Sunday, May 11, 2008

Việt Cộng Vớia Đại Lễ Phật Đản

VIỆT CỘNG VỚI ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN
... VESAK 2552-2008 CỦA LHQ

Lý Đại Nguyên

Tại phiên họp thứ 54 của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ngày 15-12-1999, LHQ đã chính thức công nhận và tổ chức đại lễ Phật Đản. Ngày này còn được gọi là đại lễ Tam Hợp Vesak, nhằm kỷ niệm ngày Đức Phật đản sinh, thành đạo, niết bàn, được tổ chức chung vào một ngày trong tháng 5 dương lịch hằng năm. Đại lễ Vesak LHQ đầu tiên được long trọng cử hành vào năm 2000 tại trụ sở LHQ ở New York, với sự tham gia của các tông phái Phật giáo thuộc 34 quốc gia. Trong Thông Điệp Phật Đản 2552 - 2008 của Đức Đệ IV Tăng Thống Thích Huyền Quang đã viết: "Tám năm qua, Phật Đản không còn riêng cho Phật giáo đồ, mà trở thành Ngày Tâm Linh, Ngày Văn Hóa cho toàn thể nhân loại, theo sự công nhận của gần hai trăm quốc gia thành viên LHQ.

Sự tôn vinh đức Phật nở rộ qua những thông điệp hằng năm của LHQ nói lên điều cao cả của Phật giáo: "Thông điệp của Đức Phật là thông điệp về Hòa Bình và Từ Bi. Nhưng cũng là thông điệp của sự Tỉnh Thức, tức là quán chiếu bản thân và hành động của mình, đồng thời quán chiếu thế giới. Đây là thông điệp cho những ai quan tâm đến hướng đi và vận mệnh của loài người" (Thông điệp LHQ 2003)". "Dù với nguồn gốc, chủng tộc, văn hóa hay tín ngưỡng nào, chúng ta nên nhớ là chúng ta có một quê hương chung, đó là hành tinh trơ trọi, nhỏ bé, là nơi chúng ta gắn bó và chung sống. Nên chúng ta hãy cùng nhau góp sức đem lại lợi ích chung cho cuộc sống hòa điệu và hòa binh giữa mọi sắc dân trên địa cầu" (Thông điệp LHQ 2005). "Hơn 2500 năm qua, bậc Đạo sư Đại giác Thích Ca Mâu Ni vẫn tiếp tục làm kim chỉ nam, mang lại ý nghĩa cho hàng triệu con người trên trái đất. Hàng năm tổ chức đại lễ Phật Đản là cơ hội cho những người con Phật xác quyết niềm tin vào giáo pháp của Ngài, đồng thời phát huy tinh thần Từ Bi, Trí Tuệ và Hòa Bình mà đức Phật đã trao truyền" (Thông Điệp LHQ 2007)

Phật đản là ngày sinh của Đấng Đại Giác, Ngày Tâm Linh, Ngày Văn Hóa của toàn thể nhân loại, thế mà năm nay, nhà cầm quyền Việt cộng độc tài, đảng trị, vốn bản chất là Độc Ác, Vô Thần, Phi Văn Hóa, chuyên môn đàn áp tôn giáo, coi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất dân lập, đang nắm giềng mối truyền thống của Đạo Pháp là kẻ thù của chế độ, lại hăm hở đăng cai tổ chức Đại Lễ Vesak LHQ, thì bắt buộc mọi người phải suy nghĩ thận trọng. Thực ra sau ngày Việt Nam được Mỹ lấy tên ra khỏi danh sách CPC, rồi đưa vào WTO, thì Việt cộng đã lật mặt, xuống tay đàn áp đối lập, bách hại tôn giáo càng khốc liệt hơn trước, khiến cho Mỹ phải xấu hổ, dư luận thế giới không ngừng chỉ trích. Việt cộng phải chữa cháy, bằng cách chứng minh với thế giới là Việt Nam có tự do tôn giáo, qua việc đứng ra đăng cai tổ chức Đại Lễ Vesak LHQ. Đồng thời đề cao tổ chức Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam quốc doanh đảng lập lên tầm quốc tế, nhằm tiêu diệt Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất truyền thống dân lập, một tổ chức luôn luôn đòi Tự Do Tôn Giáo và Dân Chủ Nhân Quyền cho Việt Nam.

Để làm được việc đó, thì phương pháp tuyên truyền, nhằm hạ uy tín, hay đàn áp đối với Giáo Hội Thống Nhât dân lập từ lâu nay của Việt cộng, chỉ làm tăng thêm tư thế của Giáo Hội này trên trường quốc tế và tín nhiệm với toàn dân trong và ngoài nước, chứ không hề suy giảm. Nên Việt cộng đã dùng tới "đạo quân thứ năm", cầm đầu bởi "Nhóm Tứ Nhân Bang", gồm 2 cựu tăng sĩ, vốn thuộc thành phần lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại là các ông Trí Không và Quảng Thành để vận động thành lập Tổ Chức Về Nguồn, nhẳm dùng số đông Tăng Sĩ tại hải ngoại qua cuộc bầu cử định kỳ của giáo hội, để nắm lấy cơ cấu Giáo Hội Hải Ngoại và Văn Phòng 2 VHĐ. Còn 2 cư sĩ cầm đầu một Tổ Chức Cư Sĩ Hải Ngoại là các ông Mật Nghiêm và Quảng Phước luôn luôn tổ chức những buổi thuyết pháp cho các Tăng Sĩ Quốc Doanh trong nước thuộc thành phần "Tuyên Giáo" ra khua môi, múa mép, nhằm thu hút cảm tình của bà con Phật Tử Hải Ngoạị Làm được vậy thì ngày Đại Lễ Phật Đản do Việt cộng tồ chức, dưới danh nghĩa LHQ, chư tăng, phật tử hải ngoại có thể hàng hàng lớp lớp hớn hở đổ về Việt Nam hợp tác với Giáo Hội quốc doanh và nhà cầm quyền Việt cộng là điều phải đến. Trong khi đó, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại là hậu phương lớn cho cuộc đấu tranh Tự Do Tôn Giáo và Dân Chủ Nhân Quyền của Giáo Hội Mẹ ở quê nhà, một khi hậu phương đã đầu hàng thì tiền tuyến làm sao tồn tại nổi. Chính vì vậy mà Giáo Chỉ Số 9 của Đức Tăng Thống phải ban hành.

Thế là mục đích xóa sổ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất của Việt cộng bất thành, chúng đành phải quay sang trò khủng bố, đàn áp, làm cho dư luận thế giới tiếp tục lên án. Khiến, Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế của Hoa Kỳ, hôm 02/05/08, công bố phúc trình về tình hình tôn giáo trên toàn thế giới năm 2008, đã đề nghị Bộ Ngoại Giao Mỹ đưa Việt Nam trở lại danh sách "các quốc gia cần quan tâm đặc biệt" CPC. Theo Ủy Ban này: "Các tôn giáo trong năm rồi đã gặp nhiều khó khăn. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tiếp tục bị trù dập và bị lên án là một tổ chức chính trị. Các quyền tự do di chuyển, bầy tỏ ý kiến, hội họp vẫn bị giới hạn. Tăng ni và những người có liên hệ với GHPGVNTN bị công an thường xuyên sách nhiễu và điều tra lấy cung. 12 tu sĩ lãnh đạo của giáo hội vẫn còn bị đặt trong tình trạng quản chế". Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế của Hoa Kỳ đòi: "Hànội trả tự do cho mọi tù nhân tôn giáo như: Đại lão hòa thượng Thích Huyền Quang, Đức Tăng Thống, Đại lão hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, Linh mục Nguyễn Văn Lý, Lm Phan Văn Lợi, tín đồ các đạo Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, các sư sãi Phật Giáo Khmer và các tù nhân lương tâm như Ls Nguyễn Văn Đài, Ls Lê Thị Công Nhân". Như thế, mục đích chứng tỏ với Thế Giới rằng, Việt Nam có Tự Do Tôn Giáo, và xóa số GHPGVNTN của Việt cộng bất thành. Nên cho mãi tới ngày 25/04/08, Việt cộng vẫn không hào hứng giải ngân 30 tỷ đồng VN, góp cho ban tổ chức lễ Vesak. Còn sự đóng góp của đồng bào là con số không. Quả thật, Bọn Ma Vương cầm quyền, dù có khoác áo cà sa vần chỉ là Ma Vương. Vì Đạo Phật là Đạo Cứu Độ và Giải Thoát chứ không phải là Tôn Giáo Cầm Quyền Thống Trị.

Trong Thông Bạch Phật Đản 2552, hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng VHĐ đã nhắc: "Đức Phật Thích Ca xuất hiện không phải là mục đích ngự trị thế gian, mà chính là để cứu giúp thế gian, đưa mọi loài chúng sinh ra khỏi ngôi nhà thế gian đang bừng cháỵ Ngài dậy, ta vì đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đờị Đại sự đó, chính là khai mở trí tuệ giác ngộ giải thoát cho hết thảy sinh loại ra khỏi vùng tham ái chấp thủ". Hòa thượng cũng bày tỏ ý kiến về Lễ Vesak do Việt cộng tổ chức: "GHPGVNTN, trong hoàn cảnh đang bị Cộng San Việt Nam truy quét, bức tử, nên không tham dự, cũng không cử đại biểu tham dự, và tuyên cáo với nhà câm quyền VN, đảng Cộng Sản Việt Nam rằng: Cái gì của Phật Giáo hãy trả lại cho Phật Giáo".Nhân mùa Phật Đản năm nay, chúng ta hãy cùng nguyện cầu cho 3 Ngài: Huyển Quang, Quảng Độ, Thiện Hạnh và các vị lãnh đạo Giáo Hội Thống Nhất trong, ngoài nước, vững tay cheo lái con thuyền Giáo Hội trong cơn giông tố cộng sản. Cầu cho những người thân của chúng ta chẳng may bị lạc hướng, sớm hồi tâm, đừng để rơi vào vòng Nghị Quyết 36 của Việt cộng nhằm chia rẽ Giáo Hội Phật Giáo Hải Ngoạị Và cùng cầu cho tất cả chúng ta vững tâm bền chí đi trong ánh sáng Từ Bi, Trí Tuệ, Đại Nhẫn để đấu tranh cho Việt Nam Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền thực sự.

Lý Đại Nguyên

51 Nhân vật quốc tế đòi CSVN chấm dứt đàn áp Giáo Hội PGTN



THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 10.05.2008

Nhân dịp Phật Đản LHQ 2008 tại Hà Nội, 51 nhân vật quốc tế yêu sách CHXHCNVN chấm dứt cuộc đàn áp GHPGVNTN, trả tự do cho Đức Tăng thống Thích Huyền Quang, Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ và phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN PARIS, ngày 10.5.2008 (QUÊ MẸ) - Năm mươi mốt nhân vật quốc tế bao gồm các Nhà lãnh đạo các tôn giáo, Giải Nobel Hoà bình, Đại biểu Quốc hội Châu Âu, Quốc hội Hoa Kỳ, Thượng nghị sĩ và Dân biểu Quốc hội Ý, Pháp và Anh ký chung lời kêu gọi giới lãnh đạo Hà Nội hãy ngưng cuộc đàn áp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) và trả tự do tức khắc cho Đức Tăng thống Thích Huyền Quang, Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ nhân dịp tổ chức Đại lễ Phật Đản Tam hợp LHQ từ 13 đến 17.5 tại Hà Nội.

Trong bức thư chung gửi Chủ tịch Nguyễn Minh Triết, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng, các nhân vật quốc tế ký tên biểu thị sự quan tâm trước nghịch lý quá lớn giữa sự chuẩn bị Đại lễ Phật Đản hoành tráng và sự tái diễn gia tăng đàn áp của Hà Nội đối với Phật giáo đồ Việt Nam. “Chúng tôi cực kỳ quan ngại nghe các báo cáo gần đây về những cuộc đàn áp nghiêm trọng đối với Phật giáo, là nền tín ngưỡng mà quý ông đề cao khi hành lễ”, thư còn cho biết “Trong khi tiến hành tổ chức Phật Đản, công an cưỡng chiếm chùa viện thuộc GHPGVNTN để cho Giáo hội Nhà nước sử dụng làm lễ đài, trục xuất và sách nhiễu chư Tăng và Phật tử tại các tỉnh Lâm Đồng, Quảng Trị, Thừa thiên - Huế…”. Chỉ có Giáo hội Tăng già của Nhà nước là được quyền cử hành lễ mà thôi, trong khi đó hàng giáo phẩm lãnh đạo GHPGVNTN thì bị giam nhốt ngay trong các ngôi chùa của chư vị. Các nhân vật quốc tế kêu gọi Hà Nội trả tự do cho Đức Tăng thống Thích Huyền Quang, 88 tuổi, và Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hoá Đạo, 80 tuổi, nhị vị trải qua hơn 26 năm bị cấm cố ; phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN ; và chấm dứt mọi cuộc đàn áp đối với GHPGVNTN.

Trong số 51 chữ ký của các nhân vật quốc tế, người ta nhận thấy có : Bà Maired Maguire, Giải Nobel Hoà bình, Dân biểu Quốc hội Hoa Kỳ Frank Wolf, Giám mục Vaclav Maly, Giáo sĩ Do Thái giáo Shmuel Herfeld, các Dân biểu nổi danh Quốc hội Châu Âu Graham Watson, Marco Pannella, Edwards McMillian-Scott (Phó chủ tịch Quốc hội Châu Âu), Emma Bonino Phó chủ tịch Thượng viện Quốc hội Ý, Nina Shea, Uỷ viên Uỷ hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới, Huân tước Avebury và Huân tước Alton, Thượng viện Quốc hội Anh, Liljedahl Lynngard, Chủ tịch Uỷ ban Giải Rafto, Jennifer Windsor, Giám đốc Điều hành Freedom House, Hoa Kỳ; Giáo hội Tăng già Tứ phương, Nhật Bản, và chư Tăng lãnh đạo GHPGVNTN Hải ngoại, v.v….


Dưới đây là nguyên văn bức thư chung dịch từ bản Anh văn :

Đồng kính gửi quý Ông :

    Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch CHXHCNVN
    Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng
    Nông Đức Mạnh, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
    Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Quốc hội
Thưa quý Ông,

Từ ngày 13 đến 17.5, chính phủ quý ông cử hành Đại lễ Phật Đản LHQ tại Hà Nội. Đây phải là buổi lễ tưng bừng, ngày nhớ tưởng thông điệp bao dung và hoà bình của Đức Phật, nguồn cảm hứng cho tất cả mọi người, Phật tử hay không Phật tử, để cùng nhau cộng tác cho sự cảm thông và sống chung hoà điệu trên trái đất.

Thế nhưng chúng tôi cực kỳ quan ngại nghe các báo cáo gần đây về những cuộc đàn áp nghiêm trọng đối với Phật giáo, là nền tín ngưỡng mà quý ông đề cao khi hành lễ. Chỉ có Giáo hội Tăng già của Nhà nước, do Mặt trận Tổ quốc của Đảng Cộng sản kiểm soát, là có quyền tham dự đại lễ. Trong khi đó, giáo hội truyền thống và độc lập là GHPGVNTN tiếp tục bị cấm đoán, hàng giáo phẩm bị cấm cố ngay nơi những ngôi chùa của chư vị.

Để tiến hành tổ chức Đại lễ Phật Đản, công an đã xâm nhập cưỡng chiếm chùa chiền của GHPGVNTN biến thành lễ đài cho Giáo hội Nhà nước, trục xuất và sách nhiễu chư Tăng, Phật tử thuộc GHPGVNTN tại các tỉnh Lâm Đồng, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế. Hôm 2.5 vừa qua, Uỷ hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới đã biểu thị mối quan tâm trầm trọng về “sự sách nhiễu đáng kể của Nhà nước đối với chư Tăng Ni và Huynh trưởng Gia Đình Phật tử Việt Nam thành viên của GHPGVNTN”, kể cả việc quản chế trường kỳ Đức Tăng thống Thích Huyền Quang, 88 tuổi, và Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, 80 tuổi, nhị vị chịu cảnh tù tội trên 26 năm ròng, chỉ vì lên tiếng ôn hoà cho tự do tôn giáo, dân chủ và nhân quyền. Trầm trọng hơn là cung cách đàn hặc những tín đồ Phật giáo, Tin Lành, Công giáo, Hoà Hảo, Cao Đài và những cộng đồng tôn giáo. Uỷ hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới đề nghị đưa Việt Nam trở lại trong danh sách các quốc gia đàn áp tôn giáo cần đặc biệt quan tâm (CPC) năm 2008.

