Sunday, May 3, 2009

Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản Tại Hòa Lan biểu tình trước sứ quán Việt Cộng - Miên Thụy


Miên Thụy


Ngày Quốc Hận 30 tháng 04 mỗi năm vẫn diễn ra hàng năm tại Hoà Lan do Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản vào chiều hôm nay trước Toà Đại Sứ của bọn Việt Cộng tại khu vực Nassauplein thuộc thành phố Den Haag . Và thật cảm động khi có sự hiện diện của phái đoàn bạn từ Bỉ cùng sang tham dự trong giờ phút này để cùng tưởng nhớ và tiếc thương cho những anh linh đã hy sinh vì màu cờ và cho quê hương VN mến yêu . Bàn thờ Tổ Quốc với chiếc nón sắt là một biểu hiệu cho các vị anh hùng Chiến Sĩ Vô Danh không bao giờ thiếu trong những buổi lễ đặc biệt này . Bài hát quốc ca Này Công Dân Ơi .. đã mở đầu chương trình qua sự điều động của anh Lưu Phát Tấn ( Phó Nội Vụ Điều Hành Cộng Đồng ) cùng nghi thức mặc niệm . Lời mở đầu là bài tường trình về ý nghĩa ngày tưởng niệm 30 tháng 4 do ô. Lê Quang Kế đã làm cho mọi người tham dự buổi chiều hôm nay thật ngậm ngùi . Một cái tang lớn cho quê hương VN chúng ta và nỗi buồn người ra đi cùng người ở lại sau 34 năm dài vẫn chưa quên .

Ô. Nguyễn Đức Hồ đại diện phái đoàn Bỉ (cựu Sĩ Quan Không Quân)tiếp theo chương trình sau đó với bài nói chuyện về tình hình và những thăng trầm đất nuớc sau những năm qua . Nguyện vọng của riêng ông và của mọi người là ngày trở về quang phục lại quê hương , một ngày không xa lắm . Tiếng hát cất cao của mọi người và ban văn nghệ Cộng Đồng Hoà Lan qua các bài hát Thề Không Phản Bội Quê Hương v.v. đã tạo khí thế hăng say và niềm tin mảnh liệt . Anh Nguyễn Lê Cường rất chân thành qua tiếng hát của anh , những bài hát đã làm người nghe xúc động . Ô. Nguyễn Liên Hiệp _Chủ tịch Cộng Đồng , Anh Đinh Thế Hiển và nhà thơ chống cộng Nguyễn Khảng cũng đã góp tiếng nói với chúng ta trong buổi lễ Tưởng Niệm 30 tháng 04 năm nay.

Cảm động nhất là sự hiện diện của lớp người trẻ hôm nay, anh Nguyễn Điền Lăng cũng đã có mặt và phỏng vấn một bạn trẻ đại diện cho thế hệ thứ ba là anh Minh năm nay 34 tuổi khi anh M đã đến tham gia ngày Quốc Hận 30 tháng 04
chiều nay

NĐL: _ Xin anh cho mọi người được biết: Cách nhìn về một VN hôm nay của anh ra sao ? Và xin được hỏi anh, anh đã từng về VN bao gờ chưa ?

Minh: _ Chưa từng về, ngày nào còn chế độ Cộng Sản thì cháu sẽ không về !

NĐL : _ Theo anh , một người đi tham dự ngày hôm nay có mang theo tâm trạng gì không ?

Minh: _ Mình không có mang tâm trạng hận thù gì cả mà mình chỉ đấu tranh cho quê hương , nguyện vọng là mong cho quê hương yên bình để sớm có ngày trở về .
Buổi lễ cũng đã chấm dứt vào buổi chiều trong ngày , mọi người chia tay nhau và cùng đợi chờ trong niềm tin Một Ngày Sẽ Phải Đến.

Miên Thụy
29 tháng 04 _2009




Chuyến xe tang về quê chồng - Lệ Hà

Cố Trung Úy Dù QUÁCH VĂN SỞ
Khóa 24 Trường VBQGVN

Giao Chỉ - San Jose
(Viết theo lời kể lại của Lệ Hà)


San Jose ngày 29 tháng 04 năm 2009.

Em là Trần Thị Lệ Hà, quê Cần Thơ, hiện cư ngụ tại San Jose, xin kể lại cho bác Lộc và các bác niên trưởng trong quân đội câu chuyện 34 năm về trước. Nếu miền Nam và Saigon gọi ngày 30 tháng Tư 75 là ngày tang của đất nước thì ngày tang của Trần Thị Lệ Hà đến sớm hơn một ngày. Ðó là ngày 29 tháng 4 năm 1975. Ðêm 28 tháng 4 cách đây 34 năm trung úy Quách Văn Sở, võ bị Ðà Lạt khóa 24, từ giã vợ con vào trại Hoàng Hoa Thám sinh hoạt với tân binh nhảy dù. Trung úy mũ đỏ Quách Văn Sở rất có tinh thần trách nhiệm, đã có giấy lên đại úy nhưng còn chờ lễ đeo lon. Quá nửa đêm 28 qua sáng 29 thì Việt cộng pháo kích vào Tân Sơn Nhất và trại Hoàng Hoa Thám. Sáng sớm 29 tháng 4 lính dù chạy về báo tin anh Sở, chồng của Lệ Hà đã chết. Cùng một lúc khu trại gia binh nhảy dù phải di tản. Em lúc đó 25 tuổi, con trai đầu lòng được 7 tháng. Chẳng có ai thân thuộc. Mẹ con ôm nhau chạy qua nhà ông cậu bên thành Lê Văn Duyệt. Chồng chết ra sao cũng không biết. Ðường xá kẹt hết. Chuyện chiến tranh, trận mạc nhà binh từ khi lấy nhau tất cả đều do anh Sở quyết định. Nay bỗng nhiên trời xập, ôm đứa con dại, em ngồi khóc một mình. Không biết xác chồng nằm ở nơi đâu. Chung quanh Sài Gòn náo loạn, ai mà lưu tâm đến người vợ trẻ mất chồng vào cuối tháng 4. Phải mà anh Sở chết sớm hơn một tháng thì truyền thống lính dù đã đưa xác về tận nhà. Tang lễ uy nghi, có đơn vị trưởng chứng kiến lễ gấp cờ, như em đã thấy tại sân Hoàng Hoa Thám. Nhưng sao anh Sở lại chết vào cuối tháng tư, giờ thứ 25 của cuộc chiến.

Trải qua một đêm dài thảm kịch. Thằng bé Quách Vĩnh Hưng ôm mẹ nằm trên đất lạ. Cả mẹ con đều không thấy tương lai.



Xác anh, giờ ở phương nào?

Sáng hôm sau, nhờ cậu em họ dẫn đường vào trại Hoàng Hoa Thám để tìm xác anh Quách Văn Sở. Doanh trại đã di tản. Ở một vài nơi quân ta còn kháng cự và quân địch chưa tiến vào. Khu bị pháo kích chỉ còn di tích đổ nát, thương binh tử sĩ nhảy dù chẳng còn thấy nữa. Nghe nói các chiến binh mũ đỏ đã tản thương anh em vào đêm 29 và đưa xác tử sĩ lên nghĩa trang Biên Hòa.

Trên trời máy bay trực thăng ồn ào chở người di tản suốt ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Sáng 1 tháng 5 năm 1975, Saigon đổi chủ, em chẳng hề quan tâm. Nhờ người gởi con một nơi, lấy xe máy lên tìm chồng tại nghĩa trang Biên Hòa. Ðây là lần đầu tiên em tìm về nơi chôn cất tử sĩ miền Nam. Khu đơn vị chung sự Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn đầy xác chết và quan tài đủ loại. Có người phe ta còn làm việc nhưng mặc đồ dân sự. Lính cộng sản xuất hiện nhưng xem chừng còn ngại ngùng không kiểm soát. Phe ta mạnh ai nấy tìm xác người thân và than khóc. Tử sĩ miền Nam vẫn còn đầy đủ quân phục, danh tính cấp bậc. Trên quan tài vẫn còn đèn nến và vàng hương. Thân nhân ngồi khóc bên các tử sĩ từ các nơi chở về. Sau cùng em tìm được xác anh Quách Văn Sở, đã được tẩm liệm và cho vào quan tài. Một bác mặc đồ dân sự nói rằng chị yên tâm, tôi sẽ ghi dấu quan tài của ông Trung úy nhảy dù. Tôi cũng là lính Việt Nam Cộng Hòa. Ðã hơn 30 năm rồi, em vẫn còn nhớ hình dáng của người lính bên ta lo việc mai táng vào lúc mà toàn quân cùng với quốc gia không còn nữa. Sau khi thấy rõ tên tuổi di tích của anh Sở nằm đó, em trở về Saigon bắt đầu tìm xe thuê chở xác chồng về quê. Năm xưa, vợ chồng từ Hậu Giang lên Sài Gòn, bây giờ anh đã vĩnh viễn nằm xuống, em nhất định phải chở anh về với gia đình, về nơi anh đã ra đời.

Quê em ở Cần Thơ, quê chồng ở Rạch Giá. Giờ này mẹ và các anh em họ hàng bên anh Sở vẫn chưa biết là anh đã hy sinh. Suốt mấy ngày đầu tháng 5, em tìm mọi cách để thuê xe chở quan tài. Trong những ngày giờ đó, chẳng quen biết ai, làm sao mà thuyết phục được chủ xe chở xác sĩ quan dù về tận Rạch Giá. Sau cùng khi tìm được lại phải cùng với chủ xe đi mua xăng. Tiền bạc không đủ, phải trả cả bằng nữ trang và nhẫn cưới đầy kỷ niệm.

Chuyến xe tang về quê chồng.

Ðưa xe tải về nhà, dọn những gì có thể đem đi được, từ giã cư xá gia binh, chấm dứt đời vợ lính. Mẹ ôm con lên xe trở lại nghĩa trang. Ðó là ngày 3 tháng 5 năm 1975. Nghĩa trang đã thay đổi. Tất cả các xác chết đã bị Việt cộng bắt chôn tập thể. Nhưng may thay những quan tài có người nhận từ hôm trước vẫn còn. Vàng hương và tên tuổi cấp bậc thì vứt đống dưới đất. Người lính chung sự Việt Nam Cộng Hòa mặc đồ dân sự vẫn còn đó. Ông nói rằng quan tài này của trung úy dù tôi vẫn ghi dấu là đã có thân nhân đến nhận. Xin thưa với bác là em cũng chẳng biết tên ông lính đó là ai, nhưng ơn nghĩa tử sinh thì em ghi nhớ suốt đời. Nếu không có ông này, chắc xác anh Sở cũng phải nằm chung trong mồ tập thể. Rồi nhờ mỗi người một tay, quan tài anh Quách Văn Sở được khiêng lên xe hàng. Mẹ con ôm nhau ngồi bên xác anh suốt quãng đường dài. Ðó là chuyến xe tang về quê chồng tháng 5 năm 1975.

Bác hỏi em quang cảnh bên đường ra sao. Bác ơi, vợ lính 25 tuổi, ôm thằng bé chưa được một tuổi. Lòng dạ nào mà nhìn thấy hai bên đường. Mắt em mở nhưng chỉ thấy toàn kỷ niệm quá khứ. Em là nữ sinh Ðoàn Thị Ðiểm, Cần Thơ.

Anh Sở là sinh viên đại học Cần Thơ. Gặp nhau, hẹn hò, yêu đương. Từ đại học Cần Thơ anh vào võ bị khóa 24 học suốt 4 năm. Em ra trường làm công chức, đổi từ Cần Thơ lên Saigon. Bốn năm Ðà Lạt, Sài Gòn tình yêu thơ mộng biết chừng nào. Ra trường anh đi lính nhảy dù đóng tại trại mũ đỏ Hoàng Hoa Thám, em làm công chức tại văn phòng phủ thủ tướng. Ðâu có quen biết ông lớn nào đâu. Sở công vụ cho đi đâu thì làm đó. Chiến tranh ở đâu thì không biết nhưng Saigon, Cần Thơ và Rạch Giá là những miền đất đầy hạnh phúc của một gia đình trẻ với đứa con trai.

Từ đầu tháng tư mẹ em ở Cần Thơ rất lo sợ cho con rể, con gái và cháu ngoại. Mẹ anh Sở ở Rạch Giá cũng đang cầu nguyện cho con trai, con dâu và cháu nội.

Chuyến xe đau thương của em ghé Cần Thơ. Mẹ thấy con gái về bèn ôm cháu ngoại hỏi rằng còn thằng Sở đâu. Con gái mẹ kêu khóc mà nói rằng: anh Sở chết rồi. Con đưa xác về đây. Mẹ đi với con qua Rạch Giá. Mẹ già tất tả vừa khóc vừa gói quần áo theo con gái lên xe. Cả xóm tuôn ra nhìn theo, chiếc xe tang về quê chồng lại lên đường. Xe tải chở theo bà xui Cần Thơ đi theo con gái. Nước mắt góa phụ trẻ bây giờ thêm nước mắt mẹ già. Thằng rể quí của bà đi lính nhảy dù mấy năm không chết mà đến ngày cuối cùng lại tử trận.

Người lính mũ đỏ đất Kiên Giang.

Năm 1971 có anh sĩ quan nhảy dù xuất thân võ bị làm đám cưới ở bến Ninh Kiều, Cần Thơ, tiệc bên nhà gái xong là rước dâu về Rạch Giá. Ðoàn xe hoa cũng đi theo con đường này. Qua đến năm 1975, xe hàng chở quan tài người lính chiến về lại quê xưa, cũng có bà xui đại diện cho nhà gái trong chuyến đi cuối cùng. Xe về đến Rạch Giá, cả nhà họ Quách ra đón mừng, thấy quan tài con trai út bà mẹ té dài ngay trên bậc cửa.

Mẹ của anh lính dù có hai người con trai. Mấy năm trước người anh tên là Quách Hải đã tử trận. Còn cậu út nhất định đi võ bị rồi theo nhảy dù, bà tưởng rằng gởi gấm được ông tướng Dư Quốc Ðống vốn là thân quyến thì cũng đỡ nạn binh đao. Ai ngờ anh sỹ quan nhảy dù chết ngay tại trại Hoàng Hoa Thám vào giờ phút sau cùng của cuộc chiến.

Mặc dù lúc đó cộng sản 30 tháng 4 tại Kiên Giang đã làm khó dễ nhưng người góa phụ trẻ hoàn toàn không có kinh nghiệm trong cuộc sống đã một mình đơn độc đem xác chồng về chôn tại quê nhà. Câu chuyện làm xúc động bà con lối xóm nên đám tang rất đông người dự để tiễn đưa người lính dù cuối cùng của đất Kiên Giang trở về quê mẹ.

