Sunday, November 2, 2008

Trong Nỗi Khốn Cùng


Người Lính Nguyễn Thế Thăng

ĐS:
Sau đây là câu chuyện điển hình về Nỗi Thống Khổ Bi Hùng mà Người Lính Cộng Hòa hằng gánh chịu sau ngày mất nước với lòng can đảm bền bỉ tuyệt đối của người luôn vững tin về Lý Chính Nghĩa của Quân/Dân Miền Nam – Cũng của toàn Dân Tộc Việt Nam.

Suốt cuộc đời tôi trên mảnh đất quê hương bất hạnh, có lẽ mùa Đông 1975 là một cái đông lạnh lẽo nhất. Không biết có phải vì miền Nam VN vừa trải qua một cuộc đổi đời khủng khiếp, hay vì lúc ấy tôi đang bị cùm tại Trại A9/Long Thành, Biên Hòa (Ngã Ba Thái Lan) trong một dãy nhà tôn vách gỗ mà không hề có lấy một tấm mền mỏng che thân! Ban ngày ngủ, ban đêm phải thức trắng ngồi xoa bóp liên tục khắp cả người cho ấm. Ôi đêm dài vô tận trong cái lạnh thấu xương cộng thêm vết thương trên người còn tươi máu. Chính từ chuỗi ngày đêm nơi tầng cuối địa ngục này lại trở thành một phước duyên cho tôi tập tễnh bước vào Thiền để sống sót và tồn tại đến ngày nay.

Trước và sau ngày 30/4/75 tôi đã không hề có ý định chạy ra nước ngoài. Khoảng đầu tháng 6/75, tôi lên Trà Cổ (Hố Nai, Biên Hòa) rồi từ đó vào rừng gia nhập Liên Đoàn 5 của Đại Úy Lê Đình Thạch (trước đây thuộc Sư Đoàn 5/BB) gồm một số Biệt Kích Dù, Biệt Động, Cảnh Sát, Địa Phương Quân. Chúng tôi sống trong các mật khu cũ của Việt cộng vùng Sông Buông, Sông Mây (đầu Chiến Khu D). Việt cộng tràn ra thành phố, bỏ ngỏ mật khu của họ lại với đầy đủ chòi, lán, vọng gác trên cây, bếp với nồi niêu xoong chảo, nương khoai, vườn rau và một số rất lớn lựu đạn chày chỉ còn được dùng để đánh cá vì hệ thống kích hoả bị hư đến hơn 60%. Chúng tôi thường tấn công những kho gạo Tân Bình, Tân Bắc, Trà Cổ ...

Trước khi vác gạo về mật khu, chúng tôi dọn sạch kho đem bỏ từng bao trước cửa mỗi nhà dân. Dân địa phương và gia đình cũng tiếp tế cho chúng tôi rất nhiều thực phẩm khác. Vũ khí cũ như M16, M79 dần dần hết đạn, chúng tôi phải đánh Việt cộng để lấy AK, B40. Đến khoảng tháng 9/75, lực lượng chúng tôi đã có khoảng 80 người. Biết không thể chống cự nổi bọn cộng sản đang say men chiến thắng, chúng tôi dự trù sẽ đi đường bộ băng ngang Kampuchia đến vùng biên giới Kampuchia-Thái Lan để dưỡng quân rồi tùy cơ ứng biến. Trong vùng còn có một toán thuộc Liên Đoàn Biệt Kích 81 (trước 30/4/75) hoạt động độc lập dưới sự chỉ huy của một người tên Wòng A Cẩu. Chúng tôi cũng đang liên lạc để sát nhập với một lực lượng khác do Thiếu Tá Tam (Thiếu Tá Nguyễn Phước Trường) chỉ huy. Có một linh mục tham gia tên Trần Học Hiệu (LM Hiệu sau này đã bị giết chết trong tù). Khoảng tháng 10/75, VC đưa hai trung đoàn có bốn chiến xa yểm trợ tấn công đơn vị chúng tôi và đơn vị của Thiếu Tá Tam. Chúng tôi trải quân ra thật rộng với từng tổ tam tam chế, đóng chốt trên tất cả những yếu điểm, kể cả những chòi trên ngọn cây, bình tĩnh xử dụng thật tiết kiệm từng viên đạn một. Chiến đấu trong hơn bốn ngày đêm, chúng tôi đã mất hơn nửa quân số. Sau khi Anh Thạch hy sinh, chúng tôi phải xé lẻ tan hàng. Ba người theo tôi đi về Phước Long. Đến 10g sáng (?), chúng tôi lọt ổ phục kích gần Xã Vĩnh Cửu (?), một trung đội cộng sản nằm dài theo bụi tre cách khoảng mười-lăm, hai-mươi thước bắn xối xả vào chúng tôi đang di chuyển giữa đồng trống, quần áo tôi bị thủng nhiều lỗ, một viên AK xuyên qua đầu gối (đang ở thế ngồi chồm hổm để bắn lại) làm tôi ngã vật ra sau nhưng vẫn tiếp tục bắn đồng thời ra lệnh ba thuộc cấp thoát thân. Chuẩn Uý Nguyễn Thạch Điệp nhất định liều chết để lôi tôi đi. Tôi hét lên, Điệp vẫn không buông tôi ra, tôi phải chỉa súng vào người Điệp gằn giọng nếu không chạy đi, tôi phải bắn chú, Điệp rớm nước mắt "dạ" rồi vọt liền, cùng lúc với đợt xung phong xáp lá cà của địch, một tên dùng nguyên khẩu súng với trái đạn B40 đập lên đầu tôi, tôi né qua một bên, bị trúng vào gáy rồi ngất đi. Hình như một tên chỉa AK vào đầu tôi định bóp cò, một tên khác la lên. Đừng bắn, thằng này cấp cao, tài liệu sống, đem nó về. Lúc tỉnh dậy thấy mình đang nằm trên võng vải nylon, máu me ướt sũng lưng, bọn VC thay nhau khiêng tôi đi. Ngang qua một số dân địa phương đang làm rẫy, tôi thoáng nghe vài tiếng kêu ... Giê-Su Ma!!.

Toán cộng sản đưa tôi về Huyện Thống Nhất, Tỉnh Đồng Nai (Biên Hòa), nhốt tôi trong một căn nhà không có nóc (bị pháo kích sập, chỉ còn bốn bức tường với các cửa đóng kín bằng những tấm ván lớn chéo nhau). Tôi được đặt trên một bao tải cũ, gối đầu trên một cục gạch thẻ, trên người chỉ còn một quần lót dính đầy máu đã khô, đầu gối được bó lại bằng chính cái áo trận của tôi. Đêm đó trời mưa như trút, cả người tôi ướt như chuột nằm chịu trận suốt mấy giờ. Vết thương đau nhức khủng khiếp, máu vẫn tiếp tục loang loang theo nước mưa. Sau cùng vì quá lạnh, sức đã kiệt, tôi lên tiếng kêu gọi bô đội xin chuyển tôi đi nơi khác, không nghe tiếng trả lời, tôi ráng lết vào sát chân tường để núp. Nếu lúc đó cửa có mở tôi cũng không thể trốn đi vì đầu gối chân phải đã bị bắn xuyên từ bên này sang bên kia, xương bánh chè bị vỡ nát. Bị bắt tại trận với vũ khí trên tay thế này chắc chắn 100% là chết, nếu lỡ sau này có sống sót, có lành cũng thành phế nhân, tôi đành quyết định chọn con đường tự sát. Ráng đập đầu vào tường nhưng sức không còn. Thử cắn lưỡi thì thú thật đau quá, không đủ can đảm. Có lẽ phải nhờ Việt cộng giết giùm thôi. Tôi bắt đầu la lên chửi rủa cộng sản, chửi đích danh Hồ Chí Minh khan cả tiếng. Tôi tiếp tục chửi tất cả những tên đầu não cộng sản lúc bấy giờ mà tôi nhớ được như ... Lê Duẫn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ ... Rồi không biết ngất đi từ lúc nào. Khi tỉnh dậy toàn thân tê tái, tê như đóng băng, đầu vẫn gối trên cục gạch, thân vẫn nằm trên cái bao tải ướt sũng, trên người gần như trần truồng được đắp lại bằng .... một tấm tôn! Ngoài kia gió vẫn rít gào, trời vẫn vô tình mưa rả rích, nước mưa vẫn gõ nhịp đều đặn trên tấm tôn lạnh lùng ....

Sáng hôm sau Việt cộng triệu tập một cuộc mít-tinh dân chúng Huyện Thống Nhất để triển lãm mục đích răn đe với khoảng hơn bốn-mươi xác những "tên ác ôn đã đền tội". Mười –một người bị bắt (tất cả đều bị thương), số còn lại trốn thoát. Chúng khiêng tôi ra đặt nằm phía sau một chiếc xe Jeep mui trần cho bà con xem. Rất nhiều tiếng đả đảo từ những tay cò mồi. Không ít những giọt nước mắt nghẹn ngào. Vẫn vỏn vẹn một chiếc quần lót đẫm máu, tôi ngồi thẳng người, bình tĩnh nhếch mép cười khi nghe những tiếng hô đòi tử hình kẻ "tội phạm". Lúc đó đối với tôi hai tiếng "tử hình" nghe không còn ghê rợn nữa mà thật bình thường vì đó chính là điều tôi mong đợi và chấp nhận như một sòng phẳng tất nhiên. Một cô trung niên, mặt khá xinh, người nhỏ nhắn, có vẻ rất hung hăng, vừa xô đẩy những bộ đội giữ trật tự, vừa hô to: "Đả đảo những tên "xâm lăng" (?) khốn nạn, hoà bình không muốn chỉ muốn chiến tranh, những tên mặt người dạ thú, giả nhân giả nghĩa, giết hại dân lành ... Hãy để cho tôi nhổ vào mặt nó, đập vào mặt nó, tôi mới hả dạ!!"

Tôi nghĩ mụ này là "Việt cộng cái" giả dạng thôi, lòng tôi thanh thản đến lạ lùng. Hãy để chúng trổ tài bịp bợm. Tôi chỉ muốn thoát ra khỏi cõi đời ô trọc bằng bất cứ giá nào, bằng bất cứ cách nào, dù xấu nhất. Tôi mỉm cười nhìn thẳng vào mắt mụ khi mụ vung nắm đấm. Mụ không nhổ vào mặt tôi. Mụ cũng không đập vào mặt tôi. Mụ luồn tay vào bụng tôi làm như đấm tôi vậy, miệng vẫn tiếp tục chửi rủa. Tôi cảm thấy cái gì đó nằng nặng trên bụng, liếc nhanh, thì ra đó là một quả quít nhỏ, tôi vội lấy tay che lại, nụ cười thành trơ trẽn biến mất, nhường chỗ cho sự ngạc nhiên đầy lý thú và cảm thông rất nhanh. Đôi mắt diễn viên trong một thoáng lạc đi rồi trở lại ngay với vở kịch còn dang dở !!. Cô ấy trạc tuổi tôi hoặc nhỏ hơn chút ít. Đến bây giờ, tôi vẫn hằng ước mong có đưọc một dịp tái ngộ người ân nhân tuyệt vời này - Không phải vì đơn thuần quả quít mà vì giá trị khích lệ trong một hoàn cảnh quá hy hữu.

Những ngày và đêm tiếp theo là thủ tục hỏi cung. Bộ đội chánh quy từ Miền Bắc tương đối nhẹ tay, một vài người nói và làm như miễn cưỡng, một người đã lén pha cho tôi một ly sữa sau lần tôi bị ngất đi vài giờ, nhưng những tay "giải phóng – Cộng sản người miền Nam- pnn" thì thật tàn bạo. Chính nơi đây tôi đã được nhìn thấy thế giới bên kia sau những lần chết đi, có lần kéo dài đến sáu, bảy tiếng. Tôi đã nhẹ nhàng thanh thoát, lướt bay trên những cánh đồng đầy hoa, không một chút bụi. Không cảm giác áo quần mặc trên mình dù rằng quần áo rất đẹp, không tơ lụa nào sánh bằng, hình như kết bằng mây ngũ sắc. Cả không gian thật tươi mát, thật sạch như vừa trải qua một cơn mưa nhẹ. Bầu trời không một áng mây, không có mặt trời nhưng lại rất sáng và trong suốt như pha lê. Tôi đã nhớ lại từng chi tiết nhỏ cả quãng đời đã qua từ khi nhập thế. Những điểm tốt cùng với bao nhiêu điều xấu. Vui vẻ, hài lòng, thảnh thơi trước những việc thiện. Hối hận, ăn năn, dằn vặt, đau khổ trước những điều bất thiện. Có lẽ đó là "Toà Phán Xét" theo giáo lý đạo Thiên Chúa. Có thể đó chính là Niết Bàn và Địa Ngục theo Phật Giáo chăng? Tôi đã nghe và hiểu những con chim đang hót những lời tán tỉnh. Tôi đã thấy những con cá giành ăn và nghe chúng cãi nhau.

Chính nhờ vậy tôi lại càng không sợ chết nữa, trái lại còn mong muốn được ra đi thật sớm. Tôi như tỉnh ngộ và nhận rõ rằng cái xác này tuyệt nhiên không phải là tôi. Nó chỉ là một phương tiện, một địa chỉ tạm trú của một trong vô lượng vô số kiếp mà thôi. Quá đủ rồi. Tôi đã thoát ra và ngắm nhìn cái xác này bất động. Mấy lần đầu, tôi nghĩ đó chỉ là những giấc mơ. Sau vài lần lập đi lập lại thành xác tín, thành khẳng định những gì bên kia cửa tử, tôi khẩn khoản một cách chân tình, một cách rất bình thản: "Các anh thấy tôi đã chết nhiều lần, tôi đã được qua thế giới bên kia, đẹp lắm, bình yên lắm, tôi thề sẽ không bao giờ oán hận các anh, tôi hứa sẽ mang ơn nếu các anh cho tôi một viên đạn vào đầu để tôi được đi luôn, không phải trở lại cõi đời này".

