa Kỳ.

Khoảng 4 giờ chiều, 2 chiếc PBR chạy đến một chiếc ghim mũi vào đón chúng tôi và một chiếc chạy vòng gần đó để bảo vệ. Chúng tôi trở lại BCH/HQ trên LST, khi lên trên boong Tàu, tất cả đều cởi hết quần áo giày vớ để thủy thủ trên tàu đem đi giặt giũ .

Các ổ của Việt Cộng trong Rừng Sát

Một lỗi lầm của tôi làm náo động trên tàu.

Trong khi cởi áo, cảm thấy nặng trong túi áo tôi mới nhớ đến trái lựu đạn của VC gài mà tôi đã tháo và bỏ vào túi tính đem về chơi. Tôi móc trái lựu đạn ra, một thủy thủ nhìn thấy trái lựu đạn màu khác lạ vội la lên và bỏ chạy tôi ngẩn ngơ nhìn lại xung quanh. Tất cả đã chạy vào núp trong cánh cửa phòng. Đang lúc tôi ngơ ngác anh Trung sĩ Porter đứng trong cánh cửa sắt ra dấu bảo tôi cầm chặt trái lựu đạn chớ đừng bỏ xuống sàn tà. Tôi làm theo lời cầm trái lựu đạn đứng chờ. Khoảng 2 hay 3 phút sau có hai chuyên viên tháo gỡ chất nổ trang bị quần áo giáp sắt bưng dụng cụ ra một hộp sắt bằng cái rương nhỏ đựng quần áo đến trước mặt tôi rồi để xuống sàn tàu. Họ mở nắp chiếc hộp sắt ra rồi ra dấu tôi bỏ trái lựu đạn vào hộp, xong rồi họ khóa nắp hộp lại rồi bưng vào trong tàu. Toán NN Mỹ lúc đó mới đến gần tôi, anh bạn Tr/sĩ Porter mới giải thích vì sự an ninh và an toàn, anh dặn tôi đừng mang bất cứ vật gì của địch đem về trên tàu hoặc về căn cứ vì rất nguy hiểm. Đến lúc đó tôi mới biết lý do. Tôi mỉm cười và xin lỗi với tất cả mọi người trên tàu. Các thủy Thủ trên tàu nhìn tôi cười rồi lắc đầu bỏ đi với nhiều ý nghĩa ...!

Về đến căn cứ tôi đi cùng các bạn NN Mỹ đến Bệnh viện 3 Dã chiến của Hoa Kỳ gần trước cổng vào Phi trường Tân Sơn Nhứt để thăm các người bị thương vừa qua. Được biết 2 bạn NN. Trương Nghĩa Thành bị trúng B.40 của VC, áo giáp rách nát phía trước ngực đang nằm trong phòng giải phẫu để lấy miểng ra, còn Nguyễn văn Thông thì bị gãy xương cánh tay được ráp nối lại, áo giáp cũng bị rách lủng nhiều chỗ, cả hai bạn đều may mắn thoát chết. Còn 4 NN/HK kia cũng bị thương rất nặng và cùng nằm dưỡng thương nơi đây.

Được biết Toán NN Mỹ vừa bị phục kích là Toán NN gồm 12 người vừa mới ra trường được gởi qua VN công tác và cũng là chuyến công tác đầu tiên đã bị thiệt hại nặng, 3 người chết, 4 người bị thương. Toán chỉ còn lại 5 người. Sau đó các anh được chia ra và nhập vào các Toán khác, nhưng 5 người nầy sau vài chuyến công tác đã được gởi trả về Hoa Kỳ. Lý do là các anh nầy đã mất hẳn tinh thần chiến đấu vì ra quân lần đầu thua trận, nên sau khi sát nhập vào các Toán khác khi đi công tác mỗi lần đụng trận, vừa nghe tiếng súng nổ, các anh nầy đã hoảng sợ bỏ chạy bất chấp lệnh của cấp chỉ huy. Thật là "Dù cho học 3 năm trong quân trường, Quân nhân mà chưa lâm trận thì chưa phải là LÍNH" !

Ba tháng phối hợp công tác hành quân đã trôi qua với nhiều kỷ niệm đùa giỡn với Tử Thần, ngày hôm nay chúng tôi từ giã các bạn NN/HK để trở về đơn vị, và Toán NN Việt Nam khác đã xuống để thay thế.

Hôm nay lại cũng đúng ngày lãnh lương của các bạn NN/HK, anh bạn Tr/sĩ thân mến của tôi lại một lần nữa đưa tiễn tôi bằng một bao thơ trong đựng $10 USD với lời nhắn nhủ, "Tôi chỉ nhờ anh tặng quà đến bạn gái của anh mà thôi". Anh bạn ôm vai tôi gượng cười, tôi cũng cảm động trước tình cảm của người bạn viễn xứ. Đã từng vào sinh ra tử trong mấy tháng vừa qua.

Tôi về LĐNN chưa đầy 1 tuần lễ thì văn phòng LĐNN nhận được công điện của BTL/HQ/P3. Theo lời yêu cầu của BCH/HQ NN/HK, xin gởi tôi đi công tác phối hợp thêm một nhiệm kỳ 3 tháng nữa. Tôi được CHT/LĐNN gọi vào và cho xem công điện trên. Th/Tá Hiệp nói: "Những người Mỹ hình như họ cũng tin dị đoan, họ có nói với tôi là Toán Công Tác có anh rất may mắn vì cả Toán đều không bị thiệt hại?!". Th/Tá Hiệp nói tiếp: "Nhưng tôi có trình bày với Phòng 3 rồi. Tôi giữ anh ở lại để huấn luyện khóa 3 NN sắp mở". Trao đổi thêm vài câu chuyện rồi tôi lui ra ...

Cách 1 tuần lễ sau, một buổi sáng tôi đang tập thể dục ở phòng phía trong (dưới lầu Ty Quân Cảng). Thiếu Tá Hiệp đi kiếm tôi và cho tôi hay: "Đại Úy Cố vấn Mỹ đang ngồi chờ gặp anh ở văn phòng". Tôi ngạc nhiên, Thiếu Tá Hiệp nói tiếp: "Đại Úy Cố Vấn muốn gặp trực tiếp anh để chuyển lời BCH/Người Nhái Hoa Kỳ muốn xin anh đi công tác với họ, tôi có cho Đại Úy Cố Vấn biết là đơn vị đang cần anh ở lại để huấn luyện khóa 3 NN sắp mở, nhưng ông ta vẫn muốn gặp mặt anh". Th/Tá Hiệp tiếp: "Tôi cho anh hay trước để anh trực tiếp nói với ông ta. Vì quyết định của tôi đã nói với anh lúc trước, anh hãy liệu lời mà nói".

Tôi đi với Th/Tá Hiệp vào gặp Đại Úy CV, và cũng được Đại Úy Cố Vấn cho biết ý muốn của Bộ chỉ huy Hành Quân Người Nhái Hoa Kỳ như trên. Tôi cám ơn và nhờ Đại Úy Cố Vấn chuyển lời từ chối của tôi là vì nhu cầu cần thiết của khóa 3 HLNN sắp mở nên tôi không thể đi công tác nữa!.

NN Trịnh Hòa Hiệp, vị Niên Trưởng của LĐNN, với lối xử sự nhiều tình cảm, tôi phải nói là "Quá nhiều tình cảm" mới đúng. Ở LĐNN hầu như tất cả NN nào có dịp gần gũi và tiếp chuyện với Ông đều có cảm tình, nhiều khi tưởng như một người anh cả đang hướng dẫn và dìu dắt đàn em trong tình thương yêu của gia đình hơn là tình Huynh đệ chi binh.

Để tưởng niệm người quá cố có quá nhiều ưu ái đối với riêng tôi. Xin thành kính ghi lại chút gì để nhớ.

Đến khi Việt Nam Hóa chiến tranh. Nhưng vũ khí, đạn dược và tiếp liệu cho nhu cầu chiến trường đã bị đồng minh bội ước không cung cấp cho QLVNCH. Và NN Mỹ cũng rút lần về nước.

Trong hoàn cảnh thiếu thốn đó. Người Nhái Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa vẫn tiếp tục chiến thuật đột kích, phục kích và truy lùng địch quân trên khắp các vùng Chiến Thuật của 4 Quân Khu v.v... Và số thương vong của LĐNN càng lúc càng cao vì không còn phương tiện để yểm trợ và cấp cứu hữu hiệu như lúc còn Người Nhái Mỹ. Nhưng Người Nhái VN vẫn can trường xả thân đền nợ nước trong các trận chiến không tên và đã đóng góp phần xương máu của mình hy sinh cho Tổ Quốc mãi cho đến ngày 30 - 04 - 1975.

Trong lúc đó vì bảo mật cho nên người dân sống bình an trong thủ đô suốt trong cuộc chiến vẩn không hề hay biết gì đến sự gian nguy, sống hay chết của những Người Nhái vô danh đang âm thầm ngày đêm xông pha trực diện chiến đấu với bọn VC du kích phá hoại, nơi vùng nước đọng sình lầy Rừng Sát, để bảo vệ an toàn thủy lộ huyết mạch cho thủ đô Sài Gòn suốt trong cuộc chiến ..!

Từ cấp số Liên Đội 48 nhân viên NN khi mới thành lập năm 1963. Và theo nhu cầu chiến trường đòi hỏi Liên Đội NN phát triển lên đến cấp số Liên Đoàn trên 600 nhân viên vào năm 1972. Gồm có 5 ngành:

1. Hải Kích (Navy Seals) Sea – Air – Land = SEAL.
2. Phá hoại dưới nước. (UDT) Underwater Demolition Team.
3. Tháo gở chất nổ dưới nước (EOD) Explosive Ordnance Disposal.
4. Trục vớt.(Salvage)
5. An ninh phòng thủ hải cảng.(Harbor Defense)

LĐNN là một đơn vị bị thiệt hại nhiều nhứt, so với tỷ lệ trong quân đội VNCH. (50% quân số nói riêng về ngành Hải Kích (Navy Seals) là đơn vị trực diện với địch quân).

Vì điều kiện HL Người Nhái rất khó khăn và tốn kém, LĐNN chỉ HL được có 7 khóa, đào tạo được 185 NN/Ngành Hải Kích, đến ngày 30-0419-75 đã mất hết 90 NN và một số thương phế tàn tật. Cái giá phải trả cho sự tự do an bình của người dân miền Nam nước Việt.!

Tổng Tham Mưu Phó QLVNCH.
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Mạnh trao gắn Anh Dũng Bội Tinh ngôi sao bạc

NN Lê Đình An


ĐÂU CHỈ CÓ MỘT NGƯỜI HÈN - Hoàng Long Hải

Hoàng Long Hải

(Nhân Đọc “Hồi ký của một thằng hèn” của Tô Hải). Người ta thường phân chia một cách sơ lược âm nhạc cải cách (nhạc mới, ký âm theo phương cách của người Tây Phương) thành các thời kỳ như sau: Nhạc Tiền Chiến, nhạc Kháng Chiến và sau đó là nhạc Đỏ …

Nhạc Đỏ là âm nhạc của những người ban đầu đi kháng chiến rồi theo Cộng Sản, viết những bài ca ngợi đảng, ca ngợi Hồ Chí Minh và ca ngợi những công việc, thành công (có thật hoặc tuyên truyền) của Việt Cộng.

