Tuesday, April 8, 2008

"Bác Hồ" là dân oan???


Trần Thanh

Kể từ khi quyển hồi ký "Đêm giữa ban ngày" của nhà văn Vũ Thư Hiên được xuất bản vào tháng tư năm 1997 tại Pháp thì ở hải ngoại bắt đầu có lan truyền một nguồn tin giật gân: bác Hồ là DÂN OAN! Và đến mười một năm sau, năm 2008, thì bỗng nổ ra một quả bom thối khác: con trai bác Hồ, ông Nguyễn Tất Trung cũng là một DÂN OAN! Không những thế, cả dòng họ Nguyễn Tất đều là dân oan! Các bài viết giật gân này đã được hai tác giả là Bùi Tín và Thiên Đức viết và đã được đăng trên hầu hết các tờ báo lớn ở hải ngoại. Thì ra vậy! Bác Hồ, con trai bác Hồ và cả dòng họ nhà bác cũng đều là những dân oan như hàng triệu người dân oan khác trong nước. Vậy mà từ trước đến giờ, người Việt ở hải ngoại không biết, cứ đi quyên tiền lo cứu trợ cho những người dân oan bị mất đất, mất nhà mà bỏ quên gia đình bác Hồ, thật là thiếu sót "tình nghĩa đồng bào" quá! Theo các tác giả nêu trên cho biết, bác Hồ BỊ OAN, BỊ TƯỚC MẤT HẾT QUYỀN LỰC và toàn bộ "tài sản" của bác cũng bị cướp mất sạch! Chẳng hạn như cái tòa Khâm Sứ ở Hà Nội mà giáo hội Công Giáo đang đòi, chính là tài sản của .... bác Hồ! Cả đất nước Việt Nam và 80 triệu nô lệ người Việt cũng chính là "TÀI SẢN RIÊNG" của bác mà người kế thừa chính là ông Nguyễn Tất Trung! Chớ còn ai vô đó! Khỏi cần thử DNA làm chi cho tốn tiền. Cứ việc nhìn tấm ảnh chụp của cậu Trung Khùng ngồi tại cái bàn bằng đá trong hang Bắc Pó là thấy cậu ta giống y chang như "bác" hồi năm 1944 rồi. Chỉ còn thiếu bộ râu cằm phất phơ nữa là giống một trăm phần trăm! Như vậy, việc giáo hội Công Giáo tự ý tuyên bố chủ quyền trên tòa Khâm Sứ cùng lô đất một hectare và muốn đòi lại mà không xin phép cậu Trung là sai nguyên tắc lắm!

Vì sao có nguồn tin bác Hồ là dân oan? Những ai đã bày ra cái trò hỏa mù này? Nhằm mục đích gì? Chúng ta hãy nối các sự kiện lại với nhau và sau đó thử tìm ra câu giải đáp:

  • I/ NỐI CÁC SỰ KIỆN LẠI VỚI NHAU:

SỰ KIỆN 1:

Ông Vũ Thư Hiên đã từng bị bè nhóm Duẩn-Thọ bắt bỏ tù từ năm 1967 đến 1977 vì tội "chống đảng", hay nói cho đúng hơn là "chống Duẩn-Thọ". Cha của hắn là Vũ Đình Huỳnh từng là thư ký riêng của "bác" Hồ, cũng chịu chung số phận, bị bọn Duẩn-Thọ bỏ tù mà không được "bác" can thiệp! Đến năm 1993, hắn xin đi sang Nga làm công tác thông dịch cho một công ty thương mại rồi xin ở lại luôn. Sau đó hắn trốn qua Ba Lan rồi chuồn sang Pháp, xin tỵ nạn chính trị tại Pháp từ năm 1997. Tháng 4 năm 1997, hắn xuất bản quyển "Đêm giữa ban ngày", kể tội tập đoàn lãnh đạo gian ác Duẩn-Thọ và tên đồ tể Trần Quốc Hoàn.

SỰ KIỆN 2:

Tên việt gian Nguyễn Minh Cần là đệ tử của Tố Hữu, người cùng quê ở Huế, được Tố Hữu nâng đỡ, đề bạt làm phó chủ tịch Ủy ban hành chính Hà Nội kiêm thường trực thành ủy Hà Nội. Năm 1962, nhân hắn bị một vụ tai tiếng với cô cán bộ phiên dịch, có nguy cơ bị mất chức, Tố Hữu bèn ra tay cứu hắn bằng cách đề cử hắn đi học trường đảng cao cấp ở Liên Xô. Sau khi tốt nghiệp, hắn xin ở lại Nga, xin "tỵ nạn" bè lũ Duẩn-Thọ, lấy vợ Nga và nằm chèm bẹp ở bên đó để chờ thời. ĐẾN NĂM 1997 THÌ NGUYỄN MINH CẦN LIÊN LẠC ĐƯỢC VỚI HOÀNG MINH CHÍNH Ở TRONG NƯỚC. Vào thời điểm này, "cụ" Chính vừa mới được thả sau 17 năm ở tù "Duẩn-Thọ" Cả hai tên này, ngưu tầm ngưu, cùng "chí hướng chống Duẩn-Thọ" vì cùng được hưởng ân sủng của "bác" Hồ cho đi du học Liên Xô, đáng lẽ phải được hưởng quyền cao chức trọng trong cái tổ chức đảng cướp việt gian cộng sản, nhưng rủi thay, cả hai đều bị thất sủng, bị bè lũ Duẩn-Thọ-Hoàn đì cho tới số!

SỰ KIỆN 3:

Cha của Bùi Tín là Bùi Bằng Đoàn, nhờ nịnh bợ tên Hồ nên cũng được ban cho chút quyền hành. Giai đoạn 1946-1955, Bùi Bằng Đoàn đã từng là trưởng ban thường trực quốc hội khóa 1. Cho đến bây giờ, hình của "cụ" Đoàn vẫn còn được đăng trên web-site của đảng việt gian cộng sản. Bản thân Bùi Tín đã từng là phó tổng biên tập báo Nhân Dân kiêm đại tá ngụy quân cộng sản. Năm 1990, nhân một chuyến công tác qua Pháp, hắn xin ở lại "tỵ nạn chính trị" Thật ra, có nguồn tin cho rằng hắn được cục tình báo của cộng sản đưa ra nước ngoài dưới lớp áo "nhà phản tỉnh" để gây dựng lực lượng đánh phá cộng đồng người Việt tỵ nạn tại hải ngoại. Sau một thời gian họ Bùi gây dựng "cơ sở cách mạng" thì bảy năm sau, NĂM 1997, TA THẤY CÓ MỘT LIÊN MINH MA QUỶ RA ĐỜI, gồm có kẻ đầu sỏ là tên Bùi Tín và các tên đồng đảng khác là Vũ Thư Hiên và Nguyễn Minh Cần. Ở trong nước thì có các "nhà dân chủ" .... dỏm như Hoàng Minh Chính, Trần Khuê, Nguyễn Thanh Giang.

NỐI KẾT CÁC SỰ KIỆN 1,2,3:

Nhìn chung các tên việt gian như Hiên, Chính, Cần, ta thấy chúng có một hoàn cảnh và ý hướng giống nhau:
- Được hưởng ân huệ của "bác" Hồ, được đi du học Liên Xô, tôn thờ chủ Nga Xô.
- Thuộc thành phần có học, trí thức, giỏi tiếng Nga
- Bản thân họ bị bọn Duẩn-Thọ đày đọa, tù đày
- Gia đình chúng cũng bị đày đọa. Cha của Hiên cũng ở tù. Các con của Hiên và Chính cũng không ngóc đầu lên được dưới sự trù dập của bè lũ Duẩn-Thọ
- Rất căm thù bè lũ Duẩn-Thọ vì đã làm cho cuộc đời của bọn chúng đen hơn mõm chó!
- Tìm cách chạy tội cho "bác" Hồ bằng cách xây dựng nên huyền thoại BÁC HỒ LÀ DÂN OAN, BỊ BÈ LŨ DUẨN- THỌ-HOÀN TƯỚC HẾT QUYỀN HÀNH
- Nhất cử lưỡng tiện, vừa chạy tội cho "bác" vừa đổ mọi tội ác lên đầu các tên đồ tể Duẩn-Thọ-Hoàn, hướng sự căm thù của toàn dân vào ba tên tội đồ lịch sử này!
- Liên minh ma quỷ này phải chờ cho tên Lê Đức Thọ, tức Sáu Búa chết năm 1990; Mai Chí Thọ, đại tướng công an nghỉ hưu năm 1991, bảy năm sau bọn chúng mới dám mạnh dạn hoạt động!

SỰ KIỆN 4:

Bùi Tín là đệ tử của Võ Nguyên Giáp và cả hai cùng là thành phần trí thức nên dễ tìm đến nhau. Năm 1982 Giáp bị đá ra khỏi bộ chính trị. Năm 1983 hắn bị băng Duẩn-Thọ đì và làm nhục, giao cho "chức vụ" chủ nhiệm Ủy ban sinh đẻ có kế hoạch! Đến năm 1991 thì hắn bị loại hẳn ra khỏi trung ương đảng, coi như sự nghiệp chính trị hoàn toàn chấm dứt! Tuy nhiên, tuy bị ra rìa nhưng đàn em, bộ hạ của hắn cũng còn khá đông nên một số tên đã tìm cách vận động đưa hắn vào hệ thống quyền lực trở lại. Bùi Tín khi ra hải ngoại đã tìm cách đánh bóng tên tuổi của Võ Nguyên Giáp. Rủi thay, trời không phù hộ tên Giáp, những tên kế nghiệp Duẩn-Thọ cũng không ưa gì hắn nên cương quyết gạt hắn ra khỏi hệ thống quyền lực. Giờ đây hắn chỉ còn là một cái xác đã chết nhưng còn biết thở với số tuổi 97!

Bản thân Bùi Tín và cha của hắn đều được hưởng nhiều ơn mưa móc nơi "vua" Hồ. Hắn là người trí thức nên chẳng ưa gì những tên dốt nát nắm quyền lãnh đạo như Duẩn-Thọ. Thời điểm năm 1989, mẫu quốc Liên Xô và cả hệ thống cộng sản Đông Âu bỗng nhiên bị sụp đổ. Bọn cộng sản trong nước hết sức hoảng sợ. Lúc bấy giờ tên Nguyễn Văn Linh đang là tổng bí thư, bộ chính trị khóa 6, 1986-1991, vội vàng sang Tàu xin nối lại tình hữu nghị "Việt Trung". Đồng thời cục phản gián việt cộng cử gấp Bùi Tín ra hải ngoại xin "tỵ nạn chính trị" với những nhiệm vụ đặc công đỏ sau đây:

- Chạy tội cho "bác" Hồ, với lý do bác bị tước hết quyền lực
- Đổ hết mọi tội ác do đảng cộng sản đã gây ra cho hai tên Duẩn-Thọ là xong chuyện vì hai tên này đã chết rồi. Nếu ai đó có muốn xác minh thì cứ xuống dưới địa ngục A Tỳ mà xác minh!!!
- Gấp rút đánh bóng thần tượng Hồ Chí Minh để còn có cớ tiếp tục ngồi cai trị lâu dài
- Cấp tốc xây dựng nên "học thuyết" TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH để thay thế học thuyết Mác Lê vừa mới bị sụp đổ ngay tại mẫu quốc Liên Xô!
- Thanh minh giùm cho "bác" Hồ với cộng đồng người Việt tại hải ngoại để xoa dịu bớt sự bất mãn của họ, làm cho họ bớt chống cộng
- Móc nối, chiêu dụ những thành phần quốc gia ba rọi, LẬP TRƯỜNG LỦNG LẲNG, biến họ thành những con cờ hoạt động cho việt cộng
- Lũng đoạn, GÂY CHIA RẼ, PHÁ NÁT cộng đồng người Việt tỵ nạn trên toàn thế giới, làm giảm tiềm lực đấu tranh của người quốc gia.
- Tìm cách móc nối với chính quyền Mỹ, BÁO CHO MỸ BIẾT LÀ VIỆT GIAN CỘNG SẢN MUỐN ĐẦU HÀNG, muốn đi ăn mày, sẵn sàng tôn Mỹ làm ông chủ mới!!! Bùi Tín đã góp một phần làm thành công việc đi đêm này vì ngày 3 tháng 2 năm 1994, tổng thống Bill Clinton đã tháo bỏ lệnh cấm vận đối với việt cộng.

Nói tóm tắt, những nhiệm vụ chính của Bùi Tín có thể gói gọn lại trong sáu chữ: ĂN MÀY-CHIÊU DỤ-PHÁ HOẠI
Ăn mày: hắn đã góp một phần công lao khuyển mã, làm xong phần đầu tức là xin tháo bỏ được lệnh cấm vận. Đảng việt gian cộng sản của hắn sẽ còn đi ăn mày cả thế giới dài dài, suốt cả đời!
Chiêu dụ và phá hoại: Hai công tác này đi song song với nhau. Nếu dụ không được thì phá hoặc vừa phá vừa dụ!

NỐI KẾT CÁC SỰ KIỆN 1,2,3 và 4:

Với những nhiệm vụ hết sức to lớn, quan trọng như vậy, một mình Bùi Tín làm sao lo cho xuể. Đang loay hoay, lo lắng bị thiếu đồng chí thì năm 1993, bỗng nhiên việt cộng cho tên Vũ Thư Hiên được đi công tác sang Nga. Bùi Tín hay tin liền móc nối, kết quả là tên Hiên đã xin ở lại Pháp "tỵ nạn Duẩn-Thọ" vào năm 1997. Và sau đó, Tín đã móc nối được với Nguyễn Minh Cần ở Nga và móc nối với Chính, Khuê, Giang ở Việt Nam. Gom bi những tên đầu trâu mặt ngựa này lại, Bùi Tín đã thành lập được một liên minh ma quỷ và ĐƯỢC SỰ YỂM TRỢ CỦA ĐẢNG VIỆT GIAN CỘNG SẢN, chuyên đi đánh phá, lũng đoạn cộng đồng người Việt tỵ nạn trên toàn thế giới!!!

Cái liên minh ma quỷ này ngày càng kết nạp thêm nhiều loài ma quỷ mới. Mười lăm năm sau, năm 2006, khi nghị quyết 36 ra đời, với sự yểm trợ hàng tỷ đô la nơi đảng việt cộng, bọn chúng đã gia tăng cường độ đánh phá rất mạnh mẽ. Hầu hết các cơ quan truyền thông lớn của người quốc gia ở hải ngoại đều bị bọn chúng pháo kích bằng .... ĐÔ LA và lần lượt bị gục ngã! Xưa kia, trong trận chiến trước năm 1975, nhiều chiến sĩ đã không chết vì đạn pháo cối 81 ly hay đại pháo 130 ly của việt cộng mà giờ đây họ đã gục ngã trước những tờ giấy bạc đô la!

QUẢ BOM THỐI BÁO NGƯỜI VIỆT ĐÃ NỔ :

Để chứng minh cho sự việc nêu trên, mùi thối của quả bom xì-căng-đan báo Người Việt vừa mới nổ ra, vẫn còn làm ô nhiễm bầu không khí của khắp cộng đồng người Việt trên toàn thế giới. Đó là hai tấm hình Đỗ Ngọc Yến, chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Người Việt chụp chung với đám đầu gấu của việt cộng, trong đó có hình của tên Nguyễn Tấn Dũng. Ngày tháng được in trên tấm hình là ngày 22 tháng 5 năm 1998. Như vậy là ĐỖ NGỌC YẾN đã bí mật đi đêm với việt cộng từ lâu rồi, có thể là từ đầu thập niên 1990, chớ không nhất thiết kể từ tháng 5 năm 1998. Địa điểm chụp có lẽ là tòa tổng lãnh sự hoặc tòa đại sứ của việt cộng tại Mỹ.

Kể từ năm 1998, tên Nguyễn Tấn Dũng là ủy viên thường trực bộ chính trị khóa 8, trưởng ban kinh tế trung ương, đặc trách vấn đề KINH TÀI CHO ĐẢNG (buôn bán nô lệ, bán đất, bán biển, bán tài nguyên, MUA CÁC CƠ SỞ TRUYỀN THÔNG Ở HẢI NGOẠI) Ngoài ra hắn còn kiêm các chức vụ khác như phó thủ tướng thường trực, chủ tịch hội đồng tài chính, thống đốc ngân hàng trung ương của việt cộng.

Ngày mồng một tết năm Bính Tuất 2006, tờ báo Người Việt số xuân đã đăng bốn câu thơ:

Can Bính Tuất niên đã rõ Mười
Anh hùng hào Kiệt thế phân đôi
Khải hoàn Lương đạo, An bang mạnh
Minh Triết trời nam tỏa rạng ngời!

Lúc bấy giờ cộng đồng người Việt đã biểu tình, phản đối nhưng báo Người Việt đã chối bai bải, cho rằng đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên và "sơ ý"! Bây giờ bằng chứng đã được công bố, mọi sự thanh minh thanh nga đều vô ích, không ai tin nữa. Báo Người Việt đã giải thích rằng ông Yến là người tò mò - vì là nhà báo- nên thường đi khắp nơi và khi nghe danh bất cứ người nào nổi tiếng, ông đều đến xin gặp nói chuyện cho .... biết mặt!!! Lối giải thích này chỉ tổ làm trò cười cho thiên hạ! Hề quá, ngu quá! May ra chỉ có mấy em nhỏ đang học mẫu giáo, chúng nó tin!