Thật bất ngờ, kể từ hôm đó, họ không hề đụng chạm đến tôi nữa. Một lần, một tay cán bộ bắt tôi nhận diện những đồng ngũ đã hy sinh qua những tấm hình chụp trắng đen. Anh Thạch nằm chết bên cạnh khẩu M60 không còn một viên đạn. Mắt anh một nhắm, một mở. Miệng anh như mỉm cười. Tôi lặng người, nước mắt lưng tròng. Tay cán bộ giả vờ nhìn đi chỗ khác. Tôi cố tình tìm nhưng không nhìn thấy xác Chuẩn Úy Vũ Thế Cường là anh họ của tôi (Anh ruột mẹ tôi là Vũ Thế Nghiệp tức Nhà Báo Thần Phong hai năm sau đó bị xử bắn tại Thủ Đức). Vĩnh biệt Các Anh và hẹn ngày gặp lại, tôi khẽ thì thầm.

Quay trở về Mùa Đông 1975 tại Trại A9 Long Thành. Trại nằm ngay tại Ngã Ba Thái Lan gồm nhiều dãy nhà tôn vách ván nơi đang tập trung học tập các cựu viên chức hành chánh VNCH. Chúng tôi khoảng năm-mươi người gồm nhiều thành phần bị nhốt trong dãy nhà ngang cuối cùng có hàng rào kẽm gai quây kín. Tất cả tù nhân bị cùm hai chân, xiềng một tay vào ban đêm, ban ngày chỉ xiềng một tay vào một chân. Cùng trại có môt người lớn tuổi tên là Phan Xuân Hạ, bị bắt vì nghi ngờ là sĩ quan cao cấp VNCH đang trốn tránh. Cụ rất hiên ngang, dõng dạc. Nghe cái tên quen quen, tôi hỏi Cụ có liên hệ gì với với một người bạn cùng khoá là Phan Xuân Mai không. Cụ chỉ mỉm cười: Con cháu trong nhà thôi. Bà Minh Đăng (Không biết tên thật, chủ đại bài gạo Minh Đăng, Biên Hoà) người phụ nữ duy nhất bị bắt vì tiếp tế nguyên một xe gạo vào rừng, đã dùng sợi dây xích làm xâu chuỗi, không biết bà đã đọc bao nhiêu kinh mà sợi xích sáng bóng như thép ròng vậy. Nguyễn Văn Chi, người bị đánh hội đồng nhiều nhất trong suốt hơn hai tháng vì bị nghi ngờ là Thiếu Úy Trần Văn Chi (Th/Úy Chi bị một viên đạn xuyên qua vai phải, trốn thoát, hiện đang ở San Jose California), Ngô Đình Chiến bị bắn xuyên qua bả vai trái, tay trái bị liệt. Nguyễn Văn Cân bị ghẻ toàn thân chỉ trừ hai con mắt, Nguyễn Y người Bình Định (trông giống hệt hình Quang Trung Đại Đế), Trịnh Văn Thương bị bắn xuyên qua đùi, Phạm Văn Thận với chiếc jacket với hàng chục lỗ đạn.

Cũng trong trại này có một người lính cũ của tôi, Đào Văn Lành, không biết bị bắt bao giờ và về tội gì. Anh được làm trong nhà bếp, phụ giúp nấu cơm cho trại. Một lần đem cơm cho tù nhân, anh nhận ra tôi nhưng không dám nói, chỉ ra hiệu. Tôi thì vẫn ... Muôn đời Lục Quân Việt Nam, cứ bô lô ba la, cứ vui trước đã, đằng nào cũng chết, vui ngay cả với tử thần như một thân hữu đang đợi trông. Cơm ngày hai bữa trưa và chiều, mỗi người được hơn một chén cơm với "thịt cọp". Thịt cọp có nghĩa là muối hột, khi nhai kêu cọp cọp. Tôi chỉ ăn một nửa muối, phần còn lại dùng pha nước để tự rửa vết thương. Thỉnh thoảng được một chút canh nấu bằng lá cải già hay bí rợ với muối. Một hôm Lành lén trao cho tôi một lon sữa bò trong đó có phân nửa chất nước đen đen, quẹo quẹo mà Lành nói là nước cá kho. Chao ơi, nó ngon làm sao. Mỗi bữa ăn, tôi chỉ dám chan một muỗng cà phê trên chén cơm hẩm mà tưởng như đang thưởng thức món cá cao lâu ngày nào. Khoảng hơn mười ngày sau, khi vắng bóng người, Lành hỏi nhỏ: Nước cá kho tôi cho ông có ngon không? Cám ơn Lành, đang thiếu thốn mà được như thế không gì so sánh bằng. Lành thật thà: Ông biết không, tụi nó kêu tôi rửa cá khô, nguyên cả kí-lô cá khô tôi rửa bằng một tô nước thôi, nước đó tôi cô lại còn nửa lon cho ông xài đỡ. Ráng sống, ráng nhịn cho qua nghe ông!

Rồi cũng qua một mùa Đông. Một mùa Đông tang thương, thê lương trên khắp nẻo đường đất nước. Cả miền Nam biến thành một trại tù khổng lồ. Bốn tháng sau tôi bị chuyển về giam tại Xã Ngãi Giao, Quận Đức Thạnh (Phước Tuy/Bà Rịa). Chỉ cùm hai chân ban đêm nhưng ban ngày vẫn phải đeo xiềng vô một chân để đi lao động (mục đích giữ tù không chạy trốn). Từng đoàn tù với xiềng xích kêu loảng xoảng trên đoạn đường gần làng Bình Giả, tôi lẫm bẩm hát bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ (Nguyễn Đức Quang) thật thấm thía: "... Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người, nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi. Nụ cười xa vời, nụ cười của lòng hờn sôi. Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian! ". Trung Úy Nguyễn Văn Tài lúc nào cũng chỉ một câu vọng cổ trong Chuyện tình Lan và Điệp: Em tên là Nguyễn Thị Lan(g), xác còn nằm đó mà hồn tan(g) lâu rồi!! Ở đây tuy ấm hơn nhưng rất khó ngủ vì hàng sư đoàn rệp tấn công suốt đêm. Cũng tại nơi này, hai thằng em tôi là Đồng Quang Nhường và Nguyễn Văn Hiển bị đánh chết. Hai em trốn trại bị bắt lại. Chúng trói hai tay hai chân rồi treo lên xà nhà như đang khiêng hai con heo. Đích thân thằng trại trưởng dùng búa gỗ (một khúc cây tròn đường kính cỡ 15cm, dài khoảng 30-40cm, đục một lỗ ở giữa tra cán vào, cán dài khoảng 1m, dùng để đập tôn cho bằng). Nó vung thẳng cánh đập một nhát vào đầu Đồng Quang Nhường nghe bộp như đập một quả dừa. Nguyễn Văn Hiển ngoái đầu qua nhìn, thuận tay nó vớt một búa ngay quai hàm của Hiển, quai hàm trẹo lặt qua một bên, máu vọt ra có vòi.

Tôi nhắm mắt lại kêu Trời!! Cố bịt miệng để khỏi la thành tiếng. Cả hai xác Nhường và Hiển co giật vài lần rồi buông thỏng. Vài phút sau, chúng cắt giây thả hai xác xuống. Tôi và ba người nữa tình nguyện đi chôn. Cả hai xác còn nóng hổi được đặt nằm trên tấm gỗ dài cỡ 1thước 8, rộng 25 phân, hai cánh tay đong đưa theo nhịp bước, nhất là theo cái cà thọt khấp khểnh chân què của tôi. Hiển máu vẫn còn chảy toong toong trên đường. Cái đầu của Nhường ọp ẹp như quả cà chua úng, hai mắt lồi lên, mặt sưng tím bầm. Đất tổ ong mà dụng cụ đào chỉ là mấy cái cuốc xẻng cũ sứt sẹo.

Trung Úy Tài nhỏ con nhất nhưng là người khoẻ nhất, hăng hái nhất. Mấy ông ráng đào sâu sâu cho hai đứa nó. Cố gắng mãi đến tận mặt trời lặn cũng chỉ đào xuống được khoảng bảy tấc !!. Cả hai xác đều bị chôn nguyên trạng, không áo quan, không poncho hay chiếu bó lại. Tôi ráng gom vài mảnh báo cũ phủ mặt cho hai em. Xếp vài cục đá xung quanh đầu rồi lấp đất nhè nhẹ như sợ hai đứa đau. Đêm đó tôi không tài nào ngủ được. Khoảng nửa khuya, dưới ánh đèn heo hắt, tôi nhìn thấy thật rõ ràng: Nguyễn Văn Hiển đang đứng bên cửa sổ phòng giam, không nói gì, đôi mắt thật buồn nhìn về xa xăm. Tôi nói thầm: Hiển ơi, thôi em hãy đi đi, đừng luyến tiếc gì cõi đời giả tạm này, nghiệp báo em đã trả xong, đừng oán ghét, đừng hận thù, hãy để cho lòng thanh thản mà siêu thoát .... Tôi cứ nói như thế, lặp đi lặp lại, dỗ dành, van lơn, lâu lắm, bóng Hiển tan dần rồi biến mất.

Hình như có tiếng người trở mình bên cạnh. Tôi xoay qua: Trong bóng tối mờ mờ, tôi nhận ra Đồng Quang Nhường, hai anh em như đang nằm trên một toa xe lửa, dưới lưng cái gì bầy hầy như phân trâu bò. Tôi hỏi nhỏ: Chúng nó đưa anh em mình đi đâu đây? Chúng nó sẽ đưa anh ra Bắc nhưng anh đừng lo (Nhường lúc nào cũng lạc quan) mọi việc sẽ rất tốt đẹp, rồi anh sẽ vinh quang nơi xứ người. Tôi cười khẩy: Mẹ kiếp, miền Bắc chính là xứ người, không phải xứ của anh em mình, nhưng cái thân tàn tật tù tội trên đất cáo Hồ thì vinh với quang cái khỉ khô gì. Nhường cười. Hai anh em cùng cười với nhau. Tôi bừng tỉnh. Chơ vơ. Thì ra đó chỉ là một ác mộng.

Mấy tháng sau tôi nhận được lệnh: Tha thụ hình, cho phép đi cải tạo. Tôi bị chuyển qua Trại Lê Lợi. Nơi đây tuy không bị còn bị cùm hay xiềng nhưng ở trong khu cách ly. Bên kia hàng rào nhìn thấy Ngô Bá Lai, Nguyễn Hữu Tạo và một số rất đông bạn bè khác, nhận ra nhau trong ánh mắt thật ngỡ ngàng, tủi nhục, chua xót, đắng cay. Ngô Bá Lai nháy mắt bảo tôi ra nhà vệ sinh, hai đứa trật quần ra ngồi bên nhau trao đổi tin tức. Lai ân cần hỏi tôi thiếu thốn gì không. Một tháng sau chuyển qua trại Long Giao. Tôi vào trại với hai cổ tay và cánh tay bị trói chặt ra sau lưng bằng giây điện thoại, hai chân trần với vỏn vẹn một bộ đồ trên người và một túi vải nhỏ đeo trước ngực. Phạm Văn Bông nhận tôi về tổ, trong cùng tổ có Trần Ngọc Hoàn; cùng đội, cùng trại có Nguyễn Quyết Thắng, Nguyễn Nhự, Chung Gia Phong, Bùi Đức Hùng, Nguyễn Thành An, Đặng Kim Cương, Trương Hội, Phạm Đức Thịnh. Trại bên có Nguyễn Đức Phương. Bạn bè chia sẻ cho tôi thật nhiều đồ dùng và thực phẩm. Phạm Tuế tặng tôi một chiếc quần treillis còn khá mới.

Ngày 23/5/1977, chuyển ra miền Bắc trên chuyến tàu Sông Hương. Nằm trong toa xe lửa trên đoạn đường từ Hải Phòng lên bến phà Sông Hồng với toàn phân trâu phân bò, tôi cứ mãi miên man nghĩ về từng chiến hữu trong chiến khu, nghĩ thương hai thằng em bị thảm sát trong tù, về thân phận mình, về dân tộc và quê hương cơn quốc nạn.. Đôi mắt cay cay chiều xót xa ....

Người Lính Nguyễn Thế Thăng


Tiếng Lóng Sàigòn

    Tiếng Lóng Sàigòn,
    Có Thể Bạn Chưa Biết
Lê Văn Sâm

Một thời, một nơi chốn nào đó, trong đời sống ngôn ngữ dân gian lại nảy sinh ra một số tiếng lóng, một số thành ngữ, một câu hát nhại theo câu hát chính phẩm, hầu hết là để châm biếm, tạo nên nụ cười, hay có khi là để răn đe, tìm sự hoàn thiện trong cuộc sống, chúng chỉ sống một thời rồi tự biến mất, nhường chỗ cho đoạn đời “tiếng lóng” khác đến thay thế. Do đó, việc ghi chúng lại để đọc vui chơi hay phục vụ nghiên cứu văn học dân gian, chỉ có giá trị, khi ghi rõ định vị địa lý và thời gian.

Tỷ như Sài Gòn vào thập niên 60, thịnh hành một chùm tiếng lóng “sức mấy” để thay nói bất lực hay chuyện không thể. Phổ biến đến nỗi, một nhạc sĩ đã chọn làm đề tài cho một bài hát đường phố “Sức mấy mà buồn, buồn chi bỏ đi Tám”.

Những câu chuyện thuộc loại tiếng lóng đó xuất hiện vào thời buổi Sài Gòn bị tạm chiếm, Tây - Mỹ nhiễu nhương, quê hương chiến tranh buồn phiền; “sức mấy” đã trở thành bút hiệu của một chuyên mục phiếm luận trên báo, sau đó một kỹ thuật gia sản xuất còi ôtô đã chế ra một điệu còi ôtô, bấm còi là kêu vang trên phố một dòng nhạc còi auto 9 nốt “tính tính tè tè, tè ti tè ti té”, làm cho đường phố càng náo loạn hơn.

Trước đó cũng từ bài ca Diễm xưa của Trịnh Công Sơn mà sinh ra cụm từ tiếng lóng “xưa rồi Diễm ơi”, mỗi khi có ai lặp lại một đòi hỏi nào đó, mà người nghe muốn gạt phăng đi.

