Sunday, May 3, 2009

TRỊNH CÔNG SƠN DÙ TÀI HOA CŨNG LÀ PHƯỜNG HẠI DÂN! - Nguyễn-Công-Chính

    Vinh Danh Trịnh Công Sơn (?)
    TRỊNH CÔNG SƠN DÙ TÀI HOA CŨNG LÀ PHƯỜNG HẠI DÂN!
Nguyễn-Công-Chính

Trịnh Công Sơn, sinh ra và lớn lên tại Miền Nam Tự Do. Thời thanh xuân, thập niên 1960, ông đã có những bản tình ca ướt át, ủy mị được nhiều thanh niên tuồi yêu đương ưa thích và hâm mộ.

Thuở ấy, nhạc của TCS bình dị, gần gũi với tâm tư tình cảm của thanh niên, thiếu nữ mới bước vào thế giới của tình yêu; lời ca của TCS có tính chất huyễn hoặc, đưa người nghe đến những chốn mơ hồ, gọi mời vào mộng mị... của “đường phượng bay”, của “mưa giăng trên thành phố” của “ngày em đi, biển nhớ tên em gọi về”, của “tình ngỡ đã quên đi, nhưng...”, của “rừng thu trút lá, em vẫn chưa về” vân vân.

Thuở ấy, TCS là thần tượng của những tâm hồn lãng mạn ủy mị, nhạc của TSC đã được giọng ca điêu luyện của Khánh Ly truyền đạt, diễn tả và ông đã nổi tiếng về nhạc trữ tình. Hầu như khắp nơi tại miền Nam Tự Do, nhạc tình của TCS được phổ biến một cách rộng rãi trong các Phòng Trà, các Nhạc Hội Chủ đề, được in, được thu băng để phát hành.

Nhưng không hiểu vì sao, vào những năm 1962, 1963 Trịnh Công Sơn rời bỏ nhạc tình của thuở ấy để viết nhạc phản chiến một chiều, chống lại cuộc chiến đấu tự vệ của quân dân Việt Nam Cộng Hòa, ngăn làn sóng đỏ của Cộng sản Bắc Việt đang ồ ạt tràn qua vĩ truyến 17, xâm lăng miền Nam.

Rồi trong Biến Cố Mậu Thân tại Huế, khi Việt Cộng sát hại hơn bốn ngàn thường dân, Trịnh Công Sơn không một mảy may xúc động, ôm đàn “lên đồi cao hát trên những xác người”. Ông hát về “đại bác ru đêm vọng vào thành phố, người phu quét đường dừng chổi đứng nghe” nhưng ông không hát về những cuộc pháo kích của Việt Cộng vào thành phố, hỏa tiễn Liên Xô sát hại lương dân tại Huế và nhiều thành phố khác.

Nhiều người miền Nam, đặc biệt là các chiến sĩ nơi các tiền đồn đã bắt đầu linh cảm có một cái gì đó không được tốt lành trong nhạc và lời của Trịnh Công Sơn, họ dần dần xa lánh con người phản chiến một chiều này. Tuy vậy, hầu như, người miền Nam Tự Do, không ai coi Trịnh Công Sơn là kẻ thù, mặc dầu nhạc phản chiến của ông đâm sau lưng chiến sĩ, đánh vào chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.

ÐỐ AI BIẾT ÐƯỢC?

Người dân bình thường, một số giới chức chính quyền miền Nam đã coi việc TCS làm nhạc phản chiến chỉ là do tâm hồn nghệ sĩ mà thôi, Trịnh Cộng Sơn vẫn là người quốc gia. Có lẽ ngoài cơ quan an ninh và tình báo Việt Nam Cộng Hòa mới biết được thực sự TCS là người như thế nào. Ngoài ra, đố ai biết được?

Ðố ai biết được từ “Thuở ấy” nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng vào hát và sinh hoạt với Việt Cộng trong các chiến khu quanh vùng Sài Gòn!

Trong tập bút ký “Trịnh Công Sơn, có một thời như thế” chính nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã thuật lại các chuyến “ra mật khu Việt cộng” như sau:

“Thuở ấy Nhị Xuân, em ở nông trường, em ra biên giới

“Ðêm Nhị Xuân không còn thấy rõ màu đất đỏ và những bãi mía, bãi dứa cùng lán trại cũng khoác một màu áo khác. Mưa xuống. Hội trường dã chiến như một cái rá lọc nước thả xuống những giọt dài. Chúng tôi (Phạm Trọng Cầu, Trần Long Ẩn và tôi ...) cùng anh em Thanh niên Xung phong nam nữ hát với nhau dưới một bầu trời được trang trí lạ mắt như thế. Ðêm cứ dài ra và những tiếng hát cứ dài ra. Nước ở con kênh dâng lên. Mặc kệ. Cứ đứng, cứ ngồi, cứ hát. Gần khuya có cô gái Thanh niên Xung phong nhanh nhẹn vui tươi mang cho cho chúng tôi những bát cháo gà trước khi chia tay. Những khuôn mặt ấy, tôi đã quen đã nhìn thấy nhiều lần. Một giờ khuya, lên xe giã từ Nhị Xuân, lòng còn âm vang tiếng cười, tiếng hát. Những bàn tay siết chặt, những cái vẫy trong đêm không nhìn thấy. Quá giờ giới nghiêm, xe dừng lại giữa đường, không được vào thành phố. Ngủ lại chờ sáng về lại thành phố, trở lại công việc thường ngày. Nhưng ở Nhị Xuân, có hai mươi người con gái Thanh niên Xung phong đi về phía khác. Mấy tháng sau, tôi được tin tất cả hai mươi khuôn mặt tôi đã nhìn, đã gặp đêm hôm nào ở Nhị Xuân cùng nhau ca hát, đã hy sinh ở biên giới Tây Nam. Những tiếng hát giọng cười còn đó. Những cây mía cây dứa các bạn trồng vẫn còn đó, vẫn lớn lên ...” (ngưng trích)

Với truyền thống “Liên tài” tức là “thương xót kẻ tài hoa” người miền Nam, gồm cả cơ quan an ninh, đã để cho nhạc sĩ TCS đi về thoải mái, không bắt bớ giam giữ gì.

Chân tướng, khuôn mặt thật của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã lộ rõ trong ngày quân cộng sản Bắc Viết tiến vào chiếm Thủ Ðô Sài Gòn của Việt Nam Cộng Hòa.

“Vào ngày 30- 4-1975, Trịnh Công Sơn đã lớn tiếng minh định anh ta không phải là người Quốc Gia khi hát bài Nối Vòng Tay Lớn trên đài phát thanh Sàigon để “chào mừng cách mạng thành công ” vào lúc xe tăng CS Bắc Việt vừa tới dinh Ðộc Lập! Trong lúc Trịnh Công Sơn hát “Nối Vòng Tay Lớn” thì nhân dân Sài Gòn đang nối đuôi nhau chạy trốn cộng sản dưới mưa đạn pháo kích do xe tăng và đại bác quân Bắc Việt dội vào thành phố làm sập nhà và chết người.

TRỊNH CÔNG SƠN HIỆN NGUYÊN HÌNH CỘNG SẢN


“Sau năm 1975, để xác định lập trường, Trịnh Công Sơn đã dũng cảm đốt cháy danh dự và tư cách của một nghệ sĩ qua những sáng tác “Huyền Thoại Mẹ”, “Em Nông Trường Em Ra Biên Giới”, “Ra Chợ Ngày Thống Nhất”, “Ánh Sáng Mạc Tư Khoa”...

“Chừng đó cũng đã quá đủ để chứng minh con người của Trịnh Công Sơn là một Tên Cộng Sản Nằm Vùng! Ðúng như thế, trong suốt chiều dài cuộc chiến Việt Nam, Trịnh Công Sơn đã xác định chỗ đứng của mình rất rõ ràng. Ông ở Sài Gòn nhưng đã đứng hẳn bên kia chiến tuyến, về phía Cộng Sản Hà Nội để đánh phá chính quyền và quân đội Miền Nam! Ông đã hiện nguyên hình một tên Cộng Sản Nằm Vùng, đâm sau lưng chiến sĩ, còn nguy hiểm gấp trăm ngàn lần những tên Cán Binh Việt Cộng cầm AK trực diện với chúng ta ngoài mặt trận.

“Lý Quý Chung, một nhà báo và là một dân biểu Việt Nam Cộng Hòa, sau ngày 30-4-1975 đã chính thức phô bày bộ mặt thật, có viết về hai chữ “gia nô” như sau:

- Ở miền Nam trước 1975, một người chỉ cần nói đọc báo nào, nghe nhạc gì thì biết ngay người đó là ai, thái độ của người đó đối với chế độ Thiệu và người Mỹ như thế nào và thái độ của người đó đối với cuộc chiến tranh ra sao? Có báo “ gia nô” (đó là cách gọi của người Sài Gòn trước 1975 đối với loại báo chí của chính quyền Thiệu hoặc theo phe Thiệu ).... ( TCS MTNT tr. 210).

TRỊNH CÔNG SƠN ÐÃ TRỞ THÀNH GIA NÔ CỦA SÁU DÂN VÕ VĂN KIỆT

“Bài viết của Nguyễn Quang Sáng ghi lại nguyên nhân ra đời của hai bản nhạc “Em còn nhớ hay em đã quên” và “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”. Nguyễn Quang Sáng cho biết anh Sáu Dân Võ Văn Kiệt chỉ mới nói vài lời mà Trịnh Công Sơn đã lãnh hội được ý của anh Sáu muốn cái gì và Sơn tự biết mình phải làm cái gì !

Nói theo cách của Lý Quý Chung, đây đúng là hành vi của một “gia nô”. Thiên tài âm nhạc Trịnh Công Sơn sau 1975 đã tự biến hình thành một nhạc - nô viết nhạc theo ý muốn của “trên” để đáp ứng cho nhu cầu tuyên truyền.

Trịnh Công Sơn đã được Thủ Tướng Cộng sản Võ Văn Kiệt ưu đãi về vật chất, thường mang rượu Tây, rượu Mỹ, rượu Tàu đến tặng cho TCS. Mỗi lần có bạn văn nghệ sĩ đến nhà, TCS thường mời họ uống rượu, trước khi mở chai, TCS thường đố anh em “ai biết chai rượu này từ đâu đến?”. Rồi ông tự trả lời là từ “anh Sáu Dân” hay từ đồng chí Bí Thư Thành Ủy vân vân.

“Cũng qua bài viết của Nguyễn Quang Sáng, độc giả còn được nhìn thấy cung cách và thái độ của thiên tài âm nhạc họ Trịnh đối với anh Sáu Dân Võ Văn Kiệt. Cái thái độ ấy phải gọi thế nào cho đúng? Bưng bô? Liếm gót?

TRỊNH CÔNG SƠN VÀ GIỌNG ÐIỆU CỦA CÁN BỘ TUYÊN TRUYỀN VIỆT CỘNG

Nhà Văn Nguyễn Quang Sáng viết tiếp:

“Riêng cái cung cách của một cán bộ tuyên truyền thì được Trịnh Công Sơn thể hiện rất rõ qua những lời sau đây: “việc in ấn càng lúc càng khó khăn, nhất là sau khi có lệnh tịch thu của chính quyền Nguyễn văn Thiệu toàn bộ các tập ca khúc và băng nhạc của tôi ... phải rải ra trong ba bốn nhà in khác nhau ... chuyện đi đứng không phải dễ dàng ... đi từ một nhà in ở Sàigòn đến một nhà in ở vùng Chợ Lớn phải qua biết bao nhiêu là trạm xét hỏi ....”

“Nếu chính quyền Nguyễn văn Thiệu tịch thu toàn bộ các tập ca khúc và băng nhạc của Trịnh Công Sơn, thì chính quyền nào cấp giấy thông hành cho ca sĩ Khánh Ly sang Nhật hát bản “Diễm Xưa của họ Trịnh tại hội chợ quốc tế Expo Osaka năm 1970? Chẳng lẽ đó là chính quyền Hà Nội?

“Nếu chính quyền ông Thiệu ra lệnh tịch thu toàn bộ các tập ca khúc, thì tại sao các tập ca khúc của Trịnh Công Sơn với hình bìa do Trịnh Cung, Ðinh Cường vẽ, vẫn được bày bán công khai tại các nhà sách ở Sài Gòn, ai muốn mua bao nhiêu cũng có?

