Tuesday, May 5, 2009

VIỆT NAM SAU 34 NĂM CAI TRỊ BỞI ĐẢNG CỘNG SẢN - Đinh Lâm Thanh

BÀI THUYẾT TRÌNH NHÂN NGÀY QUỐC HẬN THỨ 34 TẠI PARIS
VIỆT NAM SAU 34 NĂM CAI TRỊ BỞI ĐẢNG CỘNG SẢN



Đinh Lâm Thanh

Kính thưa Quý Vị,

Với sự tiếp sức của ngoại bang, cộng sản Hà Nội đã xua quân vào cưởng chiếm Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1975. Ba mươi bốn năm qua chúng đã dùng hàng rào kẽm gai, dùi cui, súng đạn, trại tù và ngay cả xương máu người dân để trấn áp đối lập, bóp chết tự do đồng thời vơ vét tài sản quốc gia cũng như tư hữu người dân nhằm phục vụ cá nhân cũng như tập đoàn cai trị. Cứ mỗi năm đến tháng ngày nầy chúng ta đều ôn lại những biến cố đau thương của tổ quốc trong cơn hấp hối cũng như nỗi uất hận của gần bốn chục triệu người miền Nam trong cuộc đổi đời.

Hôm nay, với thời gian ấn định của ban tổ chhức, tôi không đi vào chi tiết hoặc vẽ lại bối cảnh đau buồn ngày mất nước hay những cuộc vượt biên đi tìm tự do mà xin phép đề cập đến những điểm chính về tội ác của đảng cộng sản đồng thời kiểm điểm qua một vài nổ lực trong nước cũng như hải ngoại đối với việc tranh đấu nhằm giải thể chế độ Hà Nội.

A. "CÔNG" VÀ "TỘI" CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM SAU 34 NĂM CAI TRỊ ĐẤT NƯỚC.

Trên nguyên tắc, khi đánh giá một chế độ cầm quyền thì phải nói đến thành quả tốt cũng như xấu hay nói đúng hơn là đề cập đến ‘công’ và ‘tội’.

A1. "Công" của đảng cộng sản !

Một điều cần phải khẳng định ngay rằng đảng cộng sản chỉ có tội chứ không có công đối với đất nước cũng như dân tộc Việt Nam. Nhưng tôi đưa vấn đề nầy ra không ngoài mục đích trả lời cho những người trong nước, nhất là thành phần trẻ cũng như một vài cá nhân mất gốc ở hải ngoại. Đối với trong nước, khi đề cập đến ‘công’ của cộng sản thì không gì đáng ngạc nhiên vì sự hiểu biết của đồng bào quốc nội bị ‘đóng khung’ bởi những tài liệu tuyên truyền cũng như giáo dục của Hà nội, để rồi từ đó họ có những kết luận vội vàng, một chiều và đơn giản rằng … đảng cộng sản có "công" lớn đối với Tổ Quốc, Quê Hương và Dân Tộc. Còn đối với thanh thiếu niên trong nước, đến giờ nầy vẫn còn một số ca tụng đảng cộng sản về "công" qua việc giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước sau hai mươi năm chiến tranh ! Nhưng một điều đáng buồn là, ngay trong cộng đồng người Việt tỵ nạn, một vài người đã cho rằng "dù sao Hồ Chí Minh và đảng cộng sản cũng có công trong trong việc giải phóng và thống nhất đất nước" !

Năm 1954, đảng cộng sản Việt Nam âm mưu bắt tay với Liên Sô, Tàu cộng cũng như Đồng Minh Pháp để cắt đôi Việt Nam ra thành hai quốc gia với hai chế độ đối nghịch nhau. Hiệp định Genève - không có chữ ký của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa - vừa ký xong thì không một người dân Miền Nam nào chọn chế độ cộng sản để ra Bắc lập nghiệp, ngược lại, trên một triệu đồng bào từ Bắc đã bồng bế nhau lìa nơi chôn nhau cắt rốn, bỏ mồ mả ông bà để chạy vào Nam trốn cộng sản. Lý do là những người nầy đã sống và biết so sánh hai chế độ tự do và cộng sản, nghĩa là chính họ đã nghe tận tai, nhìn tận mắt những gì cộng sản đã làm trong những vùng do chúng soát từ năm 1945 đến 1954. Còn lại những người sinh sau đẻ muộn, đào tại bởi văn hóa đỏ, chưa tiếp xúc với thế giới tự do bên ngoài thì hoàn toàn không biết thế nào là dân chủ, là bình đẳng, không biết thế nào là quyền tự do ngôn luận, quyền làm người, quyền sống trong một xã hội, nhất là những người sống ở các vùng thôn quê.

Kể từ sau hòa đàm Versailles, Mỹ đã quyết định rút lui nhưng Hà Nội vẫn lợi dụng danh từ "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào". Đây là chủ trương sặc mùi máu của Hà Nội để làm bình phong lừa bịp dân chúng miền Bắc. Việc kéo quân vào đánh Việt Nam Cộng Hòa là âm mưu cướp nước vì nhu cầu kinh tế hầu cứu miền Bắc thoát khỏi nghèo đói do hậu quả chiến tranh cũng như do sự lãnh đạo dốt nát của chế độ Hà Nội. Như vậy, năm 1975 Hà Nội xua quân vào Nam là vi phạm trắng trợn đến chủ quyền của nước Việt Nam Cộng Hòa. Phải nói rằng, dân miền Nam đang sống thanh bình thịnh vượng, hưởng tất cả quyền tự do con người thì đâu cần giải phóng để trắng tay trở thành ăn mày, đâu cần giải phóng để bị xua lên vùng kinh tế và nhường nhà cửa ruộng vườn của cải lại cho quân cướp nước ! Hà Nội vơ vét vàng bạc, ngoại tệ trong ngân khố quốc gia, tài nguyên miền Nam và của cải những người thuộc chế độ cũ rồi ngày đêm đưa về ra Bắc, xem như chiến lợi phẩm, bằng những phương tiện máy bay, tàu thủy, xe hơi, xe lửa của quân đội cũng như dân sự. Đảng viên, quân nhân, cán bộ thì kéo hết cả dòng họ vào cướp giật, hôi của như một lũ cướp, lấy nhà, lấy đất làm của riêng một cách trắng trợn hơn cả thực dân và Tàu đói vào chiếm đất và đô hộ nước ta trước kia. Như vậy tôi hỏi thẳng với một số người Việt Nam và thành phần trẻ, giải phóng và thống nhất đất nước ở chỗ nào ?

Vấn đề tiếp theo mà nhiều người, trong đó kể cả người Việt thường về Việt Nam du lịch cho rằng đảng cộng sản đã có công xây dựng đất nước, nâng cao phương tiện vật chất phục vụ đời sống như … nhà cửa cầu cống đường sá mọc lên từ thành thị đến thôn quê. Nếu nhìn một cách hời hợt thì bất cứ ai cũng có một kết luận như vậy. Nhưng hãy nhìn lại, kể từ ngày rơi vào tay cộng sản, miền Nam với một gia tài tiền rừng bạc biển, cọng với hàng chục triệu lao động cũng như hàng trăm tỷ ngoại tệ đổ vào nhưng cộng sản đã làm được gì ? Tất cả những công trình xây dựng từ cầu cống, đường sá, nhà cửa, dinh thự nếu không có bàn tay của nước ngoài nhúng vào - từ chất xám đến tiền của - thì Việt Nam vẫn ở trong tình trạng lạc hậu như ngày xưa không hơn không kém. Một điều đáng ghi nhận thêm, dù có bàn tay ngoại quốc giúp sức, giúp vốn nhưng với tình trạng tham nhũng của tập đoàn cộng sản, cầu xây chưa xong thì cầu sập, nhà chưa ở thì nứt tường, đường làm đoạn sau thì khúc trước sụp lỗ vân ... vân. Vật chất trông bên ngoài thì hào nhoáng nhưng đời sống xã hội thật bi đát, người dân khi đau ốm không có nơi chữa trị, trẻ con thất học vì không có phương tiện đến trường, thanh niên nam nữ thất nghiệp phải bán mình làm đĩ và làm nô lệ khắp năm châu! Nhà nước không sửa được hệ thống ống cống, không có chương trình sản xuất nước sạch, không giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường, không có kế hoạch ngăn ngừa bệnh dịch gia súc …. là những chuyện rất nhỏ nhặt tầm thường thì chưa đủ khả năng nhưng lại chú trọng đến những chương trình vĩ đại đô thị hóa, xây cất nhà cửa, dinh thự, khách sạn, công viên, đường sá thành những sản phẩm thiếu an toàn, chắp vá rỗng ruột ?

Vậy sau 34 năm thống trị, đảng cộng sản đã làm gì cho Đất Nước hay chỉ là một băng đảng ăn cướp tội đồ của dân tộc Việt Nam. Chắc quý vị cũng đồng ý với tôi rằng câu hỏi vừa đưa ra và đã có trả lời !

A2. ‘Tội của đảng Cộng sản

Nếu đề cập về "tội" của cộng sản, chắc chắn không bao giờ đủ sách vở để viết ra, tuy nhiên tôi xin trình bày một vài điểm đại cương thu gọn trong 6 tội:

A2.1. Đảng cộng sản đã bán đứng các nhà cách mạng yêu nước cho Tây, cho Nhật, đưa thuyết Cộng Sản về áp đặt lên đầu lên cổ nhân dân Việt Nam và chúng đã giết hại trên 12 triệu người từ Nam chí Bắc.

Già Hồ, chính là tên bán nước lừa thầy phản bạn trái ngược hẳn với những gì cộng sản thường rêu rao và một số người đã lầm tưởng. Điều quan trọng phải nhấn mạnh ở đây là chính Hồ đã mượn tay Tây, tay Nhật giết hại biết bao nhà cách mạng. Hay nói một cách chính xác hơn, Hồ và đảng cộng sản đã mật báo, chỉ điểm cho ngoại bang bắt và xử tử những người yêu nước có tinh thần quốc gia để chúng độc quyền đưa chủ nghĩa cộng sản vào. Các nhà cách mạng Phan Bội Châu, Trương Tử Anh, Nguyễn Thái Học, Lý Đông A, Đức Huỳnh Phú Sổ … đều là nạn nhân do chính già Hồ và đảng cộng sản giết hại hay bán đứng cho Tây, Nhật … Đây là tội phản quốc, tội phản bội dân tộc. Một điều chắc chắn rằng nếu không có đảng cộng sản và già Hồ, đất nước đã tự do độc lập thật sự kể từ ngày chúng ta yêu cầu Tây rút khỏi Việt Nam. Sau khi người Pháp rút khỏi miền Nam thì không còn người nước ngoài đến đô hộ, bóc lột mà chỉ có một mình đảng cộng sản, người cùng là dân Việt máu đỏ da vàng nhưng lại quá dã man vừa giết người, vừa cướp của sau khi cướp được chính quyền miền Bắc năm 1945 cũng như trò bịp giải phóng và thống nhất đất nước năm 1975 !

Già Hồ và đồng đảng cộng sản đã giết hại trên 12 triệu người Việt Nam. Theo tài liệu của Gs Nguyễn Văn Canh trong cuốn bạch thư tố cáo tội ác của đảng cộng sản đệ trình quốc hội Châu-Âu thì 5 triệu. Nhưng một tài liệu xác thực nhất đã tự tố cáo rằng HCM và đảng cộng sản đã thí trên 10 triệu thanh niên miền Bắc trong mưu đồ xâm chiếm miền Nam. Người trong nước đã nghe được câu trả lời nầy từ chính miệng vợ Lê Duẫn với nhà báo Xuân Hồng đài BBC vào tối ngày 23 tháng 12 năm 2008. Trong số 12 triệu người kể trên, tôi xin triệu nêu ra như sau: Mười triệu thanh thiếu niên sinh Bắc tử Nam là một cuộc thí quân thí dân của chế độ cộng sản cọng thêm gần 1 triệu dân miền Bắc bị giết qua các cuộc đấu tố là 11 triệu là ngưòi miền Bắc. Ngoài ra còn phải tính thêm hàng triệu người miền Nam (hy sinh trong chiến tranh từ 1954 đến 1975, những người vượt biên cũng như các cựu sĩ quan cũng như công chức trong các trại tù cải tạo …) đã chết dưới bàn tay cộng sản chỉ vì tham vọng của già Hồ và đảng cộng sản trong âm mưu cướp nước xâm chiếm miền Nam !

Kết luận, diệt chủng là tội thứ nhất.

A2.2. Đảng cộng sản là một tập đoàn tham nhũng vô độ, tẩu thoát tài nguyên quốc gia, bần cùng hóa dân tộc và bất chấp sự sinh tồi của nòi giống.

Theo tờ France Soir ngày thứ Năm 02 tháng Tư năm 2009, nhà báo Damien Delseny đã xác nhận rằng Việt Nam đứng trong TOP 10 về tội phạm chuyển tiền lậu của thế giới. Riêng với Tây, những vụ rửa tiền của đảng cộng sản Việt Nam trên lãnh thổ nước Pháp bị quan thuế bắt lên đến 7% trong năm 2008.