Chúng tôi đánh giá sự tiến bộ trên một số lĩnh vực mà quý ông đã thực hiện, nhưng vẫn chưa đủ. Trong tư cách thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới, thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ và đã tham gia ký kết những Công ước nhân quyền cơ bản của LHQ, Việt Nam có trách vụ tôn trọng mọi nhân quyền cơ bản của LHQ. Đặc biệt tôn trọng mẹ đẻ của tất cả các quyền tự do, là quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo.

Nhân dịp Đại lễ Phật Đản LHQ, chúng tôi kêu gọi quý ông hãy chấm dứt mọi đàn áp đối với GHPGVNTN, trả tự do cho Đức Tăng thống Thích Huyền Quang, Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ và phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN. Bằng động thái đó, quý ông sẽ tái lập ý nghĩa đích thực cho Ngày Đại lễ Phật Đản LHQ, và tôn vinh 2000 năm truyền đăng nền Phật giáo Việt Nam.

Xin quý Ông nhận nơi đây lời chào trân trọng của chúng tôi.

Đồng ký tên:

Mairead Corrigan-Maguire, người Ái Nhĩ Lan, Giải Nobel Hoà bình; Frank R. Wolf, Dân biểu Quốc hội Hoa Kỳ, Đồng chủ tịch Uỷ ban Nhân quyền Quốc hội; Giám mục Vaclav Maly, thủ đô Prague, Chủ tịch Uỷ hội Công lý và Hoà bình của Hội đồng Giám mục Tiệp; Rabbi Shmuel Herzfeld, Giáo sĩ Do Thái giáo tại Thủ đô Hoa Thịnh Đốn; Nina Shea, Giám đốc Viện Houston, Trung tâm Bảo vệ Tự do Tôn giáo, kiêm Uỷ viên Uỷ hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do tôn giáo trên Thế giới; Graham Watson, Dân biểu Quốc hội Châu Âu, Chủ tịch Liên minh Tự do Dân chủ Châu Âu; Marco Pannella, Dân biểu Quốc hội Châu Âu, đại diện nước Ý; Edward McMillan-Scott, Phó chủ tịch Quốn hội Châu Âu; Emma Bonino Phó chủ tịch Thượng viện, Quốc hội Ý; Marco Cappatto Dân biểu Quốc hội Châu Âu, Báo cáo viên Nhân quyền cho Quốc hội; Huân tước Avebury, Phó chủ tịch Uỷ ban Nhân quyền Thượng viện, Quốc hội Anh; Huân tước Alton, Giáo sư Đại học Liverpool, Anh quốc; Robert Evans, Dân biểu Quốc hội Châu Âu, đại diện Anh quốc; Józef Pinior Dân biểu Quốc hội Châu Âu; Luca Romagnoli Dân biểu Quốc hội Châu Âu; Charles Tannock Dân biểu Quốc hội Châu Âu, đại diện Anh quốc; Marco Perduca Thượng nghị sĩ Quốc hội Ý; Donatella Poretti Thượng nghị sĩ Quốc hội Ý; Roberto Della Sete, Thượng nghị sĩ Quốc hội Ý; Maurizio Turco, Dân biểu Quốc hội Ý; Matteo Meccaci, Dân biểu Quốc hội Ý; Maria Antonietta Farina Coscioni Dân biểu Quốc hội Ý; Rita Bernardini Dân biểu Quốc hội Ý; Elisabetta Zamparutti Dân biểu Quốc hội Ý; Marco Beltrandi Dân biểu Quốc hội Ý; Andrea Sarubbi Dân biểu Quốc hội Ý; Renato Farina Dân biểu Quốc hội Ý; Giovanni Fava Dân biểu Quốc hội Ý; Noel Mamère Dân biểu Quốc hội Pháp; Son Chhay Dân biểu Quốc hội Cam Bốt; Therese Jebsen, Giám đốc Điều hành Sáng hội Rafto, Na Uy; Arne Liljedahl Lynngard, Chủ tịch Uỷ ban Giải Rafto, Na Uy; Tina Lambert, Tổ chức Đoàn kết Thiên Chúa giáo toàn cầu; Julia Doxat-Purser, Liên minh Tin Lành giáo Châu Âu; Thượng toạ Katsuyuki Imoto, Giáo hội Tăng già Tứ phương, Nhật Bản; Jennifer Windsor, Giám đốc Điều hành Freedom House, Hoa Kỳ; Bob LaGamma, Giám đốc Điều hành Hội đồng Phục vụ Cộng đồng các Quốc gia Dân chủ; Kok Ksor, Chủ tịch Sáng Hội Người Thượng Tây nguyên; Văn Phòng II Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất : Chủ tịch, Đại lão Hòa thượng Thích Hộ Giác ; Tổng Thư ký, Thượng tọa Thích Viên Lý ; Tổng Thủ bổn, Sư bà Thích Nữ Nguyên Thanh ; Tổng ủy viên Nội vụ và Hoằng pháp, Hòa thượng Thích Chánh Lạc ; Tổng ủy viên Ngoại vụ, Cư sĩ Võ Văn Ái ; Tổng ủy viên Kế hoạch, Pháp sư Niên trưởng Thích Giác Đức ; Tổng ủy viên Từ thiện Xã hội, Hòa thượng Thích Trí Lãng ; Tổng ủy viên Giáo dục, Hòa thượng Thích Chơn Trí ; Tổng ủy viên Truyền thông, Thượng tọa Thích Giác Đẳng ; Tổng ủy viên Thanh niên, Thượng tọa Thích Huyền Việt ; Tổng ủy viên Tài chánh, Thượng tọa Thích Phước Nhơn ; Tổng ủy viên Đặc trách liên lạc Âu Châu, Hòa thượng Thích Trí Minh ; Tổng ủy viên Đặc trách liên lạc Canada, Hoà thượng Thích Thiện Tâm.

Còn Đâu Đât Nước Tôi

Đinh Lâm Thanh

Người Việt yêu nước, dù ở chân trời góc biển nào cũng không thể cầm được nước mắt khi thấy các tấm ảnh hoặc xem vidéo trong dịp rước đuốc thế vận ngang qua Sàigòn ngày 29.4.2008. Đây là ngày tủi nhục của dân tộc ! Cộng sản Việt Nam đã mời hàng ngàn côn đồ, du đảng đến Sàigòn kềm kẹp đàn áp những người yêu nước. Rợ Tàu nghênh ngang giữa đường phố, xử dụng võ nghệ để khống chế đánh đập đồng bào ngay trên đất nước chúng ta.

Trường hợp đảng Cộng sản tổ chức bảo vệ ngọn lửa theo tinh thần thể thao thì chẳng cần đề cập làm gì. Nhưng thực tế, chúng đã mời du đảng Tàu Cộng về áp đảo những thành phần yêu nước là một hành động phục tùng, nô lệ ngoại bang một cách trắng trợn.

Trước đây Việt Cộng đã dâng đất dâng biển cho kẻ thù nay lại mời chúng đến trừng trị dân mình là một hành động bán nước bỉ ổi, điên khùng của những những tên Cộng sản tội đồ dân tộc. Không có một đất nước nào, một chế độ nào vâng lời ngoại bang đem con dân của mình làm bia đở đạn hầu dựa hơi núp bóng để bảo vệ quyền lực! Chỉ có đảng Cộng sản "anh hùng" và "quang minh" mới đối xử tàn nhẫn với đất nước và dân tộc Việt Nam.

Xem chương trình vidéo của nhà nước (www.vietnam4all.net) cũng như hình ảnh bọn côn đồ Rợ Tàu hung hăng phất cờ, hùng hổ, la hét tự nhiên trong các đường phố Sàigòn như chốn không người đồng thời được hàng vạn công an Việt Cộng bảo vệ, đã tạo nên một làn sóng bất mãn cho toàn thể dân tộc Việt Nam. Hình ảnh nầy tố cáo tập đoàn Cộng sản "cõng rắn cắn gà nhà", không ngoài mục đích làm vừa lòng quan thầy để củng cố quyền lực của chúng. Ngoài vài ngàn du đảng đóng vai vậng động viên không biết còn bao nhiêu chuyến bay chở Rợ qua trấn áp, mang cờ, la lối và trấn áp dân Sàigòn trên các đưòng phố ?

Mới chỉ một ngày Rợ Tàu có mặt Việt Nam, người ta không thấy xuất hiện cờ máu một sao, không nghe tiếng Việt trên đường phố mà tràn ngập hình ảnh cờ "máu năm sao" với các giọng nói Quan Thoại, Quảng Đông ! Mai đây thái thú Rợ Tàu ngồi vào phủ chủ tịch thì dân Việt Nam chỉ còn "cháo trắng hột vịt muối" làm chuẩn !

Hành động nầy đã tố cáo Đất Nước, Dân Tộc và Lãnh Thổ Việt Nam đã được đảng Cộng Sản Hà Nội dân trọn cho quan thầy. Rợ Tàu xem Việt Nam là một chư hầu bé nhỏ không hơn không kém.

Chỉ mới một ngày Rợ Tàu có mặt tại Việt Nam, cờ "máu một sao" không dám xuất hiện, ngoài đường không còn nghe tiếng Việt mà Sàigòn tràn ngập hình ảnh cờ "máu năm sao" với toàn giọng nói của "chệt" ! Mai đây, một khi thái thú Rợ Tàu đã ngồi vào phủ chủ tịch thì dân Việt Nam chỉ còn "cháo trắng hột vịt muối" làm chuẩn mà thôi !

Những gì đã xảy ra trong ngày 29.4.2008 đã chứng minh cho thế giới những gì người Việt Quốc Gia hải ngoại tố cáo. Mong rằng các thành phần cò mồi đón gió, mất gốc lâu nay không tiếc lời ca tụng Cộng sản hãy mở mắt ra thất lớn. Xin đừng mơ ngủ nữa. Đã mang danh là người có học ở xứ ngoài tại sao lại ngu muội đến độ không phân biệt được đâu tà đâu chính ! Trường hợp vì một chút vật chất hay vài lời hứa hão huyền mà tiếp tay đảng Cộng sản Việt Nam dâng hết tổ quốc quê hương cho Rợ Tàu, thì đến chừng đó, những tạy Việt Cộng gộc còn bị đào thải huống gì loại cá lòng tong chẳng đáng gì ở hải ngoại.

  • Một bài học cho giới trẻ trong nước:
Tinh thần thể thao hay thói du côn của Rợ Tàu ?
Bấy lâu nay dù vẫn còn một số bạn trẻ xem nhà nước Cộng sản như một thần tượng, đem độc lập tự do cho đất nước và ấm no hạnh phúc đến tàn dân thì ngày nay ắt hẵn đã vỡ mộng. Chính ngụy quyền Hà Nội trước đây là kẻ bán nước, bây giờ ra mặt đón đoàn quân du đảng về đàn áp giới trẻ yêu nước. Chắc các bạn đã hiểu một phần nào, bây giờ tôi chỉ kết luận một câu để các bạn ghi vào lòng : Tập đoàn lãnh đạo Cộng sản chỉ lo cho đồng bọn, gia đình con cháu của chúng. Đất nước còn hay mất, vào tay ai chúng không cần biết, miễn làm thế nào còn ngồi vững trên ngai vàng chừng vài ba năm nữa, còn thu thêm tiền bạc chuyển ra ngoại quốc. Mai đây Rợ Tàu vào ngồi tại phủ chủ tịch, tập đoàn lãnh đạo Cộng sản đã trốn hết ở nước ngoài, chúng sẽ tiếp tục vinh thân phì gia đến đới con cháu. Chỉ còn lại các bạn và thành phần bị trị, với một gia tài đã rách nát nợ nần mà đòi sống còn bị lệ thuộc ngoại bang ngay trên mãnh đất quê hương của mình ! Các bạn hãy nghĩ lại xem !

  • Bài học cho Du sinh Việt Nam:
Các em du sinh Việt Nam đã thấy gì khi nhìn những bức hình chụp và vidéo quây cảnh rước đuốc tại Sàigòn ngày 29.04.2008 ? Không bóng dáng một lá cờ Đỏ Sao Vàng nào xuất hiện và ngoài đường toàn là cờ Trung Cộng và người Trung Hoa. Tại sao ? Tôi trả lời ngay cho các em : Một là Tàu Cộng không cho phép, hai là nhà nước các em sợ, không dám làm phật lòng quan thầy ! Dù lý do gì chung quy chỉ có một giải đáp : Rợ Tàu muốn cơ hội nầy để chứng tỏ cho thế giới hiểu rằng, đối với đàn anh Trung Cộng, Việt Nam không còn là một nước độc lập mà chính là thuộc địa của họ. Ngoài đường phố Sài gòn ngày 29.4.2008 chỉ có cờ và Tàu Cộng mà thôi. Đây là một màn dằn mặt với nhà nước của các em và là một cách xácđịnh chủ quyền của Việt Nam đối với thế giới bên ngoài !

Trước đây các em biểu tình chống Trung Cộng với cờ Đỏ Sao Vàng, bây giờ các em thấy sai lầm chưa ? Nhắc lại cho các em hay, ngày lễ quốc khánh vừa qua của Tàu Cộng, trên lá cờ nhóm Rợ nầy đã gắn thêm sao vàng nhỏ xem như chư hầu thú 5 của họ (Một sao lớn và Nam sao nhỏ vây chung quanh). Sao thư 5 ám chỉ Việt Nam đó các em !!!

Đất nước tôi đã vô phước rơi vào tay quỷ đỏ, 63 năm nay biết bao xương máu, mồ hôi và nước mắt đã đổ ra bởi bàn tay khát máu của đảng Cộng sản. Mãi đến giờ nầy, 80 triệu dân Việt Nam mới giật mình vùng dậy. Nhưng vừa mở mắt đứng lên tranh đấu dành lại tự do nhân quyền, no cơm ấm áo cho người dân thì khốn nạn thay, Cộng sản Việt Nam mở rộng vòng tay đón Rợ Tàu vào, chuẩn bị thêm một lần đô hộ thứ hai !

Đinh Lâm Thanh

Đánh giặc cộng bằng internet

Trần Thanh

Trong công cuộc chiến đấu chống giặc cộng hiện nay của chúng ta, internet là phương tiện hữu hiệu, tiện dụng nhất để đánh kẻ thù. Đây là vũ khí truyền thông rất đơn giản, rẻ tiền mà bất cứ người Việt nào ở hải ngoại cũng có thể dùng nó để đánh giặc. Chỉ cần lập một trang nhà cá nhân mang nội dung chống cộng hoặc viết bài chống cộng gởi đến các tờ báo điện tử trên internet. Thế thôi, chỉ tốn công mà không tốn tiền.

Bọn việt cộng sẽ điên đầu vì chúng không thể nào mướn nhiều hacker để phá hàng chục ngàn trang nhà cá nhân như vậy. Hơn nữa, nếu biết đề phòng, người lập trang nhà có thể lập ra những biện pháp an toàn về kỹ thuật thì bọn hacker việt cộng chịu chết. Và cho dầu chúng có phá được một cái "nhà" thì người ta lại xây nên dăm bảy cái khác. Toàn bộ những tội ác, xấu xa, đáng ghê tởm của bọn chúng lần lượt bị phơi bày trên internet! Một người có thể xây được hàng chục cái "nhà" trên internet, rồi hàng chục, hàng trăm ngàn cái nhà trên toàn cầu có sự thông tin liên lạc với nhau, cùng thống nhất với nhau trong mặt trận đánh cộng sản thì bọn việt gian cộng sản sẽ có nguy cơ đi chầu bác Hồ dưới âm phủ!!! Đánh địch bằng cách này cũng rất an toàn vì bọn công an việt cộng không thể nào dò tìm được danh tánh và nơi cư ngụ của những người chống cộng. Hơn nữa về mặt pháp lý, họ là công dân các nước như Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Úc, Đức ..v..v.. Bọn việt cộng không thể cử công an khơi khơi tới nhà bắt họ, dẫn độ về Việt Nam để bỏ tù vì "tội" phản động!