Nếu chính quyền ông Thiệu tịch thu toàn bộ băng nhạc thì tại sao “nhạc Trịnh” vẫn vang dội tại các quán cà phê ở Sài Gòn, tại các câu lạc bộ quân trường? Khánh Ly vẫn nhởn nhơ trình diễn nhạc Trịnh tại Queen Bee hàng đêm, và nhạc Trịnh vẫn được hát tại câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc trong trại Phi Long - Tân Sơn Nhất vào mỗi cuối tuần?

Và đây mới là chuyện lạ bốn phương: “đi từ một nhà in ở Sài Gòn đến một nhà in ở vùng Chợ Lớn phải qua biết bao nhiêu là trạm xét hỏi ...” Ðây là thời điểm nào? Trước 30 tháng 4 năm 75 hay sau ngày “giải phóng”?

TRỊNH CÔNG SƠN KHÔNG CÒN XỨNG ÐÁNG ÐỂ VINH DANH!

“Theo chúng tôi được biết, về sau, để trả công lao cho tên nhạc sĩ năm vùng này, Hà Nội đã cho Trịnh Công Sơn đi thăm Mạc Tư Khoa, tại cái nôi vô sản này của thế giới cộng sản, Trịnh Công Sơn đã lần đến lăng Lenin và sáng tác nhạc phẩm “Ánh Sáng Mạc Tư Khoa”. Về lại Hà Nội, bài này được hát trên đài vài hôm thì biến động ở Nga xẩy ra, và sau đó, đế quốc Liên Sô sụp đổ, “Ánh Sáng Mạc Tư Khoa” cũng theo đó mà chìm vào đêm tối thiên thu.

“Sau khi chúng tôi đưa ra ánh sáng về trường hợp Trịnh Công Sơn, không biết những ai từng là nạn nhân của cộng sản, có thấy lương tâm vẩn đục khi vẫn còn coi Trịnh Công Sơn là thần tượng, trong những chương trình hát theo đĩa, trong băng nhạc, trong âm thanh. Người ta sẽ thật vô tình khi vẫn để Trịnh Công Sơn ngồi chễm chệ trên nỗi đau của mình mà không biết tủi nhục.” (Trần Quan Long & Bắc Phong Sài Gòn).

Kết luận:

Những người mở tiệc Vinh Danh Trịnh Công Sơn tại Sacramento ngày 24 tháng 4 năm 2009 là những kẻ cố ý hay vô tình “vẫn để Trịnh Công Sơn ngồi chễm chệ trên nỗi đau của mình mà không biết tủi nhục.”

Vinh danh Trịnh Công Sơn là chà đạp lên những oan hồn của nhân dân và chiến sĩ miền Nam Việt Nam đang phảng phất không nguôi về sự phản bội của một nhạc sĩ đã đem tài năng của mình phục vụ loài quỷ dữ tàn hại quê hương, đọa đày dân tộc Việt.

Nguyễn-Công-Chính


Tưỏng niệm Tháng Tư Đen - Gs Nguyễn Thanh Liêm


Kính chuyển đến quý vị và các bạn ở Việt Nam lời nhận định tâm tình của Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm, nguyên là Hiệu Trưởng Trường Trung Học Petrus Ký ở miền Nam trước 1975, cựu Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên Việt Nam Cộng Hòa. Hiện nay Gs Thanh Liêm là Chủ Tịch Lăng Ông Lê Văn Duyệt Foundation tại Hoa Kỳ.



KÍNH NHỜ CHUYỂN TIN VỀ VIỆT NAM

TƯỞNG NIỆM THÁNG TƯ ĐEN

Gs Nguyễn Thanh Liêm

(quý vị bấm nghe âm thanh)

http://audio.freevietnews.com/20090502gs_nguyenthanhliem.m3u



Hoa Kỳ ngày 2/5/2009


Thưa Quý Đồng Hương,


Người dân Việt không cộng sản không bao giờ quên được hình ảnh hãi hùng của Tháng Tư Đen. Tháng Tư năm 1975 là tháng đen tối nhất trong lịch sử nước nhà. Đó là tháng mà Cộng Sản Bắc Việt xua quân vào xâm chiếm Miền Nam tự do, gây chết chóc, khốn khổ cho bao nhiêu triệu người vốn chỉ muốn được sống bình yên hạnh phúc nơi quê hương xứ sở của mình.

Bỏ tù, áp bức, cướp của, đày đoạ người dân vào cảnh khốn cùng. Biết bao nhiêu người phải lìa bỏ quê hương ra đi tìm tự do, tìm cái sống còn trong cái chết. Ai cũng có người thân, bạn bè, bà con đi tù cộng sản, khổ sờ hay chết trong ngục tù, hay bỏ xứ ra đi chết ngoài biển cả. Ai ai cũng là nạn nhân của chủ nghĩa, của chế độ cộng sản Hà Nội.


Hơn ba mươi năm qua rồi, người dân Việt ở trong nước mỗi ngày một khốn khổ hơn dưới ách thống trị độc tài của Đảng Cộng Sản. Trong khi những đảng viên cộng sản và thân nhân của họ tích lũy của cải, làm giàu kinh khủng trên mồ hôi, nước mắt của dân đen, thì bao nhiêu ngàn cây số vuông đất liền và mặt bể đã được nhường cho Trung Cộng. Hoàng Sa, Trường Sa và cả vùng biển Đông không còn là của Việt Nam nữa. Tây Nguyên rộng lớn, phì nhiêu, xương sống quan trọng của Việt Miên Lào đã vào tay các chiến lược gia kinh tế/quân sự Trung Quốc.


Bao nhiêu học sinh ở vùng đồng bằng sông Cửu Long bỏ học vì phụ huynh không có tiền đóng học phí cho trường. Bao nhiêu thanh thiếu nữ rời bỏ làng quê đi bán mình ở các nhà thổ, hay làm vợ ngoại bang kiếm tiền nuôi gia đình. Bao nhiêu người dân mất đất kéo nhau đi khiếu kiện năm này qua tháng nọ, chẳng được ai giải quyết cho.


Bao nhiêu công nhân viên khổ nhục với đồng lương chết đói, bị nhà nước chèn ép để làm vừa lòng các chủ nhân ngoại quốc. Bao nhiêu người đấu tranh cho tự do dân chủ bị vào tù, vì những tội do công an vu khống. Bao nhiêu nhà tu, nhà lãnh đạo tôn giáo chân chánh bị giam lỏng hay ngồi tù. Hơn bảy mươi phần trăm dân chúng sống trong thiếu thốn đói nghèo.


Là nạn nhân của cộng sản chúng ta nhớ mãi tháng Tư đen tối của lịch sử. Nhớ Tháng Tư Đen là nhớ đến sự tàn độc, sự sai lầm, tham vọng bành trướng, áp bức thống trị, gây tang thương cho nhân loại ở khắp nơi trên thế giới. Nhớ đến Tháng Tư Đen là nhớ đến chủ nghĩa cộng sản vô nhân đạo, phi nhân bản, độc tài, tàn bạo, đi ngược lại tinh thần yêu chuộng tự do, dân chủ, nhân bản của con người.


Nhớ như vậy để đừng chấp nhận chủ nghĩa cộng sản, đừng tôn sùng các anh hùng cộng sản như Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, đừng đề cao cờ đỏ sao vàng. Đừng để cộng sản dụ dỗ, lợi dụng lòng yêu nước, tình thương dân tộc và quê hương xứ sở của mình. Màu đỏ là màu máu, cờ đỏ là cờ máu, người cộng sản xăm chiếm, cai trị bằng máu của dân. Cộng sản không hề lo cho dân, không hề phụng sự cho quốc gia dân tộc. Ngược lại cộng sản chỉ dùng quốc gia và nhân dân như những phương tiện phục vụ cho Đảng, hay những đảng viên cộng sản mà thôi.


Nhưng tưởng nhớ Tháng Tư Đen không phải chỉ để thương khóc những tai ương đã qua, đã trở thành lịch sử. Tưởng niệm Tháng Tư Đen còn là một cố gắng hướng đến tương lai, xây dựng một cái gì tốt đẹp, có ý nghĩa và có ích lợi cho quốc gia dân tộc. Chúng ta hãy nghĩ đến việc xây dựng một con người Việt Nam có tinh thần nhân bản, khoa học, tự do, vị tha, đạo đức, khác hẳn con người cộng sản.


Chúng ta hãy chung sức đấu tranh bền bĩ, bất bạo động, cho dân chủ, tự do, cho một nền văn hoá nhân bản đạo đức, có tinh thần dân tộc và khoa học. Văn hoá tốt đẹp của người Việt từ xưa đã bị chế độ cộng sản xoá bỏ để thay thế bằng văn hoá mác xít. Chúng ta hãy góp sức bảo tồn và phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của người Việt Nam , mà ông cha chúng ta đã khổ công xây đắp.


Những người lớn tuổi, những người của thế hệ một tị nạn cộng sản ngày nay chẳng còn được bao nhiêu, và chẳng còn bao lâu nữa trên cõi đời này. Ước vọng của họ là được thấy các thế hệ tiếp nối, giữ vững căn cước quốc gia với cờ vàng ba sọc đỏ, với truyền thống tốt đẹp của nền văn hoá nhân bản dân tộc của người Việt tự do để ngày nào đó trong tương lai sẽ đem vinh quang về cho xứ sở.


Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm

Hoa Kỳ ngày 2/5/2009

(quý vị bấm nghe âm thanh)

http://audio.freevietnews.com/20090502gs_nguyenthanhliem.m3u


Đ
ể đánh dấu ngày 30-4-1975 miền Nam rơi vào chế độ cộng sản tàn bạo, để yểm trợ đồng bào quốc nội đấu tranh cứu nước, chúng tôi sẽ lần lượt chuyển đến quý vị và các bạn ở quốc nội một số AUDIO
chọn lọc từ Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn Cộng Sản ở Hải Ngoại, nhận địnhtâm tình với quý đồng bào thân thương ở Việt Nam.


Kính nhờ phổ biến rộng rãi qua mạng lưới thông tin toàn cầu Internet, Emails, Websites, Blogs, Paltalk, e-groups, Radio Báo online.....


Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản Tại Hòa Lan biểu tình trước sứ quán Việt Cộng - Miên Thụy


Miên Thụy


Ngày Quốc Hận 30 tháng 04 mỗi năm vẫn diễn ra hàng năm tại Hoà Lan do Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản vào chiều hôm nay trước Toà Đại Sứ của bọn Việt Cộng tại khu vực Nassauplein thuộc thành phố Den Haag . Và thật cảm động khi có sự hiện diện của phái đoàn bạn từ Bỉ cùng sang tham dự trong giờ phút này để cùng tưởng nhớ và tiếc thương cho những anh linh đã hy sinh vì màu cờ và cho quê hương VN mến yêu . Bàn thờ Tổ Quốc với chiếc nón sắt là một biểu hiệu cho các vị anh hùng Chiến Sĩ Vô Danh không bao giờ thiếu trong những buổi lễ đặc biệt này . Bài hát quốc ca Này Công Dân Ơi .. đã mở đầu chương trình qua sự điều động của anh Lưu Phát Tấn ( Phó Nội Vụ Điều Hành Cộng Đồng ) cùng nghi thức mặc niệm . Lời mở đầu là bài tường trình về ý nghĩa ngày tưởng niệm 30 tháng 4 do ô. Lê Quang Kế đã làm cho mọi người tham dự buổi chiều hôm nay thật ngậm ngùi . Một cái tang lớn cho quê hương VN chúng ta và nỗi buồn người ra đi cùng người ở lại sau 34 năm dài vẫn chưa quên .

Ô. Nguyễn Đức Hồ đại diện phái đoàn Bỉ (cựu Sĩ Quan Không Quân)tiếp theo chương trình sau đó với bài nói chuyện về tình hình và những thăng trầm đất nuớc sau những năm qua . Nguyện vọng của riêng ông và của mọi người là ngày trở về quang phục lại quê hương , một ngày không xa lắm . Tiếng hát cất cao của mọi người và ban văn nghệ Cộng Đồng Hoà Lan qua các bài hát Thề Không Phản Bội Quê Hương v.v. đã tạo khí thế hăng say và niềm tin mảnh liệt . Anh Nguyễn Lê Cường rất chân thành qua tiếng hát của anh , những bài hát đã làm người nghe xúc động . Ô. Nguyễn Liên Hiệp _Chủ tịch Cộng Đồng , Anh Đinh Thế Hiển và nhà thơ chống cộng Nguyễn Khảng cũng đã góp tiếng nói với chúng ta trong buổi lễ Tưởng Niệm 30 tháng 04 năm nay.