Theo các cơ quan truyền thông, tham nhũng tại Việt Nam hiện đứng đầu thế giới. Toàn bộ tập đoàn cộng sản chữ nghĩa không có, kiến thức cũng chẳng ra gì nhưng lại giỏi xử dụng kẽm gai, nhà tù và súng đạn để tẩu tán tài sản quốc gia và cướp bóc dân chúng. Ba triệu đảng viên cộng sản trở thành tỷ phú một cách thần thánh, mới ngày nào đầu nón cối chân dép râu, áo quần chỉ một bộ nhưng vừa cướp xong miền Nam thì trở thành những tỷ phú đứng vào hàng đầu thế giới. Trong một danh sách gần 300 đảng viên, cán bộ nhà nước, người có ít nhất là vài chục triệu và tên nhiều thì vài chục tỷ dollars nằm trong các ngân hàng nước ngoài. Đây là loại tài sản chìm. Phần kế tiếp, tôi trình bày với quý vị tài sản nổi của bọn chúng, đó là bất động sản mà cán bộ đảng viên đã cướp một cách công khai. Xin đưa ra bằng chứng tại Việt Nam cũng như ở ngoài xứ tự do nầy.

Sau 34 năm chấm dứt chiến tranh, cảnh phồn vinh bên ngoài có vẻ hào nhoáng nhưng thực ra là một đất nước còn yếu kém, nghèo nàn và lạc hậu. Thế giới đã đánh giá về cách biệt nếp sống giữa hai giai cấp, tình trạng đói khát và bệnh hoạn của dân chúng cũng như đã cảnh cáo nhà cầm quyền về nạn tham nhũng trầm trọng và những nguyên nhân tội lỗi. Về phương diện kinh tế xã hội, trên một nửa dân số hằng ngày vẫn nghèo đói, thiếu ăn thiếu mặc, khi bệnh thì thiếu thuốc và nhà tù cũng như trại cải tạo lại nhiều hơn trường học và nhà thương ! Dưới mắt một số Việt kiều hời hợt cũng như người ngoại quốc vô tư, thì, Việt Nam bây giờ đường sá, nhà cửa, lầu đài, tiệm ăn, khách sạn mọc lên như nấm từ quận huyện ra thành phố và từ trong Nam ra đến ngoài Bắc. Nhưng ai là chủ nhân của toàn bộ bất động sản nầy ? Một lối bóc lột và đục khoét tài sản quốc gia qua chương trình mỵ dân "đô thị hóa", bằng thủ đoạn cướp đất của dân xây nhà cửa, dinh thự, khách sạn, khu giải trí, công viên … Hình thức nầy đem lại những gia tài khổng lồ bằng bất động sản cho cán bộ đảng viên từ cấp phường xã lên đến chủ tịch nước. Ngay cả thành phần ngồi chơi xơi nước hoặc đã về hưu … trong tay mỗi đảng viên cũng có vài chục mẫu đất, năm ba căn nhà …!

- Ví dụ thứ 1: Do nhà báo Trần Khải Thanh Thủy phổ biến qua bài "Đại Loạn ở Huyện Trường Yên" (Miền Bắc) xảy ra ngày 04.3.2009. Quận muốn lấy đất của dân thì bày trò phát triển quận lỵ bằng cách đuổi dân và bồi thường tiền một sào là 80 triệu đồng. Nhưng sau khi trừ các chi phí như thủ tục san lấp mặt bằng, tiền thuê người chưởng khế, tiền thủ tục giấy tờ … chủ đất chỉ được bồi thường 8 triệu đồng mỗi sào, nghĩa là dân chỉ được 10 phần trăm ! Bọn cán bộ hưởng 90 phần trăm !

- Ví dụ thứ 2: Theo báo Effet tháng 3/2006 (đăng theo tài liệu của báo từ quốc nội), em Nguyễn Trọng Bằng (10 tuổi) đứng tên hai lô đất với diện tích 38.000 M2. Em Huỳnh Tấn Trạng (12 tuổi) đứng tên làm chủ 24.780 M2. Cả hai đều là con (1 đứa con vợ lớn, 1 đứa con vợ nhỏ - đứa sau lấy họ mẹ) của cán bộ Nguyễn Thanh Liêm ( !), chủ tịch ủy ban nhân dân quận Tân Phước, Tỉnh Tiền Giang. Đảng viên cấp quận nầy đã ngang nhiên đổi quyền sở hữu 146.000 M2 miền Nam trở thành của riêng cá nhân. Trong đó tên nầy trực tiếp đứng tên 42.700 M2, vợ tên Huỳnh Thị Thanh Hồng đứng tên 65.000 M3, còn lại do 2 đứa con như đã nói trên.

- Ví dụ thứ 3: Các chủ tịch quận, tỉnh hay thành phố nhắm vùng đất nào có thể đem tiền về cho túi tham thì lập ngay dự án chỉnh trang, nới rộng hoặc "quy hoạch". Trước chúng hết tịch thu nhà đất ruộng vườn của dân, bồi thường một số tiền nhỏ bằng tiền giấy Việt Nam, sau đó kêu gọi ngoại quốc đấu thầu bằng ngoại tệ lấy tiền hối lộ đấu thầu bồi thường cho người dân. Các vùng nầy sẽ xây theo kế hoạch đô thị mới, kiễu cách và phương tiện rập theo khuôn mẫu ngoại quốc, móc nối ăn chia với các công ty nước ngoài bằng hình thức "ba bảy" hoặc "bốn sáu", như vậy cán bộ đảng viên không mất một giọt mồ hôi, không tốn một xu nhỏ. Chất xám tiền bạc do các công ty nước ngoài cung cấp, vật liệu thì ăn cắp của công và mồ hôi là do người lao động xong rồi chúng bán lại cho bọn tỷ phú đỏ, Việt kiều cũng như người nước ngoài. Cứ mỗi chương trình chúng thu vào túi riêng, ví dụ một biệt thự hoặc nhà ở trong cao ốc giá hàng ngàn cây vàng, như vậy thử tính xem, trong mỗi dự án 1000 ngôi nhà hay biệt thự ở vùng Khánh Hội hoặc chung quanh thành phố Sàigòn, chúng có được 700 (7 phần 10) và mỗi biệt thự chừng 2000 cây vàng thì chúng sẽ có 1.400.000 lượng vàng, tính ra ngoại tệ là bao nhiêu dollars ? Trên toàn cỏi Việt Nam biết bao nhiêu trăm, ngàn công trình mị dân kiểu nầy và số vàng cũng như ngoại tệ mà đảng cộng sản đã cướp của dân là bao nhiêu ? Chúng ta thử tính ra để biết ! Ngoài số tiền chìm trong các trương mục nước ngoài, các lãnh đạo tập đoàn cộng sản còn mua hàng chục ngàn biệt thự, nông trại, cơ sở kinh doanh tại các thành phố lớn ở ngoại quốc, từ Cali, Houston, San Francisco đến Paris, Londre, Bruxelles, Amsterdam, Sydney …. để cho mướn hay đưa con cháu, người nhà sang trông coi. Ngay tại thành phố tôi đang ở (một thành phố nhỏ của ngoại ô Paris), đã có 8 ngôi nhà trị giá trên dưới 1 triệu Euros, do Việt cộng mua phá giá mà đa số trả bằng tiền mặt, không cần hồ sơ ngân hàng trả góp như bất cứ một người dân nào ở đây ! (Hồ sơ của Marie và notaire).

Kết luận: Tẩu tán tài sản quốc gia, bóc lột của dân và tham nhũng là tội thứ hai

A2.3. Đảng cộng sản đã hủy hoại thế hệ trẻ Việt Nam

Dưới chế độ cộng sản thì chỉ có "con ông cháu cha" mới là rường cột nước nhà và tương lai của đảng. Nếu là con cháu của những người dân bình thường thì tương lai cũng thành thứ dân trong xã hội, phải đổ mồ hôi đổ máu để kiếm miếng cơm manh áo. Mỗi năm hàng trăm ngàn học sinh sinh viên bỏ học vì chế độ bóc lột giới trẻ ngay trong chương trình đào tạo chất xám bằng hình thức đặt nặng vấn đề học phí, thi cử … do đó sinh vên sẽ thất nghiệp sau khi rời ghế nhà trường. Thành phần nầy bị đẩy ra đời quá sớm thì sẽ gây hiểm họa cho xã hội. Cộng sản đã giải quyết bằng cách bán hàng triệu thanh niên thiếu nữ chữ nghĩa thiếu hụt, nghề nghiệp không có nầy ra xứ ngoài làm đĩ và làm nô lệ.

Để chứng minh về chủ trương của đảng cộng sản đối với thế hệ trẻ Việt Nam, tôi xin trích nguyên văn một phần trong tài liệu mật của trung ương đảng (phần chữ nghiêng) ra lệnh cho thuộc cấp về những biện pháp đối phó và hủy diệt tinh thần yêu nước của tuổi trẻ. Đây là một bằng chứng hùng hồn và cụ thể đã nói lên đầy đủ chủ trương tiêu diệt nòi giống.

"Chúng ta là đã làm cho thế hệ trẻ chán ngán đến tận cổ khi phải học mãi một thứ ý thức hệ lỗi thời, bị nhồi nhét đến phản cảm những tư tưởng cũ kỹ. Nhờ vậy chúng ta đã đào tạo ra một thế hệ trẻ thờ ơ vô cảm với tất cả các loại tư tưởng và ý thức hệ, chai sạn với lý tưởng và hoài bão mà thanh niên thường có, họ sẽ trở nên thực dụng và ích kỷ hơn bao giờ hết".

Hãy nghe tiếp những lời vàng ngọc mà đảng cộng sản đã đánh giá thành phần "rường cột nước nhà": "Thế hệ trẻ hôm nay, ngoài cái đức tính thực dụng và tinh thần chụp giật, cũng như niềm khao khát tiền bạc, công danh, ám ảnh bởi chủ nghĩa hưởng thụ, thì “tinh thần dân tộc” chỉ còn le lói sót lại trong máu huyết của mỗi người Việt mà thôi". Và cộng sản ra lệnh cảnh giác và triệt hạ tinh thần yêu nước của thanh niên: Đây là con dao hai lưỡi đang nằm yên, mà chúng ta cần phải biết lèo lái một cách khôn ngoan để không xảy ra một tiểu Thiên An Môn ở Ba Đình. Dưới chế độ chuyên chế nào cũng vậy, sinh viên và trí thức trẻ luôn luôn là những kẻ nguy hiểm nhất, là ngòi nổ của quả bom, là kíp mìn hẹn giờ, là hạt nhân của các phong trào đấu tranh. Các cuộc cách mạng nhằm lật đổ chế độ độc tài bao giờ cũng do sinh viên và trí thức dẫn đầu; công nhân, nông dân, và các tầng lớp lao động khác chỉ là sức mạnh cơ bắp. Chỉ có trí thức và sinh viên mới đủ lý luận để huy động được đông đảo quần chúng, mới có lý tưởng để dấn thân, và mới có khả năng tổ chức và phối hợp. Và cuối cùng là biện pháp của cộng sản đối với giới trẻ Việt Nam Triệt tiêu được những phong trào sinh viên, cô lập được những trí thức phản kháng, chính là đánh vào đầu não chỉ huy của địch. Những thứ còn lại như “dân oan biểu tình”, “công nhân đình công”… chỉ là cơ bắp của một cơ thể đã bị liệt não.

Như trên đã nói, chúng ta đã thành công trong việc làm cho sinh viên trở nên lãnh cảm về các loại ý thức hệ, thờ ơ với những tư tưởng tự do khai phóng từ phương Tây. Chúng ta chỉ còn phải đối phó với tinh thần dân tộc của sinh viên đang có nguy cơ thức dậy, mục đích là để nó ngủ yên, nếu không phải lèo lái nó theo hướng có lợi cho chúng ta.

Kết Luận: Đầu độc và làm băng hoại tuổi trẻ Việt Nam là tội thứ ba

A2.4. Đảng cộng sản đã hủy hoại hoàn toàn nền văn hoá nhân bản

Người làm chính trị sai lầm thì đưa đất nước đến chỗ diệt vong và người làm văn hóa sai lầm là giết luôn cả một vài thế hệ. Như vậy đảng cộng sản Việt Nam đã phạm hai trọng tội.

Thứ nhất, sai lầm chính trị nên đã đưa đất nước Việt Nam đi đến chỗ tự tiêu diệt trước đà tiến hóa của nhân loại và bị tiêu diệt bởi Tàu cộng phương Bắc.

Thứ hai, chủ trương dùng văn hóa đỏ để phục vụ đảng là mang tội đối với dân tộc, là giết chết tính nhân bản và tinh thần dân tộc của người Việt Nam. Của cải vất chất mất đi thì có thể gầy dựng lại trong năm, mười năm, nhưng một khi đạo đức con người bị hủy hoại thì phải mất hàng thế kỷ mới hy vọng khôi phục trở lại.

Văn hóa đỏ đã biến bản chất người Việt Nam từ hiền lành nhân hậu, trọng đạo lý, có nhân cách thành những tội phạm xã hội, thiếu tình người, mất đạo đức và "thiên đường cộng sản" thì dùng đồng tiền vật chất làm thước đo địa vị thứ bậc con người trong xã hội. Văn hóa đỏ đã biến con người còn tệ hơn cả loài vật, anh em trong gia đình chỉ vì một quyền lợi nhỏ đã thẳng tay đâm chém nhau, cha mẹ vì một miếng ăn mà nhẫn tâm bán con đi làm điếm, hàng xóm bất đồng ý kiến một vấn đề gì đó lại nở tâm ám hại luôn cả gia đình !