Thời các vũ trường mới du nhập Sài Gòn như Mỹ Phụng, Baccara, Tháp Ngà, thì dân chơi gọi Tài-pán tức người điều phối nhóm vũ nữ, bằng tiếng bóng “Cai gà”, gọi cảnh sát là "mã tà", vì police (cảnh sát) hay mang cái dùi cui, tiếng Tây là matraque, đọc trại thành “mã tà”. Cũng từ thời thuộc địa, tiếng Tây chế ra tiếng lóng âm Việt rất nhiều như: “gác-dang” tức thuê người làm bảo vệ; tiếng Pháp gardien đọc trại ra thành gác-dang. Cũng như nói “de cái đít” tức lùi xe arriere; tiền bồi dưỡng người phục vụ tiếng Pháp: pour-bois âm bồi gọi “tiền boa”, sau này chế ra là “tiền bo”.

Cũng thời Pháp thuộc, Sài Gòn có nhiều cách nói mà đến nay không ai biết nguyên do. Tỷ như gọi ngân hàng là nhà băng, gọi sở bưu điện là nhà dây thép, mua tem dán bao thư gọi là “con cò”, còn nếu gọi “ông cò” là chỉ cảnh sát trưởng mấy quận ở thành phố, gọi “thầy cò” tức là các ông chữa morasse các tòa báo do chữ correcteur, nhưng nói “cò mồi” là tay môi giới chạy việc, “ăn tiền cò” thì cũng giống như “tiền bo”, nhưng chữ này chỉ dùng cho dịch vụ môi giới.

Thời kinh tế mới phát triển, đi xe auto gọi là đi “xế hộp”, đi xe ngựa gọi là đi “auto hí”, đến thời xe máy nổ ầm ào, đi xe đạp gọi là “xe điếc”, đi nghỉ mát Vũng Tàu gọi là “đi cấp”, đi khiêu vũ gọi là “đi bum”, đi tán tỉnh chị em gọi là đi “chim gái”, đi ngắm chị em trên phố gọi là “đi nghễ”, gọi chỉ vàng là “khoẻn", gọi quần là “quởn”, gọi bộ quần áo mới là “đồ día-vía”. Đi chơi bài tứ sắc các bà gọi là “đi xòe”, đi đánh chắn gọi là “múa quạt”, đi chơi bài mạt chược các ông gọi là “đi thoa”, đi uống bia gọi “đi nhậu”, đi hớt tóc gọi đi “húi cua”. Có một cụm tiếng lóng từ Huế khoảng 1920 - 1950 du nhập Sài Gòn, đó là “đi đầu dầu”, tức các chàng trai ăn diện “đi nghễ” với đầu trần không mũ nón, để cái mái tóc chải dầu brillantine láng cóng, dù nắng chảy mỡ. Tuyệt vời gọi là “hết sẩy”, quê mùa chậm chạp gọi là “âm lịch", hách dịch tự cao gọi là "chảnh".

Tiền bạc gọi là "địa", có thời trong giới bụi đời thường kháo câu "khứa lão đa địa" có nghĩa ông khách già đó lắm tiền, không giữ lời hứa gọi là "xù", "xù tình", tức cặp bồ rồi tự bỏ ngang. Làm tiền ai gọi là "bắt địa", ăn cắp là "chôm chỉa", tương tự như "nhám tay" hay "cầm nhầm" những thứ không phải của mình.

Ghé qua làng sân khấu cải lương hát bội, người Sài Gòn gọi là làng "hia mão", có một số tiếng lóng người ngoài làng có khi nghe không hiểu. Tỷ như gọi "kép chầu", có nghĩa là đào kép đó tuy cũng tài sắc nhưng vì một lý do nào đó không được nhập biên chế gánh hát, đêm đêm họ cũng xách valyse trang phục phấn son đến ngồi café cóc trước rạp hay túc trực bên cánh gà, để đợi, ngộ nhỡ có đào kép chính nào trục trặc không đến rạp được, thì kép chầu thay thế vào ngay. "Kép chầu" phải thuần thục rất nhiều tuồng để đau đâu chữa đó.

Đào chính chuyên đóng vai sầu thảm gọi là "đào thương", kép chính chuyên đóng vai hung tàn gọi là "kép độc". Có một cụm tiếng lóng xuất phát từ hai nơi, một là cải lương rạp hát, hai là quanh các tòa soạn báo chí, đó là "café à la ... ghi” tức uống café thiếu ghi sổ ...

Vào làng báo mà tiếng lóng người Sài Gòn xưa gọi "nhật trình". Nếu thiếu tin lấy một tin cũ nhưng chưa đăng báo để đăng lấp chỗ trống, gọi là "tin kho tiêu”, các loại tin vớ vẩn dăm dòng từ quê ra tỉnh gọi là "tin chó cán xe", tin quan trọng chạy tít lớn gọi là "tin vơ-đét" vedette, nhặt từ tài liệu dài ra thành một bài gọn gọi là “luộc bài", chắp nhiều thông số khác nguồn ra một bài gọi là "xào bài", truyện tình cảm dấm dớ gọi là "tiểu thuyết 3 xu", các tạp chí bình dân xoi mói đời tư gọi là "báo lá cải". Làng nhật trình kỵ nhất là loan tin thất thiệt, lóng gọi là "tin phịa", nhưng trong "tin phịa" còn có hai mảng chấp nhận được đó là loan tin thăm dò có chủ đích, lóng gọi là "tin ballons" tức thả quả bóng thăm dò, hay tin thi đua nói dối chỉ được xuất hiện vào đầu tháng tư, gọi là "tin Cá tháng Tư".

Có đến bảy tiếng lóng để thay cho từ chết. Đó là "tịch", "hai năm mươi", "mặc chemise gỗ", "đi auto bươn", "về chầu diêm chúa", "đi buôn trái cây" hay "vào nhị tỳ”, "nhị tỳ" thay cho nghĩa địa và "số dách" thay cho số một ... đều ảnh hưởng từ ngôn ngữ minh họa theo người Hoa nhập cư.

Thời điểm truyện và phim kiếm hiệp của Kim Dung nói chung là chuyện Tầu thịnh hành, người Sài Gòn đã chế ra nhiều tiếng lóng, như ai dài dòng gọi là "vòng vo Tam Quốc", ai nói chuyện phi hiện thực gọi là "chuyện Tề Thiên", tính nóng nảy gọi là "Trương Phi". Một số tên nhân vật điển hình của Kim Dung được dùng để chỉ tính cách của một người nào đó. Tỷ như gọi ai là "Nhạc Bất Quần" tức ám chỉ người ngụy quân tử, gọi là "Đoàn Chỉnh Thuần" tức ám chỉ đàn ông đa tình có nhiều vợ bé ...

Sài Gòn là đất của dân nhập cư tứ xứ, nơi tha hương văn hóa bốn phương, nên ngôn ngữ càng thêm phong phú, trong đó tiếng lóng cũng "ăn theo" mà ra đời.

Thời Mỹ đến thì một tiếng "OK Salem", mà các trẻ bụi đời vừa chạy vừa la để xin ông Mỹ điếu thuốc. Thời gọi súng là "sén" hay "chó lửa", dân chơi miệt vườn gọi "công tử Bạc Liêu" còn hiểu được, Sài Gòn xuất hiện cụm từ "dân chơi cầu ba cẳng" thì thật không biết do đâu? Có lẽ cầu ba cẳng có tên Pallicao, lêu nghêu 3 cẳng cao như dáng vẻ cowboy trong các phim bắn súng, nên mới gọi "dân chơi cầu ba cẳng"? Đó cũng là lúc các tiếng lóng như "dân xà bát", "anh chị bự", "main jouer" tay chơi ra đời, chạy xe đua gọi là "anh hùng xa lộ", bị bắt gọi là "tó", vào tù gọi là "xộ khám”. Bỏ học gọi là "cúp cua", bỏ sở làm đi chơi gọi là "thợ lặn", thi hỏng gọi là "bảng gót". Cũng do scandal chàng nhạc sĩ nổi tiếng kia dẫn em dâu là ca sĩ K.Ng. qua Nhà Bè ăn chè, để ngoại tình trong túp lều cỏ bị bắt, từ đó "đi ăn chè" trở thành tiếng lóng về hành vi ngoại tình trốn ra ngoại ô.

Cũng có một số tiếng lóng do nói lái mà ra như "chà đồ nhôm" tức "chôm đồ nhà”, "chai hia" tức chia hai chai bia bên bàn nhậu, nó cùng họ với "cưa đôi”. Lóng thời sự loại này có "tô ba lây đi xô xích le" tức "Tây ba lô đi xe xích lô". Trong tiếng lóng còn chất chứa ân tình. Họa sĩ chuyên vẽ tranh sơn mài đề tài lá hoa sen xuất thân xứ Ca Trù hay than "buồn như chấu cắn", hay có người than phiền vì câu né tránh trách nhiệm với hai tiếng "lu bu" để thất hứa, nay còn có người nhấn thêm "lu xu bu" nại lý do không rõ ràng để trốn việc. Để tạm kết thúc phần dẫn này, tôi muốn nhắc một số âm sắc Bắc Hà. Những âm sắc theo chân người Hà Nội vào Nam rồi trở thành tài sản chung của người Việt. Bắt quả tang thành "quả tó", gọi chiếc xe Honda là "con rim", gọi tờ giấy 100USD là "vé", đi ăn cơm bình dân gọi là "cơm bụi", xuống phố dạo chơi gọi là "đi bát phố", gọi người lẩm cẩm là "dở hơi"...

Nhưng lý thú nhất là nhờ cụ cố nhà văn Nguyễn Tuân mà Sài Gòn nay có một tiếng lóng hiện đại thay cho cụm từ đi ăn nhà hàng theo American style - tiền ai nấy trả. Đó là cụm lóng KAMA, ghép bốn chữ tắt của "không - ai - mời - ai". Đi KAMA phở một cái, tức cùng đi ăn phở mà không ai mời ai, món ăn cổ truyền nhưng ứng xử là thoải mái. Vào thời văn minh hiện đại, ngôn ngữ tiếng Anh trở thành phổ biến, giới trẻ đã chế ra một tiếng khá văn hoa, như chê một ai đó chảnh, các cô nói "lemon question" tức chanh hỏi - chảnh.

Lê Văn Sâm


Phải Chăng Bà Madison "Không Được Phép Từ Chức" ?

Đặng thiên Sơn

Trước ngày Ủy Ban Bải Nhiệm tiến hành việc lấy chữ ký, đã có nhiều ý kiến đề nghị bà Madison nên tự động từ chức để khỏi làm phiền cử tri khu vực 7 và cộng đồng VN. Nhưng bà Madison như người sống ngoài cộng đồng nên đã nín thinh trước đề nghị của mọi người. Lúc ấy, người ta nghĩ bà Madison không màng đến “ý dân” có lẽ vì bà quá tin tưởng vào lời tuyên bố “vùi dập” của ông Thị trưởng áo dài khăn đống tại quán cà phê Paloma ngày 30/5/08.

Khi UBBN đệ nạp 5.181 chữ ký lên văn phòng Thư Ký thành phố, một lần nữa dư luận lại xôn xao yêu cầu bà Madison từ chức. Nhưng lần này, bà Madison không những là người sống ngoài cộng đồng, mà còn như là người sống trong cỏi mộng nên đã trả lời trên báo S.J. Mercury News ngày 29/8/08, rằng: “Ngay lúc này, tôi không bận tâm đến số chữ ký, vì còn phải đợi xem những chữ ký đó có thật hay không ... ”. Cho đến ngày 21 tháng 10 năm 2008, khi Hội Đồng Thành Phố chính thức công nhận có 4.775 chữ ký hợp lệ để chuẩn bị tổ chức bầu cử bải nhiệm, thì một lần nữa người ta lại hy vọng bà Madison chấp nhận sự thật để mạnh dạn từ chức. Nhưng không phải vậy!

Ai cũng nghĩ rằng, sự từ chức của bà Madison sẽ chấm dứt được tình trạng xáo trộn giữa cộng đồng và thành phố. Điều này, chẳng những tốt cho cộng đồng mà còn tốt cho chính quyền địa phương, đồng thời sẽ tiết kiệm được một số tiền thuế của người dân. Đây là lối thoát danh dự cho bà Madison, để bà còn cơ hội ra ứng cử một chỗ nào đó nếu muốn. Còn hơn là bị bãi nhiệm, thì sự nghiệp chính trị của bà vĩnh viển bị đốt cháy, ngoại trừ bà trở về Việt Nam. Nhưng lại một lần nữa, mọi người vô cùng sửng sốt và thất vọng trước những lời tuyên bố gần như “vô thức” của bà trên đài Quê Hương. Những lời này đã cho thấy bà Madison không bao giờ chịu từ chức.

Chuyện một dân cử với chức vụ Nghị viên, Dân biểu, Nghị sĩ hay Thống đốc tiểu bang vì ăn nói bậy bạ hay làm những điều phạm pháp đưa đến phải từ chức là chuyện bình thường. Tại thành phố San Jose cũng đã xảy ra như trường hợp bà nghị viên Kathy Cole đã “nói bậy” vào năm 1994 và ông Terry Gorgery đã “ăn bậy” vào năm 2005.

Riêng bà Madison chẳng những vi phạm luật Brown Act, chẳng những nói láo với cử tri của mình liên tu bất tận, chẳng những đã lợi dụng địa vị để làm viêc riêng tư với các tài phiệt, chẳng những kỳ thị chính trị qua cái tên “Little Sàigòn”, bà Madison còn gọi đồng hương mình là gánh xiệc, đã đủ để cho bà ta phải lên tiếng xin lỗi và từ chức. Nhưng tại sao bà Madison lại không từ chức? Đây là một câu hỏi khó ai trả lời được chính xác, ngoại trừ bà Madison. Do đó, những bàn tán xôn xao chung quanh sự kiện này chỉ là sự suy luận, sự phỏng đoán. Tuy nhiên, những suy luận, những phỏng đoán không phải vô căn cứ vì nó được dựa vào những dữ kiện qua việc làm, lời nói của bà Madison từ quá khứ cho đến hiện tại.

Ứng cử viên TT. John McCain của đảng Cộng Hòa đã nói với cử tri: “Obama là ứng cử viên tổng thống theo Chủ Nghĩa Xã Hội” (Obama is Socialist Presidential candidate). Và nhiều bình luận gia đã so sánh kế hoạch kinh tế của Barrack Obama qua việc đánh thuế người có lợi tức trên 250 ngàn để lấy tiền giúp người nghèo, là một trong những hình thức đánh tư sản của cộng sản. Điều này đã cho thấy Barrack Obama có khuynh hướng theo Xã Hội Chủ nghĩa, nhưng Barrack Obama không phải là một tên “Mỹ Cộng”.