Cảm động nhất là sự hiện diện của lớp người trẻ hôm nay, anh Nguyễn Điền Lăng cũng đã có mặt và phỏng vấn một bạn trẻ đại diện cho thế hệ thứ ba là anh Minh năm nay 34 tuổi khi anh M đã đến tham gia ngày Quốc Hận 30 tháng 04
chiều nay

NĐL: _ Xin anh cho mọi người được biết: Cách nhìn về một VN hôm nay của anh ra sao ? Và xin được hỏi anh, anh đã từng về VN bao gờ chưa ?

Minh: _ Chưa từng về, ngày nào còn chế độ Cộng Sản thì cháu sẽ không về !

NĐL : _ Theo anh , một người đi tham dự ngày hôm nay có mang theo tâm trạng gì không ?

Minh: _ Mình không có mang tâm trạng hận thù gì cả mà mình chỉ đấu tranh cho quê hương , nguyện vọng là mong cho quê hương yên bình để sớm có ngày trở về .
Buổi lễ cũng đã chấm dứt vào buổi chiều trong ngày , mọi người chia tay nhau và cùng đợi chờ trong niềm tin Một Ngày Sẽ Phải Đến.

Miên Thụy
29 tháng 04 _2009




Chuyến xe tang về quê chồng - Lệ Hà

Cố Trung Úy Dù QUÁCH VĂN SỞ
Khóa 24 Trường VBQGVN

Giao Chỉ - San Jose
(Viết theo lời kể lại của Lệ Hà)


San Jose ngày 29 tháng 04 năm 2009.

Em là Trần Thị Lệ Hà, quê Cần Thơ, hiện cư ngụ tại San Jose, xin kể lại cho bác Lộc và các bác niên trưởng trong quân đội câu chuyện 34 năm về trước. Nếu miền Nam và Saigon gọi ngày 30 tháng Tư 75 là ngày tang của đất nước thì ngày tang của Trần Thị Lệ Hà đến sớm hơn một ngày. Ðó là ngày 29 tháng 4 năm 1975. Ðêm 28 tháng 4 cách đây 34 năm trung úy Quách Văn Sở, võ bị Ðà Lạt khóa 24, từ giã vợ con vào trại Hoàng Hoa Thám sinh hoạt với tân binh nhảy dù. Trung úy mũ đỏ Quách Văn Sở rất có tinh thần trách nhiệm, đã có giấy lên đại úy nhưng còn chờ lễ đeo lon. Quá nửa đêm 28 qua sáng 29 thì Việt cộng pháo kích vào Tân Sơn Nhất và trại Hoàng Hoa Thám. Sáng sớm 29 tháng 4 lính dù chạy về báo tin anh Sở, chồng của Lệ Hà đã chết. Cùng một lúc khu trại gia binh nhảy dù phải di tản. Em lúc đó 25 tuổi, con trai đầu lòng được 7 tháng. Chẳng có ai thân thuộc. Mẹ con ôm nhau chạy qua nhà ông cậu bên thành Lê Văn Duyệt. Chồng chết ra sao cũng không biết. Ðường xá kẹt hết. Chuyện chiến tranh, trận mạc nhà binh từ khi lấy nhau tất cả đều do anh Sở quyết định. Nay bỗng nhiên trời xập, ôm đứa con dại, em ngồi khóc một mình. Không biết xác chồng nằm ở nơi đâu. Chung quanh Sài Gòn náo loạn, ai mà lưu tâm đến người vợ trẻ mất chồng vào cuối tháng 4. Phải mà anh Sở chết sớm hơn một tháng thì truyền thống lính dù đã đưa xác về tận nhà. Tang lễ uy nghi, có đơn vị trưởng chứng kiến lễ gấp cờ, như em đã thấy tại sân Hoàng Hoa Thám. Nhưng sao anh Sở lại chết vào cuối tháng tư, giờ thứ 25 của cuộc chiến.

Trải qua một đêm dài thảm kịch. Thằng bé Quách Vĩnh Hưng ôm mẹ nằm trên đất lạ. Cả mẹ con đều không thấy tương lai.



Xác anh, giờ ở phương nào?

Sáng hôm sau, nhờ cậu em họ dẫn đường vào trại Hoàng Hoa Thám để tìm xác anh Quách Văn Sở. Doanh trại đã di tản. Ở một vài nơi quân ta còn kháng cự và quân địch chưa tiến vào. Khu bị pháo kích chỉ còn di tích đổ nát, thương binh tử sĩ nhảy dù chẳng còn thấy nữa. Nghe nói các chiến binh mũ đỏ đã tản thương anh em vào đêm 29 và đưa xác tử sĩ lên nghĩa trang Biên Hòa.

Trên trời máy bay trực thăng ồn ào chở người di tản suốt ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Sáng 1 tháng 5 năm 1975, Saigon đổi chủ, em chẳng hề quan tâm. Nhờ người gởi con một nơi, lấy xe máy lên tìm chồng tại nghĩa trang Biên Hòa. Ðây là lần đầu tiên em tìm về nơi chôn cất tử sĩ miền Nam. Khu đơn vị chung sự Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn đầy xác chết và quan tài đủ loại. Có người phe ta còn làm việc nhưng mặc đồ dân sự. Lính cộng sản xuất hiện nhưng xem chừng còn ngại ngùng không kiểm soát. Phe ta mạnh ai nấy tìm xác người thân và than khóc. Tử sĩ miền Nam vẫn còn đầy đủ quân phục, danh tính cấp bậc. Trên quan tài vẫn còn đèn nến và vàng hương. Thân nhân ngồi khóc bên các tử sĩ từ các nơi chở về. Sau cùng em tìm được xác anh Quách Văn Sở, đã được tẩm liệm và cho vào quan tài. Một bác mặc đồ dân sự nói rằng chị yên tâm, tôi sẽ ghi dấu quan tài của ông Trung úy nhảy dù. Tôi cũng là lính Việt Nam Cộng Hòa. Ðã hơn 30 năm rồi, em vẫn còn nhớ hình dáng của người lính bên ta lo việc mai táng vào lúc mà toàn quân cùng với quốc gia không còn nữa. Sau khi thấy rõ tên tuổi di tích của anh Sở nằm đó, em trở về Saigon bắt đầu tìm xe thuê chở xác chồng về quê. Năm xưa, vợ chồng từ Hậu Giang lên Sài Gòn, bây giờ anh đã vĩnh viễn nằm xuống, em nhất định phải chở anh về với gia đình, về nơi anh đã ra đời.

Quê em ở Cần Thơ, quê chồng ở Rạch Giá. Giờ này mẹ và các anh em họ hàng bên anh Sở vẫn chưa biết là anh đã hy sinh. Suốt mấy ngày đầu tháng 5, em tìm mọi cách để thuê xe chở quan tài. Trong những ngày giờ đó, chẳng quen biết ai, làm sao mà thuyết phục được chủ xe chở xác sĩ quan dù về tận Rạch Giá. Sau cùng khi tìm được lại phải cùng với chủ xe đi mua xăng. Tiền bạc không đủ, phải trả cả bằng nữ trang và nhẫn cưới đầy kỷ niệm.

Chuyến xe tang về quê chồng.

Ðưa xe tải về nhà, dọn những gì có thể đem đi được, từ giã cư xá gia binh, chấm dứt đời vợ lính. Mẹ ôm con lên xe trở lại nghĩa trang. Ðó là ngày 3 tháng 5 năm 1975. Nghĩa trang đã thay đổi. Tất cả các xác chết đã bị Việt cộng bắt chôn tập thể. Nhưng may thay những quan tài có người nhận từ hôm trước vẫn còn. Vàng hương và tên tuổi cấp bậc thì vứt đống dưới đất. Người lính chung sự Việt Nam Cộng Hòa mặc đồ dân sự vẫn còn đó. Ông nói rằng quan tài này của trung úy dù tôi vẫn ghi dấu là đã có thân nhân đến nhận. Xin thưa với bác là em cũng chẳng biết tên ông lính đó là ai, nhưng ơn nghĩa tử sinh thì em ghi nhớ suốt đời. Nếu không có ông này, chắc xác anh Sở cũng phải nằm chung trong mồ tập thể. Rồi nhờ mỗi người một tay, quan tài anh Quách Văn Sở được khiêng lên xe hàng. Mẹ con ôm nhau ngồi bên xác anh suốt quãng đường dài. Ðó là chuyến xe tang về quê chồng tháng 5 năm 1975.

Bác hỏi em quang cảnh bên đường ra sao. Bác ơi, vợ lính 25 tuổi, ôm thằng bé chưa được một tuổi. Lòng dạ nào mà nhìn thấy hai bên đường. Mắt em mở nhưng chỉ thấy toàn kỷ niệm quá khứ. Em là nữ sinh Ðoàn Thị Ðiểm, Cần Thơ.

Anh Sở là sinh viên đại học Cần Thơ. Gặp nhau, hẹn hò, yêu đương. Từ đại học Cần Thơ anh vào võ bị khóa 24 học suốt 4 năm. Em ra trường làm công chức, đổi từ Cần Thơ lên Saigon. Bốn năm Ðà Lạt, Sài Gòn tình yêu thơ mộng biết chừng nào. Ra trường anh đi lính nhảy dù đóng tại trại mũ đỏ Hoàng Hoa Thám, em làm công chức tại văn phòng phủ thủ tướng. Ðâu có quen biết ông lớn nào đâu. Sở công vụ cho đi đâu thì làm đó. Chiến tranh ở đâu thì không biết nhưng Saigon, Cần Thơ và Rạch Giá là những miền đất đầy hạnh phúc của một gia đình trẻ với đứa con trai.

Từ đầu tháng tư mẹ em ở Cần Thơ rất lo sợ cho con rể, con gái và cháu ngoại. Mẹ anh Sở ở Rạch Giá cũng đang cầu nguyện cho con trai, con dâu và cháu nội.

Chuyến xe đau thương của em ghé Cần Thơ. Mẹ thấy con gái về bèn ôm cháu ngoại hỏi rằng còn thằng Sở đâu. Con gái mẹ kêu khóc mà nói rằng: anh Sở chết rồi. Con đưa xác về đây. Mẹ đi với con qua Rạch Giá. Mẹ già tất tả vừa khóc vừa gói quần áo theo con gái lên xe. Cả xóm tuôn ra nhìn theo, chiếc xe tang về quê chồng lại lên đường. Xe tải chở theo bà xui Cần Thơ đi theo con gái. Nước mắt góa phụ trẻ bây giờ thêm nước mắt mẹ già. Thằng rể quí của bà đi lính nhảy dù mấy năm không chết mà đến ngày cuối cùng lại tử trận.

Người lính mũ đỏ đất Kiên Giang.

Năm 1971 có anh sĩ quan nhảy dù xuất thân võ bị làm đám cưới ở bến Ninh Kiều, Cần Thơ, tiệc bên nhà gái xong là rước dâu về Rạch Giá. Ðoàn xe hoa cũng đi theo con đường này. Qua đến năm 1975, xe hàng chở quan tài người lính chiến về lại quê xưa, cũng có bà xui đại diện cho nhà gái trong chuyến đi cuối cùng. Xe về đến Rạch Giá, cả nhà họ Quách ra đón mừng, thấy quan tài con trai út bà mẹ té dài ngay trên bậc cửa.

Mẹ của anh lính dù có hai người con trai. Mấy năm trước người anh tên là Quách Hải đã tử trận. Còn cậu út nhất định đi võ bị rồi theo nhảy dù, bà tưởng rằng gởi gấm được ông tướng Dư Quốc Ðống vốn là thân quyến thì cũng đỡ nạn binh đao. Ai ngờ anh sỹ quan nhảy dù chết ngay tại trại Hoàng Hoa Thám vào giờ phút sau cùng của cuộc chiến.

Mặc dù lúc đó cộng sản 30 tháng 4 tại Kiên Giang đã làm khó dễ nhưng người góa phụ trẻ hoàn toàn không có kinh nghiệm trong cuộc sống đã một mình đơn độc đem xác chồng về chôn tại quê nhà. Câu chuyện làm xúc động bà con lối xóm nên đám tang rất đông người dự để tiễn đưa người lính dù cuối cùng của đất Kiên Giang trở về quê mẹ.