Một tình trạng tội phạm xã hội mà đảng cộng sản không giải quyết. Đó là chất độc trong thức ăn mà thế giới đã lên tiếng báo động và ban hành lệnh cấm xử dụng tất cả các loại thực phẩm nào xuất xứ từ Việt Nam. Đây là một điều xấu hổ cho dân tộc chúng ta. Vì lòng tham vô đáy, con người đã nhẫn tâm trục lợi trên sức khỏe và sinh mạng của nòi giống. Bất cứ chất độc hại nào có thể đem về nguồn lợi trong kinh tế cũng như thương mãi, giới nông nghiệp và con buôn Việt Nam đã pha chế vào thực phẩm để bán cho người bản xứ xử dụng cũng như xuất khẩu ra ngoài ! Tại sao những hành động giết người nầy vẫn được bành trướng mà đảng cộng sản không có biện pháp để chận đứng ! Thật ra, muốn giải quyết thật ra không khó khăn gì, chỉ cần giam tù dài hạn hoặc bắn bỏ tức khắc những tên giết người đó là xong ! Nếu Việt Nam dám thi hành đem một tội phạm kinh thế và thương mãi (như trường hợp bỏ chất độc vào thức ăn) ra tử hình thì tôi nghĩ tình trạng pha chế chất độc vào thức ăn sẽ chấm dứt tức khắc, nhưng điều trớ trêu là chính cán bộ đảng viên đã nuôi dưỡng tệ trạng đó. Đối với cộng sản bắn bỏ một người thì chẳng có gì đáng nói, nhưng nếu phải bắn bỏ những kẻ gây nên tội ác, thì trước hết phải treo cổ từ tên chủ tịch nước, thủ tướng đến những tên trong bộ chính trị trung ương đảng trước rồi sau đó mới tính đến chuyện xử tử người khác !

Kết luận: Nền văn hóa nhân bản của dân tộc Việt Nam bị phá sản là tội thứ tư.


A2.5. Đảng cộng sản đã làm nhục quốc thể và hạ phẫm giá người Việt trước quốc tế.

Công dân của nước nào cũng hãnh diện về quốc gia dân tộc cũng như những nhà lãnh đạo của họ, ngoại trừ độc nhất một xứ trên trên hành tinh nầy, đó là Việt Nam. Ở xứ ngoài, thành phần ngoại giao và nhân viên sứ quán không dám vỗ ngực là đại diện cho Việt Nam cộng sản, chúng chỉ giỏi việc hạch sách, ăn hiếp, gây khó khăn và làm tiền đối với ai mang trên người hộ chiếu Việt cộng, nhất là với những người đi lao động chui, đi du học cũng như những người đi thăm con cái người thân ở nước ngoại quốc. Dân bản xứ đi đâu cũng lo ngại ngoại quốc nhận ra mình là người Việt Nam, xấu hổ với cuốn "thông hành sao đỏ". Đó chưa kể trường hợp ai trong nước đến Singapor, Mãi Lai, Đại Hàn là những nơi mà người địa phương đã có ấn tượng rằng tất cả người Việt Nam đều là dân "nô lệ" và "gái điếm". Nếu đến Nhật, Úc Đại Lợi, Nam Phi thì người mang sổ thông hành Việt Nam không dám ngửng đầu lên về những thành tích buôn lậu, ăn cắp của nhân viên ngoại giao. Tôi còn nhớ một vị giám mục Việt Nam đã than thở rằng, ông thật xấu hổ khi mang trong người cái visa của Việt cộng ! Hơn nữa sau vụ đảng viên cán bộ nhà nước ăn cắp tiền trong các chương trình hợp tác với chính phủ Nhật cũng như người Nhật khám phá ra tổ chức Air Việt Nam và nhân viên đại sứ quán ăn cắp hàng trong các siêu thị đưa về tiêu thụ tại nội địa thì họ cho rằng "đảng cộng sản Việt Nam là một bọn giòi bọ". Điều nầy thật đúng và chính xác chứ không sai chút nào !

Kết luận: Làm ô danh dân tộc Việt Nam là tội thứ năm

A2.6. Đảng cộng sản đã bán nước cho ngoại bang, đồng lõa với Tàu đỏ để chúng đồng hóa dân tộc Việt Nam.

Già Hồ đã nói rằng: "Thà mất nước chứ không thể mất đảng"! Do đó, vì quyền lợi đảng và ngai vàng của tập đoàn cầm đầu, đảng cộng sản đã bán đứng đất nước Việt Nam cho Tàu cộng. Đây là sự thật không thể chối cãi trước lịch sử. Đảng cộng sản đã ký giấy nhượng cho ngoại bang vùng bờ biển trong đó có Vịnh Bắc Việt và các quần đảo Hoàng Sa Trường. Riêng các vùng ranh giới các tỉnh cực Bắc chúng bán cho Tàu cộng với giá 2 tỷ Dollars (Xin đọc bài ‘Tài liệu tình báo về việc bán đất cho Tàu cộng’ qua các hệ thống internet) - Do đó, chúng ta không ngạc nhiên khi Tàu cộng ngang nhiên đưa công an qua dằn mặt dân Sàigòn trong ngày Việt Nam tổ chức rước đuốc Thế Vận 2008! Cờ Tàu cộng tràn ngập thành phố, hàng ngàn du đảng dưới lốt vận động viên và bảo vệ ngọn đuốc đi ngông nghênh như chốn không người. Người Việt nước ngoài theo dõi và cảm thấy đau lòng khi cộng sản thẳng tay ngăn chận và trừng trị các bạn trẻ yêu nước tổ chức biểu tình chống đối. Hãy nhìn kỹ việc Tàu cộng được cộng sản cho phép đưa hàng triệu người vào đất nước chúng ta dưới hình thức công nhân khai thác quặn mỏ, di dân, du lịch không cần chiếu khán và có quyền di chuyển, cư trú từ các vùng cực Bắc đến quận cuối cùng tỉnh Cà Mau. Bọn Tàu nầy cướp đất, dành dân, khai thác kinh tế thương mãi thì đất đai, công việc còn đâu nữa để cho người Việt Nam sinh sống ! Chúng chọn Cao nguyên vì đây là vùng màu mở, tài nguyên phong phú và cũng là điểm chiến lược quan trọng của Việt Nam. Ai làm chủ được vùng nầy thì sẽ khống chế một cách dễ dàng miền duyên hải Trung phần, miền đồng bằng Nam bộ cũng như hai quốc gia láng giềng Lào và Cao Miên. Rồi từ Cao nguyên, điểm chiến lược quan trọng nầy Tàu đỏ sẽ xữ dụng ba mặt giáp công (từ biển Đông, các tỉnh cực Bắc và Cao nguyên), cọng thêm chiến lược phá sông Đồng Nai (Tàu cộng sẽ xả đập nước đầu nguồn trên lãnh thổ của chúng) để thôn tính Việt Nam thì chỉ trong vòng một ngày đất nước chúng ta đã nằm hẳn trong bàn tay của chúng ! Tàu cộng đã xây sẵn xa lộ, phi trường dọc theo hướng đông Trường Sơn với mục đích quân sự hơn là việc xử dụng kế hoạch kinh tế.

Kết luận: Bán nước và rước kẻ thù truyền kiếp về dày xéo quê hương là tội thứ sáu

B. HOẠT ĐỘNG TRONG NƯỚC CŨNG NHƯ HẢI NGOẠI TRONG 34 NĂM QUA

34 năm qua là quảng thời gian quá dài, quá lâu mà người dân phải âm thầm chịu đựng trước họng súng bạo quyền của độc đảng cộng sản. Nhưng một khi tức nước thì vỡ bờ, và hôm nay trong nước toàn dân đã bắt đầu đứng lên hỏi tội nhà cầm quyền Hà Nội. Đây là thời điểm đã chín mùi, việc tranh đấu phải bùng nổ toàn diện để thành công. Chính đảng cộng sản đã trèo lên cây và tự buộc giây vào cổ khi chúng ngang nhiên bán đất bán biển cho quan thầy Tàu cộng thì chúng ta phải hiệp sức để siết giây và xô chúng nó xuống. "Thiên" đã cho thời cơ, "Địa" đã tạo thuận lợi thì "Nhân" là phải do chính chúng ta, đừng bỏ lỡ cơ hội và cũng đừng trông chờ vào ai.

Niềm tin và sức mạnh đoàn kết là vũ khí cần và đủ để đánh bại cộng sản. Chính niềm tin vào lý tưởng, vào khả năng, vào đạo lý, vào tiền đồ dân tộc sẽ giúp tất cả mọi người nhận ra mục cuộc tranh đấu và sẵn sàng đứng chung một thuyền, đi về một hướng thì đó chính là một sức mạnh phi thường của chúng ta mà cộng sản đang lo sợ.

B1. Điểm mạnh cũng như điểm yếu trong nước (xin lướt qua vài điểm chính)

Điểm mạnh: Sau hàng chục năm dài chịu đựng áp bức, kềm kẹp dưới gông cùm cộng sản, người dân đã gậy gộc xuống đường chống lại hàng rào kẽm gai súng đạn và chống trả lại công an bằng vũ lực ngay từ các quận lỵ hẻo lánh đến ngay trung tâm những thành phố lớn cũng như thủ đô Hà Nội. Đối với hình thức bất bạo động, xin vắn tắt đưa ra năm trường hợp điển hình:

1. Thành phần cộng sản trước đây cũng như một số chạy theo cộng sản sau nầy đã sáng mắt như phong trào "dân oan" phát xuất từ miền Bắc kéo vào đến trong Nam.

2. Nhiều phong trào Dân Chủ thành hình. Những nhà lãnh đạo dù bị tù đày nhưng vẫn kiên trì chịu đựng cho công cuộc tranh đấu chung của dân tộc.

3. Tôn giáo nhập cuộc, từ vấn đề đòi đất ở Thái Hà miền Bắc cho đến biểu tình bất bạo động do Hòa Thượng Thích Quảng Độ phát động trong tháng 5 nầy.

4. Điểm quan trọng nhất chính là giới trẻ đã bừng tĩnh trước bạo quyền Hà Nội, trước hành động tham nhũng cũng như việc bán nước cho quan thầy Tàu cộng. Sinh viên trong nước đã phát động các phong trào chống đối ngay tại các trường đại học từ Hà Nội vào đến Sàigon, Cần Thơ. Tổ chức xuống đường chống Tàu cộng nhân ngày rước đuốc thế vận ngang qua Sàigòn mới đây. Những bài báo, bích chương được bí mật chuyền tay trong giới trẻ từ các trường trung đại học đến các nhà máy, cơ quan, xí nghiệp. Ngoài ra, những điểm nổi bật khác cần phải ghi nhận là một số biểu ngữ chống đối nhà cầm quyền cộng sản đã được treo nên những nơi công cộng. Cờ Vàng Quốc Gia cũng được vẽ lên trên đường phố tại Sài gòn trong tháng vừa qua.

5. Sau vụ Hoàng Sa Trường Sa và Bauxite, giới trí thức và quân sự trong nước đã phản ứng dưới nhiều hình thức. Thành phần nầy can đảm xuất hiện bằng những bản tuyên bố phản đối nhà cầm quyền với đầy đủ tên tuổi, chức vụ số điện thoại cũng như địa chỉ cư trú. Đây là hành động chính thức ra mặt đối đầu với nhà cầm quyền cộng sản

Điểm yếu: Những điểm yếu làm chậm bước tiến chương trình tranh đấu tại quốc nội trên đà phát triển:

1. Thiếu tài chánh: Không có quỹ yểm trợ tranh đấu khả dĩ giúp đở phần nào cho người tổ chức có thể sống cầm hơi và vững tâm hướng dẫn quần chúng kéo dài các cuộc xuống đường. Nếu tất cả các hoạt động trong nước đều phải tự lực cánh sinh thì người dân không thể nhịn đói dài hạn để tiếp tục đòi tự do dân chủ. Tinh thần có nhưng vật chất thiếu hụt nhất là đối với thành phần tiểu thương, làm nghề tự do, nghề chui … ngày kiếm được đồng nào ăn đồng đó thì thật khó khăn cho hoàn cảnh của họ khi phải dành nhiều thời gian cho việc xuống đường tranh đấu.

2. Thiếu phối hợp: Hiện giờ thì những cuộc xuống đường trong nước đang vây quanh các vần đề: Dân oan đi đòi nhà nước trả công trả của mà nhà nước đã tịch thu. Giáo dân đòi trả lại những bất động sản của giáo hội. Công nhân biểu tình đòi lên lương thay đổi quy chế lao động. Sinh viên chống việc bán đất dân biển cho ngoại bang. Mỗi nhóm, mỗi tổ chức xuống đường theo thời cơ và hoàn cảnh của họ: Dân oan do những người trước đây có công với chế độ, cán bộ bị thất sũng cầm đầu các bà mẹ chiến sĩ, mẹ các người nằm vùng. Linh mục hướng dẫn con chiên xuống đường. Sinh viên tổ chức biểu tình tự phát một khi có cơ hội … Tất cả những cuộc xuống đường đều riêng rẽ, thiếu phối hợp, thiếu tổ chức do đó dễ bị đàn áp.