Khi theo kháng chiến, có những người đã là nhạc sĩ tiền chiến (trước 1945). Lúc ban đầu, họ không phải Cộng Sản, nhưng rồi theo mãi, không về vùng quốc gia, thành ra “Đi với ma mặc áo giấy”, viết những bài ca theo chỉ thị, theo đơn đặt hàng, theo đúng đường lối chủ trương của Việt Cộng. Đó là trường hợp các nhạc sĩ Đỗ Nhuận, Tô Vũ (tức Hoàng Phú), Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Văn Thương, Trần Hoàn (Nguyễn Tăng Hích), Nguyễn Văn Tý, Tô Hải (Tô Đình Hải)…
Trong số nhạc sĩ nầy không có Văn Cao vì Văn Cao theo Cộng Sản từ trước “Cách Mạng Tháng Tám”. Trái lại, Tô Hải, Trần Hoàn chỉ mới sáng tác nhạc sau khi theo kháng chiến. Phạm Duy cũng ở trong trường hợp nầy. Trước 1945, ông là ca sĩ, hát đệm trong phần chuyển mục cho gánh hát Đức Huy, sau đó là Charlo Miều. Ông chỉ bắt đầu sáng tác nhiều sau khi theo Kháng Chiến, trước đó, ông chỉ có bài “Cô Hái Mơ”, phổ thơ Nguyễn Bính.

Sau khi Mao Trạch Đông chiếm lục địa và nhứt là sau khi Việt Cộng thi hành chính sách văn hóa theo “Đề Cương Văn Hóa Việt Nam và Chủ Nghĩa Mác” của Trường Chinh, số đông nhạc sĩ theo kháng chiến bỏ về thành (vùng Quốc gia). Các nhạc sĩ nầy một phần vì chán kháng chiến, môt phần vì ảnh hưởng nhạc tiền chiến, trở lại tiếp tục viết những bản nhạc tình, lãng mạn. Số nầy rất đông gồm các ông nhạc sĩ “họ Hoàng” như Hoàng Giác, Hoàng Trọng (Hoàng Quý qua đời năm 1946), Dương Thiệu Tước, Canh Thân, Văn Phụng, Lê Thương, Phạm Duy …

Các bản nhạc được sáng tác vào đầu thời kỳ Kháng Chiến còn mang tính chất lãng mạn tiểu tư sản của “Người Hà Nội đi kháng chiến”. Đó là các bài “Nhớ Chiến Khu”, “Đoàn Lữ Nhạc” của Đỗ Nhuận, “Ra đi khi trời vừa sáng”, “Ngựa phi đường xa” của Phạm Đình Chương, “Sơn Nữ Ca” của Trần Hoàn hoặc “Nụ Cười Sơn Cước” của Tô Hải.

Theo hồi ký Tô Hải như dẫn ở đầu bài, những bài hát thuộc loại trên, như “Nụ Cười Sơn Cước” của ông ta thì còn chút giá trị, còn những thứ viết ra sau đó, theo lệnh của đảng thì chỉ là “Vất đi, vất đi và vất đi…” Chúng nó chẳng có một giá trị gì hết.

Quan điểm căn bản của văn học, nghệ thuật là nhân bản. Nhân bản, Đào Duy Anh giải thích trong “”Hán Việt Từ Điển “Nhân bản thuyết là cái thuyết lấy người làm gốc trong vũ trụ, cũng gọi là nhân loại trung tâm thuyết”. Nói nhân bản, người ta phải nói tới tình thương, nhân ái, từ bi hay gọi chung là tình người. Tình người bao gồm trong tình yêu thương giữa con người với con người, giữa con người và quê hương, đất nước, vũ trụ. Khi cái tình yêu đó lai láng, tràn đầy thì gọi là lãng mạn. Lãng là sóng, ngọn sóng tình thương. Mạn là cái bờ. Ngọn sóng tình yêu thương tràn ra khỏi bờ, v.v…

Theo cách nhìn như thế thì trong thơ cổ Việt Nam, trong ca dao và cổ tích không thiếu tình cảm lãng mạn. Đầu thế kỷ 20, một mặt chịu ảnh hưởng văn học Pháp về cả hai phương diện văn chương và triết học (chủ nghĩa cá nhân), mặt khác vì phương tiện truyền thông phá triển hơn nên văn chương, âm nhạc Việt Nam phát triển mạnh về tính cách lãng mạn, nhiều tác giả và nhạc sĩ sáng tác được nhiều tác phẩm hay, sẽ được tồn tại lâu dài trong lịch sử văn học nước ta.
Ở đây, chúng tôi không bàn về nhạc tiền chiến. Tuy nhiên, nhân dịp hồi ký của ông Tô Hải xuất bản, xin có một cái nhìn tổng quá về âm nhạc thời kỳ ấy.

Thời kỳ ấy là thời kỳ đầu kháng chiến.

Trên bình diện xã hội, cuộc Cách Mạng Tháng Tám cũng như cuộc kháng chiến chống Pháp thời kỳ đầu, vai trò “giai cấp” tiểu tư sản thành thị, “giai cấp” trung nông ở nông thôn là rất quan trọng.

Trong tình trạng lạc hậu và chậm phát triển, “giai cấp” nông dân, hầu hết bần nông, cố nông, không được học hành, không có trình độ hiểu biết, không có khả năng nên việc lãnh đạo, tuyên truyền, phát triển ý thức cách mạng, chống thực dân Pháp là do “giai cấp” tiểu tư sản thành thị và trung nông nắm giữ.

Trong chiến tranh chống Pháp, chống giữ quân Pháp ở Hải Phòng, Hà Nội và các thành phố lớn ở Bắc Việt chính là do giai cấp nầy chỉ huy và lãnh đạo. Khi công cuộc kháng chiến bắt đầu, chính giai cấp nầy đã ra vùng rừng núi, lập chiến khu và chiến đấu chống lại sự xâm lược của Pháp.
Rõ nhất là trong số các nhạc sĩ theo kháng chiến, như Văn Cao, Đỗ Nhuận, Phạm Duy, Nguyễn Xuân Khoát cũng như những người mới tập tễnh soạn nhạc như Tô Hải, Trần Hoàn … đều thuộc thành phần tiểu tư sản thành thị cả.

Họ là những người chịu hy sinh rất nhiều. Họ thuộc những gia đình giàu có, khá giả, tiểu tư sản hoặc trí thức … từ bỏ cuộc sống giàu có, sung sướng, đầy đủ, ăn ngon mặc đẹp ở Hà Nội để theo kháng chiến chứ không phải là những người “nghèo rớt mồng tơi” theo “cách mạng” để kiếm ăn. Họ chỉ có mất mà không nhận lại. Tuy nhiên, cá tính tiểu tư sản trong con người họ, dù có “giác ngộ” chủ nghĩa Mác hay không cũng không thể bỏ đi được. Do đó, sau khi theo kháng chiến một thời gian, tác phẩm của họ bị Việt Cộng phê phán lên án.

Bài “Nhớ Chiến Khu” của Đỗ Nhuận từng bị phê bình. Lời bài hát như sau:

“Còn đâu trên chiến khu trong rừng chiều
Bên đèo lắng suối reo ngàn thông reo. Đêm hôm nay vai vác súng trông mây bay gió buồn đứng. Nhớ núi rừng.
Ôi chiến khu đoàn chiến binh với chiến khu. Thân ta dù trong mưa nắng với sương mù. Ơi chiến sĩ chàng đau thương có cứu thương. Vết thương chàng có đau đớn em băng giùm
Chiều nay xa chiến khu trong lòng buồn…”

Đi theo Cộng Sản, bài hát mô tả như một chuyến du ngoạn hơn là tham gia một cuộc chiến đấu. Người chiến sĩ thơ thẩn bên đèo, nghe tiếng ngàn thông reo, nghe gió thổi, xa chiến khu nên lòng buồn, rồi mơ mộng nếu có bị thương thì có người đẹp băng giùm …

Về mặt nhân bản, đối với chê độ miền nam Việt Nam trước 1975, tư tưởng ấy, tình cảm ấy là rất bình thường.

Bài “Sơn Nữ Ca” của Trần Hoàn cũng là một tác phẩm còn nặng tính tiểu tư sản hơn cả bài “Nhớ Chiến Khu” của Đỗ Nhuận:

Một đêm trong rừng vắng. Ánh trăng chênh chếch đầu ghềnh thấp thoáng bóng cô sơn nữ miệng cười xinh xinh. Một đêm trong rừng núi, có anh lữ khách nhìn trời xa xa ngắm trăng say đắm một mình bâng khuâng. Một đêm trong rừng vắng, có cô sơn nữ miệng cười khúc khích ngắm anh lữ khách rồi lòng bâng khuâng. Một đêm trong rừng núi, có anh lữ khách nhìn trời xa xa biết đâu sơn nữ nhìn mình đăm đăm. Sơn nữ ơi! Đời ta như cánh chim chiều phiêu bạt thời gian vun vút trời mây. Sơn nữ ơi! Đừng làm thắc mắc cho lòng khô cạn từ nay nước mắt đầy vơi. Sơn nữ ơi! Thời gian lôi cuốn bao lần bên rừng đầy hương bát ngát trời thu.

Sơn nữ ơi! Đành lòng sống với bên rừng thơ mộng cùng hoa với lá ngàn hương. Hãy nhìn trăng lên, rồi lu mờ dần.

Hãy nhìn mây bay, thiết tha về ngàn chờ đợi tay người sơn nữ. Khi nhìn chim bay, bay đi tìm đàn. Khi nhìn gió cuốn lá thu rời cành cuộn bay lên người sơn nữ. Sơn nữ ơi! Làm chi cho đớn đau lòng trong một thời gian rồi thương rồi nhớ. Sơn nữ ơi! Hoàng hôn xuống dần ... đợi chờ ai đây???

Rõ ràng là chàng và nàng rất lãng mạn: Một đêm trong rừng vắng, cô sơn nữ đẹp nhìn trăng, rồi ngắm anh lữ khác mà lòng bâng khuâng. Cũng đêm trăng đó anh lữ khách vô tình không biết có người đẹp nhìn mình, rồi nghĩ mnìh như cánh chim chiều phiêu bạt theo thời gian vun vút trôi qua. Hai người cùng nắm tay cùng thương cùng nhớ và thấy lòng đớn đau, v.v… Không thấy nhạc sĩ nói gì tới chiến đấu, hy sinh … như “yêu cầu của đảng”. Rõ ràng là một bài hát đầy mơ mộng.

Bài “Nụ Cười Sơn Cước” của Tô Hải thực tế hơn. Ông kể “Trường hợp gặp cô Phẩm, một thiếu nữ xinh đẹp như tranh ở giữa rừng sâu, xung quanh là suối reo, chim hót. Hoàn cảnh và thời điểm dễ đưa đẩy hai người đến chỗ “tranh thủ yêu nhau” lắm chứ? Nhưng không! Ngoài những cái cầm tay lắc lắc, một nụ hôn cũng không. Tôi không dám làm xáo động tâm hồn và thể xác của bông hoa rừng này. Tất cả, tôi cho nó bung ra trong bài hát “Nụ Cười Sơn Cước”.

Tuy nói rằng không muốn “làm xáo động tâm hồn” nhưng quả thật ông đã làm cho tâm hồn họ rất nhiều xáo động vậy!

Xã hội Việt Nam từ ngàn năm có cuộc sống êm đềm lặng lẽ. Những người con gái ở miền quê, ở vùng rừng núi sống đời cô quạnh, an phận. Họ không mơ ước gì xa xôi ngoài việc lớn lên, làm lụng, chăm lo việc nhà rồi lấy chồng, lại tiếp tục cuộc sông an phận của người vợ, người mẹ.