Trong chiều hướng tương tự, bài viết này khi đề cập đến khuynh hướng thân Xã Hội Chủ Nghĩa của bà Madison, không có nghĩa nói bà Madison là Việt Cộng. Nhưng khuynh hướng thân cộng, làm lợi cho Việt Cộng và gây bất lợi cho người Việt chống Cộng tại hải ngoại của bà Madison là điều cần nói ra.

Có người cho rằng: “Bà Madison không được phép từ chức!”. Bà Madison không được phép từ chức, vì đây là lệnh của phía bên kia. Phía bên kia ở đây là Việt Cộng. Nhưng nói như vậy, không có nghĩa nói bà Madison là Việt Cộng nằm vùng.

Tuy không phải là Việt Cộng nằm vùng, nhưng đang sống chung với Cộng Đồng Việt Nam Tỵ Nạn Cộng Sản, bà Madison lại làm những chuyện bất lợi cho cộng đồng này và có lợi cho Việt Cộng phía bên kia, thì đây là một sự kiện nghịch lý. Nhưng sự kiện nghịch lý này không phải là một chuyện mới mẻ chưa từng xảy ra. Người ta còn nhớ trong quá khứ, trước năm 1975 dưới chế độ tự do dân chủ VNCH có nhiều người đang sống trong chế độ này mà vẫn làm việc theo sự sai khiến của Việt Cộng phía bên kia. Đây là thành phần “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản”. Người ta ăn cơm nhà này, làm việc cho nhà hàng xóm hay “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản” có hai lý do sau đây. Thứ nhứt vì lý tưởng của họ. Thứ hai là một sự bất đắc dĩ, vì đã lở cắn phải miếng mồi ngon. “Hãy nghĩ!” bà Madison lọt vào trường hợp thứ hai nên đã và đang làm những việc như:

1. Lúc còn là Ủy Viên Khu Học Chánh, bà Madison đã đi đi, về về Việt Nam nhiều lần. Trong những lần đi đi, về về, bà đã thuyết trình nhiều đề tài về Dân Chủ mà không bị cấm đoán hay bị bắt. Trái lại bà được chính quyền VC tiếp đón ân cần từ Nam ra Bắc. Điều này cho thấy các đề tài Dân Chủ mà bà Madison thuyết trình phù hơp hợp với định hướng dân chủ kiểu Xã Hội Chủ Nghĩa. Khác với Luật sư Lê chí Quang chỉ viết một bài báo liên quan đến Tự do, Dân chủ thực sự của các nước Tây phương, thì ông bị bắt bỏ tù nhiều năm đến ói máu, gần chết mới được thả ra . Cái lợi của Việt cộng trong những chuyến đi đi, về về này của bà Madison là đã tuyên truyền với ngoại quốc về tự do, dân chủ tại VN và tạo sự chú ý của trí thức trẻ VN hải ngoại, để gây mâu thuẫn về cuộc đấu tranh chống cộng.

2. Khi còn là Ủy Viên Khu học chính bà Madison đã gạt tay từ chối không nhận cờ quốc gia do ông Mạc Văn Thuận trao tặng. Đây là một cái tát vào mặt những người Việt quốc gia chống cộng. Và cũng là một thông điệp nhắn nhủ, nhắc nhở các du học sinh Việt Nam rằng, lá cờ tổ quốc của họ không phải là Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ mà là Cờ Đỏ Sao Vàng. Hành động này của bà Madison đã làm tổn thương đến tinh thần quí trọng biểu tượng thân yêu của người Việt hải ngoại.

3. Bà Madison đã cùng Vũ đức Vượng, một người thân cộng, ngăn cản Nghị quyết cờ vàng vào năm 2005. Cho thấy, nếu là một người không quan tâm đến vấn đề chính trị như nhiều Quân nhân, Công chức VNCH tỵ nạn CS đã tuyên bố, thì mắc mớ gì Madison lại có hành động cản trở nghị quyết cờ vàng của HĐTP? Cái lợi của hành động này Việt Cộng hưởng được, là bà Madison -một Ủy viên học chánh và Vũ dức Vượng -một giảng viên tại San Jose State, hai người như thay mặt VC nói với chính quyền địa phương rằng, lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ không phải là biểu tượng chung cho những người Việt Nam đang có mặt tại thành phố. Và đặc biệt, nó cũng không phải là biểu tượng của du học sinh VN đang có mặt tại các trường trung học, đại học Hoa Kỳ. Điều này hiển nhiên cho thấy Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ không phải là biểu tượng thân thương của bà Madison và xác định bà không phải là người Việt quốc gia. Hành động của bà Madison đã gây tổn thương đến tinh thần đấu tranh chống cộng của người Việt Hải Ngoại.

4. Bà Madison chống việc đặt tên “Little Sàigòn” cho khu thương mại VN vì tên này là biểu tượng cho sự chống cộng. Trong trường hợp khu thương mại chính thức mang tên “Little Saigòn” thì trước sau gì khu này cũng có nghị quyết “khu phi cộng sản”. Điều này sẽ gây nhức nhối cho VC, vì chắc chắn trong khu thương mại có không ít những cửa hàng của tư bản đỏ rữa tiền. Còn như nếu khu thương mại được đặt tên “Sàigòn Business Disttrict”, “ViệtNam Town ” hay một tên nào khác, thì cái lợi của VC là khi đến thăm các cửa hàng của họ, họ không tốn tiền nhờ cảnh sát hộ tống. Và cái lợi kế tiếp là nếu việc chống tên “Little Sàigòn” thành công, thì từ địa bàn đường Story tư bản đỏ sẽ rữa tiền lan ra các khu vực khác trong thành phố.

Qua việc đặt tên “LittleSàiòn”, đã làm lòi ra con người thật của bà Madison và mọi người suy đoán được vì sao bà Madison không chịu từ chức. Đã cho thấy phía bên kia còn cần bà Madison ngồi lại để giải quyết những điều chưa giải quyết xong của vai trò chuyện “Nối một nhịp cầu”.

Với vai trò như là một con “chim xanh” hay như là một “giao liên” trên mặt trận Kinh tế, Chính trị của phía bên kia đang được Thị trưởng Chuck Reed nâng đỡ, và một số nghị gật đang vai kề vai, nương nhau mà sống theo “căn bản chính trị” của Hoàng Thế Dân, chắc chắn bà Madison sẽ thực hiện được nhiều việc có lợi cho VC. Chẳng những có lợi cho VC ở San Jose, mà còn tại nhiều tiểu bang khác. Qua chức vụ nghị viên thành phố lớn thứ 10 của Hoa kỳ, bà Madison dễ ăn nói, dễ móc nối với chính quyền mọi nơi trên phương diện Chính trị lẫn Kinh tế. Sự có mặt của bà Madison trong phái đoàn Phòng Thương Mại Silicon Valley tại Chicago vào tháng 8/08 vừa qua đã nói lên điều này. Trong khi chức vụ Chủ tich ủy ban chống tội phạm đang cần bà có biện pháp ngăn chận bớt tội ác mỗi ngày gia tăng được sở cảnh sát báo động hàng ngày.

Với những tháng ngày phiêu lưu còn lại, bà Madison đang chạy đua với thời gian để giải quyết những vấn đề còn tồn tại chưa giải quyết xong. Đây là những việc làm có thể xảy ra dưới bất cứ thủ đoạn nào trong cơn hấp hối. Do đó trình bày thẳng thắn những suy nghĩ về việc làm của bà Madison trong quá khứ, hiện tại cũng như những ngày sắp tới để nhận ra bà ta là một người nguy hiểm, ảnh hưởng đến tiền đồ chống cộng của người Việt Hải ngoại là điều cần thiết. Điều này chẳng những sẽ tạo thêm sức mạnh trong tiến trình bãi nhiệm đến thành công tốt đẹp, mà còn hoàn tất nhiệm vụ theo nguyện vọng của cộng đồng, trong đó có niềm vui của những vị cao niên bảy, tám chục tuổi ngày đêm có mặt trước tiền đình City Hall nay vẫn còn sống, và an ủi được linh hồn những người không còn nữa vì cuộc đấu tranh dai dẳng. Và cuối cùng, bà Madison “được phép từ chức hay không được phép từ chức” bằng cách nào đi nữa, rồi thì sự nghiệp chính trị của bà cũng tan theo mây khói trong vai trò con chốt thí “Ăn được cả, ngả về không!” của phía bên kia.

Đặng thiên Sơn
28/10/08


Nghi án Nguyễn Chí Thiện: thiên bất dung gian!


Trần Thanh


Trong nhóm "tứ nhà Thiện" (bốn "người nhà" của ông Thiện gồm: Phan Nhật Nam, Trần Phong Vũ, Ðỗ Thị Thuấn và Chu Tất Tiến) thì bà Thuấn là người đã bênh vực ông Thiện một cách rất tích cực. Bà đã chịu thương, chịu khó, xuất hiện hằng ngày trên diễn đàn, tả xung hữu đột, chống trả và tấn công tất cả những ai dám đụng đến "anh Thiện" của bà. Nhưng đúng như câu nói của bọn cộng sản: - nhiệt tình cộng với ngu dốt = phá hoại. Thay vì bảo vệ "anh Thiện" thì bà lại lấy dao đâm vào lưng "anh Thiện" đến lút cán! Sau đây là bằng chứng:


- Bà đã lên diễn đàn internet kể câu chuyện Ali Baba và bốn mươi tên cướp. Bà Tiết lộ rằng ông Thiện là người DUY NHẤT (?) đã biết câu thần chú "vừng ơi mở cửa!". Suốt 13 năm nay, cả cộng đồng người Việt ở hải ngoại không ai sở hữu được "câu thần chú" này. Giờ đây, ông Thiện đang nắm trong tay bằng chứng về câu thần chú đó (trang bìa của tập thơ) thì ông chính là tác giả của tập thơ Vô Ðề! Mời quý bạn đọc đoạn trích sau đây từ bài viết của bà Thuấn đăng trên báo điện tử Ánh Dương ngày 31 tháng 10 năm 2008:

Trích:
" .... Ông Nguyễn Chí Thiện là người độc nhất biết câu thần chú đối với kho tàng của ông là cuốn thơ ông đã đưa vào tòa Đại Sứ Anh để gửi ra hải ngọai, và câu thần chú ấy chính là "Hoa Địa Ngục", tên cuốn thơ!

Trước khi ông ra hải ngọai, không một ai biết cuốn thơ ấy tên là gì, nên họ đặt tên nó là "Bản Chúc Thư của một người tù", "Tiếng Vọng Từ Đáy Vực" ... và thường dùng chữ "Vô Đề" (không có tựa đề)

Nhưng nay cuốn sách đã về với cố chủ, và tên nó nằm ngay trên trang hai, tức mặt sau của bìa trước: "Hoa Địa Ngục"!

Vậy thì còn cần gì phải hỏi là nó của ai nữa ? Ông Nguyễn Chí Thiện đã gọi đúng câu "vừng ơi, mở cửa" và câu ấy là "Hoa Địa Ngục"!

Cuốn sách KHÔNG CÒN LÀ VÔ ĐỀ, và tác giả cũng KHÔNG CÒN LÀ KHUYẾT DANH!
ĐÓ LÀ CÂU TRẢ LỜI CHO TẤT CẢ NHỮNG AI CÒN ĐÁNH DẤU HỎI VỀ ÔNG NGUYỄN CHÍ THIỆN!
Hoàng Vân

Tái bút: Nếu ai nói rằng cuốn sách Hoa Địa Ngục trong tay ông NCT là giả mạo, thì hãy đến gặp hai ông Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng và phóng viên Đinh Quang Anh Thái . Nếu cả 3 người họ cùng truy tố "class action" thì kẻ vu cáo rằng cuốn sách đó là cuốn sách giả chỉ có nước là khai bankrupcy. ....."
Ngưng trích

Q
ua đoạn văn trích nói trên, chúng ta thấy rằng có lẽ vong hồn linh thiêng của tác giả Vô Danh đã xui khiến cho bà Thuấn đem câu chuyện cổ Ả Rập "Ali Ba Ba và bốn mươi tên cướp" ra để lý giải cho "anh Thiện"! Theo câu chuyện này, có bốn mươi tên cướp sở hữu được một kho tàng rất lớn, dấu trong một hang đá bí mật. Mỗi khi tên tướng cướp muốn đóng hoặc mở hang đá, hắn bèn đọc câu thần chú "Vừng ơi mở cửa". Rủi cho bọn cướp là câu thần chú của bọn chúng đã bị anh tiều phu Ali Ba Ba nghe lén, vì thế nên khi bọn cướp đi khỏi, anh đã lẻn vào hang đá, chôm chỉa vàng bạc châu báu ở trong đó! Như vậy, Ali Ba Ba là một thằng láu cá và ăn cắp, là "nhục sĩ" chớ chẳng phải hay ho gì! Cái câu thần chú mà anh ta biết là nhờ nghe lén, ăn cắp từ bốn mươi tên cướp! Và bốn mươi tên cướp này đã đi ăn cắp, ăn cướp từ những người khác. Ta có thể so sánh như thế này:

1. Ali Ba Ba = ông Thiện
2. Bốn mươi tên cướp = bọn công an việt gian cộng sản
3. Kho tàng = tập thơ Vô Ðề của tác giả Vô Danh

Vậy mà bà Thuấn đã đem cái tên Ali Ba Ba ra để gán cho ông Thiện một cách tự hào! Có lẽ từ nay ông Thiện sẽ được cộng đồng chúng ta đặt cho cái nick name là "Ali Ba Ba"! Nếu bà Thuấn đã biết rất chắc chắn ông Thiện là tác giả thứ thiệt của tập thơ "Hoa Ðịa Ngục" thì hà tất phải mượn câu chuyện "Ali Ba Ba" ra làm gì? Cứ nói thẳng, nói toẹt ra là trong suốt 13 năm nay, ông Thiện là người DUY NHẤT biết được cái tựa đề thật sự của tập thơ, và giờ đây ông đang nắm cái trang bìa tập thơ đó trong tay làm bằng chứng! Tuy nhiên:

Những nghi vấn sau đây đang là mục tiêu tìm hiểu của dư luận:

1. Không hề có sự kiện ngày 16 tháng 7 năm 1979 mà theo đó, có một người Việt Nam tên là Nguyễn Chí Thiện chạy vào tòa đại sứ Anh tại Hà Nội để trao tập thơ. Lý do?