3. Thiếu lãnh đạo: Thiếu sự phối hợp lãnh đạo ! Các "đảng đối lập" đâu ? Các "phong trào dân chủ" đâu ? Các đoàn thể "tập hợp thanh niên dân chủ" đâu ? không thấy xuất hiện bên cạnh với dân cũng như sinh viên trong các cuộc xuống đường. Chúng tôi thường theo dõi nhưng chưa thấy các tổ chức nầy xuất hiện. Các bản tuyên bố lên án không ăn nhằm gì với đám cộng sản ngoan cố và lỳ lợm nầy.

B2. Điểm mạnh cũng như điểm yếu hải ngoại (Xin lướt qua vài điểm quan trọng)

Điểm mạnh: Một khi người tỵ nạn chạy trốn cộng sản đi tìm tự do thì trong thâm tâm đã có sẵn tinh thần chống cộng và dứt khoát một ngày nào đó sẽ trở về giải phóng quê hương. Dù bận rộn làm lại cuộc đời và lo tương lai cho con cháu nhưng những ai ra đi vì lý do chính trị đều tìm cơ hội phát triển tinh thần yêu nước, quyết tâm góp công sức để đánh đổ bạo quyền cộng sản Hà Nội. Những thành quả nổi bật của các cộng đồng người Việt tự do trên thế giới đã thực hiện được từ 34 năm qua:

1. Đánh tan cờ máu Đỏ Sao Vàng trên những vùng có người Việt tỵ nạn. Đây là một thành công lịch sử lớn lao của khối người Việt tự do khi các cộng đồng đã làm sống lại hình ảnh và tinh thần cờ Vàng Quốc Gia ở khắp năm châu. Cờ vàng đã tung tay trên khắp năm châu để chứng tỏ cho thế giới biết rằng nước Việt Nam Cộng Hòa của chúng ta vẫn còn sống mãi với lịch sử, với lòng người cũng như với niềm tin của dân tộc và một ngày rất gần những người xa xứ sẽ quay về dựng lại ngọn cờ chính nghĩa ngay trên mảnh đất thân yêu của mình ngày trước.

2. Các cộng đồng người Việt tự do đã kết hợp chặt chẽ với nhau trong mọi lãnh vực. Điều nầy đã tạo thành một lực lượng hùng mạnh về tinh thần, chất xám và khả năng nhân sự cũng như vật chất nhằm tranh đấu chống bạo quyền Hà Nội và yểm trợ các phong trào dân chủ trong nước.

3. Giới trẻ hải ngoại đã nhập cuộc. Vấn đề quan trọng, giới trẻ đứng dậy tiếp nối sự nghiệp của bậc cha chú, những người thuộc thế hệ thứ nhất đã xã thân bảo tồn tinh thần quốc gia, xây dựng con đường tranh đấu, để hôm nay, thế hệ trẻ nhận ra nguồn gốc của mình và mai kia sẽ quay về phục vụ quê hương dân tộc. Thế hệ trẻ đã đứng dậy vinh danh và bảo vệ cờ vàng, góp mặt trong việc lành mạnh hóa cộng đồng bằng các hình thức phản đối thành phần trẻ cộng sản đang lợi dụng các tổ chức giáo dục các và văn hóa để chống lại người Việt tư do.

4. Các nổ lực đưa đảng cộng sản Việt Nam ra trước công lý. Dù Cộng đồng người Việt hải ngoại, trên nguyên tắc chúng ta không đủ tư cách pháp nhân, nhưng đây là những sự kiện lịch sử để trình bày với thế giới và vạnh trần tội ác của tập đoàn cộng sản cũng như già Hồ. Các tổ chức nầy đang tiến hành các thủ tục để đưa những vấn đề nhân quyền, Hoàng Sa - Trường Sa và Bauxit ra trước dư luận quốc tế cũng như trước các tổ chức LHQ.

Điểm yếu: Tuy nhiên các cộng đồng người Việt tự do hải ngoại vẫn còn những điểm yếu :

1. Tự ái (cái tôi) cá nhân, đoàn thể và đảng phái quá lớn. Không nghe và nhường nhịn nhau, từ đó gây ra tranh chấp, tỵ hiềm và kẻ thù lợi dụng nhảy vào phá thối. Nếu tất cả mọi người biết chuyển cái tự ái cá nhân của mình thành tự ái chung của dân tộc, biết đặt quyền lợi quốc gia lên trên gia đình đảng phái thì phải hòa mình ngồi chung lại với nhau, lắng nghe và chấp nhận ý kiến của những người khác. Việc ngồi lại với nhau không bắt buộc phải từ bỏ cương lĩnh, chủ trương đường lối của mình để trở thành một khối duy nhất nhưng điều quan trọng nhất là lấy lý tưởng tự do quốc gia dân tộc làm mục đích để xích lại gần nhau. Không đi đêm, không xé lẻ bắt tay hòa giải hòa hợp với kẻ thù. Mục đích chính phải đồng tâm hiệp lực để giải thể chế độ công sản. Muốn vậy, tất cả phải phân biệt rõ ràng "bạn" – "thù", phải đứng trong hàng ngũ quốc gia và lấy cờ Vàng Ba Sọc Đỏ làm biểu tượng của dân tộc, thì dù đi đường nào, tranh đấu dưới hình thức nào, ở trong khả năng và hoàn cảnh nào chúng ta cũng đi đến cùng một mục đích.

2. Vẫn còn tình trạng áo gấm về làng và bơm tiền cho chế độ cộng sản. Đây là một hình thức đâm vào lưng cộng đồng người Việt tỵ nạn. Có người hôm trước biểu tình đá đảo cộng sản thì ngày sau lén lút đi về Việt Nam. Chúng ta không đề cập đến những trường hợp ngoại lệ về Việt Nam cần thiết như lo việc tang chế hiếu thảo với cha mẹ, chăm sóc mồ mả ông bà tổ tiên. Đằng nầy có người một năm đi về Việt Nam nhiều chuyến để thỏa mãn cái tự ái mà ngày trước mang mặc cảm thua thiệt với bà con lối xóm hoặc đi tìm những nơi ăn chơi rẻ tiền của thiên đường cộng sản. Thật ra cộng sản chỉ kêu gọi được thành phần chợ trời ngày trước, mất gốc vượt biên vì vấn đề kinh tế đi về Việt Nam du hí, hợp tác, đầu tư ... Hạng người thiếu đầu óc nầy không đáng quan tâm vì đó là những khối thịt biết đi, trong đầu chí có đôi đũa và cái giường không hơn không kém !. Nỗi đau của chúng ta là những kẻ nầy mang danh người Việt tự do nước ngoài nhưng lại đem tiền bạc về hà hơi tiếp sức cho cộng sản để chúng có phương tiện đánh lại cộng đồng chúng ta. Đây là vấn đề tủi nhục và đau đớn cho tất cả những người bỏ xứ ra đi vì dứt khoát chống lại chế độ cộng sản.

3. Mất niềm tin và bị tự ty mặc cảm: Thời gian trước đây trong lúc csVN chưa đưa toàn lực ra đối đầu với cộng đồng người Việt tự do hải ngoại thì tinh thần chống cộng của một số người ở nước ngoài lên thật cao độ. Nhưng sau ngày cộng sản tung ra nghị quyết 36 với hàng trăm triệu dollars qua các chương trình kiều vận, văn hóa vận, truyền thông vận ra đời cọng thêm một đội ngũ gồm hàng vạn nhân viên tình báo, công an chìm, cán bộ tuyên truyền đội lốt du sinh, cán bộ khủng bố nằm vùng để đánh vào cộng đồng người Việt thì một số (tôi nói một số nhỏ) bị mặc cảm và dị ứng với công cuộc tranh đấu rồi sau đó mất luôn niềm tin … Cộng sản với trăm phương ngàn kế, từ hứa hẹn, mua chuộc bằng tiền bạc hoặc tình dục chúng không chừa một hình thức nào để gài bẫy và chụp lấy bằng cớ lỗi lầm những ai đã ngữa tay đón nhận ân huệ của chúng. Ngoài ra, một số bị mặc cảm, khúm núm cầu cạnh đám cộng sản mỗi khi về Việt Nam đều hối lộ, thưa trình, bẩm dạ với những tên cán ngố từ phi trường về đến khu phố xóm làng để xin hai chữ ‘bình an’ trong thời gian ở tại Việt Nam ! Và cuối cùng những người về Việt Nam thường bị mặc cảm phản bội khi phải đối diện với đồng đội ngày trước cũng như ra đường gặp bà con, bạn bè anh em và đồng bào tỵ nạn. Bình thường những người bị mặc cảm thường rút vào bóng tối an phận nhưng cũng có lúc hung hăng ra mặt chống lại cộng đồng hầu khỏa lấp những điều xấu xa đã phạm. Do đó không lạ gì khi cộng đồng chúng ta mất dần những chiến hữu tranh đấu ngày trước cũng vì vấn đề đi về Việt Nam. Một điều ngạc nhiên nữa là trong lúc cộng sản cũng như cộng đồng người Việt tự do hải ngoại đang dồn tất cả nổ lực để đánh ván bài chót với cộng sản thì một số người mất niềm tin, núp trong bóng tối lớn tiếng phê phán hoặc kêu gọi bắt tay bỏ qua quá khứ, hòa giải hòa hợp. Đối với những người mất niềm tin và muốn hòa giải hòa hợp với cộng sản nầy, tôi xin thưa rằng, mầm mống cộng sản là một loại siêu vi khuẩn độc hại cần phải diệt tận gốc. Và một khi đã diệt cộng sản thì đừng khinh thường phải đánh đến cùng, nếu chữa không đúng cách, chúng sẽ quật trở lại một cách mãnh liệt như trường hợp con bệnh chích ngừa thiếu dung lượng hay uống thuốc không đúng tiêu chuẩn..

C. NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI LÀM GÌ ?

Để kết luận bài thuyết trình hôm nay, tôi xin đưa ra bốn điểm để hội thảo:

1. Thay đổi đường lối tranh đấu ?: Có vài vị cho rằng chung ta tranh đấu đã 34 năm nhưng vẫn chưa đi đến đâu, cần phải thay đổi đường lối tranh đấu. Thật ra đây là một quan niệm tốt, nhưng thay đổi bằng cách hợp tác với cộng sản, có cơ hội thuyết phục để rồi đi đến một giải pháp chung là thay đổi chế độ và hợp sức để đòi lại các vùng biển cũng như đất liền đã bị Tàu cộng xâm chiếm. Nhưng theo tôi đây là một giải pháp không thể chấp nhận.

Thứ nhất, phải đặt cộng sản ra ngoài vòng hợp tác thương lượng.

Thứ hai, các vùng biển và đất liền đều do đảng cộng sản Việt Năm dâng hiến và bán cho Tàu cộng, thì, cộng sản phải chịu trách nhiệm trước lịch sử và dân tộc.

Việc đòi lại các vùng lãnh thổ trong tay Tàu cộng là trách nhiệm của Hà Nội. Đừng nghe lời đường mật của cộng sản làm công cụ đổ võ cho bọn chúng.

2. Giữ vững niềm tin: Cuộc chiến giữa người Việt Tự Do với đảng cầm quyền cộng sản đang đi vào giai đoạn quyết liệt, toàn dân phải dồn tất cả nổ lực vào những giây phút cuối cùng nầy. Cần phải giữ niềm tin, hâm nóng ngọn lửa tranh đấu và phải thực hiện lòng yêu nước bằng hành động cụ thể. Mất niềm tin là mất tất cả. Mỗi cá nhân thể hiện tinh thần tranh đấu dưới nhiều hình thức, tùy theo hoàn cảnh, khả năng và môi trường của mỗi người. Không ai có quyền nhân danh hai chữ chống cộng để ép buộc tất cả mọi người phải thể hiện việc hành động rập theo ý cá nhân.

3. Ngồi lại với nhau: Trước tiên xin hãy ngồi lại với nhau. Có ngồi lại với nhau trong tình thần cởi mở hiểu biết để nghe ý kiến của người khác thì hy vọng sẽ giải quyết và khai thông những khúc mắc đoàn kết từ trước đến nay. Có đặt quyền lợi của quốc gia dân tộc lên trên tự ái cá nhân đoàn thể thì mới hy vọng có thể ngồi chung trong tinh thần huynh đệ của những người cùng chí hướng.

4. Kiên định lập trường: Cuộc chiến giữa Quốc-Cộng ngay nay đã vượt qua hình thức cổ điển. Kẻ thù ở ngay trong hàng ngũ chúng ta, nếu không kiên định lập trường rõ rệt chúng ta sẽ bị chao đảo về lý tưởng, về mục đích, về hình thức để rồi hành động sẽ đi đến chỗ sai lệnh mà kẻ thù đang giăng sẵn cái bẫy. Người nào không có lập trường vững chắc thì sẽ bị lôi cuốn vào hỏa mù hứa hẹn của cộng sản để rồi trở thành những công cụ mà kẻ thù dùng người của chúng ta để đánh lại chúng ta !