Bỗng, kể từ đầu thế kỷ 20, cuộc sống họ xáo động lên. “Sợ sống” của Lê Văn Trương mô tả một người con gái quê được một chàng trai thành phố yêu thương. Thế rồi chàng đi mất, tưởng như quên lời thề cũ. Người con gái tưởng mình được yêu thật, được làm vợ, được lên thành phố, xa rời cuộc sống quê mùa, được sống đời văn minh hơn, nhưng đành tuyệt vọng. Thế rồi chàng trai cũ ấy trở về, nhưng mọi sự đều thay đổi, cô gái quê tuyệt vọng và qua đời vì một sự kích xúc tinh thần quá mạnh khi gặp lại người yêu cũ. Người đọc cũng có thể gặp lại những trường hợp như thế trong “Nhà Quê” của Ngọc Giao hay “Đồng Quê” của Phi Vân. Ngay chính trong xã hội Tây phương, chúng ta cũng có thể thấy tình cảnh ấy trong phim “La fille de Ryan.”

Vậy cô Phẩm của Tô Hải, một cô gái miền núi, một miền núi nước rất độc tên là Thung Gio, có dãy núi Kim Bôi mà ca dao có câu: “Thương nhau cho thịt cho xôi, Ghét nhau đưa tới Kim Bôi Hạ Bì” tâm hồn không bị khuấy động khi gặp chàng trai Hà Nội, chàng trai kinh kỳ (thứ nhứt kinh kỳ thứ nhì phố Hiến) hay sao? Tình yêu đó, dù rất trong sáng và ngây thơ với một cô sơn nữ, cũng độc ác không kém gì một liều thuốc độc. Phải chi đừng có chiến tranh, phải chi Tô Hải không đi kháng chiến để đừng tới Hạ Bì Kim Bôi thì cô Phẩm sẽ an phận một cô gái miền sơn cước, đâu có yêu thương và nhớ nhung gì chàng trai Hà Nội để mang sầu, mang khổ. Tình yêu như thế là độc ác. Tô Hải yêu cô Phẩm miền sơn cước, yêu chân thành và tha thiết, cứ cho là như vậy, và ông đã “cho nó bung ra trong “Nụ Cười Sơn Cước” Như thế, ông nghĩ rằng đã trả hết nợ, hết tội cho cô Phẩm hay sao?! Tôi không rõ về sau, số phận cô Phẩm như thế nào, có bị kích xúc để đến nỗi lìa đời như cô gái trong Sợ Sống của Lê Văn Trương hay không? Dù thế nào, đưa một người ra khỏi nơi rừng rú, dù đưa bằng tâm hồn, đem lại ho họ những ước vọng rồi trả họ lại trở về rừng rú, tiếp tục cuộc sống âm thầm, an phận nơi quê mùa nghèo đói là điều không phải là không có tội với lương tâm mình.

Mặc dù vậy, cái còn lại của Tô Hải chính là bài hát ông viết ra trong một tình cảm rất thật, một tình yêu rất thật. Ngoài bài hát “Nụ Cười Sơn Cước”, những cái gọi là tác phẩm về sau nầy của ông, theo chính ông nói là: “Vất đi, vất đi và vất đi”.

“Tôi nhớ mãi một chiều xuân chia phôi, mây mờ buông xuống núi đồi và trong lòng mưa hơn cả ngoài trời. Cỏ cây hoa lá, thương nhớ mãi người đi và dâng sầu lên mi mắt người về. Thơ thẩn đàn chim ngừng tiếng hót, và mưa Xuân đang tưới luống u sầu, buồn cho dòng nước mờ xoá bóng chim uyên và gió chiều còn khóc thương mãi mối tình còn vấn vương. Ai về sau dãy núi Kim-Bôi, nhắn giùm tim tôi chưa phai mờ, hình dung một chiếc thắt lưng xanh, một chiếc khăn màu trắng trăng, một chiếc vòng sáng lóng lánh, với nụ cười nàng quá xinh. Nàng ơi, tôi đã rút tơ lòng, dệt mấy cung yêu thương gởi lòng trong trắng, của mấy bông hoa rừng đời đời không tàn với khúc nhạc lòng tôi.”

Dĩ nhiên, bài hát nầy của Tô Hải bị Cộng Sản phê phán cũng không có gì lạ: Một chuyện tình mơ mộng giữa một thanh niên Hà Nội với một cô sơn nữ, một chuyện tình buồn mà “trong lòng mưa hơn cả ngoài trời. Cỏ cây hoa lá nhớ người đi, sầu lên mi mắt người về, gió chiều khóc thương và giòng nước mờ xóa bóng chim yên (lại có chim yên ương ở đây nữa sao?!) cùng với một mối tình lãng mạn, không bao giờ lạt phai, gởi về sau dãy núi Kim Bôi ….

Tuy nhiên, cái Cộng Sản biểu ông làm ra, thì nay “vất đi, vất đi và vất đi…” Cái còn lại là mối tình của ông với cô gái miền núi sau dãy Kim Bôi, chính là cái còn lại duy nhất, trong cuộc đời sáng tác âm nhạc của ông. Nói tới Tô Hải là nói tới “Nu Cười Sơn Cước”. Nói tới “Nụ Cười Sơn Cước” là nói Tô Hải.

Ông là người có tâm hồn nghệ sĩ, ông cũng là một nghệ sĩ chân chính khi ông viết bài “Nụ Cười Sơn Cước”, còn lại, dù ông hay bất cứ ai, dù có tài cao hay thấp, tất cả đều tàn lụi trong những năm tháng còn lại sống dưới chế độ Cộng Sản. Văn Cao, người cùng đi kháng chiến với Phạm Duy, hai người cùng tranh soạn mỗi người một bài ca trên con đường đi công tác ở Lạng Sơn. Phạm Duy thì soạn “Rừng Lạng Sơn”, Văn Cao thì soạn “Bắc Sơn”. Thế rồi cuộc đời Văn Cao tàn lụi trong chế độ. Phạm Duy may mắn thoát được nên thiên tài của ông được thăng hoa.

Trong chế độ Cộng Sản, ai muốn sống còn đều phải chịu cúi đầu khuất phục, không những khuất phục chế độ mà còn phải khuất phục cúi đầu trước lãnh đạo, ngọt ngào gọi bằng “Anh” và hèn hạ xưng bằng “em” như Tô Hải ghi lại nhan nhản trong hồi ký của ông. Ông đã làm như thế và ông tự thấy mình là một thằng hèn.

Tuy nhiên, trong chế độ đó, đâu chỉ có một mình Tô Hải hèn. Còn có bao nhiêu “thằng hèn” khác nữa mà họ tự che dấu mặt mình, nói ra sợ xấu hổ, không đủ can đảm để tự thấy cái hèn của mình, nói ra cái hèn của mình. Cái hèn ấy không phải chỉ của một người (tôi) mà nhiều người (chúng tôi, chúng ta). Ở Saigon, sau 1975, Nguyễn Tuân nói mọt câu mà người Saigon truyền miệng nhau không ít: “Sở dĩ chúng ta sống được tới bây giơ là vì chúng ta biết hèn”.

Biết hèn để mà sống. Biến mọi người chân chính, trung thực, cao thượng thành những thằng hèn là chính sách của đảng và nhà nước Cộng Sản. Tô Hải không thể quay ngược guồng máy kềm kẹp của đảng, sẽ bị nó nghiền nát tức thì.

Hèn, biết mình hèn, dám nói lên rằng mình hèn. Đó là con người biết tự trọng. Tôi kính trọng sự tự trọng đó.

Hủy diệt tài năng của đất nước và dân tộc, biến họ thành những con người hèn chính là cái tội lớn của Việt Cộng.

Hoàng Long Hải


Người Cao nguyên ơi, hãy tự tin! - Trần Thị Hồng Sương


Trần Thị Hồng Sương
Kính tặng nhà văn Duy Ngọc và nhà văn Tưởng Năng Tiến

Thời Pháp thuộc của VN chính xác là 87 năm (1858-1945), Pháp gọi người Cao nguyên là Degar (Dega theo Anh). Degar chỉ dành riêng chỉ người Thượng Cao nguyên Trung phần Việt Nam, không nơi nào khác để dễ phân biệt. Người Thượng Cao nguyên Trung phần việt Nam có vẻ thích được gọi bằng từ này thì nên dùng từ này.

Degar cao nguyên có một lịch sử cổ xưa rất thân thiện với Đại Việt. Đó là vùng đất chưa phát triển thành quốc gia, thường bị Chăm Pa và Chân Lạp (Khmer) cướp phá bắt người làm nô lệ. Vùng đất Tây Nguyên sau đó thuộc phạm vi bảo hộ của các chúa Nguyễn và người Cao Nguyên chấp nhận sự bảo hộ này vì Đại Việt không có chủ trương đánh phá bắt người làm nô lệ mà sống hòa đồng. Thời nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ đánh Trung Quốc, người dân tộc Cao nguyên gia nhập quân Tây Sơn, đặc biệt với đội tượng binh nổi tiếng. Người Thượng đã hành xử xứng đáng là anh em, người VN cũng cần hiểu điều đó.

Dân số Cao nguyên hiện nay là 5,5 đến 6 người triệu trong đó Degar là một triệu, một nửa theo đạo Tin Lành sống thành khoảng 30 bộ lạc. Degar hiện nay gồm ba nhóm ngôn ngữ: Malayo-Polynesian, Tai, Mon Khmer và 6 sắc dân: Jarai, Rhade, Bahnar, Koho, Mnong, Stieng.

Như vậy cần chú ý Degar không bao gồm người Chăm, người Chăm chủ yếu sống ở miền Trung và vùng Châu Đốc An Giang còn Khmer Krom sống tận miền cực Nam Việt Nam đâu có dính dáng gì với Degar (người Thượng)? Các bộ tộc Hời là dân tộc thiểu số của xứ Chăm Pa xưa chứ không phải người Chăm. Cho nên vì sao Fulro chia làm hai vì Fulro Thượng do Y Bham Enoul lãnh đạo chủ trương ôn hoà và chính xác là vì quyền lợi người Degar. Les Kosem theo Pháp và thân cận Sihanouk, nay thế này mai thế khác, tùy theo quyền lợi của nhóm, lúc theo CSVN thân Nga, khi theo Trung Cộng, thực hiện âm mưu của Pháp chủ trương bạo động vũ trang gây biến loạn cho Việt Nam.

Les Kosem gây bạo loạn ở cao nguyên và ép Y Bham Enoul phải bỏ bản làng về căn cứ bên Campuchia. Khi cả ngàn người Thượng hồi hương cũng không cho Y Bham Enoul về VN. Khi chánh quyền VNCH giải quyết đúng quyền lợi được người Thượng thỏa mãn đồng tình thì nhóm Les Kosem lại bắt quản thúc Y Bham Enoul ở Phnom Pênh không cho về Việt Nam. Điều này bộc lộ rõ mưu đồ gây rối cho VNCH chứ không phải là vì quyền lợi người Thượng Cao nguyên. Trước đây giáo sĩ Thiên Chúa Pháp rao giảng đạo Thiên Chúa một số người Degar theo đạo Thiên Chúa. Sau này người Mỹ thu hút người Cao nguyên vào đạo Tin Lành. Một số người Thượng theo đạo tin lành và theo khuynh hướng Mỹ chống CS nên tách ra gọi là Dega Tin Lành không nhiều ý nghĩa tôn giáo bằng ý nghĩa khuynh hướng chánh trị.