Mới đây, Người Việt tuyên bố Vũ Ánh đã bị cách chức và tòa soạn báo Người Việt đã có BAN LÃNH ĐẠO MỚI, đó là ông Đạt và bà Anh. Người quốc gia thường dùng nhóm chữ "ban quản trị", "ban trị sự" để chỉ việc điều hành những tờ báo hoặc các xí nghiệp. Chỉ có việt cộng mới thường dùng hai chữ "LÃNH ĐẠO", bất kể đó là tổ chức lớn hay nhỏ, tất cả phải được QUẢN LÝ và LÃNH ĐẠO! Ở Việt Nam chúng ta thấy việt cộng có những cơ quan như "Ban quản lý nghĩa trang", "Ủy ban quản lý người nước ngoài", "Ủy ban quản lý chó chạy rông ngoài đường" Tất cả các ủy ban như vậy đều được đặt dưới sự LÃNH ĐẠO của một tên cán bộ cộng sản nào đó! Những người đã chết, những con chó hoang, những người ngoại quốc cũng đều PHẢI "ĐƯỢC" ĐẢNG LÃNH ĐẠO! Ngoài ra, báo Người Việt dùng rất nhiều chữ rặt của việt cộng. Những chữ dùng của người quốc gia trước năm 1975 lần lần biến mất. Một tờ báo như vậy có xứng đáng để chúng ta tin tưởng hay không?

Quả bom thối tháng 3 năm 2008 nổ ở quận Cam mới chỉ là khúc dạo đầu của bản nhạc "Nụ hôn của thần chết". Sắp tới chắc chắn sẽ có thêm những bằng chứng được công bố tiếp cho bà con ta coi chơi, để rồi lại ngao ngán muốn ói mửa như ăn trúng một tô phở bò việt tân đầy chất độc! Những cuộn băng ghi âm, những tờ hợp đồng thỏa thuận bán linh hồn cho quỷ ..v..v.. Đồng bào ta hãy chuẩn bị tinh thần để biết thêm về vài tờ báo khác để rồi tiếp tục thất vọng khi thấy những bộ mặt việt gian, phản bội đồng bào lần lần xuất hiện!

Trở lại vụ BÁC HỒ DÂN OAN: xuyên qua việc nối kết các sự kiện, ta thấy rằng vụ "bác Hồ dân oan" là một sách lược lâu dài của bọn việt gian cộng sản nhằm khống chế hay NÔ LỆ HÓA toàn bộ cộng đồng người Việt tỵ nạn tại hải ngoại! Không phải tình cờ hay ngẫu nhiên mà bọn lưu manh trí thức đặc công đỏ gặp nhau rồi hình thành ra được một liên minh ma quỷ do tên Bùi Tín làm đầu đảng. Phải có sự chỉ đạo ngay từ trong nước, ngay từ bọn đầu gấu trong bộ chính trị.

Chúng ta nên ý thức rõ rằng: ĐỪNG TƯỞNG BỎ CHẠY ĐƯỢC QUA MỸ HAY CHÂU ÂU LÀ TA ĐÃ THỰC SỰ THOÁT KHỎI NANH VUỐT CỦA LOÀI QUỶ DỮ CỘNG SẢN! Đừng, Đừng lầm tưởng mà có ngày chúng ta sẽ phải chết thêm lần thứ hai, lần thứ ba, không kịp hối hận! Bọn chúng có đủ tiền để mua nguyên một dãy phố thương mại của người Việt ở một thành phố nào đó ở hải ngoại và từ đó chúng sẽ lấy thịt đè người, dùng đủ mọi thủ đoạn lưu manh thương mại, giết chết hết tất cả các tiểu thương. Toàn bộ sự nghiệp, mồ hôi nước mắt của chúng ta gây dựng suốt 30 năm nay sẽ tiêu tan theo mây khói. Lúc ấy chúng ta sẽ phải trở về thời kỳ đi làm nô lệ cho bọn việt gian cộng sản như hồi thập niên 1975-1985 và LÀM NÔ LỆ CHO BỌN CHÚNG NGAY TRÊN ĐẤT MỸ! Lúc ấy súng AK, nón cối, dép râu sẽ hiên ngang xuất hiện công khai trên phố Bolsa, Little SaiGon! Bọn công an khu vực sẽ đến gõ cửa từng nhà bắt chúng ta đi làm .... sổ hộ khẩu- hậu khổ, bắt đi lao động xã hội chủ nghĩa, bắt đi coi văn nghệ mừng ngày sinh nhật của bác Hồ 19 tháng 5!!! Xin đừng quên những câu thơ này của một cô giáo trẻ, bị việt cộng ghép tội "phản động", đánh cô hộc máu chết hồi sau năm 1975:

Đôi dép râu giẫm nát đời son trẻ
Nón tai bèo che khuất ánh tương lai
Đời đói khổ chạy đâu đố khỏi
Gắng thi đua để chẳng có ngày mai
Đường bác đi là con đường bi đát
Thuyết Mác Lê mang đến họa ương tai
Người cùng khổ sống chỉ một lần chết
Họa vô thần bắt chết cả lần hai!!!
  • II/ THỬ TÌM RA CÂU GIẢI ĐÁP:

Trong phần trên chúng ta đã thấy được phần nào của bức tranh tổng quát qua việc nối kết các sự kiện. Trong phần hai này, chúng ta tiếp tục soi rọi vào chiều sâu của bức tranh để tìm ra câu giải đáp cho các câu hỏi sau đây:

1. Có phải bác Hồ là dân oan hay không? (bị bè nhóm Duẩn-Thọ tước hết quyền hành, bị cướp hết tài sản)
2. Có phải dòng họ "Nguyễn Tất" đều là dân oan?
3. Có phải Hồ Chí Minh vô tội trước lịch sử, tính từ thời điểm năm 1957 trở về sau và mãi mãi sau này?

Sở dĩ chúng ta phải tìm ra câu giải đáp vì nhóm đặc công đỏ của Bùi tín và bọn việt gian cộng sản trong nước đã liên tục thanh minh cho "bác" Hồ và đổ hết tất cả mọi tội lỗi lên trên đầu bè nhóm Duẩn-Thọ. Bây giờ chúng ta thử làm một cuộc giải phẫu nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh xem sao:

A. NHỮNG ƯU THẾ CỦA TÊN HỒ ĐỐI VỚI THUỘC CẤP:

1. Ưu thế về tuổi tác:
Hồ có nhiều năm sinh, trong đó bọn việt gian cộng sản thường dùng năm 1890. Như vậy nếu so với Lê Duẩn(1907), Hồ lớn hơn 17 tuổi; so với Lê Đức Thọ(1911) Hồ lớn hơn 21 tuổi và so với Trần Quốc Hoàn (1916) Hồ lớn hơn 26 tuổi! Nếu giả sử dùng giọng lưỡi giang hồ để nói chuyện với bọn đàn em, Hồ có thể dằn mặt, đánh phủ đầu bằng câu nói: - Cái ngày tụi bay chưa ra đời thì tao đã biết đi sang bên Mỹ (tháng 12 năm 1912) để .... chơi đĩ ở bên đó rồi!

Còn đối với Lê Duẩn và Lê Đức Thọ có thành tích ở tù 10 năm thì Hồ chỉ cần phang luôn một câu là Duẩn-Thọ ngọng liền, thấy mình thua kém đại ca Hồ quá xa: - Thời gian mấy chú mày ở tù không bằng thời gian tao bị bệnh lậu mủ với giang mai ở hải ngoại!!! ( Hồ bỏ nước ra đi giang hồ, 30 năm sau hắn mới quay về)

Trần Quốc Hoàn thua Hồ tới 26 tuổi, đáng tuổi con cháu thì Hồ có thể bóp mũi tên này bất cứ lúc nào:- Ê Hoàn, BÀ NGOẠI của mày chính là .... bạn gái của tao đó!!!

Vấn đề tuổi tác có tầm ảnh hưởng rất lớn trong các mối quan hệ làm việc, nhất là đối với truyền thống Á đông. Đặc biệt trong lãnh vực hoạt động cách mạng của việt cộng, sống trốn tránh để cướp chính quyền thì tên nào càng nhiều tuổi chừng nào thì càng có nhiều kinh nghiệm giang hồ chừng đó. Vấn đề kiến thức và bằng cấp ít có cơ hội để phô trương trong những hoàn cảnh như vậy. Do đó, vấn đề tuổi tác hầu như được xem như MỘT LOẠI BẰNG CẤP bất thành văn để xác định thứ bậc trên dưới trong băng đảng của bọn việt gian cộng sản. Và tên Hồ với bản chất gian ác, láu cá vặt thì chắc chắn hắn phải biết tận dụng ưu thế tuổi tác để dằn mặt bọn đàn em bằng nhiều hình thức. Có nhiều người hắn chỉ lớn hơn có một vài tuổi mà hắn vẫn tự xưng bằng "bác" tỉnh bơ, đủ biết hắn tự cao tự đại, xấc láo tới cỡ nào, huống hồ gì khoảng cách tuổi tác giữa hắn và bọn Duẩn-Thọ-Hoàn rất xa!

2. Ưu thế về chữ quốc ngữ:
Đọc đến đây, chắc có bạn sẽ thắc mắc: biết đọc viết tiếng Việt thì có gì lạ mà gọi là ưu thế? Xin thưa rằng xã hội nước Việt Nam ở miền bắc, từ năm 1940 đến 1960 còn rất lạc hậu, rất nhiều người MÙ CHỮ QUỐC NGỮ! Thậm chí vào thời điểm năm nay, năm 2008, sau hơn 60 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội "giàu đẹp- dẹp đầu"mà trong nước vẫn có rất nhiều người thất học, mù chữ, hàng năm có hàng triệu học sinh phải bỏ học vì không có tiền đóng học phí! Thiên đường xã hội chủ nghĩa là như vậy đó, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của đỉnh cao trí tuệ!

Không nói gì đâu xa, chính tên Phùng Thế Tài*, cận vệ của Hồ, sau được Hồ phong lên cấp thượng tướng, làm tư lệnh không quân, là thành phần mù chữ. Hắn là con nhà nghèo, chưa bao giờ được đi học, 13 tuổi đã trở thành du đãng chuyên cướp giật ở các bến xe, bến tàu. Khi bị chính quyền truy nã, hắn bỏ trốn sang Vân Nam, Trung Quốc, gặp Hồ, được Hồ "giác ngộ cách mạng" rồi trở thành đệ tử của Hồ! Năm 1941, khi núp náu ở hang Bắc Pó, hàng ngày hắn được Hồ dạy chữ quốc ngữ!

Rất nhiều tên đàn em của Hồ bị mù chữ, do đó khi bọn chúng thấy Hồ "sáng tác văn chương" và nghe nói "bác" viết sách bằng tiếng Pháp (ăn cắp), làm thơ bằng tiếng Hán, tập "Ngục Trung Nhật Ký" (thơ ăn cắp) , soạn thảo "Bản tuyên ngôn độc lập" đọc trước quảng trường Ba Đình, làm được thơ lục bát, biết làm mấy câu vè kháng chiến thì bọn chúng bái phục Hồ như ông thánh sống! Sau đây là một vài câu vè do "bác" sáng tác thời chín năm kháng chiến:

- Hòn đá to, hòn đá nặng, một người khiêng, khiêng không đặng
- Hòn đá to, hòn đá nặng, mười người khiêng, khiêng thì đặng
- Đánh giặc Pháp, là việc khó, là việc to, trăm người lo, lo không đặng
- Đánh giặc Pháp, là việc khó, là việc to, triệu người lo, lo thì đặng!!!

Những tên bồi bút của Hồ đã hết lòng ca ngợi, bốc thơm bài vè trên là có tính .... ưu việt, tính quần chúng, tính đảng, tính chiến đấu cao, tính bình dân học vụ, tính đấu tranh giai cấp!!!! ..v..v...

3. Ưu thế về ngoại ngữ:
Hồ đi giang hồ trên 30 năm, đã từng sống trên gần 10 quốc gia trên thế giới cho nên hắn biết nhiều ngoại ngữ là chuyện bình thường:
- Đầu tiên, chắc chắn là hắn phải biết đọc, biết viết chữ Hán vì cha hắn đã từng đậu phó bảng. Mức độ giỏi tới cỡ nào thì chưa cần bàn nhưng chắc chắn là hắn phải hơn đứt mấy tên Duẩn, Thọ và Hoàn vốn là những thành phần vô học, dốt đặc cán mai, một chữ "nhất" bẻ làm đôi cũng không biết!

- Tiếp theo là hắn biết đọc, viết và nói tiếng Pháp vì đã được đi học tới lớp 7 và đã từng sống ở Pháp trong thời gian gần 15 năm. Đó là chưa kể khi về nước, hắn đã "nổ" với bọn đàn em là hắn đã viết quyển sách "Bản án thực dân Pháp tại Đông Dương" và viết bằng tiếng Pháp thì mấy tên đàn em như Duẩn, Thọ, Hoàn chỉ còn có nước chắp tay vái lạy!

- Hồ biết đọc, viết và nói tiếng Anh. Hắn đã từng sống tại Anh quốc nên chắc chắn là có cơ hội để học ngoại ngữ này. Một điểm quan trọng khác là Hồ đã có thời gian khoảng 5 năm làm tà lọt cho ông Mikhail Markovich Borodin tại Trung Quốc, trong khoảng thời gian từ 1924-1927. Ông Borodin là cán bộ cộng sản người Nga, đã có thời gian theo học đại học và dạy tiếng Anh tại Mỹ trong vòng 10 năm(1908-1918) Là cán bộ thông phiên dịch tiếng Anh của phái đoàn cộng sản Liên Xô tại Trung Quốc, chắc chắn tiếng Anh của ông phải rất giỏi. Như vậy nội mấy chữ tiếng Anh mà ông làm rơi rớt dưới đất, Hồ lượm được, học lỏm thì cũng đủ cho hắn khi về nước xưng hùng xưng bá với thiên hạ rồi! Quả thật như vậy, năm 1944 khi Hồ về nước hoạt động thì hắn có cơ hội tiếp xúc với các sĩ quan Mỹ thuộc đội đặc nhiệm OSS tại vùng rừng núi Cao Bằng. Thế là số vốn liếng tiếng Anh mà hắn đã từng học được nơi sư phụ Borodin có dịp được hắn nói vung xích chó với các sĩ quan Mỹ, đến mức được ông tướng Mỹ khen là hắn"coỏng" tiếng Anh giỏi. Thừa thắng xông lên, Hồ bèn .... xin ông tướng Mỹ một khẩu súng lục để làm kỷ niệm! Ông tướng hào phóng cho Hồ ngay nhưng Hồ láu cá ráng kỳ kèo xin thêm cái bao da đựng súng có chữ ký của ông tướng cho thêm phần le lói! (để đem khoe, hù hè thiên hạ)

Kể từ đó Hồ cho đàn em phao tin đồn rầm lên là Việt Minh được nước Mỹ tiếp tế vũ khí để đánh Tây! Và khi đi bất cứ nơi đâu, Hồ cũng đeo khẩu súng Colt lủng lẳng bên sườn; khi vào bất cứ cuộc họp nào Hồ cũng đưa cái bao da đựng súng có chữ ký của ông tướng Mỹ cho bọn đàn em thấy, để có thêm chút hơi hám của Mỹ mà hăng tiết vịt lên đi làm nô lệ cho Hồ!!! Ngón võ công "mượn oai hùm" này của Hồ đã được bọn đàn em của Hồ như Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng áp dụng trong mấy năm vừa qua: ráng lết cái thân chó ngựa qua Mỹ, khỏi cần quốc khách quốc khéo gì, vào được tòa bạch ốc, chụp hình, bắt tay với ông Bút, khi về nước tha hồ hù dọa dân đen!!! Với tấm hình bắt tay với tổng thống Mẽo, bọn Triết-Dũng cho phổ biến rộng rãi trong nước như một lời răn đe với người dân: tụi bay liệu hồn, tụi tao đã bắt tay với ông Bút rồi, muôn đời không bao giờ chúng mày lật đổ được tụi tao. Bọn "phản động" ở nước ngoài là đồ bỏ!!!

Sự việc tên Hồ nói tiếng "Ăng Lê" với người Mỹ được nhiều tên đàn em như Phùng Thế Tài, Phùng Chí Kiên và nhiều người dân tộc Nùng chứng kiến. Một đồn mười, mười đồn trăm, vài năm sau đó cả nước đều biết là "bác" Hồ nói được tiếng Ăng Lê như gió! Mấy tên như Duẩn-Thọ-Hoàn làm sao mà có được trình độ .... "thiên tài" này?

- Hồ chắc chắn phải biết tiếng Nga vì hắn đã từng sống ở Nga khoảng 5 năm. Mức độ đọc, viết, nói giỏi tới cỡ nào thì không có tên đàn em nào kiểm tra được, tuy nhiên, chỉ cần nghe hắn kể:
- Tao đã từng ghé thăm lăng Lê Nin, đã từng sống ở Mạc Tư Khoa, mùa đông tuyết ngập tới ... cổ! Ở bên Liên Xô, mỗi lần muốn ăn kem, tao chỉ việc bước ra ngoài vườn, hốt một nắm tuyết bỏ vào ly rồi bỏ vào đó vài thìa đường, khuấy lên là .... thành kem! Tao cũng đã từng ngồi "họp" với ông Xít Ta Lin, nói chuyện bằng .... tiếng Nga với ông ta cả mấy tiếng đồng hồ, bàn chuyện quốc tế vô sản với ông ta .... là mấy tên đàn em há hốc mồm, phục đại ca Hồ sát đất! Cả đời bọn chúng chỉ được thấy tấm hình vẽ của tên đồ tể Xít Ta Lin, tên nào may lắm là được thấy hình chụp. Vậy mà Hồ đã từng ngồi "họp" với ông Xít Ta Lin, trùm cộng sản thế giới thì "uy tín" của Hồ lớn tới cỡ nào! Hồi ở bên Liên Xô, Hồ đã láu cá xin tên Stalin ký vào một tờ báo để Hồ giữ làm kỷ niệm nhưng sau đó Stalin đã cho mật vụ lẻn vào phòng của Hồ lấy lại. Nếu còn tờ báo đó đem về Việt Nam, Hồ đưa ra khoe với lũ đệ tử thì bọn chúng chỉ còn có nước công kênh Hồ lên bàn thờ để thắp nhang thờ sống!!!

- Ngoài bốn ngoại ngữ chính là Anh, Pháp, Nga, Tàu mà Hồ biết tương đối khá thì hắn có thể biết thêm một vài ngoại ngữ khác như tiếng Thái, tiếng Lào ở mức độ ba xí ba tú nhưng cũng đủ để lòe bịp mấy tên đàn em với câu nói:" tao đã từng sống ở bên Thái, bên Lào, hoạt động cách mạng ở tại đó!"