Nước non ngàn dặm ra đi.

Sau đó em trốn tránh quanh quẩn tại Hậu Giang vì muốn dấu lý lịch vợ lính dù, lại làm công chức phủ thủ tướng. Qua năm 1979 trở về Cần Thơ vượt biên với má và thằng con trai. Nhờ anh Sở phù hộ, tàu qua Mã Lai bị kéo ra biển nhưng rồi cố lết qua được Indo. Ở bên Nam Dương một năm thì vào Mỹ, đến ngay San Jose. Mấy năm sau, em gặp ông xã sau này, hai bên lập gia đình và có thêm hai cháu.

Thưa với bác Lộc rõ, em có duyên số với Võ bị và Rạch Giá. Ông xã hiên nay của em cũng là người quê Rạch Giá, cùng vượt biên năm 1979 trong một chuyến khác. Qua đây mới gặp nhau. Ông ấy ngày xưa cũng dạy trường võ bị Ðà Lạt. Con cái của gia đình em, nói để các bác mừng cho, tất cả đều thành đạt và hạnh phúc. Các cháu cũng đã lập gia đình và có thêm các cháu nội ngoại.

Ông xã em bây giờ hết sức tế nhị và thông cảm. Chính ông đã làm một bàn thờ tại gia để ghi nhớ hình ảnh của trung úy nhảy dù Quách Văn Sở ba của cháu Quách Vĩnh Hưng. Năm nay cháu 35 tuổi.

Chút di sản muộn màng, gửi tương lai vĩnh cửu.

Ðã 34 năm qua, em còn lưu giử hồ sơ của anh Sở. Một tờ khai gia đình của khu gia binh sư đoàn nhảy dù, căn cứ Hoàng Hòa Thám. Có chữ ký của thượng sỹ Trần Văn Linh, trưởng trại gia binh. Kiến thị bởi trung tá Nguyễn Văn Tư chỉ huy trưởng căn cứ và chữ ký của gia trưởng trung úy Quách Văn Sở. Ngoài ra còn giấy chứng nhận bằng nhảy dù, thẻ căn cước dân sự, thẻ căn cước quân nhân, chứng chỉ tại ngũ. Trên các thẻ căn cước, chỗ nào cũng có tên mẹ của anh Sở là Dư Thị Kim Thoa, bà là vai cô của tướng Dư Quốc Ðống. Trung úy Sở còn tờ giấy nghỉ phép 5 ngày từ 26 tháng 4 đến 30 tháng 4 năm 1975. Cầm giấy phép, nhưng anh Sở không đi phép. Vì lo tân binh Nhẩy dù mất tinh thần nên tối 28 tháng 4 năm 1975 anh vào trại. Trận pháo kích sau cùng đã làm thay đổi vận mệnh của cả gia đình. Người thanh niên Kiên Giang, trải qua 4 năm sinh viên võ bị Ðà Lạt, 5 năm sỹ quan nhẩy dù, từ giã cuộc đời năm 30 tuổi. Anh để lại tấm thẻ bài hai mảnh. Gia đình còn giữ suốt 34 năm qua. Nay đã đến lúc chia tay đôi ngả. Một tấm đi theo quân bạ vào viện bảo tàng. Còn một mảnh xin giữ làm kỷ niệm cho con cháu họ Quách đời sau. Với đầy đủ tên họ, số quân và loại máu.

Tâm nguyện cho tương lai.

Thưa bác, kể xong chuyện ma chay cho người chồng chiến binh 34 năm về trước, trao được các di vật cho viện bảo tàng Việt Nam tại San Jose, em rất yên tâm. Xin cảm ơn nhà em ngày nay, nguyên là giáo sư võ bị ngày xưa đã thông cảm, sẽ thông cảm thêm. Con trai của anh Sở nay đã 35 tuổi, sẽ hiểu biết thêm chuyện gia đình và chiến tranh. Những đứa con sau này ra đời tại San Jose bây giờ mới biết ngày xưa mẹ sống trong trại lính Dù có tên là Hoàng Hoa Thám. Anh em Ðà Lạt khóa 24 biết thêm về người con gái miền Tây làm dâu võ bị hai lần. Người Rạch Giá cũng biết thêm về cô gái Cần Thơ hai lần lấy chồng xứ Kiên Giang.

Và em tạ ơn trời đất còn có ngày nay. Trước sau em cũng chỉ là người vợ lính đã từng sống trong trại gia binh.

Em cám ơn các bác đã nghe hết câu chuyện 29 tháng 4 của em 34 năm về trước.

Giao Chi - San Jose


HÃY THAM DỰ BIỂU TÌNH TẠI GENÈVE NGÀY 08.5.2009


Lần đầu tiên Đại Kỳ Việt Nam Cộng Hòa, một bảo vật lịch sử tham dự biểu tình trước trụ sở Liên Hiệp Quốc nhằm ngày kiểm điểm tình trạng nhân quyền của cộng sản Việt Nam. Đại Kỳ nầy đại diện cho Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa trước Tòa Đại Sứ VNCH ở Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn (Mỹ) cho đến ngày 30.4.1975 và hiện giờ được trưng bày tại Bảo Tàng Viện Fresno Discovery Museum ở California, USA.

Chúng tôi kêu gọi các đoàn thể, tổ chức cũng như cộng đồng hãy đến biểu tình tại Genève ngày 08.5.2009 để:

- Cùng đứng chung dưới Đại Kỳ lịch sử để chứng minh cho thế giới biết rằng nước Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn tồn tại trên hành tinh nầy và người Việt hải ngoại đang tranh đấu ngày đêm để mai kia sẽ cùng Đại Kỳ trở về kiến thiết quê hương.

- Cùng đứng chung dưới Đại Kỳ lịch sử để đặt vấn đề Nhân Quyền với đảng cộng sản cũng như đòi hỏi LHQ phải có biện pháp với nhà nước Việt Nam hiện nay là một tập đoàn đang chà đạp lên quyền sống, quyền làm người của 80 triệu dân trong quốc nội.

*
* *
Kính thưa quý vị,

Để góp phần vào việc vinh danh những lá Quốc Kỳ đã từng bay trên bầu trời VNCH trước 30.04 năm 1975.

Tôi sẽ mang Quốc Kỳ đã từng bay trên các chiến hạm của HQVNCH trước ngày 30.04.1975, để cùng góp phần vào lể chào cờ tại Thụy Sĩ với Quốc Kỳ mang từ Hoa Kỳ qua (Quốc Kỳ này tôi mượn của Trung Tướng Trần văn Trung).

Kính,
Đặng-vũ-Lợi
dvloi3@yahoo. fr

FYI

(Để quí vị có đủ tài liệu và chuẩn bị cho thời cơ của dân tộc và đất nước đang đến. Hãy tin tưởng hành động và cầu nguyện hồn thiêng Sông Núi !)

Xin vui lòng ủng hộ, tham gia và phổ biến rộng rãi.

Tiểu Sử ĐẠI QUỐC KỲ VNCH

Đây là lá Đại Quốc Kỳ VNCH của Toà Đại Sứ VNCH tại Hoa Kỳ trước năm 1975 . Cũng là lá đại quốc kỳ cuối cùng của VNCH tự do phất phới bay trên lãnh thổ VN (TĐS VNCH tại Hoa Thịnh Đốn, luật extra territoriality) .

Lá Đại Kỳ Này đã được một nhân viên toà Đại sứ cất giữ gần 33 năm kể từ ngày cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm VNCH cho tới ngày 7 tháng 3 năm 2008 khi Đại Kỳ được trao lại cho Bảo Tàng Viện Fresno Discovery Museum.

Đại Kỳ chiều ngang 15 Ft (5m) chiều dài 25Ft (8,5m), diện tích trên 40M2 và cân nặng 13 Lb (6 ký).

Lá Đại Kỳ VNCH Lịch Sử đã đại diện cho Chính Phủ và Nhân Dân VN tại Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ trước ngày 30 - 4 - 1975 và đã được xử dụng trong những Đại Lễ của cộng đồng ở Mỹ (hình trên ).

Một Tập Hợp Thanh Niên Sinh Viên Minh Trị Liên Châu Cứu Nước sẽ tự nguyện mang lá cờ này từ Mỹ sang Genève tham dự cuộc meeting liên châu của Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại lúc 8 giờ sáng ngày 8/5/2009 tại Place des Nations; Liên Hiệp Quốc; Genève; Thụy Sĩ nhằm ủng hộ cuộc tranh đấu cho nhân quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước tiếp theo lời kêu gọi của Đại lão HT Thích Quảng Độ và hơn 150 tổ chức hội đoàn trên các châu lục.

Liên lạc: Văn phòng liên đới Xã hội: đặc trách xe chuyên chở & ăn ở từ Paris.
Minh Ran: 33 (0) 141 71 12 11 (sau 20 giờ ) Trang 33 (0) 627 33 22 88
và Phượng 33 (0)9 53 89 23 94 .

Quê Mẹ: v/v kêu gọi meeting http://www.queme.net

Chùa Khánh Anh ủng hộ meeting: 33 (0)146 55 84 44

Hội Văn Hoá Người Việt Tự Do về Đại quốc kỳ VNCH
Ông Đinh Lâm Thanh: 33 (0) 143 75 84 78
http://www.hoivanhoanguoiviettudo.com



Thuyền nhân khúc ruột ngàn dặm - Thanh Quang

Thanh Quang


Phần âm Thanh


Một trong những vấn đề mà biến cố 30 Tháng Tư khơi lại trong tâm trí những cựu thuyền nhân Việt Nam ở hải ngọai là sự thăng trầm mà họ trải qua, từ “kẻ phản quốc” đến “khúc ruột ngàn dặm” do Hà Nội gán cho.

Nhưng rồi giới tán tụng, chiêu dụ “khúc ruột ngàn dặm” ấy lại không ngần ngại tìm cách phá bỏ di tích thuyền nhân tại Đông Nam Á. Những nỗi thăng trầm – đôi khi xót xa – đó, được Thanh Quang trình bày sau đây:

Những người vượt biên phản quốc?

Ngược dòng thời gian trở về mấy thấp niên trước, những ai trong nước rời bỏ “thiên đường cộng sản” qua con đường vượt biên nhưng bất thành khiến phải vào tù hẳn không quên cán bộ trại giam gọi họ là “kẻ vượt biên phản quốc”, “bọn lười biếng”, “những kẻ ham mê bơ thừa sửa cặn của Đế Quốc Mỹ”…

Rồi khi nền kinh tế chỉ huy của cộng sản VN bên bờ vực thẳm, phải nhanh chóng cứu vãn theo chiều hướng thị trường và mở ngỏ với tư bản bên ngoài, nhất là cần phải o bế người Việt tỵ nạn ở hải ngọai để thu hút nguồn kiều hối càng nhiều càng tốt , thì “những kẻ vượt biên phản quốc” ngày nào ấy lại trở thành “khúc ruột ngàn dặm” của Đảng Cộng Sản và Nhà Nước Việt Nam.

Nhưng liệu “khúc ruột ngàn dặm” có được chiếu cố thực tâm không, hay chỉ là…khúc ruột thừa, như nhận xét của anh Trần Đông, Giám Đốc Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam - trụ sở tại Úc, sau đây:

Ông Trần Đông: Cũng cảm thấy đau xót một điều là những bà con ở Châu Âu, hoặc là ở Hoa Kỳ, hoặc là ở Úc đi về Malaysia, hay là đi Thái Lan, hay là đi Singapore thì chúng ta không cần phải xin visa gì cả, nhưng mà về Việt Nam thì chúng ta lại phải xin visa.

Và có những người xin visa được đóng dấu cho về nước đàng hoàng nhưng tới phi trường lại bị chận lại không cho vô. Và vấn đề xin visa đó cho tôi một cảm nhận rằng tôi chính là người ngoại quốc trên chính quê hương của tôi.

Mình được cái đảng và nhà nước đó gọi là "Việt kiều yêu nước", "khúc ruột ngàn dặm", "một bộ phận không thể tách rời của nước Việt Nam", nhưng mà khi trở về thì mình lại phải xin visa, trong khi đi các nước khác, những nước như Mã Lai, Singapore... chúng ta không cần phải xin visa.

Bây giờ có nhiều người nói nhà nước VN cần tiền, bây giờ cần tiền thì cũng nên làm giống như là Indonesia vậy, khi vào Indonesia thì đóng visa tại chỗ 25 đôla nếu ở dưới một tuần và 45 đôla nếu ở trên 2 tuần.

Vấn đề đó thì OK! Còn bây giờ đã xin visa suốt một tháng và thậm chí khi mà tới phi trường rồi lại không cho vô, bắt trở về, thì đó là những vấn đề nghịch lý, một lần nữa đã cho thấy vấn đề là cộng sản nói, cộng sản tuyên truyền, và chỉ là tuyên truyền, chỉ là để dụ dổ người ta mà thôi chớ thực chất thì nói một đường làm một nẻo.

Nói một đường làm một nẻo

Tình trạng “nói một đàng làm một nẻo” ấy khiến người ta liên tưởng đến số phận của hai bia tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam ở các trại tỵ nạn thuyền nhân ngày nào tại Đông Nam Á, khi nhà cầm quyền Việt Nam một mặt kêu gọi người Việt tỵ nạn – những cựu thuyền nhân – để lại quá khứ sau lưng và hướng về tương lai cho sự hưng thịnh của quê hương đất nước, nhưng mặt khác lại áp lực Kuala Lumpur và Jakarta đập phá 2 bia tưởng niệm thuyền nhân trên các đảo Bidong và Galang.

Số phận của 2 bia tưởng niệm này hiện ra sao? Và các cựu thuyền nhân tại hải ngọai tìm phương cách nào khác để tưởng nhớ những bạn đồng hành không may mắn nằm lại vĩnh viễn dưới lòng biển cả trên con đường đi tìm tự do?

Thanh Quang: Thưa anh Trần Đông, sau chuyến đi vừa qua từ vùng Đông Nam Á trở về thì xin anh vui lòng cho biết tình trạng hiện tại của bia tưởng niệm thuyền nhân ở hai đảo Bidong (Malaysia) và Galang (Indonesia).

Ông Trần Đông: Cảm ơn anh Thanh Quang. Vấn đề bia tưởng niệm thuyền nhân ở Bidong và Galang tới năm nay là 4 năm đã qua rồi. Bốn năm đã qua rồi thì hình ảnh của bia tưởng niệm tại Bidong và Galang vẫn còn đậm nét trong lòng của người tị nạn tại hải ngoại.