Khmer đỏ không hiểu rõ sự phân ly của người Thượng dưới tác động của nhiều nhóm chánh trị mỗi nhóm có mục tiêu riêng nên cho Fulro không có lập trường chánh trị rõ ràng và sau 1975 thì giết toàn bộ. Cũng có thể Khmer đỏ không tán thành đường lối thân VNCH của người Thượng, không ưa Hà Nội, cũng không ưa ông Hoàng Sihanouk tranh chấp uy tín cá nhân với Pol Pốt. Chỉ có Les Kosem thoát thân nhưng có thể nhờ được sứ quán Pháp quan tâm riêng, chỉ cứu Les Kosem vì có lợi cho Pháp. Đó là chỉ dấu minh xác việc quan hệ chặt chẻ thân Pháp của Les Kosem chứ không phải là may mắn. Không ai nói rõ les Kosem may mắn là may mắn cách nào! Ông Ksok Kok từng ở trại Fulro ở Campuchia cho các nhà nghiên cứu về Fulro biết có cố vấn Pháp làm việc sát cạnh Les Kosem và ông không biết tên người này!

Có ba mục đích của ba nhóm trong Fulro đã xé vụn người Cao Nguyên và khiến họ không còn được sống yên ổn:

1. Khuynh hướng Cộng sản. CS lập một tổ chức người Thượng trong MTGPMN tranh thủ người Thượng Cao nguyên và được một nhóm Fulro ủng hộ che dấu việc CS đưa xe tăng vào năm 1975 mà không báo tin cho Sàigòn.

2. Ông Hoàng Sihanouk lập Khmer Krom chống VNCH vì Khmer đỏ tố cáo VN lấn đất và ông Hoàng Sihanouk không biết bảo vệ quyền lợi đất nước khi Pháp vẻ bản đồ đưa Phú Quốc cho VN trong khi Phú quốc theo đường chim bay gần Campuchia hơn! Hoàng tử Ranarith cũng rất chống VN nhưng lọt vào thời sau VNCH nên không được Hà Nội ủng hộ. Les Kosem là người Khmer gốc Chăm. Thu hút cả người Chăm Pa đã hoà nhập suông sẻ nhiều thế kỷ với người VN.

3. Pháp quấy rối Mỹ để Mỹ bỏ VN thì Pháp trở lại hay ít nữa là phải tách Cao nguyên cho Pháp thành “Tây nguyên tự trị trong Liên Hiệp Pháp“.

Ba cơn bão chánh trị đó xé nát người Cao nguyên Trung phần gây ra các biến loạn.

Khi Mỹ giúp tuyển dụng và đào tạo người Thượng chánh quyền VNCH cũng không phân biệt nổi nhóm người Thượng thật sự và nhóm Les Kosem nên nghi ngờ Mỹ nước đôi chánh trị. Người VN không hiểu thì người Thượng cũng không hiểu rõ chỉ có cảm giác là đấu đá bất đồng nhau trong nội bộ Fulro. Tuy nhiên bị lời thề khống chế, đã theo Fulro là phải ngậm đầu đạn mà thề, phản bội sẽ bị đồng đảng xử tử cả nhà cho nên số phận Fulro thật đáng giận mà cũng quá đáng thương!

Nếu nhìn về cổ sử sẽ hiểu người Cao nguyên thấu đáo hơn và yêu thương người Thượng hơn, phải giúp người Cao nguyên thoát khỏi các thế lực chính trị không lành mạnh. Cũng phải theo tinh thần dân phương Nam ngày xưa cư xử như trong truyện cổ tích “Thạch Sanh chém Chằn” sống chân thành với người Thượng không gian xảo cướp công người Thượng nhiều đời gắn bó với Cao nguyên và từng cùng Nguyễn Huệ chống ngoại xâm.

Ngày nay người Thượng tham gia chánh quyền, nhiều cơ sở giáo dục trẻ em Thượng đều có trường học, không có gì phân biệt song chính cán bộ tham nhũng đã làm cho ai là người VN Kinh Thượng cũng đều bất mãn ... thành dân oan vì bị cướp đất và muốn bỏ đi ...

Người Chăm Pa thông minh học cao, giỏi nghề thêu đan và hoà nhập vào ngưòi VN với nhiều tài hoa và trình độ mỹ thuật đáng ngưỡng mộ. Tôi có nhiều bạn người Chăm cùng học Đại học, chỉ dễ biết khi còn giử họ người Chăm nhưng nếu lai một đời theo họ cha VN thì vô phương phân biệt. Một cô bạn khác là giám đốc một cơ sở thêu ở An Giang. Một phụ nữ đơn thân mà có nét thêu tài hoa đến độ không thua gì cơ sở thêu của người Việt từng là nghệ nhân thêu của cung đình Huế ngày xưa. Cô bạn tôi là chủ nhân của vài chục công nhân người VN. Người VN miền Nam ngày xưa có được lụa đen nhuộm bằng hạt Mạc Nưa, sản phẩm của Khmer Chăm để may quần là cả một ... niềm ao ước. Sản phẩm này đang được tiếp thị may đồ thời trang ở Châu Âu Châu Mỹ ...

Tôi nhớ ông Ngô đình Diệm thường nói về người Cao nguyên Trung phần Việt Nam là người Thượng thông minh, nếu cung cấp được học vấn sẽ không thua gì người VN, không khó để người Thượng xóa bỏ khoảng cách với người Kinh. Khi được nuôi dạy trong môi trường phố thị người Thượng còn học được nhiều thứ ngoài nhà trường và mau thay đổi hủ tục vì vậy học sinh Thượng được học nội trú, cuối tuần mới về bản làng.

Dù cộng đồng người Thượng nghèo, dù không qua trường lớp văn minh, nhưng một cộng đồng luôn có những quy luật sống. Nếu quy luật trái nhân văn sẽ dẫn cộng đồng đó đến sự suy tàn. Nếu quy luật bất thành văn đó giúp bộ tộc, thị tộc tồn tại và phát triễn thì luôn có nét nhân văn đáng học hỏi và người Thượng cần tự tin hơn. Ngày nay ai tin vào IQ tức chỉ số thông minh đều biết rằng người IQ cao sinh ra đâu đó từ hang cùng ngỏ hẻm đến lâu đài cung điện theo một quy luật chưa ai khám phá thì phân biệt chủng tộc Kinh Thượng giàu nghèo là tư duy lạc hậu.

Trong kho tàng văn hóa Igbo của người Nigeria Phi Châu (Nigerian Igbo culture) có câu châm ngôn : "Ora na azu nwa" có nghĩa là “ Cần cả một cộng đồng /một làng để nuôi dạy một đứa trẻ. ( It takes the community/village to raise a child.) và đây có lẻ là văn hóa chung của Châu Phi chứ không riêng gì Nigeria. Điều này cho thấy sức lan tỏa của chân lý .

Ở Lunyoro (Banyoro) có câu châm ngôn 'Omwana takulila nju emoi,' Một đứa trẻ không thể chỉ được nuôi dạy trong một căn nhà duy nhất được 'A child does not grow up only in a single home.'

Ở Kihaya (Bahaya)có câu châm ngôn 'Omwana taba womoi,' : Một đứa trẻ không thuộc về một cha mẹ hay một gia đình đơn lẻ 'A child belongs not to one parent or home.'

Ở Kijita (Wajita) có châm ngôn 'Omwana ni wa bhone,' có nghĩa là bất luận đứa bé có yếu tố sinh học chỉ riêng của một cặp cha mẹ sinh thành nhưng sự trưởng thành luôn tùy thuộc về một cộng đồng rộng lớn: regardless of a child's biological parent(s) its upbringing belongs to the community. Ở Kiswahili có câu cùng một ý như thế: 'Asiyefunzwa na mamae hufunzwa na ulimwengu' Đứa trẻ được cộng đồng nuôi dạy giúp đở và thuộc về cộng đồng đó

Bà Hillary đã dùng nguyên câu châm ngôn này làm tựa đề quyển sách nói về cách bà nuôi dạy con gái Chealsea Clinton và truyền đạt những bài học về sự quan tâm đến ý kiến phản hồi của con cái vốn là những bài học đứa trẻ có thể dạy lại cho người lớn. Đó là những bài học đầu đời từ việc nuôi con để người phụ nữ tài năng này làm chánh trị gia của một quốc gia dân chủ và có thể làm nhà ngoại giao thành công vì biết thấu hiểu tôn trọng ý kiến kể cả của đứa bé mà đối với nhiều người là gần như nằm trong quyền sở hữu dưới quyền sinh sát của mình. Văn hóa Nigeria cũng gọi đứa trẻ bằng từ "Nwa ora" có nghĩa là đứa trẻ của cộng đồng! . (The Igbo's also name their children "Nwa ora" which means child of the community.)

Cũng giống giống hành trình “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ“của Châu Á Khổng giáo, xét ra ông cựu Tổng Thống Clinton còn có sai lầm khi “bưởi bồng” làm cho gia đình vợ con mình trãi qua sóng gió, bù lại ông có tinh thần nhận lỗi và đặc biệt có mối quan hệ cả với giới chức cao cấp và quần chúng vô cùng dễ mến. Còn Bà Hillary đang làm nhiệm vụ bình thiên hạ, người phụ nữ đức tài trọn vẹn này lại ngưỡng mộ một câu châm ngôn Nigeria thì Nigeria có thể tự hào nhưng mà mấy người Nigeria và cả Phi Châu biết điều này để thấy vui? Nếu chưa tự hào vì chỉ mới là một lối sống đúng hơn tốt hơn lối sống “đèn nhà ai nấy sáng “ của thế giới văn minh thì ít nửa cũng tự tin và không nghĩ người da trắng luôn coi rẽ da màu!

Báo chí của nhà nước nào luôn lo tô đậm mâu thuẩn gây ngộ nhận là nước Mỹ giàu có phân biệt chủng tộc v.v... sẽ không thấy nguyên nhân còn có yếu tố phấn đấu bản thân. Ba ông Obama từng nói là: ”Ở Hawaii chính người da trắng bị thổ dân Hawaii phân biệt đối xử!” Ông Obama viết cả quyển sách về cha mình mà không học rành câu này, lại để xảy ra rắc rối phải làm một tiệc uống bia ... hòa giải.

Người Cao nguyên và Khmer nào biết được khi tôi tần ngần suy nghĩ buồn cho dân VN khi thấy dân Campuchia không “chôm chỉa” như người VN“? Ai biết tôi cảm kích ra sao khi người Thượng nói giản dị bình thản không phải để kèo nài thêm tiền: “Hơ, nhiều người muốn mua, nó nói trả tiền nhiều cho, không bán đâu!“

Sau này trong cuộc sống gặp cảnh lừa đảo, thấy cảnh gia đình tranh chấp gia tài chém giết nhau, tôi nghĩ đó chính là phản tác dụng của trí thông minh và tiến bộ kinh tế!

Sao không biết đến các chuyện thế này để vui và tự tin chứ?