Ngoài ra, ai cấm hắn "nổ" hắn biết nói tiếng Đức, tiếng Ba Lan, tiếng Hung, tiếng Tiệp, tiếng Ý, tiếng Công Gô, tiếng Ma Róc? Hắn có thể nói:- Thời gian sống ở Liên Xô, đồng chí Stalin đã từng cử tao đi công tác ở Đức, Ba Lan, Ý Đại Lợi, Công Gô, Ma Róc! Ai mà kiểm chứng được?

Nói tóm lại tên Hồ, với thành tích 30 năm đi giang hồ trên thế giới, khi về nước hắn tha hồ nói phét mà chẳng có tên đàn em nào kiểm chứng được. Mà cho dầu có biết hắn nói phét, cũng chẳng có tên nào dám mở miệng tố cáo. Lơ mơ là toi mạng! Như vậy, với ưu thế biết nhiều ngoại ngữ, tên Hồ có thể thu phục đám đàn em một cách dễ dàng. Bọn chúng sẽ lý luận rằng: - tụi mình chỉ nói có một ngôn ngữ mà còn chưa nên thân, chữ QUỐC NGỮ THÌ MÙ TỊT vậy mà "bác" biết tới MƯỜI NGOẠI NGỮ thì ổng làm "cha", làm đại ca của tụi mình là phải rồi!!!

4. Ưu thế về gia thế:
Hồ thuộc loại con ông cháu cha. Cả cha và ông nội của Hồ đều là những người trí thức, đậu cử nhân Hán học và được ra làm quan dưới triều Nguyễn. Trong khi đó, những tên đàn em của Hồ như Duẩn, Thọ, Hoàn đều xuất thân từ thành phần bần cố nông, ba đời cu li, bốn đời cu leo, rất nghèo và dốt nát.

Tất nhiên nếu đứng trên lý thuyết giai cấp vô sản mà xét thì Hồ xuất thân từ giai cấp phong kiến "phản động", lý lịch cá nhân không bằng Duẩn-Thọ và Hoàn. Nhưng đứng về mặt tâm lý cá nhân thì những tên đàn em vẫn có một sự nể nang về gia thế của Hồ và cảm thấy có sự tự ty mặc cảm.

5. Ưu thế về sống ở nước ngoài:
Xã hội Việt Nam trong giai đoạn năm 1940-1960 vẫn còn hết sức là nghèo đói và lạc hậu. Đến 80 phần trăm dân số là nông dân. Nhiều người từ lúc sinh ra đời cho đến lúc chết, chưa bao giờ đi ra khỏi bốn lũy tre xanh của làng. Người nào may lắm là được lên thành thị một đôi lần, trông thấy mấy chiếc ô tô, xe lửa, tàu thủy hay được vào rạp hát xem xi nê thì cứ như là được lên thiên đàng! Thời bấy giờ nền văn minh của người Pháp vẫn còn ảnh hưởng rất lớn đối với người dân. Điều này được thể hiện qua ngôn ngữ. Những cái gì có tính cách sang trọng, văn minh là đều có dính chữ "tây" vào.

Ví dụ:
- Giày tây - quan tây - nhà hát tây - ô tây (cây dù) - bánh tây (bánh mì) - kẹo tây - quần tây - thuốc tây - ông lang tây - lịch tây
- Cô ấy là cô răng trắng có tây học (ở ngoài bắc, đa số đàn bà nhà quê đều nhuộm răng đen)
- Ông ấy biết nói tiếng tây, làm việc cho tây

Vậy mà, dưới con mắt của đám dân đen, "bác" Hồ đã chơi nổi, chơi cao hơn thiên hạ một bậc là đã từng sống ở xứ Tây chánh gốc, hoạt động "cách mạng" ở bên đó gần 15 năm! Như vậy bác không phải là "tây" o-ri-gin, là "cha thiên hạ" thì là gì?

Ngoài "thành tích" 15 sống ở Pháp, Hồ còn sống ở nhiều nước khác như Anh, Mỹ, Liên Xô, Tàu, Thái Lan ..v..v.. Cứ mỗi một quốc gia Hồ đã từng sống qua, được xem như một cái bằng đại học hay bằng tiến sĩ mà khi về nước Hồ trưng ra cho bọn đàn em "xem" qua các câu chuyện kể, những điều mắt thấy tai nghe ở hải ngoại, bấy nhiêu đó cũng đủ làm cho những tên sừng sỏ nhất phải nể nang! Có thể nói, tên Hồ ví như một con nhái đã bò lên được miệng giếng, đi đây, đi đó và khi trở về lại đáy giếng, hắn tha hồ bốc phét, hù hè những con nhái khác suốt đời chưa bao giờ bò lên đến miệng giếng!

Chúng ta thử nhớ lại thời kỳ những năm 1975-1985, dưới sự cai trị của Lê Duẩn, Việt Nam bị Mỹ áp đặt lệnh cấm vận, bị cô lập hầu như với cả thế giới. Thời kỳ đó tâm lý chuộng đồ ngoại lên rất cao trong toàn dân. Bất cứ những món đồ gì do các nước ngoài chế tạo đều được xem như rất có giá trị, miễn không phải "made in VietNam" là được! Thậm chí những đôi dép Lào cũng được người dân rất quý vì nó được chế tạo ở bên .... Lào! Các cán bộ cộng sản đã từng được đi du học tại Liên Xô, Đông Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc cũng được xem như một loại "hàng ngoại", một loại chất xám "ngoại", tương tự như đôi dép Lào, rất là... quý! Những tên cán bộ này tha hồ bốc phét với các đồng nghiệp. Ngày nào bọn chúng cũng được các đồng nghiệp pha trà ngon, mời thuốc lào hoặc thuốc cán để kể chuyện bên Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, Đông Đức nghe cho đỡ .... thèm!!! Và mỗi khi làm việc với bất cứ ai, để "gây ấn tượng", bọn này thường nhập đề bằng câu:
- Hồi còn ở bên Liên Xô/Ba Lan/Tiệp Khắc, tôi đã từng ...... tôi đã thấy ..... tôi đã nghe ..... tôi đã được ..... tôi đã thử ... tôi đã gặp .... Nó là như vậy ...... như vậy ..... như vậy ...... như vậy, HAY LẮM, chớ không phải như ở bên mình!!!

Ngày nào cũng kể chuyện "hồi ở bên đó" riết rồi cũng phải hết chuyện nhưng người nghe vẫn cứ muốn nghe chuyện "bên trời tây" cho đỡ buồn, chớ ngày nào cũng bị cưỡng bức nghe chuyện xã hội chủ nghĩa giàu đẹp, chuyện bác và đảng thì chán quá! Thế là bọn cán bộ du học buộc lòng phải bịa thêm chuyện ra để đáp ứng "nguyện vọng của quần chúng"! Nào là những chuyện nhảy đầm với tây, đi ăn với tây, ngủ với gái tây ra sao ..v..v.. Thậm chí có đồng chí tò mò hỏi:- tóc của con gái tây màu vàng, thế còn lông .... lồn của nó thì màu gì? Có phải cũng màu đen giống như tóc của mình không? Tất cả những thắc mắc "của quần chúng" đều được các anh cán bộ du học giải đáp đầy đủ, mỗi ngày mỗi khác, nhưng người nghe vẫn luôn luôn chưa thỏa mãn, muốn nghe hoài hoài!

Tôi hơi dông dài ở đoạn trên để muốn nói lên một điều: - các cán bộ cộng sản đi du học chỉ có mấy năm mà khi về nước, bọn chúng kể chuyện bên trời tây cho quần chúng nghe tới .... mấy chục năm vẫn chưa hết chuyện! Vậy thì tên Hồ đã từng sống ở hải ngoại 30 năm thì khi về nước hắn tha hồ "nổ" tới cỡ nào, nhất là xã hội Việt Nam trong giai đoạn 1940-1960, ở ngoài bắc nó nghèo đói rất thê thảm và cái đám "quần chúng" đi theo tên Hồ, 100% là thất học, suốt đời đi chân đất, không bao giờ biết cục xà bông hay ống kem đánh răng là gì!!!

Ta cứ thử hình dung ra tên Hồ kể chuyện cho đám đàn em của hắn như vầy: - Hồi ở bên nước ..... bác đã từng ...... bác đã làm ..... bác đã thấy ..... bác đã nghe ..... bác đã sờ ..... bác đã hửi ..... bác đã liếm ..... bác đã ngậm .... bác đã bú .... bác đã nuốt .... bác đã được .....

Tên Hồ kể tới đâu là đám đàn em nuốt nước bọt tới đó! Bọn chúng chưa được lên thiên đàng, thì thôi, nghe kể cho đã thèm cũng coi như lên thiên đàng rồi! Chưa bao giờ được ăn cái bánh kem thật thì cứ nhìn cái hình vẽ do bác vẽ ra mà tưởng tượng rồi nuốt nước miếng. Thế cũng xong! Bác Hồ là người ở thiên đàng về. Đi theo bác sẽ có ngày bọn mình cũng được lên thiên đàng!!!

Chưa hết, bác lại tiếp tục đưa những quần chúng lên thiên đàng .... bánh vẽ: - Hồi ở bên Liên Xô, bác đã từng thấy mỗi một nông dân được nhà nước cấp cho một trăm mẫu ruộng, rồi họ được cấp cho máy cày không người lái, được cấp cho máy bay để đi thăm ruộng!

Đám dân ngu khu đen ở Cao Bằng cứ tròn xoe mắt, há hốc mồm ra và trong đám người đó có cả cô bé Nông Thị Xuân, lúc đó năm 1944, mới có 10 tuổi!!! Có người hỏi: - Bác ơi, thế ở Việt Nam mình thì sao? Bác ôn tồn trả lời: - Các cháu cứ việc đi theo bác. Khi cách mạng thành công, đánh đuổi giặc Tây xong rồi, bác sẽ tiến hành cải cách ruộng đất, mỗi người nông dân cũng sẽ được cấp cho 100 mẫu ruộng, một xe cày không người lái và một chiếc máy bay để đi thăm ruộng, y hệt như tiêu chuẩn bên Liên Xô. Quốc tế vô sản là như thế, ở mọi nơi trên thế giới, tiêu chuẩn đều như nhau!!! Nghe bác hót líu lo như vậy, những người dân đen muốn té lăn ra đất ngất xỉu vì sung sướng cái lỗ tai quá, đã đời cái tâm hồn thèm nghe chim hót! Có nhiều người từ lúc đi theo "bác" cho đến lúc bị chết tan xác ở một nơi nào đó trên quê hương, vẫn chưa bao giờ được mang dép hay được tắm bằng xà bông cục!

6. Ưu thế về trình độ văn hóa:
Tên Hồ đã học đến lớp bảy. Có thể đang học dở dang thì hắn bị đuổi. Thời buổi bây giờ, trình độ văn hóa lớp bảy là đồ bỏ, thế nhưng đối với xã hội Việt Nam ta vào khoảng năm 1906 thì nó quý giá, to tát lắm lắm. Vào đầu thế kỷ thứ 19, nơi thôn quê, một người chỉ cần biết đọc, biết viết sơ sài chữ quốc ngữ, tiếng Pháp thì bập bẹ dăm câu tiếng bồi là có thể được người dân quê phong cho chức "thầy ký", gọi bằng "thầy" một cách kính cẩn! Vậy mà tên Hồ đã học tới lớp .... bảy và được học ở trường Quốc Học nữa, oai biết chừng nào! Dưới con mắt của đám dân quê thời đó, cái trình độ văn hóa lớp bảy của tên Hồ nó cao sang và hiếm hoi cũng tựa như cái bằng tiến sĩ .... không gian trong thời đại ngày nay, thế kỷ thứ 21!!!

Trong khi đó thì các tên như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trần Quốc Hoàn có được những bằng cấp gì ngoài cái bằng "CHĂN TRÂU"?

7. Ưu thế về vây cánh, tay chân, bộ hạ:
ĐÂY LÀ YẾU TỐ QUAN TRỌNG NHẤT TRONG MỌI YẾU TỐ. Hồ bắt đầu gây dựng vây cánh, bè đảng kể từ khi hắn còn hoạt động bên Trung Quốc. Lúc bấy giờ, năm 1941, hắn gặp Phùng Thế Tài, thấy tên này có tướng trâu bò, thuộc loại to con lớn xác, nên Hồ đã tuyển dụng tên Tài làm cận vệ cho hắn. Sau này tên Tài được Hồ phong chức tư lệnh không quân, mang quân hàm thiếu tướng. Sau năm 1954, sau khi hoàn toàn cướp được chính quyền và diệt hết các đảng phái quốc gia thì Hồ đã ưu tiên bố trí những chức vụ then chốt cho những tên đàn em trung thành, có công đi theo phò "vua" Hồ từ thuở còn hàn vi trong hang Bắc Pó. Có thể nói, ngay trong bộ chính trị và trung ương đảng, toàn bộ các chức vụ, từ lớn đến nhỏ đều do một tay Hồ bố trí sắp đặt. "Cha" Hồ đặt các "con" ngồi đâu thì cứ việc ngồi đó, việc bầu bán chỉ là trò hề để lòe bịp dân đen và thế giới! Và cứ bổ theo hàng dọc, từ trung ương xuống dưới địa phương, toàn bộ các chức vụ quan trọng đều do các tay chân thân tín của Hồ nắm giữ. Đó là một hệ thống chân rết, một màng lưới ngang dọc chằng chịt để bảo vệ cái ngai vàng của Hồ.

Đó là chưa kể trong ban lãnh đạo cao nhất tức bộ chính trị, Hồ đã khôn khéo bố trí những tên đàn em "chó mèo" nhốt chung một chuồng để bọn này luôn kình chống, gấu ó, ganh ghét, kiểm soát lẫn nhau, tạo nên phương trình cân bằng quyền lực cho Hồ! Chẳng hạn, ta thấy trong ban chấp hành trung đảng khóa 2, (1951- 1960) bộ chính trị có nhóm trí thức như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan. Bên cạnh đó có nhóm bần cố nông, chăn trâu như Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Thọ ..v..v..

Sau đây là một vài trường hợp "chó mèo" ghét nhau:
- Tên Hoàng Văn Hoan là dân cá gỗ, xứ "bọ", trọ trẹ (Nghệ An), đồng hương của Hồ, đặc biệt rất ghét Lê Duẩn. Hắn cay cú vì đã từng tham gia cách mạng từ năm 1926 và có thành tích hoạt động tại Thái Lan, Trung Quốc liên tục 15 năm vậy mà lại bị lép vế so với Lê Duẩn, mãi đến năm 1956 hắn mới được vào bộ chính trị, trong khi đó Lê Duẩn đã được vào ban chấp hành trung ương đảng ngay từ khóa 1(1935-1951)

- Lê Duẩn vô cùng căm thù Trường Chinh vì khi hắn bị Pháp bắt năm 1940, bị kết án 10 năm tù, bị đày đi Côn Đảo thì Trường Chinh đã không xin Mặt Trận Bình Dân Pháp (thiên tả) ân xá cho hắn mà xin ân xá cho Trần Văn Giàu cũng đang bị tù Côn Đảo. Trường Chinh là quyền Tổng Bí Thư đảng kể từ năm 1940. Đó là lý do vì sao sau này khi Duẩn lên ngôi vua thì hắn đì những thành phần trí thức tới số!

Chúng ta thấy trong một cơ quan của việt cộng, đôi khi một tên thủ trưởng mới được bổ nhiệm phải chịu lép vế trước một tên phó giám đốc hoặc trưởng phòng. Lý do: tuy những tên này là cấp dưới nhưng bọn chúng đã ngồi đến mọc rễ tại vị trí đó đã lâu năm, vây cánh bè đảng của bọn chúng khắp nơi. Tên thủ trưởng mà lơ mơ là bị chúng lật nhào dễ như bỡn. Đối với tên nào có bản lĩnh, kiên nhẫn thì phải chờ thời gian thuận lợi, tìm cách chặt bớt vây cánh của đối phương và đưa dần người của mình vào thay thế. Tất cả đều đòi hỏi phải có thời gian, thủ đoạn và kiên nhẫn.

Riêng đối với tên Hồ, từ khi hắn cướp được chính quyền vào năm 1945, hắn phải mất vài năm để loại trừ hết những người thuộc các đảng phái quốc gia. Tiếp theo hắn gây dựng vây cánh từ trung ương đến địa phương, khắp mọi nơi toàn là những tên lâu la đã từng chịu ơn hắn và trung thành với hắn tuyệt đối. Chỉ khi nào thấy thế lực của hắn thật vững vàng, lúc ấy hắn mới phóng tay tiến hành cuộc cải cách ruộng đất, cao điểm là từ năm 1953 đến 1956. Gọi là "cải cách ruộng đất", sự thực, mục tiêu chính là diệt hết những mầm mống có thể nổi lên chống lại cái chế độ thổ phỉ của giặc Hồ sau này. Và phương thức của bọn chúng là "nhổ cỏ tận gốc" hoặc "thà giết lầm còn hơn bỏ sót", nghĩa là trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ, đến nỗi đến HƠN 50 NĂM SAU, những giai cấp này vẫn chưa gượng dậy được!

Vây cánh và thế lực của Hồ đã được hắn dày công gây dựng liên tục trong 15 năm, kể từ năm 1940 cho đến 1955, cũng tựa như khi xây một cái hầm trú ẩn mà người kiến trúc sư đã đổ BÊ TÔNG DÀY ĐẾN HAI BA LỚP! Đó là chưa kể đến những huyền thoại, những hào quang bao chung quanh hắn dày đặc do chính hắn tự vẽ ra và do đám nịnh thần vun đắp cho thêm phần linh hiển!