Nước non ngàn dặm ra đi.

Sau đó em trốn tránh quanh quẩn tại Hậu Giang vì muốn dấu lý lịch vợ lính dù, lại làm công chức phủ thủ tướng. Qua năm 1979 trở về Cần Thơ vượt biên với má và thằng con trai. Nhờ anh Sở phù hộ, tàu qua Mã Lai bị kéo ra biển nhưng rồi cố lết qua được Indo. Ở bên Nam Dương một năm thì vào Mỹ, đến ngay San Jose. Mấy năm sau, em gặp ông xã sau này, hai bên lập gia đình và có thêm hai cháu.

Thưa với bác Lộc rõ, em có duyên số với Võ bị và Rạch Giá. Ông xã hiên nay của em cũng là người quê Rạch Giá, cùng vượt biên năm 1979 trong một chuyến khác. Qua đây mới gặp nhau. Ông ấy ngày xưa cũng dạy trường võ bị Ðà Lạt. Con cái của gia đình em, nói để các bác mừng cho, tất cả đều thành đạt và hạnh phúc. Các cháu cũng đã lập gia đình và có thêm các cháu nội ngoại.

Ông xã em bây giờ hết sức tế nhị và thông cảm. Chính ông đã làm một bàn thờ tại gia để ghi nhớ hình ảnh của trung úy nhảy dù Quách Văn Sở ba của cháu Quách Vĩnh Hưng. Năm nay cháu 35 tuổi.

Chút di sản muộn màng, gửi tương lai vĩnh cửu.

Ðã 34 năm qua, em còn lưu giử hồ sơ của anh Sở. Một tờ khai gia đình của khu gia binh sư đoàn nhảy dù, căn cứ Hoàng Hòa Thám. Có chữ ký của thượng sỹ Trần Văn Linh, trưởng trại gia binh. Kiến thị bởi trung tá Nguyễn Văn Tư chỉ huy trưởng căn cứ và chữ ký của gia trưởng trung úy Quách Văn Sở. Ngoài ra còn giấy chứng nhận bằng nhảy dù, thẻ căn cước dân sự, thẻ căn cước quân nhân, chứng chỉ tại ngũ. Trên các thẻ căn cước, chỗ nào cũng có tên mẹ của anh Sở là Dư Thị Kim Thoa, bà là vai cô của tướng Dư Quốc Ðống. Trung úy Sở còn tờ giấy nghỉ phép 5 ngày từ 26 tháng 4 đến 30 tháng 4 năm 1975. Cầm giấy phép, nhưng anh Sở không đi phép. Vì lo tân binh Nhẩy dù mất tinh thần nên tối 28 tháng 4 năm 1975 anh vào trại. Trận pháo kích sau cùng đã làm thay đổi vận mệnh của cả gia đình. Người thanh niên Kiên Giang, trải qua 4 năm sinh viên võ bị Ðà Lạt, 5 năm sỹ quan nhẩy dù, từ giã cuộc đời năm 30 tuổi. Anh để lại tấm thẻ bài hai mảnh. Gia đình còn giữ suốt 34 năm qua. Nay đã đến lúc chia tay đôi ngả. Một tấm đi theo quân bạ vào viện bảo tàng. Còn một mảnh xin giữ làm kỷ niệm cho con cháu họ Quách đời sau. Với đầy đủ tên họ, số quân và loại máu.

Tâm nguyện cho tương lai.

Thưa bác, kể xong chuyện ma chay cho người chồng chiến binh 34 năm về trước, trao được các di vật cho viện bảo tàng Việt Nam tại San Jose, em rất yên tâm. Xin cảm ơn nhà em ngày nay, nguyên là giáo sư võ bị ngày xưa đã thông cảm, sẽ thông cảm thêm. Con trai của anh Sở nay đã 35 tuổi, sẽ hiểu biết thêm chuyện gia đình và chiến tranh. Những đứa con sau này ra đời tại San Jose bây giờ mới biết ngày xưa mẹ sống trong trại lính Dù có tên là Hoàng Hoa Thám. Anh em Ðà Lạt khóa 24 biết thêm về người con gái miền Tây làm dâu võ bị hai lần. Người Rạch Giá cũng biết thêm về cô gái Cần Thơ hai lần lấy chồng xứ Kiên Giang.

Và em tạ ơn trời đất còn có ngày nay. Trước sau em cũng chỉ là người vợ lính đã từng sống trong trại gia binh.

Em cám ơn các bác đã nghe hết câu chuyện 29 tháng 4 của em 34 năm về trước.

Giao Chi - San Jose


HÃY THAM DỰ BIỂU TÌNH TẠI GENÈVE NGÀY 08.5.2009


Lần đầu tiên Đại Kỳ Việt Nam Cộng Hòa, một bảo vật lịch sử tham dự biểu tình trước trụ sở Liên Hiệp Quốc nhằm ngày kiểm điểm tình trạng nhân quyền của cộng sản Việt Nam. Đại Kỳ nầy đại diện cho Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa trước Tòa Đại Sứ VNCH ở Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn (Mỹ) cho đến ngày 30.4.1975 và hiện giờ được trưng bày tại Bảo Tàng Viện Fresno Discovery Museum ở California, USA.

Chúng tôi kêu gọi các đoàn thể, tổ chức cũng như cộng đồng hãy đến biểu tình tại Genève ngày 08.5.2009 để:

- Cùng đứng chung dưới Đại Kỳ lịch sử để chứng minh cho thế giới biết rằng nước Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn tồn tại trên hành tinh nầy và người Việt hải ngoại đang tranh đấu ngày đêm để mai kia sẽ cùng Đại Kỳ trở về kiến thiết quê hương.

- Cùng đứng chung dưới Đại Kỳ lịch sử để đặt vấn đề Nhân Quyền với đảng cộng sản cũng như đòi hỏi LHQ phải có biện pháp với nhà nước Việt Nam hiện nay là một tập đoàn đang chà đạp lên quyền sống, quyền làm người của 80 triệu dân trong quốc nội.

*
* *
Kính thưa quý vị,

Để góp phần vào việc vinh danh những lá Quốc Kỳ đã từng bay trên bầu trời VNCH trước 30.04 năm 1975.

Tôi sẽ mang Quốc Kỳ đã từng bay trên các chiến hạm của HQVNCH trước ngày 30.04.1975, để cùng góp phần vào lể chào cờ tại Thụy Sĩ với Quốc Kỳ mang từ Hoa Kỳ qua (Quốc Kỳ này tôi mượn của Trung Tướng Trần văn Trung).

Kính,
Đặng-vũ-Lợi
dvloi3@yahoo. fr

FYI

(Để quí vị có đủ tài liệu và chuẩn bị cho thời cơ của dân tộc và đất nước đang đến. Hãy tin tưởng hành động và cầu nguyện hồn thiêng Sông Núi !)

Xin vui lòng ủng hộ, tham gia và phổ biến rộng rãi.

Tiểu Sử ĐẠI QUỐC KỲ VNCH

Đây là lá Đại Quốc Kỳ VNCH của Toà Đại Sứ VNCH tại Hoa Kỳ trước năm 1975 . Cũng là lá đại quốc kỳ cuối cùng của VNCH tự do phất phới bay trên lãnh thổ VN (TĐS VNCH tại Hoa Thịnh Đốn, luật extra territoriality) .

Lá Đại Kỳ Này đã được một nhân viên toà Đại sứ cất giữ gần 33 năm kể từ ngày cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm VNCH cho tới ngày 7 tháng 3 năm 2008 khi Đại Kỳ được trao lại cho Bảo Tàng Viện Fresno Discovery Museum.

Đại Kỳ chiều ngang 15 Ft (5m) chiều dài 25Ft (8,5m), diện tích trên 40M2 và cân nặng 13 Lb (6 ký).

Lá Đại Kỳ VNCH Lịch Sử đã đại diện cho Chính Phủ và Nhân Dân VN tại Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ trước ngày 30 - 4 - 1975 và đã được xử dụng trong những Đại Lễ của cộng đồng ở Mỹ (hình trên ).

Một Tập Hợp Thanh Niên Sinh Viên Minh Trị Liên Châu Cứu Nước sẽ tự nguyện mang lá cờ này từ Mỹ sang Genève tham dự cuộc meeting liên châu của Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại lúc 8 giờ sáng ngày 8/5/2009 tại Place des Nations; Liên Hiệp Quốc; Genève; Thụy Sĩ nhằm ủng hộ cuộc tranh đấu cho nhân quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước tiếp theo lời kêu gọi của Đại lão HT Thích Quảng Độ và hơn 150 tổ chức hội đoàn trên các châu lục.

Liên lạc: Văn phòng liên đới Xã hội: đặc trách xe chuyên chở & ăn ở từ Paris.
Minh Ran: 33 (0) 141 71 12 11 (sau 20 giờ ) Trang 33 (0) 627 33 22 88
và Phượng 33 (0)9 53 89 23 94 .

Quê Mẹ: v/v kêu gọi meeting http://www.queme.net

Chùa Khánh Anh ủng hộ meeting: 33 (0)146 55 84 44

Hội Văn Hoá Người Việt Tự Do về Đại quốc kỳ VNCH
Ông Đinh Lâm Thanh: 33 (0) 143 75 84 78
http://www.hoivanhoanguoiviettudo.com



Thuyền nhân khúc ruột ngàn dặm - Thanh Quang

Thanh Quang


Phần âm Thanh


Một trong những vấn đề mà biến cố 30 Tháng Tư khơi lại trong tâm trí những cựu thuyền nhân Việt Nam ở hải ngọai là sự thăng trầm mà họ trải qua, từ “kẻ phản quốc” đến “khúc ruột ngàn dặm” do Hà Nội gán cho.

Nhưng rồi giới tán tụng, chiêu dụ “khúc ruột ngàn dặm” ấy lại không ngần ngại tìm cách phá bỏ di tích thuyền nhân tại Đông Nam Á. Những nỗi thăng trầm – đôi khi xót xa – đó, được Thanh Quang trình bày sau đây:

Những người vượt biên phản quốc?

Ngược dòng thời gian trở về mấy thấp niên trước, những ai trong nước rời bỏ “thiên đường cộng sản” qua con đường vượt biên nhưng bất thành khiến phải vào tù hẳn không quên cán bộ trại giam gọi họ là “kẻ vượt biên phản quốc”, “bọn lười biếng”, “những kẻ ham mê bơ thừa sửa cặn của Đế Quốc Mỹ”…

Rồi khi nền kinh tế chỉ huy của cộng sản VN bên bờ vực thẳm, phải nhanh chóng cứu vãn theo chiều hướng thị trường và mở ngỏ với tư bản bên ngoài, nhất là cần phải o bế người Việt tỵ nạn ở hải ngọai để thu hút nguồn kiều hối càng nhiều càng tốt , thì “những kẻ vượt biên phản quốc” ngày nào ấy lại trở thành “khúc ruột ngàn dặm” của Đảng Cộng Sản và Nhà Nước Việt Nam.

Nhưng liệu “khúc ruột ngàn dặm” có được chiếu cố thực tâm không, hay chỉ là…khúc ruột thừa, như nhận xét của anh Trần Đông, Giám Đốc Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam - trụ sở tại Úc, sau đây:

Ông Trần Đông: Cũng cảm thấy đau xót một điều là những bà con ở Châu Âu, hoặc là ở Hoa Kỳ, hoặc là ở Úc đi về Malaysia, hay là đi Thái Lan, hay là đi Singapore thì chúng ta không cần phải xin visa gì cả, nhưng mà về Việt Nam thì chúng ta lại phải xin visa.

Và có những người xin visa được đóng dấu cho về nước đàng hoàng nhưng tới phi trường lại bị chận lại không cho vô. Và vấn đề xin visa đó cho tôi một cảm nhận rằng tôi chính là người ngoại quốc trên chính quê hương của tôi.

Mình được cái đảng và nhà nước đó gọi là "Việt kiều yêu nước", "khúc ruột ngàn dặm", "một bộ phận không thể tách rời của nước Việt Nam", nhưng mà khi trở về thì mình lại phải xin visa, trong khi đi các nước khác, những nước như Mã Lai, Singapore... chúng ta không cần phải xin visa.

Bây giờ có nhiều người nói nhà nước VN cần tiền, bây giờ cần tiền thì cũng nên làm giống như là Indonesia vậy, khi vào Indonesia thì đóng visa tại chỗ 25 đôla nếu ở dưới một tuần và 45 đôla nếu ở trên 2 tuần.