Bia tưởng niệm tại Bidong thì đã bị đập nát từ Tháng Mười 2005 và vẫn còn như vậy cho đến ngày hôm nay. Riêng bia tưởng niệm tại Galang vào Tháng Năm 2005 đã bị đục bỏ và từ đó đến nay thì nó đã thay hình đổi dạng nhiều lần, và đến bây giờ thì bia tưởng niệm đó không còn nữa.

Thanh Quang: Thưa anh, qua hình ảnh chúng tôi được biết là bia tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam tại Galang sau khi bị đục bỏ thì đã có nhiều lần thay đổi, xin anh cho biết thêm chi tiết.

Ông Trần Đông : Thưa quý thính giả, một điểm đặc biệt đối với bia tưởng niệm thuyền nhân tại Galang là sau khi bia đã bị đục bỏ thì ở tại California bà con có biểu tình trước Lãnh Sự Quán Indonesia. Chính ông phó lãnh sự của Toà Lãnh Sự Indonesia ở Cali cũng đã hứa là sẽ xây dựng lại bia tưởng niệm thuyền nhân tại Galang.

Vào lúc đó ông ta nói rằng bia tưởng niệm thuyền nhân bị phá hoại chớ không phải là chủ trương của chính phủ. Tuy nhiên, sau đó chúng tôi có gặp gỡ giới chức tại khu vực đó và cái tin chính thức được họ chính thức loan báo, đó là do áp lực của nhà cầm quyền Hà Nội cho nên Indonesia không thể làm gì khác hơn là phải thực hiện theo đòi hỏi của nhà cầm quyền Hà Nội.

Đến Tháng Tám 2005 khi chúng tôi trở về thì cái lỗ trống của bia tưởng niệm đó cũng vẫn còn đó, và cái khung của bia tưởng niệm vẫn còn. Tháng Tư 2006 chúng tôi trở về Galang thì cái lỗ trống đó được lấp bằng cái logo của Trại Galang ngày xưa. Ở hai mặt là hình ảnh của cái logo.

Đến Tháng Tư 2007 khi chúng tôi trở về thì nguyên cái khung đó và cái logo đó không còn nữa. Coi như họ gút hẳn cái khung nền của đài tưởng niệm. Cái khung của đài tưởng niệm bị dời đi đâu mất, mình không biết. Và chỉ còn lại cái nền thôi.

Và Năm 2008 chúng tôi trở về đó thì đài tưởng niệm chỉ còn lại cái nền như Năm 2007. Và mới đây, cách nay mấy tuần chúng tôi trở về đó, cái nền bây giờ họ cũng tháo ra, coi như không còn dấu vết gì cả. Điều này cho chúng thấy một cách thầm lặng thì cái bia tưởng niệm thuyền nhân của chúng ta tại Bidong và Galang đều bị hủy theo sự đòi hỏi của nhà cầm quyền Hà Nội. Nó đã bị triệt hạ một cách hoàn toàn không còn dấu vết theo thời gian.

Bia tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam trên khắp thế giới

Thanh Quang: Trước tình trạng các bia tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam ở Bidong và Galang như vậy thì hẳn chúng ta liên tưởng đến bia tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam ở ngay tại những nơi mà người tị nạn đang sinh sống. Thưa anh, đến năm nay là đã 4 năm trôi qua, đã có bao nhiêu bia tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam tại hải ngoại được dựng lên để thay thế hai tấm bia thuyền nhân Việt Nam ở nơi hoang đảo Bidong và Galang ?

Ông Trần Đông: Vẫn theo thời gian lịch sử từ đó đến nay thì chúng ta thấy rằng trước khi bia tưởng niệm thuyền nhân tại Bidong và Galang được dựng lên thì chúng ta có hai bia tưởng niệm thuyền nhân tại nước ngoài. Một cái là bia tưởng niệm thuyền nhân tại thủ đô của Canada, tức là tại Ottawa, và ở tại Santa Ana trong khuôn viên chùa của Thượng Toạ Thích Quảng Thành đã được bà con và cộng đồng tại chỗ dựng lên trước khi bia tưởng niệm thuyền nhân tại Bidong và Galang được dựng lên.

Sau khi bia tưởng niệm thuyền nhân tại Galang và Bidong bị đập phá thì ở nhiều nơi khác bà con và cộng đồng tại chỗ đã dựng lên nhiều tấm bia tưởng niệm thuyền nhân khác để thay thế cho hai tấm bia bị đập phá ở hai hoang đảo xa xôi không người ở là Bidong và Galang.

Và chúng ta thấy rằng cho tới ngày hôm nay có một bia tưởng niệm thuyền nhân tại Pháp, gần thủ đô Paris, tại Chùa Khánh Anh. Tại Thuỵ Sĩ cũng có một bia tưởng niệm. Tại nước Đức dã có hai bia tưởng niệm được dựng lên rồi, và sắp tới đây sẽ có một bia tưởng niệm khác sẽ được khánh thành do các cựu thuyền nhân Cap Anamur dựng lên.

Tại Vương Quốc Bĩ cũng đã có một bia tưởng niệm thuyền nhân đã được khánh thành rồi. Tại Melbourne (Úc Châu) năm rồi, bia tưởng niệm thuyền nhân cũng đã được khánh thành. Tại Nam California (Hoa Kỳ) trong Tháng Tư này cũng đã khánh thành bia tưởng niệm ở tại Nghĩa Trang Westminster. Như vậy chúng ta thấy có tổng cộng đến 8 bia tưởng niệm thuyền nhân được dựng lên tại nơi cư trú của chúng ta.

Và theo chỗ chúng tôi được biết thì hiện nay đang có nhiều dự án của nhiều cộng đồng và nhiều bà con ở các nơi trên thế giới đang đệ trình dự án để xin dựng bia tưởng niệm thuyền nhân ở tại chính nơi sinh sống của mình, để mình đi ra đi vô mình có thể thấy, có thể sờ mó, có thể tưởng nhớ, mình có thể tổ chức tưởng niệm những thân nhân, anh em họ hàng của mình đã qua đời trên con đường vượt biên, vượt biển.

Thanh Quang: Thưa anh, nếu như vậy thì việc Việt Nam áp lực Malaysia và Indonesia đập bỏ hai bia tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam tại Bidong và Galang có mang lại cho họ hiệu quả gì không ?

Ông Trần Đông: Qua vấn đề này chúng ta thấy cộng sản Việt Nam đã thực sự lầm khi hạ lệnh đập bỏ hai bia tưởng niệm thuyền nhân ở Bidong và Galang. Họ hoàn toàn sai lầm trong vấn đề này. Chúng ta đã bị mất hai cái, nhưng bà con đã tự động dựng lên một chục cái, rồi sẽ có mỗi nơi một cái để thay thế cho hai cái đã mất.

Muốn xoá bỏ lịch sử thuyền nhân Việt Nam

Thanh Quang: Việc xây dựng bia tưởng niệm thuyền nhân tại những nơi như anh vừa nói có bị Hà Nội áp lực phản đối hay không? Nếu có thì làm sao mà cộng đồng hải ngoại có thể thực hiện được điều này?

Ông Trần Đông: Vấn đề thực hiện bia tưởng niệm thuyền nhân bị Hà Nội phản đối một cách rất mạnh mẽ bởi vì chủ trương của cộng sản Việt Nam là họ muốn xoá sổ giai đoạn thuyền nhân để rồi trong tương lai con cháu chúng ta nghĩ rằng do đường lối sáng suốt mở rộng tự do dân chủ của đảng và nhà nước cho nên chúng ta có hàng triệu người từ trong nước đi ra nước ngoài sinh sống và vì vậy cho nên con cháu chúng ta phải đời đời nhớ ơn này kia nọ, vân vân...

Đó là điều mà họ muốn và vì vậy cho nên họ không ngần ngại dùng thủ đoạn và các phương pháp mờ ám. Tuy nhiên, lịch sử đã không thể nào xoá được, nhất là lịch sử thuyền nhân là một lịch sử lớn trong dòng lịch sử 4.000 năm của chúng ta, mà không riêng tại Việt Nam mà tại các nơi khác trên thế giới.

Thanh Quang: Như vậy thì thế hệ mai sau sẽ quên hay là cộng sản Việt Nam có thể xoá sổ lịch sử thuyền nhân Việt Nam được không ạ?

Ông Trần Đông: Theo tôi, thế hệ mai sau sẽ không bao giờ quên và tài liệu tham khảo về các cộng đồng sắc tộc khác cho thấy một điểm giống nhau là thế hệ thứ nhứt và thế hệ thứ hai là những thế hệ mà họ phải làm việc cật lực để lo ổn định đời sống.

Thế hệ thứ hai và thứ ba sẽ là những thế hệ lo hội nhấp vào cuộc sống mới. Và bắt đầu từ thế hệ thứ ba, thứ tư, sớm nhứt cũng là thế hệ thứ ba hoặc là thế hệ thế hệ thứ tư, thứ năm trở về sau thì đó là những thế hệ về nguồn, mức độ về nguồn rất là mạnh, và lúc đó họ mới bắt đầu nghiên cứu, tìm hiểu nguồn gốc của họ.

Và nhu cầu tìm hiểu nguồn gốc trở thành nhu cầu rất là lớn trong cộng đồng, cho nên vấn đề của chúng ta ngày hôm nay, chúng ta là những người thuộc thế hệ thứ nhứt, chúng ta là những người thuộc thế hệ nhân chứng, công việc và trách nhiệm của chúng ta là phải làm sao lưu giữ lại những di sản này, lưu giữ lại chứng tích này để làm tài liệu lịch sử cho con cháu, bởi vì không ai biết rõ giai đoạn này hơn chúng ta.

Và nếu một mai chúng mai một đi, và nếu di sản này , di tích này mai một đi thì coi như là mai một vĩnh viễn, mất vĩnh viễn, rất khó tìm hiểu lại được. Và nếu có tìm hiểu, làm sống lại thì nó vẫn không trung thực bằng thế hệ chúng ta tìm hiểu và gin giữ nó.

Cho nên ngày hôm nay trách nhiệm của chúng ta là gom góp lại, tàng trữ lại và có sao giữ vậy. Con cháu của chúng ta mai sau sẽ nghiên cứu, sẽ sàng lọc, sẽ đánh giá, sẽ luận công, sẽ kết tội.

Và thưa quý thính giả, không có sự thật nào mà có thể được che giấu dưới ánh sáng mặt trời. Rồi ra ai là người có công, ai là kẻ có tội, thì lúc đó sẽ được sáng tỏ trước lịch sử. Và phần luận xét đó sẽ do các thế hệ mai sau. Thế hệ chúng ta là thế hệ mà cần nên gìn giữ lại những di sản này để làm chứng tích lịch sử cho các thế hệ mai sau.

Thanh Quang, phóng viên đài RFA
2009-05-01


Saturday, May 2, 2009

Hàng Tướng Dương Văn Minh - Lữ Giang

Lữ Giang

Trong các tướng lãnh tham gia chính trường tại miền Nam Việt Nam, có lẽ tướng có thân phận bi thảm nhất là Tướng Dương Văn Minh. Biết Dương Văn Minh không hiểu biết gì về chính và thủ đoạn chính trị, thường suy nghĩ và hành động theo cảm tính, lại mắc bệnh tham lam, nên Hoa Kỳ đã biến ông thành một một công cụ đầy oan nghiệt để thực hiện chính sách của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn rồi loại bỏ.

Có thể coi cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh như là một chương bi thảm trong lịch sử VNCH và cũng là một chương bi thảm trong tương quan giữa VNCH và Hoa Kỳ.

Người Việt ai cũng thuộc câu “Tri bỉ tri kỷ bách chiến bách thắng”, nhưng mặc đầu đã chiến đấu với Mỹ trong 20 năm và đã ở trên đất Mỹ 34 năm, đa số người Việt chống Cộng không biết Mỹ và địch đang làm gì, cứ suy nghĩ và hành động theo cảm tính, nên đấu tranh đã 34 năm mà vẫn chưa thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Vì thế, hôm nay nhân kỷ niệm ngày mất nước, chúng tôi xin trình bày tóm lược về một số bí ẩn và tai tiếng chung quanh cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh với ước mong mọi người có thể nhìn vào đó tìm ra bài học lịch sử khi tiếp tục đấu tranh.

VỤ BIỂN THỦ MỘT THÙNG PHUY VÀNG

Trong cuốn “Việt Nam một trời tâm sự”, Tướng Nguyễn Chánh Thi có kể lại:

Sáng ngày thứ 4, một toán thuyền và độ vài trăm người có súng đi ra với nhiều lá cờ trắng xin đầu hàng. Tiếp theo là một chiếc tàu chở ông Hồ Hữu Tường và ông Trần Văn Ân, cố vấn của Lê Văn Viễn ra điều đình. Tướng Thi kể tiếp:

“Trong toán này có Thiếu Tá Tư Nhỏ trước kia ở Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đào ngũ theo Bình Xuyên vì y là con rễ của Bảy Viễn.

“Tư Nhỏ ra đầu hàng và tình nguyện đi chỉ chỗ vàng bạc chôn giấu của Bảy Viễn. Hắn ta nói:

“- Trước đây một toán Bình Xuyên 8 người cùng chiếc du thuyền của Bảy Viễn chở 6 thùng 200 lít đựng bạc và một thùng đựng vàng, hột xoàn đem đi chôn giấu. Khi chôn xong rồi thì 8 người ấy đều bị giết ngay và lấp xuống ở gần đó.

“Khi tình hình ở đây được hoàn toàn yên ổn, tôi được quan sát tận mắt sự đào hầm giấu tiền và các bộ mặt căng thẳng của Bộ Tư Lệnh của Đại Tá Dương Văn Minh và Trung Tá Nguyễn Khánh mà đâm ra hoài nghi.

“Trung Tá Nguyễn Khánh lúc đó chơi trò “cao bồi”, hai tay cầm hai khẩu súng lục, miệng nói: Cấm không ai được đến gần đây cả!

“Tiền!” Thật là khó coi? Chán mắt!

“Tôi lạnh lùng cho chiếc tàu của tôi trở về vị trí đóng quân, trong lòng tôi suy nghĩ miên man về thái độ cử chỉ của bọn họ. Tin ít mà ngờ nhiều.” [1]

Câu chuyện về tài sản của Bình Xuyên được Tướng Thi kể lại có nhiều điểm khác với câu chuyện do Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Công An Cảnh Sát Quốc Gia, tường thuật lại dưới đây. Vì thế, một câu hỏi đã được đặt ra: Phải chăng đây là hai số tiền và vàng khác nhau? Chúng tôi tin rằng hai số tiền và vàng này chỉ là một, nhưng Tướng Thi chỉ được nghe nói hay nhìn thoáng qua nên không biết chính xác, còn Đại Tá Y là người đứng ra chỉ huy việc truy tìm số tài sản này nên câu chuyện được ông kể lại đầy đủ và chính xác hơn. Về sau, ông Diệm cũng chỉ ra lệnh điều tra về số tiền và vàng mà Đại Tá Y đã tìm được, chứ không nói gì đến số tiền và vàng mà Tướng Thi đã kể.

Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia kiêm Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trưởng Trung Ương Tình Báo của VNCH đã tường thuật như sau:

Lúc đó ông là Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chợ Lớn, chỉ huy Tiểu Đoàn 184. Vào khoảng tháng 5 năm 1955, sau khi đánh đuổi quân Bình Xuyên chạy vào Rừng Sát, ông đã thả các nhân viên Phòng 2 đi thăm dò ven rừng. Các nhân viên này thấy một người đang ngồi câu cá trên một chiếc xuồng ở một khu vắng, dáng điệu rất khả nghi, nên bắt về thẩm vấn. Sau nhiều cuộc tra hỏi, người này thú nhận anh ta là một cận vệ của Bảy Viễn, được phái ở lại giữ hai thùng phuy vàng và bạc đã phải nhận chìm xuống nước trước khi chạy trốn. Ông đã cho thợ lặn xuống tìm nhưng không thấy. Nhân viên Phòng 2 tiếp tục phỏng vấn, người này quả quyết nơi anh ta làm dấu đúng là nơi đã nhận 2 thùng phuy xuống. Thấy thái độ quả quyết của anh này, ông cho thợ lặn xuống mò một lần nữa, nhưng trong một phạm vi rộng hơn. Quả nhiên, thợ lặn đã vớt được hai thùng này cách xa nơi đánh dấu khoảng 100 thước, vì bị nước cuốn trôi đi. Đây là thứ thùng phuy đựng dầu xăng loại 200 lít.

Công cuộc kiểm tra cho thấy một thùng đựng bạc giấy, còn một thùng đựng vàng. Bạc giấy toàn là loại 500$, được gói trong những bao nilon nhỏ, có nhiều bao bị nước thấm nước. Ông bảo nhân viên đem số bạc ướt phơi khô rồi đưa tất cả đi nạp vào ngân khố. Còn thùng vàng được chở đến giao cho Đại Tá Dương Văn Minh, Quân Trấn Trưởng Sài Gòn. Tướng Nguyễn Khánh, lúc đó là Trung Tá Chỉ Huy Phó của Đại Tá Minh, cho biết số vàng này khi giao nạp đã được bỏ vào trong hai cái rương, nhưng rồi sau đó không còn nghe Dương Văn Minh nói gì về số vàng này.

Ông Diệm đã ra lệnh cho Thẩm Phán Lâm Lễ Trinh, Biện Lý Tòa Sơ Thẩm Sài Gòn, và Thiếu Tá Mai Hữu Xuân, Giám Đốc An Ninh Quân Đội, mở cuộc điều tra vụ này.

Ông Huỳnh Văn Lang, lúc đó là Bí Thư Liên Kỳ của Đảng Cần Lao và Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái, cho biết ông Lâm Lễ Trinh đã tiết lộ rằng khi được hỏi về số vàng này, Tướng Minh đã sừng sộ và giận dữ, nói rằng ông Diệm là người bội bạc, ông đã giúp ông Diệm đánh dẹp Bình Xuyên mà còn hỏi cái gì.

Ông Lang cũng cho biết ông có được đọc bản báo cáo hai trang của Đại Tá Mai Hữu Xuân. Đại Tá Xuân chỉ xác nhận số vàng Tiểu Khu Chợ Lớn tịch thu được đã giao cho Đại Tá Dương Văn Minh cất giữ và đề nghị nên đem ra chia nhau! [2]

Ông Cao Xuân Vỹ cho biết khi ông Nguyễn Ngọc Thơ đề nghị cho Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Địch Đinh Tiên Hoàng để bắt Ba Cụt, ông Diệm đã nói với ông Nhu: “Thôi, cho nó số vàng đó đi cho yên!”

CHỨA CHẤP GIÁN ĐIỆP VIỆT CỘNG

Anh Nguyễn Tư Thái, tự là Thái Đen, Phụ Tá Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt, cho biết vào đầu năm 1960, nhân viên của Đoàn thấy một người thường lui tới nhà Dương Văn Minh, ở số 3 đường Trần Quý Cáp, Sài Gòn, nhưng mỗi lần đi ra, anh ta thường nhìn trước nhìn sau rất kỹ, thấy không có gì khả nghi mới bước ra. Những người bình thường không ai làm như vậy. Một hôm, đợi anh ta ra khỏi nhà Dương Văn Minh một khoảng xa, nhân viên tình báo liền bắt đẩy anh ta lên xe và đem về thẩm vấn. Lúc đầu anh ta nói anh ta chỉ là người đến dạy học cho các con của Tướng Minh. Tuy nhiên, sau nhiều cuộc thẩm vấn khéo léo, anh ta nhìn nhận anh ta là một ủy viên của Huyện Ủy Thủ Đức, được phái đến gặp Dương Văn Minh để lấy tin tức. Anh này đã bị giam giữ luôn, nhưng Dương Văn Minh không hay biết gì cả.

Sau vụ này, Đoàn Công Tác Đặc Biệt và Tổng Nha Cảnh Sát đã bố trí thường trực chung quanh nhà Dương Văn Minh, theo dõi từng bước đi của những người ra vào nhà ông, quay phim và chụp hình. Điện thoại của nhà ông cũng bị nghe lén.

Khoảng tháng 3 năm 1960, có một người có mặt mày và hình dáng rất gióng Dương Văn Minh, đã đến ở luôn trong nhà Dương Văn Minh và mỗi lần đi đâu thường được chính Dương Văn Minh chở đi. Sưu tra hồ sơ, nhân viên tình báo biết ngay đó là Dương Văn Nhựt, em của Dương Văn Minh, có bí danh là Mười Tỵ, hiện đang là Thiếu Tá trong bộ đội miền Bắc. Vợ của Dương Văn Nhựt hiện đang sống tại Sài Gòn. Theo dõi sát, nhân viên tình báo biết được Dương Văn Nhựt đang đi vận động Phật Giáo và sinh viên chống ông Diệm.

Trong cuộc phỏng vấn ngày 16.10.2004, Đại Tá Nguyễn Văn Y cho biết khi vợ Dương Văn Nhựt có bầu gần sinh, Dương Văn Nhựt đã đưa vợ tới ở nhà của Trung Tá Dương Văn Sơn, em của Dương Văn Minh. Lúc đó Dương Văn Sơn đang làm trưởng phòng truyền tin của Biệt Khu Thủ Đô. Tướng Minh thường đến nhà Dương Văn Sơn nói chuyện với Dương Văn Nhựt. Vì thế, nhà Dương Văn Sơn cũng bị theo dõi như nhà Dương Văn Minh.

Một hôm, Tổng Thống Diệm gọi ông và bảo đem tất cả hồ sơ vụ Dương Văn Minh vào gặp ông. Có lẽ trước đó Đoàn Công Tác Đặc Biệt đã trình nội vụ cho Tổng Thống biết rồi.

Khi ông đem hồ sơ vào, Tổng Thống Diệm hỏi: “Dương Văn Minh có theo Cộng Sản không?” Rồi ông nói tiếp: “Võ Nguyên Giáp nhiều công trạng như rứa mà nay Cộng Sản chỉ mới cho lên Trung Tướng. Dương Văn Minh công trạng có bao nhiêu đâu mà nay đã lên Trung Tướng rồi, còn muốn gì nữa?”

Đại Tá Y nói ông vốn là đàn em và là người quen biết với Tướng Minh nên chưa biết phải trả lời như thế nào. Tổng Thống liền đưa cho ông cái hộp quẹt và bảo đem tất cả hồ sơ ra đốt đi. Tổng Thống nói: “Mỹ mà nó biết được Trung Tướng của mình theo Việt Cộng thì xầu hổ lắm. Đốt hết đi! Từ rày tôi không muốn nhắc tới cái vụ này nữa.”

Nhưng đốt hồ sơ rồi cũng chưa xong, nhân viên tình báo còn phải bắt Dương Văn Nhựt và dẫn ông ta ra chiến khu để ông ta đi qua Cambodia và trở về lại miền Bắc, với lời cảnh cáo: “Nếu trở lại sẽ bị thanh toán”. Câu chuyện này có lẽ Tổng Cục Phản Gián của Hà Nội không hề hay biết.

Sau đó, ông Diệm đã bảo Đại Tướng Lê Văn Tÿ, Tổng Tham Mưu Trưởng, thông báo cho Tướng Minh biết từ nay ông ta chỉ có thể xử dụng các đơn vị cấp đại đội trở xuống mà thôi. Tướng Minh biết lý do tại sao, nhưng các cố vấn Mỹ không biết chuyện gì đã xẩy ra, nên rất thắc mắc. Họ nghĩ rằng ông Diệm sợ Tướng Minh làm đảo chánh nên mới hạn chế như vậy. Ngày 18.7.1962, ông Diệm thông báo cho Tướng Harkins biết ông quyết định hủy bỏ chức Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân của Tướng Minh vì ông ta “thiếu khả năng.” Ngày 8.12.1962 Trung Tướng Dương Văn Minh được cử làm Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống, một chức vụ được coi như “ngồi chơi xơi nước”.

Sau này, báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật của Việt Cộng trong số ra ngày 1.9.1996, dưới đầu đề “Tướng Dương Văn Minh dưới mắt các nhà binh địch vận”, đã tường thuật lại mối quan hệ giữa Tướng Dương Văn Minh và người em là Dương Văn Nhựt như sau:

“Năm 1960, Mười Tỵ, thiếu tá thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Nhân Dân Việt Nam - được lệnh về Nam nhận công tác đặc biệt. Nhiệm vụ của ông là quan hệ, tranh thủ người anh ở bên kia chiến tuyến, đại Tướng Dương Văn Minh. Sau khi vượt Trường Sơn vào Nam, Thiếu Tá Dương Văn Nhựt, tức Mười Tỵ, đã được Ban Binh Vận Trung Ương Cục tìm mọi cách đưa vào Sài Gòn. Thông qua một người em gái, ông Mười Tỵ đã đến được và ở lại nhà của Dương Văn Minh suốt một tuần lễ. Hai anh em ở hai phía chiến trận gặp gỡ hàn huyên. Bằng tình cảm gia đình, ông Mười Tỵ thuyết phục Tướng Minh. Từ đó, ông Mười Tỵ cứ phải đi về trong “vùng địch” hoặc ra nước ngoài để tiếp xúc và gặp gỡ anh mình. Khi Dương Văn Minh lưu vong ở Thái Lan, ông Mười Tỵ cũng được bố trí sang Thái Lan qua ngã Campuchia. Ông đến Nam Vang, sống trong nhà một Hoa kiều. Tại đó, trong vòng một tháng, ông vừa học bằng sách vở, vừa thực tập giao tiếp để nói tiếng Hoa hồng để nhập vai người đi buôn. Có khi từ Nam Vang ông phải bay lòng vòng sang Ý, rồi từ Ý được cơ sở Việt kiều đón về Pháp để móc nối chị dâu (vợ của Tướng Minh) từ Thái Lan qua liên lạc”.

Bài báo viết thêm:

“Kể từ 1972, bộ đội bắt đầu mở nhiều trận đánh lớn, nên Mười Tỵ được lệnh không ra vùng địch và ra nước ngoài nữa vì “sợ rủi ro làm hỏng ý đồ chiến lược”, nên việc móc nối với Dương Văn Minh được giao cho Nguyễn Hữu Hạnh.”

BỊ BIẾN THÀNH TÊN ĐAO PHỦ CỦA MỸ

Vì không hiểu gì về thủ đoạn chính trị, Dương Văn Minh đã bị Hoa Kỳ biến thành tên đao phủ thanh toán Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn rồi sau đó loại bỏ.

1. Giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu

Biết Tướng Dương Văn Minh đang bất mãn với ông Diệm nên CIA thuyết phục ông ta làm đảo chánh lật đổ ông Diệm. Dương Văn Minh đồng ý ngay. Trên danh nghĩa, ông ta là người chỉ huy cuộc đảo chánh, nhưng bên trong CIA chỉ giao cho ông ta một nhiệm vụ duy nhất là thanh toán nhà Ngô. Còn việc lập kế hoạch và chỉ huy cuộc đảo chánh được trao cho Tướng Trần Thiện Khiêm.

Khi tiến hành cuộc đảo chánh, Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh hạ sát Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân; Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, và Thiếu Tá Lê Quang Triệu, Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt.

Khi được ông Diệm báo tin đang ở nhà thờ cha Tam, Dương Văn Minh đã cho lập “toán hành quyết” đi đón và giết ông Diệm và ông Nhu. Toán này do Đại Tá Mai Hữu Xuân cầm đầu. Tướng Minh cho Đại Úy Nguyễn Văn Nhung, cận vệ của mình, đi theo làm sát thủ.

Khi xác ông Diệm đưa về Tổng Tham Mưu, một quân cảnh cho biết chính mắt ông ta thấy Tướng Dương Văn Minh đã xuống lột quần ông Diệm ra xem có “chim” hay không.

Tướng Trần Văn Đôn cho biết khi hay tin hai ông đã chết, ông rất xúc động và đến hỏi Dương Văn Minh:

- Tại sao hai ông ấy chết?

Ông Minh có vẽ khó chịu, trả lời bằng tiếng Pháp: Ils sont morts! Ils sont morts! (Mấy ông ấy chết rồi, thì chết rồi) [3]

2. Giết ông Ngô Đình Cẩn

Chính Tướng Nguyễn Khánh đã cho soạn thảo và ban hành Sắc Luật số 4/64 ngày 28.2.1964 thiết lập Toà Án Quân Sự đưa ra những quy định trái với nguyên tắc bất hồi tố của hình luật, và cử nhóm tay chân bộ hạ vào làm “phán quan” để tuyên án tử hình ông Cẩn. Sắc Luật lại quy định rằng các bị cáo không có quyền kháng cáo hay thượng tố. Bị cáo bị án tử hình có thể đệ đơn xin ân xá lên Quốc Trưởng trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Trong trường hợp phạm nhân bị xử tử hình đã đệ đơn ân xá, án tử hình sẽ thi hành trong hạn 5 ngày kể từ khi tuyên án, nếu trong hạn đó, đơn xin ân xá không được chấp thuận. Những sự quy định này nhắm gài Tướng Dương Văn Minh, lúc đó đang là Quốc Trưởng bù nhìn, vào cái thế phải chịu trách nhiệm giết ông Cẩn.