8. Ưu thế về kinh nghiệm hoạt động chính trị:
Hồ đã lăn lộn 30 năm ở nước ngoài để tìm đường cứu cái .... bao tử của mình. Trong suốt thời gian từ năm 1934-1938, hắn bị giam lỏng ở Liên Xô. Cũng trong giai đoạn này tên đồ tể Stalin đang tiến hành cuộc đại thanh trừng, giết chóc và đày đọa hàng chục triệu người. Chắc chắn tên Hồ phải chứng kiến hoặc nghe kể về những cuộc giết chóc, đày ải này để rút kinh nghiệm cho bản thân, sau này về nước áp dụng! Rồi những năm tháng hắn hoạt động bên Trung Quốc, bị ở tù ở Quảng Châu năm 1942. Đây là giai đoạn tên Hồ rút tỉa kinh nghiệm nhiều nhất vì hắn tiếp xúc với nhiều đảng phái quốc gia, biết rõ nhiều nhân vật chính trị không cộng sản. Nhờ vậy, khi cướp được chính quyền, để diệt trừ hậu hoạn, Hồ đã giết một số lớn những người thuộc các đảng phái quốc gia!

Những tên như Duẩn-Thọ-Hoàn làm sao có được "bản lãnh" này như Hồ?

9. Ưu thế về bản tánh đại gian ác, đại lưu manh, xảo quyệt.
Hồ có tính gian ác, xảo quyệt bẩm sinh, nghĩa là cái gien đó đã có sẵn khi hắn vừa mới bật tiếng khóc chào đời. Chính vì vậy mà trong suốt 30 năm đi giang hồ hắn đã sống còn và ngoi lên từng bậc qua nhiều cam go thử thách. Nghệ thuật ngoi lên của hắn được xây dựng trên căn bản lừa bịp và .... giết người! Ta thấy những tên cộng sản gộc như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Phùng Chí Kiên, đa số là những người đồng hương, cùng dân "cá gỗ", xuất thân từ gia đình Nho học, cùng đi làm cách mạng, được đi du học bên Liên Xô tại trường đại học Phương Đông. Nghĩa là những tên này là bậc đàn anh của Hồ, hơn Hồ rất xa về học vấn và địa vị chính trị. Năm 1930, Hồ chỉ là một cán bộ quèn thuộc Cục Phương Đông, trong khi đó Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy tập là những cán bộ cộng sản được đệ tam quốc tế cộng sản Liên Xô đào tạo và phái về Đông Dương làm tổng bí thư đảng. Hồ đã từng bị Trần Phú và Hà Huy Tập phê phán nặng nề và đòi loại trừ Hồ ra khỏi tổ chức quốc tế cộng sản.

Thế rồi những chuyện gì đã xảy ra sau đó?

- Năm 1931, Trần Phú bị Pháp bắt rồi chết trong bệnh viện Chợ Quán
- Năm 1940, Lê Hồng Phong bị Pháp bắt và bị đi tù Côn Đảo, chết tại Côn Đảo năm 1942
- Năm 1941, Hà Huy Tập bị Pháp xử bắn
- Năm 1941, Nguyễn Văn Cừ bị Pháp xử bắn tại Hóc Môn cùng với Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu sau khi vụ Nam Kỳ khởi nghĩa bị thất bại.

Cả bốn nhân vật nêu trên: Phú, Phong, Tập, Cừ đều đã từng là tổng bí thư đảng của đảng việt gian cộng sản.

Riêng Phùng Chí Kiên đã từng vào đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1930, đến năm 1933 hắn được sang Liên Xô học đại học Phương Đông. Tháng Giêng năm 1941, Kiên cùng hoạt động với Hồ tại hang Bắc Pó rồi đến tháng 8 cùng năm hắn bị thực dân Pháp bắt và chặt đầu!

Tất cả những nhân vật nêu trên đều bị chết vì tay người Pháp. Nhưng thực ra ai là người đã gây ra cái chết cho những nhân vật này? Và những tên này đã phạm những khuyết điểm gì mà phải bị chết thê thảm như vậy???

Câu trả lời: - Phú, Phong, Tập, Cừ và Kiên phải chết vì bọn chúng đã lỡ dại hoạt động chung với Hồ và HƠN HẲN HỒ VỀ NHIỀU PHƯƠNG DIỆN, chẳng hạn như địa vị chính trị, trình độ học vấn ..v..v.. Một ví dụ điển hình như Lê Hồng Phong:
- Năm 1926, Phong tốt nghiệp trường quân sự Hoàng Phố ở Trung Quốc; năm 1927 học trường Lý luận quân sự tại Liên Xô; năm 1928, học trường Không quân số 2 tại Liên Xô. Nếu Lê Hồng Phong đã được lái máy bay thì rõ ràng là hắn đã hơn Hồ xa lắc vì sau khi Phong bị chết thì Hồ vẫn còn lóc cóc .... cỡi ngựa trong rừng già nơi biên giới Việt Trung!

Phong nổi hơn Hồ nhiều tất nhiên phải coi thường Hồ và như vậy thì Phong phải .... chết!!! Những ngôi sao nào sáng hơn Hồ đều bị Hồ ám hại bằng cách báo cho mật thám Pháp bắt và mượn tay người Pháp giết hại "đồng chí" của mình! Cụ Phan Bội Châu cũng nằm trong trường hợp này. Riêng tên Lâm Đức Thụ cùng tham gia với Hồ trong việc bán cụ Phan để kiếm tiền xài thì tên này sau này đã bị Hồ thủ tiêu năm 1945 tại Thái Bình. Nguyễn Thị Minh Khai đã từng là "người yêu" của Hồ cũng bị Hồ ám hại, bị Pháp bắt và xử bắn. Nói chung vụ Nam Kỳ khởi nghĩa bị thất bại là do Hồ mật báo cho Pháp cho nên toàn bộ những tên việt gian cộng sản đầu sỏ đều bị bắt và xử tử! Bằng cách đó, đám cộng sản miền Nam bị yếu hẳn đi, không còn đủ sức để tranh giành thế lực với đám cộng sản Bắc kỳ nữa!

Tuy nhiên có một trường hợp sống sót hiếm hoi, thoát được bàn tay tàn độc của tên Hồ: đó là tên Trần Văn Giàu được đi du học bên Pháp năm 1928, năm 1933 được sang Liên Xô học đại học Phương Đông. Hắn là một trong những tên cộng sản gộc tốt nghiệp trường đại học Phương Đông, may mắn còn sống sót tới bây giờ, không bị Hồ và bè nhóm Duẩn-Thọ giết. Lý do vì hắn biết an phận, sau khi bị thất thế, không tranh được quyền lãnh đạo thì chấp nhận làm một tên thầy giáo quèn dạy ở đại học Tổng hợp Hà Nội. Những tên trí thức khác trong chế độ Hồ-Duẩn-Thọ, dù có công lớn, vẫn phải chấp nhận làm thân phận con gián, con rệp, đui mù câm điếc để còn được sống làm vật trang trí cho cái chế độ thổ phỉ. Tiêu biểu nhất là câu nói của nhà văn Nguyễn Tuân: "tôi còn sống tới giờ này là vì tôi BIẾT SỢ!"

B. SO SÁNH DUẨN-THỌ-HOÀN VỚI HỒ:

1. Sự thua kém quá xa:

Qua những điều trình bày nêu trên- từ điều 1 đến điều 9- ta thấy Duẩn, Thọ và Hoàn đều thua Hồ xa lắc về nhiều phương diện. Tất cả những ưu thế mà Hồ có, những tên đó đều không có hoặc có rất ít. Một điều rất quan trọng là mãi đến năm 1958, Lê Duẩn mới có dịp về công tác tại bộ chính trị, mặc dầu hắn đã được bầu vào ban chấp hành trung ương đảng khóa 2 từ năm 1951. Còn tên Lê Đức Thọ thì hoạt động trong miền Nam, mãi đến năm 1956 mới được bổ sung vào bộ chính trị. Mới lót tót được vào bộ chính trị, chưa biết cái bô của Hồ để ở chỗ nào để đi đổ mà dám kết hợp với Duẩn để tìm cách tước hết quyền hành của Hồ!!! Vả lại, thời gian 1956-1957, Lê Duẩn đang hoạt động trong miền Nam, làm gì có mặt ở bộ chính trị ngoài Bắc để cấu kết với Thọ??? Tài bịa chuyện của nhóm đặc công đỏ Bùi Tín sao mà ấu trĩ quá, cẩu thả quá, tới mức quá coi thường người Việt ở hải ngoại! Đâu phải người Việt nào ở hải ngoại cũng dễ tính, dễ nghe, dễ bảo như tòa soạn báo .... Người Việt ở quận Cam!!!

Hồ là tên cáo già, có cặp mắt nhận xét người. Hắn biết Lê Duẩn có khả năng lãnh đạo cho nên đã khéo léo điều Duẩn đi công tác tại Việt Bắc từ năm 1952, rồi đưa Duẩn vào miền Nam hoạt động gần 7 năm mới rút về trung ương. Suốt thời gian công tác "xa mặt trời" như vậy thì Lê Duẩn làm sao có điều kiện để gây dựng vây cánh trong bộ chính trị trung ương đảng, để rồi kết hợp với Thọ, tước hết quyền hành của Hồ vào năm 1956 như luận điệu tuyên truyền láo phét của nhóm đặc công đỏ Bùi Tín đưa ra?

Còn tên Trần Quốc Hoàn, so với Hồ, chỉ là một con tép riu, thành tích cách mạng rất tầm thường, chỉ đáng đi xách dép và dắt gái cho Hồ. Tên đại ca Hồ chỉ cần búng tay một cái là hắn có đường đi chầu hà bá trong cái bao bố, đừng có nói gì hắn dám trói cô Xuân vào giường để cưỡng hiếp rồi rút súng lục ra, tuyên bố: "... chúng mày liệu hồn, đến ông Hồ cũng nằm trong tay tao đây, hiểu chưa!" như tên việt gian Bùi Tín đã viết trong bài "Không thể bất công kéo dài đến vậy", đăng trên tờ báo Đàn Chim Việt (cái ổ rắn của việt cộng) trên internet!

Có người cho rằng tên Trần Quốc Hoàn là người rất giỏi về tình báo cho nên đã được làm bộ trưởng bộ công an từ năm 1953 đến năm 1981, liên tục 28 năm công tác. Thật ra Hoàn không phải là người giỏi, thậm chí là người rất ngu đần và gian ác nhưng hắn có "ưu điểm" lớn, đó là làm thiên lôi chỉ đâu đánh đó. Khi Hồ cần hắn làm thiên lôi, lấy búa đập lên đầu bà Nông Thị Xuân là hắn làm liền! Trong chế độ cộng sản, kẻ nào càng ngu, càng dễ sai bảo thì càng được lên chức hoặc cứ ngồi tại chức cho đến khi về hưu! Chẳng hạn như tên Phạm Văn Đồng, tuy là người trí thức nhưng nhát gan, nhu nhược, dễ sai bảo cho nên hắn đã được ngồi lì trên ghế thủ tướng liên tục 30 năm!!!

Trần Quốc Hoàn, trình độ văn hóa lớp ba trường làng, có thời gian cùng ở nhà tù Sơn La chung với Hoàng Minh Chính, Lê Đức Thọ, Nguyễn Lương Bằng, Lê Thanh Nghị. Nhưng thành tích ở tù như vậy không thể nào so sánh được với đại ca Hồ. Tên Hồ chỉ cần khinh khỉnh, nhếch mép nói:- chú mày ở "tù nội" còn tao ở "tù ngoại", bên Quảng Châu, Trung Quốc! Đó là chưa kể trong thời gian ở tù, tao đã .... "sáng tác" được tập thơ "Ngục Trung nhật ký", còn chú mày ở tù có sáng tác được gì không? Nội tập thơ Ngục Trung Nhật Ký của tên Hồ cũng đủ sức nặng để đè bẹp tên Hoàn rồi, chưa nói gì đến rất nhiều thứ khác, tầm vóc đều to lớn tựa núi Thái Sơn!!!

2. Trích dẫn tài liệu:

Cán bộ cộng sản, nhà báo Nguyễn Minh Cần, trong bài "Nửa thế kỷ trước", đăng trên trang nhà của Hưng Việt, đã viết:

Trích " .... vào thời điểm nửa đầu thập niên 50, uy thế của ông Hồ trong Đảng là tuyệt đối, một lời nói của ông đã nói ra thì không một ai, kể cả các ông trong BCT, dám làm trái ý ông hết; tất cả các ông trong BCT TW, không trừ một ai hết, đều răm rắp giữ đúng tư cách một người học trò khiêm tốn, không bao giờ được phép quyết định những chủ trương lớn mà không có ý kiến ông, huống hồ là việc làm trái ý ông ...."

Tên Hoàng Văn Hoan, ủy viên bộ chính trị khóa 2 của đảng việt gian cộng sản (1951-1960), trong quyển hồi ký "Giọt nước trong biển cả", phần 7, chương 1&2, đã viết:
TRÍCH " .... Lê Duẩn được điều động ra miền Bắc công tác vào khoảng cuối năm 1956 đầu năm 1957. Mấy năm mới đến vì chưa xây dựng được vây cánh, chưa có một địa vị vững chắc trong cơ cấu lãnh đạo của Đảng nên y còn khiêm tốn, tỏ vẻ chan hòa với mọi người. Cuối năm 1960, trong Đại hội lần thứ ba của Đảng Lao động Việt Nam, y được chính thức bầu làm Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng thì nhích dần từng bước, từng bước xa rời khỏi đường lối của Đảng và của Hồ chủ tịch, đến sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng thì trắng trợn trở thành một tên phản bội cách mạng ...."

  • III/ KẾT LUẬN:

Qua những dẫn chứng và suy luận nêu trên, ta thấy rằng:

1. Hồ Chí Minh dứt khoát không phải là một dân oan
2. Dòng họ Nguyễn Tất cũng không phải là dân oan
3. Hồ Chí Minh là tên tội đồ của dân tộc, toàn dân sẽ mãi mãi nguyền rủa hắn.

Tất cả những tội ác do hắn đã gây ra trong suốt 60 năm qua vẫn còn di hại tới bây giờ, năm 2008. Và cái đảng cướp do hắn lập nên sẽ còn tiếp tục gây ra tai họa cho đất nước, đang biến Việt Nam thành quận "Quảng Nam" của Trung Cộng!!! Bộ máy giết người do hắn là kỹ sư thiết kế vẫn còn đang hoạt động, đang tích cực nghiền nát xương thịt của đồng bào từng ngày, từng giờ, từng phút. Chỉ khi nào cái đảng cướp của hắn bị toàn dân nổi dậy quật đổ, xóa bỏ hết cái chế độ thổ phỉ tàn ác nhất trên thế giới thì lúc đó dân tộc Việt Nam mới hết bị nghiệp chướng đọa đày.

Riêng đối với những tên đặc công đỏ như Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Minh Cần, Hoàng Minh Chính, Trần Khuê , Nguyễn Thanh Giang thì bọn chúng đã góp phần gây ra tội ác đối với toàn dân. Là những người trí thức, thay vì sử dụng tài năng của mình để xây dựng đất nước, phục vụ nhân dân thì những kẻ này đã tiếp tay với bọn cướp, bóc lột xương máu của toàn dân. Những tên đặc công đỏ đã bịa đặt nên huyền thoại "BÁC HỒ DÂN OAN" để chạy tội cho tên Hồ, để giúp cho đảng việt gian cộng sản có cái "chính danh" làm theo di chúc bác Hồ dạy(!), tiếp tục ngồi trên đầu người dân để bóc lột! Bọn chúng đã láo xược, thách đố, cho rằng "bác" Hồ cũng là "dân oan", cộng đồng người Việt ở hải ngoại có giỏi thì hãy đấu tranh giúp cho dòng họ Nguyễn Tất hết nỗi oan ức!!!
Từ trái sang: Trường Chinh-Lê Duẩn-Hồ Chí Minh-
Phạm văn Đồng trong cuộc Họp Bộ Chỉ Huy cuộc
tấn công Tét Mậu Thân 1968- ( Earthstation1.com)

Thật ra tên Hồ hoàn toàn không có bị bè nhóm Duẩn-Thọ-Hoàn chèn ép một chút nào hết, nhất là trong giai đoạn 1956-1960 là giai đoạn cực thịnh về quyền uy của hắn. Cũng trong giai đoạn này hai chị em cô Nông Thị Xuân đã bị hắn sai thiên lôi (tên Hoàn) lấy búa đập đầu chết mà không có một tên nào trong bộ chính trị dám hé răng thắc mắc! Phải đợi đến 50 năm sau mới có hai ông Bùi Tín và Thiên Đức KÊU "OAN" GIÙM CHO .... HẮN!!! Ngay cả đến thời điểm năm 1968, hắn vẫn còn ngồi họp với bộ chính trị để lên kế hoạch tổng công kích miền Nam thì hắn mất quyền hành ở chỗ nào? Xin mời quý bạn đọc nhìn tấm hình hắn ngồi ghế chủ tọa họp với bộ chính trị năm 1968, đã được phổ biến trên internet!

Tấm hình đã nói lên tất cả. Cũng trong năm 1968, tên Hồ còn sáng tác mấy câu thơ:" Xuân qua thắng lợi vẻ vang. Xuân nay tiền tuyến chắc còn thắng to. Vì độc lập vì tự do. Đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào. Tiến lên chiến sĩ đồng bào. Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn!" Vậy mà vẫn có những chuyện bịa do bọn việt gian tung ra rằng năm 1968, "bác" Hồ họp với bộ chính trị nhưng không được phát biểu! Bác vừa mới mở miệng phát biểu thì bị Lê Duẩn cắt ngang liền!

Riêng đối với ông Nguyễn Minh Cần thì trong bài viết năm 1999 "Thêm vài mẩu chuyện về cuộc đời Hồ Chí Minh", đã đưa ra kết luận: Hồ Chí Minh có công hay có tội đối với đất nước thì hãy để cho lịch sử phán xét! Lịch sử là ai và tại sao không thể phán xét liền bây giờ? Đã 60 năm trôi qua rồi, chưa đủ thời gian để phán xét hay sao? Phải chờ đến khi nào?