Xin chân thành cám ơn quý vị.
Paris, ngày 30.4.2009
Đinh Lâm Thanh


Monday, May 4, 2009

KỶ NIỆM 30 THÁNG 4 ĐỂ XÂY DỰNG LẠI QUÊ HƯƠNG - Mặc Giao


Mặc Giao


Canada ngày 25/4/2009

Kính thưa đồng bào trong nước,

Hôm nay chúng ta kỷ niệm ngày 30 tháng 4 lần thứ 34. Những người chiến thắng thì huênh hoang khoe thành tích. Nhân dân miền Nam thì buồn, vì ngày ấy đánh dấu việc chấm dứt một thời tự do, no ấm và đoàn tụ.

Xét cho cùng, trừ những người cộng sản, nhân dân cả nước đều đã nhận ra ngày 30-4-1975 là ngày toàn thể đất nước từ Nam chí Bắc bị đặt dưới sự thống trị của chế độ cộng sản độc tài, toàn trị, trong đó mọi quyền công dân đều bị tước đoạt, như quyền tư hữu, quyền chọn người cai trị các cấp, quyền được đối xử công bằng trước pháp luật.

Các nhân quyền căn bản như tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do cư trú v.v… cũng bị vi phạm trầm trọng. Việc tôn trọng các quyền căn bản của con người là điều tự nhiên, là xu thế tất yếu của nhân loại trong thế kỷ 21 này. Buồn thay, dân Việt Nam đã không được hưởng chỉ vì một tập đoàn lãnh đạo đã cướp đi tất cả.

Vì vậy, kỷ niệm ngày 30 tháng 4 không phải là khơi lại hận thù, không phải là tiếp tục cuộc chiến giữa những người Việt Nam dù tiếng súng đã chấm dứt 34 năm, nhưng là để ý thức rằng toàn dân Việt nam đã mất tất cả các thứ quyền từ ngày đó và phải tìm cách đòi lại.

Sau khi đã chiếm được cả nước, dù bằng cách cưỡng chiếm miền Nam, vi phạm Hiệp định Paris 1973 do chính họ đã ký, nếu những người lãnh đạo từ Hà Nội biết thương nước thương dân, không nô lệ chủ thuyết và làm tay sai cho đế quốc cộng sản, không coi đồng bào ruột thịt miền Nam như những kẻ bị chinh phục để khai thác, trả thù và trút căm hờn, không đuổi dân thành thị đi các vùng kinh tế mới, đúng ra là kinh tế chết, không bắt nửa triệu quân cán chánh miền Nam đầy ải trong các nhà tù được mệnh danh là các trại cải tạo, không đánh tư sản để cướp tài sản của dân lành, không kỳ thị thành phần "ngụy" dù là con nít xin đi học, thì làm gì có chuyện chia rẽ, hận thù,làm gì có việc vượt biên vì không còn đất sống, làm gì có việc cạn kiệt chất xám vì những trí thức và chuyên viên tài giỏi đã tìm cách trốn khỏi nước nếu không bị nhốt trong tù.

Nếu những người cầm quyền biết tạo điều kiện để mọi người được sống an vui và thân ái, thì việc vận động đoàn kết để xây dựng đất nước sẽ không khó, và dân tộc Việt Nam đã quy về một mối từ lâu.

Từ năm 1986, sau khi Liên Xô và khối cộng sản Đông Âu xụp đổ, sau khi thấy nếu tiếp tục chính sách đóng cửa rút cầu với thế giới bên ngoài sẽ đưa chế độ đến chỗ tan vỡ mau chóng, đảng cộng sản VN đã quyết định đổi mới bằng cách mở cửa giao thương với mọi nước, kể cả những nước tư bản, đứng đầu là Hoa Kỳ, đã từng được coi là kẻ thù không đội trời chung, đã cho phép người dân làm tư doanh, hoàn toàn trái ngược với nguyên tắc tập trung tài sản theo chủ thuyết cộng sản. Bờ ngăn chặn được mở ra tới đâu thì nước sẽ tràn theo tới đó theo lẽ sinh tồn tự nhiên. Nhờ đó dân đã biết thích ứng với hoàn cảnh và được dễ thở đôi chút về phương diện kinh tế.

Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế đi song song với sự phát triển của tệ nạn tham nhũng và bất công. Có thể nói khi người dân được ăn một thì các cấp đảng được ăn mười. Tham nhũng đã trở thành một con bệnh vô phương cứu chữa vì đã thành thứ bệnh thâm căn cố đế nằm sâu trong lục phủ ngũ tạng của guồng máy đảng và guồng máy cầm quyền.

Không một việc gì từ lớn tới nhỏ được giải quyết nếu không có hối lộ và ăn chia. Tệ nạn này đã lan lây ra toàn thề xã hội. Sống lâu với bệnh trở thành quen bệnh. Vì thế tham nhũng đã trở thành một thứ "văn hóa mới" của chế độ cộng sản, nó tàn phá không những guồng máy công quyền mà còn làm băng hoại mọi tương giao xã hội.

Khi thấy có quyền là có tiền, các cấp đảng và công quyền đều ra sức bảo vệ guồng máy và chỗ ngồi của họ trong guồng máy đó. Không còn lý tưởng quốc gia dân tộc, không còn tình nghiã đồng bào, chỉ còn đàn áp thô bạo để dập tắt mọi mầm mống chống đối, chỉ còn khai thác tối đa việc móc túi của tư nhân và ăn cướp của công để làm giầu. Những vụ chiếm đất của dân oan, chiếm đất của các tôn giáo đã chứng minh điều này. Khi nhân dân và tín đồ các tôn giáo đòi lại tài sản riêng và chung của họ thì họ bị đàn áp, xuyên tạc, lôi ra tòa kết án vì những tội danh hoàn toàn khác với việc khiếu nại chính đáng của họ.

Cũng vì thấy có quyền là có mọi sự, nên đảng và nhà nước muốn kiểm soát mọi tôn giáo, đoàn thể và cả cá nhân, bắt mọi người phải đi theo "lề phải" do nhà nước đặt ra. Ai hơi nói khác, làm khác, dù là đảng viên, là lập tức bị xách nhiễu, hạ tầng công tác, bắt giam, đưa ra tòa, tống vào ngục.

Như vậy, con người sống trong chế độ Việt Nam hiện nay khác gì những kẻ nô lệ dưới những chế độ của các hôn quân bạo chúa thời xưa. Chỉ có một thứ tự do được cho phép, đó là tự do sa đọa, hủy hoại luân lý và truyền thống dân tộc, trong đó những người có quyền và có tiền nêu gương sa đọa trước tiên.

Thời gian gần đây, những người cầm quyền còn đem cả chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ để đổi lấy sự an toàn của chỗ ngồi và túi tiền của họ. Việc phản đối lấy lệ trong khi không có một biện pháp cụ thể để bảo vệ những vùng đất và biển của tổ tiên để lại, việc cho phép Trung Quốc khai thác mỏ bauxit tại cao nguyên Trung phần, dù hàng ngàn trí thức trong nước và hàng vạn dân chúng trong và ngoài nước đã công khai lên tiếng phản đối vì việc này sẽ tàn phá môi trường, tạo cơ hội cho Trung Quốc kiểm soát vùng Tây nguyên, chứng tỏ những người cầm quyền coi trọng quyền lợi của họ hơn quyền lợi của quốc gia và dân tộc. Trong trường hợp này không còn chữ nào đúng hơn để gọi việc làm của họ ngoài câu "mãi quốc cầu vinh".

Trước tình trạng đất nước như vậy, mọi con dân Việt Nam ở trong hay ngoài nước không thể thờ ơ, nhắm mắt bỏ qua mọi việc để cầu sự an thân. Nếu chúng ta không ý thức được nguy cơ của đất nước và nỗi thống khổ của đồng bào thì sẽ không còn nước Việt Nam nữa, không còn dân tộc Việt Nam nữa. Một đất nước chỉ tồn tại khi có những con dân biết bảo vệ. Một dân tộc chỉ tồn tại khi có những người dân biết liên kết với nhau để bảo tồn di sản, truyền thống, văn hóa và xây dựng một tương lai chung.

Vì vậy, đừng coi việc kỷ niệm ngày 30 tháng 4 như một việc khơi lại đống tro tàn, vạch lại vết thương đã kéo da non hay để khóc than, thương tiếc. Kỷ niệm 30-4 là dịp để nhắc nhở nhau rằng từ ngày ấy, tháng ấy, năm ấy, toàn thể đất nước và dân tộc Việt nam đã bị đặt dưới một chế độ cai trị tệ hại chưa từng có trong lịch sử dân tộc, và rằng bổn phận của mọi người Việt Nam, không phân biệt trong nước hay ngoài nước, Bắc hay Nam, không phân biệt tôn giáo và qúa khứ chính trị, chúng ta phải cùng nhau đòi lại quyền sống và nhân phẩm cho dân tộc Việt Nam, đòi lại chủ quyền cho đất nước, không thể để số phận của Việt Nam và 86 triệu đồng bào trong tay một nhóm người tàn ác, bất lực và tham lam.

Chúng ta đấu tranh một cách hòa bình, không làm thiệt hại sinh mạng và tài sản của đồng bào, nhưng dùng sức mạnh của quần chúng tự giác dâng lên như nước vỡ bờ để quét sạch những rác rưởi đang làm ô uế quê hương, phá tan những chướng ngại đang cản trở sự tiến bộ và tình thương yêu đoàn kết giữa các thành phần dân tộc. Muốn làm được việc này, trước hết phải làm cho người dân ý thức được quyền lợi của chính mình và quyền lợi của đất nước, đồng thời ý thức được bổn phận của mình trong việc đòi lại và bảo vệ những quyền đó. Chỉ khi nào ý thức về quyền lợi và bổn phận của người dân đạt cao độ, lúc đó chúng ta mới có thể lật ngược thế cờ.

Chúng ta không lạc quan qúa sớm, nhưng qua những cuộc đấu tranh đòi tự do và công lý của giáo dân Hà Nội, những cuộc đấu tranh kiên trì không sợ hãi của dân oan từ Nam chí Bắc bị cướp nhà cướp đất, bản lên tiếng thâu trên 2.000 chữ ký trong vài ngày của trí thức trong nước đòi hỏi nhà nước phải hủy bỏ việc khai thác bauxite ở Tây nguyên, nhất là việc Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất, kêu gọi toàn dân tham gia tháng 5 phản kháng bất bạo động để đòi tự do và phản đối việc để Trung quốc khai thac mỏ bauxite, là những dấu hiệu rất khích lệ cho việc tranh đấu cho tự do, dân chủ, nhân quyền và chủ quyền quốc gia.

Chúng ta hãy tích cực ủng hộ và tham gia các hình thức tranh đấu này trong khi chờ đợi để phát động những hình thức tranh đấu khác. Được như thế, những ngày 30 tháng 4 tương lai sẽ không còn là những kỷ niệm đau buồn, nhưng là kỷ niệm đánh dấu một bước đấu tranh tích cực để chấm dứt một chế độ đã gây bao hệ lụy và tang tóc cho dân và nước Việt Nam suốt 60 năm qua.

Xin thân ái kính chào đồng bào

Mặc Giao
Canada ngày 25/4/2009


Sunday, May 3, 2009

Xin Lỗi, Tôi Là Thằng Hèn ! - Nguyễn Đông Khê


Nguyễn Đông Khê

Xin lỗi trước, tôi là một thằng hèn, quen nói thật. Xin được bắt đầu với bản tin BBC: đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) vừa ra thông báo khẳng định: "Chủ trương thăm dò, khai thác, chế biến bauxite là chủ trương nhất quán từ Ðại hội IX và Ðại hội X của Ðảng đến nay". Và bộ Chính trị chỉ đạo "Tiếp tục thực hiện chủ trương triển khai hai dự án ở Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đăk Nông) do Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam làm chủ đầu tư, chưa chủ trương bán cổ phần cho tổ chức và cá nhân nước ngoài".

Trên giấy trắng mực đen đảng CS tuyên bố “Chưa chủ trương bán cổ phần cho tổ chức và cá nhân nước ngòai,” vậy mà lao động nước ngòai đã tràn ngập trên công trường.

Thế là thế nào? Cái ĐCSVN này lươn lẹo hết chỗ nói, xem thường những cảnh báo của các khoa học gia, chuyên gia, giới trí thức, cũng như khinh thường nhân dân hết cỡ khi họ làm chuyện đã rồi, rồi mới giả vờ ra thông báo cho có lệ! Thật là hết ý! Tại sao đất nước và dân tộc Việt Nam lại ra nông nỗi này? Chẳng qua chỉ vì con người Việt Nam hèn, để mặc cho ĐCSVN tác yêu tác quái kể từ năm 1945 cho đến nay.