Vấn đề đó thì OK! Còn bây giờ đã xin visa suốt một tháng và thậm chí khi mà tới phi trường rồi lại không cho vô, bắt trở về, thì đó là những vấn đề nghịch lý, một lần nữa đã cho thấy vấn đề là cộng sản nói, cộng sản tuyên truyền, và chỉ là tuyên truyền, chỉ là để dụ dổ người ta mà thôi chớ thực chất thì nói một đường làm một nẻo.

Nói một đường làm một nẻo

Tình trạng “nói một đàng làm một nẻo” ấy khiến người ta liên tưởng đến số phận của hai bia tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam ở các trại tỵ nạn thuyền nhân ngày nào tại Đông Nam Á, khi nhà cầm quyền Việt Nam một mặt kêu gọi người Việt tỵ nạn – những cựu thuyền nhân – để lại quá khứ sau lưng và hướng về tương lai cho sự hưng thịnh của quê hương đất nước, nhưng mặt khác lại áp lực Kuala Lumpur và Jakarta đập phá 2 bia tưởng niệm thuyền nhân trên các đảo Bidong và Galang.

Số phận của 2 bia tưởng niệm này hiện ra sao? Và các cựu thuyền nhân tại hải ngọai tìm phương cách nào khác để tưởng nhớ những bạn đồng hành không may mắn nằm lại vĩnh viễn dưới lòng biển cả trên con đường đi tìm tự do?

Thanh Quang: Thưa anh Trần Đông, sau chuyến đi vừa qua từ vùng Đông Nam Á trở về thì xin anh vui lòng cho biết tình trạng hiện tại của bia tưởng niệm thuyền nhân ở hai đảo Bidong (Malaysia) và Galang (Indonesia).

Ông Trần Đông: Cảm ơn anh Thanh Quang. Vấn đề bia tưởng niệm thuyền nhân ở Bidong và Galang tới năm nay là 4 năm đã qua rồi. Bốn năm đã qua rồi thì hình ảnh của bia tưởng niệm tại Bidong và Galang vẫn còn đậm nét trong lòng của người tị nạn tại hải ngoại.

Bia tưởng niệm tại Bidong thì đã bị đập nát từ Tháng Mười 2005 và vẫn còn như vậy cho đến ngày hôm nay. Riêng bia tưởng niệm tại Galang vào Tháng Năm 2005 đã bị đục bỏ và từ đó đến nay thì nó đã thay hình đổi dạng nhiều lần, và đến bây giờ thì bia tưởng niệm đó không còn nữa.

Thanh Quang: Thưa anh, qua hình ảnh chúng tôi được biết là bia tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam tại Galang sau khi bị đục bỏ thì đã có nhiều lần thay đổi, xin anh cho biết thêm chi tiết.

Ông Trần Đông : Thưa quý thính giả, một điểm đặc biệt đối với bia tưởng niệm thuyền nhân tại Galang là sau khi bia đã bị đục bỏ thì ở tại California bà con có biểu tình trước Lãnh Sự Quán Indonesia. Chính ông phó lãnh sự của Toà Lãnh Sự Indonesia ở Cali cũng đã hứa là sẽ xây dựng lại bia tưởng niệm thuyền nhân tại Galang.

Vào lúc đó ông ta nói rằng bia tưởng niệm thuyền nhân bị phá hoại chớ không phải là chủ trương của chính phủ. Tuy nhiên, sau đó chúng tôi có gặp gỡ giới chức tại khu vực đó và cái tin chính thức được họ chính thức loan báo, đó là do áp lực của nhà cầm quyền Hà Nội cho nên Indonesia không thể làm gì khác hơn là phải thực hiện theo đòi hỏi của nhà cầm quyền Hà Nội.

Đến Tháng Tám 2005 khi chúng tôi trở về thì cái lỗ trống của bia tưởng niệm đó cũng vẫn còn đó, và cái khung của bia tưởng niệm vẫn còn. Tháng Tư 2006 chúng tôi trở về Galang thì cái lỗ trống đó được lấp bằng cái logo của Trại Galang ngày xưa. Ở hai mặt là hình ảnh của cái logo.

Đến Tháng Tư 2007 khi chúng tôi trở về thì nguyên cái khung đó và cái logo đó không còn nữa. Coi như họ gút hẳn cái khung nền của đài tưởng niệm. Cái khung của đài tưởng niệm bị dời đi đâu mất, mình không biết. Và chỉ còn lại cái nền thôi.

Và Năm 2008 chúng tôi trở về đó thì đài tưởng niệm chỉ còn lại cái nền như Năm 2007. Và mới đây, cách nay mấy tuần chúng tôi trở về đó, cái nền bây giờ họ cũng tháo ra, coi như không còn dấu vết gì cả. Điều này cho chúng thấy một cách thầm lặng thì cái bia tưởng niệm thuyền nhân của chúng ta tại Bidong và Galang đều bị hủy theo sự đòi hỏi của nhà cầm quyền Hà Nội. Nó đã bị triệt hạ một cách hoàn toàn không còn dấu vết theo thời gian.

Bia tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam trên khắp thế giới

Thanh Quang: Trước tình trạng các bia tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam ở Bidong và Galang như vậy thì hẳn chúng ta liên tưởng đến bia tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam ở ngay tại những nơi mà người tị nạn đang sinh sống. Thưa anh, đến năm nay là đã 4 năm trôi qua, đã có bao nhiêu bia tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam tại hải ngoại được dựng lên để thay thế hai tấm bia thuyền nhân Việt Nam ở nơi hoang đảo Bidong và Galang ?

Ông Trần Đông: Vẫn theo thời gian lịch sử từ đó đến nay thì chúng ta thấy rằng trước khi bia tưởng niệm thuyền nhân tại Bidong và Galang được dựng lên thì chúng ta có hai bia tưởng niệm thuyền nhân tại nước ngoài. Một cái là bia tưởng niệm thuyền nhân tại thủ đô của Canada, tức là tại Ottawa, và ở tại Santa Ana trong khuôn viên chùa của Thượng Toạ Thích Quảng Thành đã được bà con và cộng đồng tại chỗ dựng lên trước khi bia tưởng niệm thuyền nhân tại Bidong và Galang được dựng lên.

Sau khi bia tưởng niệm thuyền nhân tại Galang và Bidong bị đập phá thì ở nhiều nơi khác bà con và cộng đồng tại chỗ đã dựng lên nhiều tấm bia tưởng niệm thuyền nhân khác để thay thế cho hai tấm bia bị đập phá ở hai hoang đảo xa xôi không người ở là Bidong và Galang.

Và chúng ta thấy rằng cho tới ngày hôm nay có một bia tưởng niệm thuyền nhân tại Pháp, gần thủ đô Paris, tại Chùa Khánh Anh. Tại Thuỵ Sĩ cũng có một bia tưởng niệm. Tại nước Đức dã có hai bia tưởng niệm được dựng lên rồi, và sắp tới đây sẽ có một bia tưởng niệm khác sẽ được khánh thành do các cựu thuyền nhân Cap Anamur dựng lên.

Tại Vương Quốc Bĩ cũng đã có một bia tưởng niệm thuyền nhân đã được khánh thành rồi. Tại Melbourne (Úc Châu) năm rồi, bia tưởng niệm thuyền nhân cũng đã được khánh thành. Tại Nam California (Hoa Kỳ) trong Tháng Tư này cũng đã khánh thành bia tưởng niệm ở tại Nghĩa Trang Westminster. Như vậy chúng ta thấy có tổng cộng đến 8 bia tưởng niệm thuyền nhân được dựng lên tại nơi cư trú của chúng ta.

Và theo chỗ chúng tôi được biết thì hiện nay đang có nhiều dự án của nhiều cộng đồng và nhiều bà con ở các nơi trên thế giới đang đệ trình dự án để xin dựng bia tưởng niệm thuyền nhân ở tại chính nơi sinh sống của mình, để mình đi ra đi vô mình có thể thấy, có thể sờ mó, có thể tưởng nhớ, mình có thể tổ chức tưởng niệm những thân nhân, anh em họ hàng của mình đã qua đời trên con đường vượt biên, vượt biển.

Thanh Quang: Thưa anh, nếu như vậy thì việc Việt Nam áp lực Malaysia và Indonesia đập bỏ hai bia tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam tại Bidong và Galang có mang lại cho họ hiệu quả gì không ?

Ông Trần Đông: Qua vấn đề này chúng ta thấy cộng sản Việt Nam đã thực sự lầm khi hạ lệnh đập bỏ hai bia tưởng niệm thuyền nhân ở Bidong và Galang. Họ hoàn toàn sai lầm trong vấn đề này. Chúng ta đã bị mất hai cái, nhưng bà con đã tự động dựng lên một chục cái, rồi sẽ có mỗi nơi một cái để thay thế cho hai cái đã mất.

Muốn xoá bỏ lịch sử thuyền nhân Việt Nam

Thanh Quang: Việc xây dựng bia tưởng niệm thuyền nhân tại những nơi như anh vừa nói có bị Hà Nội áp lực phản đối hay không? Nếu có thì làm sao mà cộng đồng hải ngoại có thể thực hiện được điều này?

Ông Trần Đông: Vấn đề thực hiện bia tưởng niệm thuyền nhân bị Hà Nội phản đối một cách rất mạnh mẽ bởi vì chủ trương của cộng sản Việt Nam là họ muốn xoá sổ giai đoạn thuyền nhân để rồi trong tương lai con cháu chúng ta nghĩ rằng do đường lối sáng suốt mở rộng tự do dân chủ của đảng và nhà nước cho nên chúng ta có hàng triệu người từ trong nước đi ra nước ngoài sinh sống và vì vậy cho nên con cháu chúng ta phải đời đời nhớ ơn này kia nọ, vân vân...

Đó là điều mà họ muốn và vì vậy cho nên họ không ngần ngại dùng thủ đoạn và các phương pháp mờ ám. Tuy nhiên, lịch sử đã không thể nào xoá được, nhất là lịch sử thuyền nhân là một lịch sử lớn trong dòng lịch sử 4.000 năm của chúng ta, mà không riêng tại Việt Nam mà tại các nơi khác trên thế giới.

Thanh Quang: Như vậy thì thế hệ mai sau sẽ quên hay là cộng sản Việt Nam có thể xoá sổ lịch sử thuyền nhân Việt Nam được không ạ?

Ông Trần Đông: Theo tôi, thế hệ mai sau sẽ không bao giờ quên và tài liệu tham khảo về các cộng đồng sắc tộc khác cho thấy một điểm giống nhau là thế hệ thứ nhứt và thế hệ thứ hai là những thế hệ mà họ phải làm việc cật lực để lo ổn định đời sống.

Thế hệ thứ hai và thứ ba sẽ là những thế hệ lo hội nhấp vào cuộc sống mới. Và bắt đầu từ thế hệ thứ ba, thứ tư, sớm nhứt cũng là thế hệ thứ ba hoặc là thế hệ thế hệ thứ tư, thứ năm trở về sau thì đó là những thế hệ về nguồn, mức độ về nguồn rất là mạnh, và lúc đó họ mới bắt đầu nghiên cứu, tìm hiểu nguồn gốc của họ.

Và nhu cầu tìm hiểu nguồn gốc trở thành nhu cầu rất là lớn trong cộng đồng, cho nên vấn đề của chúng ta ngày hôm nay, chúng ta là những người thuộc thế hệ thứ nhứt, chúng ta là những người thuộc thế hệ nhân chứng, công việc và trách nhiệm của chúng ta là phải làm sao lưu giữ lại những di sản này, lưu giữ lại chứng tích này để làm tài liệu lịch sử cho con cháu, bởi vì không ai biết rõ giai đoạn này hơn chúng ta.

Và nếu một mai chúng mai một đi, và nếu di sản này , di tích này mai một đi thì coi như là mai một vĩnh viễn, mất vĩnh viễn, rất khó tìm hiểu lại được. Và nếu có tìm hiểu, làm sống lại thì nó vẫn không trung thực bằng thế hệ chúng ta tìm hiểu và gin giữ nó.

Cho nên ngày hôm nay trách nhiệm của chúng ta là gom góp lại, tàng trữ lại và có sao giữ vậy. Con cháu của chúng ta mai sau sẽ nghiên cứu, sẽ sàng lọc, sẽ đánh giá, sẽ luận công, sẽ kết tội.