Còn Hoàng Minh Chính thì đã công khai bênh vực cho tên Hồ: đừng có chửi mà cũng đừng có khen Hồ Chí Minh vì cuộc đời của Hồ là một sự bi thảm, một bi kịch của đảng và của đất nước! Hiện nay trong nước vẫn còn khoảng 60 phần trăm dân số tôn thờ Hồ Chí Minh! Ai đã gây ra những bi kịch đó? Ông Chính căn cứ vào đâu mà dám đưa ra con số 60 phần trăm?

Nếu tên Hồ có bị mất quyền hành thì có thể là vào năm 1969 lúc hắn bị bệnh gần chết. Thông thường chỉ khi nào những tên độc tài đã chết hẳn rồi thì những tên đàn em mới dám lộng hành. Tên Mao Trạch Đông lúc đã bị hôn mê gần chết rồi mà bè lũ "bốn tên" vẫn chưa hề dám nhúc nhích!

Tóm lại, cái chế độ tàn ác, phi nhân, bạo ngược đang bao trùm trên đất nước ta rất có lợi cho bọn việt gian cộng sản và rất có hại cho toàn dân Việt trong và ngoài nước. Chính vì vậy nên bọn cướp đã tìm mọi cách để duy trì sự thống trị của chúng bằng võ lực cũng như bằng đủ mọi thủ đoạn chính trị lừa bịp. Một trong những sự lừa bịp đó là: CANH TÂN CHẾ ĐỘ như đảng Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng đang chủ trương. Đây là biện pháp CÂU GIỜ và lừa bịp.

Cựu tổng thống Nga Boris Yeltsin đã từng nói: chế độ cộng sản chỉ có thể BỊ XÓA BỎ chớ không thể được sửa chữa! Ông trùm cộng sản mà còn tuyên bố như vậy thì đủ biết cái gọi là "chủ nghĩa xã hội" nó độc hại tới cỡ nào! Cũng ví như chúng ta có một chiếc xe hơi quá cũ, hư nát đủ mọi thứ thì tốt nhất là liệng chiếc xe đó vào nghĩa địa xe hơi và mua chiếc xe mới. Nếu cứ tiếc rẽ bỏ tiền ra CANH TÂN, sửa chữa lặt vặt thì số tiền sửa chữa sẽ nhiều gấp mấy lần tiền mua xe mới!

Do đó mục tiêu đấu tranh của chúng ta là XÓA BỎ TOÀN BỘ CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN HUNG TÀN BẠO NGƯỢC. Xóa bỏ hết và làm lại từ đầu. TOÀN BỘ NHỮNG TÊN CƯỚP ĐÃ GÂY RA TỘI ÁC PHẢI ĐƯỢC ĐƯA RA TÒA ĐỂ XÉT XỬ. TOÀN BỘ NHỮNG ĐẤT ĐAI, NHÀ CỬA MÀ BỌN CHÚNG ĐÃ CƯỚP CỦA DÂN PHẢI BỊ TỊCH THU VÀ TRẢ LẠI CHO NGƯỜI DÂN. Nếu chúng ta không có lập trường rõ ràng, dứt khoát thì rất dễ bị rơi vào những cạm bẫy của bọn việt gian cộng sản. Bọn chúng đang tìm đủ mọi cách để mua thời gian để kéo dài sự cai trị của chúng. Nào là:

- Phải giáo dục cho toàn dân trong nước hiểu thế nào là dân chủ trước đã, sau đó mới tiến tới đấu tranh đòi dân chủ! (dự trù thời gian "giáo dục" toàn dân mất khoảng 10 năm!)
- Góp ý cho đảng sửa chữa những sai lầm, đấu tranh đòi hủy bỏ điều 4 hiến pháp, đấu tranh đòi đa nguyên đa đảng (thời gian dự trù khoảng .... 100 năm!)
- Bác Hồ là dân oan, phải phục hồi lại "danh dự" cho bác Hồ, phải tiếp tục đi theo con đường bác đã vạch ra, đó là tiến lên chủ nghĩa xã hội giàu đẹp!
- Hợp tác với nhà nước đấu tranh chống "giặc" Trung Quốc xâm lăng!
- Đấu tranh đòi dân chủ, nhân quyền trong khuôn khổ tôn trọng luật pháp của nhà nước!
- Đấu tranh bất bạo động đòi dân chủ, nhân quyền bằng cách gởi thỉnh nguyện thư lên quốc hội nhờ cứu xét (khoảng một ngàn năm nữa thì được xét!!!)

Tất cả những hình thức "đấu tranh" nêu trên chỉ là hình ảnh những con chim ĐÒI ĐƯỢC TỰ DO TRONG CÁI LỒNG CHIM! Hoặc là đấu tranh để thay thế thằng việt gian cộng sản này bằng thằng việt gian cộng sản khác, bởi vì bộ máy cai trị ác ôn vẫn như cũ, theo phương thức: - đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân .... "làm chủ", quốc hội bù nhìn, hiến pháp giấy chùi đít, luật pháp là chậu kiểng!!!

Trần Thanh
Ngày 6 tháng 4 năm 2008

  • Chú thích:

Tên Phùng Thế Tài, sinh năm 1920, tại huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây. Khi về hưu hắn đã nhờ người viết hồi ký "cách mạng", kể chuyện hắn làm cận vệ cho tên Hồ tại hang Bắc Pó năm 1941. Theo lời hắn kể, một hôm hắn và Hồ đang trồng cây khoai môn trước hang Bắc Pó thì Hồ bỗng ra cho hắn một câu đối:"TRỒNG MÔN TRƯỚC CỬA" và Hồ yêu cầu hắn phải tìm ra một câu đối lại! Tên Tài lúng túng một hồi sau thì tìm ra câu:" BẮT ỐC SAU NHÀ"

Hồ khen tên Tài là thông minh vì biết chơi chữ và đối rất chỉnh(?) vì:
- Chữ "môn", theo tiếng Tàu cũng có nghĩa là "cửa"
- Chữ "ốc" (địa ốc) cũng có nghĩa là "nhà cửa"
- "trồng" đối với "bắt" (!)
- "trước" đối với "sau"
- "cửa" đối với "nhà"

Rõ ràng đây là chuyện bịa đặt do tên bồi bút viết hồi ký giùm cho Tài tô vẽ nên. Thời điểm đó tên Tài đang học đánh vần chữ quốc ngữ đến méo miệng thì trình độ đâu mà làm câu đối! Một tên tà lọt của Hồ mà còn dám bịa ra những huyền thoại để tự làm hào quang cho mình thì cỡ như Hồ được đám bồi bút phong thánh cũng không có gì lạ! Theo lời bàn của dân gian thì sự thực như thế này:

Một hôm Hồ đứng đái trước cửa hang, rồi nhân tiện hắn ra câu đối: ĐỨNG ĐÁI TRƯỚC CỬA!
Tên Tài bèn đối lại: NGỒI ỈA SAU NHÀ!

Trình độ "văn chương" của hai thầy trò chỉ có thế mà thôi! Thầy nào trò nấy!


Tháng 4-2008 nhớ lại đêm 29-4-1975,
đêm dài nhất của Sài-Gòn.


img

"Sao quên được, tháng tư đen mất nước
máu nhuộm hồng cả sóng biển xanh mơn

xương trắng phơi khắp sông núi Trường Sơn

người chết thảm, nơi bến tàu sân đợi

sau quên được những phút giờ hấp hối

trong chiến hào, giữa đồn vắng không tên

lính tuyệt vọng, nhìn mấy trắng cô đơn

chờ pháo bạn, ngóng phi tuần trở lại..
"

Ôi những lời thơ nhức nhối, khiến cho người Sài Gòn và các quân, dân, cán, chính cũng như đồng bào chiến cuộc miền Trung, đã có mặt tại thủ đô, trong đêm 29 rạng ngày 30-4-1975, làm sao quên được?. Ðây là giây phút cuối cùng của cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1960-1975), những ai may mắn sống sót, sẽ không thể quên nổi, cái đêm hôm ấy là đêm gì, trong thân phận Việt Nam, mà thời gian như dài vô tận.


Ðêm đó cả Sài Gòn-Chợ Lớn và Gia Ðịnh đều bị cúp điện. Nhưng trên trời cao, trong cái khoảnh không gian bao quanh Sài Gòn, lúc đó lại được soi sáng mờ mờ ảo ảo, bằng đủ các loại đèn của máy bay trực thăng, cho tới trưa ngày 30-4-1975 mới dứt. Sau này, dân đen Sài Gòn và những người di tản ra ngoại quốc, qua báo chí cùng tài liệu mật được Mỹ công bố, mới biết được: Ðêm 29-4-1975, là thời gian cuối cùng của Hoa-Kỳ tại Nam VN. Cũng trong đêm đó, nhờ sự bảo vệ của các đơn vị còn lại của QLVNCH bị bỏ rơi và bán đứng, đang tử chiến với cộng sản đệ tam quốc tế ở dưới đất, nên siêu cường Mỹ, đã an toàn rời khỏi Sài Gòn, trong danh dự, bằng hằng trăm trực thăng đáp khẩn cấp, trên các mái nhà khắp đô thành, trong khuông viên cơ quan Dao và Toà Ðại Sứ.


Ðêm đó cũng là giờ thứ 25 của VNCH và chính tổng thống cuối cùng là Dương Văn Minh, đã ra lệnh cho quân đội miền Nam buông súng đầu hàng, cũng như ký lệnh đuổi Mỹ ra khỏi nước. Ðây là hai đề tài dai dẳng và nhức nhối của những trang cận sử tháng tư đen. Chính nó, đã gây nên cuộc bút chiến, giữa các vị khoa bảng, trí thức xôi thịt của miền Nam, trong số này có rất nhiều người từng đâm sau lưng người lính trận. Ðây cũng là dịp ngàn vàng hiếm hoi, để họ được sống lại cái thuở tự do báo chí của năm nào nơi quê nhà. Bởi vậy trên diễn đàn và báo chí hải ngoại, người ta lại đánh nhau bằng bọt mép và chữ nghĩa. Tóm lại suốt thời gian rất dài, không ai chịu thua ai, người nào củng cố vận dụng tất cả văn phong, dao to búa lớn, qua cái danh giá dỏm của những tờ "đại nhật báo" để muôn đời sống mãi với lập trường "ba làng ấm ớ" của mình. Rốt cục, nhờ ánh sáng mặt trời soi sáng gần hết những bí ẩn của cận sử, trong đó có hai vấn đề liên quan tới Dương Văn Minh. Nhờ vậy mới chấm dứt được cuộc đấu võ mồm vô duyên, đã làm phiền lòng cũng như tốn giấy bút và thời gian quý báu của người Việt tị nạn cọng sản khắp hoàn cầu.


Thì ra, cả hai hành động ra lệnh cho QLVNCH đầu hàng cũng như đuổi Mỹ ra khỏi Sài Gòn, đều không phải là quyết định của tổng thống Dương Văn Minh và nội các hai ngày của ông. Theo tài liệu của cựu đại sứ Pháp thời VNCH, viết trong tác phẩm "Saigon et moi", được Vũ Văn Hồ tóm dịch và phát hành tại Paris ngày 23-3-1985, cũng như tài liệu của Hứa Hoành, trong "Nam Kỳ Lục Tỉnh số IV", thì ông Dương Văn Minh chỉ làm theo lệnh của cộng sản Hà Nội. Riêng việc đuổi Mỹ, thi do Ðại Sứ Martin của Hoa Kỳ nhờ phổ biến. Ðọc Phạm Bá Hoa, nơi trang 235 của tuỳ bút "Ðôi dòng ghi nhớ", về việc chính ông Dương Văn Minh, đã xác nhận năm 1991 tại Paris, trong bàn tiệc lúc đó có Trần Văn Ðôn và Nguyễn Linh Chiểu. Chính Ðại Tá Chiểu đã hỏi Dương Văn Minh, tại sao mới nhậm chức có một ngày, đã đuổi Mỹ ?. Tổng thống Minh đã trả lời: "Moa không đuổi họ, bản văn (đuổi Mỹ) được phổ biến trên đài phát thanh vào sáng sớm ngày 29-4-1975, do chính Martin viết và nhờ Moa phổ biến. Có vậy Mỹ mới rút khỏi Sài Gòn trong danh dự".


Như vậy hai sự kiện quan trọng nhất của cận sử VN đã được chính những người trong cuộc xác nhận bằng văn tự, chứ không phải là miệng đời, cho nên không thể nào nói là bịa chuyện hay là vì ghét người mà bôi bác. Sự thật lúc đó người Mỹ đã phải tam rời khỏi mảnh đất đau khổ VN, vì nơi này không còn một giá trị gì nữa, để mà nấn níu hòng đổi chác và lợi dụng Có điều hành động tháo chạy của Hoa Kỳ vào giờ thứ 25, thật là tàn nhẫn và lố bịch. Năm 1954, người Pháp sau khi bị quốc dân VN đánh bại tại Ðiện Biên Phủ, lúc đó dù đã kiệt sức. Nhưng Họ vẫn cố gắng giữ thể diện, bằng cách tạo hoàn cảnh để rút quân về nước trong danh dự và tự trọng. Ngoài ra vào giờ 25 trên đất Bắc, người Pháp cũng không đem con bỏ chợ, khi tận lực giúp đỡ các đơn vị của Quân Ðội Quốc Gia VN đang chiến đấu tại đó, và hơn một triệu người Việt, không muốn sống chung với cọng sản, được di cư vào tìm tự do tai miền Nam. Riêng người Mỹ, sau khi đã liên kết được với Trung Cộng, hoạch định thế chiến lược mới, nên phải rút khỏi VN. Ðể có lý do biện minh với thiên hạ, Hoa Kỳ đã ngụy tạo một hiệp định ngưng bắn giả tạo mà thực chất là đã bán đứng đồng minh của mình cho kẻ thù chung năm 1973. Rồi trong giờ phút hấp hối của VNCH nhưng với nguời Mỹ lúc đó, nếu muốn có thể lật ngược thế trận một cách dễ dàng, để bắt cộng sản quốc tế phải rút về phía bên kia vỹ tuyến 17, như họ đã từng đánh đuổi cả triệu quân Trung Cộng và Bắc Hàn, trong cuộc chiến Cao Ly năm 1950.


Nhưng than ôi Mỹ đả cúi mặt chịu nhục nhã, trốn chạy khỏi Nam VN trong đêm tối, bằng các trực thăng đáp khẩn trên mái nhà, qua sự bảo vệ của QLVNCH trong giờ phút hấp hối dưới đất. Tàn nhẫn hơn, đám lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ tại Tòa Ðại Sứ, còn bắn trái khói đạn cay vào rừng người VN trước mặt, đã từng phục vụ cho họ hết lòng, lúc đó đang cần chạy khỏi nước để cứu mạng.


Hành động trên đã nói lên đầy đủ bản chất thật của người Mỹ: "Tiền trao cháo múc", hay đúng hơn Mỹ vào VN vì quyền lợi của họ thế thôi.


1 - NGƯỜI MỸ VÀO VIỆT NAM:

Người Mỹ bắt đầu dòm ngó thương trường VN từ thời Vua Gia Long Nhà Nguyễn. Thế chiến II (1939-1945) Mỹ lại vào Việt Nam để chống lại quân phiệt Nhật và cuối cùng là trực tiếp tham dự Ðông Dương thế chiến 2 (1960-1975). Từ sau năm 1991, Liên Xô và cộng sản Ðông Âu tan rã, Trung Cộng lên thay thế làm bá chủ cộng sản đệ tam quốc tế, hằng lăm le dã tâm nuốt trọn vùng Á Châu và toàn cầu. Sự biến chuyển chính trị trên, khiến người Mỹ phải xét lai hay nói đúng hơn là dịp để Mỹ thực thi kế hoạch cuối cùng "Bất chiến tự nhiên thành". Thế là chiến dịch "tìm lính Mỹ mất tích tại VN ra đời", để Bắc Bộ Phủ công khai cho phép Hoa Kỳ quay lại chiến trường cũ vào năm 1985 và hợp thức hóa từ ngày 3-2-1995, qua cái gọi là văn phòng liên lạc "Việt-Mỹ "mở tại Hà Nội. Tóm lại, Hoa Kỳ đã tới nước ta qua các giai đoạn:

+ MỸ ÐẾN VN TÌM THƯƠNG TRƯỜNG:

- 1803 : một tàu buôn Mỹ tên Fame do thuyền trưởng Jermiar Brigo’s đến VN xin giao thương nhưng vua Gia Long không chấp thuận.


- 1819 : Hai tàu buôn Mỹ khác tên Franklin và Marmion vào cửa Cần Giờ (Vũng Tàu) và theo sông Ðồng Nai vào tới Gia Ðịnh Thành, tức Sài Gòn ngày nay nhưng vì ngôn ngữ hai nước bất đồng, nên cuối cùng hai chiếc tàu trên lại quay ra biển.


- 1833: Một chiến hạm Mỹ tên Peacock do Hạm trưởng Edmund Robert, được Tổng Thống Mỹ Andrew Jackson , đề cử làm sứ thần đến Ðại Nam giao thiệp xin mua bán. Ngày 1-1 năm đó, hai chiếc tàu trên tới hải phận Ðà Nẵng nhưng vì gặp bão, nên không thể vào vịnh để cặp bến. Do trên tàu phải chạy xuống núp bão tại Vũng Rô, Phú Yên và được tiếp xúc với chánh quyền địa phương bằng tiếng Latin, qua sự thông dịch của một một tu sĩ Thiên Chúa Gíáo. Theo nữ giao sư Ellen Hammer, một học giả về Ðông Phương, thì trong lần tiếp xúx đó, vua Minh Mạng đã chính thức cho phép người Mỹ vào VN buôn bán giao dịch nhưng không hiểu sao, hai chiếc tàu trên đã không tới Ðà Nẳng, sau khi rời Vũng Rô.