Vấn đề là làm sao chúng ta đưa được những bài viết chống cộng đến 80 triệu dân trong nước? Ngòi nổ và chất xúc tác chúng ta đã có rất sẵn sàng nhưng làm sao đem nó đến khối thuốc nổ khổng lồ - 80 triệu dân- để kích nổ giật sập cái chế độ cùng hung cực ác? Bọn việt cộng biết rất rõ điều nguy hiểm này cho nên bọn chúng đã ra sức ngăn chận internet "độc hại" đến với toàn dân! Sau đây chúng ta thử phân tích xem những mặt mạnh và yếu của internet hiện nay trong vai trò đánh bọn việt gian cộng sản.

Mặt mạnh:

1. Đơn giản, rẻ tiền, ai cũng làm được. Nếu hăng say, một người có thể chống cộng 24 trên 24 và chống cộng .... bốn mùa! Mùa động lạnh cắt da, vài chục độ âm cũng không thành vấn đề. Người chiến sĩ vẫn tà tà ngồi trong căn phòng ấm áp để gõ bàn phím, vừa chống cộng vừa hút thuốc, uống trà, uống cà phê! Khỏe quá đi chớ mà kết quả lại rất hữu hiệu! Không phải như đi biểu tình, vừa tốn xăng, tốn tiền ăn, phải đem theo biểu ngữ, cờ, băng rôn lỉnh kỉnh và đôi khi còn sợ bị tụi công an việt cộng chụp hình, không về Việt Nam thăm bồ nhí được! Tất nhiên, mỗi một phương cách chống cộng đều có những mặt tích cực riêng của nó.

2. Các trang nhà cá nhân trên toàn cầu có thể liên kết với nhau thành một mạng lưới chằng chịt và rất an toàn. Tất cả chỉ biết nhau qua bút hiệu hoặc nick name và bọn công an việt cộng không thể nào dò tìm danh tánh của những người chống cộng, cũng như phá hết hàng trăm ngàn trang nhà trên không gian được! Có những trang nhà cá nhân rất đông khách, ví dụ như của một tài tử xi nê nổi tiếng, số khách đến thăm, ghi sổ lưu niệm lên đến hàng triệu người! Giả sử, mỗi một trang nhà cá nhân chống cộng chỉ cần 1000 người trong nước đến xem và chúng ta có một ngàn trang nhà thì "ngòi nổ" của chúng ta có thể đến được hàng triệu thùng "thuốc súng" ở trong nước rồi! Một triệu thùng thuốc súng cùng nổ thì bảo đảm bọn việt gian cộng sản phải bị diệt vong, xác của bọn chúng phải bị văng lên tới sao Hỏa sao Kim!!!

3. Việt cộng chỉ có thể ngăn chận internet chớ không thể phá hay diệt được internet. Nhất là trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, người dân trong nước ngày càng có nhu cầu sử dụng internet. Vì vậy những bài viết chống cộng từ hải ngoại sẽ xâm nhập vào Việt Nam với mức độ ngày càng tăng chớ không giảm.

Mặt yếu:

1. Internet bị bức tường lửa của việt cộng ngăn cản làm cho nhiều người trong nước nản chí, bỏ cuộc.

2. Khoảng 70 phần trăm dân số trong nước thuộc thành phần nghèo, không có tiền mua sắm máy computer, không có internet.

3. Những tiệm cho thuê internet thường xuyên bị công an rình rập, kiểm soát gắt gao. Những người nghèo không có tiền và thời gian để đến thuê internet. Nếu có, thì chỉ đến để xem phim ... sex để giải trí hoặc "giao lưu" kết bạn bốn phương để bán dâm!

4. Những thành phần nghèo như công nhân, nông dân đa số trình độ văn hóa thấp hoặc thất học. Khi đọc những bài viết chống cộng của những tờ báo điện tử ở hải ngoại, họ không hiểu, do đó họ dễ dàng đi vô mấy tờ "báo" như Con Heo hoặc Cõi Thiên Thai để coi hình sex cho thoải mái tâm hồn!

5. Nghèo thường gắn liền với cái eo. Công nhân, nông dân người nào cũng phải cày một ngày từ 10 đến 12 tiếng, một tuần phải làm 6, 7 ngày. Khi lết về được đến nhà thì họ lăn quay ra ngủ để chuẩn bị cho ngày mai đi bán sức lao động tiếp. Do đó internet đối với họ vẫn là một cái gì xa vời lắm!

6. Một số bài viết chống cộng ở hải ngoại thường viết với nội dung quá chuyên biệt, dùng nhiều thuật ngữ, khó hiểu đối với ngay cả giới học sinh, sinh viên trong nước.

PHẦN ĐỀ NGHỊ:

Qua những phân tích sơ bộ, chúng ta thấy những khó khăn nhiều gấp đôi thuận lợi. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta nản lòng, không làm. Tên tổ sư của cộng sản là Kác Mác đã nói rằng: tư tưởng khi xâm nhập vào quần chúng thì sẽ biến thành sức mạnh vật chất. Đại khái diễn nôm na, sự tuyên tuyền chính trị nếu đến được với nhiều người dân, làm cho họ thông hiểu thì họ sẽ đồng loạt nổi dậy, chặt phá gông xiềng! Không thể chấp nhận được ở Việt Nam hiện nay 70% dân số là thành phần nghèo, chạy ăn từng bữa toát mồ hôi, ở nhiều địa phương vẫn có người chết đói thì bọn khốn kiếp đảng viên cộng sản đang sống trên núi tiền rừng bạc bể. Mới đây, theo tin báo chí, tên việt cộng Đoàn Nguyên Đức ở trong nước đã dám bỏ ra BẢY TRIỆU đô la để mua một chiếc máy bay riêng, đó là chưa tính thuế nhập cảng trên 100%! Còn tên việt gian Bạch Diệp thì dám mua một chiếc xe Roll-Royce giá 1,4 triệu đô la chưa tính thuế! Sắp tới, có lẽ bọn chó đẻ này mua luôn cả phi thuyền để đi du lịch cung trăng? Tại sao 85 triệu người phải nhịn đói, chết đói để nuôi những thằng ăn cướp như vậy? Tội của bọn chúng là TỘI ĂN CƯỚP CHỚ KHÔNG PHẢI LÀ ĂN CẮP NHƯ ÔNG BÙI TÍN ĐÃ NHẬN XÉT TRONG BÀI VIẾT NHÂN NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 2008. Ông ta mới viết như vậy mà trên diễn đàn VietLand đã có người cảm động quá, khen là ông ta đã biết "hối hận" và người này vội post một bó hoa hồng để gởi tặng ông Bùi Tín!!! Trong phạm vi bài nay, tôi xin mạn phép đề nghị một vài điều:

1. Các tờ báo điện tử trên internet trong và ngoài nước cùng lập trường chính trị nên liên kết lại. Nếu có một bài viết hay và hữu ích thì cùng nhau phổ biến và đăng đi đăng lại nhiều lần. Mục đích chính là chúng ta tạo cơ hội cho những người dân trong nước đọc được những bài viết đó.

2. Kêu gọi những người có khả năng viết bài, sáng tác nhạc, vẽ hí họa, sưu tầm chuyện lạ bốn phương, cộng tác với các tờ báo chống cộng.

3. Không nhất thiết lúc nào cũng đăng những bài chính trị mà có thể có xen kẽ nhiều mục giải trí khác để cho người đọc đỡ nhàm chán.

4. Nên dành ra những mục đặt tên là "Viết cho người dân trong nước", "Viết cho anh Hai Lúa", "Viết cho học sinh, sinh viên trong nước", "Viết cho giới công an, bộ đội trong nước" ..v..v.. Những bài viết này nên ngắn gọn, dùng chữ thật đơn giản dễ hiểu để một người dù có trình độ rất thấp cũng có thể hiểu được. Cuộc các mạng Pháp năm 1789 có tên gọi là "Cuộc cách mạng bánh mì" Lý do là khi Napoleon kêu gọi những người nông dân tham gia cách mạng lật đổ chế độ phong kiến thì ông ta chỉ nói đơn giản rằng:- Đây là cuộc cách mạng BÁNH MÌ. Ai theo tôi thì sẽ có bánh mì ăn! Ông ta không hề nói đến các khái niệm như "hiến pháp, hành pháp, lập pháp, tư pháp, khế ước xã hội" Người nông dân chỉ cần nghe hai chữ BÁNH MÌ là họ hiểu ngay và hưởng ứng ngay lập tức!

KẾT LUẬN:

Đấu tranh bằng internet là đơn giản nhất và cũng chẳng cần xin phép bọn chó chết việt gian cộng sản. Ông Nguyễn Vũ Bình, khi trả lời cuộc phỏng vấn của phóng viên VietNam Exodus, đã cho rằng tự do báo chí là một trong những điểm đột phá và ông đã NỘP ĐƠN ĐỂ XIN PHÉP ĐƯỢC RA MỘT TỜ BÁO TƯ NHÂN!

Đó là chuyện tề thiên, chuyện hài hước, hoang đường không bao giờ có. Trước đây việt cộng nó đã từng dùng báo chí để đánh phá và góp phần làm sụp đổ chế độ Việt Nam Cộng Hòa, tụi nó rành sáu câu rồi! Nếu có giỏi thì toàn dân nổi dậy lật đổ tụi nó, còn không thì muôn đời phải chịu làm nô lệ, đọc 600 tờ BÁO ĐẢNG! Nếu nó cho phép tư nhân trong nước ra báo thì chắc chắn trong vòng một năm là chế độ hung ác của chúng phải bị sụp đổ. Không những bọn chúng kiểm soát rất chặt 600 tờ báo trong nước mà tụi nó còn bóp cổ luôn mấy tờ báo lớn ở hải ngoại, biến những tờ báo "chống cộng" này thành những quả dưa hấu, nghĩa là chỉ có cái vỏ bên ngoài là "chống cộng" thôi, còn bên trong thì đã đỏ lòm màu bác và đảng!!!

Còn hai phương tiện đấu tranh khác hết sức quan trọng đó là truyền thông và truyền hình nhưng chúng ta không thể thực hiện được. Cái khó nó bó cái khôn. Một điều hết sức quan trọng là đòi thì cứ đòi, xin-cho thì cứ xin-cho để gây rối trí kẻ thù nhưng chúng ta không phải ngồi đó mà chờ. Đấu tranh chính trị với việt cộng mà cứ ngồi đó để CHỜ NÓ CHO PHÉP LÀM CÁI GÌ ĐÓ thì chẳng thà đừng đấu tranh, phí thời giờ vô ích!

Hiện nay những bài viết chống cộng tại hải ngoại đến được những người đọc trong nước còn rất ít. Không có con số thống kê nhưng chúng ta có thể dự đoán chưa tới một phần trăm dân số. Càng nhiều người biết về tội ác của cộng sản thì càng tốt và phải có truyền thông dẫn dắt người dân cần phải làm cái gì để tự giải phóng mình thoát khỏi ách nô lệ. Tôi có một người quen về Việt Nam chơi ba tuần lễ. Nhà người này ở khu Khánh Hội, Sài Gòn. Khi người này trở về Mỹ tôi hỏi có biết vụ cả trăm người dân oan đi biểu tình ở nhà thờ Đức Bà không? Người này hoàn toàn không hề hay biết gì hết, mặc dù sự kiện biểu tình của dân oan kéo dài cả tuần lễ trùng vào dịp ông ta đang ở tại Sài Gòn! Bọn việt cộng nó bưng bít, nó không đưa tin lên đài truyền thanh, truyền hình thì lấy gì người dân biết những điều bất lợi cho chúng nó! Như vậy, ta thấy vai trò của truyền thông rất là quan trọng. Có khi một sự việc xảy ra chỉ cách nơi ta ở một vài khu phố mà chúng ta cũng không biết. Và chúng ta có thể mạnh dạn rút ra một kết luận: trong đấu tranh, bên nào nắm được ưu thế về truyền thông, bên đó sẽ có nhiều cơ may chiến thắng.

ƯU TIÊN LÀ PHẢI CHIẾM THẾ THƯỢNG PHONG VỀ TRUYỀN THÔNG INTERNET chớ không phải dồn mọi công sức để đòi được đa nguyên, đa đảng hay đòi hủy bỏ điều 4 hiến pháp.

Chúng ta phải xắn tay áo và HÀNH ĐỘNG ngay, làm tất cả những gì có thể làm được, đang có sẵn trong tầm tay của mọi người. Không thể ngồi đó mà chờ. Vì chờ thì tất cả chúng ta sẽ hóa đá trong khi đó thì Việt Nam sẽ bị đổi tên thành Tây Tạng Á Châu!

Trần Thanh
Ngày 11 tháng 5 năm 2008

Saturday, May 10, 2008

Hồ Chí Minh & đảng Việt gian CSVN

Tai hoạ lớn nhất cho nhân dân VN ! Kẻ thù lớn nhất của dân tộc VN !

LS. Nguyễn Văn Chức

Đêm nay, tóc bạc và xa quê hương, tôi viết tập sách nhỏ bé này, để lột mặt nạ Hồ Chí Minh và đảng CSVN của y. Đồng thời nói lên chính nghĩa đấu tranh của dân tộc Việt Nam, trước đây cũng như bây giờ.

Tôi viết tặng những thế hệ mai sau. Và tri ân thầy mẹ tôi : Phêrô Nguyễn Thiều Quang, Maria Nguyễn Thị Sinh. Sách vở về Hồ Chí Minh có nhiều lắm. Do Việt Cộng viết. Dốt nát, bịp bợm, và làm trò hề.

Một số học giả ngoại quốc cũng viết, nhưng hầu hết viết sai, viết gian, và đầy mặc cảm.

Dưới đây là tiểu sử Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam, do tôi viết. Ngắn, và dựa trên tài liệu, sự việc.



Chương Một

Nguyễn Sinh Cung ; Thời Thơ Ấu & Niên Thiếu ; Đói Khổ, Thất Học
Hồ Chí Minh sinh năm nào ? Sử sách Việt Cộng viết: 1890.
Hồ Chí Minh sinh ngày nào ? Sử sách Việt Cộng viết: ngày 19/05.

Chúng ta hãy nghe:

“Tháng 05/1941, Hồ Chí Minh chủ trì Hội Nghị Trung Ương đảng CS Đông Dương lần thứ Tám. Theo quyết định của hội nghị này, thì ngày 19/05/1941 Mặt Trận Việt Minh chính thức được thành lập. Như vậy là ngày sinh và tháng sinh của Chủ Tịch Hồ Chí Minh trùng với ngày thành lập của Mặt Trận Việt Minh”. (Hồ Chí Minh, Giải Phóng Dân Tộc Và Đổi Mới. Nxb Hà Nội,1977, trang 40).

Đúng là logic Việt Cộng. Thứ logic đồng hóa bệnh ỉa chảy với cái lỗ đít.

Rất may, lịch sử còn đó.

Ngày 06/03/1946, Hồ Chí Minh ký Hiệp Ước Sơ Bộ, chấp nhận cho Pháp mang quân ra đóng ở Bắc Việt.

Chủ Nhật 19/05/1946 Đô Đốc D’Argenlieu của Pháp đến Hà Nội. D’Argenlieu đã được đón rước cực kỳ long trọng. Hà Nội hôm đó tràn ngập cờ đỏ sao vàng.

Tại sao Hà Nội lại treo cờ đỏ sao vàng để đón rước giặc Pháp ? Xin thưa: Hà Nội treo cờ đỏ sao vàng không phải để đón rước giặc Pháp, mà để mừng sinh nhật của Bác. Bởi vì: trước đó hai ngày, ngày 17/05, đài phát thanh Hà Nội đã chính thức công bố ngày 19/05 là sinh nhật của Bác, đồng thời kêu gọi dân chúng hãy treo cờ trong ba ngày (từ ngày 17 đến ngày 20), để mừng sinh nhật của Bác.