Và thưa quý thính giả, không có sự thật nào mà có thể được che giấu dưới ánh sáng mặt trời. Rồi ra ai là người có công, ai là kẻ có tội, thì lúc đó sẽ được sáng tỏ trước lịch sử. Và phần luận xét đó sẽ do các thế hệ mai sau. Thế hệ chúng ta là thế hệ mà cần nên gìn giữ lại những di sản này để làm chứng tích lịch sử cho các thế hệ mai sau.

Thanh Quang, phóng viên đài RFA
2009-05-01


Saturday, May 2, 2009

Hàng Tướng Dương Văn Minh - Lữ Giang

Lữ Giang

Trong các tướng lãnh tham gia chính trường tại miền Nam Việt Nam, có lẽ tướng có thân phận bi thảm nhất là Tướng Dương Văn Minh. Biết Dương Văn Minh không hiểu biết gì về chính và thủ đoạn chính trị, thường suy nghĩ và hành động theo cảm tính, lại mắc bệnh tham lam, nên Hoa Kỳ đã biến ông thành một một công cụ đầy oan nghiệt để thực hiện chính sách của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn rồi loại bỏ.

Có thể coi cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh như là một chương bi thảm trong lịch sử VNCH và cũng là một chương bi thảm trong tương quan giữa VNCH và Hoa Kỳ.

Người Việt ai cũng thuộc câu “Tri bỉ tri kỷ bách chiến bách thắng”, nhưng mặc đầu đã chiến đấu với Mỹ trong 20 năm và đã ở trên đất Mỹ 34 năm, đa số người Việt chống Cộng không biết Mỹ và địch đang làm gì, cứ suy nghĩ và hành động theo cảm tính, nên đấu tranh đã 34 năm mà vẫn chưa thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Vì thế, hôm nay nhân kỷ niệm ngày mất nước, chúng tôi xin trình bày tóm lược về một số bí ẩn và tai tiếng chung quanh cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh với ước mong mọi người có thể nhìn vào đó tìm ra bài học lịch sử khi tiếp tục đấu tranh.

VỤ BIỂN THỦ MỘT THÙNG PHUY VÀNG

Trong cuốn “Việt Nam một trời tâm sự”, Tướng Nguyễn Chánh Thi có kể lại:

Sáng ngày thứ 4, một toán thuyền và độ vài trăm người có súng đi ra với nhiều lá cờ trắng xin đầu hàng. Tiếp theo là một chiếc tàu chở ông Hồ Hữu Tường và ông Trần Văn Ân, cố vấn của Lê Văn Viễn ra điều đình. Tướng Thi kể tiếp:

“Trong toán này có Thiếu Tá Tư Nhỏ trước kia ở Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đào ngũ theo Bình Xuyên vì y là con rễ của Bảy Viễn.

“Tư Nhỏ ra đầu hàng và tình nguyện đi chỉ chỗ vàng bạc chôn giấu của Bảy Viễn. Hắn ta nói:

“- Trước đây một toán Bình Xuyên 8 người cùng chiếc du thuyền của Bảy Viễn chở 6 thùng 200 lít đựng bạc và một thùng đựng vàng, hột xoàn đem đi chôn giấu. Khi chôn xong rồi thì 8 người ấy đều bị giết ngay và lấp xuống ở gần đó.

“Khi tình hình ở đây được hoàn toàn yên ổn, tôi được quan sát tận mắt sự đào hầm giấu tiền và các bộ mặt căng thẳng của Bộ Tư Lệnh của Đại Tá Dương Văn Minh và Trung Tá Nguyễn Khánh mà đâm ra hoài nghi.

“Trung Tá Nguyễn Khánh lúc đó chơi trò “cao bồi”, hai tay cầm hai khẩu súng lục, miệng nói: Cấm không ai được đến gần đây cả!

“Tiền!” Thật là khó coi? Chán mắt!

“Tôi lạnh lùng cho chiếc tàu của tôi trở về vị trí đóng quân, trong lòng tôi suy nghĩ miên man về thái độ cử chỉ của bọn họ. Tin ít mà ngờ nhiều.” [1]

Câu chuyện về tài sản của Bình Xuyên được Tướng Thi kể lại có nhiều điểm khác với câu chuyện do Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Công An Cảnh Sát Quốc Gia, tường thuật lại dưới đây. Vì thế, một câu hỏi đã được đặt ra: Phải chăng đây là hai số tiền và vàng khác nhau? Chúng tôi tin rằng hai số tiền và vàng này chỉ là một, nhưng Tướng Thi chỉ được nghe nói hay nhìn thoáng qua nên không biết chính xác, còn Đại Tá Y là người đứng ra chỉ huy việc truy tìm số tài sản này nên câu chuyện được ông kể lại đầy đủ và chính xác hơn. Về sau, ông Diệm cũng chỉ ra lệnh điều tra về số tiền và vàng mà Đại Tá Y đã tìm được, chứ không nói gì đến số tiền và vàng mà Tướng Thi đã kể.

Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia kiêm Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trưởng Trung Ương Tình Báo của VNCH đã tường thuật như sau:

Lúc đó ông là Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chợ Lớn, chỉ huy Tiểu Đoàn 184. Vào khoảng tháng 5 năm 1955, sau khi đánh đuổi quân Bình Xuyên chạy vào Rừng Sát, ông đã thả các nhân viên Phòng 2 đi thăm dò ven rừng. Các nhân viên này thấy một người đang ngồi câu cá trên một chiếc xuồng ở một khu vắng, dáng điệu rất khả nghi, nên bắt về thẩm vấn. Sau nhiều cuộc tra hỏi, người này thú nhận anh ta là một cận vệ của Bảy Viễn, được phái ở lại giữ hai thùng phuy vàng và bạc đã phải nhận chìm xuống nước trước khi chạy trốn. Ông đã cho thợ lặn xuống tìm nhưng không thấy. Nhân viên Phòng 2 tiếp tục phỏng vấn, người này quả quyết nơi anh ta làm dấu đúng là nơi đã nhận 2 thùng phuy xuống. Thấy thái độ quả quyết của anh này, ông cho thợ lặn xuống mò một lần nữa, nhưng trong một phạm vi rộng hơn. Quả nhiên, thợ lặn đã vớt được hai thùng này cách xa nơi đánh dấu khoảng 100 thước, vì bị nước cuốn trôi đi. Đây là thứ thùng phuy đựng dầu xăng loại 200 lít.

Công cuộc kiểm tra cho thấy một thùng đựng bạc giấy, còn một thùng đựng vàng. Bạc giấy toàn là loại 500$, được gói trong những bao nilon nhỏ, có nhiều bao bị nước thấm nước. Ông bảo nhân viên đem số bạc ướt phơi khô rồi đưa tất cả đi nạp vào ngân khố. Còn thùng vàng được chở đến giao cho Đại Tá Dương Văn Minh, Quân Trấn Trưởng Sài Gòn. Tướng Nguyễn Khánh, lúc đó là Trung Tá Chỉ Huy Phó của Đại Tá Minh, cho biết số vàng này khi giao nạp đã được bỏ vào trong hai cái rương, nhưng rồi sau đó không còn nghe Dương Văn Minh nói gì về số vàng này.

Ông Diệm đã ra lệnh cho Thẩm Phán Lâm Lễ Trinh, Biện Lý Tòa Sơ Thẩm Sài Gòn, và Thiếu Tá Mai Hữu Xuân, Giám Đốc An Ninh Quân Đội, mở cuộc điều tra vụ này.

Ông Huỳnh Văn Lang, lúc đó là Bí Thư Liên Kỳ của Đảng Cần Lao và Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái, cho biết ông Lâm Lễ Trinh đã tiết lộ rằng khi được hỏi về số vàng này, Tướng Minh đã sừng sộ và giận dữ, nói rằng ông Diệm là người bội bạc, ông đã giúp ông Diệm đánh dẹp Bình Xuyên mà còn hỏi cái gì.

Ông Lang cũng cho biết ông có được đọc bản báo cáo hai trang của Đại Tá Mai Hữu Xuân. Đại Tá Xuân chỉ xác nhận số vàng Tiểu Khu Chợ Lớn tịch thu được đã giao cho Đại Tá Dương Văn Minh cất giữ và đề nghị nên đem ra chia nhau! [2]

Ông Cao Xuân Vỹ cho biết khi ông Nguyễn Ngọc Thơ đề nghị cho Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Địch Đinh Tiên Hoàng để bắt Ba Cụt, ông Diệm đã nói với ông Nhu: “Thôi, cho nó số vàng đó đi cho yên!”

CHỨA CHẤP GIÁN ĐIỆP VIỆT CỘNG

Anh Nguyễn Tư Thái, tự là Thái Đen, Phụ Tá Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt, cho biết vào đầu năm 1960, nhân viên của Đoàn thấy một người thường lui tới nhà Dương Văn Minh, ở số 3 đường Trần Quý Cáp, Sài Gòn, nhưng mỗi lần đi ra, anh ta thường nhìn trước nhìn sau rất kỹ, thấy không có gì khả nghi mới bước ra. Những người bình thường không ai làm như vậy. Một hôm, đợi anh ta ra khỏi nhà Dương Văn Minh một khoảng xa, nhân viên tình báo liền bắt đẩy anh ta lên xe và đem về thẩm vấn. Lúc đầu anh ta nói anh ta chỉ là người đến dạy học cho các con của Tướng Minh. Tuy nhiên, sau nhiều cuộc thẩm vấn khéo léo, anh ta nhìn nhận anh ta là một ủy viên của Huyện Ủy Thủ Đức, được phái đến gặp Dương Văn Minh để lấy tin tức. Anh này đã bị giam giữ luôn, nhưng Dương Văn Minh không hay biết gì cả.

Sau vụ này, Đoàn Công Tác Đặc Biệt và Tổng Nha Cảnh Sát đã bố trí thường trực chung quanh nhà Dương Văn Minh, theo dõi từng bước đi của những người ra vào nhà ông, quay phim và chụp hình. Điện thoại của nhà ông cũng bị nghe lén.

Khoảng tháng 3 năm 1960, có một người có mặt mày và hình dáng rất gióng Dương Văn Minh, đã đến ở luôn trong nhà Dương Văn Minh và mỗi lần đi đâu thường được chính Dương Văn Minh chở đi. Sưu tra hồ sơ, nhân viên tình báo biết ngay đó là Dương Văn Nhựt, em của Dương Văn Minh, có bí danh là Mười Tỵ, hiện đang là Thiếu Tá trong bộ đội miền Bắc. Vợ của Dương Văn Nhựt hiện đang sống tại Sài Gòn. Theo dõi sát, nhân viên tình báo biết được Dương Văn Nhựt đang đi vận động Phật Giáo và sinh viên chống ông Diệm.

Trong cuộc phỏng vấn ngày 16.10.2004, Đại Tá Nguyễn Văn Y cho biết khi vợ Dương Văn Nhựt có bầu gần sinh, Dương Văn Nhựt đã đưa vợ tới ở nhà của Trung Tá Dương Văn Sơn, em của Dương Văn Minh. Lúc đó Dương Văn Sơn đang làm trưởng phòng truyền tin của Biệt Khu Thủ Đô. Tướng Minh thường đến nhà Dương Văn Sơn nói chuyện với Dương Văn Nhựt. Vì thế, nhà Dương Văn Sơn cũng bị theo dõi như nhà Dương Văn Minh.

Một hôm, Tổng Thống Diệm gọi ông và bảo đem tất cả hồ sơ vụ Dương Văn Minh vào gặp ông. Có lẽ trước đó Đoàn Công Tác Đặc Biệt đã trình nội vụ cho Tổng Thống biết rồi.

Khi ông đem hồ sơ vào, Tổng Thống Diệm hỏi: “Dương Văn Minh có theo Cộng Sản không?” Rồi ông nói tiếp: “Võ Nguyên Giáp nhiều công trạng như rứa mà nay Cộng Sản chỉ mới cho lên Trung Tướng. Dương Văn Minh công trạng có bao nhiêu đâu mà nay đã lên Trung Tướng rồi, còn muốn gì nữa?”

Đại Tá Y nói ông vốn là đàn em và là người quen biết với Tướng Minh nên chưa biết phải trả lời như thế nào. Tổng Thống liền đưa cho ông cái hộp quẹt và bảo đem tất cả hồ sơ ra đốt đi. Tổng Thống nói: “Mỹ mà nó biết được Trung Tướng của mình theo Việt Cộng thì xầu hổ lắm. Đốt hết đi! Từ rày tôi không muốn nhắc tới cái vụ này nữa.”