+ MỸ VÀO VN ÐỂ CHỐNG NHẬT TRONG THẾ CHIẾN II (1939-1945):

Ngày 9-3-1945, Nhật tấn công và giải giới toàn bộ lực lượng quân đội viễn chinh của thực dân Pháp trên bán đảo Ðông Dương. Sau đó quân Nhật từ Hoa Nam tràn xuống chiếm đóng Việt-Miên-Lào. Bán đảo Mã Lai, lúc đó là thuộc địa của Anh Cát Lợi, cũng rơi vào tay quân phiệt Nhật. Từ đó, khắp lãnh thổ VN luôn bị quân Ðông Minh oanh tạc.

Ðể thâu lượm các tin túc tình báo cũng như tiếp xúc giải cứu các phi công Ðồng Minh bị Nhật bắn hạ bắt giữ, Anh-Mỹ đã thành lập một cơ quan tình báo đặc biệt gọi là GBT, chuyên hoạt động trên lãnh thổ VN. Nhưng cơ sở này đã bị Nhật khám phá được và dẹp tan. Sau ngày 9-3-1945, khi người Nhật chính thức trở thành chủ nhân ông Ðông Dương, Ðể tiếp tục hoạt động tại mặt trận này, cơ quan tình báo Hoa Kỳ đã cử một nhóm sĩ quan OSS ( tiền thân của CIA), trong đó có Trung Úy Dan Phelan, Thiếu Uý Allison Thomas.. nhảy dù xuống các căn cứ của Việt Minh tại Việt Bắc, để phối họp chống Nhật. Chính trong giai đoạn này, để mua chuộc, người Mỹ đã cho bộ đội VM rất nhiều vũ khí cá nhân cũng như cộng cộng, đồng thời huấn luyện hướng dẫn họ cách sử dụng các loại súng cối, đại bác, ném lựu đạn, đặt mìn bẩy. Khi Nhật tuyên bố đầu hàng Ðồng Minh vì bị thả hai trái bom nguyên tử, thì cũng chính những sĩ quan tình báo này, đã giúp cho lực lượng VM cướp được chính quyền trong tay người Việt Quốc Gia, tại Hà Nội ngày 3 tháng 9 năm 1945. Bởi vậy, nên khi toán sĩ quan OSS từ Côn Minh, do Ðại Uý Archimedes APatti cầm đầu, tới Hà Nội, đã được Hồ Chí Minh và các lãnh đạo khác trong Bắc Bộ Phủ đón tiếp rất trọng thể.


Tại Nam Kỳ, cũng có một nhóm OSS gồm 17 người, do Thiếu Tá A.Perter Deway cầm đầu, theo chân quân Anh-Ấn tới đây để giải giới quân Nhật, trú đóng phía bên này vĩ tuyến 16. Nhưng toán sĩ quan tình báo này đã phản đối quân Anh-Ấn, khi thấy họ đã công khai cho thực dân Pháp vào lại Sài Gòn, để tiếp tục đàn áp và bức hại người VN. Do đó, toán sĩ quan OSS này đã bị tướng Anh Gracey trục xuất khỏi Nam Kỳ. Tuy nhiên Thiếu Tá Peter và nhiều sĩ quan OSS khác trong toán, đã bị chết thảm tại Sài Gòn, do sự tấn công lầm của lực lượng VM kháng chiến tại đây.


Ngoài ra trong thời gian tù 1945-1954, Chính phủ Mỹ đã cử các viên chức thuộc Bộ Ngoại Giao Kennet London, Abbot Lowmoffat do James O’Sullivan làm Tổng Lãnh Sự tại Hà Nội. Nhưng rồi chỉ một thời gian ngắn, khi biết được Hồ Chí Minh hoạt động cho Ðệ Tam Cộng Sản Quốc Tế, nên người Mỹ đã cuốn cờ bỏ chạy khỏi miền Bắc.


+ Mỹ THAM DỰ CUỘC CHIẾN ÐÔNG DƯƠNG 2 (1955-1975):

Tháng 12-1949, Trung Cộng coi như làm chủ hoàn toàn Hoa Lục, khi Lâm Bưu bình định xong đảo Hải Nam và Lư Hán tại Vân Nam cũng xin đầu hàng. Ngày 18-1-1950, cả Liên Xô lẫn Tàu Công là nước đầu tiên công nhận chế độ cộng sản của VC tại Hà Nội. Ðể trả đũa, Hoa Kỳ cũng công nhận Chính Phủ Quốc Gia VN của Quốc Trưởng Bảo Ðại, đồng thời tiếp tục viện trợ quân sự cho thực dân Pháp, chống lại cộng sản VN, qua bức bình phong Mặt Trận Kháng Chiến Việt Minh.

Tháng 6-1950, Thế Chiến III bùng nổ tại bán đảo Triều Tiên, giữa phe cộng sản Trung Cộng, Bắc Cao và Lực lượng Liên Hiệp Quốc. Sau khi chiến cuộc chấm dứt, đệ tam quốc tế coi như chỉ chiếm được nửa nước Cao Ly. Ðể ngăn chận vết dầu loang của chủ nghĩa Mác-Lê-Mao, lan tràn tới các phần đất còn lại của Châu Á, nên Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia Mỹ mới đẻ ra cái gọi là Thuyết Domino vào ngày 1-2-1950 (Theo tài liệu mật NSC 649 vừa được giải mã). Trong chiến lược này, VN được chọn làm quốc sách, như một tiền đồn ngăn chận làn sóng đỏ lúc đó.


Thật sự đây chỉ là một cái cớ, mang các danh từ hào nhoáng, để che đậy công cuộc mậu dịch song phương và hoà bình, của bọn tư bản lái súng Mỹ, đang lảng vảng sau bức bình phong của Tòa Bạch Ốc, mà bất cứ thời nào từ trước tới nay, đều không thay đổi. Tóm lại vì lợi nhuận của bọn lái buôn và nước Mỹ, nên lúc nào cũng phải kiếm cớ để có chiến tranh khắp nơi. Như vậy Mỹ mới điều hòa nền kinh tế tài chánh để cung ứng nhu cầu quốc gia không bị xáo trộn vì nạn thất nghiệp. Mở rộng chiến tranh Ðông Dương lúc đó, để bọn tài phiệt lái súng, tiêu thu cho hết số vũ khí tồn kho, từ thời thế chiến I và II, đồng thời có dịp bày bán các sản phẩm mới của cuộc chiến hiện đại.


Giống như nền kinh tế thị trường hiện tại, chúng ta xài các sản phẩm mang nhiều quốc tịch khác nhau nhưng thật sự gần hết đều là của Mỹ được làm tại ngoại quốc, vì nhân công rẻ và tránh thuế nặng. Tương tự, các sản phẩm chiến tranh thời đó, mang nhiều nhãn hiệu như Liên Xô, Trung Cộng, Do Thái, Ðông Âu.. thật sự đều là hàng Mỹ chính hiệu. Chẳng hạn chiến xa T54, xe vận tải Molotova, Zill cứ tưởng là do Nga-Tàu chế, thật sự là hàng của các xe Ford và Christie. Cũng nhờ chiến tranh VN, ông khai gia tăng ngân sách quốc phòng, ngoại viện và bắt dân đóng thuế thêm 10%. Song song các đại công ty Mỹ như Howard Hughes, Lockheed Aircraft, General Dinamic, General Electric.. nhờ hợp tác với Bộ Quốc Phòng, nên hốt được nhiều tỷ đô la. Bởi tất cả viện trợ cho VNCH đều miễn thuế nhập khẩu và đổi hàng thành tiền, khấu trừ vào ngân khoản viện trợ hằng năm.


Tóm lại nhờ chiến tranh VN, cả nước Mỹ và các đồng minh ăn ké liên hệ như Nhật, Nam Hàn, Ðài Loan.ăn nên làm ra. Ðể thu hoạch được mối lợi to lớn trên, Tòa Bạch Ốc phải đẻ ra một cuộc chến dai dẳng, được các nhà quân sự gọi là "đánh nhau có giới hạn". Cũng vì lý do trên, mà qua cuộc chiến gần 20 năm, quân đội Mỹ tham chiến tại VN, có thể nói là chưa bao giờ được trang bị đầy đủ các phương tiện, cũng như cung ứng quân số để đạt tới chiến thắng. Rồi với lý do không được chọc giận Liên Xô-Trung Cộng, nên chính phủ Mỹ cấm quân đội Hoa Kỳ và QLVNCH, không được vượt vỹ tuyến 17 để tấn công Bắc Việt. Nhờ vậy cọng sản Hà Nôi luôn vững tâm có một hậu phương lớn, an toàn, không bao giờ sợ phản tặc đâm sau.


Nên đừng lấy làm lạ, khi thấy gần như suốt cuộc chiến Hoa Kỳ chỉ viện trợ cho VNCH những thứ quân dụng và vũ khí lỗi thời như súng trường Garant M1, đại bác không giật 57 ly, súng cối 60-81 ly, đại bác nòng dài 105-155 ly bởi Mỹ chỉ muốn Miền Nam sống thoi thóp mà thôi. Tóm lại chỉ vì bản chất chính trị con buôn, quyền lợi ích kỷ, nên Mỹ đã tìm đủ mọi cách để biến quốc gia của kẻ khác, gần như một tiền đồn của mình, để thử nghiệm hiệu quả của các phát minh súng-đạn. Cũng từ đó, hai miền Nam-Bắc VN, đã trở thành vật tế thần, để các siêu cường của hai khối, quảng cáo vũ khí chiến lược và ý thức hệ.


Nhưng người Mỹ cũng đã tiêu phí trong cuộc chơi giỡn mặt với tử thần trên, qua số tiền 165 tỷ mỹ kim, tiền xương máu đóng góp của người dân. Về quân đội Hoa Kỳ, có 58.022 người chết, 300.000 bị thương và 2500 mất tích. Riêng VN cả hai miền Nam-Bắc chết 1,9 triệu người và 4,5 triệu người khác bị thương. Cả nước từ biên giới Hoa-Việt tới Cà Mâu-Hà Tiên, trên núi dưới biển, nông thôn cũng như thành thị, nơi nào cũng bị bom đạn của ngoại quốc, do chính người VN hai miền đem về tàn phá tận tuyệt, não nùng.


Ðể được đem quân vào VN, người Mỹ đã đồng mưu với các tướng lãnh bản địa, để giết chết một tổng thống. Ðể có lý do chính đáng được người dân và quốc hội Hoa Kỳ tán trợ, Chính phủ Mỷ đưa ra chiến lược hào nhoáng là "vào Nam VN để giúp ngăn chận sự xâm lược của cộng sản miền bắc". Do đó ngày 7-3-1965, theo lệnh của tổng thống Johnson, một sư đoàn TQLC Mỹ gồm 3500 người, đầu tiên đã đến Ðà Nẵng và cứ thế tới cuối năm 1967, quân số Hoa Kỳ tham chiến tại Nam VN đã hơn nửa triệu người.


Trong suốt cuộc chiến Ðông Dương lần thứ 2 này, có một sự kiện đặc biệt nhất, đó là việc hiện diện đông đảo của bọn ký giả, nhà báo, cơ quan truyền thông những đỉnh cao của nền văn minh duy lý da trắng. Nhưng cũng chính bọn này đã táng tận lương tâm của con người, đảo lộn trắng đen, nói càng viết bậy, để hướng dẫn dư luận thế giới trong đó có Mỹ, nhất là vụ VC tổng công kích VNCH vào dịp Tết Mậu Thân 1968. Rõ ràng nhất là lúc đó, Bắc Việt gần như nướng sạch cán binh, bộ đội khắp các chiến trường, kể cả tại Huế và Toà Ðại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Thế nhưng chỉ vì những cái lưỡi tắc kè thay da đổi tiếng, nên VC tuy thua ở Nam VN nhưng lại chiến thắng trong màn ảnh truyền hình khắp các thủ đô Ba Lê, Luân Ðôn, Hoa Thịnh Ðón.


Cũng từ đó, nhân dân Mỹ đã bắt đầu phản đối chiến tranh và đòi rút quân về nước. Nhưng lý do chính cũng vẫn là nền kinh tế, tài chính Mỹ đang có dấu hiệu suy thoái. Sự kiện này đã thực sự bộc phát mạnh vào năm 1971, làm Mỹ phải hai lần phá giá đồng đô la nhưng vẫn không thể nào cứu vãn kịp. Ðây cũng là dịp để cho bọn tư bản lái súng có cớ chuyển tiền bạc công ty ra ngoại quốc đầu tư, làm cho nạn thất nghiệp càng thêm trầm trọng.


Ðây là cơ hội ngàn năm một thuở, để bọn điệp viên Liên Xô, Trung Cộng, Việt Cộng phối hợp với bọn tư bản Mỹ phản chiến, châm ngòi cho cuộc bạo động khắp nước Mỹ, đòi rút quân về nước. Phong trào trên lan nhanh, từ California, Massachussetts, Newyork tới thủ đô Hoa Thịnh Ðốn Tưới thêm xăng vào lửa, là bọn đại tài phiệt Do Thái, những siêu quyền lực cầm trịch trong guồng máy lãnh đạo Tòa Bạch ốc, cũng gây áp lực, bắt chấm dứt chiến tranh VN, để dồn hết ngân sách ngọai viện dành cho Irael tại Trung Ðông. Chính tên ngoại trưởng kiêm cố vấn an ninh quốc gia cho TT. Nixon là Henry Kissinger, người Mỹ gốc Do Thái, đã nhúng tay vào tất cả các âm mưu, trong việc ngụy tạo một hiệp ước ngưng bắn giả mạo vào năm 1973, để bán đứng VNCH cho khối cộng sản quốc tế, đổi lấy quyền lợi cho Do Thái tại Trung Ðông.


Hậu quả của phong trào phản chiến trên, khiến cho giới dân cử Mỹ vì muốn kiếm phiếu trong lần sau, nên phải mị dân bằng cách ban hành nhiều đạo luật quái gở, hầu hết đều làm lợi cho cộng sản mà điển hình nhất là War Power Art ký năm 1973, gần như trói tay tống thống và hành pháp Mỹ. Vì vậy cộng sản Bắc Việt đã công khai xé bỏ bản hiệp ước vừa mới ký tại Ba Lê chưa ráo mực, xua quân cưỡng chiếm miền Nam.


Tháng 5-1975, Henry Winston, chủ tịch đảng cộng sản Mỹ đến thăm Hà Nội, đã công khai tuyên bố: "chiến thắng của CSVN cũng là chiến thắng của đảng CS.Hoa Kỳ". Còn chủ tịch bù nhìn của Mặt Trận Ma-Nguyễn Hữu Thọ tại Mạc Tư Khoa thì nói: "chiến thắng của Bắc Việt là do công lao của Mỹ, đã viện trợ chính trị và cổ võ cho họ". Nhưng mai mỉa và nhức nhối tận cùng là lời của Lê Ðức Thọ: "Năm 1954 CSVN thắng Pháp tại Ba Lê, còn năm 1975 CSVN lại thắng VNCH tại Hoa Thịnh Ðốn".


2 - MỸ BỎ VIỆT NAM:

Mỹ tới VN chỉ lợi ích và chiến lược. Bởi vậy sau khi đã bắt tay được Trung Cộng vào ngày 21-2-172, song song với việc đã chế tạo thành công tàu ngầm nguyên tử cùng hỏa tiễn liên lục địa Polaris, thì cái ý nghĩa sử dụng Nam Việt Nam, để làm tiền đồn ngăn chận làn sóng đó đả không còn tồn tại. Thêm vào đó là sự ngu xuẩn của Kissiger khi quá tin vào lời hứa cuội của Liên Xô, tại hội nghị hòa hoãn Helsinki-Phần Lan, là sẽ kềm chế VC. Bởi vậy để thưởng cộng trước, Mỹ qua đề nghị của KIs cho Liên Xô được hưởng ưu tiên tối huệ quốc.

Cũng vì vậy, nên lúc nào cặp Nixon-Kissiger cũng coi VNCH như là một thuộc địa của mình không hơn không kém. Ngoài việc nhiều lần làm mất mặt chính quyền miền Nam trên trường quốc tế, Mỹ cón sử dụng viện trợ như là một thứ áp lực gông cùm, bắt ép một quốc gia đang có chủ quyền, dân chúng và lãnh thổ, phải ngồi chung trong bàn hội nghị với công cụ của cọng sản Bắc Việt, qua danh xưng MTGPMN, mà Mỹ đã biết rất rõ ràng. Cuối cùng cũng lấy viện trợ, bắt buộc VNCH phải ký hiệp địng ngưng bắn vào năm 1973, trong đó Mỹ công nhận MTGPMN như một chính quyền thứ hai cũng như cho bộ đội Bắc Việt ở lại miền Nam, làm cho QLVNCH phải bó tay, để cho cộng sản đệ tam tiếp tục tấn công cưỡng chiếm miền nam. Sau ngày 30-4-1975, tướng Alexander Haig, một cựu bộ trưởng thời TT.Nixon đã viết: "chúng tôi gạt Tổng Thống VNCH là Nguyễn Văn Thiệu, ký vào bản hiệp ước ngưng bắn năm 1973 tai Ba Lê, bằng cách gởi nhiều bức thơ viết tay của Nixon. Theo nội dung những bức thơ đó, thi Nixon nhân danh nước Mỹ, cam kết sẽ sử dụng quân đội và pháo đài bay B52 trở lại trên chiến trường, nếu Bắc Việt tiếp tục xâm lăng VNCH. Ngoài ra Nixon còn to miệng hứa là sẽ tiếp tục quân viện cho miền nam, trên nguyên tắc mà hai nước đã ký kết từ trước "1 đổi 1". Nhưng than ôi tất cả chỉ là sự lừa bịp của một siêu cường đang lãnh đạo khối tự do lúc đó, với một đồng minh từng sánh vai sống chết với mình, trong lúc đang hấp hối vì thù trong giặc ngoài. Cho nên Mỹ đã phủi tay, khi đem được tù binh về nước, giúp TT Nixon đắc cử thêm một nhiệm kỳ (1971-1975).