Thời buổi xa xưa bị cô lập trong một nhà tù, không sách báo, không radio, không điện thọai, không internet, hoàn toàn không thể liên lạc với thế giới bên ngoài thì đã đành; nhưng kể từ cái ngày ĐCSVN mở cửa từ hậu thập niên 80 cho đến nay, mặc dù ĐCSVN đã tìm mọi cách nhồi sọ, lừa phỉnh, bưng bít, phá rối, ngăn chặn thông tin, dựng bức tường lửa … thì bộ mặt trần truồng giả dối của ĐCSVN đang dần lộ nguyên hình chồn tinh! Thế giới to lớn nay đã trở thành một ngôi làng nhỏ, người ta có phương tiện và biết cách khám phá thực hư, muốn che dấu lấp liếm cũng không tài nào làm được. Cái ĐCSVN gian ngoa quỷ quyệt, có nói không, không nói có, sửa đổi lịch sử, tiền hậu bất nhất, đang làm đầu nậu thu tiền một cách bất nhân bằng cách xuất cảng phụ nữ ra nước ngòai, mãi dâm dưới hình thức kết hôn; làm môi giới xuất cảng lao động ra nước ngoài với giá rẻ mạt, bóc lột tận xương tủy kẻ lỡ dại phóng lao phải theo lao, để rồi đem con bỏ chợ, tiền mất tật mang vì phải vay nợ trả cho chuyến đi tại quê nhà! Luân thường đạo lý bị đảo lộn, chia rẽ tôn giáo với trăm phương nghìn kế thâm độc, ru ngủ và khuyến khích thanh thiếu niên trong nước và Việt kiều hải ngoại mua vui trên thân xác phụ nữ, tệ nạn nạo phá thai nhi lan tràn khắp mọi nơi, chiếm hàng đầu trong danh sách các nước trên toàn thế giới! Đúng là lũ ác ôn côn đồ Việt cộng! Vậy mà cái ĐCSVN vẫn tồn tại cho đến ngày hôm nay! Tại sao? Vì tôi là một thằng hèn, thật là hèn.

Tôi hèn vì tôi không biết đến những trang sử oai hùng của dân tộc Việt, tổ tiên Việt dày công dựng nước và giữ nước để bảo tòan giang sơn gấm vóc. Tôi vẫn cứ để yên cho một thiểu số cầm quyền thậm thụt lén lút nhượng đất, nhượng biển, nhượng chủ quyền cho quan thày phương Bắc, lại còn ngang nhiên để mặc cho giặc Tầu hung hăng mang cờ đại quốc, nghênh ngang hò la đốt đuốc Thế vận hội trên quê hương Việt Nam tựa chỗ không người! ĐCSVN đã ăn phải bả Tầu, lén lút đón rước bọn chúng vào Tây nguyên, trấn giữ yếu huyệt Việt Nam, lấy cớ khai thác Bauxit, bất kể thảm họa tàn phá môi sinh và an ninh quốc phòng:

“Mấy đời bánh đúc có xương,
Mấy đời giặc cướp có thương dân mình!”.

Tôi hèn vì tôi tham sống sợ chết, để mặc cho cái ĐCSVN này cai trị nắm quyền sinh sát trên 85 triệu đồng bào mình, bằng chính sách hộ khẩu, bằng thủ đọan cướp nhà cướp đất, đổi tiền, đánh tư sản mại bản, đi vùng kinh tế mới, cải tạo ngụy quân ngụy quyền … Có nỗi đau nào hơn nỗi đau nước mất nhà tan 30-4-1975, vậy mà tôi đã vội mau quên đi những tháng năm gông cùm tù tội, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc; tôi đã quên đi những đòn thù khủng khiếp trong các trại cải tạo; tôi đã quên đi những đồng đội và những bạn tù đã phải vùi thây nơi rừng thiêng nước độc. Vì hèn nên tôi đành chấp nhận tất cả, chịu đựng tất cả, để được việc cho mình và gia đình mình.

Tôi hèn vì tôi đã mau quên những tháng ngày vượt biên tìm tự do, thập tử nhất sinh trong những cuộc hành trình tìm tự do trên biển cả hay qua đường bộ; tôi đã mau quên những giờ phút cắt ruột chia tay những tưởng không bao giờ còn được gặp lại người thân! Tôi đã không nghĩ đến hàng vạn con người phải vùi thân trên biển cả hay nơi rừng sâu, hàng vạn con người bị sa vào hang ổ ma vương, bị hãm hiếp, tử vong, và để lại nỗi đau triền miên nơi gan ruột những người thân trong gia đình! Đọan trường khổ ài như thế đấy, vậy mà ngay khi vừa đặt chân đến trại tỵ nạn, tôi đã bắt đầu quên đi người vợ đầu ấp tay gối suốt đời chắt chiu tần tảo nuôi chồng nuôi con, tôi quên đi những ngược xuôi trăm cay nghìn đắng đi thăm nuôi chồng tại các trại tù từ Nam ra Bắc; tôi quên đi những hy sinh vô bờ bến của người vợ trong việc thu góp hết tiền bạc nữ trang tìm đường lo cho chồng vượt biên! Rồi khi tôi đã được định cư, biến thành khúc ruột xa ngàn dặm, nghe lời dụ dỗ trở về thăm lại quê hương, tôi đã nhẫn tâm vung tiền mua vui với các thiếu nữ mà tuổi đời chỉ đáng con cháu mình!

Tôi đã mau quên đi hành động tàn ác dã man của bọn thảo khấu và hải tặc Thái Lan, giết người cướp của, thay phiên nhau hãm hiếp các phụ nữ trên những con thuyền vượt biên đầy máu và nước mắt. Tôi đã làm ngơ trước lời kêu gọi đồng bào hải ngoại tẩy chay không mua hàng Thái Lan vào thập niên 80. Tôi đã làm ngơ vì bề dày tinh thần yêu nước thương dân tộc của tôi quá mỏng, không đủ trọng lượng để khiến tôi có thể khước từ việc mua hàng Thái Lan, tôi đã không muốn tham gia việc tẩy chay phản đối chính quyền Thái Lan dung dưỡng và không mạnh tay tiêu diệt bọn hải tặc! Cái gì tiện và lợi cho tôi thì tôi làm, mắc mớ gì mà để ý quan tâm đến chuyện người khác! Tôi đã làm ngơ không biết đến lời hô hào chấm dứt việc nuôi dưỡng chính quyền CSVN, chấm dứt việc gởi tiền về Việt Nam, chấm dứt du lịch về Việt Nam, không đóng góp cho những tổ chức mang danh từ thiện giúp đỡ đồng bào trong nước, nhưng lại làm lợi cho túi tham không đáy của người CS; tiền quốc tế tài trợ lo cho công ích thì họ có trăm phương nghìn kế đục khóet chia chác với nhau, để họ có nhà cao cửa rộng, của chìm của nổi khắp mọi nơi; còn việc giáo dục nâng cao mức sống của đồng bào, giúp đỡ người nghèo, chăm sóc kẻ bệnh họan tật nguyền, thì đã có các tổ chức từ thiện của người Việt hải ngọai đứng ra làm dùm cho họ theo chỉ đạo của hệ thống độc tài độc đảng.

Tôi đã không thể hiểu nổi lá thư chung của Đại hội các Giám mục Việt Nam được viết vào năm 1980, kêu gọi các tín hữu sống phúc âm giữa lòng dân tộc, hay đồng hành với dân tộc. Từ đó đến nay, Việt Nam đã đi vào nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kết quả là giai cấp cầm quyền ngày càng phất lên giàu có một cách bất chính, đang khi tuyệt đại đa số người dân ngày càng nghèo đi. Tôi đã không hiểu nổi cụm từ đồng hành với dân tộc mà các Giám mục Việt Nam đã nhắm đến đối tượng nào, lại càng không hiểu nổi khi Giáo hội Việt Nam thờ ơ không lên tiếng cho đám dân oan, cho người thấp cổ bé miệng nằm la liệt trên hè phố để đòi công bình và công lý tại Hà Nội hay Sài Gòn?!

Tôi đã không hiểu nổi lá thư ngỏ của Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN) được viết vào tháng 10 năm 2002, đã gởi đến “Quý vị lãnh đạo các cơ quan lập pháp của Nhà Nước Việt Nam.” Thư ngỏ đã đưa ra những nhận định nhằm “xoá giảm những khuyết tật của xã hội và phát huy những giá trị nhân bản làm cho con người ngày càng trở nên người hơn.” Vấn đề đã nêu lên trong lá thư còn tồn đọng cho đến ngày nay, ở mức độ nghiêm trọng và rộng lớn hơn rất nhiều! Ngọn lửa đòi công bằng, công lí và sự thật tại tòa Khâm sứ Hà nội đã được thắp sáng, Thái Hà cũng đã tiếp lửa từ đó đến nay, dòng Chúa Cứu thế Việt Nam đã nhập cuộc, nhưng HĐGMVN cho đến hôm nay chỉ đề ra quan điểm, và chưa có được một hành động cụ thể nào!

Đây thời thuận lợi, cơ hội không đến hai lần, lòng căm phẫn của tòan dân Việt Nam đang dâng lên cao trước hành động bán nước của nhà cầm quyền Hà Nội. ĐCSVN đang “cõng rắn cắn gà nhà,” ngậm miệng ăn tiền để được vinh thân phì gia, duy trì địa vị độc tôn, bất chấp làn sóng phản đối quyết liệt của đại đa số người dân Việt. HĐGMVN có dám lên tiếng dứt khóat đứng về phía dân tộc Việt Nam hay không? HĐGMVN có dám thực hiện vai trò lịch sử của mình hay không? HĐGMVN có dám đứng lên triệu tập Hội nghị Diên Hồng trên tầm mức cả nước, nối tiếp ngọn lửa Thái Hà đòi hỏi công bằng, công lí và sự thật hay không? HĐGMVN có dám đòi hỏi nhà cầm quyền CS phải trả lại lẽ công bình cho toàn dân Việt hay không? "Của Cesar phải trả cho Cesar," của dân tộc Việt phải trả cho dân tộc Việt. Là người Việt Nam yêu nước thương nòi, không một ai có thể im hơi lặng tiếng để mặc cho ĐCSVN, là một thiểu số cầm quyền được quyền “mãi quốc cầu vinh” dâng đất dâng biển, triều cống tài nguyên thiên nhiên cho giặc Tầu khai khác, bất chấp hậu quả khôn lường di hại cho dân tộc Việt. HĐGMVN chẳng lẽ để mặc cho nước Việt Nam phải chung một cảnh ngộ đau thương như dân tộc Tây Tạng hay sao?!

Kể từ ngày ĐCSVN lên nắm quyền cai trị, chính sách tôn giáo của bọn chúng luôn vẫn là chia để trị. Chúng cho phép người của giáo hội công giáo được tự do xuất ngọai đi họp hay đi tu nghiệp nước ngòai, cho phép đi gây quĩ xây dựng nhà thờ hòanh tráng khắp mọi nơi, để vừa được chấm mút chia chác, vừa gây ấn tượng cho thế giới bên ngòai, làm bình phong che lấp mọi mưu toan gian tà, xâm nhập và gài người lũng đọan nội bộ tôn giáo. ĐCSVN cho phép xuất ngoại gây quỹ từ thiện, cho phép được tấn phong giám mục và linh mục, cho phép mở cửa chủng viện, tu viện, cho phép thâu nhận chủng sinh tu sĩ.

Những đặc quyền đặc lợi ấy là miếng mồi ngon khó chối từ, có lợi cho giáo hội Viêt Nam trong việc huấn luyện và đào tạo nhân sự. Đấy là miếng mồi ngon do ĐCSVN đã và đang ban phát cho giáo hội, gần đây nhất là việc trao trả 340,000 mét vuông để xây dựng Trung tâm Thánh mẫu La Vang ở Quảng Trị, và trong đại hội kỳ I-2009 được tổ chức từ ngày 13-17 tháng 4 năm 2009 vừa qua tại Bãi Dâu Vũng Tàu, HĐGMVN đã không một lời lên tiếng thay cho tòan dân Việt trước thảm họa Bauxit, không dám lên tiếng đòi hỏi nhà cầm quyền CS phải thực thi công bình, công lý và sự thật cho toàn dân Việt! Đã nhận thì phải nhịn, hay tại nội bộ đã sẵn có người được cài đặt nên không dám mạnh dạn lên tiếng đứng về phía dân nghèo chịu áp bức, không dám có hành động cụ thể đứng về phía dân tộc để bảo vệ công bình, công lý và sự thật? Mười cân lý thuyết không bằng một cân thực hành! HĐGMVN cần đến một hành động cụ thể để minh chứng giáo hội Viêt Nam đang đồng hành với dân tộc Việt Nam! Phải hiểu ra sao về quan điểm của HĐGMVN trước đây: “Vui mừng và hy vọng, âu sầu và lo lắng của người dân Việt Nam cũng là vui mừng và hy vọng, âu sầu và lo lắng của chúng tôi, các Giám mục của HĐGMVN. Giáo hội không có chức năng làm chính trị, nhưng Giáo hội không đứng bên lề chính trị.”