Tính cho đến nay, 1979 - 2008, đã 29 năm trôi qua mà không hề thấy Bộ ngoại giao Anh lên tiếng xác nhận sự việc này bằng văn bản. Ðây là một sự kiện chính trị lớn: một người "tù chính trị" Việt Nam đột nhập tòa đại sứ Anh để trao một tập thơ "phản động", thiết tưởng Bộ ngoại giao Anh phải có một thông báo cho báo giới Anh quốc vào thời điểm năm 1979 biết chứ? Nhưng hình như là không có!

Ngoài ra, trong những năm qua, trong nổ lực tìm hiểu sự thật, đã có nhiều cá nhân và đoàn thể tiếp xúc với tòa Ðại sứ Anh cũng như Bộ ngoại giao Anh, thỉnh cầu họ cho biết có sự kiện này hay không? Các nhân viên của tòa Ðại sứ Anh phục vụ tại Việt Nam vào thời điểm năm 1979 đã về hưu nhưng chắc hẳn nhiều người vẫn còn sống, sao không thấy ai lên tiếng, làm "nhân chứng" cho ông Thiện trong sự kiện này?

Ngày 21 tháng 6 năm 2006, ông Thiện đã ký giấy Ủy Nhiệm (Affidavit) cho luật sư Sơn Tùng, nhờ ông Tùng tiếp xúc với Bộ ngoại giao Anh để yêu cầu được giảo nghiệm tìm dấu tay của ông Thiện trong tập thơ "gốc", được đưa vào tòa đại sứ Anh ngày 16 tháng 7 năm 1979* Tuy nhiên, sau sáu tháng chờ đợi, kể từ khi gởi thơ cho bà Bộ trưởng Ngoại giao Anh, đến giữa tháng 12 năm 2006, ông Tùng nhận được tin tức phản hồi như sau:

- Ông Nick Alexander, trưởng Ban MêKông và Miến Ðiện thuộc nhóm Ðông Nam Á và Thái Bình Dương tại Bộ Ngoại Giao Anh cho biết: ông không hề biết tập thơ ấy đang ở đâu? Nếu ông Nguyễn Chí Thiện có biết thì làm ơn cho ông ta biết với!!!

Ðây là kiểu khôi hài lạnh của người Anh, hàm chứa ý châm biếm rằng ông Thiện là thằng nói dóc!

Câu nói khôi hài ngắn gọn này cho phép chúng ta suy luận ra rằng:

1. Không hề có sự kiện ngày 16-7-1979
2.
a. Sở tình báo của việt cộng đã dựng lên câu chuyện "Nguyễn Chí Thiện" đột nhập tòa đại sứ Anh, ngày 16 tháng 7 năm 1979.

b. Sở tình báo của việt cộng đã bắt được thi sĩ Vô Danh, hỏi cung và bắt ông ta chép lại tập thơ. Sau đó bọn chúng đã thủ tiêu ông Vô Danh.

c. Tiếp theo, tình báo việt cộng đạo diễn cho ông Thiện chép lại toàn bộ tập thơ "Vô Ðề" từ bản gốc của thi sĩ Vô Danh.

d. Sau đó, "bản gốc" (dỏm) với tuồng chữ viết của ông Thiện được gởi thẳng qua đài BBC Luân Ðôn bên Anh quốc để nhờ phổ biến, để chuẩn bị cho kế hoạch đưa Nguyễn Chí Thiện ra hải ngoại hoạt động sau này! Chúng ta không lạ gì cái đài phát thanh BBC này, vốn đã từng là cái ổ rắn độc của việt cộng ngay từ trước năm 1975!
  • NHỮNG ÐIỀU MỜ ÁM:
Ðến tháng 4-2008, ông Sơn Tùng được ông Thiện cho biết tin: - ông (Thiện) đã nhận được tập bản thảo "gốc" do vợ một nhà văn Anh chuyển đến. Tuy nhiên câu chuyện đến đây lại nảy sinh ra nhiều chi tiết éo le như chuyện Ngàn lẻ một đêm, làm dư luận thêm thắc mắc:

1. Tại sao nhà văn Anh lại có tập thơ gốc? Ông này không làm cho bộ ngoại giao Anh, cũng không làm cho tòa Ðại sứ Anh! Phải chăng vì ông ta đã chết nên mới được ông Thiện đưa vào câu chuyện Ngàn lẻ một đêm để làm "nhân chứng"?!!!

2. Vợ nhà văn Anh này là người Tàu? Tại sao bà biết ông Thiện là "tác giả" tập thơ và ông đang bị cộng đồng lên án, mà liên lạc với ông ta để gởi trả tập thơ?

3. Tại sao bà ta không gởi thẳng tập thơ cho ông Thiện mà lại gởi qua ông Hùng nào đó rồi ông này lại chuyển cho ông Ðinh Quang Anh Thái? Sau cùng, ông Thái lại chuyển cho ông Thiện thì ông Thiện khám phá ra là cái phong bì chứa tập thơ đã bị bóc ra!

4. Tại sao tập thơ này lại nằm trong kho chứa đồ phế thải của nhà văn Anh? Ðã là nhà văn thì ắt hẳn ông ta phải biết trân quý những tác phẩm văn hóa, phải để nó trên kệ sách chứ tại sao lại quăng tập thơ vào nhà kho như quăng những tờ báo cũ?

5. Ông Sơn Tùng đã dặn kỹ ông Thiện là không được sờ mó vào tập thơ để ông đem đi giảo nghiệm, tìm dấu tay của ông Thiện. Tại sao ông Thiện lại "đãng trí" không nhớ những lời dặn của luật sư đại diện cho mình, để cho ông Thái mở phong bì ra xem và giờ đây chắc là tập thơ đó mang đầy những dấu tay của ông Thái!

6. Khi nhận được tập thơ "gốc" thì ông Thiện lại nhờ người anh ruột giữ giùm, rồi mới đây, ông lại đem nó gởi vào safety-box trong ngân hàng!

Với một tình trạng nhập nhằng tả pí lù, với khá nhiều người can dự vào số phận của tập thơ "gốc" như vậy, thì khi bị cộng đồng dồn vào thế bí, ông Thiện rất dễ dàng đổ thừa tại vì người này, người nọ!

  • LÝ LUẬN ẤU TRĨ:
Những người bênh vực cho ông Thiện thường đưa ra lý luận như vầy:

- Trong suốt 13 năm qua, không có người nào đứng ra nhận mình là tác giả của tập thơ Vô Ðề. Chỉ có một mình "bác" Thiện dám nhận mình là tác giả. Vậy thì, để lâu cứt trâu hóa bùn, không có ai nhận thì đúng "bác" Thiện là tác giả chớ còn ai vô đó! Cũng giống như những cái bố cáo Ly Hôn mà chúng ta thường thấy đăng công khai trên những tờ báo, chẳng hạn như:

" Bố cáo ly hôn: Hôm nay ngày .... tháng ...năm 2008, tôi, Thị Nở long trọng tuyên bố ly dị chồng tôi là Chí Phèo. Anh Chí Phèo hiện đang ở đâu, yêu cầu phải gặp gấp luật sư của tôi để ký giấy tờ. Nếu quá 12 tháng kể từ ngày đăng Bố cáo Ly hôn này mà không thấy anh trả lời thì coi như việc ly dị đương nhiên có hiệu lực. Tôi sẽ hiên ngang ôm cầm sang thuyền khác, anh đừng có khóc hận về sau!" Ký tên Thị Nở và luật sư đại diện.

Trong buổi "họp báo" ngày 25-10-2008 tại khách sạn Ramada, cô MC Xuân Mai cũng có lý luận tương tự: - trong suốt 13 năm qua không có ai CLAIM (tuyên bố chủ quyền) tập thơ Vô Ðề thì chính "bác" Thiện đây là tác giả .... Vô Danh chứ còn ai nữa! Nói như vậy thì có khác nào cô Xuân Mai đã thừa nhận ông Thiện không phải là tác giả của tập thơ Vô Ðề! Ông ta không phải là tác giả nhưng vì liều mạng và lươn lẹo, cứ nhận bừa mình là tác giả, rồi chịu đấm ăn xôi liên tiếp trong 13 năm. Giờ đây, thời hạn 13 năm đã qua, đã hết hạn "bố cáo ly hôn" nên ông Thiện chính thức hợp pháp hóa việc tác quyền của mình?

Ðó là chưa kể, ông còn tuyên bố Bộ ngoại giao Anh sẽ "giải mật" tài liệu về tập thơ của ông vào năm 2009! Khổ thay, việc "giải mật" này lại rất mâu thuẫn với câu chuyện 1001 đêm do ông sáng tác ra, đó là bản "gốc" tập thơ của ông lại tự động mọc chân ra để "di tản" từ văn khố của Bộ ngoại giao Anh sang cái nhà kho bỏ phế của một ông nhà văn Anh nào đó!!! Ôi thôi, càng nói láo thì càng lòi đuôi cáo! Tội nghiệp cho anh Thiện nhà ta quá! Tên là "Chí Thiện" (very honest) mà chẳng xứng với cái tên tý nào!

À, còn nữa: -tập thơ lên án cộng sản thì có cái gì ghê gớm mà bộ ngoại giao Anh phải giữ bí mật tới 30 năm rồi mới "giải mật"? Mà làm chó gì có "mật" (top secret) để mà giải! Nó đâu có phải là tài liệu chiến tranh giữa hai quốc gia hoặc tài liệu liên quan đến bí mật của những vũ khí nguyên tử?
Cái gì của Caesar thì phải trả lại cho Caesar! Không phải thơ của mình thì vĩnh viễn không phải là thơ của mình. Nếu cứ "claim" ẩu thì sẽ có ngày phải ra tòa!
  • KẾT LUẬN:
Sự đời trớ trêu, đôi khi vì ngu dốt và nhanh nhẩu đoảng mà chính những người bênh vực cho ông Thiện đã làm hại ông! Càng cố gắng bào chữa nhiều thì càng lòi thêm ra nhiều sơ hở khác! Kể từ nay, ông Thiện đã có thêm một cái nick name mới là "Ali Ba Ba", do chính người giúp việc đắc lực nhất của ông gởi tặng cho ông! Cứ để cho bà Bút Vàng múa dao. Những lưỡi dao đó sẽ đâm vào lưng ông Thiện lút cán, chớ không ai khác!

Một chuyện cười ra nước mắt là sau khi bà Bút Vàng kể câu chuyện Ali Ba Ba, bà còn cao hứng thách đố: - Ai dám phản bác được lý luận của ta??? Cười đau bụng vì màn hài hước .... miễn phí!
Ðể kết luận, tôi xin mượn tạm những vần thơ sau đây của thi sĩ Vô Danh, sửa lại một vài chữ để mô tả tình hình đấu tranh của chúng ta tại hải ngoại:

Thế lực Việt Tân*, ta phải đồng tâm đập nát
Ðể nó hoành hành, họa lớn sẽ lan nhanh
Nhưng không thể dùng bom A, bom H
Phá nát địa cầu vì một lũ gian manh
Nên phải viết, muôn ngàn người phải viết
Những tội tày đình được bưng bít tinh vi
Nếu cộng đồng, mọi người đều biết
Việt Tân là gì, tự nó sẽ tan đi

Từ sinh thành, từ ấu trĩ, ngu si
Sự hiểu biết sẽ là mồ hủy diệt!!!

Trần Thanh
Ngày 1 tháng 11 năm 2008


Chú thích:
1. Xin đọc bài "Không ai có thể chứng minh Nguyễn Chí Thiện là tác giả của tập thơ Hoa Ðịa Ngục" ngoài Nguyễn Chí Thiện của tác giả Sơn Tùng, đăng trên báo điện tử Hồn Việt UK http://hon-viet.co.uk/SonTung.
2. Còn một giả thuyết khác là: Thi sĩ Vô Danh, ngày 16-7-1979 đột nhập vào tòa Ðại sứ Anh để trao tập thơ, sau đó ông bị công an việt cộng bắt, bị bắt buộc chép lại tập thơ rồi bị thủ tiêu. Tập thơ gốc với tuồng chữ của thi sĩ Vô Danh được tòa Ðại sứ Anh gởi về cho Bộ ngoại giao Anh. Tiếp theo, Bộ ngoại giao gởi tập thơ gốc cho đài BBC, rồi đài BBC lại chuyển tập thơ gốc ấy đến báo Văn Nghệ Tiền Phong. Hiện nay báo Văn Văn Nghệ Tiền Phong đang giữ bản gốc.
3. Theo dư luận thì bà Ðỗ Thị Thuấn chính là cô ruột của Ðỗ Hoàng Ðiềm, tổng bí thư của đảng Việt Tân. Ðó là lý do vì sao mà bà rất có uy trong nhóm "Tứ Nhà Thiện". Trong buổi họp báo, khi bà "nhớn" ban ra lệnh gì thì từ "đại ca" Thiện cho tới các "hiền huynh" khác đều răm rắp tuân theo!!!


  • Vừng ơi! Mở ra!



Hoàng Vân
31/10/2008

Ali Baba là một tiều phu nghèo, chăm chỉ và không tham lam, có người anh trai tên là Kasim. Một hôm, tình cờ chàng phát hiện ra một cái hang bí mật dùng để chứa của cải quý giá của một băng cướp, với câu thần chú để mở và đóng cửa hang là: "Vừng ơi! Mở ra!" và "Vừng ơi! Đóng lại". Nhờ số của cải lấy từ hang bí mật về, chàng trở nên giàu có ......

Ông Nguyễn Chí Thiện là người độc nhất biết câu thần chú đối với kho tàng của ông là cuốn thơ ông đã đưa vào tòa Đại Sứ Anh để gửi ra hải ngọai, và câu thần chú ấy chính là "Hoa Địa Ngục", tên cuốn thơ!

Trước khi ông ra hải ngọai, không một ai biết cuốn thơ ấy tên là gì, nên họ đặt tên nó là "Bản Chúc Thư của một người tù", "Tiếng Vọng Từ Đáy Vực" ... và thường dùng chữ "Vô Đề" (không có tựa đề)

Nhưng nay cuốn sách đã về với cố chủ, và tên nó nằm ngay trên trang hai, tức mặt sau của bìa trước: "Hoa Địa Ngục"!