Mặc dầu đứng đàng sau Tướng Khánh trong vụ làm luật giết ông Cẩn và biết chắc ông Cẩn phải bị giết, Đại Sứ Cabot Lodge giả vờ đứng ra làm con thoi, đề nghị Tướng Minh ân xá cho ông Cẩn. Tướng Minh biết mình bị gài nên nói với Đại Sứ Lodge: “Khánh luôn luôm tìm cách đặt tôi vào tình trạng khó khăn (He always tries to put me in the difficult position). Tôi sẽ bị cả nước thù ghét và tố cáo nếu tôi ân xá Cẩn.” Đại Sứ Lodge nhận xét: “Rõ ràng là Khánh đang sắp xếp các sự việc để cho Minh gánh lấy tất cả trách nhiệm nếu không hành quyết Cẩn.”

Hôm 5.5.1964 Tướng Dương Văn Minh đã ký quyết định bác đơn xin ân xá của ông Cẩn và trở thành tên sát thủ ông Cẩn!

BỊ ĐƯA RA LÀM HÀNG TƯỚNG

Vào tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ thấy tình hình miền Nam Việt Nam không còn cứu vãn được, nên đã sắp xếp cho miền Nam đầu hàng Bắc Việt để tránh sự đổ máu quá nhiều. Biết Tướng Dương Văn Minh có liên lạc với Việt Cộng, Đại Sứ Martin của Mỹ đã phối hợp với Đại Sứ Merillon của Pháp thuyết phục Tướng Thiệu từ chức và lừa Tướng Dương Văn Minh ra làm hàng tướng bằng cách tạo cho ông một ảo vọng rằng chỉ có ông mới có thể nói chuyện với “phía bên kia” để hình thành một “chính phủ liên hiệp Quốc – Cộng!”

Trong cuốn Decent Interval, Frank Snepp, một phân tích viên của CIA ở Saigon lúc đó, nói rằng tại miền Nam lúc đó, không ai tin Hà Nội có thể chấp nhận một giải pháp khi họ đang trên đà chiến thắng. Ông Vũ Văn Mẫu cũng đã nhận ra được điều đó nên khi gặp Đại Sứ Merillon, ông đã nói với ông Đại Sứ bằng tiếng Latin rằng nếu giải pháp một chính phủ liên hiệp không thành thì xin giúp ông được ra đi.

Frank Snepp cho biết thêm:

“Khi tôi đang bận đánh máy bản báo cáo thì Polgar ở trong phòng riêng với các viên chức khác của Trạm Tình Báo (Toà Đại Sứ) thảo luận về việc chuyển giao nhanh quyền hành. Một khi Thiệu từ chức, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương phải trao quyền hành ngay lập tức cho Minh “Lớn”, và Quốc Hội phải sẵn sàng chấp thuận sự chuyển giao, để sự chuyển giao đó có thể được thực hiện “một cách hợp hiến” (nhấn mạnh của Đại Sứ Martin) và “nhanh chóng”. [4]

Sau khi ép buộc Tướng Nguyễn Văn Thiệu từ chức Tổng Thống, Mỹ thúc đẩy Phó Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền lại cho Tướng Dương Văn Minh để đầu hàng Việt Cộng, nhưng ông Trần Văn Hương không hiểu gì về tình hình lúc đó nên tìm cách cù cưa. Ông bí mật đến gặp Tướng Minh và yêu cầu Tướng Minh làm Thủ Tướng, nhưng Tướng Minh từ chối. Tuy nhiên, do sự thúc đẩy của CIA và một số nhân vật chính trị, cuối cùng ông cũng đồng ý trao quyền cho Tướng Minh với điều kiện phải có sự quyết định của Quốc Hội.

Ngày 26.4.1975 lưỡng viện Quốc Hội đã họp tại Thượng Viện dưới quyền chủ toạ của ông Trần Văn Lắm, Chủ Tịch Thượng Viện, để đưa Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống. Có 136 trong số 219 nghị sĩ và dân biểu đến họp. Sau khi Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, và Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tổng Giám Đốc CSQG trình bày về tình hình, Quốc Hội bắt đầu thảo luận về việc trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh. Có rất nhiều sự bất đồng về việc trao quyền, nhiều người cho rằng sự trao quyền này là bất hợp hiến. Nhưng các nhóm vận động hậu trường đã hoạt động rất ráo riết nên cuối cùng, lúc 20 giờ 54 phút, Quốc Hội đã biểu quyết chấp thuận trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh với số phiếu 147/151.

Chiều 28.4.1975, Tướng Dương Văn Minh đã nhận chức Tổng Thống. Lễ bàn giao được diễn ra tại Phòng Khánh Tiết của Dinh Độc Lập.

Cũng trong chiều 28.4.1975, Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân, vào Dinh Hoa Lan gặp Tướng Minh cho biết tình hình và hỏi Tướng Minh có định ra đi không. Tướng Minh cho con gái là Dương Mai, con rễ là Đại Tá Nguyễn Hồng Đài và hai cháu ngoại lên tàu di tản với Đô Đốc Cang, còn ông và bà Minh ở lại.

Đêm 29.4.1975, Tướng Minh vào ngủ trong Dinh Độc Lập để tránh pháo kích. Lúc đó, ông chỉ còn hy vọng Thượng Tọa Thích Trí Quang, người hứa sẽ đưa người “phía bên kia” đến thương lượng để thành lập chính phủ liên hiệp. Tướng Nguyễn Hữu Có kể lại lúc 4 giờ 35 sáng ngày 30.4.1975, Thích Trí Quang đã nói với Dương Văn Minh qua điện thoại:

“Thưa Tổng Thống, cũng như Tổng Thống là tôi vẫn chờ đến giờ nầy và theo tôi nghĩ có lẽ với tình thề hiện tại, trong sứ mạng của tôi, người đứng trung gian bắc nhịp cầu của thế cờ chính trị, có thể nói là chấm dứt. Với trọng trách là Tổng Thống, hơn nữa là một Đại Tướng, tôi nghĩ công việc phải nhờ vào tài quân sự của Đại Tướng, chứ giải pháp chính trị của tôi coi như chấm dứt, và từ giờ phút này nếu có chuyện gì xẩy đến thì mọi trách nhiệm đều do Tổng Thống, à quên Đại Tướng quyết định với giải pháp quân sự, mà trong lãnh vực này Đại Tướng rất rành và giỏi hơn tôi. Xin chào Tổng Thống ...”

Dương Văn Minh chỉ trả lời gọn một câu: “Thầy giết tôi rồi!” và cúp máy điện thoại.

Lúc đó là 4 giờ 45 phút sáng.

Frank Snepp kể lại, sau đó Tướng Minh đi đi lại lại một cách bực dọc (nervously) trong dinh Độc Lập trống vắng. Đoàn sứ giả đi thương lượng ở Tân Sơn Nhứt không thấy về. Có người khuyên ông nên tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, nhưng ông không đồng ý. Ông nói rất nhiều đồng bào của ông sẽ khinh ông. (Too many of his countrymen would think ill of him). Ông muốn hoản lại chuyện này cho đến khi nội các được thành lập. Khi đó ít ra những người khác phải chia xẻ sự sỉ nhục.[5]

Lúc 8 giờ 30, ông đến Phủ Thủ Tướng thảo luận lại thành phần chính phủ của Vũ Văn Mẫu rồi quay về dinh Độc Lập làm lễ ra mắt.

Lúc 10 giờ 15 sáng ngày 30.4.1975, khi thấy không còn gì để hy vọng nữa, Dương Văn Minh lên tiếng trên đài phát thanh Sài Gòn kêu gọi quân nhân, cảnh sát và các lực lượng bán quân sự “giữ vị trí, buông súng để bàn giao chính quyền trong vòng trật tự”. Lúc 11 giờ 30, chiếc xe tăng Cộng Sản đầu tiên loại T-54 tiến trên đại lộ Thống Nhứt về phía Dinh Độc Lập, ủi sập cổng, sau khi bắn hai phát đại bác long trời lở đất. Tiếng chân chạy ồn ào trong đại sảnh, có tiếng đạn lên nòng, một khẩu lệnh vang lên: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!” Dương Văn Minh là người bước ra đầu tiên, Thiếu Tá tùy viên Hoa Hải Đường đi bên cạnh, phía sau là Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền... Nhiều bộ đội ở đầu kia đại sảnh hét to: “Mọi người giơ hai tay lên!”. Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu và đoàn tùy tùng nhất loạt tuân lệnh.

Hai ông Minh và ông Mẫu được đưa đến đài phát thanh Sài Gòn để đọc lời đầu hàng. Nhưng khi hai ông vào bên trong đài phát thanh thì không còn nhân viên kỹ thuật nào ở đó để làm công việc thu băng. Sinh viên Nguyễn Hữu Thái phải mất hai tiếng mới tìm ra nhân viên kỹ thuật. Bản tuyên bố đầu hàng do chính trị viên Bùi Văn Tùng thảo, ông Minh đọc và đài phát thanh phát đi vào lúc 13 giờ 30.

Tính lại, Dương Văn Minh đã làm Tổng Thống không tới 40 tiếng đồng hồ: Nhận chức vào chiều 28 tại Dinh Độc Lập đến trưa 30.4.1975 đã tuyên bố đầu hàng!

NHÌN LẠI CON NGƯỜI CỦA DƯƠNG VĂN MINH

Tướng Nguyễn Chánh Thi tiết lộ rằng khi còn ở Pháp, Tướng Dương Văn Minh có gởi cho ông một lá thư đề ngày 15.4.1987, trong đó có đoạn như sau:

"Thi,

“Được tin Thi tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi còn lưu lại rất nhiều kỷ niệm.

“Từ khi tôi đến nước Pháp tới nay, lật bật đã gần sáu năm rồi, sống với một cuộc đời réfugié tuy có thong thả nhưng lúc nào cũng bận tâm. Thoát được chế độ Cộng sản với hai bàn tay không - Pháp chẳng giúp đỡ gì - mình sống ẩn thân trong một đô thị thật nhỏ, kể ra cũng tạm yên.

“Nghe Thi kể chuyện các anh em quân nhân, tôi rất khổ tâm. Lúc đó tôi bị đày ở Bangkok cho nên có nhiều việc tôi không được rõ hết.

“Anh em có đọc sách của anh Đỗ Mậu kể chuyện lại cho tôi nghe; tôi phải công nhận anh Đỗ Mậu kể chuyện như vậy là rất can đảm. Lên án Cần-lao và Công-giáo đến mức đó là cùng. Ngoài ra, anh Đỗ Mậu có trách tôi không biết tự tử như các bực tiền bối, cũng có phần đúng. Nhưng đây chỉ là một vấn đề quan niệm mà thôi.

“Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng là đúng. Đôi khi mình phải dám sống để hứng nhận những hậu quả cho sự quyết định của mình gây ra ...”

Thân phận của Tướng Minh đã bị Hoa Kỳ biến thành một cái mền rách, nhưng vì quá yếu kém về chính trị, nên cho đến khi gần tới giờ về cỏi âm, ông vẫn chưa nhận ra được! Lãnh đạo mà như thế, mất miền Nam là chuyện không có gì đáng ngạc nhiên.

Nhìn lại con người của Dương Văn Minh, chúng ta thấy có 3 đặc điểm sau đây:

Thứ nhất là tham nhũng và thiếu trách nhiệm:

(1) Biển thủ một thùng phuy vàng lấy được của Bình Xuyên và một số tiền bạc thu được sau cuộc đảo chánh 1.11.1963. Cho một tay chân bộ hạ nổi tiếng tham những là Tướng Mai Hữu Xuân kiêm ba chức quan trọng cùng một lúc để truy lùng tài sản và khảo của các viên chức chế độ cũ, đó là Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo và Đô Trưởng Sài Gòn. Tướng Xuân đã nhận cả tiền của Việt Cộng để thả các cán bộ cao cấp của Việt Cộng ra.

(2) Không quan tâm đến tình hình miền Nam sau cuộc đảo chánh và có quyết định sai lầm: Ra lệnh phá hủy các ấp chiến lược đã được thiết lập để đối phó với Cộng Sản, đưa miền Nam tới bờ vực thẳm khiến Hoa Kỳ phải thực hiện “Pentagon’s coup” để lật đổ và đưa quân vào miền Nam cứu vãn tình thế.

Thứ hai là ngố:

Mặc dầu làm việc với Hoa Kỳ và hành động theo sự xúi biểu của Hoa Kỳ, ông không hiểu gì về chính sách và thủ đoạn của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn, nên đã bị Hoa Kỳ biến thành công cụ:

(1) Ông bị biến thành một tên sát thủ giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn thay cho người Mỹ khi Hoa Kỳ muốn thay đổi chính sách. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó ông bị Hoa Kỳ loại và đưa những tay chân bộ hạ của CIA lên cầm quyền.

(2) Khi Miền Nam sắp sụp đổ, ông bị Hoa Kỳ lường gạt bằng chiêu bài “hoà giải hoà hợp” để đưa ông ra làm Hàng Tướng!

Thứ ba là hèn:

(1) Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, cận vệ thân tín của ông, được ông phái đi giết Đại Tá Lê Văn Tung và Thiếu Tá Lê Văn Triệu, sau đó hạ sát ông Diệm và ông Nhu. Ấy thế mà sáng 30.1.1964, khi linh Nhảy Dù bắt Thiếu Tá Nhung trước mặt ông và dẫn đi, rồi tối hôm đó hạ sát, ông chẳng có một lời nào!

(2) Sáng ngày 30.4.1975, bộ chỉ huy 3 chiến thuật của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đang quần thảo với Việt Cộng trước cổng Bộ Tổng Tham Mưu ở Lăng Cha Cả thì Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng. Thiếu Tá Phạm Châu Tài, chỉ huy trưởng bộ chỉ huy 3 chiến thuật, đã nói chuyện với Tổng Thống Dương Văn Minh qua điện thoại:

- Tôi là chỉ huy trưởng cánh quân đang tử chiến với Việt Cộng ở Bộ Tổng Tham Mưu, tôi đang cố liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu thì lệnh ngưng chiến đã ban ra và quân của Việt Cộng vẫn còn đang tiến về thủ đô. Tôi vào trong Bộ Tổng Tham Mưu thì không còn một tướng lãnh nào ở đây, họ đã bỏ chạy hết, do đó tôi muốn nói chuyện với Tổng Thống để xin quyết định.