Bác đây là Hồ Chí Minh.

Nói tóm lại, ngày 19/05 là ngày Hồ Chí Minh rước giặc Pháp vào Hà Nội. Và để lừa bịp dân chúng cũng như giữ thể diện cho đảng và nhà nước, Việt Cộng đã phải tuyên bố ngày 19/05 là sinh nhật của Hồ Chí Minh.

Như vậy: 19/05 là ngày sinh của Hồ chí Minh, chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Chứ không phải ngày sinh của Nguyễn Sinh Cung, con ông Nguyễn Sinh Sắc và bà Hoàng thị Loan.

Xuân Diệu đã viết bài thơ ghi nhớ ngày sinh của Hồ chí Minh :

Hôm nay Mười Chín tháng Năm
Lòng con vui sướng reo trăm tiếng cười
Lỗi lầm đã nói được vơi
Hồn như mở rộng dưới trời Chí Minh
Ngày sinh nhật Bác quang vinh
Là ngày sinh nhật hồn xanh muôn người

*
Hồ Chí Minh sinh tại đâu ?

Về điểm này, sách vở Việt Cộng đều viết : tại thôn Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, Trung Kỳ. Tố Hữu đã viết :

“Nhất vui là thôn Kim Liên
Cảnh tiên có cảnh, nguời tiên có Người”.

Người viết chữ hoa, là Hồ Chí Minh.
*
Ông bà Sắc có mấy người con ?

Thưa: có bốn nguời con. Người con cả là Nguyễn Thị Thanh, người con thứ là Nguyễn Sinh Khiêm. Nguyễn Sinh Cung (tức Hồ Chí Minh sau này) là người con thứ ba.

Còn người con thứ tư ?

Sách vở Việt Cộng viết: người con thứ tư này tên là Nguyễn Sinh Xin.

Tại sao ông bà Sắc lại đặt tên con là Xin ? Chúng ta hãy nghe :

“... bà Hoàng Thi Loan sinh thêm người con thứ tư. Sinh trong cảnh túng quẫn, phải nhờ bà con lao động láng diềng giúp đỡ, bà Loan lấy cảnh ngộ ấy đặt tên cho con là Nguyễn Sinh Xin” (Những Người Thân Trong Gia Đình Bác Hồ, Nxb Nghệ An 1995, tr. 18).

Quyển “Việt Nam Đẹp Nhất Có Tên Bác Hồ”, (Nxb.Trẻ, 161B Lý Chính Thắng, Quận 3, Sài Gòn, tr. 21) và cả trăm sách vở Việt Cộng đều viết về đứa bé tên Xin này. Đặc biệt, quyển “Tư Tưởng Hồ Chí Minh Và Con Đường Cách Mạng Việt Nam” (Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội 1997), của Võ Nguyên Giáp cũng viết về đứa bé tên Xin này. Viết rằng : “Đó là nỗi khổ đau của Người phải bế em đi xin sữa” (sđd, tr. 230).

Người đây là Hồ Chí Minh.

Đứa bé tên Xin này – đứa bé mà Nguyễn Sinh Cung đã phải lê lết bế đi hàng xóm xin sữa thừa xin gạo thừa, xin cám thừa, xin cơm thừa, xin cháo thừa, xin khoai thừa, xin sắn thừa, xin ngô thừa để bú mớm – đã chết yểu.

Sự kiện nói trên xác nhận một thực tế : Hồ Chí Minh đã sinh ra trong một gia đình hạ cấp đói rách. Thực tế ấy suốt đời ám ảnh y.
Sau khi vợ chết, ông Sắc đổi tên hai người con trai thành những tên đầy hứa hẹn. Nguyễn Sinh Khiêm đổi là Nguyễn Tất Đạt, Nguyễn Sinh Cung đổi là Nguyễn Tất Thành.
*
Hồ Chí Minh có bao nhiêu bí danh và bút hiệu ? Sách vở VC và sách vở ngoại quốc kê khai khoảng hơn 30 bí danh và bút hiệu. Chưa kể bút hiệu Trần Dân Tiên, tác giả quyển “Những Mẩu Chuyện Về Hồ Chí Minh”, trong đó chính Hồ Chí Minh ca tụng Hồ Chí Minh.

Trần Dân Tiên nghe hao hao như Tôn Dật Tiên. Chế Lan Viên đã viết :

“Bác sinh ra làm người hiền
Dân Tiên cùng với Dật Tiên một vần”.

*
Tôi sẽ thiếu sót, nếu không nói thêm về ông Nguyễn Sinh Sắc, bố của Nguyễn sinh Cung, tức bố của Hồ Chí Minh.

Mãi cho đến năm 1990, tất cả tài liệu VC đều ca một luận điệu : thân sinh của Bác, cụ Nguyễn Sinh Sắc, là một vị quan thanh liêm của triều đình Huế. Vì chống thực dân Pháp, cụ đã treo ấn từ quan về sống với dân nghèo.

Sự thật không phải thế. Sự thật là : Nguyễn Sinh Sắc – một thư lại của Bộ Lễ – đã bị án “truyền nọc đánh trăm trượng trước công đường” vì tội ăn hối lộ. Vì biết hèn hạ lậy lục, Nguyễn Sinh Sắc đã không bị nọc đánh trăm roi, mà chỉ bị cách chức đuổi về làng.
Việt Cộng đã tìm mọi cách phi tang vụ này. Nhưng tài liệu còn đó :

“Ngày 19/05/1910, Hội Đồng Nhiếp Chánh làm xong bản án số 140. Ngày 27/08/1910, bản án mang số 140 được duyệt y, Nguyễn Sinh Sắc bị kết án nọc ra đánh 100 trượng, rồi sau đổi thành giáng cấp 4 chức và bị triệt hồi” (Trần Minh Siêu, Những Người Thân Trong Gia Đình Bác Hồ, Nxb Trẻ, 161 B Lý Chánh Thắng, quận 3, Sài Gòn, 1996, trang 41).

Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa. Vụ Nguyễn Sinh Sắc được loan truyền khắp nơi, cả Nghệ An không ai là không biết.

Riêng Nguyễn Sinh Cung, tức Hồ Chí Minh, suốt đời không quên vụ của bố, cũng như không quên cảnh nghèo đói của gia đình, với đứa em tên Xin.

Chương Hai

Đói, Phải Đi Kiếm Ăn; Cực Khổ, Và Không Tương Lai, Nạp Đơn Xin Học Trường Thuộc Địa

Ngày 05/06/1911, Nguyễn Tất Thành (lúc đó 20 tuổi ) xin được một chân phụ bếp trên chiếc tầu buôn của hãng Chargeurs Réunis Amiral Latouche Tréville.

Theo quyển “Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Bác Hồ”, do Trần Dân Tiên (tức Hồ Chí Minh) viết ca tụng Hồ Chí Minh, thì Bác, lúc đó tên là Ba, “làm đủ mọi việc, từ rửa chén đĩa, đến nhặt rau mổ cá, chặt thịt, đến bày bàn, bưng bê các món ăn, rót rượu ...”

Và, tất cả kho tàng sử liệu Việt Cộng đều viết: “Bác đi tìm đường cứu nước”.

Sự thực không phải thế. Bác không đi tìm đường cứu nưóc, mà tìm đường cứu đói cho đời bác.

Lúc đó gia cảnh Nguyễn Tất Thành vô cùng quẫn bách. Bố thì bị đuổi việc. Nguyễn Tất Thành thì mồ côi mẹ, đói khổ và thất học. Hai mươi tuổi mà không có được cái bằng tiểu học “primaire”, cái bằng mà thời ấy nhiều học sinh VN đã có, lúc chưa đầy 12 tuổi.

Cho nên, vụ Nguyễn Tất Thành đi làm bồi trên tầu Amiral La Touche Tréville của Pháp phải được hiểu là đi tìm kế sinh nhai, đồng thời thực hiện giấc mơ mà giai cấp nghèo mạt thời đó hằng ấp ủ. Được đi Pháp, được sống ở Pháp một thời gian, rồi về nước, biết nói tiếng Tây, dù là tiếng Tây bồi. Cái gì, chứ kiếm một chân thông ngôn hay thông phán thì không khó.

Đó chính là chí lớn và quyết tâm của Nguyễn Tất Thành khi bỏ nước ra đi. Đứa em tên Xin ám ảnh y. Vụ của bố ám ảnh y. Cho nên, y phải vươn lên cho bằng được. Vươn lên bằng cách đi Pháp. Đi Pháp với bất cứ giá nào. Điều này, sách vở Việt Cộng cũng đã viết :

“Khi đã có chí, đã quyết tâm, mọi khó khăn đều có thể vượt qua, mà nhất định phải vượt được. Phải sang tới Pháp. Quyết không vì một sơ sểnh nào mà bị đuổi lên một bến bờ không định trước. Mục tiêu là nước Pháp kia” (Thy Ngọc, Việt Nam Đẹp Nhất Có Tên Bác Hồ, Nxb Trẻ, Hà Nội 1997, trang 48).

Đó chính là giấc mơ của Nguyễn Tất Thành, lúc đóù 20 tuổi, thất học và con nhà nghèo. Giấc mơ được đi Pháp, được học trường Pháp, rồi về nước làm quan cho Pháp. Đứa em tên Xin ám ảnh y. Vụï của bố ám ảnh y.

Nhưng, Việt Cộng thì viết khác.

Mãi cho đến cuối năm 1982, tất cả sách vở Việt Cộng đều ca một luận điệu : vì căm thù thực dân Pháp, và vì quyết tâm đi theo tiếng gọi của non sông, Bác đã bỏ con đường học vấn, bôn ba tìm đuờng cứu nước.

Trong cuốn Hồ Chủ Tịch, Trường Chinh còn khẳng định : “vì Người phát giác trường học của Pháp chỉ nhằm đào tạo tay sai cho đế quốc, cho nên Người đã bỏ ra đi tìm đường cứu nước”.

Võ Nguyên Giáp cũng viết thế. Phạm Văn Đồng viết thế. Tố Hữu viết thế. Tất cả văn nô Việt Cộng từ trên xuống dưới đều viết thế.

Chúng nó đã bị Người lừa.Người đây, là Hồ Chí Minh.

Sự thật là: sau một thời gian làm bồi tầu, Nguyễn Tất Thành lâm vào cảnh cực kỳ quẫn bách, và gần như tuyệt vọng. Chẳng lẽ suốt đời làm bồi tầu, bị bạc đãi, bị chửi bới và không tương lai. Đứa em tên Xin ám ảnh y. Vụ của bố ám ảnh y.

Y bèn nạp đơn xin vào học Trường Thuộc Địa (Ecole Coloniale) của Pháp.

Vụ này, y giấu tất cả mọi người. Giấu cả bọn Trường Chinh, Hoàng Văn Hoan, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn ...
Mãi cho đến năm 1983.

Năm 1983, một học giả Người Quốc Gia VN (tiến sĩ Nguyển Thế Anh) tìm thấy tại Thư Khố Đông Dương ở Aix En Provence bên Pháp một tài liệu vô cùng quý giá : lá đơn viết tay của Nguyễn Tất Thành xin vào học trường thuộc điạ của Pháp. Lá đơn đề ngày 15/09/1911.

Marseille le 15 Septembre 1911

Monsieur le Président de la République
J’ai l’honneur de solliciter de votre haute bienveillance la faveur d’être admis à suivre les cours de l’Ecole Coloniale comme interne.
Je suis actuellement employé à la Compagnie des Chargeurs Réunis “Amiral Latouche Trévile” pour ma substance.Je suis entièrement dénué de ressources et avide de m’instruire. Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des bienfaits de l’Instruction.
Je suis originaire de la province de Nghê An, en Annam.
En attendant une réponse que j’espère favorable, agréez, Monsieur Le Président, l’assurance de ma reconnaissance anticipée.
Nguyễn Tất Thành, né à Vinh en 1892, fils de Mr. Nguyễn Sinh Huy (sous docteur ès- lettres). Etudiant Francais, quốc ngư, caractère chinois.

Lá đơn nổ như một trái bom. Đảng CSVN nhìn nhau, ngơ ngác. Họ đã bị Bác lừa.

Bác đây là Hồ Chí Minh. Dưới đây tôi xin tạm dịch ra tiếng Việt :

Marseille ngày 15 tháng 9, 1911

Kính gửi Tổng Thống Cộng Hoà Pháp
Tôi hân hạnh thỉnh cầu Ngài vui lòng cho tôi đặc ân được vào theo học Trường Thuộc Điạ với tư cách nội trú.
Hiện nay, tôi làm công cho hãng Chargeurs Réunis Amiral Latouche Tréville để sinh sống.
Tôi hoàn toàn túng quẫn và ham muốn được học hành. Tôi ước ao trở nên hữu ích cho nước Pháp trong tương quan đối với đồng bào tôi, đồng thời có thể giúp đồng bào tôi hưởng những lợi ích của học vấn.
Tôi sinh đẻ tại Nghệ An, Trung Kỳ.
Trong khi chờ đợi một sự trả lời mà tôi hy vọng là thuận lợi cho tôi, Tổng Thống hãy nhận nơi đây lòng biết ơn trước của tôi.
Nguyễn Tất Thành,
sinh tại Vinh năm 1892, con trai ông Nguyễn Sinh Huy (phó bảng văn chương), học tiếng Pháp, quốc ngữ và chữ Nho.


Có nhiều điểm đáng nói.

Điểm 1: Tiếng Pháp trong lá đơn xin học của Nguyễn Tất Thành quá kém.

Điểm này cần được nêu ra, để chứng minh một sự thực vô cùng quan trọng : những tài liệu viết bằng tiếng Pháp ký tên Le Patriot hay Nguyen Le Patriot tại Paris sau này, như “Mêmorandum Des Reven-dications du Peuple Annamite”, “Le Paria”, “Le Procès Contre La Colonisation Francaise”, v. v. đã không do Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ Chí Minh) viết, mà do nguời khác viết.

Điểm 2: Trong đơn, Nguyễn Tất Thành xin được làm học sinh nội trú, nghĩa là được ăn ở ngay trong trường.

Nguời ta thấy: Nguyễn Tất Thành nạp dơn xin vào học nội trú, là để đỡ đói rét, ngoài giấc mơ sau này được làm quan cho Tây. Đứa em tên Xin ám ảnh y. Vụ của bố ám ảnh y.

Điểm 3 : Trong đơn xin học, Nguyễn Tất Thành khai y sinh năm 1892. Y khai gian. Sự thực, y sinh năm 1890.

Điểm 4 : Trong đơn xin học, y khai đã học tiếng Pháp, quốc ngữ và chữ nho. Chỉ có vậy.

Nói tóm lại: Nguyễn Tất Thành nạp đơn xin vào học nội trú Trường Thuộc Đia Pháp, là để có chỗ ăn chỗ ở, đỡ đói rét, và để sau này được về làm quan cho Tây. Đứa em tên Xin ám ảnh y. Vụ của bố ám ảnh y. Nhưng đơn của y đã bị bác.

Lời Bàn Mao Tôn Cương Rất Sáng Suốt Của Cụ Víp KK, Chánh Án Tư Quốc Tế Pháp Viện Đình Tân Kiểng Cạnh Đống Rác Đường Trần Hưng Đạo Sàigòn Ngày Xưa.

Lời bàn 1: Nguyễn Tất Thành, tức Hồ Chí Minh, vì đói rách và không tương lai, đã nạp đơn xin học nội trú trường thuộc điạ của Pháp và đơn đã bị bác. Vụ này, y giấu tất cả mọi người. Bọn Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng không biết, cho nên cứ mồm loa mép giải rằng : vì ghét cái học của Pháp, Bác đã bỏ học, đi tìm đường cứu nước.

Lời bàn 2: Tất cả sách vở của đảng đều viết rằng hồi nhỏ Bác đã từng học trường Quốc Học Huế và từng dậy học tại trường Dục Thanh, Phan Rang. Đây là những thành tích văn hóa tốt. Nếu có thật, Nguyễn Tất Thành đã không dại gì mà không kê khai trong lá đơn xin học. Nhưng, trong đơn xin học, y chỉ dám khai là đã “học tiếng Pháp, quốc ngữ và chữ nho”. Y không dám khai gian, vì sợ người Pháp cóù hồ sơ của trường Quốc Học Huế và trường Dục Thanh.

Cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười của Đảng CSVN, tức Nguyễn Cống ngày xưa làm nghề hoạn lợn từng bị người ta vác dao rượt vì hoạn chết lợn của người ta, rất hoan nghênh những nhận định rất sáng suốt của cụ VIPKK.

Cựu Tổng bí thư Đỗ Mười còn nói: tất cả đảng CSVN bọn tôi, đứa nhớn đứa nhỏ, nhất là những đứa đã vào được Chính Trị Bộ, đều gian manh bịp bợm. Nhưng, so với Bác Hồ, bọn tôi còn kém xa.

Về vụ án cụ Nguyễn Sinh Sắc, cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười cho biết: vụ đó có thiệt. Sở dĩ Trần Minh Siêu có được tài liệu và dám in trong cuốn “Những Người Thân Trong Gia Đình Bác Hồ” là do sự bảo trợ ngầm của Võ Văn Kiệt, lúc đó đứng thứ 3 trong chính trị bộ.

Vẫn theo Cựu tổng bí thư Đỗ Mười, thì tài liệu ấy đã do bọn phản đảng miền Nam (Bẩy Trấn, Trần Văn Giầu và Nguyễn Hộ) ngầm phổ biến trong cuộc hội thảo của “Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ Sài Gòn”. Cuộc hội thảo này đã diễn ra ngày 07/01/1990, tại Nhà Văn Hoá Lao Động Sài Gòn, tức trụ sở quốc hội cũ thời Mỹ Nguỵ. Cuộc hội thảo ấy mang tên :

“Công Cuộc Cải Tổ, Cải Cách, Đổi Mới Ở Các Nước Xã Hội Chủ Nghĩa Anh Em Và Ở Việt Nam”. Diễn văn khai mạc là của Trần Văn Giầu. Diễn văn bế mạc là của Nguyễn Hộ.

Vẫn theo cựu tổng bí thư Đỗ Mười, thì cuốn sách của Trần Minh Siêu đã in xong và phân tán trong một đêm tại Hà-nội, dưới sự bảo trợ ngầm của phe cánh Võ Văn Kiệt. Sau đó, nhà nước đã cho cán bộ đi tịch thu, nhưng không kịp. Trong Nam cũng như ngoài Bắc, bọn phản động chuyền tay nhau in lén ra hàng trăm ngàn cuốn và bán chợ đen rất chạy.

Chương Ba

Lại đi kiếm ăn ; Đánh Cắp Danh Xưng Nguyễn Ái Quốc.

Sau khi đơn xin vào học Trường Thuộc Điạ bị bác, Nguyễn Tất Thành vô cùng chán nản.Tài liệu của đảng viết: “Bác lại đi tìm đường cứu nước”.Bác lại đi làm bồi tầu.

Vì phải làm việc quá nặng nhọc, Nguyễn Tất Thành mắc bệnh ho lao, sức khỏe trở nên suy nhược, và bị đuổi khỏi hãng.

Y về sống tại Anh, số 10 Orchard Place, Southampton, England. Tại đây, y làm đủ nghề: quét tuyết, bồi khách sạn, bồi ổ điếm, rửa phim ảnh; đời sống cô đơn và cơ cực. Vì vậy y quyết định rời Luân Đôn để về sống ở Paris.

Y viết thư cho cụ Phan Chu Trinh lúc đó ở Paris. Trong thư, y gọi cụ Phan là Hy Bá Nghi Mã Đại Nhơn, và xưng cháu. “Cháu muốn biết như cháu có thể gặp Bác trước lúc Bác đi hay không và cháu rất cần một lời ...” . Bức thư này do y viết tay, hiện lưu trữ tại thư khố Luân Đôn.

Năm Đinh Tỵ (1917), y rời Luân Đôn, về định cư tại Paris, làm nghề thợ ảnh, đời sống vẫn cơ cực và không tương lai.

Lúc đó, Paris có đông người Việt Nam lưu vong, và là trung tâm của nhiều tổ chức chính trị Pháp thiên tả, đặc biệt Đảng Xã Hội Pháp SFIO (Section Francaise de l’Internationale Ouvrière), một chi nhánh của Đệ Nhị Quốc Tế.

Lúc đó, phong trào Việt Nam chống Pháp dành độc lập lan rộng. Hai nhóm chính được sử sách ghi nhận. Một nhóm, do cụ Phan Chu Trinh lãnh đạo, nhắm vào văn minh Âu Châu. Một nhóm, do cụ Phan Bội Châu lãnh đạo, tức Việt Nam Quang Phục Hội, nhắm vào Tam Dân Chủ Nghĩa của Tôn Dật Tiên. Nhóm thứ nhất hoạt động tại Pháp. Nhóm thứ hai hoạt động tại Trung Hoa.

Sách vở Việt Cộng đã triệt để khai thác sự kiện này, khi viết “Bác đi tìm đường cứu nước”, với thâm ý đặt bác Hồ của họ ngang hàng với những Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, của người quốc gia Việt Nam.

Lúc đó, tại Paris có nhóm nhân sĩ Việt Nam của cụ Phan Chu Trinh, luật sư Phan Văn Trường, và kỹ sư Nguyễn Thế Truyền. Nhóm nhân sĩ này rất đươc kính nể, vì là tác giả nhiều bài tham luận chính trị có tầm vóc, như “Le Procès Contre La Colonisation Francaise” (Bản Án Chống Thực Dân Pháp), Le Paria (Việt Cộng dịch là Người Cùng Khổ) và “Mémorandum Des Revendications du Peuple Annamite” (Những Yêu Sách Của Nhân Dân Annam) gửi Hội Nghị Versailles năm 1919.

Những tài liệu này được viết bằng một tiếng Pháp trình độ hàn lâm, và được ký dưới một tên chung: Le Patriote, hoặc Nguyen Le Patriot.

Kẻ được thuê mướn đi phân phát những tài liệu đó tại Paris, là Nguyễn Tất Thành.

Nguyễn Tất Thành đã không bỏ lỡ cơ hội. Y tự nhận là Nguyen Le Patriot. Y trở thành Nguyễn Ái Quốc. Và y đã vào được đảng Xã Hội Pháp (SFIO). Một vinh dự lớn cho y.

Lời Bàn Mao Tôn Cương Rất Sáng Suốt Của Cụ Vip KK Chánh Án Tư Tối Cao Pháp Viện Đình Tân Kiểng Cạnh Đống Rác Đường Trần Hưng Đạo Sàigòn Ngày Xưa:

Ngày xưa tôi tập sự luật sư tại văn phòng Luật sư Bùi Tường Chiểu, số 148 Pasteur, Sàigòn. Ls Chiểu đã dậy dỗ tôi nhiều về văn chương Pháp, và về khoa hùng biện.

Luật sư Chiểu từng quen thân Ls Nguyễn Mạnh Tường. Theo Ls Chiểu kể lại, thì Ls Nguyễn Mạnh Tường quả quyết: Nguyễn Tất Thành chỉ nói đuợc thứ tiếng Pháp của anh em lính thợ Annam không chuyên nghiệp ONS (Ouvrier Non Spécialisé) được tuyển mộ sang Pháp thời đó. Nguyễn Tất Thành không đủ trình độ để hiểu, chứ chưa nói viết, những bài tham luận có tầm vóc như “Le Procès Contre La Colonisation Francaise”, và nhất là bản “Memorandum des Révendications du Peuple Annamite” gửi Hội Nghị Hoà Bình tại Versailles năm 1919.

Mới đây, bạn tôi, Chủ nhiệm Lê Hồng Long của tờ Thế Giới Ngày Nay, gửi cho tôi tuyển tập “Une Histoire de Conspirateurs Annamites à Paris” của Ls Phan Văn Trường. Tôi đã đọc.

Trong bài tựa của tuyển tập, trang 6, học giả Ngo Van viết: “En 1919, il rédige le ‘Mémorandum des Revendications du Peuple Annamite’ adressé à la Conférence de Paix à Versailles, dont Nguyen Ai Quoc – le futur Ho Chi Minh – revendiquera la paternité. (Tạm hiểu : “Năm 1919, [Phan văn Trường viết] ‘bản văn ngoại giao về những yêu sách của nhân dân Annam’ gửi Hội Nghị Hoà Bình tại Versailles. Bản văn đó, Nguyễn Ai Quốc, tức Hồ Chí Minh sau này, đã mạo nhận là tác giả).

Tôi muốn kết luận gì đây ? Tôi muốn kết luận : tất cả những bản văn chính trị viết bằng tiếng Pháp tại Paris từ 1910 đến 1940 và ký tên Nguyễn Ái Quốc, đã do người khác viết, Nguyễn Ái Quôc chỉ là kẻ mạo danh.

Năm 1960, cụ Nguyễn Thế Truyền ra tranh cử tổng thống tại miền Nam Việt Nam. Tôi có đi theo anh em báo chí đến nghe Cụ nói chuyện.

Khi đuợc hỏi về những tài liệu viết bằng tiếng Pháp tại Paris ký tên Nguyễn Ái Quốc, nhất là bản Mémorandum gửi Hội Nghị Hoà Bình Versailles 1919, cụ Truyền nói : Nguyễn Tất Thành chưa học hết tiểu học Pháp. Lúc đó ở Paris, nhóm chúng tôi mướn anh ta đi phân phát những tài liệu đấu tranh bằng tiếng Pháp do chúng tôi viết. Anh ta đã nhận xằng mình là Nguyễn Le Patriot và nhận xằng mình là tác giả những tài liệu đó.

Đó là Nguyễn Ái Quốc, tức Bác Hồ của đảng CSVN.

Chương Bốn
Đói Ăn Và Thèm Danh Vọng ; Trở Thành Tay Sai Đệ Tam Quốc Tế.
Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc trở thành tay sai của Đệ Tam Quốc Tế .

Đệ Tam Quốc Tế là gì ?

Là Cộng Sản Quốc Tế (Komintern) do Lê Nin sáng lập năm 1919, nhằm tách ra khỏi Đệ Nhị Quốc Tế.

Đệ Tam Quốc Tế chủ trương liên minh giai cấp vô sản trên thế giới với các dân tộc bị đàn áp trên thế giới để tiến hành một cuộc cách mạng toàn thế giới do Liên Sô lãnh đạo. Tiến hành bằng đấu tranh giai cấp và bạo lực.

Đệ Tam Quốc Tế – do Liên Sô sáng lập, và lãnh đạo – bao trùm tất cả các đảng CS điạ phương trên thế giới. Những đảng CS điạ phương này chỉ là lũ tôi tớ nằm trong kỷ luật sắt của Liên Sô, và có bổn phận phải đóng góp cho sự lớn mạnh của Liên Sô. Đóng góp bằng tiền bạc cướp được của nhân dân, và đóng góp bằng xương máu, nếu tình thế đòi hỏi.

Đệ Tam Quốc Tế là bản thân Liên Sô, một đế quốc thực dân, bóc lột, tàn bạo và đểu cáng như chưa hề có trong lịch sử nhân loại.

Nguyễn Ái Quốc đã đi theo Đệ Tam Quốc Tế. Và y đã trở thành một cán bộ đắc lực của Đệ Tam Quốc Tế. Y không còn con đường nào khác để giải quyết cái hiện tại “đói rách” của y lúc đó. Đứa em tên Xin ám ảnh y. Vụ của bố ám ảnh y.

Y được Mạc Tư Khoa trợ cấp hàng tháng một số tiền khá lớn, và được Mạc Tư Khoa xử dụng như một cán bộ nòng cốt trong chiến lược nhuộm đỏ Đông Dương.

Lúc đó là tháng 07/1920. Theo tài liệu Việt Cộng, lúc đó y 30 tuổi.

Tháng 12/1920 Đảng Xã Hội Pháp (SFIO) họp đại hội tại Tours (Pháp quốc), Nguyễn Ái Quốc đứng lên đả kích SFIO. Sau đó, y bỏ SFIO, công khai gia nhâp đảng Cộng Sản Pháp, và trở thành cán bộ chính thức của Liên Sô. Nguyễn Ái Quốc nổi danh từ đó.

Tất cả sách vở Việt Cộng đều viết : con đường giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng vô sản thế giới, và vì lòng nhân ái muốn cứu dân cứu nước, Bác đã đi theo con đường cách mạng vô sản.

Sách vở Việt Cộng còn nhắc lại bài ca rất mùi của Nguyễn Ái Quốc, cái đêm y đọc “Bản Luận Cương Lê Nin”. Chúng ta hãy nghe Nguyễn Ái Quốc ca sáu câu vọng cổ :

“Luận cương của Lê Nin làm tôi rất cảm động, phấn khởi, tin tưởng biết bao ! Tôi vui mừng đến phát khóc. Ngồi một mình trong buồng, tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo : hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ : đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta” (Hồ Chí Minh Toàn Tập. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 127).

Người ta không khỏi lắc đầu.

Thứ nhất: Hồ Chí Minh vô cùng lưu manh. Lưu manh ngay cả đối với những tay chân thân tín nhất của y. Vụ y nạp đơn xin vào học nội trú trường Thuộc Điạ của Pháp, là bằng cớ. Vụ này, cho đến lúc chết, y vẫn giấu. Giấu Đảng, giấu cả Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh. Vì vậy tất cả đảng CS Việt Nam đã mắc lỡm khi ca tụng Bác “vì căm thù giặc Pháp, nên đã bỏ học rất sớm”.

Rồi quyển “Những Mẩu Truyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch”, do Trần Dân Tiên ( tức Hồ Chí Minh) viết ca tụng chính Hồ Chí Minh, là bằng cớ thứ hai ,về cái lưu manh của Hồ Chí Minh.

Tôi vừa đưa ra hai sự việc, để chứng minh một sự thực: Hồ Chí Minh là một tên lưu manh, và có tài đóng kịch.
Bên cạnh cái lưu manh và tài đóng kịch, còn một thực tế phũ phàng: cái nghèo khổ đói rách của y lúc đó. Đứa em tên Xin ám ảnh y. Vụ của bố ám ảnh y.

Cho nên: sự kiện y trở thành tay sai Đệ Tam Quốc Tế là điều dễ hiểu.

Đó là con đường duy nhất giúp y thoát khỏi cảnh nghèo đói lúc đó tại Paris. Và đó cũng là con đường có thể đưa y tới danh vọng.

Nói tóm lại, Nguyễn Ái Quốc đi theo Đệ Tam Quốc Tế, vì không còn đường tiến thân nào khác. Và nhất là vì nhu cầu cấp bách của y lúc đó tại Paris, nhu cầu có miếng ăn hàng ngày và đỡ đói rách. Đứa em tên Xin ám ảnh y. Vụ của bố ám ảnh y.

Lời Bàn Mao Tôn Cương Rất Sáng Suốt Của Cụ Vip KK Chánh Án Tư Quốc Tế Pháp Viện Đình Tân Kiểng Cạnh Đống Rác Đường Trần Hưng Đạo Sàigòn Ngày Xưa.

Nguyễn Ái Quốc đi theo Đệ Tam Quốc Tế, vì đói, vì tiền. Y không mất mát gì. Y không xuất thân từ một dòng họ danh vọng. Y xuất thân từ một gia đình hạ cấp đói rách, như hầu hết những cán bộ đầu sỏ Việt Cộng sau này. Đứa em tên Xin ám ảnh y. Vụ của bố ám ảnh y.

Bài ca Luận Cương Lê Nin của Hồ Chí Minh chỉ là sáu câu vọng cổ rẻ tiền nhằm biện minh cho sự bán thân và vong thân của y. Bán thân vì đói, vong thân vì tiền.

Cựu Tổng Bí Thư đảng CSVN Đỗ Mười, tức Nguyễn Cống ngày xưa làm nghề hoạn lợn và từng bị người ta vác dao rượt vì hoạn chết lợn của người ta, hoàn toàn đồng ý với lời bàn rất sáng suốt này của cụ Vip KK.

Chương Năm

Tay Sai Đệ Tam Quốc Tế ; Thời Kỳ Huấn Luyện Tại Nga Sô.


Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đuợc CS Pháp thuê mướn đi rải truyền đơn. Bị mật thám Pháp truy nã, y được đảng CS Pháp bố trí cho sang Đức, rồi từ Đức đáp xe lửa đi Mạc Tư Khoa. Giấy thông hành của y (số 1829, đề ngày 16/06/1925 đóng dấu toà đại sứ Nga tại Bá Linh) ghi : Chen Wang, sinh ngày 15/01/1895 tại Đông Dương, làm nghề thợ ảnh. (Nguyên văn : Chen Wang né le 15 Janvier 1895 à Indochine, profession : photographe) .

Nguyễn Ái Quốc được ở lại Mạc Tư Khoa, học tập lý thuyết Marx, học tập chủ nghĩa Marx - Lenin, và học tập sách lược đấu tranh của Lê Nin.

Y được tham dự đại hội đảng Cộng Sản Quốc Tế tại Mạc Tư Khoa, trên tư thế một đảng viên CSQT đại diện nhân dân Viêt Nam. Trước đại hội, y đã lớn tiếng tố cáo tội ác của thực dân Pháp.

Ngoài ra, y cũng được dự một vài hội nghị khác tại Mạc Tư Khoa. Cũng vẫn bài bản cũ : tố cáo thực dân Pháp và bày tỏ lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Liên Sô trong sự nghiệp giải phóng nhân loại khỏi áp bức.

Và y đã trở thành một cán bộ thuần thành của Mạc Tư Khoa.

Nhưng y không thể trở lại Pháp. Vì vậy, Mạc Tư Khoa đã xử dụng y trong tổ chức mang tên Cục Đông Phương CSQT.

Chương Sáu

Tay sai đê tam quốc tế ; Thời Kỳ Hoạt Động tại Trung Hoa
Cục Đông Phưong Cộng Sản Quốc Tế (CĐP/ CSQT) là gì ?

Là một phân bộ quan yếu của Mạc Tư Khoa tại Đông Phương lúc đó, với nhiệm vụ lũng đọan Trung Hoa Quốc Gia (Trung Hoa Quốc Gia của Tôn Dật Tiên, và sau này của Tưởng Giới Thạch), đồng thời giúp đỡ đảng CS Trung Quốc của Mao Trạch Đông còn đang trong thời kỳ phôi thai.

Riêng đối với Nguyễn Ái Quốc, CĐP / CSQT còn là chặng đường lý tưởng giúp y du nhập chủ nghĩa CS vào Việt Nam.Lúc đó, y lấy tên là Lý Thụy.

Năm Quý Hợi (1923) Lý Thụy được Mạc Tư Khoa phái sang Quảng Châu, phục vụ trong phòng thông tin của Borodin (sách Tầu ghi là Pháo La Đình), môt cán bộ của Mạc Tư Khoa.

Võ Nguyên Giáp đã viết rất rõ “Lý Thuỵ được phái sang Quảng Châu để chỉ đạo phong trào cách mạng và phong trào nông dân ở Trung Quốc và một số nước châu Á”.

Ngoài ra, tất cả sách vở Việt Cộng đều viết : Quảng Châu, Miền Nam Trung Quốc, là nơi nhiều nhà cách mạng VN yêu nước đang hoạt động, cho nên Người rất quan tâm.

Người đây là Lý Thụy, tức Hồ Chí Minh. Theo sử gia Trung Hoa Tưởng Vĩnh Kính trong quyển Hồ Chí Minh Tại Trung Quốc, thì lúc đó “Quảng Châu không những là một trung tâm cách mạng của Trung Quốc, mà còn là thánh địa của Á Châu chống đế quốc chủ nghĩa”.

Và Mạc Tư Khoa đã gửi Lý Thụy đến thánh địa đó.

Tại Quảng Châu, Lý Thụy có dịp tiếp xúc một số thanh niên VN của Phong Trào Đông Du, thuộc Tâm Tâm Xã, một tổ chức chống Pháp dành độc lập.

Tâm Tâm Xã do cụ Phan Bội Châu thành lập tại Quảng Châu năm Giáp Dần (1914). Tổ chức này đuợc giới cách mạng Trung Hoa Quốc Gia cũng như giới cách mạng Việt Nam Quốc Gia ngưỡng mộ, nhất là sau vụ liệt sĩ Phạm Hồng Thái.

Chúng ta nên ôn lại lịch sử.

Năm Quý Hợi (tháng 06/1923) Toàn Quyền Đông Dương Merlin ghé qua Sa Diện (Quảng Châu) trên đường sang Nhật Bổn. Phạm Hồng Thái ám sát Merlin, nhưng ám sát hụt. Bị cảnh sát truy nã, họ Phạm gieo mình xuống đầm Bạch Nga. Thi hài họ Phạm đuợc anh em cách mạng Việt Nam tại Trung Hoa vớt lên chôn ở chân đồi Bạch Vân. Năm Ất Sửu (1925), để tôn vinh nhà cách mạng VN, tỉnh truởng Quảng Châu là Hồ Hán Dân đã truyền đưa hài cốt họ Phạm vào an táng tại Hoàng Hoa Cương, thánh địa của những vị anh hùng cách mạng Trung Hoa Dân Quốc.

Phạm Hồng Thái được coi là linh hồn của Tâm Tâm Xã.

Lý Thuỵ, tức Hồ Chí Minh, đã xâm nhập đuợc Tâm Tâm Xã, nhân danh cách mạng Việt Nam, và nhân danh tinh thần Phạm Hồng Thái bất diệt. Y đã lừa bịp được tổ chức này và được tổ chức này nhiệt tình ủng hộ. Một vài thành viên ưu tú của Tâm Tâm Xã đã được y móc nối gửi sang học tập tại Mạc Tư Khoa, và trở thành cán bộ CS sau này.

Năm Ất Sửu (1925), trong mưu đồ nắm trọn quyền lãnh đạo Tâm Tâm Xã, và để kiếm một món tiền thưởng rất lớn của thực dân Pháp, Lý Thụy đã cùng với Lâm Đức Thụ (tức Nguyễn Công Viễn) lập mưu bắt cụ Phan Bội Châu trao cho Pháp.

Cụ Phan bị bắt tại Thượng Hải, bị đưa về Hương Cảng, rồi từ đó bị giải về Hải Phòng. Ngày 8 tháng 10 năm Ất Sữu (23/11/1925) , cụ bị đưa ra trước Đại Hội Đồng Đề Hình của Pháp (tại Hải Phòng) và bị lên án tử hình. Sau đó, để trấn an dư luận, toàn quyền Varenne của Pháp đã ra lệnh ân xá, và an trí cụ tại Huế. Cũng năm Ất Sửu (1925), tại Quảng Châu, tổ chức “Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội’ ra đời, gồm phần lớn thành viên của Tâm Tâm Xã. Tổ chức nói trên cũng đã bị Lý Thụy xâm nhập, và trở thành đội ngũ tiền phong của đảng CSVN sau này.

Theo Hoàng Văn Hoan tác giả “Giọt Nước Trong Biển Cả” xuất bản thâp niên 1980, thì suốt thời kỳ hoạt động tại Trung Hoa, Bác đã được sự giúp đỡ nhiệt tình của cụ Hồ Học Lãm, một nhà cách mạng VN có uy tín lớn tại Trung Hoa Dân Quốc lúc đó.
Bác đây là Lý Thụy, tức Hồ Chí Minh.

Cũng theo Hoàng Văn Hoan thì cụ Hồ Học Lãm lúc đó vẫn coi Bác là một nhà cách mạng Việt Nam trong truyền thống Phạm Hồng Thái- Nguyễn Thái Học.

(Chú thích của tôi, Nguyễn Văn Chức: Hoàng văn Hoan là Đại sứ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đầu tiên tại Bắc Kinh năm 1950; Uỷ Viên Trung Ương Đảng năm 1951; Uỷ Viên Chính Trị Bộ 1956 về Cải Cách Ruộng Đất, Phó Chủ Tịch kiêm Tổng Thư Ký Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội Khoá 1 năm 1958, khoá 2 năm 1960, khoá 3 năm 1964, khoá 4 năm 1971; Uỷ Viên Chính Trị Bộ đảng CSVN năm 1960, Bí Thư Thành Uỷ Hà-nội năm 1961).

Theo tất cả sách vở và tài liệu của Việt Cộng, đặc biệt quyển “Tư Tưởng Hồ Chí Minh Và Con Đường Cách Mạng Việt Nam” của Võ Nguyên Giáp, thì năm Canh Ngọ (tháng 2 năm 1930), Trần Phú sáng lập Việt Nam Cộng Sản Đảng . Vẫn theo Võ Nguyên Giáp, thì tháng 10 năm đó, thi hành lệnh của Mạc Tư Khoa, Bác đã đổi tên Việt Nam Cộng Sản Đảng thành Đông Dương Cộng Sản Đảng.

Bác đây là Nguyễn Ái Quốc, tức Hồ Chí Minh.

Sáu tháng sau, ngày 19/04/1931 Trần Phú, – từng được huấn luyện tại Mạc Tư Khoa, có tầm vóc hơn Hồ Chí Minh, và là lãnh tụ đầu tiên của phong trào CS tại Đông Dương – đã bị Pháp bắt tại Sàigòn. Dư luận lúc đó quả quyết : Nguyễn Ái Quốc đã chủ mưu vụ này, nhằm loại trừ một đối thủ có tầm vóc.

Lơi Bàn Mao Tôn Cương Rất Sáng Suốt Của Cụ Vip KK Chánh Ánh Tư Quốc Tế Pháp Viện Đình Tân Kiểng Cạnh Đống Rác Đường Trần Hưng Đạo Sàigòn Ngày Xưa.

Nguyễn Tât Thành, tức Nguyễn Ái Quốc, tức Hồ Chí Minh, là một tên đại lưu manh. Nhờ vậy, y đã thành công rực rỡ. Từ một tên bồi tầu đói rách, y đã trở thành chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà cờ đỏ sao vàng, và vị lãnh đạo tối cao của đảng CSVN.

Đại hội X (tức đại hội 10, nhân dân trong nước đọc là đại hội Ếch) của đảng CSVN hồi tháng Tư 2006 vừa qua đã khiến cả nước phải lắc đầu. Ngay cả bọn Phan Văn Khải CSVN cũng đã phải ngượng mồm khi lên tiếng tôn vinh Hồ Chí Minh. Cựu Tổng Bí Thư Đảng CSVN Đỗ Mười, tức Nguyễn Cống ngày xưa làm nghề hoạn lợn từng bị người ta vác dao rượt vì hoạn chết lợn của người ta, rất đồng ý với lời bàn rất sáng suốt nói trên của cụ Vip KK.

Cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười cho biết: Phan văn Khải, tức tên thủ tướng của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa VN trong chuyến Úc du tháng 04/2005 và Mỹ du tháng 06/2005 đã bị Người Việt Tỵ Nạn vác cờ vàng ba sọc đuổi chạy vãi cả ra quần, cũng rất đồng ý với lời bàn rất sáng suốt của cụ Vip KK.

Tổng Bí Thư Đỗ Mười còn cho biết: hai tên Nguyễn Minh Triết, Nguyẽn Tấn Dũng – bây giờ có trong tay cả trăm triệu Mỹ kim nhờ tham nhũng, trộm cắp buôn lậu – cũng rất đồng ý với lời bàn rất sáng suốt của cụ Vip KK vô vàn mến yêu.

Cựu tổng bí thư Đỗ Mười cũng cho biết: hai tên Nguyễn Minh Triết, Nguyễn tấn Dũng dự định sang Mỹ vận động cho nhà nước và đảng ta, nhưng sợ bị lũ ngụy hải ngoại đánh đuổi như đã đánh đuổi Phan văn Khải trước đây năm 2005.

Cựu tổng bí thư Đỗ Mười còn chửi địt mẹ cái Nghị Quyết chó đẻ 36-NQ/TU ngày 26/03/2004. Theo cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười, thì Phan Văn Văn Khai phàn nàn rằng : chính vì cái nghị quyết chó đẻ 36-NQ/TU ấy, mày đã bị Người Việt Hải Ngoại cầm cờ vàng ba sọc đánh đuổi như con chó, trong chuyến Úc du và Mỹ du của y năm 2005.

Chương Bảy

Trốn Khỏi Trung Hoa ; Sang Hoạt Động Bên Xiêm La.

Năm 1927, chính quyền Trung Hoa Quốc Gia mở chiến dịch lùng bắt cộng sản.

Borodin bỏ chạy về Mạc Tư Khoa. Nguyễn Ái Quốc bị bắt giam. Nhờ uy tín của cụ Hồ Học Lãm, y đã được phóng thích. Y trốn về Mạc Tư Khoa, và được Mạc Tư Khoa phái sang Hương Cảng, làm việc dưới quyền một tên CS Pháp : Hilaire Noulens (sách Tầu ghi là Ngưu Lan).

Nguyễn Ái Quốc được Ngưu Lan giao phó công tác vùng Đông Bắc Thái Lan, nơi có đông nguời Việt lưu vong. Chỉ trong mấy năm, y gặt hái đuợc nhiều kết quả, nhờ tài tổ chức và bịp bợm.

Và cũng nhờ thời cuộc.

Ngày 10/02/1930, cuộc khởi nghĩa Yên Báy thất bại. Nhiều anh em VN Quốc Dân Đảng bị Pháp bắt, tra tấn, thủ tiêu. Đảng trưởng Nguyễn Thái Học bị bắt tại ấp Cồ Việt tỉnh Hải Dương. Ngày 17/07/1930 ông và một số đồng chí bị đưa lên máy chém tại Yên Báy. Trước khi chết, ông đã hô to “Không thành thân thì thành nhân. Việt Nam muôn năm”.

Theo quyển “Hồ Chí Minh Tại Trung Quốc” của Tưởng Vĩnh Kính, thì Nguyễn Ái Quôc đã vô cùng hoan hỉ truớc tai họa của Việt Nam Quốc Dân Đảng, coi đó là cơ hội ngàn vàng. Y đem đảng CS của y trám vào chỗ trống. Trong thư luân lưu gửi đảng viên, y viết:

“Lần khởi nghĩa Yên Báy giai cấp tư sản đã mất hết ảnh hưởng trong việc vận động giải phóng dân tộc ; đảng ta được tha hồ tổ chức giai cấp công nhân và quần chúng nông dân lao động vào đảng, và đảng ta trở thành lực lượng duy nhất thi hành lãnh đạo cách mạng chống đế quốc chủ nghĩa”.

Chương Tám

Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của Người Quốc Gia Trở Thành Mặt Trận Việt Minh.


Ngày 20/06/1940, Pháp bị Đức đánh bại ở Âu Châu, Nguyễãn Ái Quốc triệu tập đại hội đảng tại Côn Minh, sửa soạn về nước cướp chính quyền.

Tưởng cũng nên nhắc lại: tại Trung Hoa lúc đó, có những tổ chức cách mạng sau đây của người Việt quốc gia lưu vong:

1. Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội do cụ Hồ Học Lãm chủ trì.
2. Việt Nam Giải Phóng Đồng Minh Hội do cụ Trương Bội Công chủ trì.
3. Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, do cụ Nguyễn Hải Thần chủ trì.

Mượn danh nghĩa chống Pháp dành độc lập, Nguyễn Ái Quốc đã xâm nhập được những tổ chức nói trên. Thành công ngoạn mục nhất của y là đã cướp danh xưng Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (của cụ Hồ Học Lãm) để đặt tên cho một tổ chức cộng sản của y.

Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của cụ Hồ Học Lãm đã bị bỏ mất chữ Hội, để trở thành Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt Việt Minh, một tổ chức võ trang tuyên truyền với võ khí do Trung Cộng cấp phát và cán bộ do Trung Cộng đào tạo.

Về vụ thành lập mặt trận Việt Minh, Võ Nguyên Giáp viết như sau:

“Tháng 05/1941, Người chủ trì Hội Nghị Trung Ương lần thứ 8 [...] Hội Nghị đề ra chủ trương thành lập mặt trận rộng rãi lấy tên là Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt là Mặt Trận Việt Minh” (Tư Tưởng Hồ Chí Minh Và Con Đuờng Cách Mạng VN, tr. 32).