Vậy thì còn cần gì phải hỏi là nó của ai nữa ? Ông Nguyễn Chí Thiện đã gọi đúng câu "vừng ơi, mở cửa" và câu ấy là "Hoa Địa Ngục"!

Cuốn sách KHÔNG CÒN LÀ VÔ ĐỀ, và tác giả cũng KHÔNG CÒN LÀ KHUYẾT DANH!

ĐÓ LÀ CÂU TRẢ LỜI CHO TẤT CẢ NHỮNG AI CÒN ĐÁNH DẤU HỎI VỀ ÔNG NGUYỄN CHÍ THIỆN!


Hoàng Vân


Tái bút: Nếu ai nói rằng cuốn sách Hoa Địa Ngục trong tay ông NCT là giả mạo, thì hãy đến gặp hai ông Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng và phóng viên Đinh Quang Anh Thái. Nếu cả 3 người họ cùng truy tố "class action" thì kẻ vu cáo rằng cuốn sách đó là cuốn sách giả chỉ có nước là khai bankrupcy!



PHÓNG SỰ NGUYỄN CHÍ THIỆN HỌP BÁO October 25, 2008

  • Hồ công Tâm
  • [1]Điệp viên họp báo

Tru tắt tiếng, Vàng ra gác cổng
Vẫy đuôi mừng, há họng sủa nhăng
Nhật Nam, Lý Tống,… một băng
Mấy ông "nổ tượng" nhận xằng ngậm tăm!

Nguyễn Chí Thiện đòi hăm thưa kiện
Hai trăm ngàn, nói chuyện ruồi bu
Tiếng Tây, tiếng Mỹ, tiếng U
Đánh vần, thằng ngọng "gà rù mắc mưa"!

Lũ băng đảng đẩy đưa, thậm thụt
Cho Đào Nương 10 phút mong manh!
Đầm xòe lên giọng lô-canh
Đích-tê đích-tiếc thách anh Hỏa Lò

Là tác giả bức thư tiếng Pháp
Đọc chép thôi (!) chó ngáp không xong!
Thiện từ chối, nói lòng vòng
Tiếng Tây bà vốn học trong trường đầm!

Thiện ú ớ, ngậm câm, giả điếc
Rằng tiếng Tây, tôi biết… thua bà
Thiện trường làng, mới lớp ba
Đích-tê tiếng Phú-Lang-Sa đâu rành!

Trước tai mắt đàn anh đàn chị
Hạt Máu Thơ bí rị chết trân
Hôm nay trước mặt ba quân
Thiện xin chấp nhận đội quần Đào Nương.

October 25, 2008
  • [2] Họp tổ dân phố

Tổ dân phố Việt Tân kiểm thảo
Chứ phải đâu họp báo như vầy?!
Gà nhà chúng nó vỗ tay!
Khác phe, chúng đả kích ngay tức thì

Trò sách động như ri mới quái
Xứ văn minh nào phải rừng xanh
Như thời đấu tố, họp hành
54 Việt Cộng vào thành tiếp thu!

Chúng la ó kẻ thù, đấu tố
Hai trăm ngàn cá độ ăn thua!
Làm như sẵn có tiền chùa
Máu mê cá độ ăn lùa, thua dông!

Điều quan trọng: Thiện không dám nhận
Cho đối phương phỏng vấn tiếng Tây
Pháp văn khảo hạch rõ ngay
Chôm thơ đích thị thằng này thằng gian!

October 25, 2008

  • [3]Khảo sát tiếng Tây

Đội cải cách chỉ huy đấu tố
Hai trăm ngàn, - cá độ, đô-la!
Ê, Đào Nương có không cà ?
Tiền đây, đặt xuống! Mẹ… bà, chơi luôn!

Được ăn cả, ngã luồn cổng hậu!
Mẹ (!) nhằm nhò… chơi ẩu một tăng!
Nhật Nam, Lý Tống nhập băng
Thêm Chu Tất Tiến, Bút Vàng nữa đây!

Lũ băng đảng vỗ tay tán thưởng
Phong Vũ Trần ngất ngưởng ngồi trên
Đầu trâu, mặt ngựa hai bên
Đằng đằng sát khí mở phiên đấu trường

Loa cho gọi Đào Nương, chánh phạm!
Bỗng ồn ào như đám mổ bò
Lâu la băng đảng mặt mo
Đứa la đả đảo, đứa hò thị uy!

Bắt nhà báo tức thì đứng dậy
Như phiên tòa xử vậy, đứng yên!
Đào Nương đành đứng sang bên
Bấy giờ mới được nêu lên vấn đề

Đội cải cách: Ô-kê 10 phút!
Mười phút thôi, chậm lụt hết giờ!
Đào Nương nào phải tay mơ
Yêu cầu Thiện viết lá thơ frăng-xè!

Thiện thất sắc xanh lè xanh lét
Tây ăn đong phát rét chối từ:
Tôi là đứa học sinh ư ?
Có tiền cá độ bây chừ, đặt ra!

Sài Gòn Nhỏ rằng ta họp báo
Cá độ (!) Hoàng Dược Thảo không chơi!
Bye bye! Vậy quá rõ rồi
Chôm thơ đích thị anh bồi tiếng Tây!

October 26, 2008

  • [4]Ngũ nhân bang

Đội Cải Cách ngưu đầu mã diện
Do bí thư Chí Thiện chỉ huy
Điệp viên đào tạo chính quy
Phái ra hải ngoại cứu nguy quan thầy!

Thiện điểm mặt, giờ này có đủ:
Lý Tống, Trần Phong Vũ, Bút Vàng,
Nhật Nam, Tất Tiến vào hàng
Đợi giờ hành động sẵn sàng ra tay!

Đội Cải Cách đợi ngày nổi dậy
Gây phong trào thọc gậy bánh xe!
"Hiền huynh, hiền đệ" nhớ nghe
Cò mồi cá độ, căn me hốt tiền!

Hai trăm xấp (!) chơi liền mẹ kiếp
Bố-cu đồng (!) thật tiếc của trời
Mụ Đào Nương chăng chịu chơi
Ăn lùa thua chạy cuộc đời lên hương!

Các bạn thấy đoạn đường ngắn gọn
Mười ba năm kẻ đón người đưa
Sẵn tiền cá độ, thấy chưa!
Tương lai bảo đảm có thừa vinh quang!
Hồ Công Tâm



Saturday, November 1, 2008

Nguyễn Chí Thiện Rơi Mặt Nạ




Trích báo Saigon Nhỏ: Những điều nên nói...

Ðào Nương

CUỘI SĨ” LẠI TIẾP TỤC NÓI CUỘI ...

Trong số hàng trăm bài viết Saigon Nhỏ nhận được về buổi “họp báo” của ông Nguyễn Chí Thiện, Ðào Nương tôi chỉ xin ghi nhận ai cũng khen Ðào Nương tôi là người can đảm vì biết là đi vào ... hang cọp mà không sợ. Thật ra không phải như thế đâu. Ðào Nương tôi “rung”... thấy mồ. Như đã nói trong bài trước, đối diện với một lãnh tụ thì đủ “rung” rồi huống hồ chi đối diện với 5, 3 ông “lãnh tụ” mà trong đó lại có cả “anh hùng” “Lý Tống”.

“Anh hùng Lý Tống” la hét hào hứng, bên cạnh các ông như Nguyễn Chí Thiện, Trần Phong Vũ, cô Xuân Mai, ông Phan Nhật Nam, ông Nguyễn Công Giân lại thêm người đẹp Jean Libby của ông Nguyễn Chí Thiện làm sao Ðào Nương tôi không “rung” cho được. Bởi vì Ðào Nương tôi nghĩ rằng dù là “vè sĩ” thì ông Nguyễn Chí Thiện không phải là người “vô sĩ” đến độ không tôn trọng lời hứa. Nhưng sự thật là như thế. Trong 6 điều hứa với báo Saigon Nhỏ về việc phối hợp tổ chức, ông Nguyễn Chí Thiện không giữ được một điều nào. Do đó, sau buổi “họp báo” này, danh xưng “cuội sĩ” của ông Nguyễn Chí Thiện lại được xác nhận thêm một lần nữa.

Nhưng buồn cười nhất là nhóm Nguyễn Chí Thiện nhắm sai đối tượng khi tấn công báo Saigon Nhỏ hay cá nhân Ðào Nương tôi. Saigon Nhỏ là một cơ quan ngôn luận đưa ra những nghi vấn về một vấn đề văn học để cộng đồng chúng ta cùng giải quyết: đó là vấn đề ông Nguyễn Chí Thiện không phải là tác giả tập thơ Vô Ðề.

Trong hai tháng qua, Saigon Nhỏ đã đăng nhiều bài viết của nhiều tác giả khắp năm châu để chứng minh điều này. Nhất là bài viết của ông Sơn Tùng, người mà ông Nguyễn Chí Thiện đã ký cái Affidavit tức văn thư để ông Sơn Tùng là đại điện đi gặp Bộ Ngọai Giao Anh để đòi bản thảo tập thơ Vô Ðề. Bộ Ngoại giao Anh đã xác nhận không có bản thảo, không có ai “chui” vào toà đại sứ Anh như lời ông Nguyễn Chí Thiện mô tả cả. Và Saigon Nhỏ nhấn mạnh nhiều lần sẵn sàng dành diễn đàn cho ông Nguyễn Chí Thiện minh chánh cho ông. Nhưng ông Nguyễn Chí Thiện đã chọn việc “họp báo” và mời Ðào Nương tôi đến để “bà có thể đặt những câu hỏi trực tiếp với tôi, Nguyễn Chí Thiện”. Theo lời ông Trần Phong Vũ, chủ bút Diễn Ðàn Giáo dân và ông Phan Nhật Nam thì hai ông này không ở trong ban tổ chức nhưng Ðào Nương tôi còn ghi âm lời ông PNN cam kết sẽ giữ yên lặng khi Ðào Nương tôi phát biểu.

Khi đến dự cuộc họp báo, Saigon Nhỏ tưởng rằng ông Nguyễn Chí Thiện ít ra cũng có vài ba văn kiện để chứng minh ông là tác giả tập thơ dù là bản thảo hay bản bịa. Nhưng không, ông Nguyễn Chí Thiện không có gì cả. Chỉ vài ba bản “kết giả” giảo nghiệm do chính ông thực hiện (khi giảo nghiệm thì phải biết là so sánh với “cái gì” mới là quan trọng. Ông Nguyễn Chí Thiện cam kết sau 20 phút phát biểu của ông Nguyễn Chí Thiện là phần phát biểu của tôi. Nhưng không, sau phần “ca tụng” công đức của ông Nguyễn Chí Thiện do cô MC Xuân Mai đọc và ông Trần Phong Vũ khoanh tay lắng nghe là phần phát biểu của ông Nguyễn Chí Thiện rồi ông Nguyễn Chí Thiện lôi anh của ông là Nguyễn Công Giân, lôi bà Jean Libby lên diễn đàn. Ðào Nương tôi đến buổi họp báo như ông Nguyễn Chí Thiện đã viết để “bà có thể đặt những câu hỏi trực tiếp với tôi, Nguyễn Chí Thiện”. Chứ không phải để trả lời ông Nguyễn Công Giân hay bà Jean Libby. Chuyện đâu còn có đó. Nhưng vì phép lịch sự, Ðào Nương tôi đã ngồi yên lặng để nghe ông Nguyễn Chí Thiện “đấu tố”. Không sao cả.

Ðến phần phát biểu của Ðào Nương tôi thì ông Nguyễn Chí Thiện “chỏ mồm” vào sau 6 phút: 30 giây khi Ðào Nương tôi cho biết tôi đến không phải để đối chất với ông Nguyễn Công Giân hay bà Jean Libby vì thật ra họ có thể thể gửi thư đến Saigon Nhỏ để xác nhận điều nghi ngờ của Saigon Nhỏ. Cũng vậy, ông Nguyễn Chí Thiện có thể trả lời những nghi ngờ tại sao cùng một dữ kiện như ông đi tù mấy lần thì ông Nguyễn Chí Thiện đưa ra nhiều niên kỷ khác nhau trong các cuộc phỏng vấn ông, tại sao sự kiện vào toà đại sứ Anh đã được ông “tả chân” 5, 3 đường khác nhau. Dĩ nhiên là ông Nguyễn Chí Thiện không trả lời được. Nhưng vấn đề hôm nay, Ðào Nương tôi đến là để minh chứng ông Nguyễn Chí Thiện có phải là tác giả tập thơ Vô Ðề hay không?

Khi đó, “cuội sĩ” Nguyễn Chí Thiện thách đố $200,000 đô la mới cho giảo nghiệm chữ viết của ông. Nghĩa là Nguyễn Chí Thiện sẽ cá cược số tiền này trước khi giảo nghiệm với Saigon Nhỏ.

Mặc dù đã trả lời nhiều cuộc phỏng vấn (với giáo sư Nguyên Xuân Vinh, với ông Trần Viết Ðại Hưng, với ông Bùi Văn Phú) là rất giỏi tiếng Pháp nhưng ngay khi Ðào Nương tôi đề nghị đối thoại bằng tiếng Pháp và yêu cầu ông Thiện viết lại lá thư bằng tiếng Pháp của ông Vô Ðề trong quyển sách “đưa vào toà đại sứ Anh” vì Saigon Nhỏ có thể chứng minh ngay tại chỗ là ông Nguyễn Chí Thiện có phải là tác giả tập thơ Vô Ðề hay không?

Nhưng Nguyễn Chí Thiện đã lập lại lời thách đố này để từ chối viết lại bức thư này. Máy chiếu phim Saigon Nhỏ đã lo xong, chỉ cần ông Nguyễn Chí Thiện dám viết lại lá thư này thì chúng tôi đã chứng minh được điều mà mọi người mong đợi: Nguyễn Chí Thiện không phải là tác giả của tập thơ Vô Ðề.

Cách tổ chức luộm thuộm, vô trật tự và thái độ của các ông Nguyễn Chí Thiện, Trần Phong Vũ hiện rõ trong các chương trình truyền hình trên toàn thế giới Ðào Nương tôi không cần phải viết lại. Tất cả người Việt hải ngoại đều được nhìn thấy tư cách “cờ bạc, cá cược” của ông Nguyễn Chí Thiện, thi sĩ Vô Ðề làm sao mà có thể hành xử như Nguyễn Chí Thiện được.