Bởi vậy vào ngày 21-1-1973, tại Ba Lê trong khi các nguyên thủ trên thế giới liên hệ, đang nổ rượu Champagne nói là để ăn mừng vì hòa bình tại VN. Khôi hài hơn hết, là sự việc hai tên đại bịp Kissinger và Lê Ðức Tho được cái gọi là Uỷ Ban giải Nobel Hòa Bình tại Nauy, phát giải thưởng. Thì cũng lúc đó, cộng sản Bắc Việt đã xử dụng chính bộ đội mà Mỹ cho phép ở lại tại lãnh thổ Nam VN, tấn công đồng loạt các cứ điểm VNCH tại Cửa Việt (Quảng Trị), Kon Tum, Kiến Tường. Nhưng quan trọng hơn hết là tại Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Bình Thuận và Trại Biệt Ðộng Quân Biên Phòng Tống Lê Chân (Bình Long).


Tiếp theo khi biết chắc Mỹ đã phủi tay thật sự không bao giờ can thiệp vào chiến tranh VN, nên tháng 12-1974, Bắc Việt xua đại quân tấn chiếm quận Thường Ðức (Quảng Nam), Phước Long, Ban Mê Thuột và toàn thể Miền Nam vào ngày 30-4-1975.


3- MỸ CHẠY KHỎI VN TRONG ÐÊM TỐI, TRÊN MÁI NHÀ:

Từ khi có ý định phủi tay bỏ Nam VN, nên cuối năm 1974, tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, đã bắt đầu lập bản dự thảo kế hoạch rút số viên chức còn lại, cũng như di tản những thành phần bản xứ có liên hệ với họ. Ðó là chiến dịch "Talon Vice", sau được đổi thành "Frequent Wind". Theo sử liệu bật mí mới đây, sở dĩ kế hoạch trên vào phút chót, trở thành "đầu gà đít vịt", là do sự bất đồng ý kiến giữa đại sứ Mỹ Martin và phái bộ quân sự Hoa Kỳ (Dao). Nhưng đây cũng chỉ là cái cớ, để phần nào làm nhẹ bớt tội tắc trách của ông đại sứ. Cũng theo tài liệu, sự thất bại còn có rất nhiều lý do khác, chẳng hạn do tướng Smith, trưởng cơ quan Dao, đã tiết lộ kế hoạch chạy của Mỹ, trong bữa tiệc do Tổng Cục Tiếp Vận tổ chức trong đêm giáng sinh 24-12-1974.


Tin này lập tức được loan truyền rộng rãi, nên thay vì Mỹ di tản các thành phần quan trọng có nguy hai tới tánh mạng khi VC vào, lại chỉ vớt toàn bọn nhà giàu, Chệt-Tàu Chợ-Lớn, me Mẽo, bọn cò mồi phá thối chính quyền VNCH, trong đó có nhiều sư-cha, văn nhân, nghệ sĩ và đặc biệt là bọn tướng-tá, ăn không ngồi chơi xơi nước tại các cơ quan đầu não trung ương về quân sự cũng như hành chánh. Bọn này đa số đều giàu có về tiền bạc cũng như quyền thế và phe cánh Mỹ, nên ra đi ngoài gia đình nội ngoại ba đời, còn có cả con sen thằng ở. Sau rốt là do đại sứ Martin tới giờ phút chót, vẫn còn ngu xuẩn, cả tin vào sự hẹn hứa của Bắc Việt, nên nuôi ảo vọng thương thuyết, khi chấp nhận điều kiện ‘ đổi ngựa ‘ hết Nguyễn Văn Thiệu, tới Trần Văn hương và cuối cùng là Dương Văn Minh. Nhưng kết cuộc, Mỹ đã bị VC bịp xã láng, nên đã phải bỏ chạy nhục nhã trong đêm tối 29-4-1975, khắp các mái nhà Sài Gòn, đến nỗi quên cả cuốn và vác cờ theo. Thật là một trò hề vô cùng sĩ nhục của siêu cường Hoa Kỳ, lãnh tụ của phe thế giới tự do.


Theo bản dự thảo ban đầu, chiến dịch di tản gồm có bốn giải pháp, tùy theo hoàn cảnh để thi hành như:

1- Dùng hàng không dân sự để di tản người tại phi trường Tân Sơn Nhất.
2- Sử dụng các vận tải cơ C123,130 và C5 để bốc người tại Sài Gòn cũng như các tỉnh lân cận. 3- Sử dụng các loại thương thuyền có sẵn tại bến Bạch Ðằng.
4- Dùng trực thăng bốc người từ Sài Gòn, đưa ra các chiến hạm.


Sau khi quân đoàn I và II tan rã, ngày 1-4-1975 cơ quan Dao đã cho thành lập , một cơ quan điều hợp di tànm, gọi tắt là DCC tại Tân Sơn Nhất và giải pháp (4) dùng trực thăng bốc người được chọn, nếu phi trường Tân Sơn Nhất bất khiển dụng.


Ngày 3-4-1975, Dao lại thành lập thêm Toán Thiết Kế đặc biệt, có nhiệm vụ thanh lọc, để xác nhận tổng số người VN cần di tản và tới ngày 7-4-1975, có 70.000 người được lên danh sách. Ngay sau đó, Dao đã tổ chức một đoàn xe Bus, chuyên chở họ từ tư gia vào phi trường TSN. Vì hầu hết sân thượng tại Sài-Gòn, Chợ-Lớn và Gia-Ðịng, không đủ tiêu chuẩn để cho các loại trực thăng H46 và H53 đáp, nên Dao phải trưng dụng tất cả các trực thăng nhỏ của hãng Air American, do CIA thuê mướn, bốc người khắp nơi về Dao, sau đó trực thăng lớn mới chở họ ra chiến hạm.


Ngày 9-4-1975, Bắc Việt xua đại quân tấn công Xuân Lộc. Cơn phẫn nộ của QLVNCH và dân chúng được bộc phát tại đây. Sư Ðoàn 18 BB, Lữ Ðoàn 1 Dù, Thiết đoàn 5 kỵ binh, Biệt Ðộng Quân, Ðịa Phương Quân + Nghĩa Quân Long Khánh, chẳng những đã chận đứng cộng quân tại chiến trường mà còn tiệu diệt cả vạn quân xâm lăng phương bắc, khiến cho Hà Nội lại la làng là Mỹ bội tín đem bom nguyên tử vào thả tại VN.


Do tình hình chiến trường biến động khắp nơi, báo hiệu nguy cơ miền nam sắp mất, nên Dao đã mướn nhà thầu sửa chữa các sân thượng tại đây, đồng thời yêu cầu toà đại sứ cho đốn cây cổ thụ trước sân, để làm bãi đáp khi hữu sự nhưng đã bị Martin phản đối và bác bỏ.


Ngày 16-4-1975, tướng Home Smith, chỉ huy trưởng Dao, ra lệnh đóng cửa các PX, đồng thời bắt buộc các quân nhân không cần thiết và tất cả nhân viên dân chính cùng gia đình, đều phải hồi hương.


Ngày 24-4-1975 thời tổng thống Trần văn Hương, do tình hình chiến sự bùng nổ dữ dội lhắp nơi, nên đại sứ Martin mới cho thi hành giải pháp (3) trong chiến dịch Frequeent Wind, sử dụng tất cả các thương thuyền trống, sau khi đã giở hàng để di tản. Trong lúc đó, vì tuân thủ theo lệnh của chính phủ VNCH, nên hầu hết các máy bay quân sự của Mỹ khi rời Sài Gòn đều trống không, dù có rất nhiều người đang sắp hàng ngày lại ngày, để chờ phương tiện xuất ngoại.


Ngoài việc di tản quân nhân, viên chức tòa đại sứ rời VN, ngày 4-4-1975, Dao lại cho thực hiện chiến dịch "Baby Lift", di tản 250 em mồ côi VN tại các cô nhi viện sang Hoa Kỳ, bằng vận tải cơ khổng lồ C5A-Galaxy. Tháp tùng trong chuyến đi này, còn có 37 nữ thơ ký và phân tách viên của Dao, với nhiệm vụ giúp đỡ và săn sóc các em trong suốt cuộc hành trình. Nhưng than ôi công tác đầy nhân đạo này, đã bị bàn tay bí mật nào đó phá vỡ ngay. Bởi vậy máy bay vừa mới cất cánh, thì đã rớt xuống ngay tại đầu phi đạo tan tành. Rốt cục chỉ còn sống sót 175 người. Tới nay sự việc trên vẫn chưa được soi sáng , nên đâu biết ai là thủ phạm đã gây nên tai nạn thương tâm cho các em bé mồ côi khốn khổ trên.


Tại Subic Bay-Phi Luật Tân, ngày 17-4-1975, lực lượng đặc nhiệm 76 của Hải quân Hoa Kỳ, vừa mới cặp bến để tu bổ và sửa chữa tàu bè, sau một thời gian dài đã tham dự cuộc hành quân Eagle tại Ấn Ðộ Dương, thì lại nhận được lệnh rời bến, tới chờ lệnh tại biển Nam Hải, ngoài hải phận Nam VN.


Những ngày cuối cùng của tháng 4-1975, tình hình chiến sự tại miền Nam vô cùng sôi động. Khắp nơi, những đơn vị còn lại của QLVNCH gồm Sư đoàn Dù, Sư đoàn TQLC, các Liên Ðoàn Kỵ Binh, Pháo Binh, Lực Lượng III Xung Kích, Sư đoàn 18, 5, 25, 22, các Sinh viên sĩ quan Trường Võ Bị QG.Ðà Lạt, Chiến Tranh Chính Trị, Thủ Ðức, Học Viện Sĩ quan Cảnh sát, khóa sinh HSQ-Binh sĩ quân dịch các Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp, Quang Trung, Lực lượng Ðịa Phương Quâm-Nghĩa Quân, Cảnh sát Dã chiến, Cán Bộ Xây Dựng Nông thôn cả Nhân Dân Tự vệ phối họp với Không quân, Hải quân và Quân đoàn IV, gần như tử chiến với mấy trăm ngàn cán binh-bộ đội cộng sản Bắc Việt, từng giây phút, suốt đêm ngày trong nỗi đoạn trường máu lệ. Tất cả đã lấy xương thịt và thân xác, thay súng đạn ngăn chận xe tăng, đại pháo và biển giặc, vì người Mỹ đã cúp hết quân viện từ ngày 25-4-1975.


Ðêm 28-4-1975, Nguyễn Thành Trung hay Ðinh Thành Trung, con rớt của một cán bộ tập kết ở Bến Tre, nằm vùng trong không quân VNCH. Thi hành theo lệnh của Văn Tiến Dũng, tổng tham mưu trưởng quân đội VC, lái A37 giội bom phi trường Tân Sơn Nhất. Theo Lê văn Trí, tư lệnh KQ cọng sản miền bắc, thì VC đã dùng các máy bay của QLVNCH đã bỏ lại tại các phi trường Ðà Nẳng, Phù Cát để oanh tạc Sài Gòn. Sáng 28-4-1975, sáu chiếc A37 được chuyển vào sân bay Thanh Sơn (Phan Rang), do Trung làm phi đội trưởng, hợp với các phi công Băc Việt gồm Từ Ðể, Nguyễn văn Lục, Hoàng Mai Vượng, Hàn Văn Quảng và một tên phi công phản tặc khác của VNCH là Trần văn On. Vì các máy bay trên không mở đèn, hơn nửa lực lượng phòng vệ ở dưới đất tửng là bạn, nên chúng mới toàn mạng. Vụ oanh tạc trên đả làm hư hại 3 chiếc Hỏa Long AC119, vài chiếc C47 nhưng quan trọng nhất là đã tạo tình trạng hỗn loạn tại phi trường, đang có nhiều người đợi máy bay di tản. Ngoài ra còn có nhiều đoạn phi đạo bị bom và đạn pháo kích làm hư hỏng, không còn sử dụng được. Trước tình trạng hỗn loạn này, tướng Smith ra lệnh giới nghiêm Dao 24/24, trong khi đó tại tòa đại sứ, Matin vẫn bất động.


Sau này qua các tài liệu báo chí, đọc được nhiều chuyện vui cười ra nước mắt, liên quan tới sự người Mỹ tiếp tục quân viện cho VNCH, theo tinh thần hiệp định Ba Lê 1975 và những lời hứa của Nixon, từ các tho riêng viết tay. Thật sự để có lý do hạ cánh những vận tải cơ khổng lồ C5, người Mỹ giả bộ chở tới một vài khẩu súng đại bác 105 ly thời Thế chiến 1, ít trăm bộ nón sắt cháo lòng không giống ai. Tàn nhẫn nhất trong số những thứ rác phế thải này, có nhiều thùng băng cá nhân đã xử dụng. Biết Hoa Kỳ đã tận tuyệt rồi nhưng chính phủ VNCH vẫn giả đò tương kế tựu kế, họp báo đăng tin, để phần nào giữ lại chút niềm tin cho người lính đang xả thân nơi chiến trường, trong giờ thứ 25 đối mặt với thù trong giặc ngoài. Riêng Mỹ thì mục đích đến là để chuyển tải tất cả hồ sơ mật và những vật dụng máy móc điện tử quý giá về nước.


Lạ lùng nhất là lúc 3 giờ sáng ngày 29-4-1975, tại Dao có 3 chiếc vận tải cơ C130, thường trực chuyển người ra chiếm hạm. Nhưng không biết vì lẽ gì, lại chở từ biển vào Sài Gòn, ba quả bom con heo tiểu nguyên tử (Blue 82 Daisy Cutter), loại bom 15.000 Lbs, mà QLVNCH đã sử dụng tại mặt trận Xuân Lộc-Long Khánh vừa qua. Khôi hài hơn là trong lúc các huyên viên Mỹ-Việt đang hì hục tháo gỡ đem bom vào kho, thì một phi công Hoa Kỳ lại bạch thoại trên vô tuyến, khiến cho CS Bắc Việt bắt được tần số và nã ngay hỏa tiễn 122 ly vào phi trường, làm cháy một vận tải cơ C130 đang bốc người. Thế là Dao chấm dứt kế hoạch di tản bằng máy bay lớn ra hạm, vì phi trường đã bất khiển dụng.


Trong lúc những lãnh đạo của Miền Nam đang trầm kha trong ảo vọng thương thuyết hòa hợp để kết thúc cuộc chiến, thì đúng nửa đêm 29-4-1975 cũng là giờ mà cọng sản đệ tam quốc tế Hà Nội, chọn là giờ "G" ngày "N" tổng tấn công dứt điểm VNCH. Sài Gòn đã rối loạn vì hơn mấy chục sư đoàn cộng sản Bắc Việt đã áp sát thủ đô. Một số đại pháo được tập trung nã vào các khu vực đông dân cư trong nội thành. Phần khác là do đám quan quyền, ngày thường ngồi trên ăn đủ, cùng với bọn nhà giàu, me Mẽo tới tấp ra đi, khiến cho lòng người càng thêm tơi tả, không biết đâu mà mò. Tuy rằng trung ương không còn đại bàng nhưng khắp bốn hướng, quân lực VNCH vẫn chiến đấu dũng mãnh, gần như lấy máu xương của chính mình để ngăn cản bước tiến của giặc. Lữ đoàn 4 Nhảy Dù, Sư Ðoàn TQLC, Sư đoàn 18 BB, Lực lượng III Xung Kích, Liên đoàn 4 Biệt Ðộng Quân, Sư đoàn 22 BB, Giang Ðoàn 54 Tuần Thám, Lực Lượng Ðịa Phương Quân + Nghĩa Quân và đặc biệt là Chiến Ðoàn 3, thuộc Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, từ ngày 26-4-1975, đã được lệnh về bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu.


Nhưng giữa lúc người lính bộ đang lội trong biển máu thù, thì trên trời gần hết những phi công anh hùng của QLVNCH đã ngoảnh mặt phủi tay ra đi không trở lại, hoặc bay về đất Thái hay hướng thẳng biển đông. Khiến cho phi trường Tân Sơn Nhất thêm hiu quạnh thảm thê với xác người nằm bất động, lẫn lộn với quân trang quân dụng , cơ phận máy bay, vũ khí và những lính quèn hèn mọn, giờ phút cuối vẫn ở lại tử thủ với phi trường.


Nhưng không phải ai cũng tham sống sợ chết, chỉ muốn hưởng vinh hoa phú quý mà người Mỹ hứa hẹn. Vẫn còn vài chiếc Hoả Long AC119 K, cùng vớo hai khu trục A1 Skyraider, đã không ngừng lên xuống, nã đạn pháo, thả hỏa châu, soi sáng giúp quân bạn đang chiến đấu dưới đất. Kiên cường nhất là Trung Úy Phi Công Nguyễn Văn Thành, xuất thân từ Thiếu Sinh Quân. Ông đã lái AC119 bắn phá những vị trí pháo của VC quanh phi trường, nhờ vậy nhiều người trong số này có tướng Nguyễn Cao Kỳ, cựu tư lệnh KQ, cựu chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương, cựu phó tổng thống VNCH.. mới bay được trực thăng riêng từ tư gia ở Tân Sơn Nhất, ra chiến hạm đi Mỹ. Thương thay người hiền không bao giờ sống lâu, nên Trung Uý Thành đã gãy cánh vào lúc 6 giờ 46 phút, rạng sáng ngày 29-4-1975, khi chíếc hỏa long của ông bị một hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 chém đứt cánh may bay và bốc cháy trên bầu trời.


9 giờ 30 sáng ngày 29-4-1975, Sài Gòn đã hỗn loạn khắp nơi. Do trên tướng Smith yêu cầu đại sứ Martin cho thi hành giải pháp "4" trong chiến dịch di tản, nhưng đã bị từ chối. Nguyên do vì đại sứ Mỹ lúc đó vẫn còn ngây thơ tin rằng tổng thống VNCH Dương văn Minh, có khả năng hoà hợp, hòa giải với VC để vãn hồi hòa bình cho VN. Cùng ngày, từ thủ đô Hoa Thịnh Ðốn, Kissinger đã gọi điện khẩn cấp sang Sài Gòn, ra lệnh cho đại sứ Martin phải di tản gấp. Từ đó, Martin mới cho lệnh đốn cây đa cổ thụ trước sân toà đại sứ vào lúc 11 giờ 01 phút, để làm bãi đáp cho trực thăng. Ðây cũng là thời gian, Martin gơi ý nhờ TT. Dương văn Minh giả bộ đuổi Mỹ trên đài phát thanh Sài Gòn. Có như vậy siêu cường Hoa Kỳ mới chạy khỏi VN trong danh dự, đồng thời giúp TT Minh có chính nghĩa.