Tiếp theo bài viết “Cao nguyên Trung phần, con người và số phận" thì qua chứng liệu lịch sử việc tàn sát thổ dân Úc hay cả chánh sách Mỹ với người Phi Châu nô lệ da màu có thể sao sánh với chấn động 7-8 độ Richter gây nhiều thảm họa còn hành trình hòa nhập Kinh Thượng Việt Nam chỉ là va vấp rung động 1, 2 độ Richter không đáng thành chuyện để ... âu sầu! Tôi chỉ chứng kiến người VN là các đại biểu người Kinh Thượng ghẹo nhau chơi cho vui chứ không ác ý. Một lần xem ảnh có người bỗng nói sao chỉ chụp hình mấy ông nam người Hmong không vậy? Các đại biểu Thượng ân cần giải thích đâu là người Dao, người Tày, người Thái trắng, Thái đen... Ông kia nhất định nói tất cả đàn ông trong ảnh là người Hmông và nói: Hmong là “Hở mông” các ông này mặc khố hở mông là người HMông chứ gì nữa? Hai ông phạt nhau ly cà phê Cao nguyên cười khà khà chứ có gì giận nhau đâu! Bọn phụ nữ chúng tôi kéo nhau đi làm chứng trận phạt giảng hoà cũng uống ké được ly cà phê Cao nguyên!

Tây đô hộ gần 100 năm và nội chiến trên 30 năm khiến mọi mặt phát triễn đều chậm lại, ngành khoa học xã hội VN chỉ mới lần mò tìm hiểu về cỗ sử và nhân chủng học. Nhiều người Kinh còn chưa biết Mán Mường là ai ? Trong miền Nam Mán Mường đều không còn vì đã hòa nhập vào dòng người VN khẩn hoang. Triều đình miền Bắc từng đánh giá đất mới miền Nam là vùng đất lưu dân mắc tội phản trắc với triều đình hay trốn sâu lậu thuế. Nhưng người miền Nam như tôi chẳng chút mặc cảm mà tự hào hỏi lại : Chế độ vua quan phong kiến bất công áp chế có gì để tâm phục và trung thành? Vào luồn ra cúi công hầu mà chi ? “Làm cho người khác bớt lạc hậu khó hơn, chậm hơn là làm cho mình bản lãnh để nhìn kẻ khinh mạn là kẻ ngốc hàng ... “dưới cơ”!

Gần đây nhất, tháng 7. 2009 mới xem xét về nhân chủng học và tách ra nhóm người dân tộc Pako với dân số 18.000 người ở A Lưới mà trước đây vẫn tưởng là người dân tộc Tà Ôi hay Vân Kiều vì nhìn bên ngoài chỉ khác chút ít người Pako ăn mặc giống người Môn-Khmer. Nhưng chính người Pako thì nói khác nhau rất nhiều nhất là truyền thuyết giống nòi về Totem tức vật tổ thiêng liêng của nhóm dân tộc Pa Kô. Người Pa Kô cũng xem con voi là thứ quý giá nhất để thể hiện sự giàu sang, trong khi người Tà Ôi xem những hạt mã não mới là của cải đáng tự hào. Về dòng họ, nếu người Pa Kô phần đông lấy họ mình là Tâng Koal (con chó) thì người Tà Ôi lại là Akê, Pê Kê (con chim).

Theo các nhà nhân chủng học Mán Mường chính là người Việt cỗ. Chế độ Quan Lang phong kiến Đại Việt xưa dành đặc quyền cho vài dòng họ: Đinh, Quách, Bạch, Hoàng, Hà, Cẩm, Lê, Phạm ... và hiện là các Họ của người Mường vậy nên họ chính là người Việt cỗ. Chính xác phải gọi người Mường là người Việt miền núi!

Mán gốc thành thị có khi là truyền nhân của quan lại. Khi vua khác lên thì nguy cơ bị truy sát không còn, người Mán lại hay về xuôi ra phố thị là chốn quê xưa cho nên nhà thơ Tú Xương mới gặp Mán ra vào Thành phố trong ngày Tết Việt Nam.

Tú Xương sinh ( 1870- 1907) Tỉnh Nam Định đã viết:

Khăn là bác nọ to tày rế;
Váy lĩnh cô kia quét sạch hè.
Công đức tu hành, sư có lọng;
Xu hào rủng rỉnh, Mán ngồi xe.
Chẳng phong lưu, cũng ba ngày Tết
Kiết cú như ta cũng rượu chè.

Câu “Xu hào rủng rỉnh Mán ngồi xe!” và các câu khác trong bối cảnh của bài viết chẳng qua là lối ăn mặc đẹp chưng diện và xài sang trong ba ngày Tết! Người dân tộc khác không bao giờ ra thành phố và cũng không đi sắm Tết Việt Nam.

Tú Xương cũng viết câu này:

Lẳng lặng mà nghe nó chúc con: Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn. Phố phường chật hẹp, người đông đúc Bồng bế nhau lên nó ở non.

Chứng tỏ thời Tây không ít người Việt thích lên rừng... làm Mán vì dễ kiếm sống hơn. Thời Tú Xương là thời Pháp khai thác đồn điền cao nguyên, người lên rừng ở và khai thác gỗ rất giàu. Làm đồn điền chẳng cần học hành, xa cách thế giới văn minh, ăn ở đạm bạc như Mán, nhưng lảnh lương Tây cấp cai thì cũng coi là giàu đi dạo phố bằng xe “Xu hào rùng rỉnh Mán ngồi xe !” Thời thực dân Pháp có tâm lý chống Pháp như Tú Xương còn ghét những người ham tiền làm cho Tây nên mắng là thích có tiền dù phải lên rừng.

Thời Trịnh Nguyễn phân tranh và mở mang bờ cõi về phía Nam người Mán đã về xuôi khai khẩn hòa nhập lại thành người Việt nên không còn nơi nào là nơi tập trung cư trú riêng của người Mán chỉ còn nhóm người Mường ở miền Bắc.

Sau 1975 người miền Nam khi bị gom đi học tập than rằng: “Thằng khôn ngồi học, thằng ngu dạy đời!” khi nghe Mán Cộng Sản dạy triết lý Mac Lê lạc hậu, sai bét! Không phải khinh khi mà là chán ghét sự “đít lộn lên đầu!"

Chúng ta ai cũng biết khi Pháp thành lập nhiều đồn điền ở các thuộc địa rất cần nhân công nhưng người việt Nam cứ bám ruộng đồng sống lẩn khuất sau lũy tre làng không chịu đi làm công nhân đồn điền, càng không chịu ra nước ngoài. Vì vậy mà năm 1945 lúc trong Nam dư lúa đến độ dùng lúa chạy máy đèn sản xuất điện thì Pháp không tích cực cứu trợ vì muốn nông dân miền Bắc do nạn đói sẽ rời bỏ ruộng đồng khiến có nạn đói Ất Dậu 1945 chết hai triệu người một cách vô cùng dã man nhẫn tâm!

Với Vua Quan Tú Xương mới nặng lời hơn với Mán:

Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước, Sao được cho ra... cái giống người.

Chắc chắn phải nặng hơn câu “Mán ngồi xe” rồi! Tú Xương chê luôn mấy bà đầm, ông cử:

“Trên ghế bà Đầm ngoi đít Vịt ! Dưới sân ông Cử ngỏng đầu Rồng!”

Nếu nói về người dân tộc nào mà ngoáy mông kiểu “ngoi đít Vịt” thì chắc là bị phê phán “phân biệt “khinh khi nhau. “Đít vịt” của bà đầm, đối với “đầu Rồng” của ông cử nhân trí thức Việt Nam là lối đối cay độc tận cùng của chử nghĩa!

Trong văn học Việt Nam nổi tiếng nhất là truyện Kiều có nói đến Từ Hải. Dù Truyện Kiều có gốc Trung Quốc nhưng đã được cải biên mang đậm tính Việt Nam. Các trung thần triều đình củ thành “loạn thần” triều đình mới, hùng cứ một phương giống như Từ Hải . Các vua quan triều đình mới luôn phải nghĩ cách chiêu dụ các tướng tài mới có việc Hồ Tôn Hiến mua chuộc Thúy Kiều gạt Từ Hải:

Triều đình riêng một góc trời,
Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà.
Sao bằng riêng một biên thùy,
Sức này đã dễ làm gì được nhau?
Chọc trời khuấy nước mặc dầu,
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai?

Đóng quân làm chước chiêu an,
Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng.

Một tay gây dựng cơ đồ,
Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành!
Bó thân về với triều đình,
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu!

Ngược dòng cỗ sử thời nhà Lý tại vùng thượng du Bắc Việt nhiều nhóm thị tộc Mán Mường và thiểu số khác chiếm cứ và sinh sống trên những vùng miền có tính yết hầu chiến lược. Triều Lý không chiêu dụ bằng vàng bạc mà có chính sách chiêu dụ và tạo thêm vây cánh, thắt chặt tình thân thiện với các thị tộc này bằng cách đem gả các công chúa cho các thủ lãnh châu mục. Vào Năm 1029 vua Lý thái Tông gả công chúa Bình Dương cho châu mục Lạng Châu (Lạng Sơn) là Thân thiên Thái, 1036 Vua Lý Thái Tông lại gả công chúa Kim Thành cho châu mục Phong Châu (Phú Thọ, Sơn Tây) là Lê tông Thuận và gả công chúa Trường Ninh cho châu mục Thượng Oai là Hà thiện Lãm. Năm 1082, Lý Nhân Tông gả công chúa Khâm Thánh cho Châu mục Vị Long (Tuyên Quang) là Hà Di Khánh, năm 1127 gả công chúa Diên Bình cho thủ lãnh phủ Phú Lương (Thái Nguyên) là Dương Tự Minh, vào năm 1144 chính Dương Tự Minh lại cưới thêm một công chúa Thiều Dung. Như vậy trong suốt triều đại nhà Lý đã có sáu công chúa được gã về cho các châu mục . Các Châu mục này có Họ Thân, Hà, Dương, Lê những họ của người Mường, Mán tức người Việt Nam. Họ vì lý do gì đó sống tách biệt trên rừng, hùng cứ một phương và nhiều khả năng quân sự triều đình phải lo chiêu dụ. Châu mục theo định nghĩa là trưởng một huyện miền núi (chef de district des régions montagneuses) Là nhóm người VN rơi vào hoàn cảnh như Từ Hải hùng cứ một góc trời bất tuân mệnh triều đình nên xa cách văn minh và thành tụt hậu. Vậy hai câu ca dao: Tiếc thay cây quế giữa rừng Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo ... có thể khẳng định là để nói về các cuộc hôn nhân không tương xứng của các Công Chúa nhà Lý với Châu mục Mán Mường tức các nhóm thị tộc người VN sống cô lập trên núi cao rừng sâu và vài bộ tộc mạnh khác là Tày, Nùng... Các cuộc hôn nhân không tương xứng của hai người Kinh dân dã với nhau thì được ví von: Tiếc con gái khôn lấy thằng chồng dại, Như bông hoa lài, cặm bãi cứt trâu. Công chúa Huyền Trân lấy vua Chăm Pa, dù gì cũng là một trong các hoàng hậu Chăm Pa chắc thân phận phải cao hơn các công chúa khác lấy các Châu mục Mán Mường chứ ! Người VN cũng chưa từng có cách gọi Vua Chăm Pa là “thằng Mán thằng Mường ” thứ nhất vì Chăm Pa không phải là dân tộc Mán Mường sao lại gán ép cho hai câu ca dao này nói về cuộc hôn nhân của Công Chúa Huyền Trân? Người không rành cổ sử cũng lẫn lộn hiện tại và quá khứ, hiện nay Chăm Pa và Campuchia yếu hơn Việt Nam nhưng Khmer Angkor và Chăm Pa từng mạnh và giàu hơn Đại Việt phải nể mặt chứ! Đại Việt luôn bị Tàu đô hộ và cướp phá phải lo chống đở có muốn cũng không thể nghĩ đến việc bỏ phòng thủ mạn Bắc gây sự với phương nam . Những chuỗi đền tháp Chăm Pa xưa với các tượng nữ thần bằng vàng ròng bị Khmer Angkor khi đô hộ Chăm Pa cướp hết! Còn theo thư tịch cỗ trong quyển sách của Châu đạt Quan ghi lại thì đền đài Angkor từng được dát vàng và làm cho Thái Lan (quân Xiêm) và Myanmar động lòng tham đánh cướp của Khmer Angkor khiến phải bỏ thủ đô này chạy về Phnôm Pênh ngày nay ! Đến thăm đền Angkor của Khmer Angkor thì quả là vô cùng lớn lao đến ngạc nhiên phải tự hỏi sao sức người thuở xa xưa có thể làm được tuyệt tác như có bàn tay thần thánh vậy? Có thời gian Chăm Pa đánh thắng và đô hộ Khmer Angkor sau đó thì có thời gian Khmer Angkor đô hộ Chăm Pa. Thứ hai khi sáp nhập vào Việt Nam chỉ có nhóm các dân tộc thiểu số của nước Chăm Pa xưa (không phải người Chăm Pa) mới là người Thượng Cao nguyên trung phần Việt Nam. Theo tài liệu của Champaka một trong tục lệ của người Chăm là không đi khỏi “biên giới thần quyền” nơi có anh linh tổ tiên nên sống chen chút nhau rất ít di cư đi sinh sống nơi khác. Người Chăm và người Khmer sống chung lộn với người Việt vẫn được gọi là người Chăm người Miên sau này đổi là người Campuchia không ai gọi là người Chăm người Khmer là Mán cả. Chính vì người Cao nguyên hiền lành chân chất nhưng ít bản lĩnh để hiểu thâm ý người khác mà dễ bị lợi dụng. Tây và Cộng Sản luôn bày ra những chuyện tranh dành thế lực chánh trị gây biến loạn khuấy động cuộc sống an lành của người Cao nguyên trung phần. Khái niệm về người Mán Mường ngày xưa đậm nét hơn ngày nay nhiều nên Tú Xương mới có bài thơ có nói về Mán. Mán bây giờ chỉ là ký ức mờ nhạt và là một tỉnh từ đồng nghĩa với người VN nhà quê. Khi gặp bộ đội miền Bắc mới thấy lại hình ảnh Mán Việt xa xưa!