Tổng Thống Minh trả lời:

- Các em chuẩn bị bàn giao đi.

Thiếu Tá Tài hỏi lại:

- Có phải là đầu hàng không?

Tổng Thống Minh trả lời:

- Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng của Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập.

Thiếu Tá Tài nói:

- Nếu xe tăng của Việt Cộng tiến về Dinh Độc Lập thì chúng tôi sẽ đến cứu Tổng Thống. Nếu Tổng Thống ra lệnh đầu hàng thì Tổng Thống có chịu trách nhiệm với hơn 1000 quân đang tử chiến ở Bộ Tổng Tham Mưu hay không?"

Tổng Thống Minh trả lời:

- Tùy ý các anh em.

Nói xong cúp máy!

(3) Ký giả Borries Gallasch, phóng viên tờ Der Spiegel của Đức, người ký giả ngoại quốc duy nhất có mặt trong Dinh Độc Lập vào sáng 30.4.1975, đã kể lại thái độ của Tướng Dương Văn Minh khi đối diện với các bộ đội cộng sản đến bắt ông đầu hàng như sau: Đại Tướng Dương Văn Minh im lặng. Dưới chiếc mũ cối, những người lính bộ đội nhìn ông Minh với vẻ tò mò... Cuối cùng ông Minh đã lên tiếng, hỏi một người lính: “Em trai của tôi hiện nay ra sao? Khi nào tôi có thể gặp chú ấy?”.

Làm tướng mà phải đầu hàng là nhục rồi, nhưng lại còn hèn hơn nữa khi nói mé cho những tên bộ đội nhỏ bé của Cộng quân biết rằng ông có người em theo Việt Cộng là Dương Văn Nhựt để chứng tỏ ta đây cũng thuộc “gia đình Cách Mạng”!

NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG

Ngày 8.8.1983, Dương Văn Minh, được chính quyền Hà Nội cho phép di cư sang Pháp và sống với hai người con trai là Dương Minh Đức và Dương Minh Tâm. Khoảng năm 1988, ông âm thầm qua Pasadena, Nam California, Hoa Kỳ, và sống với con gái là Dương Mai đang định cư ở đó. Trong những những ngày còn lại của cuộc đời, Tướng Dương Văn Minh phải sống trong bóng tối, không dám gặp cộng đồng người Việt tại đây.

Ngày 5.8.2001, ông bị té từ xe lăn, được đưa vào bệnh viện Huntington Memorial Hospital và qua đời ngày hôm sau, hưởng thọ 86 tuổi. Linh cữu ông cũng được phủ cờ vàng ba sọc đỏ, được di chuyển lên xe bởi 6 người thân gồm các ông Hoa Hải Đường, Nguyễn Hồng Đài, Trịnh Bá Lộc, Hoa Hải Thọ, Ngô Long và Nguyễn Trí Dũng. Sau đó, linh cửu ông đã được hoả thiêu trưa thứ bảy 18.8.2001 vào lúc 12 giờ tại vãng sanh đường Skyrose thuộc nghĩa trang Rose Hill, Nam California.

Lữ Giang
26.4.2009
Nguồn: E-Mail from HLK 2.5.09

Ghi chú:
[1] Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam: Một trời tâm sự, Xuân Thu, Hoa Kỳ 1987, tr. 27 và 28.
[2] Huỳnh Văn Lang, Nhân chứng một chế độ, Tập II, California, Hoa Kỳ, tr. 66 – 70.
[3] Trần Văn Đôn, Việt Nam nhân chứng, Xuân Thu, California, Hoa Kỳ 1989, tr. 231.
[4] Frank Snepp, Decent Intreval, Random House, New York, 1977, tr. 382 – 383. [5] Frank Snepp, Decent Intreval, Random House, New York, 1977, tr. 540.




Âm Mưu Văn Hóa Đỏ Của cộng sản Việt Nam - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh

Đối với những người đã nghiên cứu qua thuyết Marx-Lênin hoặc bất cứ ai từng sống dưới chế độ cộng sản thì những âm mưu văn hóa đỏ trình bày trong bài viết nầy không có gì mới lạ. Ngược lại với giới trẻ thuộc thế hệ 1,5 và 2 lớn lên hoặc sinh trưởng ở hải ngoại, chắc chắn đây là những vấn đề chưa được nghe đến. Tôi nghĩ vậy vì gia đình nào vừa đặt chân đến vùng đất tự do, cha mẹ phải dành trọn thời giờ để làm lại cuộc đời và lo tương lai cho con cháu. Nhưng rất tiếc, một số lớn bậc phụ huynh đã lơ là bổn phận giáo dục hoặc dành rất ít thời gian để hướng dẫn thế hệ đi sau về phương diện văn hóa cũng như chính trị. Đây là bài học đau lòng mà ngày hôm nay thế hệ thứ nhất phải nhận lấy những hậu quả không mấy tốt đẹp khi một số thanh niên thuộc thành phần trẻ thế hệ 1, 5 và 2 trở lại chống đối cha mẹ mình Các bạn trẻ hải ngoại được cha mẹ, gia đình và xã hội nuông chiều trong những môi trường quá tự do, khi thành công thì quên hẳn nguồn gốc rồi tự cao tự đại, trở mặt miệt thị đấng sinh thành cũng như các bậc chú bác là thành phần ít học, sống bám vào trợ cấp, tranh đấu hung hăng, chống cộng một cách điên cuồng…làm ô danh cộng đồng và xấu hổ cho lớp trẻ !

Lý do nào đã đưa đến tình trạng nầy ? Trước khi đi vào chi tiết xin tất cả hãy ghi nhận một thực tế: Giới trẻ tại Âu-Mỹ sống dưới chế độ tự do, được hấp thụ một nền văn hóa nhân bản nhưng thành phần nầy lại ăn phải bã văn hóa đỏ của cộng sản mà vẫn không hay biết. Có thể vì giới trẻ không có nhiều thời gian để sống chung với gia đình hoặc cha mẹ quá bận rộn công ăn việc làm rồi lơ là trong vấn đề chăm sóc con cái. Đừng quên rằng, gia đình chính là môi trường cần thiết để gặp gở, tạo thông cảm, trao đổi, học hỏi và chuyện trò thân mật với nhau, giữa cha mẹ, anh em, họ hàng thân thuộc. Ngoài ra còn lý do chính cũng nên nói ra, là một số cha mẹ bị mặc cảm thua kém con cháu nên thường tránh né đề cập đến những kinh nghiệm hiểu biết của mình hoặc những suy tư thời cuộc, lý do tranh đấu và tương lai của đất nước. Chính điều nầy càng tạo thêm hoặc đào sâu những cái hố ngăn cách về quan niệm sống, tinh thần đạo lý cũng như chính trị giữa hai lớp tuổi già với trẻ hay nói đúng hơn, giữa cũ và mới.

Trường học, thư viện, hội đoàn, câu lạc bộ, các tổ chức văn hóa nghệ thuật là những môi trường hữu hiệu để đào tạo và phát triển con người nhất là giới trẻ Việt Nam ở hải ngoại. Cộng sản đã lợi dụng nơi đây để tuyên truyền, mua chuộc, biến thành lò cấy và trồng người ngắn hạn qua chương trình kiều vận của chúng. Thành phần trẻ là cái đích mà Hà Nội nhắm vào, chúng không từ một phương tiện gì, từ tình cảm, tiền bạc cho đến những hứa hẹn suông. Ngoài ra Hà nội còn xử dụng thủ đoạn hăm dọa khi một thành phần trẻ nào đó bị ‘dính chàm’ do cái bẫy giăng sẵn về tiền bạc, trai gái hoặc tội phạm. Chúng chụp ngay cơ hội để buộc con mồi phải thi hành các chỉ thị thâm độc của chúng. Cái đểu của cộng sản là lợi dụng thành phần thuộc thế hệ 1,5 và 2 hải ngoại bằng cách đánh vào tâm lý thanh niên, khơi động lòng yêu nước, nghĩa đồng bào và tinh thần hăng say phục vụ bất vụ lợi để biến thành phần nầy trở một lực lượng vừa chống lại cha ông, chú bác, anh em và cộng đồng bằng hình thức nầy hay hình thức khác. Mục đích chính của cộng sản là nhuộm đỏ những con thiêu thân trẻ nhẹ dạ ở hải ngoại để mai kia xử dụng thành phần thay thế lớp già là những người đã kiên trì chống chế độ chúng từ ba mươi bốn năm qua.

Để thực hiện mưu đồ thu gọn cộng đồng người Việt trong thời gian sắp đến, nghĩa là sau khi thế hệ thứ nhất hết khả năng tranh đấu hoặc đến tuổi phải rủ nhau về chầu ông bà, đảng cộng sản đã và đang thi hành một kế hoạch chuẩn bị đưa thành phần thuộc giới đỏ lên thay thế, lãnh đạo cộng đồng để thi hành âm mưu hòa giải hòa hợp, nghĩa là đem nguyên cộng đồng người Việt tỵ nạn dâng cho đảng. Một đội ngũ hùng hậu được tung ra, ngoài cán bộ tuyên truyền đội lốt ngoại giao, các tay nằm vùng, những văn nghệ sĩ đầu đỏ ba xu, bọn cò mồi ăn lương tháng, Hà nội còn gởi hằng trăm ngàn ‘rắn con’ là những du sinh ra nước ngoài để chiêu dụ thành phần trẻ hải ngoại nhất là sinh viên học sinh trong các trường trung cũng như đại học. Đám du sinh nầy được huấn luyện kỹ thuật tuyên truyền, nói như vẹm, miệng tráo trở như rắn và nếu cần, chúng xử dụng luôn tình cảm cá nhân để thuyết phục thành phần nai tơ hải ngoại.

Nhiệm vụ chính của đám rắn con nầy: Một, chiêu dụ lớp trẻ hải ngoại phản bội cha ông để quay về bắt tay hòa giải hòa hợp với cộng sản theo chương trình kiều vận. Hai, kiếm vợ kiếm chồng xứ ngoài, tìm nơi nương tựa cho bản thân và gia đình sau nầy, đồng thời thi hành lệnh Hà nội bằng cách cấy người, xâm nhập vào ngay trong tập thể cộng đồng người Việt tỵ nạn bằng hình thức hôn nhân. Điều nầy không lạ vì có một ít gia đình chống cộng ở hải ngoại nhưng sau ngày thành sui gia với cán bộ đỏ thì tự nhiên đổi ngay thái độ, né tránh hoặc ngang nhiên chống lại cộng đồng. Họ được ‘đổi đời’ lần thứ hai nhờ bám vào cộng sản, chỉ trong một sớm một chiều đã lên ngay chức thông gia, ngang hàng với quan quyền chế độ đỏ, đồng thời trở nên giàu có với số ‘hồi môn’ ân huệ do sui gia tặng dưới hình thức mua dâu mua rể !

Tôi không ngạc nhiên khi một số bạn trẻ hải ngoại ra mặt chống lại cha ông mình vì thành phần trẻ hải ngoại vô tình hoặc thiếu thông tin và giáo dục chính trị, nên chỉ thấy ‘cái hay cái đẹp’ của chế độ cộng sản qua xảo quyệt tuyên truyền của những tay cộng sản, để rồi ngang bướng chống lại các đấng sinh thành và miệt thị chương trình tranh đấu của cộng đồng nhằm giải thể chế độ cộng sản. Bài viết "Âm Mưu Văn Hóa Đỏ" không ngoài mục đích gởi đến giới trẻ hải ngoại thuộc thế hệ 1, 5 và 2:

Cộng sản nhân danh thành phần nông công để cướp chính quyền từ chế độ quân chủ Nga và bành trướng chủ nghĩa vô sản nhằm mưu đồ nhuộm đỏ nhân loại. Cướp được nơi nào cộng sản xóa ngay nền văn hóa truyền thống đồng thời thay thế bằng một "quái thai văn hóa", mục đích chính là gột rửa, tẩy xóa tính chất nhân bản – hay gọi là văn hóa tự do - tốt đẹp của con người. Đó chính là đường lối cai trị đất nước và phục vụ quyền lợi riêng tư của đảng cộng sản. Văn hoá vô sản chính là phương tiện nhồi sọ con người nhằm ‘thần tượng hóa đảng’ cũng như ca tụng ‘lãnh tụ đỏ’ của chúng, đồng thời đây cũng là vũ khí tinh thần để bảo vệ chế độ của chúng. Ngoài ra, văn hóa đỏ còn chủ trương ‘ngu muội hóa’ và ‘bần cùng hóa’ con người mà trong quá khứ cộng sản đã dùng tất cả phương tiện nhằm đưa cả dân tộc đến tận cùng ngu dốt và nghèo đói. Người dân dưới chế độ cộng sản, một khi đã dốt mà còn đói nữa thì chắc chắn sẽ trở thành con vật, không biết gì hơn là phải ngoan ngoãn phục tùng nhà nước để được phân phối thực phẩm Như vậy chủ trương cộng sản là dùng bao tử để trị dân, tức là hình thức khốn nạn của một giống súc vật man ri mọi rợ, xử dụng miếng ăn để sai khiến con người ! Đây chính là âm mưu đen tối, thâm độc và vô nhân đạo của chủ nghĩa cộng sản mà "văn hóa đỏ" đóng một vai trò tối quan trọng trong đời sống hằng ngày của người dân dưới chế độ của chúng.

Nhưng rồi từ chủ nghĩa cho đến các tập đoàn cầm quyền cộng sản đều bị thành phần bị trị cũng như toàn thể thế giới tự do khinh tởm, tẩy chay và hạ bệ. Liên Sô cũng như các xứ Đông Âu đã thẳng tay liệng thuyết Marx-Lenin vào sọt rác và lật đổ bọn cầm quyền qua những cuộc cách mạng xanh trong thế kỷ vừa qua. Thế giới ngày nay chỉ còn lại bốn tập đoàn lì lợm, vẫn ngoan cố dùng kẽm gai súng đạn làm phương tiện duy trì quyền lực để bảo vệ vĩnh viễn ngai vàng của chúng. Trong đó đảng cộng sản Việt Nam là tập đoàn ù lì nhất, khốn nạn nhất, tham nhũng nhất và thâm độc nhất đang dẫn đầu bọn cộng sản thế giới ! Giới trẻ cần phải ghi nhận một điều, tất cả tập đoàn cộng sản ngày nay không còn núp bóng danh từ vô sản cũng như dựa vào thành phần nông công để cai trị và vinh thân phì gia, mà chúng lợi dụng cái vỏ của đảng làm thành trì bảo vệ ngai vàng, tài sản và dòng họ của chúng. Như vậy bốn chữ "chuyên chính vô sản" đã lỗi thời, thành phần nông dân thợ thuyền ngày nay trở thành nạn nhân hàng đầu của chế độ cộng sản: Chính giới vô sản bị bọn tỷ phú đỏ bóc lột đến tận cùng xương tủy, điều nầy không lạ gì, giới thợ thuyền nông dân là thành phần lao động căn bản của xã hội nhưng lại nghèo đói nhất trong cái thiên đường cộng sản lạc hậu và khốn nạn nhất của nhân loại. Các thành phần nầy phải lệ thuộc, sống bám vào các điều kiện của nhà nước, bán mồ hôi, đổi máu để kiếm bữa cơm bữa cháo qua ngày. Vậy, tính từ giới lãnh đạo xuống đến đảng viên của Việt cộng, Tàu cộng, Hàn cộng cũng như Cuba cộng đều là những tay tỷ phú, thì những chữ "chủ nghĩa vô sản", "văn hóa vô sản" là những danh từ bịp bợm do chúng đẻ ra cũng hoàn toàn lỗi thời, cần phải đổi thành ‘tư bản đỏ’ và "văn hóa đỏ" thì đúng và chính xác.