Nhưng đốt hồ sơ rồi cũng chưa xong, nhân viên tình báo còn phải bắt Dương Văn Nhựt và dẫn ông ta ra chiến khu để ông ta đi qua Cambodia và trở về lại miền Bắc, với lời cảnh cáo: “Nếu trở lại sẽ bị thanh toán”. Câu chuyện này có lẽ Tổng Cục Phản Gián của Hà Nội không hề hay biết.

Sau đó, ông Diệm đã bảo Đại Tướng Lê Văn Tÿ, Tổng Tham Mưu Trưởng, thông báo cho Tướng Minh biết từ nay ông ta chỉ có thể xử dụng các đơn vị cấp đại đội trở xuống mà thôi. Tướng Minh biết lý do tại sao, nhưng các cố vấn Mỹ không biết chuyện gì đã xẩy ra, nên rất thắc mắc. Họ nghĩ rằng ông Diệm sợ Tướng Minh làm đảo chánh nên mới hạn chế như vậy. Ngày 18.7.1962, ông Diệm thông báo cho Tướng Harkins biết ông quyết định hủy bỏ chức Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân của Tướng Minh vì ông ta “thiếu khả năng.” Ngày 8.12.1962 Trung Tướng Dương Văn Minh được cử làm Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống, một chức vụ được coi như “ngồi chơi xơi nước”.

Sau này, báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật của Việt Cộng trong số ra ngày 1.9.1996, dưới đầu đề “Tướng Dương Văn Minh dưới mắt các nhà binh địch vận”, đã tường thuật lại mối quan hệ giữa Tướng Dương Văn Minh và người em là Dương Văn Nhựt như sau:

“Năm 1960, Mười Tỵ, thiếu tá thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Nhân Dân Việt Nam - được lệnh về Nam nhận công tác đặc biệt. Nhiệm vụ của ông là quan hệ, tranh thủ người anh ở bên kia chiến tuyến, đại Tướng Dương Văn Minh. Sau khi vượt Trường Sơn vào Nam, Thiếu Tá Dương Văn Nhựt, tức Mười Tỵ, đã được Ban Binh Vận Trung Ương Cục tìm mọi cách đưa vào Sài Gòn. Thông qua một người em gái, ông Mười Tỵ đã đến được và ở lại nhà của Dương Văn Minh suốt một tuần lễ. Hai anh em ở hai phía chiến trận gặp gỡ hàn huyên. Bằng tình cảm gia đình, ông Mười Tỵ thuyết phục Tướng Minh. Từ đó, ông Mười Tỵ cứ phải đi về trong “vùng địch” hoặc ra nước ngoài để tiếp xúc và gặp gỡ anh mình. Khi Dương Văn Minh lưu vong ở Thái Lan, ông Mười Tỵ cũng được bố trí sang Thái Lan qua ngã Campuchia. Ông đến Nam Vang, sống trong nhà một Hoa kiều. Tại đó, trong vòng một tháng, ông vừa học bằng sách vở, vừa thực tập giao tiếp để nói tiếng Hoa hồng để nhập vai người đi buôn. Có khi từ Nam Vang ông phải bay lòng vòng sang Ý, rồi từ Ý được cơ sở Việt kiều đón về Pháp để móc nối chị dâu (vợ của Tướng Minh) từ Thái Lan qua liên lạc”.

Bài báo viết thêm:

“Kể từ 1972, bộ đội bắt đầu mở nhiều trận đánh lớn, nên Mười Tỵ được lệnh không ra vùng địch và ra nước ngoài nữa vì “sợ rủi ro làm hỏng ý đồ chiến lược”, nên việc móc nối với Dương Văn Minh được giao cho Nguyễn Hữu Hạnh.”

BỊ BIẾN THÀNH TÊN ĐAO PHỦ CỦA MỸ

Vì không hiểu gì về thủ đoạn chính trị, Dương Văn Minh đã bị Hoa Kỳ biến thành tên đao phủ thanh toán Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn rồi sau đó loại bỏ.

1. Giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu

Biết Tướng Dương Văn Minh đang bất mãn với ông Diệm nên CIA thuyết phục ông ta làm đảo chánh lật đổ ông Diệm. Dương Văn Minh đồng ý ngay. Trên danh nghĩa, ông ta là người chỉ huy cuộc đảo chánh, nhưng bên trong CIA chỉ giao cho ông ta một nhiệm vụ duy nhất là thanh toán nhà Ngô. Còn việc lập kế hoạch và chỉ huy cuộc đảo chánh được trao cho Tướng Trần Thiện Khiêm.

Khi tiến hành cuộc đảo chánh, Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh hạ sát Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân; Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, và Thiếu Tá Lê Quang Triệu, Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt.

Khi được ông Diệm báo tin đang ở nhà thờ cha Tam, Dương Văn Minh đã cho lập “toán hành quyết” đi đón và giết ông Diệm và ông Nhu. Toán này do Đại Tá Mai Hữu Xuân cầm đầu. Tướng Minh cho Đại Úy Nguyễn Văn Nhung, cận vệ của mình, đi theo làm sát thủ.

Khi xác ông Diệm đưa về Tổng Tham Mưu, một quân cảnh cho biết chính mắt ông ta thấy Tướng Dương Văn Minh đã xuống lột quần ông Diệm ra xem có “chim” hay không.

Tướng Trần Văn Đôn cho biết khi hay tin hai ông đã chết, ông rất xúc động và đến hỏi Dương Văn Minh:

- Tại sao hai ông ấy chết?

Ông Minh có vẽ khó chịu, trả lời bằng tiếng Pháp: Ils sont morts! Ils sont morts! (Mấy ông ấy chết rồi, thì chết rồi) [3]

2. Giết ông Ngô Đình Cẩn

Chính Tướng Nguyễn Khánh đã cho soạn thảo và ban hành Sắc Luật số 4/64 ngày 28.2.1964 thiết lập Toà Án Quân Sự đưa ra những quy định trái với nguyên tắc bất hồi tố của hình luật, và cử nhóm tay chân bộ hạ vào làm “phán quan” để tuyên án tử hình ông Cẩn. Sắc Luật lại quy định rằng các bị cáo không có quyền kháng cáo hay thượng tố. Bị cáo bị án tử hình có thể đệ đơn xin ân xá lên Quốc Trưởng trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Trong trường hợp phạm nhân bị xử tử hình đã đệ đơn ân xá, án tử hình sẽ thi hành trong hạn 5 ngày kể từ khi tuyên án, nếu trong hạn đó, đơn xin ân xá không được chấp thuận. Những sự quy định này nhắm gài Tướng Dương Văn Minh, lúc đó đang là Quốc Trưởng bù nhìn, vào cái thế phải chịu trách nhiệm giết ông Cẩn.

Mặc dầu đứng đàng sau Tướng Khánh trong vụ làm luật giết ông Cẩn và biết chắc ông Cẩn phải bị giết, Đại Sứ Cabot Lodge giả vờ đứng ra làm con thoi, đề nghị Tướng Minh ân xá cho ông Cẩn. Tướng Minh biết mình bị gài nên nói với Đại Sứ Lodge: “Khánh luôn luôm tìm cách đặt tôi vào tình trạng khó khăn (He always tries to put me in the difficult position). Tôi sẽ bị cả nước thù ghét và tố cáo nếu tôi ân xá Cẩn.” Đại Sứ Lodge nhận xét: “Rõ ràng là Khánh đang sắp xếp các sự việc để cho Minh gánh lấy tất cả trách nhiệm nếu không hành quyết Cẩn.”

Hôm 5.5.1964 Tướng Dương Văn Minh đã ký quyết định bác đơn xin ân xá của ông Cẩn và trở thành tên sát thủ ông Cẩn!

BỊ ĐƯA RA LÀM HÀNG TƯỚNG

Vào tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ thấy tình hình miền Nam Việt Nam không còn cứu vãn được, nên đã sắp xếp cho miền Nam đầu hàng Bắc Việt để tránh sự đổ máu quá nhiều. Biết Tướng Dương Văn Minh có liên lạc với Việt Cộng, Đại Sứ Martin của Mỹ đã phối hợp với Đại Sứ Merillon của Pháp thuyết phục Tướng Thiệu từ chức và lừa Tướng Dương Văn Minh ra làm hàng tướng bằng cách tạo cho ông một ảo vọng rằng chỉ có ông mới có thể nói chuyện với “phía bên kia” để hình thành một “chính phủ liên hiệp Quốc – Cộng!”

Trong cuốn Decent Interval, Frank Snepp, một phân tích viên của CIA ở Saigon lúc đó, nói rằng tại miền Nam lúc đó, không ai tin Hà Nội có thể chấp nhận một giải pháp khi họ đang trên đà chiến thắng. Ông Vũ Văn Mẫu cũng đã nhận ra được điều đó nên khi gặp Đại Sứ Merillon, ông đã nói với ông Đại Sứ bằng tiếng Latin rằng nếu giải pháp một chính phủ liên hiệp không thành thì xin giúp ông được ra đi.

Frank Snepp cho biết thêm:

“Khi tôi đang bận đánh máy bản báo cáo thì Polgar ở trong phòng riêng với các viên chức khác của Trạm Tình Báo (Toà Đại Sứ) thảo luận về việc chuyển giao nhanh quyền hành. Một khi Thiệu từ chức, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương phải trao quyền hành ngay lập tức cho Minh “Lớn”, và Quốc Hội phải sẵn sàng chấp thuận sự chuyển giao, để sự chuyển giao đó có thể được thực hiện “một cách hợp hiến” (nhấn mạnh của Đại Sứ Martin) và “nhanh chóng”. [4]

Sau khi ép buộc Tướng Nguyễn Văn Thiệu từ chức Tổng Thống, Mỹ thúc đẩy Phó Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền lại cho Tướng Dương Văn Minh để đầu hàng Việt Cộng, nhưng ông Trần Văn Hương không hiểu gì về tình hình lúc đó nên tìm cách cù cưa. Ông bí mật đến gặp Tướng Minh và yêu cầu Tướng Minh làm Thủ Tướng, nhưng Tướng Minh từ chối. Tuy nhiên, do sự thúc đẩy của CIA và một số nhân vật chính trị, cuối cùng ông cũng đồng ý trao quyền cho Tướng Minh với điều kiện phải có sự quyết định của Quốc Hội.

Ngày 26.4.1975 lưỡng viện Quốc Hội đã họp tại Thượng Viện dưới quyền chủ toạ của ông Trần Văn Lắm, Chủ Tịch Thượng Viện, để đưa Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống. Có 136 trong số 219 nghị sĩ và dân biểu đến họp. Sau khi Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, và Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tổng Giám Đốc CSQG trình bày về tình hình, Quốc Hội bắt đầu thảo luận về việc trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh. Có rất nhiều sự bất đồng về việc trao quyền, nhiều người cho rằng sự trao quyền này là bất hợp hiến. Nhưng các nhóm vận động hậu trường đã hoạt động rất ráo riết nên cuối cùng, lúc 20 giờ 54 phút, Quốc Hội đã biểu quyết chấp thuận trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh với số phiếu 147/151.

Chiều 28.4.1975, Tướng Dương Văn Minh đã nhận chức Tổng Thống. Lễ bàn giao được diễn ra tại Phòng Khánh Tiết của Dinh Độc Lập.

Cũng trong chiều 28.4.1975, Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân, vào Dinh Hoa Lan gặp Tướng Minh cho biết tình hình và hỏi Tướng Minh có định ra đi không. Tướng Minh cho con gái là Dương Mai, con rễ là Đại Tá Nguyễn Hồng Đài và hai cháu ngoại lên tàu di tản với Đô Đốc Cang, còn ông và bà Minh ở lại.

Đêm 29.4.1975, Tướng Minh vào ngủ trong Dinh Độc Lập để tránh pháo kích. Lúc đó, ông chỉ còn hy vọng Thượng Tọa Thích Trí Quang, người hứa sẽ đưa người “phía bên kia” đến thương lượng để thành lập chính phủ liên hiệp. Tướng Nguyễn Hữu Có kể lại lúc 4 giờ 35 sáng ngày 30.4.1975, Thích Trí Quang đã nói với Dương Văn Minh qua điện thoại:

“Thưa Tổng Thống, cũng như Tổng Thống là tôi vẫn chờ đến giờ nầy và theo tôi nghĩ có lẽ với tình thề hiện tại, trong sứ mạng của tôi, người đứng trung gian bắc nhịp cầu của thế cờ chính trị, có thể nói là chấm dứt. Với trọng trách là Tổng Thống, hơn nữa là một Đại Tướng, tôi nghĩ công việc phải nhờ vào tài quân sự của Đại Tướng, chứ giải pháp chính trị của tôi coi như chấm dứt, và từ giờ phút này nếu có chuyện gì xẩy đến thì mọi trách nhiệm đều do Tổng Thống, à quên Đại Tướng quyết định với giải pháp quân sự, mà trong lãnh vực này Đại Tướng rất rành và giỏi hơn tôi. Xin chào Tổng Thống ...”