Riêng việc đón Công Chúa Huyền Trân trở về nước Việt dù Việt Nam có giải thích ra sao, viện dẫn lý do gì thì chỉ là khỏa lấp do khó thể nói thật ra chuyện vua VN lo sợ . Sự thật vẫn là cuộc hôn nhân có yếu tố chánh trị luôn kèm theo nguy cơ. Khi vua Chế Mân chết, không gì bảo đảm là được yên thân nếu nhóm chánh trị không thân Đại Việt hay từng chống lại việc cắt đất làm hồi môn, nay nắm quyền lực. Rõ ràng bây giờ còn có nhiều người không thân thiện đặt nghi vấn Công Chúa Ngọc Hân có trách nhiệm gì với cái chết của Chế Mân không? Cho dù sau đó không có xung đột thì phải công nhận điều nguy hiểm của các cuộc hôn nhân chánh trị.

Bằng chứng là tài liệu Chăm Pa viết rằng công Chúa Ngọc Khoa không chịu lên dàn hỏa, và có âm mưu làm tình báo đánh Chăm Pa, bị triều đình Chăm Pa hành hình vùi đầu xuống bùn đến chết hay là chỉ tạc tượng vùi đầu xuống bùn để nhục mạ sau khi chết bình thường thì cần có thời gian tìm tư liệu chứng thực và khẳng định thêm. Sử sách Việt chỉ nói tượng Công Chúa Ngọc Khoa “bị bỏ lăn lóc” có lẻ là vì chưa biết cách bày tỏ sự tức giận của người Chăm Pa.

Trong lịch sử việt Nam về Công Chúa Ngọc Khoa chưa chép rõ ràng vì sao sách sử Chiêm Thành có ý trách cứ, nếu không muốn nói là phẫn nộ, cho rằng Công chúa Ngọc Khoa đã làm cho vua Po Romê mê muội và khiến cho nước Chiêm sụp đổ do vua Po Romê nghe lời công chúa chặt bỏ cây "kraik", biểu tượng thiêng liêng của vương quốc Chiêm Thành. Nhưng theo cỗ sử Chăm Pa chỉ nói là cây bỗng hết thiêng ! Sách Nguyễn Phúc tộc thế phả, do chính Hội Đồng Nguyễn Phúc tộc viết lại, đã chép rằng: "... Năm tân mùi 1631 công nương Ngọc Khoa được đức Hy Tông Sãi Vương gả cho vua Chiêm Thành là Pôrômê.

Góp nhặt các mảnh vỡ lịch sử có tài liệu viết: Chúa Nguyễn giao hảo với Chân Lạp qua đám cưới công chúa Ngọc Vạn (1620), chúa Sãi hai lần giúp Chey Chetta II đẩy lui Xiêm xâm lược. Vua Po Rome của Chiêm Thành xin cưới công nương Ngọc Khoa ( khoãng năm 1631). Ngọc Khoa ở đất Chăm Pa được 20 năm đã giúp cho tình thân hữu hai nước. Nhưng năm 1651 xẩy ra một cuộc nội loạn chia phe phái giết hại lẫn nhau, vua và hoàng hậu đều bị sát hại. Hiền Vương phải đưa quân vào cứu, dẹp tan loạn rồi đặt người Việt giữ đất trị an. Từ đó Chiêm Thành sát nhập vào lãnh thổ Việt thành những tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Phan Rang, Phan Thiết.“ Đây là lý do người Chăm Pa nghi Công chúa Ngọc Khoa thực hiện có ý đồ xâm chiếm của Chúa Nguyễn chứ không phải chỉ vì mối giao hảo tốt đẹp của hai nước.

Người Chăm Pa dùng sử liệu khác hơn cho là vua Po Rome chết, hoàng hậu thứ nhất người truyền ngôi vua cho Po Rome nhưng không lên dản hỏa cùng vua nên không được thờ chung bà Hoàng thứ hai lên dàn thiêu cùng vua nên được thờ cúng. Công chúa Ngọc Khoa còn bị bạc đãi hơn do việc Chăm Pa sáp nhập vào Đại Việt. Như vậy có thể là Hoàng hậu thứ hai bị loạn thần Chăm Pa giết chứ không phải là cùng lên giàn hỏa với vua ? Một âm mưu thôn tính thật ra có cần cần chờ đến 20 năm sau không và vì sao không mang công chúa Ngọc Khoa về nước để phải hứng chịu nhiều oan trái?

Nếu sử liệu Việt là sự thật thì người Chăm Pa nên giải oan cho công chúa Ngọc Khoa.

Về ngôn ngữ, ngôn ngữ vô tri bị hình ảnh gợi cảm xúc về ngôn ngữ đó làm cho dễ ghét hay dễ thương như từ “Mọi” hay từ “Mẹ”. Từ Mẹ đáng yêu bao nhiêu thì từ Mọi dù không khác từ Thượng nhưng vì hình ảnh kèm theo, thái độ kèm theo một thời bị dèm pha làm cho người ta ghét. Thôi thì nên tránh đi, gọi tên khác như Degar vì ông bà dạy:

Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau!

Có người được cha mẹ đăt tên lớn lên không thích thì luật pháp cũng còn cho đổi tên đổi họ. Có thể lấy biệt danh hay nickname như thời đại @ vô hình vô dạng. VN cũng có quy định sự tránh gọi tên vua chúa, người lớn tuổi là còn vì phải tôn kính các bậc trưởng thượng nửa.

Ngày xưa Vua Tự Đức có tên Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, thời đó tất cả bài viết của sĩ từ không được gọi màu Hồng phải đổi là Hường Nhậm đổi thanh Nhiệm như Ngô thời Nhậm đổi lại là Ngô thời Nhiệm nếu không là “phạm húy“. Phạm húy là phạm trường quy và ... chắc chắn rớt! Ca dao cũng đổi thành:

Trồng Hường bẻ lá che Hường, Nắng che mưa đậy, cho Hường trổ bông!

Qua thời Tự Đức nay gọi lại là ... Hoa Hồng!

Trong bài “Mọi“ Ông Duy Ngọc viết: ”Hằng ngày lên mạng, ra đường vẫn nghe người ta chửi nhau mọi này mọi nọ!” Ông ghét cay ghét đắng câu ca dao được cho là ám chỉ việc Công Chúa Huyền Trân lấy chồng là vua xứ Chăm Pa.

Có lẽ miền Bắc thống kê không còn Mán mà chỉ còn có dân tộc Mường và không biết Mường cũng là người gốc Việt, sợ dụng chạm, nên câu ca dao một thời được một tác giả lúng túng đổi lại là:

Tiếc thay cây Quế giữa rừng, Để cho thằng Mán nó trèo nó leo.

Nhà văn Tưởng Năng Tiến bị ảnh hưởng bài viết “Mọi” của Duy Ngọc nên càng buồn. Tôi cũng biết về Cao nguyên Trung phần nên viết bài này mong Tưởng Năng Tiến không còn buồn.

Một blogger đương đại nói về hiện tượng Maybach 62, tức lối ăn xài sang cho Mỹ giàu phải nể mặt! Mỹ chắc biết là bọn con “quan tham” nên không nể chỉ khinh, nhưng Việt Kiều nể thật, than rằng CSVN bây giờ giàu ”dễ sợ”, du học sinh mà mua nhà cầm gần một triệu đô la trả cái một (pay off) hỏng có nợ hai ba chục năm như dân vượt biên ! Maybach 62 trị giá 1 triệu USD dành riêng cho những người giàu nhất thế giới như vua dầu hỏa, vua Thép đã được nhập cảng vào Việt Nam còn nghèo khó...Blogger bèn vịnh hiện tượng Maybach 62 và con cháu của các đại tư bản đất Việt "du học" mà chỉ làm một việc là đốt tiền, "xài sang cho Mỹ sợ"! Việt Kiều mà nhằm nhò gì! Nên có bài thơ nhại theo thơ Tú Xương như sau.

Cậu ấm cô chiêu tư bản đỏ
Cùng phường một lũ “Mán ngồi xe”[*]
Vung tiền mua chút hư danh hão
Khỏa lấp căn cơ vốn thấp tè!
(tác giả có nickname là Cựu sinh viên)
[*] Thực ra thì tiền bối Tú Xương dùng những chữ này với ý hơi khác!