Như đã trình bày ở phần trên, cộng sản lợi dụng giới "vô sản" để kích động, gây căm thù và xúi giục thành phần nông công đứng lên chống lại chế độ quân chủ thời đó. Nhưng trong cái vỏ ‘vô sản’ mị dân đó lại gồm có ba cái ‘vô’, chủ trương đi ngược với luân thường đạo lý con người và văn minh tiến bộ xã hội: Đó là vô gia đình, vô tổ quốc và vô tôn giáo … là những âm mưu để tiêu diệt tình cảm gia đình, tình yêu tổ quốc và niềm tin tôn giáo, nhằm biến con người thành một sinh vật vô tri giác do đảng sinh ra và chỉ biết phụng sự đảng !

1. Gia đình là đơn vị căn bản và tối cần thiết để đào tạo và giáo dục con người trở thành những công dân hữu ích cho xã hội và đất nước. Một xã hội vô gia đình, theo chủ trương của cộng sản, chẳng khác gì một đơn vị sản xuất, nơi mà trẻ con sinh ra được huấn luyện để thành những cái máy nhằm để phục vụ đảng như tổ chức loài ong, loài kiến … Như vậy con người dưới xã hội chủ nghĩa đã biến thành một loại sinh vật không nguồn gốc, không tình cảm, không lý trí, suốt đời phải lao động để được phân phối khẩu phần ăn theo khả năng làm việc. Có thể nói rằng cộng sản xem gia đình như một "xưởng đẻ" nhỏ để sản xuất con người theo tiêu chuẩn và kế hoạch của nhà nước, cha mẹ chỉ có bổn phận sinh con, nuôi ăn từ lúc mới sinh đến khi biết đi biết nói. Tới tuổi cắp sách đến trường thì phải dâng con cho đảng để đảng giáo dục và huấn luyện trong các đội nhi đồng, thiếu niên cờ đỏ, đoàn thanh niên lao động. Nếu lý lịch tốt thuộc thành phần con cháu cán bộ, gia đình tử sĩ hay có công với chúng thì được cân nhắc vào đảng, bằng không, sẽ bị liệt vào hạng công dân thứ yếu, thuộc thành phần bị trị, là sâu bọ của xã hội và cuối cùng nhà nước tập trung thành một lực lượng để bán ra xứ ngoài làm nô lệ lao động và nô lệ tình dục.

Theo tinh thần của nền văn hóa nhân bản thì cha mẹ giữ một vai trò quan trọng trong việc giáo dục con cháu. Gia đình chính là lớp học đầu tiên, nơi khai trí bằng bài vở lòng ‘tiên học lễ hậu học văn’ từ lúc đứa trẻ vừa biết nói. Khi vừa đủ trí khôn con cái cũng được chính gia đình giáo dục tiếp về "công dung ngôn hạnh" và "trung hiếu lễ nghĩa" để tạo cho lớp trẻ phải biết bổn phận với quê hương tổ quốc, đạo hiếu thảo với cha mẹ, đạo xử thế với đồng bào và đạo làm người với Trời Đất. Chủ trương vô gia đình chính là mục đích mà cộng sản muốn xóa bỏ công lao sinh thành và nuôi dưởng của cha mẹ đồng nhồi sọ lớp trẻ chối bỏ trách nhiện và bổn phận đối với gia đình, quên người thân để trở thành những con thiêu thân chỉ biết tuân lệnh, phụng sự, sống và chết cho đảng. Chủ trương nầy cũng không ngoài âm mưu tách rời liên hệ máu mủ và tình cảm gia đình giữa cha mẹ anh em, vợ chồng con cái, người thân ruột thịt, để con cái sinh ra trở thành những đứa trẻ vô thừa nhận xem bậc sinh thành, người thân như kẻ thù nghịch. Như vậy có thể kết luận, con người sinh ra dưới chế độ cộng sản là những con vật do đảng sinh ra, giáo dục, kiểm soát từng cá nhân một từ tư tưởng, hành động, tình cảm cho đến cuộc sống hằng ngày như ăn ngủ, học hành, làm việc, tiếp xúc, giao tế, cưới vợ gã chồng, đau ốm, sống chết đều do nhà nước an bài.

Cộng sản thay gia đình giáo dục gì cho trẻ thơ ? Ngay từ ngày cắp sách đến trường chúng đã nhồi vào trí óc non dại những bài học nói láo rập theo lối tuyên truyền của cộng sản, phản bội bằng cách theo dõi hành động, nghe ngóng lời ăn tiếng nói của cha mẹ để báo cáo với cô giáo, thù hận đối với quân dân cán chính VNCH, chém giết những ai chống lại đảng và nhà nước và nặc mùi sắt máu phải tranh đấu đến giọt máu cuối cùng ! Chúng còn dạy cho trẻ con mới lọt lòng mẹ đã biết căm thù tư bản và chính thể Việt Nam Cộng Hòa cũ đồng thời đem già Hồ ra so sánh và bôi nhọ từ Chúa đến Phật. Tôi vắn tắt vài chuyện nhỏ để biếu cho thành phần trẻ theo cộng sản cũng như những tên chủ trương hòa giải hòa hợp với Hà nội. Đây là những chuyện thật được in ra trong các sách giáo khoa và truyện bằng hình vẽ dành cho trẻ em, ví dụ:

- Bài toán cộng trừ cho các lớp nhỏ tiểu học: Có 5 thằng ngụy đi vào làng cướp của hiếp người, quân ta anh dũng bắn hạ một lượt 4 thằng. Vậy còn mấy thằng chạy thoát ?

- Truyện bằng tranh dành cho các lớp mẫu giáo: Cô giáo đưa ra một truyện vẽ bằng bốn bức họa và giải nghĩa rằng, không có Chúa cũng không có Phật nào cả mà chỉ có bác Hồ vĩ đại của các cháu mà thôi. Chính bác Hồ đem lại cơm ăn áo mặc cho các cháu. Bây giờ các cháu nhắm mắt lại xin Chúa xin Phật cho các cháu kẹo xem thử có đứa nào cho không ? Nếu không, thì bây giờ các em nhắm mắt và xin Bác Hồ thì bác Hồ sẽ cho ngay ! Thế là kẹo bánh được liệng vào từ các cửa sổ !

- Nhồi sọ trẻ con ngay từ lúc biết đánh vần: Trong việc đánh Mỹ cứu nước, các chị nông dân miền Bắc đã dùng súng trường bắn rơi hàng ngàn chiếc máy bay thả bom B52 của Mỹ Ngụy và trẻ chăn trâu thì dùng ná cao su hạ hàng vạn máy bay lên thẳng của địch !

- Tuyên truyền láo khoét gây căm thù cho dân chúng miền Bắc: Thằng Ngô Đình Diệm kéo cái máy chém đi khắp miền Nam, hằng ngày nó đã chém đầu hàng ngàn quân dân anh hùng của chúng ta ! Bài học sau cùng nầy chúng vẫn còn đem ra giảng dạy trong thời kỳ đầu cho những người đi tù cải tạo !

Đó có phải là những bài học vở lòng rất "đạo đức" và "văn hóa" để dạy cho trẻ con tại Việt Nam ngay khi chúng vừa cắp sách đến trường ! Ngày nay, đối với thành phần ngây thơ hải ngoại thì những chuyện lố bịch nầy có lẽ cũng không thể đem ra thuyết phục, chúng đổi chiến lược bằng những trò xảo thuật kín đáo qua hình thức ca tụng công lao đảng vì dân vì nước đồng thời tráo trở, biến tên tội đồ thành cha gia dân tộc, không ngoài mục đích níu kéo lòng ngưỡng mộ của thành phần trẻ và những người nhẹ dạ, mục đích đánh lận con đen, kêu gọi bắt tay hòa giải hòa hợp và gởi tiền về xây dựng đất nước.

Không có gia đình thì không còn xã hội, ý tôi muốn nói là một xã hội có tôn tri trật tự, thấm nhuần đạo đức và mang nặng tính nhân bản. Một khi không còn gia đình và xã hội, con người sẽ mắt hẳn nguồn gốc đạo lý và căn nguyên hướng thiện mà Trời đã ban sẵn cho mỗi người khi mới lọt lòng mẹ. Cái gốc con người khi vừa sinh ra bao giờ cũng tốt, chỉ có xã hội xấu mới tạo ra con người xấu. Thử tính xem những trẻ con xuất thân trong hoàn cảnh thiếu mái ấm gia đình, không tình thương cha mẹ, không người chăm sóc dạy dỗ, thiếu giáo dục nhà trường thì đại đa số trở nên tội phạm của xã hội. Vậy gia đình là gốc của con người, là cái nôi của đạo lý và là môi trường giáo dục con người từ lúc mở mắt chào đời đến lúc trưởng thành khôn lớn. Chỉ có cộng sản mới chủ trương vô gia đình, nghĩa là diệt bỏ tình thân ruột thịt để con người không còn bận bịu tình cảm riêng tư. Điều nầy chứng minh trẻ con sinh ra dưới chế độ cộng sản không có con tim và khối óc, lớn lên thành những người mang dòng máu lạnh, sẵn sàng bán đứng cha mẹ anh chị em mình để trở nên đảng viên cuồng tín, sặc mùi tranh đấu và sẵn sàng biến thành con thiêu thân trọn đời hiến dâng cho đảng.

Trước đà tiến bộ của nhân loại cũng như sự phát triển về truyền thông, cộng sản Việt Nam không dám ngang nhiên tuyên truyền như trước kia ba cái ‘vô’ khốn nạn của chúng, nhưng chúng vẫn âm thầm tráo trở, đặt lên hàng đầu ba âm mưu diệt gia đình, tổ quốc cũng như tôn giáo trong lề lối cai trị của chúng. Hậu quả của chủ trương ‘vô gia đình’ có nghĩa là biến xã hội thành một tập thể thiếu giáo dục, do đó Việt Nam ngày nay dưới chế độ cộng sản được đánh giá bởi người ngoại quốc : Một xã hội không có tình người, không còn luân lý đạo đức.

Một xã hội chỉ biết gian manh dối trá và vật chất là cái thước để đo con người. Thậy vậy, thiên đường ngày nay dưới chế độ cộng sản là một xã hội:

- Không còn luân lý: Mất đạo đức dẫn đến tình trạng mẹ bán con đi làm điếm. Ăn thai nhi cường dương bổ thận. Những tên già lấy trẻ con đáng tuổi cháu chắt. Con gái chưa sạch mũi, cần tiền bán ngay trinh tiết. Trong gia đình không còn tôn tri trật tự, ai có tiền làm chủ. Ngoài xã hội đồng tiền cái thước, là chiếc cân để đo giá trị con người. Trường hợp điển hình, một tên tỉnh ủy thành phố Sàigòn bất lực đã dụ mua trái thận của một sinh viên nghèo và anh nầy đã chết sau khi bán gần toàn bộ trái thận của mình !

- Không có tình người: Văn hóa đỏ đã làm cho mọi người trong gia đình, láng giềng, hàng xóm nghi kỵ lẫn nhau, nhìn nhau bằng cặp mắt nghi ngờ, mở miệng ra thì sợ lở lời liên lụy đến bản thân. Bổn phận của người dân là phải báo cáo từ tư tưởng đến hành động của người thân, bạn bè, láng giềng, người làm việc cùng sở cho công an, cho chính ủy cơ quan ! Mọi người ra đường thì nhắm mắt làm ngơ vì sợ liên lụy mỗi khi bắt gặp ai bị thương vì tai nạn hoặc đau nặng vì trúng gió…

- Gian manh dối trá: Xem những tờ báo của cộng sản phát hành trong nước, ai cũng thấy trên hai phần ba tin tức đều đăng các tin ăn quỵt, cướp giựt, đâm chém, giựt vợ chém chồng xảy ra từng giây phút. Đánh nhau, gây thương tích án mạng cũng vì những chuyện nhỏ nhặt như tranh nhau một củ khoai, vài đồng bạc, bó rau, ký gạo….

- Xô bồ vật chất: Mua quan bán chức, mua bằng các cấp, mua trinh đủ loại, mua mạng người dễ dàng như đi chợ mua con gà con vịt. Tiền bạc vật chất giải quyết được tất cả mọi việc một cách hiệu quả và nhanh chóng. Muốn có tiền, với một người không còn lương tri tình cảm thì họ không bao giờ bỏ qua bất cứ hình thức tội phạm nào. Một xã hội chỉ biết tiền và tiền, đua đòi vật chất thì đồng tiền vật chất đã làm mất hẳn lý trí con người. Đây là hậu quả của âm mưu văn hóa đỏ nhằm xóa bỏ vai trò giáo dục gia đình qua chủ trương ‘vô gia đình’ của cộng sản !