Biết đến bao giờ dân tộc Việt Nam mới có được bậc minh quân, ngòai đời cũng như trong đạo? Cũng vì không có minh quân nên thân phận và con người Việt Nam phải trôi dạt trên tòan thế giới, hay đang chịu gông cùm và nhân phẩm nhân quyền bị chà đạp tận đất đen! Có dân tộc nào trên thế giới lại khốn khổ đau thương như dân tộc Việt Nam? Trẻ em và phụ nữ phải lưu lạc tha phương khắp nơi kiếm sống bằng chính thân xác mình? Hiện tượng tuổi trẻ uống rượu quên sầu, say sưa chè chén, đua đòi ăn chơi sống buông thả bất cần đời, đã biến con người Việt Nam thành những thằng hèn, theo mô hình đỉnh cao xã hội chủ nghĩa! Tội nghiệp thay! Tập thể người Việt Nam, bao gồm các tổ chức, đòan thể, tôn giáo, cho đến bao giờ mới có thể đồng thuận ngồi lại cộng tác với nhau vì đại sự, vì lợi ích chung cho tòan dân tộc? Đã đến lúc phải nhập cuộc đồng hành với dân tộc Việt Nam, xóa bỏ cái ác đang ngự trị trên quê hương Việt Nam. Những con én tiêu biểu như Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Đan Quế, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, linh mục Nguyễn Văn Lý, linh mục Nguyễn Văn Khải, tổng giám mục Ngô Quang Kiệt … chưa thể làm nên mùa Xuân cho dân tộc Việt, nhưng đấy là những viên đá hiếm quý lót đường cho tương lai một nước Việt Nam dân chủ, tự do và nhân quyền. Ngày tàn của ĐCSVN không còn xa, vì hành động bọn chúng đã và đang làm đã đến mức cùng cực, mà “cùng tắc biến”. Tội ác và sự ngu xuẩn của ĐCSVN qua kế hoạch khai thác Bauxit rước voi về dày xéo quê cha đất tổ là hết cỡ rồi.

“Toàn dân nghe chăng, sơn hà nguy biến!” Đồng bào ơi! Giờ hành động nay đã điểm: ngọn lửa Thái Hà, Ba Giang … cần được thắp sáng lên trên khắp ba miền Trung Nam Bắc. Ngọn lửa “bất tuân dân sự” của Hòa Thượng Thích Quảng Độ đã thắp lên. HĐGMVN còn đợi gì mà không tham gia nhập cuộc? HĐGMVN còn đợi gì mà không lên tiếng kêu mời con dân Việt Nam đồng loạt thắp lửa tại mỗi tư gia, thắp lửa tại mỗi nhà thờ, trên khắp đất nước Việt Nam? Đồng bào ơi, chúng ta cương quyết đòi cho được công bằng, công lý và sự thật, trả lại cho người dân Việt. Dối trá lọc lừa nay đã quá đủ! Kể từ năm 1945 cho đến nay, người dân Việt chưa hề sống cuộc sống của con người. ĐCSVN đã bịt tai, bịt mắt, bịt miệng nhân dân đã trên 55 ròng rã! Đất nước và dân tộc Việt Nam chịu đọa đày ô nhục đã đủ rồi!

Công bằng, công lý và sự thật phải được trả về cho dân tộc Việt; đồng một lòng chúng ta tập trung cầu nguyện, một lòng thắp lửa hành động vào mỗi chiều thứ Bảy, kéo dài sang ngày Chủ nhật, tại từng xứ đạo, tại mỗi nhà thờ, tại mỗi ngôi chùa, tại mỗi thánh thất, tại mỗi thành phố … khắp nơi trên cả nước Việt Nam. Lực lượng công an nào đàn áp cho nổi? Súng đạn nào có thể bắn giết, nhà tù nào có thể chứa được hàng vạn hàng triệu con người đồng lọat tham gia thắp nến?! Thà chết vinh hơn sống nhục! Sao dân tộc tôi lại phải nhẫn nhục chịu đựng để kẻ ác cầm quyền tác oai tác quái trên 55 năm nay? Sao dân tộc tôi vẫn tiếp tục im hơi lặng tiếng trước mưu ma chước quỉ của bọn cầm quyền CS, độc quyền cai trị để tiếp tục làm giàu trên nỗi thống khổ và mất mát triền miên của người dân thấp cổ bé miệng?

“Tham sinh úy tử” thuộc bản tánh tự nhiên của con người! Nhưng, sợ chết, sợ tù đày, sợ mất mát, mà không dám đứng lên tiêu diệt sự ác, không dám nói lên sự thật, không dám thắp lên ngọn lửa Thái Hà trên quê hương Việt Nam, thì cái tôi của mỗi người Việt Nam, cái tôi của tập thể Việt Nam, cái tôi của tôn giáo Việt Nam đúng là một thằng hèn. Hỡi ơi, khi tôi chết, xin đừng ai dư nước mắt tiếc thương cho một thằng hèn như tôi, vì tôi đã chết mà vẫn thở tự lâu rồi!

Nguyễn Đông-Khê
Đầu tháng Năm 2009


TRỊNH CÔNG SƠN DÙ TÀI HOA CŨNG LÀ PHƯỜNG HẠI DÂN! - Nguyễn-Công-Chính

    Vinh Danh Trịnh Công Sơn (?)
    TRỊNH CÔNG SƠN DÙ TÀI HOA CŨNG LÀ PHƯỜNG HẠI DÂN!
Nguyễn-Công-Chính

Trịnh Công Sơn, sinh ra và lớn lên tại Miền Nam Tự Do. Thời thanh xuân, thập niên 1960, ông đã có những bản tình ca ướt át, ủy mị được nhiều thanh niên tuồi yêu đương ưa thích và hâm mộ.

Thuở ấy, nhạc của TCS bình dị, gần gũi với tâm tư tình cảm của thanh niên, thiếu nữ mới bước vào thế giới của tình yêu; lời ca của TCS có tính chất huyễn hoặc, đưa người nghe đến những chốn mơ hồ, gọi mời vào mộng mị... của “đường phượng bay”, của “mưa giăng trên thành phố” của “ngày em đi, biển nhớ tên em gọi về”, của “tình ngỡ đã quên đi, nhưng...”, của “rừng thu trút lá, em vẫn chưa về” vân vân.

Thuở ấy, TCS là thần tượng của những tâm hồn lãng mạn ủy mị, nhạc của TSC đã được giọng ca điêu luyện của Khánh Ly truyền đạt, diễn tả và ông đã nổi tiếng về nhạc trữ tình. Hầu như khắp nơi tại miền Nam Tự Do, nhạc tình của TCS được phổ biến một cách rộng rãi trong các Phòng Trà, các Nhạc Hội Chủ đề, được in, được thu băng để phát hành.

Nhưng không hiểu vì sao, vào những năm 1962, 1963 Trịnh Công Sơn rời bỏ nhạc tình của thuở ấy để viết nhạc phản chiến một chiều, chống lại cuộc chiến đấu tự vệ của quân dân Việt Nam Cộng Hòa, ngăn làn sóng đỏ của Cộng sản Bắc Việt đang ồ ạt tràn qua vĩ truyến 17, xâm lăng miền Nam.

Rồi trong Biến Cố Mậu Thân tại Huế, khi Việt Cộng sát hại hơn bốn ngàn thường dân, Trịnh Công Sơn không một mảy may xúc động, ôm đàn “lên đồi cao hát trên những xác người”. Ông hát về “đại bác ru đêm vọng vào thành phố, người phu quét đường dừng chổi đứng nghe” nhưng ông không hát về những cuộc pháo kích của Việt Cộng vào thành phố, hỏa tiễn Liên Xô sát hại lương dân tại Huế và nhiều thành phố khác.

Nhiều người miền Nam, đặc biệt là các chiến sĩ nơi các tiền đồn đã bắt đầu linh cảm có một cái gì đó không được tốt lành trong nhạc và lời của Trịnh Công Sơn, họ dần dần xa lánh con người phản chiến một chiều này. Tuy vậy, hầu như, người miền Nam Tự Do, không ai coi Trịnh Công Sơn là kẻ thù, mặc dầu nhạc phản chiến của ông đâm sau lưng chiến sĩ, đánh vào chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.

ÐỐ AI BIẾT ÐƯỢC?

Người dân bình thường, một số giới chức chính quyền miền Nam đã coi việc TCS làm nhạc phản chiến chỉ là do tâm hồn nghệ sĩ mà thôi, Trịnh Cộng Sơn vẫn là người quốc gia. Có lẽ ngoài cơ quan an ninh và tình báo Việt Nam Cộng Hòa mới biết được thực sự TCS là người như thế nào. Ngoài ra, đố ai biết được?

Ðố ai biết được từ “Thuở ấy” nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng vào hát và sinh hoạt với Việt Cộng trong các chiến khu quanh vùng Sài Gòn!

Trong tập bút ký “Trịnh Công Sơn, có một thời như thế” chính nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã thuật lại các chuyến “ra mật khu Việt cộng” như sau:

“Thuở ấy Nhị Xuân, em ở nông trường, em ra biên giới

“Ðêm Nhị Xuân không còn thấy rõ màu đất đỏ và những bãi mía, bãi dứa cùng lán trại cũng khoác một màu áo khác. Mưa xuống. Hội trường dã chiến như một cái rá lọc nước thả xuống những giọt dài. Chúng tôi (Phạm Trọng Cầu, Trần Long Ẩn và tôi ...) cùng anh em Thanh niên Xung phong nam nữ hát với nhau dưới một bầu trời được trang trí lạ mắt như thế. Ðêm cứ dài ra và những tiếng hát cứ dài ra. Nước ở con kênh dâng lên. Mặc kệ. Cứ đứng, cứ ngồi, cứ hát. Gần khuya có cô gái Thanh niên Xung phong nhanh nhẹn vui tươi mang cho cho chúng tôi những bát cháo gà trước khi chia tay. Những khuôn mặt ấy, tôi đã quen đã nhìn thấy nhiều lần. Một giờ khuya, lên xe giã từ Nhị Xuân, lòng còn âm vang tiếng cười, tiếng hát. Những bàn tay siết chặt, những cái vẫy trong đêm không nhìn thấy. Quá giờ giới nghiêm, xe dừng lại giữa đường, không được vào thành phố. Ngủ lại chờ sáng về lại thành phố, trở lại công việc thường ngày. Nhưng ở Nhị Xuân, có hai mươi người con gái Thanh niên Xung phong đi về phía khác. Mấy tháng sau, tôi được tin tất cả hai mươi khuôn mặt tôi đã nhìn, đã gặp đêm hôm nào ở Nhị Xuân cùng nhau ca hát, đã hy sinh ở biên giới Tây Nam. Những tiếng hát giọng cười còn đó. Những cây mía cây dứa các bạn trồng vẫn còn đó, vẫn lớn lên ...” (ngưng trích)

Với truyền thống “Liên tài” tức là “thương xót kẻ tài hoa” người miền Nam, gồm cả cơ quan an ninh, đã để cho nhạc sĩ TCS đi về thoải mái, không bắt bớ giam giữ gì.

Chân tướng, khuôn mặt thật của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã lộ rõ trong ngày quân cộng sản Bắc Viết tiến vào chiếm Thủ Ðô Sài Gòn của Việt Nam Cộng Hòa.

“Vào ngày 30- 4-1975, Trịnh Công Sơn đã lớn tiếng minh định anh ta không phải là người Quốc Gia khi hát bài Nối Vòng Tay Lớn trên đài phát thanh Sàigon để “chào mừng cách mạng thành công ” vào lúc xe tăng CS Bắc Việt vừa tới dinh Ðộc Lập! Trong lúc Trịnh Công Sơn hát “Nối Vòng Tay Lớn” thì nhân dân Sài Gòn đang nối đuôi nhau chạy trốn cộng sản dưới mưa đạn pháo kích do xe tăng và đại bác quân Bắc Việt dội vào thành phố làm sập nhà và chết người.

TRỊNH CÔNG SƠN HIỆN NGUYÊN HÌNH CỘNG SẢN


“Sau năm 1975, để xác định lập trường, Trịnh Công Sơn đã dũng cảm đốt cháy danh dự và tư cách của một nghệ sĩ qua những sáng tác “Huyền Thoại Mẹ”, “Em Nông Trường Em Ra Biên Giới”, “Ra Chợ Ngày Thống Nhất”, “Ánh Sáng Mạc Tư Khoa”...

“Chừng đó cũng đã quá đủ để chứng minh con người của Trịnh Công Sơn là một Tên Cộng Sản Nằm Vùng! Ðúng như thế, trong suốt chiều dài cuộc chiến Việt Nam, Trịnh Công Sơn đã xác định chỗ đứng của mình rất rõ ràng. Ông ở Sài Gòn nhưng đã đứng hẳn bên kia chiến tuyến, về phía Cộng Sản Hà Nội để đánh phá chính quyền và quân đội Miền Nam! Ông đã hiện nguyên hình một tên Cộng Sản Nằm Vùng, đâm sau lưng chiến sĩ, còn nguy hiểm gấp trăm ngàn lần những tên Cán Binh Việt Cộng cầm AK trực diện với chúng ta ngoài mặt trận.

“Lý Quý Chung, một nhà báo và là một dân biểu Việt Nam Cộng Hòa, sau ngày 30-4-1975 đã chính thức phô bày bộ mặt thật, có viết về hai chữ “gia nô” như sau:

- Ở miền Nam trước 1975, một người chỉ cần nói đọc báo nào, nghe nhạc gì thì biết ngay người đó là ai, thái độ của người đó đối với chế độ Thiệu và người Mỹ như thế nào và thái độ của người đó đối với cuộc chiến tranh ra sao? Có báo “ gia nô” (đó là cách gọi của người Sài Gòn trước 1975 đối với loại báo chí của chính quyền Thiệu hoặc theo phe Thiệu ).... ( TCS MTNT tr. 210).