Năm mới
Khéo bảo nhau rằng mới với me
Bảo ai rằng cũ, chẳng ai nghe
Khăn là bác nọ to tày rế
Váy lĩnh cô kia quét sạch hè
Công đức tu hành sư cũng lọng
Xu hào rủng rỉnh, Mán ngồi xe
Chẳng phong lưu cũng ba ngày tết
Kiết cú như ta cũng rượu chè!
Tú Xương

Duy Ngọc ghét vì một loại heo chưa có tên trên Cao Nguyên được gọi là “heo Mọi” hay ăn ở dơ dáy hay làm gì kỳ cục bị mắng nhiếc là ... làm “như mọi” vậy ! Thật ra Mọi bây giờ chỉ là hoài niệm trong cỗ sử chính thức không ai nói đến, nhưng Duy Ngọc ghét từ Mọi, tên Heo Mọi và Tưởng năng Tiến tủi phận muốn khóc khi đọc thơ Tú Xương:

Xu hào rủng rỉnh Mán ngồi xe.

thì nên có ý kiến với giới văn chương thi phú coi từ “mọi” như “chưởi thề bậy bạ” không cho xuất hiện trên văn đàn! Trung Quốc cũng gọi VN xưa là xứ “Man di mọi rợ” Hay có khi ta nên bản lĩnh hơn coi đó không là lòng khinh thị mà chỉ là di sản của cách hiểu qua một “phù phép tuyên truyền” gây mất đoàn kết để xui người Thượng giận ghét VN theo Fulro của Pháp và CS, như vậy sẽ nhẹ lòng hơn không ? Trong khi làm bộ vì quyền lợi người cao nguyên thì Pháp đành đoạn bỏ miền Bắc chết đói hai triệu người, để sau này dễ mộ phu VN đi làm đồn điền các nước! Đáng ghét vô cùng tận!

Không mấy ai thấy hình ảnh các bé con 3,4 tuổi người Thượng, dễ thương ra sao, cứ nhơn nhơn trần truồng chạy lon ton trong trời lạnh Cao nguyên thấy phục như một “superman” con. Trẻ em Thượng màu da sạm nắng vẻ mạnh mẻ chắc nịch chứ không èo uột như trẻ con người Kinh nắng không ưa, mưa không chịu, ghét gió, kỵ mù sương, chút chút là sổ mủi cảm lạnh. Người Thượng có ý thức rèn con cái từ thuở mới sinh ra cần phải mạnh mẻ ra sao, để tồn tại giửa rừng thiêng nước độc.

Heo Mọi nhỏ con lanh lẹ chạy nhảy lung tung như chó con nên thân thon gọn chắc nịch đẹp hơn so với heo thường bụng mở ì ạch thấy mà mệt dùm!

Khi ở Bà Rá tôi cũng nuôi vài con Heo Mọi để làm bạn và rất cưng! Heo Mọi là gì biết không các bạn ? Đó là giống heo thật dễ thương, thân thiện đi đâu cũng chạy theo, ngồi coi báo thì nhảy lên ghế nằm cạnh bên, nhỏ con kiểu như giống chó Bắc kinh (Pekingese) nổi tiếng hay giống chó nhỏ mắt lồi Chi HuaHua Mexico!

Sau 1975 tôi cũng nuôi một con heo Mọi thay vì nuôi chó. Tôi không thích chó vì dị ứng mùi lông và cả việc chó hay sủa khách làm khách giật mình. Lúc ở Bà Rá đi chợ Phước Bình thấy ai thui heo Mọi đem bán ăn thịt thì tôi mới ... muốn khóc ! Tôi vẫn gọi là Heo Mọi (vì tên nó là vậy) nhưng với tất cả tình yêu và kỷ niệm ngọt ngào với con vật dễ làm bạn này ! Và nếu có tên gì đẹp khác hơn thì càng tròn trịa tốt cho mọi bề !

Các nhà khoa học cần lo đặt tên chứ để dân gian tự đặt tên thì có khi có mặt tiêu cực của nó ! Sao không giúp người Thượng nuôi và xuất khẩu chim sáo chim két biết nói và heo Mọi lấy tên là heo Bình Phước, heo Bình Long, heo Đồng Xoài gì đó ... Người Mỹ ai cũng cần có một sinh vật bầu bạn sao ta không phát triễn xuất khẩu con heo nhỏ xíu dễ cưng này giúp cho kinh tế người Cao nguyên chứ ! Chim Sáo nói khá giỏi ở Mỹ giá 600USD/con. Việt Kiều về VN, dấu hải quan Mỹ , chích thuốc mê cho chim Sáo ngủ ngất ngây, bỏ vào túi quần, chui vào toilet cho uống nước và mang sang Mỹ bán ! Nhiêu khê vậy đó. Mỹ mà phát hiện nó phạt chết luôn!

Giống chó quý tộc Bắc Kinh cho là có thể xua tà ma nên từng ở bên cạnh Hoàng hậu Mary của Scotland, Hoàng hậu Marie Antoinette của Pháp, và Từ Hy Thái hậu cuối cùng của Trung Quốc. Heo Mọi cũng đã là thú vật cưng ở Mỹ mà gốc Cao nguyên Trung phần đấy!

Chuyện mà tôi đang lo là bé gái Cao nguyên miền Bắc bị bắt cóc vì Trung Quốc dân số lệch thiếu trẻ gái. Nhiều nhà nông thôn Trung Quốc mua bé gái nhỏ năm bảy tuổi người Thượng nghèo, nuôi lớn vừa giúp việc cơm nước trong nhà và cho con trai cưới làm vợ khi lớn lên! Ông Duy Ngọc và Tưởng Năng Tiến hãy làm gì đó đi, giúp Cao Nguyên làm giàu và thúc đẩy có chánh sách bảo vệ an toàn cho bé gái Cao nguyên nha!

Trần Thị Hồng Sương
(17.08.2009)

Ðơn xin thú tội - Lê Trung Thành

Ðơn xin thú tội

Kính gởi đồng bào cả nước đang đau khổ dưới ách đô hộ Cộng Sản.

Tôi tên là Lê Trung Thành

Thời gian vừa qua tôi có theo dõi những đoạn phim thú tội của những chiến sĩ dân chủ và cũng theo dõi luôn cả những dư luận xì xào xung quanh. Còn riêng về phần mình, tôi không dám xét đoán bất kỳ ai, hay tôi thấy mình chưa có đủ tư cách để đánh giá về một người khác khi mà những việc họ làm thì tôi chưa làm được.

Khi xem đoạn băng hình thú tội của Nguyễn Tiến Trung, Trần Huỳnh Duy Thức, Trần Anh Kim, Lê Công Ðịnh, lòng tôi nóng như lửa đốt, nhưng ngay sau đó là cảm giác ăn năn day dứt vì thấy chính mình mới là kẻ có tội:

Tội thứ nhất là: khi thấy người dân trăm họ lâm vào cảnh lầm than, tự do bị bóp nghẹt, công lý bị tước đoạt, đời sống bị bần cùng khó khăn, dối trá lên ngôi, đạo đức suy đồi, con người cư xử với nhau như một con thú thì tôi đã không dám mở mồm nói lên tiếng nói sự thật, tôi không dám đứng thẳng người giơ cánh tay của mình ra che chở cho những anh em bị bức hại, tôi đã hèn nhát không dám hy sinh mạng sống của mình cho người khác được sống.

Tội thứ hai là: khi thấy đất nước đang bị đè đầu cưỡi cổ của đám giặc nội xâm Cộng Sản, đất đai biển đảo bị mất dần vào tay Tàu Cộng thì tôi đã một lẫn nữa chọn giải pháp “thằng hèn” là im lặng luẩn quẩn đầu đường xó chợ kiếm ngày 2 bữa cơm sống qua ngày đoạn tháng mặc kệ nước mất nhà tan. Tôi đã hèn nhát không dám hy sinh mạng sống của mình cho đất nước được sống.

Tội thứ ba là: khi thấy người anh em của mình lao vào chốn lao tù để đấu tranh giành tự do dân chủ, đáng lý ra với tình nghĩa giữa người với người thì tôi phải xuống đường giương cao biểu ngữ “đòi trả tự do cho người anh em”, “trả tự do cho dân tộc”, thì tôi lại hèn nhát đóng cửa ngồi trong nhà chửi đổng cho bốn bức tường nghe. Khi xem họ thú tội trên truyền hình chưa rõ đầu đuôi nội tình câu chuyện ra sao mà tôi đã dám chê họ là hèn nhát trong khi mình thì chẳng làm được gì, tôi đã mất hết tính người khi đồng loại mình bị đem ra làm trò hề còn mình cười khẩy chê bai, tôi đã tự cho mình cái thẩm quyền yêu cầu người này phải nên nói như thế này, người kia phải nên nói như thế kia trong khi chính mình còn chưa sống cho ra con người... Tôi đã hèn nhát không dám hy sinh mạng sống của mình cho lương tâm mình được sống.

Ðó là 3 trọng tội mà tôi khó có thể tự tha thứ cho mình, nay tôi đã nhận thấy hành vi sai trái của mình là vô cùng nghiêm trọng, gây tổn hại đến tính mệnh của dân tộc, gây nguy hại đến sự tồn vong của giống nòi, và đi ngược lại truyền thống nghĩa tình tốt đẹp ngàn đời của người Việt.

Nay tôi đã biết tội của mình, tôi kính xin đồng bào cả nước hãy tha thứ cho tôi để từ nay tôi có thể làm một con người mới, người biết sống biết chết cho anh em của mình, có như thế mới mong có một bình minh ấm áp tình người sẽ đến trên quê hương Việt Nam.

20 Tháng Tám, năm 2009
Lê Trung Thành

Để trò hề ‘nhận tội’ từ nay không còn sân diễn! - Alfonso Hoàng Gia Bảo

Alfonso Hoàng Gia Bảo

Như chúng ta đã biết, chỉ trong vòng hai tháng qua đài truyền hình Việt Nam VTV đã có tới hai lần ‘hào phóng’ hy sinh giờ phát sóng ‘vàng ngọc’ vào đầu các buổi tối, để trình chiếu cho khán giả cả nước xem những thước phim “cúi đầu nhận tội” của “lũ phản động”. Lần đầu là hạ tuần tháng Sáu với Ls.Lê Công Định và mới đây nhất là vào ngày 19/8 với các anh Nguyễn Tiến Trung, Trần Huỳnh Duy Thức, Trần Anh Kim.

Nhưng đúng như những gì người ta thường nói “cái gì cũng có giá của nó”. Sự chịu thiệt của VTV đã tỏ ra chẳng hề uổng phí chút nào, khi mà ngay sau cả hai lần phát sóng, lập tức trên khắp các diễn đàn, tên tuổi các ‘diễn viên’ chính của hai đoạn phim trên, nhất là Ls.Lê Công Định, đã phải hứng chịu bao cơn ‘phẫn nộ’ từ khắp nơi vì anh đã khiến họ bị thất vọng. Còn đối với dân chúng trong nước thì xin … miễn bàn! Vì chỉ với thứ thông tin ‘lề phải’ họ càng giận dữ chửi rủa Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung thậm tệ.

Mới hai hôm trước tình cờ gặp lại anh bạn giáo sư đại học, trong lúc chuyện trò anh bỗng nhắc đến bản tin ‘nhận tội’ trên VTV rồi kết luận bằng câu ‘trách yêu’: “sao chúng nó thằng nào nào nấy học hành giỏi giang, vợ đẹp con ngoan, nhà ở Phú Mỹ Hưng, công ăn việc làm ngon lành tương lai sáng sủa như thế mà tại sao lại đâm đầu đi làm những chuyện hết sức dại dột … mình mà được một góc của ‘thằng’ Lê Công Định cũng hạnh phúc lắm rồi, chẳng còn muốn gì hơn !!! ”

Kể ra chuyện này như thế để chúng ta thấy tác động của những đoạn phim ‘nhận tội’ ấy đã “thành công mỹ mãn” ra sao!