Người đây, là Hồ Chí Minh.

Trước và sau Võ Nguyên Giáp, cả trăm sách vở Viêt Cộng đều cùng một luận điệu đó .

Lời bàn Mao Tôn Cương Rất Sáng Suốt Của Cụ VIP KK Chánh Án Tư Quốc Tế Tối Cao Pháp Viện Đình Tân Kiểng Cạnh Đống Rác Đường Trần Hưng Đạo Sàigòn Ngày Xưa

Trong đảng CSVN, Võ Nguyên Giáp, Đặng Thái Mai (bố vợ của y), và Hoàng Minh Giám, là những người có học nhất.
Cả ba từng là cựu giáo sư trường trung học Thăng Long Hà Nội ngày xưa. Cả ba đã đi theo cộng sản. Và cả ba rất hèn. Nhất là Võ Nguyên Giáp.

Trong vụ tên tướng VC Hoàng Văn Thái, người được Võ Nguyên Giáp che chở và cất nhắc (nghe nói còn là thông gia với Võ Nguyên Giáp), bị bọn Lê Đức Thọ Lê Duẩn ám hại, Võ Nguyên Giáp đã không dám hé răng. Năm 2002, bản thân y bị bọn Lê Khả Phiêu công khai hạ nhục. Y cũng không dám hé răng.

Cựu Tổng Bí Thư Đảng CSVN Đỗ Muời, tức Nguyễn Cống ngày xưa làm nghề hoạn lợn từng bị người ta vác dao ruợt vì hoạn chết lợn của nguời ta, rất hoan nghênh nhận định rất sáng suốt này của cụ VIP KK.

Cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười cho biết: giữa thập niên 1990, Võ Nguyên Giáp bị bọn Lê Khả Phiêu làm nhục. Để vớt vát uy tín, Võ Nguyên Giáp đã viết quyển “Tư Tưởng Hồ Chí Minh Và Con Đường Cách Mệnh”. Trong quyển sách ấy (xuất bản năm 1997), Võ Nguyên Giáp kể truyện bác Hồ lúc bé phải bế em đi hàng xóm xin sữa xin ăn, tuởng rằng viết như vậy là đề cao Bác. Võ Nguyên Giáp đã bị cả đảng chửi như con chó. Bọn Lê Khả Phiêu đã xuýt tát vào mặt y.

Cũng trong cuốn sách đó, trang 247, Võ Nguyên Giáp còn viết rằng các nhà văn hoá của đảng đã phát hiện khoảng 600 (sáu trăm) gương tốt của bác Hồ. Địt mẹ, cả đảng phải bịt mũi. Nịnh Bác, mà nịnh quá, chỉ làm trò hề.

Cũng trong cuốn sách đó, trang 249, Võ Nguyên Giáp còn viết :

“Năm 1990, kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Hồ Chí Minh, Tổ Chức Văn Hoá Và Giáo Dục Thế Giới (UNESCO) đã tôn vinh Người là Vị Anh Hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam và là nhà văn hoá kiệt xuất ...”

Theo Cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười, thì Võ Nguyên Giáp lại viết láo. Năm đó (1990), quả thật UNESCO dự định tôn vinh Bác là nhà văn hoá kiệt xuất, nhưng bị lũ nguỵ hải ngoại chống đối. Lũ Nguỵ hải ngoại kéo nhau đến biểu tình la hét trước Hội Nghị UNESCO tại Giơ Ne Vơ, và hô to đả đảo Hồ Chí Minh. Sau đó, UNESCO đã nhìn thấy sự thật, rút lại ý định tôn vinh Bác, và xin lỗi lũ nguỵ.

Thế mà Võ Nguyên Giáp dám viết rằng bác đã đuợc UNESCO tôn vinh.

Ngoài ra, tủ sách giáo khoa của đảng và nhà nước có quyển sách mang tên “Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh, Những Tác Phẩm Tiêu Biểu (Nxb Giáo Dục, xuất bản ngày 01/01/2000, Sài Gòn). Quyển sách giáo khoa này cũng trích dẫn lời của Võ Nguyễn Giáp, và lớn tiếng ca tụng Bác đã được UNESCO vinh danh là nhà văn hoá kiệt xuất của thế kỷ 20. Trang 14 của quyển sách đó viết như sau (nguyên văn):

“Năm 1990, Tổ Chức Văn Hoá Giáo Dục Khoa Học Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã trao tặng Chủ Tịch Hồ Chí Minh danh hiệu danh nhân văn hoá thế giới, và đã long trọng kỉ niệm 100 năm sinh của Người”.

Cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười còn nói : toàn bộ sách giáo khoa và nền giáo dục của đảng CSVN chúng tôi từ hơn 50 năm nay đều là gian manh lừa lọc. Tội nghiệp cho bao nhiêu thế hệ học sinh con em chúng ta.

Vẫn theo Cựu Tổng Bí Thư Hoạn Lợn Đỗ Mười, thì đã đi theo Bác, thằng đéo nào cũng hèn, cũng lưu manh bịp bợm. Càng có học, lại càng hèn, càng lưu manh bịp bợm. Võ nguyên Giáp là điển hình.

Cựu Tổng Bí Thư Hoạn Lợn Đỗ Mười gửi biếu cụ Vip KK quyển “Tư Tưởng Hồ Chí Minh” của Võ Nguyên Giáp, kèm hai câu ca dao đuợc truyền tụng trong dân gian khi Võ Nguyên Giáp bị bọn Lê Đức Thọ hạ tầng công tác xuống làm Chủ Tịch Uỷ Ban Hạn Chế Sanh Đẻ Nhà Nưóc:

“Ngày xưa đại tướng công đồn
Bây giờ đại tướng canh l. cản c.
và :
“Ngày xưa đại tướng cầm quân
Bây giờ đại tướng cầm quần chị em”

Chương Chín
Bản Chúc Thư Số Hai ; Hồ Chí Minh Chạy Tội Trước Lịch Sử

Hồ Chí Minh chết ngày 02/09/1969, và được phát tang ngày 03/09/1969. Y để lại một bản chúc thư trong đó y kể công lao của y và của đảng CSVN đối với dân tộc. Y vui mừng sắp được về với thánh tổ Các Mác. Y căn dặn đảng viên các cấp phải “giữ gìn đảng như giữ gìn con ngươi của mắt”.

Bản chúc thư nói trên – gọi là bản chúc thư số I – được Việt Cộng trân quý như thánh kinh của đảng.

Ngoài bản chúc thư số I nói trên, cuối thập niên 1980, người ta thấy xuất hiện ở Pháp một bản chúc thư số 2, đề ngày 14-8-1969, nói là do Hồ Chí Minh viết để lại cho đúa con gái lai tại Pháp.

Trong bản chúc thư số 2 này, Hồ Chí Minh phủ nhận bản chúc thư số I. Chẳng những thế, y còn viết rõ : y hối hận đã đi theo cộng sản làm hại đất nước.

Năm 1986, một ngưòi Pháp từ Paris gửi biếu tôi – Nguyễn văn Chức – bản chụp chúc thư số 2 này, kèm bản chụp bút tự của Hồ Chí Minh.

Nếu tôi không lầm, thì bản chúc thư số 2 này cũng đã được phổ biến trên nhiều báo tiếng Việt ở hải ngoại, hồi cuối thập niên 1980.

Dưới đây, tôi xin đăng lại nguyên văn bản chúc thư số 2 ấy, như một tài liệu:

“Thời xưa, ở bên Trung Quốc, người ta thường nói con chim trước khi chết thì tiếng kêu thương, con người trước khi chết thì lời nói phải. Tôi tự xét mình chẳng còn sống bao lâu nữa, nên cố gắng viết di chúc này, mong rằng những điều viết ra không phải là những điều sai quấy.

Vừa mới đây, Lê Duẩn có đi với Trần Quốc Hoàn tới gặp tôi, buộc tôi phải viết bản di chúc theo ý họ. Tôi đã viết, mà trong bụng thì tấm tức vô cùng. Nay tôi viết thêm di chúc này, xin coi là chính thức. Ngoài ra tôi không nhận bất cứ di chúc nào khác là của mình. Tôi ước mong một ngày nào đó di chúc tôi đang viết đây sẽ được mọi người biết tới, thì ở thế giới bên kia tôi mới đuợc thoả lòng.

Tôi vốn con nhà nghèo, nhưng từ bé đã nuôi mộng đảo lộn sơn hà, mà đem lại vẻ vang cho nòi giống, nên tôi bôn ba hải ngoại bao nhiêu năm không hề quản ngại khó khăn gian khổ, vào tù ra khám, chỉ mong có ngày Tổ Quốc ta độc lập giầu mạnh, dân tộc ta hạnh phúc tự do.

Tôi thường đọc lịch sử nước Việt Nam ta, thấy ông Trần Thủ Độ là một tay hào kiệt hiếm có trên đời, đã không quản ngại làm việc ác, làm phản mà gây nên cơ nghiệp hiển hách của nhà Trần, đuổi giặc Nguyên, đem lại vinh quang cho cả dân tộc về cả hai mặt văn minh và đời sống. Không lượng sức mình, không đo tài mình, tôi đã hành động như ông Trần Thủ Độ, nên đất nước mới tan nát, nhân dân ta mới điêu linh mà đầu mình thì nặng nề không biết bao nhiêu tội ác không thể nào tha thứ được.

Cái nhầm tai hại nhất của tôi là đi theo cộng sản Mác Xít mà không biết là chủ nghĩa này dần dần trở thành lạc hậu và phản động, những người theo Mác Xít chỉ là giả bộ, để đánh lưà giai câp nghèo mà cướp lấy chánh quyền cho nước Nga.

Tôi cũng ngay tình mà dùng những người hợp tác với mình. Tôi cứ tưởng những người đó quý yêu tôi, đầu ngờ họ đều là mật thám của Nga, vây quanh tôi chỉ là để kiểm soát tôi, khéo léo hướng dẫn tôi đi theo con đường nước Nga đã vạch sẵn. Họ đề cao và tâng bốc tôi để khi nào tôi làm điều gì độc ác thì tôi phải chiụ hết trách nhiệm với dân tộc. Nhiều khi họ quyết định mà không hề cho tôi hay biết gì, như vụ Cải Cách Điền Điạ ở Bắc Việt bây giờ nhân dân còn nguyền rủa oán trách tôi không biết để đâu cho hết. Dù sao thì tôi vẫn là người có tội, tôi không dám chối cãi, chỉ dám mong lịch sử sau này xét kỹ cho tôi mà đừng lên án tôi quá nặng nề.

Đầu nàm 1963, hồi đó tôi còn chưa bị bao vây chặt chẽ quá, tôi có nhờ mấy ông thuộc Uỷ Hội Kiểm Soát Quốc Tế Đình Chiến chuyển vào Nam Bộ hai cành đào lớn rất đẹp để tặng cụ Ngô Đình Diệm, kèm theo một bức thư. Trong bức thư, tôi chân tình yêu cầu cụ Ngô cùng tôi thảo luận trong tình anh em, để hai bên cùng lo cho dân hai miền, trên căn bản thi đua làm cho dân giầu nước mạnh, theo đường lối riêng của từng người.

Truyện này vỡ lở ra, cụ Ngô bị giết ở trong Nam, còn ở ngoài Bắc tôi bị kiểm soát rất khắt khe, không có quyền quyết định gì nữa cả. Đáng lẽ ra thì tôi bị giết ngay từ hồi đó rồi, nhưng tên tôi còn được thế giới biết đến, nên họ còn phải lợi dụng mà để cho tôi sống thêm. Tôi đã già, râu tóc đã bạc mà còn phải sống trong cảnh ngục tù, cứ nghĩ đến điều này là tôi ứa nước mắt. Họ không giết tôi nhưng sai ông bác sĩ Tôn Thất Tùng cho uống thuốc độc, để tôi không thể đi đâu nữa, mà cũng không thể tiếp xúc với những người mà tôi muốn tiếp xúc. Tôi chưa chết ngay, nhưng là chết lần chết mòn, ở biệt lập một nơi để đợi ngày tắt thở.

Thật cũng tiếc, khi về già, biết mình sai lầm, muốn chuộc lỗi mà không được nữa.

Trước khi viết phần cuối di chúc, tôi xin thú nhận tôi không phải thần thánh gì, nên khi còn sống cũng đủ bẩy tình như kinh nhà Phật đã đề cập. Tôi không có vợ, nhưng cũng có được một đưá con gái lai Pháp. Tôi ước mong con gái tôi khi đọc được tờ di chúc này sẽ tha thứ cho tôi không đủ bổn phận làm cha, nhưng phụ tử tình thâm, tôi luôn luôn nhớ tới con gái tôi với muôn vàn âu yếm.

Ai cũng tưởng tôi là con người vô thần, nhưng riêng Đức Cha Lê Hữu Từ thì biết tôi rất tin có Đấng Tạo Hoá. Vì tin có ông Trời nên tôi xin khẩn cầu cho nước ta và các nước Cộng Sản khác trên thế giới sớm thoát ách Cộng Sản. Tôi cũng xin ông Trời cho tờ di chúc này có ngày được phổ biến khắp nơi.

Cuối cùng, tôi xin lẩy Kiều mượn tạm hai câu thơ của cụ Nguyễn Du để tỏ lòng hối hận trước đấng Cao Xanh :

“Rằng con biết tội đã nhiều
Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam”.
Ngày 14/08/1969
Hồ Chí Minh

Lời bàn Mao Tôn Cương Rất Sáng Suốt Của Cụ Vip KK Chánh Án Tư Quốc Tế Pháp Đình Tân Kiểng Bên Cạnh Đống Rác Đường Trần Hưng Đạo Ngày Xưa

Lời bàn một

Trong bản chúc thư số 2 nói trên, Hồ Chí Minh viết : “tôi vốn con nhà nghèo, nhưng từ bé đã nuôi mộng đảo lộn sơn hà, mà đem lại vẻ vang cho nòi giống, nên tôi bôn ba hải ngoại bao nhiêu năm không hề quản ngại khó khăn gian khổ, vào tù ra khám, chỉ mong có ngày tổ quốc ta độc lập giầu mạnh, dân tộc ta hạnh phúc tự do”.
Hồ Chí Minh viết bản chúc thư đó năm 1969. Nhưng y vẫn dấu nhẹm vụ y nạp đơn xin vào học trường Thuộc Điạ Pháp năm 1911.

Lời bàn hai

Hầu hết – nếu không muốn nói là tất cả – những tên đầu sỏ Việt Cộng cao cấp đều thất học cu ly cu leo, và con nhà khố rách áo ôm. Chúng nó đi theo cộng sản vì không còn con đường tiến thân nào khác. Nhưng trong tiểu sử hoặc chúc thư thì thằng chó nào cũng phét lác rằng mình đi theo cách mạng là để mưu tìm độc lập tự do cho Tổ Quốc. Đó chính là trường hợp Hồ Chí Minh.

Lời bàn ba

Những trại cải tạo rùng rợn Đầm Đùn, Lý Bá Sơ, cuộc tiêu thổ kháng chiến 1945, cuộc đấu tố rưộng đất 1953-1956, cuộc đàn áp văn nghệ sĩ năm 1956, vụ dâng đảo Hoàng Sa cho Bắc Kinh, cuộc chiến tranh xâm lược Miền Nam VN, vụ giết và chôn sống đồng bào hồi Tết Mậu Thân Huế, v. v... Tất cả những tội ác đó cũng như muôn vàn tội ác khác, đều do bàn tay Hồ Chí Minh.

Trong bản chúc thư số 2, Hồ Chí Minh đổ lỗi cho người khác.

Cựu Tổng Bí Thư đảng CSVN Đỗ Mười – tức đồng chí Nguyễn Cống ngày xưa làm nghề hoạn lợn từng bị người ta vác dao rượt vì hoạn chết lợn của người ta – rất đồng ý với những lời bàn rất sáng suốt của cụ VIP KK.

Cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười không dám quả quyết vụ Bác Sĩ Tùng cho bác Hồ uống thuốc độc là có thật. Nhưng cựu tổng bí thư quả quyết chữ viết và luận điệu trong chúc thư là của Bác Hồ. Vụ Lê Duẩn, Lê Đức Thọ đàn áp bác Hồ 2 năm trước khi bác chết, cũng có thật. Cựu tổng bí thư Đỗ Mười còn cho biết: Lê Duẩn đã có lần nói hỗn với Bác, xô Bác té trên giường. Tội nghiệp cho Bác.

Cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười còn nói : trong bản chúc thứ số 2 này, Bác tạ lỗi với đứa con gái lai Pháp, vì đã không làm bổn phận một người cha. Địt mẹ, làm như Bác chỉ có môt đứa con hoang. Theo cựu tổng bí thư Đỗ Mười, thì con rơi con rụng của bác, trắng đen, vừa trắng vừa đen, bạch tạng, rỗ chằng rỗ chịt, mắt toét mắt lồi, Marốc, Mễ, Tiêm La, Tầu, Việt Nam, Kampuchia, đếm đuợc cả trung đội.

Cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười cũng nhắc đến chuyến đi Phát Diệm của Bác thăm Giám Mục Lê Hữu Từ năm 1946. Năm đó, Võ Nguyên Giáp có đi theo Bác, khi về đã kể chuyện lại.

Võ Nguyên Giáp kể rằng : giữa đám đông tụ tập trước Phương Đình Phát Diệm, Bác giơ cao tay hô to “Hoan Hô Đức Chúa”. Đồng bào công giáo Phát Diệm ôm bụng cười. Thật là vô lễ với Bác. Bác còn lớn tiếng xin Giám Mục Lê Hữu Từ làm phép rửa tội ngay cho Bác, để Bác trở thành người của đạo Chúa. Nhưng Giám Mục Lê Hữu Từ bảo Bác phải học đạo 6 tháng mới được chịu phép rửa. Đồng bào có mặt đã vỗ tay hoan hô Giám Mục. Thật là vô lễ.

Cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười còn kể: Tết Giáp Ngọ (1954) Bác Hồ gửi biếu Giám Mục Lê Hữu Từ một cành đào và khuyên Giám Mục nên ở lại Phát Diệm, đừng di cư vào Nam. Nhờ Đức Chúa chuẩn bị tư tưởng, Giám Mục Lê đã lãnh đạo con chiên bổn đạo di cư vào Nam. Cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười quả quyết: Giám Mục Lê mà ở lại Phát Diệm thì thế nào cũng bị Bác cho đi trại cải tạo Lý Bá Sơ hoặc Đầm Đùn, để trả thù về vụ đồng bào Công Giáo Phát Diệm làm nhục Bác năm 1946.

Cự Tổng Bí Thư Đỗ Mười còn nói: chúng tôi đã đi theo Bác thì thằng đéo nào mà chả gian ác lưu manh cu ly cu leo tổ mẹ. Nhưng so với Bác thì vẫn còn thua xa.

Chương Mười

Kết luận


Quyển tiểu sử Hồ Chí Minh của tôi, đến đây là hết. Nhưng cần một kết luận.
Trước khi kết luận, tôi thấy cần phải minh xác với bạn đọc, nhất là các bạn trẻ.

Tôi không phải là sử gia. Sử gia phải khách quan, không được viết theo cái chủ quan của mình.

Riêng tôi, tôi đã viết theo lập trường chủ quan của tôi, lập trường của một cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, cộng với lập trường của một kẻ suốt đời ôm hoài bão được bước theo gót người xưa: Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học, Phan Bội Châu ...

Viết về Hồ Chí Minh, tôi dựa trên hai loại tài liệu.

Tài liệu của LỊCH SỬ VIẾT HOA, tức tài liệu của ngoại quốc.

Và tài liệu của LỊCH SỬ KHÔNG VIẾT HOA, tức tài liệu của Việt Cộng. Phần lớn những tài liệu hiếm có này đã do người bạn trẻ của tôi, nhà văn Nguyễn Thế Khanh, cung cấp.

Bây giờ, tôi xin trở lại cuốn tiểu sử Hồ Chí Minh của tôi.

Một kẻ xuất thân từ gia đình nghèo mạt, đi ăn xin, thất học cu ly cu leo lưu manh đểu cáng, đã trở thành chủ tịch một nước và được nhiều sách vở Tây Phương ca tụng.

Đó là Hồ Chí Minh.

Phải nhìn nhận : Hồ Chí Minh thông minh và mưu lược. Rất tiếc: y là một tên vô lại, lưu manh, và cuối cùng phản bội dân tộc.

Quyển Le Prince của Machiavel và quyển Sử Ký Tư Mã Thiên ám ảnh tôi. Lưu manh, vô lại, đểu cáng tàn bạo là phương tiện. Và cứu cánh biện minh cho phương tiện.

Quyển Les Mains Sales của J. P. Sartre cũng một triết lý đó. Muốn thành công trong chính trị – nghĩa là muốn cướp được chính quyền – phải biết để cho bàn tay mình nhơ bẩn.

Quyển Les Mains Sales nói về trí thức trong hành động. Tôi nghĩ: Les Mains Sales có thể áp dụng cho bất cứ ai bước vào chính trị quyền lực, thứ chính trị bất chấp luân lý đạo đức. Có học cũng như vô học.

Hồ Chí Minh là một kẻ vô học, có lẽ vô học nhất trong hàng ngũ lãnh tụ trên thế giới. Nhưng lưu manh, đểu cáng tàn bạo, có lẽ cũng vào bậc nhất trên thế giới. Y đã chấp nhận để cho bàn tay của mình nhơ bẩn. Chẳng những nhơ bẩn, mà còn đẫm máu đồng bào ruột thịt. Mục đích : để đạt cứu cánh.

Câu hỏi đựợc đặt ra: y và đảng CSVN của y đã đem lại đuợc gì cho đất nước ?

Ba cuộc chiến tranh Đông Dương không cần thiết – đánh Pháp dành độc lập 1947-1954, chống Mỹ cứu nước 1969-1975, đánh Pol Pot 1979 – với hàng triệu người Việt Nam chết thê thảm và bị tàn phế. Hai cuộc đấu tố ruộng đất cực kỳ dã man, và một chế độ cai trị tàn bạo nhất trong lịch sử Việt Nam từ ngày lập quốc. Chưa kể cả một giang sơn gấm vóc bị tàn phá khủng khiếp. Chưa kể đời sống dân Việt Nam nghèo khổ nhất thế giới. Chưa kể con người Việt Nam bị xuất cảng làm lao nô ở nuớc ngoài. Chưa kể hàng trăm phụ nữ và em bé gái Việt Nam được xuất cảng đi làm nô lệ tình dục ở nuớc ngoài. Chưa kể cắt đất dâng biển cho Trung Cộng. Chưa kể một chế độ cai trị vô cùng tàn bạo đểu cáng trộm cắp mang tên Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Và chưa kể : hiện nay, Việt Nam vẫn là mảnh đất nghèo khổ nhất trên thế giới, với bọn cu ly cu leo Nông Đức Mạnh, Phan Văn Khải, Phạm Thế Duyệt Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, giầu có vào bậc nhất Đông Nam Á. Nhờ tham nhũng bóc lột.

Đó là công nghiệp của Hồ Chí Minh và đảng CSVN của y đối với Tổ Quốc

Hồ Chí Minh là một tên đại lưu manh, đại bịp, đại đểu cáng. Và có bàn tay nhơ bẩn.

Ngoài ra, y còn là một tên hề mặt trơ trán bóng, cái mặt trơ trán bóng không tìm thấy nơi bất cứ một lãnh tụ nào trên thế giới, kể cả những tên tồi tệ nhất.

Quyển “Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” của Trần Dân Tiên làm cho người đọc buồn nôn. Trần Dân Tiên là y, Hồ Chủ Tịch là y. Y kể chuyện Hồ Chủ Tịch, tức y kể truyện chính y. Y ca ngợi Hồ Chủ Tịch, tức y ca ngợi chính y. Sao trên đời lại có đưá vô liêm sỉ đến thế. Câu trả lời là: y là một tên vô học.

Tôi đã đọc tiểu sử Gandhi, Nehru, Tôn Dật Tiên, Ngô Đình Diệm ... Tôi cũng đã đọc tiểu sử Lenine, Staline, Hitler, Mao Trạch Đông.

Chính hay tà, đạo đức hay vô đạo đức, những tên tuổi nói trên không làm trò hề như Hồ Chí Minh. Dù sao họ cũng có học. Đang khi đó, Hồ Chí Minh là một đứa vô học.

Từ vô học đến đểu cáng vô nhân đạo vô ơn bạc tình bạc nghĩa, không xa. Tôi muốn nói đến vụï y đối xử với những người đàn bà đã hiến thân cho y, hoặc đã cưu mang y.

Vụ nàng Nguyễn Thị Xuân – hiến trinh cho y, và có con với y, bị Trần Quốc Hoàn hãm hiếp cực kỳ dã man nhiều lần, rồi sau đó bị giết thê thảm – đã không thể xẩy ra, nếu không có sự đồng tình mặc nhiên của Hồ Chí Minh.

Rồi vụ cụ Vũ Đình Huỳnh. Và vụ nhà văn Vũ Thư Hiên, tác giả “Đêm Giữa Ban Ngày – quyển sách gối đầu giừơng của tôi từ nhiều năm nay, cùng với quyển “Dắt Tay Nhau Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường Của Trí Tuệ” của Hà Sĩ Phu.

Thời Pháp thuộc, cụ ông và cụ bà Vũ Đình Huỳnh đã nuôi Hồ Chí Minh trong nhà, bất chấp những hiểm nguy có thể xẩy ra. Riêng nhà văn Vũ Thư Hiên lúc bé từng được ngủ chung giuờng với Bác.

Và Hồ Chí Minh đã trả ơn như thế nào ?

Năm 1967, cụ ông Vũ Đình Huỳnh và nhà văn Vũ Thư Hiên bị còng tay đưa vào khám Hỏa Lò, người cha đi trước người con đi sau. Hồ Chí Minh đã không có được một lời hoặc một cử chỉ, can thiệp.

Cụ bà Vũ Đình Huỳnh đã không thèm đến kêu oan với Hồ Chí Minh, vì biết rằng kêu oan với một đứa vô ơn cũng vô ích.

Lịch sử nằm ở đó. Cái đẹp nằm ở đó. Và cũng nằm ở đó, cái tồi tệ đểu cáng mất dậy vô học mang tên Hồ Chí Minh.

Rất tiếc, Hồ chí Minh đã được một số chính khách tên tuổi ngoại quốc tiếp tay.

Tôi muốn nói: TT Hoa Kỳ John F. Kennedy, kẻ đã chủ mưu cuộc tạo phản ngày 01/11/1963 của bọn Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim. Cuộc tạo phản ấy đã giết Tổng thống Ngô Đình Diệm và dọn đường cho Việt Cộng thôn tính Miền Nam.

Và tôi muốn nói : cựu tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon, kẻ đã cùng với tên lưu manh Kissinger trao Miền Nam VN cho cộng sản Bắc Việt năm 1975.

Phản bội, gian manh, lá mặt lá trái, phải chăng đó là truyền thống của chính trị Mỹ ?

Riêng tôi, cũng đã học bài học thấm thía. Trong bức điện tín 25/04/1969 gửi về Toà Bạch Ốc, đại sứ Mỹ Bunker đã viết về tôi như sau:

“Những nhà lãnh đạo như Trần Văn Hương và vị trưởng khối Độc Lập tại Thượng Nghị Viện, Nghị sĩ Nguyễn Văn Chức, tuần này đã công khai bầy tỏ lòng tin tưởng rằng Hoa Kỳ sẽ không bỏ rơi Việt Nam” Nguyên văn: Leaders such as Tran Van Huong and the Head of the Senate’s Independance Bloc, Senator Nguyen van Chuc, this week publickly expressed confidence that the US would not abandon Vietnam. (The Bunker Papers, Reports to the President from Vietnam, vol. 2, page 419).

Bunker đã hoàn toàn bịa đặt. Tôi, Nguyễn Văn Chức, không hề tuyên bố như vậy. Có cần phải nói thêm ? Thời Saigon, Bunker nhiều lần mời tôi đến tư dinh, nhưng tôi đã cáo lỗi.

Ngoài những tên tuổi chính trị nói trên, những kẻ đã phản bội Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, và tiếp tay cho Hồ Chí Minh thôn tính Miền Nam Viêt Nam, còn những kẻ tự nhận là nhà văn hoá, là nhà viết sử. Họ cũng ca tụng và tiếp tay cho Hồ Chí Minh.

Tôi muốn nói: những Jean Lacouture, William J. Duiker, Bernard Fall, David Hamberstam, Stanley Karnow, William Burchett ..

Tôi đã đọc họ. Họ ca tụng Hồ Chí Minh. Tôi không trách họ. Nhưng tôi trách họ sau này không đủ trí tuệ để thấy mình sai và nhất là không đủ liêm sỉ để nhìn nhận mình sai.

Họ không đáng xách dép cho Nguyễn Mạnh Tường của “Un Excommunié”, cho những Arthur Koesler, Ignazio Silone, Louis Fisher của “The God That Failed”, cho Trần Dần của “Tôi bước đi, không thấy phố, không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ”, cho Hà Sĩ Phu của “Dắt Tay Nhau Đi Dưới Những Tấm Biển Chỉ Đường Của Trí Tuệ”, v.v...

Riêng Jean Paul Sartre, một thời đã cùng với Merleau Ponty, Raymond Aaron và Simone de Beauvoir hết lời ca tụng con đường cứu rỗi nhân loại của Liên Sô. Sau vụ Budapest (Hungary) 23/11/1956, Sartre đã tỉnh ngộ. Câu nói để đời của ông “Un anticommuniste est un chien” (thằng nào chống cộng sản, thằng đó là con chó) đã mặc nhiên trở thành “Un pro communiste est un chien”. (Thằng nào đi theo cộng sản, thằng đó là con chó). Trí thức là ở đó.

Tôi đã từng tranh luận tại nhiều diễn đàn Liên Hiệp Nghị Sĩ Quốc Tế (Union Interparlemen- taire), trên thế giới. Tôi đã từng lớn tiếng nói lên chính nghĩa đấu tranh của Người Quốc Gia Việt Nam, đồng thời vạch mặt bọn chó đẻ cộng sản quốc tế và tay sai, trong đó có bè lũ Hồ Chí Minh.

Đêm nay, tóc bạc và xa quê hương, tôi viết tập sách nhỏ bé này, để lột mặt nạ Hồ Chí Minh và đảng CSVN của y. Đồng thời nói lên chính nghĩa đấu tranh của dân tộc Việt Nam, trước đây cũng như bây giờ.

Chính nghĩa đó, là: thiết lập một chính quyền mà cựu tổng thống Liên Sô Gorbachev đã định nghĩa là: “nảy sinh từ một cuộc tổng tuyển cử hợp pháp (legal) chánh đáng (legitimate) và lương thiện (honest).” Dĩ nhiên, cuộc tổng tuyển cử ấy phải được đặt dưới sự kiểm soát của Liên Hiệp Quốc, với sự hiện diện của báo chí quốc tế.

Đó là giải pháp duy nhất và cũng là điều kiện tiên quyết để đem dân tộc vào ổn định và đưa đất nước tiến lên.

Tôi viết xong tập sách nhỏ này đêm nay. Mái tóc bạc đối diện với lịch sử.

Trước mặt tôi là hai tấm ảnh đã cũ.

Tấm ảnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm bên cạnh ba người chiến sĩ QLVNCH hải lục không quân. Với lá cờ vàng ba sọc đỏ.

Và tấm ảnh các vị anh hùng đã tuẫn tiết cuối tháng Tư 1975 : tướng Lê Văn Hưng, tướng Phạm Văn Phú, tướng Trần Văn Hai, tướng Nguyễn Khoa Nam, tuớng Lê Nguyên Vỹ. Và đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Với lá cờ vàng ba sọc.

(Riêng đại tá Cẩn, theo tôi được biết, đã bị Việt cộng đem ra xử bắn trước công chúng, vì bất khuất và nặng lời thoá mạ Việt Cộng).

Houston tháng 05/2006
Tháng kính Đức Mẹ Maria
Nguyễn Văn Chức