Nhờ bài bản xuất sắc, diễn viên ăn khớp, Martin đã cứu nước Mỹ phần nào bớt mất mặt trước đồng minh thuộc phe thế giới tự do, cũng như đàn em kẻ thù Liên Xô-Trung Cộng. Nhưng đồng thời Martin chính là người đã phá hỏng kế hoạch di tản, vì lúc chịu thi hành thì trời đã tối, nên các tài xế xe bus đều nghĩ việc, khiến cho nhiều người có tên trong danh sách di tản không được đón. Ðể cứu vãn tình thế nguy cấp tồi tệ trên, tướng Smith đã cho các loại trực thăng nhỏ của hãng Air American đi bốc người thế xe bus.. nhưng đã quá trễ.


Ba mươi ba năm về trước, người Sài Gòn làm sao quên được cảnh tượng hai ngày 29 và 30-4-1975, nếu có dịp đi ngang qua tòa đại sứ Hoa kỳ, kế toà đại sứ Pháp và nhà thờ Tin Lành, nằm trong chu vi các đường Hồng Thập Tự, Hai Bà Trưng và đại lộ Thống Nhất. Có thể gọi được là một biển người, đã tụ tập trước hai cánh cổng sắt vô tri của tòa đại sứ. Lúc đó người nào giơ hai tay lên cao, trong đó ngoài các giấy tờ còn có những nắm đô la dầy cộm, với những tiếng gào thét, van nài nghe thật là bi thiết não nuột, trước những cặp mắt gần như lạc thần lạnh lẽo của lính thủy quân lục chiến Mỹ. Ai cũng lăm lăm tay súng có gắn lưỡi lê, làm như đang lăm le sẵn sàng phanh thây xé xác bất cứ ai, muốn xé rào vượt cổng.


Cùng lúc quang cảnh phía bên trong khuông viên của tòa đại sứ cũng đâu có khác gì bên ngoài. Sóng người đang đùn ép, xô lấn, cấu xé với nhau để tới cho được chân tường, dẫn vào cầu thang lên sân thượng, nơi đoàn trực thăng dùng làm bãi đáp lên xuống, để bốc người ra chiến hạm. Màn đêm lúc đó như được Thượng Ðế ban thêm ân huệ, nên cứ kéo dài hơn, để cho những kẻ chờ đợi nuôi chút hy vọng mỏng manh trong cơn tuyệt vọng. Tóm lại đến giờ phút hỗn loạn đó, thì không ai còn cần chú ý làm gì tới danh sách nửa. Bốc người tại chỗ, có nghĩa là ai mạnh chen được tới trước thì đi, khiến cho hằng vạn người từng giúp Mỹ rất đắc lực như thơ ký, thông dịch viên, nhân viên tình báo, cảnh sát chìm.. cứ ngóng cổ chờ di tản, rốt cục sáng ra mới biết Mỹ đã đi hết rồi.


Ðể thi hành chiến dịch di tản bằng trực thăng, tướng tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến Mỹ là Carey từ chiến hạm bay vào tòa đại sứ lúc 13 giờ 15 chiều 29-4-1975 và hạ cánh tại Dao. Cùng lúc có một Toán Không Lưu do thiếu tá KQ Dave Cox chỉ huy. Họ dọn dẹp sân thượng và chỉ dẫn đoàn trực thăng từ biển vào bốc người. Trong lúc đó súng cối và đại bác của VC quanh Sài Gòn nổ tới tắp.


15 giờ 06 phút chiều 29-4-1975, một đoàn 12 chiếc trực thăng Mỹ, chở TQLC do trung tá J.L Bowltan chỉ huy, thuộc Lực Lượng Ðặc Nhiệm 76 tới bố trí quanh Dao để giữ an ninh. Ðoàn trực thăng lên xuống bốc người không ngớt, mỗi chiếc chở một lần từ 50-60 người.


Nhưng cuộc di tản đã gặp trở ngại vì bãi đáp trực thăng trúng đạn pháo kích của VC bốc cháy. Trong lúc sự liên lạc giữa toán không lưu và các phi công cũng bi trục trặc vì máy truyền tin bị hỏng, trong khi trung tâm tiếp vận đài tại Sài Gòn hoàn toàn tê liệt.


Những giờ phút cuối, để giải quyết số người còn ứ đọng, Mỹ phải dùng các loại trực thăng lớn CH6 và H53 đáp ngay tại bãi đậu xe trước tòa đại sứ. Song song với trực thăng Mỹ, trực thăng của KQ.VNCH cũng bốc người ra đi từng đoàn. Thành phố đã bị cúp điện hoàn toàn từ 6 giờ 30 tốì 29-4-1975. Khắp nơi trời đất tối thui, dân đen thì run rẩy núp kín trong nhà để giữ mạng, phần lính tráng còn lại, từ quan tới thuộc cấp, ai củng cố chóng con mắt chờ sáng trong các giao thông hào, đợi phép lạ mà tổng thống Dương văn Minh đã hứa là sẽ tới vào sáng ngày 30-4-1975.


Sài Gòn đã chết từ đó, chỉ còn có tiếng quạt của các loại trực thăng gầm hét đinh tai điếc óc, nơi khoảng không gian mà Mỹ còn làm chủ, nhờ sự bảo vệ của QLVNCH trong giờ thứ 25 dưới đất. Ðây cũng là những lời thóa mạ cuối cùng của người Mỹ trước khi về nước, để lại nghìn đời trên xác chết chưa chôn của miền nam VN trong thế kỷ XX.


Cũng lúc đó, nơi các nẻo đường vắng ngắt dẫn về thương cảng, bến tàu Sài Gòn, từng chặp từng chặp lai xao động bởi tiếng máy nổ ròn của đủ loại xe dân, lính xen lẫn đâu đó là các tràng súng ngắn. Lúc này bọn sĩ quan đào ngủ, bọn nhà giàu bất lương, bọn văn nghệ sĩ cà chớn một thời phá nát miền nam cũng ôm đầu chạy trối chết, tới các bến tàu, để tìm đường vượt thoát cộng sản, trên các chiến hạm Hải quân và Thương thuyền đang hối hả nhổ neo ra khơi. Súng nổ, đạn cối rơi, hỏa tiễn xuyên phá, tiếng trực thăng gào thét.. như những giọt nước mắt trước cơn mưa thống hận VN, ba mươi năm qua cũng vẫn là những hình ảnh và âm thanh , mà người Sài Gòn đã cảm nhận trước vài giờ, khi toàn thể non sông Hồng Lạc bị đắm chìm trong vũng bùn ô uế của xã nghĩa thiên đàng.


Ðúng 9 giờ tối đêm 29-1-975 cuộc di tản tại Dao kết thúc. Người Mỹ vội cho thiêu hủy toàn bộ những gì còn lại trong toà nhà này, mà một thời được coi như một tòa tiểu bạch ốc ở phương đông. Chiếc trực thăng cuối cùng cất cánh lúc 12 giờ đêm, bỏ lại đằng sau tòa nhà trong biển lửa.


Riêng tại tòa đại sứ Mỹ, sự di tản đã gặp rất nhiều khó khăn vì đen không đủ soi sáng hiện trường, còn bãi đáp thì quá nhỏ không thích hợp cho các loại trực thăng lớn, Tuy nhiên việc bốc người vẫn được tiếp tục, từ 11 giờ đêm 29-4-1975 cho tới 3 giờ sáng ngày 30-4-1975. Sự liên lạc bằng vô tuyến giữa Sài Gòn và Hoa thịnh Ðốn cũng chấm dứt lúc 1 giờ 06 phút, khi trạm liên lạc vệ tinh tại Dao đã bị phá hủy. Ðể nối liên lạc giữa Mỹ và toà đại sứ, Không quân Hoa Kỳ phải thiết lập một trạm liên viễn thông vệ tinh trên chiếc C130, nhưng vẫn không mấy hiệu quả.


3 giờ sáng ngày 30-4-1975, bộ ngoại giao Mỹ ra lệnh cho tòa đại sứ Sài Gòn chấm dứt di tản nhưng Martin không chịu thi hành, vì lúc đó tại chỗ vẫn còn hơn 12.000 chờ bốc ra chiến hạm. Tới 4 giờ 56' sàng, chính Tổng thống Ford ra lệnh bằng điện thoại, bắt buộc ông đại sứ phải rời VN. Do không còn cách nào lựa chọn, Martin đành phải bỏ lại 420 người đang đợi, trong số người này có cả nhân viên của toà đại sứ Nam Hàn. Martin ra đi đơn độc với con chó nhỏ tên Nitnoy, trên chiếc trực thăng CH46, do Ðại Uý Thủy Quân Lục Chiến tên G.Berry lái.


Tù phút đó, chỉ còn lại toán lính TQLC Mỹ giữ an ninh tòa đại sứ. Họ rút hết vào bên trong tòa nhà, đóng cửa sắt và lên trên sân thượng đợi. Ðúng 7 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, trực thăng ngoài biển bay vào đón họ, chấm dứt sự hiện hữu lần thứ ba của người Mỹ trên nước VN, tính tròn 21 năm , từ lúc tướng Edward Landale của CIA đặt chân tới Sài Gòn. Tình đồng minh, đồng hướng và chiến hữu giữa VNCH cùng Hoa Kỳ, cũng chấm dứt từ đó.


Theo tài liệu được Mỹ công bố, thì tòa đại sứ và Dao ngày 29 rạng 30-4-1975 chỉ di tản được 7014 người, phần lớn không có tên trong danh sách được lập lúc ban đầu. Ðể hoàn thành công tác trên, người Mỹ đã xử dung trực thăng của Sư đoàn 7 Không quân và Hạm Ðội 7 tại Thái Bình Dương. Suốt thời gian chiến dịch, chỉ có một A6 bị mất tích, một trực thăng AH1J. Cobra rớt xuống biển và 2 lính TQLC Mỹ bị tử thương khi VC pháo kích vào Dao tại phi trường Tân Sơn Nhất.


Tuy người Mỹ đã chính thức rời Sài Gòn vào lúc 7 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975 nhưng trọn ngày đó cho tới hôm sau 1-5-1975, nhiều trực thăng của Không quân VNCH khắp nơi bay tới Hàng Không Mẫu Hạm Midway, đang bỏ neo ngoài khơi Vũng Tàu để xin đáp. Vì có quá nhiều người, nên Mỹ đã phải xô nhiều trực thăng xuống biển, để làm bãi đáp cho các trực thăng tị nạn. Dù việc làm trên có thiệt hại hằng triệu mỹ kim nhưng cũng đã cứu vớt đươc nhiều chiến binh trong giờ phút cuối cùng, không còn một lựa chọn nào khác hơn, trong khi nước đã mất.


Ba mươi năm trước hay bây giờ, người Mỹ cũng chỉ nghỉ đến quyền lợi của quốc gia mình mà thôi. Bởi vậy muốn đem quân vào VN, người Mỹ phải giết một tỏng thống dân cử của bản xứ. Rồi để rút quân an toàn về nước, khi đã đạt xong mục đích chiến lược kinh tế của mình, Mỹ lại dùng áp lực quân viện, để bắt buộc đồng minh của mình, ký vào một hiệp ước giả mạo phi luân. Cuối cùng dùng nó để bán đứng quốc gia VN, chôn vùi tương lai của dân tộc anh hùng trong vòng nô lệ của cọng sản đệ tam quốc tế., suốt thời gian từ đó tới bây giờ. Tất cả đúng như lời Sir R.Thompson đã viết năm 1989 trong tác phẩm "Make for the hill", đại ý ông nói rằng, sự sống của miền nam VN đã bị bán đứng , vì cảnh cấu xé của nước Mỹ. Riêng Nixon, nhân vật chính đã cùng Kissiger đạo diễn tấn thảm kịch VN hôm nay, cũng đã viết những lời sám hối trong "No More VietNam". Ông viết rằng, tôi đã nhìn thấy những vấn đề nan giãi của hiệp định Ba Lê, nhất là sự thỏa hiệp, cho phép bộ đội Bắc Việt công khai ở lại và xâm lăng miền Nam . Nhưng đau đớn nhất, có lẽ là lời phát biểu của M. Gauvin, nguyên Ủy Viên Giám Sát Quốc Tế (ISCC) tại VN. Ngay khi thấy CS Hà Nội ngang nhiên xé bỏ hiệp định ngưng bắn mà chúng vừa ký kết chưa ráo mực, tấn công xâm lăng VNCH, bất chấp cả Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc. Vì vậy ông đã viết bài đăng trên tờ The Times số 59362 ngày 5-4-1975 rằng, sự thất bại của VNCH đã bắt nguồn từ hiệp định Ba Lê, vì nó chẳng bao giờ phản ảnh được ý muốn và nguyện vọng của dân-nước VNCH.


Một thập niên sau ngày Mỹ bỏ chạy khỏi Sài Gòn trong đêm tối trên mái nhà, do những biến chuyển chính trị thế giới, quan trọng nhất là sự hòa hoãn giữa Nga-Hoa cũng như sự liên hệ của Mỹ và Trung Cộng có chiều hướng thay đổi. Ðể chiếm phần ưu tiên, người Mỹ lại tìm cách mon men trở lại Ðông Dương lần thứ 4 vào tháng 4-1985. Bởi vậy một phái đoàn cao cấp của Mỹ , do Richard Armitage cầm đầu, cùng với phụ tá ngoại trưởng Mỹ là Paul Wolfon Witz (đặc trách Ðông Á và Thái Bình Dương ), lần đầu tới Hà Nội, với chiêu bài "tìm lính Mỹ mất tích và hài cốt quân Hoa Kỳ còn tại VN". Sự kiện giằng co úp mở giữa hai nước, cho tới khi phái đoàn nghiên cứu Mỹ do cựu bộ trưởng quốc phòng Mc.Namara, sau khi thăm viếng Hoa Lục về, đã tiết lộ âm mưu Trung Cộng đang có dã tâm muốn trở thành Á Châu và Thái Bình Dương. Vì thế Hoa Kỳ mới mở phòng liên lạc giữa hai nước vào ngày 3-2-1995 và nối lại bang giao năm 1996. Một Ðại Sứ Mỹ tại Hà Nội được Thượng viện Hoa Kỳ chấp thuận sau 22 năm chiến tranh chấm dứt, đã chính thức xác nhận sự bình thường hoá ngoại giao với VC.


Tóm lại lịch sử đã ngừng lại và quay tròn đúng vào thời điểm cũ trên đất nước tội nghiệp VN. Cả hai: Tài phiệt Hoa Kỳ và cộng sản đệ tam quốc tế cũng đều vì quyền lợi riêng tư của mình, nên muối mặt đổi thù thành bạn. Lần này không còn có chiêu bài VN là tiền đồn chống cộng, nên người Mỹ đã công khai tới VN qua danh phận lái buôn lái súng. Hiện trong cộng đảng cầm quyền đã manh nha hai phe theo Tàu, theo Mỹ. Nhưng dù VN có theo phe nào chăng nữa, thì chắc chắn đất nước chúng ta cũng sẽ bị cuốn hút theo vết xe lịch sử, khi Trung Cộng công khai gây nên thế chiến lần thứ 4 tại Á Châu-Thái Bình Dương.


Ðọc và viết lịch sử, không phải để khóc hận than thân, mà là lấy đó làm một kinh nghiệm để hành động cứu nước trong thực tại và tương lai. Năm 1954, khi cộng sản đệ tam chiếm được miền bắc, một số ít trí thức khoa bảng chạy vào làm trùm tại VNCH, nên họ chẳng hề biết gì về kinh nghiệm sống chung với VC. Ngày 30-4-1975, khi VC chưa vào Sài Gòn, số trí thức khoa bảng trên lại ù trốn chạy sang Mỹ hay ngoại quốc. Họ không hề biết thế nào là sự đổi đời của phận người xuống hàng súc vật. Ở ngoại quốc, vì quá tự do, nên vẫn chứng nào tật đó, coi sự hiểu biết của mình ngang hàng với lãnh tụ, muốn ai cũng phải theo ý và đứng sau lưng mình. Họ vì không sống thật với lịch sử nên chẳng bao giờ có kinh nghiệm lịch sử, vẫn ảo tưởng xây lâu đài và chức phận trên cát biển, vẫn ngây thơ muốn hòa hợp hòa giải, với một đảng cướp tàn bạo bất lương, qua bảy mươi năm chỉ lừa bịp lường giết đồng bào và ban nước mình mà thôi. Tệ nhất là mình và gia đình lúc nào cũng thích sang giàu hạnh phúc nơi thiên đường Âu Mỹ, mà mồm thì luôn xuí người khác, nếu đi hết biển, thì phải trở về để làm nô lệ cho cộng sản.


Cũng may bọn người này không nhiều và ngày nay hầu hết đều giống như những bình vội gìa nua, mà Phan Khôi từng ví với bọn cán ngố miền bắc trong tác phẩm "Trăm Hoa đua nở", chỉ nổ trên giấy hay nằm trơ trọi trong góc đời hiu quạnh về chiều.


Thảm thê cho thân phận nhược tiểu VN


Xóm Cồn
Quốc Hận 30-4-2008
Mường Giang

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Bí mật Dinh Ðộc Lập ố TS Nguyễn Tiến Hưng.
- Larry Engelmann (nước mắt trước cơn mưa, bản Việt của Nguyễn Bá Trác).
- Không hòa bình, chẳng danh dự ố Larry Berman, Nguyễn Mạnh Hùng dịch
- Những ngày cuối cùng của VNCH của Nguyễ Khắc Ngữ.

- Báo chí hải ngoại (PNDD, KBC, Tiền Phong, Hồn Việt)
-Khi Ðồng Minh tháo chạy của Nguyễn Tiến Hưng
- Chiến sử VNCH của Phạm Phong Dinh
- Chiến tranh VN toàn tập của Nguyễn Ðức Phương