1. Nhập nhằng hai chữ ‘nhận tội’

Đài RFA hôm 21/9 cho biết một thành viên của diễn đàn X-càfé có nick là Nguoiviet83 than thở: “Híc, chán quá! … Ngày mai không biết ăn nói thế nào với lũ bạn cùng công ty đây, lỡ nói với chúng nó về Nguyễn Tiến Trung giống như một người anh hùng rồi …! híc”

Thật tội nghiệp! ‘Nguoiviet83’ chắc là nickname của một em nhỏ tuổi đời chỉ mới ngoài 20. Còn non nớt, suy nghĩ ‘chưa tới’, thôi thì sự sụp đổ ‘thần tượng’ như thế đối với chúng ta cũng không là điều gì quá khó hiểu. Nhưng trong ‘cơn lốc’ phẫn nộ và thất vọng chúng ta còn thấy thấp thoáng những tên tuổi khá quen thuộc từng có những quan điểm nhận định có vẻ am hiểu thời cuộc nghe rất chững chạc. Thậm chí có người từng bị đi tù trước đây nhưng chưa để lại ‘tì vết’ gì về nhận tội nay nhân cơ hội này tự ngầm tâng bốc mình bằng cách ra điều chê trách các vị trên là ‘hèn quá! yếu vía quá, thế mà đòi làm chính trị chính em v.v…”

Vâng, đúng là họ có lý khi chê trách! Vì ngay cả lúc này đây, ít ra cũng đang có tới 2-3 cái ‘tượng đài’ đấu tranh khác như Lm.Nguyễn Văn Lý, Ls.Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài vẫn cứ sừng sững mà không thấy dấu hiệu nào họ sẽ ‘nhận tội’. Đó là sự thật và chúng ta cũng cầu chúc họ tiếp tục giữa được ý chí vững vàng ấy.

Tuy nhiên, cũng xin mọi người đừng quên nguyên tắc suy luận căn bản về mối tương quan giữa hiện tượng và bản chất sự việc sau đây:

Việc chúng ta không thấy (hay chưa thấy) không nghe (hay chưa nghe) ai đó ‘nhận tội’ hoàn toàn không đủ căn cứ cho chúng ta biết khi còn ở trong tù trước đây (hoặc hiện nay) họ có bị ép phải ‘nhận tội’ hay không? Và nếu có, thì mức độ bị gây áp lực ấy ‘ghê gớm’ tới cỡ nào? Và vì thế, nếu chúng ta có ‘lỡ’ thấy ai đó ‘nhận tội’ thì cũng không thể chỉ dựa vào cái sự thấy sự nghe ấy mà vội kết luận họ hèn nhát tự ý sớm ‘buông súng’ đầu hàng!

Mươi, mười lăm phút xuất hiện trên TV nhận tội của họ có thể làm choáng chúng ta nhưng xin nhớ rằng quãng thời gian ấy không đủ phản ánh hết những gì đã xảy ra trong tù dài 1-2 tháng.

Quãng thời gian ngắn ngủi ấy, chỉ có thể ví như việc chúng ta chỉ thấy được có mỗi cái ngọn của một cây mới nhú cao qua khỏi bờ tường nhà bác hàng xóm sáng nay, để biết rằng, cạnh bờ tường nhà mình có một cái cây đang lớn. Tuy nhiên, gốc của nó tròn méo ốm mập ra sao, trồng trong loại chậu kiểng nào thì không tài nào biết được.

Vạn vật luôn thay đổi, mọi giá trị hành động chỉ mang ý nghĩa tốt / xấu một cách tương đối và tạm thời. Những gì chúng ta cho rằng đúng hôm nay nhưng ngày mai thì chưa chắc đã còn là chân lý.

Do vậy, thật hết sức sai lầm nếu đem việc ngồi tù cũng do đấu tranh đòi dân chủ lúc còn sơ khai của ai đó mấy năm trước diễn ra êm ả đem ra so sánh với việc phải vào tù của những người khác vào năm 2009 này trong bối cảnh tình tình biển đông căng thẳng, bauxite Tây Nguyên, các vụ phản đối chống bất công của đạo công giáo lan tràn, tình hình suy thoái kinh tế … khiến csVN mạnh tay hơn trong đối phó, để từ đó đánh giá ai anh hùng hơn ai.

Và đó là còn chưa buồn nói đến sự khác biệt về nhân thân của từng bị can trong mắt cai tù. Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua việc tuy cùng bị ghép tội vi phạm điều luật 88 nhưng cách csVN đưa tin giữa người này người nọ với những mức độ nghiêm trọng hoàn toàn khác nhau.

Tôi không hề có ý tâng bốc và cũng không xem bất cứ nhà đấu tranh nào là ‘thần tượng’ cả. Tuy nhiên, một cách công bằng, thì nếu có ai đó tự cho rằng mình anh hùng hiên ngang vượt qua nhà tù cộng sản mà chỉ trích những người đang bị lâm vào hoàn cảnh phải ‘nhận tội’ vừa qua có khi cũng nên xem lại giá trị ‘con tin’ của mình so với họ một chút.

2. Giải mã “nhận tội’

Mấy phân tích nhận định trên là để giúp chúng ta dễ nhận ra ý đồ của nhà cầm quyền Csvn qua chiêu ‘nhận tội’ vừa qua. Có thể nói chỉ bằng một phát đạn ‘nhận tội’ nhưng csVN đã nhắm tới mấy ‘con nhạn’ sau:

1.2 Các chính khách nước ngoài: Việc LS.Lê Công Định nêu đích danh khoảng 4-5 tên tuổi các nhà ngoại giao Mỹ khi xuất hiện trên VTV tối 19/8 (xin lưu ý trong bản tin của TTX Việt Nam trên mạng đã bị cắt bỏ đi đoạn này) trong đó có cả thứ trưởng ngoại giao thứ nhất John D.Negroponte, Csvn muốn nhắn nhủ các chính khách nước ngoài: Quý vị hãy cẩn thận khi quan hệ với các ‘nhà dân chủ’ của đất nước chúng tôi. Họ ‘bèo bọt’ và ‘mềm yếu’ như tàu lá chuối chứ chẳng cứng rắn như quý vị trông đợi đâu! Giúp họ chẳng khác nào quý vị ‘nuôi ong tay áo’, vì khi bị bắt họ sẵn sàng khai tên tất cả quý vị ‘tuồn tuồn tuột’ chẳng chừa bất cứ ai.

Tuy nhiên chung quanh chuyện này cũng cần phải nói thêm, nếu csVN không có được hoàn cảnh thuận lợi Mỹ bị TQ ép sân ở biển Đông khiến nước này đang phải o bế lấy lòng Hà Nội cho ‘thêm bạn bới thù’, chắc chắn csVN đã chẳng dám nói năng kênh kiệu như chúng ta thấy dạo gần đây.

2.2 Giới trí thức trong nước: Khác xa với những vụ bắt bớ trước, lần cất lưới này nằm gọn trong rọ là ba con cá bự: Ls.Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung và Trần Huỳnh Duy Thức. Những người mà có lẽ khỏi cần nói thêm về tiểu sử ai theo dõi tin tức cũng đều đã biết, họ là những trí thức đấu tranh sáng giá và thành đạt nhất bị bắt từ trước cho đến nay. Mà mối quan hệ giữa giới trí thức và nhà nước mấy năm gần đây ra sao chắc chúng ta đều đã biết. Họ đang trở thành mối lo cho csvn nhiều hơn là niềm tự hào hay hy vọng khi mà gần đây trí thức khắp nơi đã làm dấy lên phong trào phản đối. Như Ts Nguyễn Quang A, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển IDS, các mà việc ra đời trang www.bauxitevietnam.info do các trí thức là giáo sư GS Nguyễn Huệ Chi, Nhà văn Phạm Toàn và GSTS Nguyễn Thế Hùng khởi xướng đã khiến hàng ngàn trí thức khác bỗng ‘giật mình’ nhìn khi nhìn lại thực trạng đất nước và đã tham gia vào, là những bằng chứng rất sống động. Ngoài ra còn phải kể đến những chiến sĩ trí thức khác như Ls. Cù Huy Hà Vũ, Lê Trần Luật v.v…

Bằng việc dàn dựng và trình chiếu phim ‘nhận tội’ của một trí thức cỡ Ls.Lê Công Định và Nguyễn Tiến Trung, thông điệp mà csvn muốn gởi đến giới trí thức cả nước là hãy nhìn vào đây mà liệu hồn! Cỡ một Lê Công Định, một Nguyễn Tiến Trung từng tung hoành dọc ngang khắp nơi, quen biết toàn các quan chức Hoa Kỳ, Canada, Châu Âu v.v… mà cũng chẳng làm ăn được gì huống chi quí vị quanh năm suốt tháng chỉ chỉ quanh quẩn ‘xó bếp’. Đấu tranh chống lại chế độ là tự đẩy mình đến chỗ chết mà thôi. Cứ xem gương Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung bị thiên hạ chửi rủa những ngày qua ra sao ắt rõ!

3.2 Và đối tượng cuối cùng là lời nhắm gởi đến giới trẻ lăm le đòi dân chủ trong nước: như Tập hợp Thanh Niên Dân Chủ, Diễn đàn X-Cafevn … rằng “thần tượng” của chúng bay chỉ là ảo tưởng. Miệng họ nói hay vậy nhưng thực chất cũng chẳng khá hơn gì mấy em đâu v.v…

3. Làm sao để trò hề ‘nhận tội’ từ nay chấm dứt?

Tóm lại, đòn ‘nhận tội’ có lẽ chỉ mới được quân sư nào đó của Csvn vẽ ra gần đây và đã trở thành ngón đòn cực kỳ lợi hại như những cú hạ ‘knock out’ trong các trận đấu quyền Anh.

Ngay sau csvn tung ra ngón đòn nhận tội đầu tiên ‘thần tượng’ Lê Công Định bị sụp đổ ngay tức thì. Cú tiếp theo họ lôi nốt Nguyễn Tiến Trung lập tức ra khỏi những cái đầu còn đang bị choáng vì những cú đấm ‘knock-out’ này.

Chỉ bằng một phát đạn ‘nhận tội’ csVN đã khiến tới những ba ‘con nhạn’ là đà vì trúng kế, giãy đành đạch lên với nhau, còn csvn ngồi rung đùi khoái chí.

Bởi vậy, nếu mọi người không cảnh giác với thủ đoạn ‘nhận tội’ này mà cứ tiếp tục mắc bẫy họ khi đưa ra những phát biểu ảm đạm, tiêu cực. Thay vì đúng ra là phải cùng nhau dấy lên phong trào lên án hành vi phạm pháp của đảng csVN khi họ bày ra trò ‘nhận tội’, vì chuyện các bị cáo nhận tội hay không, theo luật, chỉ được phép xảy ra tại tòa án.

Nếu không cảnh giác, lần tung cú knock-out tiếp theo của csVN sẽ không còn là ai khác ngoài chính Giáo hội Công giáo chúng ta vì những căng thẳng diễn ra gần đây, mà rất có thể một lúc nào đó chúng ta bỗng thấy một linh mục nào đó đã từng tranh đấu xuất hiện trên màn hình TV “cúi đầu nhận tội” xin sớm được hưởng khoan hồng để đánh đổi lại bằng việc giúp csVN gởi thông điệp này cho hơn 6 triệu giáo dân: Đấy người công giáo hãy nhìn đi, đến cha cố với thầy tu mà cũng còn bị khuất phục thì giáo dân chúng bay là cái ‘đinh rỉ’ gì mà đòi tụ tập cầu nguyện!?

Sàigòn, 22/8/2009
Alfonso Hoàng Gia Bảo