- Sa đọa trầm trọng: Con người dưới xã hội chủ nghĩa hiện giờ chỉ còn hai cái quan trọng nhất : Ăn và Ôm ! Chưa có xứ nào mà tình trạng ăn uống ngoài bữa cơm gia đình ồn áo náo nhiệt như ở Việt Nam. Từ trong ngỏ hẻm ra đến đường, cảnh ăn uống tấp nập từ lúc vừa thức dậy cho đến quá khuya. Gánh hàng nhỏ lớn bày ngay giữa đường, xe đẩy chen nhau dành chỗ, người ngồi la liệt dưới đất và ăn uống một cách ngon lành, dù là trái cóc, con khô cho đến gói xôi, ly chè, tô cháo nhậu với nước lạnh pha cồn mà lúc nào cũng đát khách ! Ăn (và uống) để quên đời ! Dù kéo xe, đạp xích-lô, làm thợ vịn, bán hàng rong… ngày kiếm được vài chục ngàn (chừng 1 hay 2 US$) nhưng trước khi về nhà cũng ghé qua quán nhậu làm vài ly để quên ! Người dân lao động muốn quên đi nỗi cực nhọc thân xác, uống cho say rồi về ngủ để ngày mai tiếp tục đi cày. Giới trẻ sinh viên học sinh thì không còn hy vọng, học được ngày nào hay ngày đó, uống cho say để quên đi cái tương lai đen như mõm chó. Giới có tiền thì ngồi chật nhà hàng từ sáng đến tối, ăn trả thù đời cho những ngày đói khổ trước kia. Lúc nào còn tiền thì cứ việc hưởng thụ, không cần suy nghĩ để mặc cho đời đưa đẩy. Những con quỷ đỏ cán bộ cán bộ ăn no rững mỡ lại bị bất lực, chúng phải lùng kiếm những thứ gì cường dương bổ thận. Bất cứ con gì, củ gì giúp chuyện phòng the, dù bao nhiêu cũng ra lệnh cho đàn em cung phụng. Khốn nạn nhất là đám cán bộ nhà nước nghe theo lời mấy thằng Tàu, ăn thai nhi còn sống lấy ra từ bụng người mẹ, càng nhỏ thì kết quả càng cao ! Và cái xã hội thiếu đạo đức đã sinh nhiều cảnh đau lòng, những cô gái các bà mẹ nạo thai con mình đem bán lấy tiền !

Thú thứ hai độc đáo nhất địa cầu, cũng phát sinh ra từ dưới chế độ cộng sản nhằm giúp cho con người đi tìm cảm giác : Đó là ôm ! Việt Nam là một động ôm khổng lồ, từ Bắc kéo xuống Nam, từ hang ổ chủ tịch tới ủy ban xã, từ thành phố đến thôn quê, từ đêm đến ngày, từ trong nhà ra ngoài ngỏ, từ trên khô xuống dưới nước … với các hình thức: Café ôm, bia ôm, nhậu ôm, câu ôm, tắm ôm, chòi ôm, võng ôm, (đi) học ôm, đấm bóp ôm, hớt tóc ôm, karaôm, du lịch ôm, tham quan ôm … nhằm giải quyết thất nghiệp cho phụ nữ và thỏa mãn dục vọng cho nam giới. Văn hóa đỏ đã biến con người dưới chế độ cộng sản bại hoại tinh thần, suy nhược thể xác, con người trở thành thiêu thân, ngụp lặn trong đam mê hèn hạ, mất niềm tin để trở thành công cụ phục vụ đảng.

2. Vô tổ quốc có thể hiểu rằng dưới chế độ cộng sản không còn tổ quốc. Đảng đã thay thế vai trò tổ quốc để giáo dục và lãnh đạo con người và con người chỉ còn bổn phận độc nhất với đảng qua châm ngôn "trung với đảng hiếu với lãnh tụ". Âm mưu vô tổ quốc của cộng sản không ngoài mục đích của nhà nước là chủ trương "quản lý" cả thể xác lẫm tâm hồn người dân dưới chế độ. Chúng muốn biến tất cả từ tình yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc đến mồ hôi và xương máu trở thành công cụ phục vụ đảng. Cộng sản chủ trương rằng lý tưởng quốc gia phải bị tiêu diệt, người dân không có quyền yêu nước theo con tim và lý trí của mình, mà tất cả suy tư cũng như hành động đều phải được chỉ đạo và chịu kiểm soát bởi nhà nước. Đảng cộng sản Việt Nam luôn đề cao cảnh giác tinh thần yêu nước của người dân khi đưa ra chủ trương vô tổ quốc. Chúng quan niệm rằng phải tận diệt tinh thần quốc gia, lòng yêu nước chân chính để che giấu âm mưu già Hồ bán đứng người quốc gia cho phát xít Nhật và thực dân Pháp trong thế kỷ vừa qua, đồng thời đem chủ nghĩa cộng sản khốn nạn của Nga Tàu về đặt lên đầu lên cổ dân tộc Việt Nam và tình nguyện làm tôi mọi cho quan thầy đỏ Nga Tàu. Mới đây cộng sản đàn áp lòng yêu nước của người dân, nhất là thành phần trẻ khi họ đồng thanh vùng dậy xuống đường chống việc Tàu cộng xâm chiếm lãnh thổ.

Cộng sản chủ trương vô tổ quốc cũng nhằm chận đứng tinh thần yêu nước của người Việt tha phương. Chúng sợ những tổ chức yêu nước từ quốc nội ra đến xứ ngoài mở màn cho một cuộc cách mạng. Chúng sợ những cuộc nổi dậy của người dân cũng như các lực lượng quân sự từ nước ngoài xâm nhập vào. Chúng sợ những nhà tranh đấu đang xuất hiện kêu gọi lòng yêu nước của toàn dân. Chúng sợ những ngòi bút kích động lòng yêu nước, hướng dẫn dư luận và vạch trần tội ác. Chúng sợ thành phần trẻ bất mãn vì chuyện bán đất nhượng biển mà già Hồ và đảng cộng sản đã ký công hàm dâng cho Tàu cộng.

Tiếng hát "Quê hương là chùm khế ngọt" và hình ảnh "duyên dáng áo dài", là những miếng mồi chiêu dụ người Việt hải ngoại về thăm quê hương, mục đích đem tiền của về để cứu vớt chế độ đang trên đà tuột dốc kinh tế. Cộng sản đã chứng tỏ chủ trương vô tổ quốc qua vụ bán đất nhượng biển cho quan thầy Tàu cộng mà cả thế giới đều biết và gắt gao lên án. Trong nước, những ai yêu tổ quốc đều bị theo dõi, hăm dọa tù đày cũng như cuộc xuống đường nào mang tinh thần yêu nước đều bị trấp áp bằng kẽm gai, súng đạn và nhà tù. Xin nhắc nhở bạn trẻ một điều, những ai đụng đến quan thầy Tàu cộng đều phải tù tội, như vậy đối với cộng sản, tổ quốc bây giờ không còn là Việt Nam mà chính là Tàu cộng !

3. Cộng sản vô thần chúng cho rằng tôn giáo là một loại thuốc phiện mê hoặc con người. Không có Ông Bà Thần Thánh Phật Chúa mà chỉ có độc nhất đảng và lãnh tụ là thần tượng phải thờ phượng. Thực ra cộng sản rất sợ tôn giáo, vì tôn giáo không chấp nhận một xã hội vô thần và tôn giáo là thành phần đối đầu quan trọng với chủ nghĩa vô thần cộng sản. Ngoài ra, tôn giáo nào cũng được tổ chức chặt chẽ, có niềm tin, có tinh thần, có chỉ huy và tín đồ tin tuyệt đối vào đấng Thần Linh, họ sẵn sàng nghe mệnh lệnh các chủ chăn hay lãnh đạo giáo hội để bảo vệ đạo giáo. Con chiên sẽ tranh đấu đến hơi thở cuối cùng, Phật tử có thể tự thiêu vì đạo pháp, đó là mối lo sợ của cộng sản. Tôn giáo là những tập thể lớn đủ khả năng đánh bại bạo quyền cộng sản. Do đó chúng nhất quyết phải loại bỏ tôn giáo, xóa tan niềm tin người dân vào Thượng Đế vào Đức Phật. Muốn đạt được mục tiêu, trước tiên cộng sản tạo lên những thần tượng và bắt dân chúng thờ phượng thay Chúa thay Phật. Liên sô thì Staline, Tàu có Mao và Việt Nam, cộng sản phải thần tượng tội đồ dâm tặc Hồ thành kẻ yêu nước, cha già dân tộc không ngoài mục đích bắt dân chúng tôn sùng thờ phượng.

Ngày nay cộng sản không thể bưng bít, bịp bợm và tiếp tục xảo trá nhồi sọ dân chúng ba cái chủ nghĩa súc vật ‘vô gia đình, vô tôn giáo và vô tổ quốc’ nữa, chúng phải âm mưu tạo ra những trò bịp bợm có vẻ văn minh và hợp lý để lừa dân chúng đồng thời che mắt quốc tế. Mặt trận tổ quốc là một tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản, đóng vai trò thu tóm các tôn giáo, đoàn thể để kiểm soát, thao túng và chỉ đạo theo đường hướng đảng đã vạch ra: Các hội đoàn yêu nước, công giáo, phật giáo, cao đài quốc doanh là những tổ chức do các đảng viên cộng sản trá hình sáng lập và lãnh đạo để thu các tổ chức khác về một mối. Đối với bên ngoài, tôn giáo nào dưới chế độ cộng sản cũng phát triển, được tôn trọng những bên trong là những tổ chức chỉ được hoạt động theo chỉ thị của đảng và nhà nước mục đích gây xáo trộn và làm suy thoái tinh thần đạo giáo để những tổ chức nầy trở nên cộng cụ phục vụ cho nhà nước.

Gần đây trên các diễn đàn vừa xuất hiện một bài viết tuyên truyền cho cộng sản, tác giả bài viết cho rằng cộng sản Việt Nam ngày nay đã thực sự chấp nhận tôn giáo. Bằng chứng ngay tên đầu nậu đảng Lê Khả Phiêu trong nhà còn có bàn thờ Phật và luôn luôn có một ni cô (trông thật mát mắt !) luôn đi kèm bên cạnh tên dâm dục Lê Khả Phiêu ! Xin đừng ngây thơ hoặc chủ mưu tuyên truyền cho cộng sản, một khi chúng kêu Trời Đất, Chúa, Phật bằng thằng Trời, thằng Chúa, thằng Phật thì trong gia đình chúng nó cả chục bàn thờ thì cũng chỉ là hình thức đánh lận con đen ! Khu Đại Nam cách Sàigòn khoảng 40 cây số (cách thị xã Thủ Dầu Một 5 cây số) là một vùng lâu đài cộng sản cho xây trên một diện tích 450 ha, vĩ đại như cung vua chúa bên Tàu ngày xưa, trong đó, ngay chánh điện có tượng Đức Phật và chúng đã ngang nhiên đặt thêm tượng già Hồ khốn nạn để cho dân chúng đến thắp hương vái lạy ! Thật ra đó chính là cung điện để tưởng niệm già Hồ (như lăng Ba Đình ở Hà nội) nhưng bọn cộng sản chưa dám nêu đích danh mà phải núp bóng Phật để tráo trở bán vé cho khách vào vái lạy. Chúng tạm thời phải mượn danh Phật giáo lừa gạt dân chúng xem như đây là ngôi chùa lớn nhất Việt Nam với lối kiến trúc phí tổn hàng trăm tỷ đồng. Nếu các vị trong hàng giáo phẩm công giáo Việt Nam không khôn khéo thì mai đây đám quốc doanh cũng sẽ đem già Hồ vào trong các nhà thờ để dân chúng đến đọc kinh cầu nguyện hằng ngày !

Xin đừng nhìn một cách hời hợt trước những trò giả tạo như tổ chức ngày lễ Vua Hùng, lễ Hội dân tộc, Thi Hoa Hậu trong nước hoặc các chương trình văn hóa cổ truyền do các đoàn văn công Việt Cộng trình diễn ở xứ ngoài. Đây là hình thức mà chế độ cộng sản dùng để che đậy âm mưu tội đồ của chúng trước sự tồn vong của dân tộc và đất nước mà quan trọng, tôi xin nhấn mạnh, thật quan trọng là việc suy đồi văn hoá.

Tóm lại, cộng sản thường vỗ ngực tuyên truyền rằng nhờ văn hóa đỏ mà Việt Nam trở thành trung tâm ‘đỉnh cao trí tuệ loài người’ và ‘chiếc nôi của nhân loại’. Nhưng thực ra chúng đã đem lại gì cho quê hương tổ quốc sau trên 60 năm cai trị ? Về phương diện văn hóa thì, luân lý đảo lộn, thú (Việt cộng) lên làm người và người (dân miền Nam) trở xuống thú, xã hội xô bồ, trộm cắp, cướp giật, đĩ điếm, tình người biến mất. Tính mạng con người không đáng vài xu, anh em giết nhau vì vài đồng bạc, cha mẹ bán con vì củ khoai ký gạo. Cái thâm độc của cộng sản là đã biến xã hội thành thiên đường của ăn chơi đàng điếm để hủy hoại tinh thần đạo đức, tình người cao thượng của dân tộc Việt Nam. Dưới chế độ cộng sản hiện giờ, muốn sống còn thì phải biết lừa thầy phản bạn, dối gạt cha mẹ anh em, lừa lọc bạn bè hàng xóm. Những gì đã và đang xảy ta dưới xã hội chủ nghĩa của cộng sản Việt Nam cho thấy đạo đức và tình người đã khoát áo ra đi nhường chỗ gian manh tội ác ngự trị.

Ngoài ba triệu đảng viên và thành phần đỏ vinh thân phì gia nhờ bám vào chế độ cộng sản, còn lại vẫn còn trên một nửa dân số sống trong nghèo đói thiếu ăn thiếu mặc, con cái không được học hành và đau ốm thiếu nơi chăm sóc chữa trị. Đừng nhìn những kiến trúc vật chất dành cho thành phần tỷ phú đỏ và người nước ngoài, lối sống phô trương chụp giựt của kẻ ‘đổi đời’ học làm sang mà cần nhìn vào thực trạng xã hội, cần suy nghĩ để thấy rằng ở Việt Nam hiện giờ vẫn còn hàng triệu người lương thiện phải đi ăn xin, lượm rác để sống, hàng trăm ngàn thanh niên thiếu nữ phải ra nước ngoài làm nô lệ hoặc chấp nhận bán mình làm điếm khắp năm châu. Trên địa cầu nầy, dù những nơi chậm tiến, thiếu văn minh nhưng vẫn không đến nỗi tồi tệ như thiên đường cộng sản Việt Nam hiện nay.
Tài sản vật chất của quê hương tổ quốc bị tàn phá hoặc mất mát thì có thể sửa chữa và xây dựng lại trong vòng vài năm, vài chục năm. Nhưng một khi văn hóa và đạo lý con người hoàn toàn suy sụp thì phải tính từ thế hệ nầy qua thế hệ khác và mất hằng thế kỷ mới có thể phục hồi lại nguyên vẹn. Đó là cái tột lớn đối với tổ quốc và dân tộc Việt Nam mà đảng cộng sản đã gây ra. Sử sách sẽ ghi lại, nghìn đời để cho hậu thế phán xét.

Đinh Lâm Thanh
Paris, 15.02.2009