Tuy việc bạch hoá nghi án về văn học Nguyễn Chí Thiện không phải là tác giả tập thơ Vô Ðề không phải là trách nhiệm riêng của hệ thống báo Saigon Nhỏ hay của Ðào Nương tôi mà là việc mọi người dân Việt không chấp nhận chế độ cộng sản vô nhân tại Việt Nam để trả bi hùng ca chống cộng này về lại cho tác giả đích thực của nó. Tuy nhiên, qua cuộc “họp báo” của ông Nguyễn Chí Thiện ngày 25 tháng 10, 2008, Saigon Nhỏ đã chứng minh được rằng:

- Khả năng Pháp ngữ của ông Nguyễn Chí Thiện quá yếu, không thể cùng trình độ với thi sĩ Vô Ðề.

- Ông Nguyễn Chí Thiện không dám viết lại lá thư tiếng Pháp của ông Vô Ðề trong quyển thơ Tiếng Vọng Từ Ðáy Vực hay chúc Thư của Một Người Việt Nam xuất bản vào năm 1979, trước khi có tên Nguyễn Chí Thiện “dính vào” trước mắt mọi người vì chữ viết của Nguyễn Chí Thiện không phải là chữ viết của ông Vô Ðề. Khi viết trước mặt mọi người thì ông Nguyễn Chí Thiện sẽ không chối được nữa.

- Chúng tôi biết rõ điều này và biết rõ khả năng Pháp ngữ của Nguyễn Chí Thiện và có phương cách để chứng minh nên mới dám thách đố Nguyễn Chí Thiện như vậy.

Saigon Nhỏ đã chuẩn bị máy chiếu để khi Nguyễn Chí Thiện viết thì sẽ “trình làng” ngay.

Nhưng tài liệu chúng tôi có sẽ không ngừng ở đó. Khi thấy máy chiếu phim của Saigon Nhỏ mang đến thì Nguyễn Chí Thiện phải tìm mọi cách để ... chạy làng.

Tuy nhiên, trước đề nghị “dễ dàng” của Ðào Nương mà Nguyễn Chí Thiện chạy làng thì đã đủ để chứng minh ông Nguyễn Chí Thiện không phải là tác giả của tập thơ Vô Ðề.

Đào Nương





Bốn Mươi Ba Năm Miền Nam Lạc Hướng

* GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc

BIẾN CỐ LÀM TIÊU VONG MIỀN NAM

Tính đến nay, 1-11-2006, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã bị thảm sát được 43 năm. Trong 43 năm ấy, thành phần nhân dân miền Nam chịu ảnh hưởng và đau khổ nhất là người dân nông thôn. Thành phần ăn trên ngồi trốc hưởng thụ nhiều nhất nhưng bất tài vô đức chính là bọn hề Quảng Lạc khố xanh khố đỏ mà bây giờ vẫn còn thấy những tên vô liêm sỉ về liếm gót giầy CS, điển hình như Nguyễn cao Kỳ, Phạm Duy cùng nhiều tên khác. Cùng với dân nông thôn, 95% Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ đã chịu biết bao nhọc nhằn, thương tật, chết chóc vì cuộc cưỡng chiếm của Cộng sản Bắc Việt ngày càng ác liệt và gia tăng cường độ vì có Quốc tế CS giúp đỡ nhiệt tình, trong đó Trung cộng góp phần không nhỏ.

Bài này không nhằm nêu lên những khía cạnh nói trên mà chỉ đề cập ít nhiều đến tài ba và đức độ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, một lãnh tụ Quốc Gia được toàn dân miền Nam yêu thương, tín nhiệm, được quốc tế kính phục, đã sớm bị thảm sát vào ngày 2-11-1963 cùng với cố vấn Ngô Đình Nhu, bào đệ của cụ đồng thời nói lên những nguyên nhân mà từ đó làm mất miền Nam vào ngày 30-4-1975.

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ

Chí sĩ Ngô Đình Diệm sinh tại Huế năm 1901, đã từng ra làm quan nhưng sau xin từ nhiệm vì những đề nghị cải cách dân sinh cho dân Việt của cụ không được Toàn quyền Pháp, Pasquier chấp thuận. Sau đảo chính 19-8-1945, cụ bị Việt Minh bắt giam ở Tuyên quang, 6 tháng sau mới thả ra. Người anh cả của cụ là ông Ngô đình Khôi và con trai bị VC giết. Học giả Phạm Quỳnh cũng bị giết trong thời kỳ này. Khi công dân Vĩnh Thụy trở lại ngôi Quốc trưởng (ông đã quên hẳn câu nói:”Thà làm công dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ” ông đã nói khi thoái vị sau khi Việt Minh đảo chính). Lúc đó cụ Diệm đang ở ngoại quốc, Bảo Ðại đã mời cụ về lập chính phủ vào thời kỳ đen tối nhất của lịch sử Việt Nam.

Hiệp định Genève chia đôi đất nước, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới, nửa phía Nam cho người Quốc gia, nửa phía Bắc cho Việt Cộng (VC). Cụ đã lo cho trên 1 triệu đồng bào Bắc và Trung di cư vào miền Nam tránh nạn Cộng Sản, lo cho những người này làm lại cuộc đời, an cư lạc nghiệp sau khi đã bỏ hết tài sản lại cho Việt cộng.

Ngày 26-10 năm 1955, từ cuộc trưng cầu dân ý, toàn dân miền Nam suy tôn cụ lên làm Tổng thống, đánh dấu nền Ðệ nhất Cộng hoà Việt Nam và truất phế Bảo Đại vì nhân dân đã quá chán một ông quốc trưởng bù nhìn, chỉ lo ăn chơi phóng đãng, tai tiếng. Cụ Ngô đã dẹp Bình xuyên, Kim chung, Ðại thế giới, một loại mafia Việt nam.

Từ việc quét dọn rác rưởi do Thực dân Pháp và những nội các bù nhìn do chúng đặt ra để lại (Nguyễn văn Tâm, Trần văn Hữu...), cụ có thêm nhiều kẻ thù vì họ mất miếng mồi bở béo. Không vợ con, cụ Ngô đã dốc hết tâm trí vào việc cải tổ chính trị, quân sự, giáo dục, kinh tế miền Nam. Phải thành thực nhận xét 9 năm cụ cai trị là 9 năm dân chúng sống yên vui, no ấm, tiến bộ nhất, là thời đại hoàng kim của miền Nam Dân Chủ, Tự Do.. Ông Hồ chí Minh miền Bắc gờm cụ nên đã điều nghiên những sơ hở của miền Nam hầu giật cụ xuống khỏi quyền lực, mối lo gan ruột của ông ta và đảng CSVN.

Thời cơ đã đến, nhân vụ cờ Phật giáo miền Trung, mà cụ thiếu mềm dẻo, Cộng Sản cho người trà trộn vào hàng ngũ tăng, ni và Phật tử, lấy cớ đàn áp Phật giáo,“đánh” cụ tơi bời. Những tên CS nằm vùng như Trí Quang (1) và đồng bọn tay sai của Hà Nội tha hồ làm mưa làm gió. Lúc đó Hoa Kỳ quá ngây thơ không rõ bộ mặt thật của chúng, lại bị báo chí u mê và bọn bồ câu phản chiến Hoa Kỳ lũng đoạn tình hình nối giáo cho giặc. Tờ Times đánh bóng Trí Quang như một vị anh hùng quyền nghiêng thiên hạ, nắm giữ chìa khóa lá bài chính trị miền Nam. Times chụp hình Trí Quang đứng trước cửa chùa, nét mặt dữ dằn gian ác, làm hình bìa một số báo và tâng bốc Trí Quang lên hết cỡ. Nhiều chính khách Mỹ ngu xuẩn đã đành, dốt nát về VN đã đành, như BT Quốc Phòng Mỹ Mac Namara (sau này tự thú là ông ta chẳng biết gì về VN)) mà chính Times cũng xuẩn! Tờ Times đâu có biết chân tướng của Trí Quang, một tên CS đội lốt nhà sư trong nhiều năm, và đồng bọn. Đó là cái kém của truyền thông Hoa Kỳ mà cho tới đệ nhị Cộng hòa miền Nam, lại xuất hiện những Dan Rather, Konkrite, Jane Fonda, Joan Baez, John Kerry v.v...dối trá dư luận Hoa Kỳ và đâm sau lưng chiến sĩ Hoa kỳ và Đồng Minh đang chiến đấu một mất một còn với Cộng sản. Phải nói cho tới nay Hoa Kỳ cũng chưa rút ra được một bài học từ cuộc chiến tranh Việt Nam!

Trở lại với vụ cờ Phật giáo, cụ Diệm đã thảm bại vì lúc đó cụ đang có xung đột về chíến lược với Chính Phủ Mỹ. Người Mỹ đòi đưa quân ào ạt vào Miền Nam VN để thần tốc đè bẹp CS. Cụ không đồng ý giải pháp đó, nói với người Mỹ rằng, Mỹ chỉ nên giúp cho Miền Nam súng đạn và các cố vấn. Việc bình định nông thôn đã có Quân lực VNCH, như vậy Cộng sản không vin vào cớ gì mà bôi bác sự hiện diện của Mỹ được. Bên phía Mỹ lúc đó, những người cầm đầu Toà Ðại sứ Mỹ ở Sàigon và tại toà Bạch ốc ở Hoa thịnh Ðốn quá thiển cận về chính trị, nghĩ rằng cụ là một người khó cộng tác, một kẻ cứng đầu, không phải một kẻ bảo sao nghe vậy, hơn nữa, vì những hợp đồng của tư bản bán vũ khí đạn dược cho Bộ Quốc phòng Mỹ, không có chiến tranh, không tiêu thụ được nên cuối cùng, TT Kennedy đã ra lệnh hạ sát hai anh em cụ Diệm.

Nguyệt san Y Tế số 10 tháng 10-2003, bài của BS Xuân Sơn có giải thích sự kiện này, xin trích dẫn như sau:

“Ngày 28-2-03, thư viện của cựu Tổng thống Hoa kỳ Lyndon Johnson (LJB)tại Austin, TX đã bạch hoá một số cuộn băng dài 30 tiếng đồng hồ ghi lại lời nói của LJB vào năm 1966 khi chiến tranh Việt Nam đang ở vào thời kỳ gay go nhất và LJB đang gặp khó khăn vì sự chống đối tại Quốc hội ... Trong cuộn băng này, Johnson đã than phiền với TNS Eugene McCarthy rằng khi chính phủ Kennedy (mà Johnson làm Phó Tổng thống) dấn thân vào cuộc chiến Việt Nam thì được nhiều người ủng hộ và khi đến lượt Johnson bị gặp khó khăn thì những người này lại bỏ rơi. LJB than rằng: ”Chúng ta đã phải giết ông ta vì cho rằng ông ta tham nhũng”(He was corrupt and he ought to be killed. Do đó chúng ta đã giết ông ta. Chúng ta đã họp với nhau và dùng một bọn giết mướn đáng nguyền rủa để làm việc này- So we killed him . We all got together and got a goddam bunch of thugs and assassinated him. Vì thế tình hình Việt nam bây giờ mới nát bét như ngày hôm nay. Now we have really had no political stability in VN since then.”

Cuộn băng ghi lại rằng sau đó vài phút thì Johnson gọi điện thoại cho tướng Maxwell Taylor, tân Ðại sứ tại VN và nói rằng:”Chúng ta đã giết ông ta vì cho rằng ông ta không tốt. Vào lúc đó tôi đã can là đừng làm việc này nhưng họ không nghe lời tôi và cứ thi hành – And I just pled with them please don’t do it. But that is where it started and they knocked him off.”

Những người bênh vực cho Kennedy như ký giả Evan Thomas thì cho rằng:”Kennedy chỉ ủng hộ việc lật đổ ông Diệm chứ không hề ra lệnh giết và có lẽ cũng không tiên đoán được sự việc đã xẩy ra như vây. Một bài báo khác nói rằng TT Kennedy không được đọc điện văn giết cụ Diệm nhưng khi ông biết và gửi thêm một điện văn khác để hồi lệnh trước thì được trả lời mọi việc đã sắp xếp xong cả rồi, không hồi được nữa. Và TT Kennedy đã ân hận việc này lắm.

Ký giả Seymour Hersh trong cuốn sách”The dark side of Camelot” (những bí mật của triều đình Kennedy) viết năm 1998 rằng sau khi phỏng vấn Lucien Conein (nhân vật chính của CIA đã cho tiền và lãnh đạo cuộc đảo chánh của bọn tướng phản loạn) thì ông tin là Kennedy đã biết trước (must have known) là TT Diệm sẽ bị giết trong một cuộc đảo chánh.(Hết trích).

Việc người Mỹ thuê đám đâm thuê chém mướn - tàn dư khố xanh khố đỏ do Pháp để lại, chịu lệnh từ tên Trung Tá Lucien Conein để sẵn mấy chục ngàn đô-la ân thưởng để chúng chia nhau (số tiền được giao cho Trần văn Đôn) - giết cụ Ngô và ông Nhu, chính là tiền đề cho một tam đọan luận bắt buộc phải xẩy ra ngày thảm nhục 30-4-75 mà chính cá nhân kẻ viết bài này, lúc đó đang ở trong QĐ, tiên đoán ngay sau khi nghe tin TT Diệm bị giết. Bút Xuân có nói với một số thân hữu thân thiết rằng giết cụ Diệm thì thế nào Miền Nam cũng mất về tay CS, không sớm thì muộn. Và biến cố đã xẩy ra 12 năm sau tức đúng một giáp, một chu kì.

Juda khi xưa bán đấng Jesus Christ cho quân La mã lấy 30 đồng bạc thế nào thì ngày 2-11-63, những tên vô học, ngu dốt, du côn du kề, vong ân bội nghĩa, khố xanh khố đỏ giết cụ Ngô để lấy mấy chục ngàn đô-la của tên Lucien Conein y như thế. Juda buồn phiền đi tự tử bằng cách treo cổ lên cành cây mà còn dũng khí hơn những phường lạc chợ trôi sông này tiếng xấu muôn đời không bao giờ rửa sạch. Thà chúng tự tử chết như Juda hay tuẫn tiết ngày 30-4-75 mà phần nào còn rửa được vết nhơ.