Dương Văn Minh chỉ trả lời gọn một câu: “Thầy giết tôi rồi!” và cúp máy điện thoại.

Lúc đó là 4 giờ 45 phút sáng.

Frank Snepp kể lại, sau đó Tướng Minh đi đi lại lại một cách bực dọc (nervously) trong dinh Độc Lập trống vắng. Đoàn sứ giả đi thương lượng ở Tân Sơn Nhứt không thấy về. Có người khuyên ông nên tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, nhưng ông không đồng ý. Ông nói rất nhiều đồng bào của ông sẽ khinh ông. (Too many of his countrymen would think ill of him). Ông muốn hoản lại chuyện này cho đến khi nội các được thành lập. Khi đó ít ra những người khác phải chia xẻ sự sỉ nhục.[5]

Lúc 8 giờ 30, ông đến Phủ Thủ Tướng thảo luận lại thành phần chính phủ của Vũ Văn Mẫu rồi quay về dinh Độc Lập làm lễ ra mắt.

Lúc 10 giờ 15 sáng ngày 30.4.1975, khi thấy không còn gì để hy vọng nữa, Dương Văn Minh lên tiếng trên đài phát thanh Sài Gòn kêu gọi quân nhân, cảnh sát và các lực lượng bán quân sự “giữ vị trí, buông súng để bàn giao chính quyền trong vòng trật tự”. Lúc 11 giờ 30, chiếc xe tăng Cộng Sản đầu tiên loại T-54 tiến trên đại lộ Thống Nhứt về phía Dinh Độc Lập, ủi sập cổng, sau khi bắn hai phát đại bác long trời lở đất. Tiếng chân chạy ồn ào trong đại sảnh, có tiếng đạn lên nòng, một khẩu lệnh vang lên: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!” Dương Văn Minh là người bước ra đầu tiên, Thiếu Tá tùy viên Hoa Hải Đường đi bên cạnh, phía sau là Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền... Nhiều bộ đội ở đầu kia đại sảnh hét to: “Mọi người giơ hai tay lên!”. Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu và đoàn tùy tùng nhất loạt tuân lệnh.

Hai ông Minh và ông Mẫu được đưa đến đài phát thanh Sài Gòn để đọc lời đầu hàng. Nhưng khi hai ông vào bên trong đài phát thanh thì không còn nhân viên kỹ thuật nào ở đó để làm công việc thu băng. Sinh viên Nguyễn Hữu Thái phải mất hai tiếng mới tìm ra nhân viên kỹ thuật. Bản tuyên bố đầu hàng do chính trị viên Bùi Văn Tùng thảo, ông Minh đọc và đài phát thanh phát đi vào lúc 13 giờ 30.

Tính lại, Dương Văn Minh đã làm Tổng Thống không tới 40 tiếng đồng hồ: Nhận chức vào chiều 28 tại Dinh Độc Lập đến trưa 30.4.1975 đã tuyên bố đầu hàng!

NHÌN LẠI CON NGƯỜI CỦA DƯƠNG VĂN MINH

Tướng Nguyễn Chánh Thi tiết lộ rằng khi còn ở Pháp, Tướng Dương Văn Minh có gởi cho ông một lá thư đề ngày 15.4.1987, trong đó có đoạn như sau:

"Thi,

“Được tin Thi tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi còn lưu lại rất nhiều kỷ niệm.

“Từ khi tôi đến nước Pháp tới nay, lật bật đã gần sáu năm rồi, sống với một cuộc đời réfugié tuy có thong thả nhưng lúc nào cũng bận tâm. Thoát được chế độ Cộng sản với hai bàn tay không - Pháp chẳng giúp đỡ gì - mình sống ẩn thân trong một đô thị thật nhỏ, kể ra cũng tạm yên.

“Nghe Thi kể chuyện các anh em quân nhân, tôi rất khổ tâm. Lúc đó tôi bị đày ở Bangkok cho nên có nhiều việc tôi không được rõ hết.

“Anh em có đọc sách của anh Đỗ Mậu kể chuyện lại cho tôi nghe; tôi phải công nhận anh Đỗ Mậu kể chuyện như vậy là rất can đảm. Lên án Cần-lao và Công-giáo đến mức đó là cùng. Ngoài ra, anh Đỗ Mậu có trách tôi không biết tự tử như các bực tiền bối, cũng có phần đúng. Nhưng đây chỉ là một vấn đề quan niệm mà thôi.

“Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng là đúng. Đôi khi mình phải dám sống để hứng nhận những hậu quả cho sự quyết định của mình gây ra ...”

Thân phận của Tướng Minh đã bị Hoa Kỳ biến thành một cái mền rách, nhưng vì quá yếu kém về chính trị, nên cho đến khi gần tới giờ về cỏi âm, ông vẫn chưa nhận ra được! Lãnh đạo mà như thế, mất miền Nam là chuyện không có gì đáng ngạc nhiên.

Nhìn lại con người của Dương Văn Minh, chúng ta thấy có 3 đặc điểm sau đây:

Thứ nhất là tham nhũng và thiếu trách nhiệm:

(1) Biển thủ một thùng phuy vàng lấy được của Bình Xuyên và một số tiền bạc thu được sau cuộc đảo chánh 1.11.1963. Cho một tay chân bộ hạ nổi tiếng tham những là Tướng Mai Hữu Xuân kiêm ba chức quan trọng cùng một lúc để truy lùng tài sản và khảo của các viên chức chế độ cũ, đó là Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo và Đô Trưởng Sài Gòn. Tướng Xuân đã nhận cả tiền của Việt Cộng để thả các cán bộ cao cấp của Việt Cộng ra.

(2) Không quan tâm đến tình hình miền Nam sau cuộc đảo chánh và có quyết định sai lầm: Ra lệnh phá hủy các ấp chiến lược đã được thiết lập để đối phó với Cộng Sản, đưa miền Nam tới bờ vực thẳm khiến Hoa Kỳ phải thực hiện “Pentagon’s coup” để lật đổ và đưa quân vào miền Nam cứu vãn tình thế.

Thứ hai là ngố:

Mặc dầu làm việc với Hoa Kỳ và hành động theo sự xúi biểu của Hoa Kỳ, ông không hiểu gì về chính sách và thủ đoạn của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn, nên đã bị Hoa Kỳ biến thành công cụ:

(1) Ông bị biến thành một tên sát thủ giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn thay cho người Mỹ khi Hoa Kỳ muốn thay đổi chính sách. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó ông bị Hoa Kỳ loại và đưa những tay chân bộ hạ của CIA lên cầm quyền.

(2) Khi Miền Nam sắp sụp đổ, ông bị Hoa Kỳ lường gạt bằng chiêu bài “hoà giải hoà hợp” để đưa ông ra làm Hàng Tướng!

Thứ ba là hèn:

(1) Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, cận vệ thân tín của ông, được ông phái đi giết Đại Tá Lê Văn Tung và Thiếu Tá Lê Văn Triệu, sau đó hạ sát ông Diệm và ông Nhu. Ấy thế mà sáng 30.1.1964, khi linh Nhảy Dù bắt Thiếu Tá Nhung trước mặt ông và dẫn đi, rồi tối hôm đó hạ sát, ông chẳng có một lời nào!

(2) Sáng ngày 30.4.1975, bộ chỉ huy 3 chiến thuật của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đang quần thảo với Việt Cộng trước cổng Bộ Tổng Tham Mưu ở Lăng Cha Cả thì Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng. Thiếu Tá Phạm Châu Tài, chỉ huy trưởng bộ chỉ huy 3 chiến thuật, đã nói chuyện với Tổng Thống Dương Văn Minh qua điện thoại:

- Tôi là chỉ huy trưởng cánh quân đang tử chiến với Việt Cộng ở Bộ Tổng Tham Mưu, tôi đang cố liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu thì lệnh ngưng chiến đã ban ra và quân của Việt Cộng vẫn còn đang tiến về thủ đô. Tôi vào trong Bộ Tổng Tham Mưu thì không còn một tướng lãnh nào ở đây, họ đã bỏ chạy hết, do đó tôi muốn nói chuyện với Tổng Thống để xin quyết định.

Tổng Thống Minh trả lời:

- Các em chuẩn bị bàn giao đi.

Thiếu Tá Tài hỏi lại:

- Có phải là đầu hàng không?

Tổng Thống Minh trả lời:

- Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng của Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập.

Thiếu Tá Tài nói:

- Nếu xe tăng của Việt Cộng tiến về Dinh Độc Lập thì chúng tôi sẽ đến cứu Tổng Thống. Nếu Tổng Thống ra lệnh đầu hàng thì Tổng Thống có chịu trách nhiệm với hơn 1000 quân đang tử chiến ở Bộ Tổng Tham Mưu hay không?"

Tổng Thống Minh trả lời:

- Tùy ý các anh em.

Nói xong cúp máy!

(3) Ký giả Borries Gallasch, phóng viên tờ Der Spiegel của Đức, người ký giả ngoại quốc duy nhất có mặt trong Dinh Độc Lập vào sáng 30.4.1975, đã kể lại thái độ của Tướng Dương Văn Minh khi đối diện với các bộ đội cộng sản đến bắt ông đầu hàng như sau: Đại Tướng Dương Văn Minh im lặng. Dưới chiếc mũ cối, những người lính bộ đội nhìn ông Minh với vẻ tò mò... Cuối cùng ông Minh đã lên tiếng, hỏi một người lính: “Em trai của tôi hiện nay ra sao? Khi nào tôi có thể gặp chú ấy?”.

Làm tướng mà phải đầu hàng là nhục rồi, nhưng lại còn hèn hơn nữa khi nói mé cho những tên bộ đội nhỏ bé của Cộng quân biết rằng ông có người em theo Việt Cộng là Dương Văn Nhựt để chứng tỏ ta đây cũng thuộc “gia đình Cách Mạng”!

NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG

Ngày 8.8.1983, Dương Văn Minh, được chính quyền Hà Nội cho phép di cư sang Pháp và sống với hai người con trai là Dương Minh Đức và Dương Minh Tâm. Khoảng năm 1988, ông âm thầm qua Pasadena, Nam California, Hoa Kỳ, và sống với con gái là Dương Mai đang định cư ở đó. Trong những những ngày còn lại của cuộc đời, Tướng Dương Văn Minh phải sống trong bóng tối, không dám gặp cộng đồng người Việt tại đây.

Ngày 5.8.2001, ông bị té từ xe lăn, được đưa vào bệnh viện Huntington Memorial Hospital và qua đời ngày hôm sau, hưởng thọ 86 tuổi. Linh cữu ông cũng được phủ cờ vàng ba sọc đỏ, được di chuyển lên xe bởi 6 người thân gồm các ông Hoa Hải Đường, Nguyễn Hồng Đài, Trịnh Bá Lộc, Hoa Hải Thọ, Ngô Long và Nguyễn Trí Dũng. Sau đó, linh cửu ông đã được hoả thiêu trưa thứ bảy 18.8.2001 vào lúc 12 giờ tại vãng sanh đường Skyrose thuộc nghĩa trang Rose Hill, Nam California.

Lữ Giang
26.4.2009
Nguồn: E-Mail from HLK 2.5.09

Ghi chú:
[1] Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam: Một trời tâm sự, Xuân Thu, Hoa Kỳ 1987, tr. 27 và 28.
[2] Huỳnh Văn Lang, Nhân chứng một chế độ, Tập II, California, Hoa Kỳ, tr. 66 – 70.
[3] Trần Văn Đôn, Việt Nam nhân chứng, Xuân Thu, California, Hoa Kỳ 1989, tr. 231.
[4] Frank Snepp, Decent Intreval, Random House, New York, 1977, tr. 382 – 383. [5] Frank Snepp, Decent Intreval, Random House, New York, 1977, tr. 540.