TRỊNH CÔNG SƠN ÐÃ TRỞ THÀNH GIA NÔ CỦA SÁU DÂN VÕ VĂN KIỆT

“Bài viết của Nguyễn Quang Sáng ghi lại nguyên nhân ra đời của hai bản nhạc “Em còn nhớ hay em đã quên” và “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”. Nguyễn Quang Sáng cho biết anh Sáu Dân Võ Văn Kiệt chỉ mới nói vài lời mà Trịnh Công Sơn đã lãnh hội được ý của anh Sáu muốn cái gì và Sơn tự biết mình phải làm cái gì !

Nói theo cách của Lý Quý Chung, đây đúng là hành vi của một “gia nô”. Thiên tài âm nhạc Trịnh Công Sơn sau 1975 đã tự biến hình thành một nhạc - nô viết nhạc theo ý muốn của “trên” để đáp ứng cho nhu cầu tuyên truyền.

Trịnh Công Sơn đã được Thủ Tướng Cộng sản Võ Văn Kiệt ưu đãi về vật chất, thường mang rượu Tây, rượu Mỹ, rượu Tàu đến tặng cho TCS. Mỗi lần có bạn văn nghệ sĩ đến nhà, TCS thường mời họ uống rượu, trước khi mở chai, TCS thường đố anh em “ai biết chai rượu này từ đâu đến?”. Rồi ông tự trả lời là từ “anh Sáu Dân” hay từ đồng chí Bí Thư Thành Ủy vân vân.

“Cũng qua bài viết của Nguyễn Quang Sáng, độc giả còn được nhìn thấy cung cách và thái độ của thiên tài âm nhạc họ Trịnh đối với anh Sáu Dân Võ Văn Kiệt. Cái thái độ ấy phải gọi thế nào cho đúng? Bưng bô? Liếm gót?

TRỊNH CÔNG SƠN VÀ GIỌNG ÐIỆU CỦA CÁN BỘ TUYÊN TRUYỀN VIỆT CỘNG

Nhà Văn Nguyễn Quang Sáng viết tiếp:

“Riêng cái cung cách của một cán bộ tuyên truyền thì được Trịnh Công Sơn thể hiện rất rõ qua những lời sau đây: “việc in ấn càng lúc càng khó khăn, nhất là sau khi có lệnh tịch thu của chính quyền Nguyễn văn Thiệu toàn bộ các tập ca khúc và băng nhạc của tôi ... phải rải ra trong ba bốn nhà in khác nhau ... chuyện đi đứng không phải dễ dàng ... đi từ một nhà in ở Sàigòn đến một nhà in ở vùng Chợ Lớn phải qua biết bao nhiêu là trạm xét hỏi ....”

“Nếu chính quyền Nguyễn văn Thiệu tịch thu toàn bộ các tập ca khúc và băng nhạc của Trịnh Công Sơn, thì chính quyền nào cấp giấy thông hành cho ca sĩ Khánh Ly sang Nhật hát bản “Diễm Xưa của họ Trịnh tại hội chợ quốc tế Expo Osaka năm 1970? Chẳng lẽ đó là chính quyền Hà Nội?

“Nếu chính quyền ông Thiệu ra lệnh tịch thu toàn bộ các tập ca khúc, thì tại sao các tập ca khúc của Trịnh Công Sơn với hình bìa do Trịnh Cung, Ðinh Cường vẽ, vẫn được bày bán công khai tại các nhà sách ở Sài Gòn, ai muốn mua bao nhiêu cũng có?

Nếu chính quyền ông Thiệu tịch thu toàn bộ băng nhạc thì tại sao “nhạc Trịnh” vẫn vang dội tại các quán cà phê ở Sài Gòn, tại các câu lạc bộ quân trường? Khánh Ly vẫn nhởn nhơ trình diễn nhạc Trịnh tại Queen Bee hàng đêm, và nhạc Trịnh vẫn được hát tại câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc trong trại Phi Long - Tân Sơn Nhất vào mỗi cuối tuần?

Và đây mới là chuyện lạ bốn phương: “đi từ một nhà in ở Sài Gòn đến một nhà in ở vùng Chợ Lớn phải qua biết bao nhiêu là trạm xét hỏi ...” Ðây là thời điểm nào? Trước 30 tháng 4 năm 75 hay sau ngày “giải phóng”?

TRỊNH CÔNG SƠN KHÔNG CÒN XỨNG ÐÁNG ÐỂ VINH DANH!

“Theo chúng tôi được biết, về sau, để trả công lao cho tên nhạc sĩ năm vùng này, Hà Nội đã cho Trịnh Công Sơn đi thăm Mạc Tư Khoa, tại cái nôi vô sản này của thế giới cộng sản, Trịnh Công Sơn đã lần đến lăng Lenin và sáng tác nhạc phẩm “Ánh Sáng Mạc Tư Khoa”. Về lại Hà Nội, bài này được hát trên đài vài hôm thì biến động ở Nga xẩy ra, và sau đó, đế quốc Liên Sô sụp đổ, “Ánh Sáng Mạc Tư Khoa” cũng theo đó mà chìm vào đêm tối thiên thu.

“Sau khi chúng tôi đưa ra ánh sáng về trường hợp Trịnh Công Sơn, không biết những ai từng là nạn nhân của cộng sản, có thấy lương tâm vẩn đục khi vẫn còn coi Trịnh Công Sơn là thần tượng, trong những chương trình hát theo đĩa, trong băng nhạc, trong âm thanh. Người ta sẽ thật vô tình khi vẫn để Trịnh Công Sơn ngồi chễm chệ trên nỗi đau của mình mà không biết tủi nhục.” (Trần Quan Long & Bắc Phong Sài Gòn).

Kết luận:

Những người mở tiệc Vinh Danh Trịnh Công Sơn tại Sacramento ngày 24 tháng 4 năm 2009 là những kẻ cố ý hay vô tình “vẫn để Trịnh Công Sơn ngồi chễm chệ trên nỗi đau của mình mà không biết tủi nhục.”

Vinh danh Trịnh Công Sơn là chà đạp lên những oan hồn của nhân dân và chiến sĩ miền Nam Việt Nam đang phảng phất không nguôi về sự phản bội của một nhạc sĩ đã đem tài năng của mình phục vụ loài quỷ dữ tàn hại quê hương, đọa đày dân tộc Việt.

Nguyễn-Công-Chính


Tưỏng niệm Tháng Tư Đen - Gs Nguyễn Thanh Liêm


Kính chuyển đến quý vị và các bạn ở Việt Nam lời nhận định tâm tình của Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm, nguyên là Hiệu Trưởng Trường Trung Học Petrus Ký ở miền Nam trước 1975, cựu Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên Việt Nam Cộng Hòa. Hiện nay Gs Thanh Liêm là Chủ Tịch Lăng Ông Lê Văn Duyệt Foundation tại Hoa Kỳ.



KÍNH NHỜ CHUYỂN TIN VỀ VIỆT NAM

TƯỞNG NIỆM THÁNG TƯ ĐEN

Gs Nguyễn Thanh Liêm

(quý vị bấm nghe âm thanh)

http://audio.freevietnews.com/20090502gs_nguyenthanhliem.m3u



Hoa Kỳ ngày 2/5/2009


Thưa Quý Đồng Hương,


Người dân Việt không cộng sản không bao giờ quên được hình ảnh hãi hùng của Tháng Tư Đen. Tháng Tư năm 1975 là tháng đen tối nhất trong lịch sử nước nhà. Đó là tháng mà Cộng Sản Bắc Việt xua quân vào xâm chiếm Miền Nam tự do, gây chết chóc, khốn khổ cho bao nhiêu triệu người vốn chỉ muốn được sống bình yên hạnh phúc nơi quê hương xứ sở của mình.

Bỏ tù, áp bức, cướp của, đày đoạ người dân vào cảnh khốn cùng. Biết bao nhiêu người phải lìa bỏ quê hương ra đi tìm tự do, tìm cái sống còn trong cái chết. Ai cũng có người thân, bạn bè, bà con đi tù cộng sản, khổ sờ hay chết trong ngục tù, hay bỏ xứ ra đi chết ngoài biển cả. Ai ai cũng là nạn nhân của chủ nghĩa, của chế độ cộng sản Hà Nội.


Hơn ba mươi năm qua rồi, người dân Việt ở trong nước mỗi ngày một khốn khổ hơn dưới ách thống trị độc tài của Đảng Cộng Sản. Trong khi những đảng viên cộng sản và thân nhân của họ tích lũy của cải, làm giàu kinh khủng trên mồ hôi, nước mắt của dân đen, thì bao nhiêu ngàn cây số vuông đất liền và mặt bể đã được nhường cho Trung Cộng. Hoàng Sa, Trường Sa và cả vùng biển Đông không còn là của Việt Nam nữa. Tây Nguyên rộng lớn, phì nhiêu, xương sống quan trọng của Việt Miên Lào đã vào tay các chiến lược gia kinh tế/quân sự Trung Quốc.


Bao nhiêu học sinh ở vùng đồng bằng sông Cửu Long bỏ học vì phụ huynh không có tiền đóng học phí cho trường. Bao nhiêu thanh thiếu nữ rời bỏ làng quê đi bán mình ở các nhà thổ, hay làm vợ ngoại bang kiếm tiền nuôi gia đình. Bao nhiêu người dân mất đất kéo nhau đi khiếu kiện năm này qua tháng nọ, chẳng được ai giải quyết cho.


Bao nhiêu công nhân viên khổ nhục với đồng lương chết đói, bị nhà nước chèn ép để làm vừa lòng các chủ nhân ngoại quốc. Bao nhiêu người đấu tranh cho tự do dân chủ bị vào tù, vì những tội do công an vu khống. Bao nhiêu nhà tu, nhà lãnh đạo tôn giáo chân chánh bị giam lỏng hay ngồi tù. Hơn bảy mươi phần trăm dân chúng sống trong thiếu thốn đói nghèo.


Là nạn nhân của cộng sản chúng ta nhớ mãi tháng Tư đen tối của lịch sử. Nhớ Tháng Tư Đen là nhớ đến sự tàn độc, sự sai lầm, tham vọng bành trướng, áp bức thống trị, gây tang thương cho nhân loại ở khắp nơi trên thế giới. Nhớ đến Tháng Tư Đen là nhớ đến chủ nghĩa cộng sản vô nhân đạo, phi nhân bản, độc tài, tàn bạo, đi ngược lại tinh thần yêu chuộng tự do, dân chủ, nhân bản của con người.


Nhớ như vậy để đừng chấp nhận chủ nghĩa cộng sản, đừng tôn sùng các anh hùng cộng sản như Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, đừng đề cao cờ đỏ sao vàng. Đừng để cộng sản dụ dỗ, lợi dụng lòng yêu nước, tình thương dân tộc và quê hương xứ sở của mình. Màu đỏ là màu máu, cờ đỏ là cờ máu, người cộng sản xăm chiếm, cai trị bằng máu của dân. Cộng sản không hề lo cho dân, không hề phụng sự cho quốc gia dân tộc. Ngược lại cộng sản chỉ dùng quốc gia và nhân dân như những phương tiện phục vụ cho Đảng, hay những đảng viên cộng sản mà thôi.


Nhưng tưởng nhớ Tháng Tư Đen không phải chỉ để thương khóc những tai ương đã qua, đã trở thành lịch sử. Tưởng niệm Tháng Tư Đen còn là một cố gắng hướng đến tương lai, xây dựng một cái gì tốt đẹp, có ý nghĩa và có ích lợi cho quốc gia dân tộc. Chúng ta hãy nghĩ đến việc xây dựng một con người Việt Nam có tinh thần nhân bản, khoa học, tự do, vị tha, đạo đức, khác hẳn con người cộng sản.


Chúng ta hãy chung sức đấu tranh bền bĩ, bất bạo động, cho dân chủ, tự do, cho một nền văn hoá nhân bản đạo đức, có tinh thần dân tộc và khoa học. Văn hoá tốt đẹp của người Việt từ xưa đã bị chế độ cộng sản xoá bỏ để thay thế bằng văn hoá mác xít. Chúng ta hãy góp sức bảo tồn và phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của người Việt Nam , mà ông cha chúng ta đã khổ công xây đắp.


Những người lớn tuổi, những người của thế hệ một tị nạn cộng sản ngày nay chẳng còn được bao nhiêu, và chẳng còn bao lâu nữa trên cõi đời này. Ước vọng của họ là được thấy các thế hệ tiếp nối, giữ vững căn cước quốc gia với cờ vàng ba sọc đỏ, với truyền thống tốt đẹp của nền văn hoá nhân bản dân tộc của người Việt tự do để ngày nào đó trong tương lai sẽ đem vinh quang về cho xứ sở.


Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm

Hoa Kỳ ngày 2/5/2009

(quý vị bấm nghe âm thanh)

http://audio.freevietnews.com/20090502gs_nguyenthanhliem.m3u


Đ
ể đánh dấu ngày 30-4-1975 miền Nam rơi vào chế độ cộng sản tàn bạo, để yểm trợ đồng bào quốc nội đấu tranh cứu nước, chúng tôi sẽ lần lượt chuyển đến quý vị và các bạn ở quốc nội một số AUDIO
chọn lọc từ Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn Cộng Sản ở Hải Ngoại, nhận địnhtâm tình với quý đồng bào thân thương ở Việt Nam.


Kính nhờ phổ biến rộng rãi qua mạng lưới thông tin toàn cầu Internet, Emails, Websites, Blogs, Paltalk, e-groups, Radio Báo online.....