Không một người nào có chút ít kiến thức chính trị mà không biết điều sơ đẳng là cụ Ngô mất đi thì miền Nam như ngọn đèn trước gió. Nhờ người Mỹ đổ tiền của viện trợ, nay tính lên cả mấy trăm tỉ đô-la, mà miền Nam còn đứng được 12 năm. Lẽ ra khi tên mạt tướng ngu xuẩn Dương văn Minh mới lên, y ra lệnh bỏ hết các ấp chiến lược (CS quá mừng), miền Nam đã phải rơi vào tay Cộng Sản.

Tôi là người quí mến cụ Diệm và biết rõ, ngoài cụ, miền Nam không còn ai khả dĩ đối đầu được với ông Hồ ngoài Bắc. Muốn giữ được miền Nam, muốn diệt trừ CS, người miền Nam phải bỏ tị hiềm, đoàn kết sau lưng cụ mặc dù cụ có khuyết điẻm (Nhân vô thập toàn). Mới ra trường Bộ binh Thủ Ðức được một năm, tôi đã buồn phiền rất nhiều khi cấm trại 100% từ ngày 1-11-63, nghe đài loan tin hai anh em TT Diệm đã bị hại bởi tay lũ côn đồ. Từ ngày đó, tôi đinh ninh, trước sau miền Nam cũng vào tay Cộng Sản và mọi sự đã xẩy ra. Mặc dù đang ở trong Quốc Hội (1975), tin tức quân sự và chính trị đến dồn dập, tôi không tin vào giải pháp CP Ba thành phần. Nhiều người bạn trong QH và cả ở ngoại quốc, bảo tôi chuẩn bị cho giải pháp này nhưng tôi chỉ cười mà bảo ”Các anh quá ngây thơ. Chỉ khi nào thua thì VC mới đàm. Chúng đang thắng trên nhiều mặt trận bằng cách thí quân, biển người, lại có quốc tế CS giúp đỡ hết mình, mà phía chúng ta thì người Mỹ muốn bỏ, đời nào chúng đàm để có giải pháp chính trị này kia.”

Và miền Nam đã mất về tay Cộng sản, nhiều chính khách trông đợi vào CP ba thành phần nay phải vào trại tù tập trung của CS để đền tội vì những ý tưởng huyễn hoặc sai lầm!

Ngày 5-11-03, đài truyền hình Saigon T.V. cho đọc một lá thư của bà Ngô đình Nhu gửi khán, thính giả VN nhân 40 năm anh em cụ Ngô bị thảm sát. Ðài gọi lá thư này là “Sứ điệp” và nội dung “Sứ điệp”, thật sự tôi chỉ nghe bà Nhu giảng đạo, ngoại trừ vài câu đại ý anh em cụ Diệm đã tử vì đạo, con gái trưởng của bà bị người ta âm mưu giết chứ không phải tai nạn. Thỉnh thoảng đài lại cho chiếu hình bà Nhu hồi còn trẻ trung khi xưa. “Sứ điệp” dài 20 phút để bà giảng đạo, chúng tôi không thấy đó là ý nghĩa năm thứ 40 kỷ niệm cụ Diệm và ông Nhu, ông Cẩn bị giết, chúng tôi thấy bà chưa học được sự hiểu biết và lòng khiêm nhường. Lẽ ra bà nên dành thì giờ để cám ơn các cấp trong GH Công giáo và toàn thể mọi người Việt Nam không phân biệt tôn giáo đã nhớ đến và cầu nguyện cho cụ Diệm và hai người em cụ. Trước ngày 1-11-63, bà là một trong những người làm cụ Diệm mang tiếng là “gia đình trị” và người ta ghét lây cụ. Trong bài “Công và Tội Ngô Ðình Diệm” đăng trên Nguyệt báo Ðông Phương, Seattle, WA, tuỳ viên TT, cố Ðại Úy Ðỗ Thọ, cháu ruột của kẻ bội phản Ðỗ Mậu, (nguyên văn tựa đề) có viết:” Tôi thấy ở ông bà Ngô đình Nhu, Ðức Cha Thục, cậu Cẩn, cho đến mụ Luyến gia nhân là những hình ảnh ma quái chập chờn bên con người đạo đức không biết tiền bạc, trọng lễ hơn tài.” đã đủ nói lên những đau khổ của cụ Ngô.

TẠM KẾT

Giờ này, nếu nhìn lại biến cố 1-11-63, chúng ta thấy:

a. Chính biến 1-11-1963 chính là nguyên nhân sâu xa đưa đến mất miền Nam ngày 30-4-1975. Người Mỹ đã lầm khi giết cụ Ngô, dùng một bọn văn dốt vũ dát, ăn hại đái nát, đảo chính, chỉnh lý luôn xoành xoạch nhưng không đi đến đâu.

Ngay sau 1-11-1963, Việt cộng đã tổ chức những mặt trận lớn đánh biển người mà trước kia hiếm có. Chúng tôi có nhiều điểm không đồng ý với cụ Diệm nhưng với thế nước, lòng dân, miền Nam không tìm được người thay thế cụ khả dĩ đương đầu với cáo Hồ.

b. Cụ Ngô là nhà ái quốc thanh liêm, chính trực, đạo đức và khôn ngoan nhưng cụ thiếu cái xảo quyệt của cáo Hồ, đạo đức quá nên không dám ra tay trong khi giặc Hồ và thủ hạ giết không gớm tay với chủ trương bất biến: giết lầm hơn bỏ sót.

Trong bộ “Anh hùng xạ điêu” của Kim Dung, Hồng thất công, bang chủ Cái bang, một người tốt có lòng thương dân yêu nước bảo với đệ tử Quách Tỉnh:

Đối với người tốt, mình phải công bằng. Đối với kẻ xấu mình có ăn gian một tí không sao.

Cổ nhân cũng dạy ta: “Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy.” CS là thứ bạo tàn ác độc, chúng giết nhiều triệu người không gớm tay (Cải cách Ruộng Đất, Mậu Thân, cưỡng chiếm miền Nam ...) cụ Ngô không biết giết người, không trí trá, xảo quyệt, ăn gian nói dối làm sao đối địch về phương diện ma giáo với cáo Hồ? Người trí phải có thủ đoạn, đối với nhân dân thì khôn ngoan lo cho dân, yêu dân thực lòng; đối với kẻ thù phải biết tim đen của nó và sẵn sàng kế hoạch để bảo vệ dân. Người trí mà không đủ thủ đoạn

để bọn tiểu nhân như đám khố xanh khố đỏ giết chết thì chưa được gọi là người trí trong khi đang nắm quyền lực.

c. TT Ngô đình Diệm thiếu thủ túc, tay chân thân tín. Cung nô bộc của cụ kém nên dùng tên nào, ban chức tước rốt cuộc nó cũng để tâm hãm hại.(Những tên Nguyễn văn Hinh, Mai hữu Xuân đều đã ra tay giết cụ nhưng không thành. Đỗ Mậu, Tôn thất Đính, Trần văn Đôn và nhiều tên khác chỉ là những hạng nuôi ong tay áo)

d. Cụ quá tin người, nghĩ rằng cụ đối tốt với chúng thì lẽ đâu chúng phản cụ nhưng cụ đã lầm. Chính những tên đội ơn mưa móc nhiều nhất trong triều đình nhà Ngô như Trần thiện Khiêm (y có nhúng tay vào máu gia đình họ Ngô, cùng với Dương văn Minh và nhiều tên khác), Đỗ Mậu, Tôn thất Đính Trần văn Đôn v.v... lại là những kẻ phản bội cụ đầu tiên.

đ. Điều này thật quan trọng. Cụ phải hiểu VC có cả quốc tế CS giúp đỡ người và võ khí, miền Nam chỉ có Hoa Kỳ, phải cần Hoa Kỳ để cân bằng lực lượng. Người Mỹ đòi đổ quân vào, cụ không thể từ chối phắt một cách quá cứng rắn vì làm bẽ mặt người Mỹ mà phải từng bước, khéo léo, sao cho có được sự yểm trợ hết mình của Mỹ vừa giữ được quốc thể, danh dự của mình. Như thế mới là vẹn toàn. Cụ không hiểu rằng lực lượng của miền Nam còn thô sơ, yếu kém không cách chi đối chọi với cả khối CS quốc tế đổ người và vũ khí tối tân vào, nếu không có Hoa Kỳ giúp đỡ. Cụ đã để người Mỹ hiểu lầm rằng cụ cứng đầu nhưng thực ra đôi bên chưa có sự thông cảm sâu xa.

e. Cờ Phật giáo treo ở đâu cũng được miễn là cùng với cờ quốc gia và cả đôi bên đề huề. Cụ phải bén nhạy rằng VC sẽ lợi dụng tình thế tức thời để khích động người Phật giáo rằng cụ kì thị người Phật giáo mà chỉ nâng đỡ Công giáo để gây căm thù giữa người Phật tử và Chính Phủ, gây những bế tắc cho Chính Phủ. Đúng ra Cụ phải hóa giải nó ngay và lấy được lòng kính phục của Phật tử mặc dù CS trong hàng ngũ tăng ni Phật tử quá nhiều, ngay cả trong vụ tự thiêu ngụy trá do CS giật giây của Hòa thượng Thích Quảng Đức.

Sau 9 năm chiến tranh (1945-1954) rồi sau đó một cuộc di cư vĩ đại gần 2 triệu người Việt bỏ hết của cải, ruộng vườn, nhà cửa vào Nam, dù với nền Dân chủ tự do nhưng dân trí còn quá thấp, cụ phải làm thế nào cho họ hiểu rõ được sự quan tâm của chính phủ do cụ đứng đầu là cho hết mọi người dân, không phân biệt Công giáo, Phật giáo, Nam, Trung hay Bắc bởi bọn Việt gian CS chỉ rình mò những nhược điểm ấy để đánh cụ, lôi kéo những người dân khù khờ, ngây thơ về phía chúng. Vụ cờ Phật giáo là một sai lầm chết người của chính phủ cụ mà anh em cụ không nhìn ra ngay để nó trở nên chứng ung thư giết hại cả một chế độ Từ dân, Vì dân và Cho dân.

f. Khi nghe VC, báo chí đối lập tuyên truyền để hạ uy tín cụ, cụ phải gặp riêng anh chị em trong gia đình như bà Nhu, GM Ngô đình Thục, ông Ngô đình Cẩn v.v... yêu cầu những người này giúp cụ hóa giải những tin độc hại bằng chính hành động của họ, sửa đổi nếu lỗi lầm.

g. Nước Việt Nam ta có quá nhiều oan nghiệt, tránh hùm đô hộ thì vớ phải hạm CS, tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa. Chưa biết bao giờ cháu con mới thoát ra khỏi những tiền oan nghiệp chướng ấy trừ phi toàn dân chung sức giải thể CS và xóa sạch tì vết tồi tệ sau hơn 60 năm trong chủ nghĩa Mác-xít Lê-ni-nít.

Tóm lại, cụ Ngô đình Diệm là một vị lãnh tụ tài ba, đạo đức, thương dân yêu nước khác hẳn Hồ tặc nô lệ ngoại bang, tay sai CS quốc tế và bán nước, dâng biển cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc, nhưng cụ Ngô còn một số nhược điểm cần phải có những Cố Vấn già dặn kinh nghiệm, khôn ngoan và trung kiên giúp cụ giải tỏa bế tắc. Cụ cũng cần những viên tướng có thực tài, đạo đức, trung thành với lí tưởng Cộng Hòa miền Nam chứ không phải những kẻ ăn cháo đá bát, những tên lưu manh cơ hội chủ nghĩa như đã thấy. Nhân vô thập toàn, dĩ nhiên cụ Ngô đình Diệm còn nhiều khuyết điểm mà chính cụ cũng như thuộc cấp gần cận cụ phải nhắc nhủ khéo để mọi khuyết điểm được sửa sai đúng lúc, đúng chỗ.

(TD: Có những quận, tỉnh trưởng đã lừa dối cụ về sự trù phú cấp thời của Ấp Chiến lược trong khi đó chỉ là giả tạo, nhưng căn bản ACL vẫn là chiến thuật để lọc cán bộ CS ra khỏi dân chúng, một quốc sách chính xác. Khi Dương văn Minh lên, tên tướng ngu dốt này đã bỏ ngay ACL, Việt gian CS ăn mừng).

Cụ Ngô đình Diệm mất đi, không riêng là sự mất mát lớn lao cho miền Nam VN mà cho cả nước Việt Nam. Những trông chờ từ nhân dân miền Bắc nơi cụ để giải phóng đất Bắc khỏi ách bạo tàn của CS cũng trôi theo dòng nước sau cái chết của cụ. Ngày nay, với Internet thông tin toàn cầu, dân VN thấy rõ cụ Ngô là người lãnh tụ xứng đáng còn gịặc Hồ và tập đoàn tay sai của y đã bán biển, dâng đất, biến thanh niên VN thành những tên lính Lê dương đánh thuê cho CS quốc tế, chế độ XHCN của Hồ dìm dân tộc xuống đáy vực không ngóc đầu lên được, cái họa mất nước về tay Trung Cộng đã thấy rõ mà nhân dân thì đói nghèo, dốt nát, hơn nửa triệu phụ nữ VN đi làm điếm khắp thế giới lấy tiền nuôi thân và nuôi gia đình, thanh niên thì đi làm lao nô cả triệu, thua các nước trong vùng Đông Nam Á đến vài trăm năm về kinh tế và cả chính trị, giáo dục và xã hội.

Đau đớn thay!

GS Xuân Vũ Trần Đình Ngọc

* Xin đọc thêm tiểu sử của Trí Quang, tác giả Đặng văn Nhâm, Giặc thầy chùa.

* Sau 30-4-75, CS không dùng Trí Quang mà ông ta cũng không được về chùa Ấn Quang. Người ta gặp Trí Quang đi đôi dép chiếc nọ chiếc kia, quần áo tồi tàn, lang thang ở Sàigòn.

* Sau khi viết bài này, người viết nhận được một nguồn tin là chủ chốt trong vụ thảm sát anh em TT Ngô đình Diệm là Trần thiện Khiêm, Đại tướng Thủ tướng thời TT Nguyễn văn Thiệu. Có thể cả Dương văn Minh và Trần thiện Khiêm cộng tác để giết cụ Diệm.